Dọc đường
Tư
Thiệt cất tiếng ca: "Đêm đông gió bấc lạnh lùng người
viễn khách dừng chân nơi quán trọ nhìn cây trút lá trên hè vắng và lòng buồn mơ
quay về nơi dĩ vãng. Ôi những ngày thơ mộng đã qua không bao giờ tìm thấy nữa..."
Thiệt ca nức nở như những tiếng nấc nghẹn ngào. Đầu Thiệt
nghiêng nghiêng bên tay đàn, những ngón tay buông bắt hấp tấp trên hàng phím
trũng. Hết một câu, Thiệt gõ nhịp xuống mặt cây "ghi-ta" đã tróc sơn.
Gian nhà trần, nền đất đập ẩm mốc. Ngọn đèn dầu lung lay treo ở cột trên đầu
Thiệt. Trên cái ghế bố, ngoài Thiệt còn ba người khác: con Lai, chị Sáu và Tư.
Lai nằm co gối đầu lên đùi Thiệt, chị Sáu hút thuốc lá, Tư ngồi thu ở đầu ghế.
Xóm khuya dần và trận mưa tới. Bài ca dứt thì Tư cũng đã khóc. Con Lai cười:
"Anh làm tiếp bản nữa nghe chơi".
Chị Sáu nói:
"Rầu thấy mẹ, lại mưa rồi".
Tiếng hát của Thiệt lẫn trong tiếng mưa hiu hắt, khuôn mặt
Thiệt xa lắc. Tư ghét con Lai, nó lớn tuổi hơn Tư, ngộ hơn Tư, lão luyện hơn
Tư. Con mắt nó xanh, tóc nó hoe vàng, nó có phần máu Tây trong người. Chị Sáu
đã già úa không còn ngực, mặt nghiền nặng. Tư muốn không còn hai người ấy để được
một mình ngồi gần nghe Thiệt ca, những bài vọng cổ ấy thấm tận vào lòng Tư
không bao giờ có được. Tư cũng muốn bắt chước "viễn khách" quay về
tìm dĩ vãng nhưng dĩ vãng của Tư ở đâu? Ai biết? Năm nay Tư mới mười bảy tuổi,
Tư mồ côi cha mẹ năm được bảy tám tuổi gì đó. Ở với cha mẹ nuôi rồi trốn đi năm
mười lăm tuổi để làm điếm. Dĩ vãng đâu phải là những hình ảnh mà người ta không
muốn nhớ. Tư ở ruột cho vợ chồng chị Sáu – cả hai người này đều ghiền – đi
khách về đưa tiền cho chị Sáu, chị nuôi cho Tư ăn mặc. Khi Tư bị bắt, vợ chồng
chị lo lắng cho Tư, còn hơn là cô thân trong trường hợp hoạn nạn. Lâu lâu chị
Sáu cũng biết điều mua cho Tư chỉ vàng lúc dư dật. Chị Sáu cũng thương Tư, thỉnh
thoảng chị an ủi hứa hẹn với Tư sẽ lấy Tư cho thằng con trai độc nhất của chị
khi nó lớn lên. Năm nay nó mới có mười ba tuổi, giữ việc canh gác cửa ngõ. Tư
chẳng có một ý nghĩ nào.
Thiệt không ca nữa ngồi yên. Anh chẳng ngó Lai cũng chẳng ngó
Tư. Bốn người không biết nói gì với nhau. Đầu xóm không có lấy một tiếng chân
người. Lát sau chị Sáu nói:
"Tư này, con Phương chết rồi mày biết không?"
Tư lắc đầu. Con Lai lên giọng:
"Ho ra huyết mà không chết sao được?"
Chị Sáu chép miệng:
"Tội nghiệp, nó lấy được thằng chồng tốt mà trời không
cho hưởng".
Chồng của Phương là một anh chàng khách trú làm thợ sửa xe
hơi, đã ngủ với Tư một lần và có cho thêm Tư mười đồng bạc.
"Anh ca nữa đi anh Thiệt". Con Lai kéo tay Thiệt ngồi
xuống vì Thiệt muốn đứng lên.
"Thôi mày ơi, ca cho mày nghe hoài tao ngán lắm".
Thiệt lấy tấm áo mưa trùm lên người. Chị Sáu hỏi:
"Đi đâu thế mày?"
"Đi kiếm chồng cho mấy con này".
Con Lai bảo:
"Nè em bảo anh lên xin ca trên đài phát thanh được đó
nghe".
Thiệt mò mẫm tránh những vùng sình lội. Mưa giỏ giọt gianh.
Trời có ánh sáng màu sương đục. Thiệt lách hàng rào của trại cưa vào trong. Cả
cái xưởng lớn chỉ treo một ngọn điện nhỏ, máy móc nín thinh và gỗ xẻ nằm ngửa
trên đất. Thiệt kiếm một cây gậy cầm tay chống rồi lại theo khe hở ra ngoài. Những
khóm nhà lá nhấp nhô làm ngõ không thành lối. Ra đến lộ Thiệt đứng dựa núp sau
một gốc cây. Tiệm cà phê ở đầu phố còn đông người. Thiệt đứng chờ đợi và chửa rủa
trời đất.
Còn lại ba người đàn bà trong gian nhà, Lai nằm dài chiếm cả
cái ghế bố, Tư vẫn ngồi dưới chân Lai. Chị Sáu ra đứng tựa cửa hút thuốc lá.
Chị Sáu hỏi Tư:
"Hồi chiều mày có mua thuốc uống không Tư?"
"Dạ, rồi".
"Đúng tên thuốc không mày?"
"Dạ đúng".
"Phải coi chừng bịnh, khổ nghe con".
"...Những dòng nước mắt cứ từ con tim đau khổ dâng lên
nghẹn lời..."
Phải, Tư cảm thấy đúng như câu ca của Thiệt hồi nãy. Con Lai
đang nghêu ngao một mình:
"Một mai thiếp có xa chàng,
Đôi bông thiếp trả đôi vàng thiếp xin".
Rồi nó kêu lớn:
"Rầu thúi ruột chị Sáu ơi!"
Chị Sáu gắt:
"Mày cũng biết rầu sao mày?"
"Trời ơi! Bộ tôi không là người sao chị".
Con Lai nhỏm nửa người nói xong lại ngã xuống. Nó trêu Tư,
nhái một câu "chuồn chuồn" trong tuồng "Hoa rơi cửa Phật":
"Em Tư ơi! Ôi chưa đầy hai năm mà một vẻ đẹp thùy mị kín đáo đáng yêu trước
kia nay đã biến thành một nạn nhân khốn khổ. Em Tư ôi! Tội tình chi mà... em phải...
ơ... ơ... đọa... đầy".
Con Lai khoái chí cười ngất. Tư òa khóc. Chị Sáu la:
"Tư, bộ mày điên sao Tư?"
Tư vẫn khóc, nước mắt ấm cả cổ họng. Con Lai cười, mắt nó nhắm
hết lại:
"Đồ quỷ, có im đi không, khuya rồi".
Một lát chỉ còn tiếng thút thít của Tư, và Lai chuyển sang bản
vọng cổ "Đêm đông gió bấc lạnh lùng" của Thiệt.
Từ xa một người đàn ông đi lại, dáng thiểu não. Đến ngang chỗ
Thiệt núp, người ấy bật quẹt châm thuốc không trông thấy Thiệt. Thiệt rút thuốc
đến gần nói:
"Thầy cho em xin chút lửa".
Người khách bật cây quẹt khác cho Thiệt. Trông vẻ mặt khách dữ,
Thiệt hỏi:
"Có phải hồi hôm thầy dặn em đón thầy không?"
Khách không trả lời, Thiệt tiếp:
"Món này ngon lành lắm, em cam đoan thầy phải hứng. Lai
mà".
Khách ngần ngừ một phút khẽ gật đầu và theo chân Thiệt, Thiệt
bắt đầu ngán sự im lặng của khách, nói:
"Thầy coi chừng lội".
Thiệt bỗng nghe tiếng hỏi sau lưng:
"Phương còn ở đây không?"
Giọng nói người miền ngoài. Thiệt yên bụng đáp:
"Món này ngon hơn Phương mà thầy".
Khách hỏi sang chuyện khác:
"Xóm này chưa bị dỡ?"
"Đông thêm thầy ơi! Dễ gì mà đi".
Đất của xóm là đất của một hãng cưa máy nghiêng mãi xuống mé
sông. Trại cưa bị xóm này vây bọc xâm lấn trông cũng tiều tụy. Chị Sáu ra cửa
nghe ngóng. Thiệt và khách vào đến nơi đứng ở cửa. Con Lai ngồi dậy sửa lại đầu
tóc. Tư cúi gầm đầu, mắt còn cay. Chị Sáu vồn vã:
"Mời thầy vô".
Khách vẫn đứng yên giữa cửa, người dong dỏng cao, khoác áo
mưa xám nhà binh, đầu không chải, da mặt nhờn mồ hôi. Thiệt ra hiệu chỉ Lai cho
khách. Khách không nói và nhìn chằm chằm vào Tư. Tư không cục cựa. Chị Sáu vội
thúc:
"Kìa Tư".
Khi đứng lên thì người khách đã ra ngoài. Lai nhìn Tư căm tức.
Lần thứ nhất Tư không ngờ đã thắng Lai. Tư thấy sung sướng. Chị Sáu đi trước dẫn
lối, Tư đi gần khách phía sau. Tư hết khóc tỉnh táo, thỉnh thoảng liếc nhìn
khách. Tư chẳng phân biệt được nét mặt. Càng vào sâu xóm càng tối càng yên
tĩnh. Người khách phải cúi đầu qua những mái thấp. Căn nhà của chị Sáu gần mé
sông. Thằng con chị Sáu đang ngủ trên bộ ván sát cửa vào. Nó choàng dậy khi
nghe chị Sáu kêu:
"Dậy mày, ra ngoài trông cửa".
Gian ngoài hẹp thông sang nhà bếp chỗ chứa nước kê bộ tủ thờ
và một bộ ván. Gian trong vuông vức kê một cái giường – của anh chị Sáu – kém một
tấm "ri đô" bẩn thỉu. Khách ném áo mưa trên ván, Tư đi thẳng vào
trong giường. Chị Sáu khóa trái cửa và cùng thằng con trai ra ngoài ngõ.
Tư thấy ngọn đèn được vặn sáng lên và hình như khách ngồi xuống
bộ ván ở ngoài. Không hiểu sao Tư không dám lên tiếng kêu. Tư nằm xuống giường
lăn vào quay mặt vô vách. Nước trên cao đập vào những chân cừ ở dưới, mùi bùn nồng
nồng. Tư ngủ quên trong vài phút ngắn. Tư tỉnh dậy nhẹ nhàng, người đàn ông nằm
bên cạnh. Hắn ngửa mắt nhìn mái nhà im lặng. Tư e dè sán lại gần giúi đầu vào
vai hắn. Người đàn ông quay lại với Tư, hỏi:
"Em sợ anh phải không?"
Tư gật đầu:
"Việc gì mà sợ? Anh hiền không?"
Người đàn ông ôm lấy Tư hỏi tiếp:
"Em biết Phương không? Lần trước anh gặp Phương. Em hỏi
Phương thì biết".
Rồi người đàn ông hỏi tên của Tư, Tư đáp. Tư tin giọng nói ngọt
ngào của người ấy. Mưa rào xuống trên sông, gió thổi tắt ngọn đèn, nhà tối
thui. Người đàn ông hôn rất lâu trên môi Tư. Tư thở nhiều trong mũi. Khi Tư đã
quen với hơi của người đàn ông, hắn bỗng nằm im và vuốt tóc Tư, nói:
"Em giống như em gái của anh".
"Hay em là em gái của anh". Tư nói rỡn.
"Nếu em là em của anh thì anh đánh đòn".
Tự dưng Tư thấy buồn. Tư hỏi:
"Em gái của anh ở đâu?"
"Ở ngoài Bắc với me anh".
"Anh vô đây một mình?"
Người đàn ông gật đầu.
"Hồi nào?"
"Di cư".
Người đàn ông kể cho Tư nghe chuyện gia đình:
"Em gái của anh ngoan lắm, anh hay ăn cắp tiền của nó,
nó khóc. Nhưng khi nào anh không có tiền hỏi vay nó lại cho, chẳng bao giờ anh
trả cả".
"Đến bao giờ anh tính về ngoài ấy?"
"Anh tính về?" – người đàn ông cười gằn – "Anh
tính sao được, phải đợi thống nhất chứ".
Tư không hiểu thống nhất là gì. Người đàn ông tiếp:
"Nhưng anh không sống đến ngày ấy".
"Anh chỉ nói bậy nào".
Tư hôn vội lên môi người đàn ông vì không muốn nghe người ấy
nói nữa. Khi Tư buông môi dựa tai vào ngực, Tư nghe giọng nói ở trong ấy:
"Mai anh chết mất rồi".
"Anh nói em sợ lắm".
Người đàn ông ôm ghì lấy Tư và người Tư thu nhỏ lại.
"Em ngoan lắm. Em ngoan như Phương vậy".
Tư gỡ tay bạn, hỏi:
"Anh biết Phương nhiều không?"
"Một lần".
"Phương lấy chồng rồi".
"Tốt, rồi em cũng sẽ lấy chồng như Phương".
"Phương vừa mới chết. Ho ra huyết".
Người đàn ông nín thinh. Tư hỏi:
"Anh hôn Phương không?"
"Sao lại không?"
Tư thành thật bảo:
"Vậy mai anh phải về uống thuốc, ngừa bịnh đi".
Người đàn ông bỗng nhiên cười dài, cười lớn vang động cả đêm
khuya tĩnh mịch.
"Cám ơn em, nhưng mai anh chết rồi còn đâu".
Tư rùng mình sợ hãi.
"Em biết anh đã hôn Phương, em còn dám hôn anh nữa
không?"
Tư choàng riết lấy lưng người đàn ông và hôn say đắm. Rồi Tư
quờ tay sờ lên mái tóc ướt sũng của chàng. Những ngón tay của Tư lần theo viền
mắt chàng đọng lệ.
"Em thương anh".
Tư thấy yêu đương bồng bột.
"Thật sao? Tư".
"Dạ".
Đó là tiếng nói tự con tim của Tư. Giờ phút trôi qua và người
yêu của Tư vẫn chưa trở về làm người khách. Chàng vẫn ôm ấp Tư như ôm đứa em
gái. Mưa đã ngớt một cơn và bắt đầu một cơn mới. Tư hỏi:
"Hồi nãy sao anh không đi với cô kia? Cô ấy đẹp hơn
em".
"Anh không cần đẹp, vả anh trông thấy em khóc".
Tư nhõng nhẽo áp má vào má người yêu.
"Anh muốn ở lại suốt đêm nay với em nhưng anh không có
tiền để trả".
Tư tủi lắm đáp:
"Bốn trăm".
"Anh còn trăm bạc cuối cùng".
"Anh biết là em muốn anh ở lại với em, em thế nào cũng
được. Nhưng em ở ruột cho chị Sáu, tiền chị ấy lấy em chẳng có quyền gì hết".
Tư kể lể tình cảnh với người yêu và Tư khóc.
"Giả tỷ em có tiền..."
Người đàn ông vỗ về an ủi Tư, lấy tay lau nước mắt cho Tư, sờ
trán Tư, chàng bỗng kêu lên:
"Em đau?"
"Không sao đâu anh". Tư sợ chàng sẽ hết yêu, vội
nói.
"Không phải, anh nghĩ là em phải uống thuốc cảm".
"Em không có tiền".
"Em biết là anh nghèo. Anh có bao nhiêu anh đưa hết cho
em".
Chàng trở dậy đốt đèn mang vào giường. Chàng dở ví soi lên.
Cái ví da đen già cũ rách bươm không có một tấm ảnh nào. Chàng mỉm cười hỏi Tư:
"Ví cũ quá hả? Của cha anh để lại cho anh, mấy chục năm
đó". Chàng lục hết các ngăn dưới mắt Tư, chàng nói:
"Một trăm độc nhất này để trả chị Sáu, còn lại của em tất
cả là bao nhiêu, em đoán xem nào?"
"Em không biết?"
"Sáu đồng, sáu đồng đủ mua thuốc cảm".
Tư cất sáu đồng bạc vào túi, chàng nằm xuống dặn:
"Mai sáng nhớ mua thuốc ngay nghe không?"
"Dạ".
Chàng bỗng ngồi dậy nói:
"A! anh còn để gia tài lại cho em. Em có thích
không?"
Tư ngơ ngác:
"Một tấm vé số. Hy vọng là trúng".
Tấm vé số gập làm tư giấu một ngăn kín. Chàng bảo Tư:
"Tất cả hy vọng của anh đó. Anh cho em hy vọng của anh.
Em sẽ trúng nghe không. Chỉ cần độ một trăm ngàn thôi. Em trả nợ độ mười ngàn,
còn lại em ra mở tiệm làm ăn, lấy chồng, đẻ con và sung sướng".
Tư hỏi lại:
"Biết bao giờ em được sung sướng như vậy?"
"Được chứ, mai anh chết rồi. Cái hy vọng của người chết
cộng với cái hy vọng của em to lớn biết bao nhiêu. Anh chết để cho em trúng số.
Em phải trúng nghe không?"
Tư hỏi ngây thơ:
"Anh chết thật? Tại sao anh chết?"
Chàng cười:
"Anh chết chứ. Chết cho em trúng số mà. Nếu anh không chết
làm sao em trúng được".
Tư không biết làm gì hơn là ôm người đàn ông vào gần mình. Tư
nói:
"Em nhớ mặt anh. Trúng số em đi kiếm anh".
"Không thấy đâu, em ơi!"
Tư khóc nức bất ngờ:
"Anh chết thật sao anh?"
"Anh chết thì em có mất gì đâu, đừng khóc nào, Tư".
"Nhưng em muốn anh sống".
"Ừ thì anh sống nhưng anh không bao giờ gặp em nữa cũng
thế".
Tư cứ muốn được nằm mãi, mặt úp vào cổ người yêu và mặt người
yêu áp vào tóc Tư. Ngoài cửa có tiếng chị Sáu kêu:
"Xong chưa Tư, sao lâu dữ?"
Tư đáp:
"Chưa, một chút nữa".
Chàng bảo:
"Thôi người ta đuổi anh đi rồi. Em có đuổi anh
không?"
Mắt Tư mờ đi sau màn lệ:
"Không, em không đuổi anh. Em muốn giữ anh ở lại mà
không được".
Chàng mỉm cười:
"Em gái anh ngoan lắm. Đến gần ngày mở số em nhớ dò cho
kỹ nghe. Em phải trúng số".
Tư níu tay người yêu:
"Anh nằm nói chuyện với em thêm một lát nữa".
Tiếng thằng con chị Sáu nói dóng bên ngoài:
"Này, nó đang ruồng ở ngoài nghen".
Có cả tiếng con Lai nói:
"Du dương lâu vậy".
Chị Sáu bảo Thiệt:
"Mày đờn ca lên một khúc để chúng khỏi nghi mày".
Thiệt dạo mấy cúng trầm nhất, lên giọng: "Ôi những
ngày mơ mộng đã qua không bao giờ tìm thấy nữa, người viễn khách sau cuộc giang
hồ phiên bạt đêm nay chỉ còn biết than khóc cho bao mộng đẹp tan vỡ...".
Người đàn ông bảo:
"Thôi cho xong đi".
Tư nhìn trân trân người đàn ông cởi quần áo, nằm im không
nhúc nhích. Chàng âu yếu cúi xuống cởi nút áo cho Tư. Tư vui sướng thấy mình
không còn là một gái điếm vì Tư không tự mình làm lõa thể mình. Nhưng khi người
đàn ông ôm lấy Tư thì Tư cố gắng nói:
"Em có bịnh anh à".
Chàng mỉm cười tha thứ nhìn vào mắt Tư, trong mắt chàng có cả
sự âu yếm đủ cho một đời người.
Chàng trở dậy chưa kịp nói thêm lời nào với Tư thì chị Sáu đã
mở khóa lảng vảng ở gian ngoài. Chàng mặc quần áo đi ra, hình như chàng có nhìn
Tư lần cuối nhưng Tư không trông rõ mắt chàng. Tư theo ra đứng nép bên cửa.
Chàng đứng ngoài sân giữa chị Sáu và Thiệt, móc ví trả tiền cho chị Sáu. Tư bước
vội ra vòng sau lưng chàng đi ra ngõ. Tư nghe chị Sáu nói:
"Lần sau thầy đến chơi, đây là nhà của tôi".
Tư ẩn vào ngách tối giữa hai căn nhà thấp. Tư nghe
tiếng giày của chàng bước tới gần mình. Khi chàng đi ngang qua chỗ
núp, chàng dừng lại châm thuốc lá, Tư khẽ gọi:
"Anh".
Que diêm chợp chờn. Tư thấy chàng mỉm cười. Tư vẫn
không rời chỗ núp sợ chị Sáu bắt gặp. Tiếng chị Sáu kêu ở nhà:
"Tư ơi! Con quỷ đi đâu mất rồi".
Thiệt cũng kêu:
"Tư ơi!"
Chàng tiến lại gần ôm lấy Tư mà hôn, Tư dựa cả người
vào vách nhà, muốn ngã quỵ vì yếu đuối. Chàng đặt vào tay Tư cái
ví da đen:
"Anh để nốt cho em cái gia tài của cha anh, trong
ấy không có gì hết, chỉ có thẻ kiểm tra của anh. Em giữ để cất tấm
vé số cho chắc. Nhớ nghe không, em phải trúng số nghe".
Cái ví da đã mủn lép kẹp. Chàng bỏ đi không nhìn
lại, dáng người cao cúi xuống. Tiếng chân của chàng đã khuất Tư linh
cảm chàng chết thật. Chàng không nói rỡn. Tư cố gắng nhớ lại khuôn
mặt chàng nhưng không được, hình ảnh mờ mờ tan thành khói, Tư cố
gắng nhớ lại giọng nói của chàng như chỉ còn văng vẳng hơi gió trên
sông. Tư nhét cái ví da vào bụng rùng mình lo lắng. Đến mai Tư sẽ
không thể nhớ ra chàng được nữa. Tư khóc, không dám khóc thành tiếng.
Nhưng một điều chắc chắn là trong bây giờ Tư đã có
kỷ niệm. Tư đã có dĩ vãng để mỗi lần muốn nhớ Tư có thể gợi ra
được.
Chúc em may mắn, Tư ơi! Anh từ biệt.
Người gác cổng
Lão Chà nhìn thằng Sáu; cái môi dưới của hắn trề xuống dầy và
đen, cặp mắt khiêu khích, bộ ngực để trần nhập phồng theo hơi thở. Thằng Sáu hỏi:
- Bắt không tía?
Lão Chà vấn điếu thuốc, tay hơi run rẩy. Lão vừa đặt điếu thuốc
liệng trên môi, thằng Sáu đã lần cái quẹt máy lận trong cạp quần, chồm qua chiếu
bài, hắn ngồi đối diện với lão Chà, bựt lên châm thuốc cho lão nhìn sát vào mặt
lão một cách vũ phu:
- Con châm lửa cho tía môi tía bắt nghe tía.
Hơi thuốc khét lẹt, lão Chà cúi xuống nhìn vào đống tiền giữa
những lá bài bừa bộn, ván bài thật lớn. Thằng Sáu tố cạn láng của lão hai trăm
bạc; thằng Tám và thằng Bông đã bỏ từ lá thứ tư khi thày Hai - thày thư ký
trong hãng sửa xe mà lão Chà làm gác dang, thằng Sáu thằng Tám và thằng Bông
làm thợ máy - kéo lên một đôi đi mới đi năm mươi đồng; lá thứ năm rút lên thày
Hai bỏ vì thằng Sáu đánh quá mạnh, chỉ cò lại một mình lão Chà với hắn. Lão Chà
tính rất mau trong đầu, bốn lá bài mặt của thằng Sáu không có đôi nào hết và lớn
nhất là con đầm rô, tẩy của hắn đúng là tẩy ách nên hắn theo để mua lấy một
đôi, trong khi bài của lão đôi đầm trên mặt và tẩy đầm, hắn chỉ còn một nước
sinh tử là đồng hoa. Lão Chà đếm bài của địch thủ: tám rô, mười rô, bồi rô, đầm
rô, nhưng bài của lão chưa ván nào được như ván này: ba đầm. Lão quyết định
không thể bỏ được; lão mang hết hy vọng và chọi nhau với thằng Sáu. Lão ném điếu
thuốc ra sân, gật đầu rồi đẩy tiền ra giữa chiếu bạc, mặc những tiếng lao xao
xung quanh. Con bài tẩy của thằng Sáu lật lên: ách rô, chiếu bạc ồn ào, thằng
Sáu vơ tiền cười một cách đắc chí trong khi lão Chà đứng dậy chán nản mệt mỏi hết
sức:
- Để tôi ra coi chừng ngoài cổng cho mấy người chơi.
Lão Chà bước khỏi vài bước nghe thằng Sáu nói:
- Tía tôi chịu không thấu mà.
Một sự giận dữ nổi lên tiếp theo là cơn dâm dục trong thân thể
lão già, lão nhấc chân nặng nhọc khó chịu, đầu cúi xuống lủi thủi như một con
chó thiến; lão thua thằng nhỏ một cách cay cú, ván bài hên nhất của lão trong
suốt buổi tối gặp đúng ván bài hên nhất của thằng nhỏ, lão chửi thề cho đã nư
giận. Chợt lão dừng lại giữa sân si măng bên cạnh một vòi nước, sau lưng lão là
phòng thường trực của ga ra chỗ đánh bạc, bên mặt là dãy nhà chứa xe lù lù những
dáng xe cam nhông, cuối dãy gian phòng nhỏ chỗ ngủ của lão trong xưởng. Lão mở
vòi nước lom khom lấy tay vỗ nước lên mặt, bàn tay đầy đặn nhưng răn reo vuốt lần
da mặt nhờn chạm vào hàm râu cứng đã hoa râm: đáng lẽ không nên bắt ván bài ấy,
nó mồi lửa cho mình mà mình không nhận ra nó nóng lòng muốn ăn. Không phải. Biết
là thua lão vẫn phải đánh, thà thua còn hơn phải bỏ ba con đầm. Lão tiếp tục
con đường ra cổng với cơn say chưa tỉnh của thân xác, thò tay vào túi quần sờ
thịt mình, cuối cùng lão lấy cả hai tay ra vấn thuốc, điếu thuốc khét lẹt và
lão liệng ngay xuống mương. Lão Chà kê ghế ngồi tựa lưng vào tường dưới mái
hiên cong hình vòng cung thụt vào trong xưởng. Đó là một buổi tối cuối mùa mưa ở
Saigon, trời chuyển cơn cả buổi chiều, lão nhìn lên trời thấy một vừng trăng úa
với một hai ngôi sao chập chờn lúc hiện lúc mất. Trước mặt lão là dãy phố sang
trọng, hàng rào cây cối um tùm, lão không thể đoán lúc ấy vào mấy giờ. Lão vấn
điếu thuốc lá thứ ba hút một hơi rồi liệng như hai điếu trước, miệng lão khô
gây gây muốn ói. Theo thói quen lão biết lão sắp ngủ ngồi cho đến nửa đêm sẽ thức
giấc và khi buồn rầu lão gợi lại mối hạnh phúc độc nhất trong đời lão. Lão Chà
nhắm mắt lại, lão đã sống ngoài năm mươi năm, trí tưởng tượng già nua bắt đầu vận
động, ngớt ba mươi năm bỏ xứ sang Việt Nam kiếm ăn; hai tay lão thọc vào bụng
dưới, những ngón tay cựa quậy mơn trớn, lão thở những hơi dài, lão không thể
nào nhớ lại mùi dầu thơm xức trên tóc, trên cổ, trên gáy, trên vành tai của con
đàn bà; lão đang ngửi thấy chính trong hơi thở nóng của mình, mùi da thịt của
chính mình, mùi da đen "chà và", mùi mấy mươi năm chật vật khốn khó
bám chặt ở lỗ chân lông không tắm sạch. Có lẽ cho đến chót đời, lão chẳng còn
được Thượng Đế ban cho hạnh phúc ấy lần nữa, lão chỉ được một lần và cố giữ lấy
nhưng trí tưởng tượng mỏi mòn mỗi ngày mỗi làm lão xa dần báu vật, một ngày nào
đó nó chỉ còn là một ý nghĩ khô khan của trí nhớ mà thôi. Gió bỗng lay động mạnh
mẽ những cành lá ngoài trời, đầu của lão nóng bừng trong khi tóc rối bù lên;
lão đang cố hình dung lại con đàn bà đã ngủ với lão và làm cho lão tận hưởng một
sự sung sướng tràn trề trong cái hành động tội lỗi mà Đấng Tối Cao ban xuống
cho muôn loài để bắt chúng trở về với Ngài; chưa bao giờ được như thế và không
bao giờ được như thế nữa. Lão Chà thở dài trút hết nỗi ấm ức đè nặng trên lồng
ngực. Lão thấy mình đương quỳ xuống dưới chân của con đàn bà còn trần truồng ngồi
trên giường buông thõng chân xuống đất, lão đọc một đoạn kinh Koran kính dâng
Thượng Đế và nắm lấy tay ả tỏ lòng biết ơn, ả kinh ngạc không hiểu, ả chỉ là một
gái giang hồ lúc nhúc hàng bầy trong thành phố và lạc lõng trong những kẹt hẻm
tối tăm; nhưng ả cũng vuốt tóc lão trong khi lão để cho những giòng nước mắt ứa
ra từ trái tim rất hiếm hân hoan rực rỡ... Lão Chà thiếp ngủ. Lão thức giấc,
mưa đang lớn và lão ngồi vấn thuốc hút, hơi thuốc êm êm làm lão tỉnh ngủ. Hút
xong điếu thuốc, lão chợt nhớ tới bọn đánh bạc ghé mắt ngó vào trong xưởng: ngọn
đèn sáng trưng, bốn người vẫn quây quần sát phạt không nghe thấy tiếng nói, nước
xối trên mái tôn, họ cử động chậm chạp như đang mê ngủ. Quay ra lão Chà bắt gặp
một đôi trai gái ngồi trú mưa phía trong kẹt tối của hàng hiên, đứa con gái ngước
mắt nhìn lão chừng muốn nói điều gì lại thôi, lão mỉm cười rồi trông ra lộ mặc
cho chúng tình tự. Đứa con gái mới chừng mười sáu mười bảy tuổi, vận áo bà ba
màu xanh lơ, khuôn mặt dễ thương, cặp môi trông nũng nịu, mắt sắc có đuôi, tóc
nó bị ướt và rối, tay nó cầm một gói giấy đưa cho đứa con trai. Thằng này, nét
mặt hung ác, quần áo chải chuốt có lẽ đó là đồ mặc đi o mèo, bàn tay thô kệch
chừng là dân thợ thò vào trong gói giấy bứt một trái nho để vào môi đứa con
gái. Lão Chà giật mình, đứa con gái đứng bên cạnh lão nói:
- Chú ăn với tụi tôi chơi.
Giọng nói ngọt hơn cả nho tươi, môi của nó chìa ra duyên dáng.
Lão Chà không từ chối, lượm mấy trái đã rụng và lúng túng trong miệng:
- Cám ơn em.
Con nhỏ thong thả về chỗ ngồi, hai đứa trải chiếc áo mưa nhà
binh trên sàn gạch, và thầm thì với bồ của nó. Lão Chà ăn hết mấy trái nho thì
thằng này tới gần mời lão hút thuốc lá, hắn lấy túi áo trên một gói thuốc
Lucky, nhưng lão bảo:
- Qua hút thuốc vấn.
Thằng nhỏ tỏ vẻ không bằng lòng, lão nhìn cái dáng bước khuỳnh
khuỳnh của nó và tiếng giầy đế da nện trên sàn gạch làm lão khó chịu. Lão hỏi:
- Mấy giờ rồi em?
- Mười hai giờ - giọng nói của thằng nhỏ thật ngạo mạn.
- Chú cho tụi tôi ngồi đây đợi hết mưa nghe - đứa con gái lên
tiếng như muốn dàn hòa - mưa dữ quá.
- Được các em cứ ngồi đó.
Lão Chà vấn thuốc và ngó mông về cuối phố. Một lát lão thấy
trời hơi hửng lên nhợt nhạt như sắp sáng, mưa vẫn dai dẳng lẫn tiếng rầm rì của
đôi trai gái. Canh bạc vẫn tiếp diễn ở trong xưởng thỉnh thoảng vọng ra tiếng
nói lớn của thằng Sáu.
- Đừng anh, tiếng đứa con gái.
Lão Chà quay nhìn thấy đứa con gái trỏ tay về phía mình, né mặt
tránh sang một bên, trong khi thằng con trai đang muốn hôn nó. Thằng nhỏ ngoái
cổ trông lại phía lão và lão mỉm cười với tia mắt của đứa con gái một cách đồng
lõa, thằng con trai cũng toét miệng ra cười. Lão quay mặt đi mặc cho bọn nhỏ tự
do, lão nghe thấy chúng nút lưỡi nhau liên hồi, lão nhắm mắt lại muốn ngủ nữa
nhưng đầu óc thì bay luẩn quẩn trong cái hàng hiên tranh tối tranh sáng. Lão ngồi
im khoanh tay trước ngực không dám cục cựa và lắng nghe hơi thở dồn của đứa con
gái mặc áo xanh. Trong một khoảnh khắc, lão rơi hẳng vào chỗ trống không vô tận,
choàng mở mắt. Hình như đã lâu lắm rồi: mưa coi bộ còn lâu, bọng đánh bạc chưa
chịu thôi, đứa con gái đã nằm gối đầu lên đùi bồ của nó. Thằng này ngồi tựa
lưng vào tường quay về phía lão nhưng cúi mặt xuống không cần biết, nó hôn hít
đứa con gái ngửa mặt nhìn nó và tay thì vuốt ve khắp thân mình bạn làm cho con
nhỏ nhiều lúc không tự chủ phải vặn mình níu chặt lấy cánh tay nó. Lão Chà nhìn
trân trối cảnh ấy có chừng đến năm mười phút, lão tưởng nghe được tiếng kêu đè
nén trong bộ ngực chập chờn trước mắt. Thốt nhiên đứa con gái nhỏm dậy, trông
thấy lão Chà đang nhìn, nó e lệ vuốt lại mãi mái tóc; thằng bồ thì đứng lên hút
thuốc với vẻ thản nhiên.
- Mưa lâu quá chú há - đứa con gái nói với lão Chà như muốn
xin lỗi chữa thẹn.
Lão Chà mỉm cười, một nụ cười biết ơn, mà thằng bồ không
trông thấy.
- Buồn ngủ quá, làm sao mà về được - câu nói bâng quơ nói cho
Lão Chà.
Lão chậm rãi hỏi:
- Các em có cần nằm cho đỡ mệt qua cho mượn chỗ nằm, ở ngoài
này mưa tạt ướt ráo.
Thằng nhỏ vức vội điếu thuốc còn một nửa, săn đón:
- Ờ, chú có phòng cho chúng tôi mướn đi.
Lão Chà lắc đầu:
- Không, qua cho các em mượn chứ không cho mướn. Qua mến các
em qua cho các em mượn.
- Chú tốt quá xá.
Lão Chà ghét cái bộ mặt hớn hở của thằng con trai không thèm
ngó, đứa con gái thì cúi gầm không muốn ngửng lên. Lão chờ đứa con gái lên tiếng,
lão sẽ từ chối thôi không cho mượn nữa, nhưng nó im lặng một cách khó hiểu.
- Ở đâu chú? Thằng nhỏ nắm lấy tay lắc hỏi.
- Trong ga ra.
Lão dẫn hai đứa nhỏ men theo mái hiên vào gian nhà gác của
lão, hẹp chỉ kê một ghế bố, một cái bàn gỗ thấp và bừa bộn ở só một đống vật liệu
hư. Lão dặn:
- Tắt điện đi không mấy người bên kia ngó thấy. Đóng chặt cửa
lại, và chỉ qua kêu là mở thôi nghe.
Trước khi ra khỏi phòng, lão Chà bắt gặp nụ cười miếng chi e
thẹn của đứa con gái. Dưới ánh sáng điện về khuya nước da nó trắng hồng và lấp
lánh chiếc răng vàng nơi cửa miệng.
0O0
Lối hai giờ khuya, canh bạc tan. Thằng Sáu đánh thức lão Chà
ngủ ở ngoài cổng dậy, lão hốt hoảng mở mắt thấy bốn cái bóng đen quây xung
quanh lão vùng dậy tính chạy thì một bàn tay giữ chặt lấy cánh tay lão và những
tiếng cười rộ lên.
- Cha nội mớ hả?
Lão định thần nhận ra thằng Sáu đứng cạnh, lão chửi:
- Thằng mọi.
Thằng Sáu nhe răng cười bảo:
- Hôm nay tía cho con ngủ đậu đây nghe tía? Con thua hết tiền
rồi.
- Đứa nào ăn, thày Hai ăn thua? Lão Chà hỏi, nhìn thấy thày
thư ký đang dắt cái xe mô bi lét xuống đường đạp cho máy nổ.
- Huề. Tiếng xe nổ và rồi khuất dần ở đầu phố, thày Hai về tận
bên Khánh Hội.
- Thằng Bông ăn hết trọi. Đêm nay nó tính ẵm tiền về cho con
vợ nhỏ nó đó, thằng Sáu than thở.
- Bông, mày lót tay cho nó ít tiền nước để nó về nhà mày. Lão
Chà bảo.
Thằng Bông cho thằng Sáu hai chục, thằng này bảo:
- Cho tao năm chục, tao còn phải ăn cơm mấy bữa kia.
Thằng Bông và thằng Tám đi rồi, thằng Sáu còn năn nỉ với lão
Chà:
- Cho tôi ngủ đậu đây nghe tía? Về Thị Nghè xa quá.
- Tao không ngủ chung với mày. Mày có tiền về nhà đi cho rồi.
Thằng Sáu vừa quay lưng đi, lão Chà gọi:
- Mày vô tắt điện rồi về.
- Tía vô mà tắt lấy nghe tía? Thằng Sáu ngoảnh mặt lại nói
xong hối hả băng qua lộ.
- Thằng Mọi, lão Chà la lớn, mai tới mày coi tao. Lão nghe tiếng
cười của thằng Sáu vọng ở lề đường bên kia.
Lão Chà đứng lên, mông và chân tê dại, lão đi cà nhắc vô xưởng.
Qua cửa sổ phòng gác, lão dừng lại nhìn vào thấy hai đứa nhỏ co quắp ôm nhau
trên ghế bố, chúng phải nằmg nghiêng cho vừa; thằng con trai ở trần chỉ mặc một
cái quần xà lỏn, đứa con gái tóc xõa rơi ra ngoài thành ghế. Lão đứng ngoài cửa
sổ rất lâu cho đến khi nghe rõ hơi thở của lão quá mạnh và lão phải nén lại. Mỗi
lần một đứa nhỏ cựa mình lão nép sang cạnh tường và ghé mắt rình theo cử động ở
trong. Lão nghe thấy tiếng đứa con gái gọi:
- Anh ơi...
Thằng con trai ậm ừ vẫn ngủ say.
- Anh ơi, hết mưa rồi, về đi.
Không thấy thằng bồ trả lời, nó ngồi nhỏm hẳn dậy và lay vào
ngực. Lão Chà rón rén, bỏ đi qua sân, vào phía sau tắt điện và tắt luôn ngọn
treo ngoài cổng. Cả xưởng tối thui, trừ khoảng sân si măng có một vệt sáng của
điện ngoài lộ soi vào, lão Chà đứng tựa vào cột nhìn quanh trong bóng tối, thuộc
lòng từng lối đi, từng chướng ngại trong khoảng rộng non hai mẫu ấy. Lão nghe
tiếng nước nhỏ giọt và lần men theo tường ra phía vòi nước khóa chặt lại, lão rủa:
- Đồ mọi rợ.
Rồi lão trông thẳng vào cái cửa sổ tối thui, vểnh tai nghe
ngóng; đâu đây rón rén tiếng chân người. Lão noi theo tiếng chân ấy và bước tới,
men ra phía cổng rồi lại trở vào qua phòng gãc, chỉ thấy một mình thằng nhỏ ngủ
như chết, xuống nhà chứa xe, tiếng chân bỗng im bặt, lão bước tới vài bước ngó
quanh quẩn. Hốt nhiên lão nghe tiếng hỏi của đứa con gái:
- Chú đi đâu mà tôi kiếm hoài không thấy?
Lão quay lại, đứa con gái đứng đằng sau lưng. Lão Chà hỏi:
- Em chưa về?
- Nó ngủ say quá. Tôi về một mình, kiếm chú để cám ơn.
Lão tiến tới gần con nhỏ, nắm lấy tay nó bảo:
- Tới đây qua cho coi cái này.
Không đợi nó trả lời, Chà lôi nó theo mình, nó không cưỡng lại.
Len giữa hai thành xe cam nhông, nó cười rúc rích:
- Tối thui mà thấy cái gì?
Đạp nhằm vũng dầu nhớt, lão Chà suýt té làm con nhỏ loạng choạng,
nó kêu:
- Buông tay tôi ra, trầy tay rồi.
Lão Chà đã tới sát tường, thả tay nó, lão leo lên cái thùng
xe lớn, đặt trên cái bệ cao cả thước để rửa và lau dầu, lão ngồi chồm hổm chìa
tay bảo:
- Lên đây.
- Ở trên ấy? Con bé hỏi.
Lão gật đầu, nắm tay con nhỏ kéo lên, nó đánh đu và té vào
người lão Chà trong thùng xe. Nó chống tay ngồi dậy bảo:
- Đâu?
Lão Chà lết lên gần đầu máy và ghé mắt vào một kẻ hở của
thành xe bảo:
- Ngó đây thấy hết cả ga ra.
Con nhỏ ghé dòm và cười vui thích, lão Chà cũng ghét sát vào
cổ con nhỏ và bàn tay vụng về của lão ôm lấy vai con nhỏ. Trời ơi, tới lúc đó
lão mới ngửi thấy mùi dầu thơm con nhỏ xức, đúng là cái mùi của hạnh phúc độc
nhất trong đời lão. Lão ghì lấy con nhỏ nhưng nó cựa:
- Em xức dầu thơm kỳ quá.
- Sịt, con nhỏ thúc cùi chỏ vào bụng lão, coi kìa.
Thằng bồ của nó vừa ra khỏi phòng, mặc thêm cái áo thun, ngơ
ngắc kêu nho nhỏ:
- Em à, em à.
Con nhỏ ngửng lên ngó lão, chúm chím cười, con mắt rợn lên.
Chà gục vào cổ nó hít và nhắc lại:
- Em xức dầu thơm kỳ quá.
- Chú muốn xức hả? Nó xô đầu lão Chà ra.
Nó lấy trong túi áo bà ba một cái ve nhỏ và xức cho lão Chà,
ngón tay để móng nhọn của nó vuốt lên tóc lão chạm vào da đầu, xuống hai bên
màn tang rồi xuống cần cổ, lão Chà ngây ngất với mùi thơm và cảm gác tê điếng.
Xong nó lại cúi dòm qua khe hơ, lão Chà làm theo nó. Thằng bồ từ cổng đi nhanh
vào giữa sân đứng vào khoảng sáng, vẻ mặt sợ hãi, nó quay trước quay sau kêu:
- Em à, em à, chú Chà à, chú Chà à...
Con nhỏ lấy tay bụm miệng lão Chà sợ lão lên tiếng, bàn tay
nó sực nức mùi dầu thơm, lão Chà ngọ nguậy cái đầu cho hàm râu cứng cọ vào bàn
tay mềm của đứa con gái: nó cố nín cười và tiếng cười nghẹn trong cuốn họng
rinh rích giống như chuột. Thằng bồ ngơ ngác một hồi, rồi quay trở vào phòng,
con nhỏ ngửng lên nói với lão Chà:
- Để coi nghe.
Lão Chà ngồi bệt hẳn xuống ván và kéo ngã con nhỏ vào lòng
nói:
- Em ở đây với qua nghe.
Con nhỏ vùng vằng nói:
- Tôi la bây giờ.
Nhưng lão Chà không thể buông mùi thơm ấy ra được, lão ghì riết
lấy nó. Đến lượt lão bụm miệng nó, nó cắn tay lão cũng không tha nó nhay tay
lão tưởng đến tóc máu, lão càng ôm chặt. Nó ú ớ thở hào hển. Thằng bồ bận xong
quần áo đang bỏ đi, lão Chà nghe tiếng giầy đế da của nó dạo mấy vòn quanh sân
rồi ra ngoài cổng và rẽ về phía trái sang lộ. Lão buông tay bịt miệng con nhỏ,
nhưng vẫn ôm nó ở trong lòng, lão cúi xuống cọ hàm râu cứng vào má vào cổ nó -
chính con điếm ấy đã dạy lão rằng cọ râu như thế rất gợi tình - lão mặc cho nó
cào cấu lão. Có lúc lão đút cả cái cầm vào mồm nó cho nó cắn để nó khỏi la,
trong khi ấy lão nói:
- Em ở đây với qua nghe. Qua khổ lắm, qua thương em lắm. Em lấy
qua, qua sẽ đưa hết tiền cho em sài, qua thề không đánh bài, qua không uống rượu
nữa. Em đừng bỏ qua, tội nghiệp nghe em.
Lão Chà nói đi nói lại có chừng đó và không làm gì hết, nhưng
lão cũng không buông con nhỏ. Lão nói thét tới chán nản muốn khóc, và con nhỏ nằm
im và kinh ngạc. Lúc không nói lão bắt chước vuốt ve con nhỏ như hồi tối đã thấy
thằng bồ của nó làm trước mặt lão, nhưng con nhỏ chẳng xúc động chút xíu nào,
nó nằm im như khúc gỗ dương mắt thao láo nhìn lão Chà. Nó sợ không cử động được.
- Em bằng lòng qua không? Nếu em không bằng lòng thì qua
không ép em đâu, qua thương em thật tình mà. Thượng Đế không cho phép qua làm bậy,
qua tuân lời. Em bằng lòng qua nghe em?
Thấy con nhỏ lắc đầu, lão vội nói tiếp:
- Em không thương qua thời thôi, em cho qua vuốt tóc em vậy.
Tóc em thơm quá. Em xức dầu thơm cho qua như hồi nãy đi.. Thôi để cho qua xức
cho em vậy...
Lão móc túi áo bà ba lấy ve dầu thơm, run rẩy mở nút làm đổ hết
lên người con nhỏ, ướt cả một khoảng ngực, lão úp mặt xuống đó hít đầy vào lỗ
mũi, con nhỏ rùng mình muốn đứng dậy nhưng lão níu xuống, lão lầm bầm nói một
mình:
- Trời ơi, không ai thương tôi hết. Tôi chết đi cho rồi.
Lúc ấy từ ngoài cổng lại nghe tiếng giầy của thằng bồ đi vào,
lão Chà bị mùi dầu thơm làm choáng váng vẫn gục đầu trên ngực của con nhỏ, lão
nói:
- Em cứ nằm vậy và cho qua được nằm gần em vậy.
Thằng bồ nhặt một thanh sắt cầm tay đứng giữa sân rình rập.
Con nhỏ lắng tai thấy tiếng giầy im lặng, bất thình lình nó xô lão Chà vùng dậy,
nhảy xuống đất, ngã chúi va đầu vào tường và la lên:
- Anh ơi.
Nó hốt hoảng chạy vội ra giữa sân ôm lấy thằng bồ. Thằng này
hỏi:
- Nó đâu?
Con nhỏ chỉ tay về phía xe hơi nhưng níu tay thằng này ljai,
lắp bắp trong hơi thở:
- Không có gì hết, chưa có chuyện gì hết.
Thằng này dằngtay ra xăm xăm bước tới, con nhỏ chạy theo níu
kéo không được. Lão Chà vịn vào thành xe nhẩy xuống, té và đống dầu nhớt, thằng
nhỏ cầm thanh sắt đập liên hồi, con nhỏ bưng mặt khóc. Thấy lão Chà chỉ còn thoi
thóp, nó bảo con nhỏ cùng nó khiêng xác lão Chà để lên thùng xe. Con nhỏ thút
thít nói:
- Thôi chạy đi anh ơi.
Nó quắc mắt dữ tợn bảo:
- Đừng lôi thôi.
Đặt lão Chà vào đúng chỗ nằm lúc trước của con nhỏ, nó đập bể
ve dầu thơm ở bên cạnh, lột hết quần áo của lão liệng vào góc.
- Anh làm gì vậy?
Nó không đáp và truyền lệnh:
- Cởi cái sú chiêng liệng vào đống quần áo đó.
Con nhỏ còn ngần ngừ, nó bật tung nút áo và nắm tay dật đứt
cái bao vú liệng vô đống đồ của lão Chà. Vừa lúc ấy lão Chà hồi tỉnh một vài giây,
ngửi thấy mình nằm trên dầu thơm, thân thể trần truồng và con nhỏ đang nhìn xuống,
ngực nó không cài trắng muốt. Rồi tiếng thanh sắt liệng xuống thành xi măng...
Trên mây
Tia nắng đậu trên gáy bắt đầu đốt nóng. Nước bồ kết nâu váng
bọt, mái tóc lật rũ quăn queo lờm xờm. Thành chậu nhôm trắng còn dấu những vết
tiện xoay tròn như chỉ đĩa hát. Nửa miếng gạch tàu viền xi măng lồi giữa hai ống
quần đen ướt, những ngón chân móng đỏ húp. Bồ kết nồng hắc làm rít những sợi
tóc trong răng lược khó gỡ. Lan bóp món tóc xơ xác vuột xuôi nắm chùm quay
tròn, mặt nghiêng nghếch: trên đầu bờ tường ghim mảnh chai xanh và những cửa sổ
đóng của tòa lầu cao trong nắng. Tóc quật phạch phạch rào rào như cánh quạt máy
bay đang khởi động.
Con Năm ở ngoài nhà, đi vào, bước xuống sân, đến ngồi sau
lưng, lấy khăn ấp lên gáy.
"Xối nữa cho tao".
Nước lăn ròng ròng xuống mặt mũi, sau nhắm mắt như được nhấc
bổng trong một vùng hơi nhẹ tênh của mùa hè nhà quê, buổi trưa cao im trên các
ngọn tre rợp phủ mặt đường đất. Móng tay con Năm cào sát xuống da đầu tê điếng.
Nước luồn qua cổ xuống ngực thấm ướt áo lẫn với mồ hôi như tắm, vú không nịt
buông thõng đung đưa, Lan mím môi giữ chặt mối xúc động đang lan mất hút. Còn
gì đâu? Lan quơ giật cái khăn trên tay con Năm, lau mặt, vò tóc, rồi đứng lên.
Hai chân mỏi tê, khom lưng, cầm chùm tóc quay phần phật trong không khí. Những
sợi vàng cứng vì uốn hấp nhiều lần như loài dây leo khô quấn trên các hàng rào
nắng bụi. Ngày kia khi tóc bạc thật khó coi, có lẽ phải cạo đầu buộc khăn như mấy
bài vãi.
"Ai vô hồi nãy đó?"
"Một ông hỏi cô Tuyết".
"Mày nói sao?"
"Nói cô Tuyết đi khỏi. Ông này coi bộ lạ mặt chưa tới
đây lần nào".
"Cô Tuyết biết không?"
"Cô ấy nằm trong giường, có cậu gì ở đó mà".
Lan giẫm chân đất, leo lên thềm, ngồi bệt xuống gạch ngang
ngưỡng cửa hong tóc. Dưới sân nắng, con Năm đổ nước, lấy chổi quét, tiếng chổi
quẹt quẹt cùn mòn. Qua cửa phòng mở, Hội ngủ trên giường, ngáy đều đều, đầu tuột
khỏi chiếc gối mềm trũng giấu cánh tay giăng ngang bỏ không, thân ngửa phơi trần
chỉ mang chiếc xi-líp nhỏ xíu, hai chân duỗi xòe mở theo hình quạt. Chàng ngủ
ngon lành như đứa con trai mới lớn, thân dưới dấy động cứng mạnh. Anh chàng
đang mộng gặp đàn bà, Lan nghĩ. Buổi trưa êm tĩnh tuyệt vời trùm khắp hàng phố,
trên các mái ngói lô xô, những mặt lầu khu phố sau lưng. Con Năm đi lên nhà,
lén nhìn vào buồng giấu mặt cười, tới gần khoảng ngăn với buồng, chọn chỗ sạch
trên lối đi, nằm lăn trên gạch nghỉ ngơi.
Buồng ngoài Tuyết gây gổ trở lại với thằng bồ. Chỉ tại thằng
đàn ông hồi nãy tới khuấy lên cuộc cãi lộn tưởng đã im. Chúng lào xào, xoay trở,
chốc chốc phát lớn tiếng.
"Về đi cho tao ngủ mày. Tao mệt rồi".
"Tao không về, mày làm gì".
"Không về thì nằm yên. Đừng động về người tao".
"Mày làm tàng với tao..."
Chúng vật lộn như sắp đánh nhau tới nơi. Thằng "lỏi"
thật dữ tợn, "cao bồi" có hạng. Con Năm ngóc đầu nghe ngóng, liếc về
phía Lan.
"Năm, xuống mua nước mía uống mày. Lấy cái ca bự..."
Con Năm uể oải ngồi lên, móng chân nó cũng bôi thuốc, ngực nó
dướn căng.
"Nguyên chất nghe Năm".
Nó trở xuống bếp, lén dòm vào chỗ Hội nằm, đi chậm bên cạnh tấm
màn hoa che kín giường của Tuyết. Cửa ngoài mở, nắng chóa trên chòm cây ngoài
hè hắt vào đến ban công chung chạy dài suốt dãy lầu.
"Mày làm khổ đời tao. Sao mày không bỏ tao cho rồi?"
"Còn lâu. Tao đâm chết mày chớ khi nào bỏ mày".
Lan rùng mình thở nhẹ. Cái số con Tuyết khốn nạn, nó chỉ gặp
toàn những đứa không ra gì. Một chốc Lan phân biệt rõ nhịp động của cuộc ái ân
sôi nổi lịm tắt dần vào trong hơi thở ban trưa nghẹn giữ. Mỏi cổ nhưng không
dám tựa vào tường, Lan nhặt cây tăm dưới đất cậy móng tay, móng chân. Hội động
đậy mê ngủ, nước loang ướt mảnh vải che, da bụng thoi thóp. Lan cười, choài tay
khép cửa buồng nghĩ: Anh chàng mệt choáng váng, khó mà tỉnh dậy.
Con Năm bưng ca nước mía đầy, mồ hôi trán lấm tấm, nói:
"Tắc xi ủi thằng cha đi xe gắn máy bể sọ, phòi óc. Trông
khiếp quá".
"Ở đâu?"
"Dưới ngã tư, cô ra mà coi".
Lan buộc khăn lên tóc, đi chân đất ra ban công đứng ngó xuống.
Tuốt đầu phố đám đông tụ họp dưới đường và trên hè. Bến xe buýt nắng trải vàng
lấp lóa. Trong sân ga sau, gió cuốn bụi đất lên cao bên những toa than. Anh Tây
già độc thân ở căn kế bên ủ rũ trong bộ đồ xám đen quanh năm, tay ôm cặp sách,
bước từ trên xích lô xuống, đi mau ngang hè chui và trong vòm cổng cầu thang.
Có lẽ hắn ở tiệm hút về, leo thang khá lâu, lê bước trong hành lang cắm cúi. Hắn
mở khóa vào nhà, đóng cửa lại ngay, không hiểu hắn làm gì một mình trong gian
nhà rộng không ai nhìn thấy phía trong.
Bây giờ Tuyết và thằng bồ lại thầm thì êm ái, trước khi bị
vùi xuống giấc ngủ muộn. Lan sang nước mía vào ly để sẵn trên bàn đầu giường
cho Hội, Hội vẫn ngủ say, rút người co quắp, hai bàn tay kẹp giữa hai đùi.
Chàng có thể làm dơ tấm nệm trắng. Chàng cần ngủ, cần nghỉ ngơi, cần ăn uống,
vui đùa. Chàng cũng còn trẻ nhưng không thật tốt. Như thế là đã quá đủ.
Vài phút sau, Hội tỉnh, kêu ọ ọ trong họng và hé mắt. Chàng
trải duỗi tứ chi, không nhúc nhích, như nghe ngóng lấy thân thể mình, rồi ngóc
nửa mình dòm xuống thân và bật ngã xuống nệm lại, thở hắt mạnh. Lan vào buồng,
ngồi ghé xuống mép giường, mỉm cười chế nhạo. Hội vẫn lim dim, thở đều, da mặt
của chàng càng nhờn, Lan khuỵu hai cánh tay, đóng gông lấy cổ Hội, áp má xuống
ngực chàng:
"Kỳ cục hả. Tại em đấy".
Lan cất hai chân lên giường, nhưng vẫn ngồi co nghiêng, nhoài
mặt lên úp vào bên cổ chàng, lướt môi trên trái yết hầu nhấp nhô, tóc của Lan
còn ẩm bện lại từng lọn buông rủ.
"Tại em? Chứ không phải anh làm xấu".
Hội xoay nghiêng cằm, tránh hàm răng cắn của Lan, vò đầu
nàng:
"Em mới gội đầu".
Lan kéo người lên, đồng thời vòng tay sau gáy Hội lôi theo.
"Dậy đi tắm anh".
Hội như không có xương sống nhào ngã vào Lan.
"Kìa. Coi chừng. Bẩn hết người em bây giờ".
Hội cười khinh khích, tiếng cười trửng rởn như nắng rực tươi
bên ngoài, rõ ràng và chân thật, tiếng cười vẫn làm Lan tin cậy. Hội không khi
nào dối trá. Cuộc phiêu lưu mạo hiểm của chàng chỉ có một chốn nghỉ là Lan, dù
Hội có thể gặp nhiều người đàn bà khác. Chàng còn trẻ, không có gì đáng kể,
đáng để ghen tức. Chàng cần được tha thứ vì đời sống bấp bênh vô định, không
còn cha mẹ cũng chẳng ai thân thích. Chỉ còn Lan, đi đâu rồi cũng trở về đây để
được săn sóc chiều chuộng, trừ khi chàng chết. Lan ném cho Hội cái "sà
rông", chàng quấn mãi vẫn tụt, bao giờ Hội cũng vụng về trong các việc vụn
vặt. Hội bước dềnh dàng hai chân vịt như anh ba Tầu bán thịt quay.
"Đói quá".
"Nước mía đấy. Anh uống đi".
Hội nốc một hơi cạn ly, bọt trắng dính quanh mép rồi nhe răng
cười, hàm răng trắng bóng đều như những hạt na.
Mười một giờ. Hội chạy xồng xộc vào nhà, cởi liệng áo quần,
ôm lấy Lan còn ngái ngủ, hôn túi bụi, ghì Lan muốn ngộp. Lan sẵn sàng đón Hội,
nhưng Hội còn ngây ngất vì chuyến bay buổi sáng trên dãy Trường Sơn với những
khoảng mưa lộng, dữ xô đập lúc lắc thân tàu, Hội nói và rồi ngủ tít. Lan đành
ru Hội bằng mơn trớn, còn nàng nổi dập dềnh một mình với những hồi giục giã của
thân thể buông không trong hơi nồng nực.
Hội trông ra buồng ngoài, ra dấu hỏi thăm Tuyết.
"Nó đang có bồ?"
Lan đẩy lưng Hội xuống sân, qua quãng nắng lấp lánh, du chàng
vào phòng tắm. Hội đứng ngơ ngẩn như không có ý nghĩ trong đầu. Lan tìm mang chậu,
khăn, xà phòng vào và móc cửa lại. Trong bóng mờ hắt vài khe nắng, Hội ngồi xổm
thu hình như đứa trẻ hãi sợ. Lan giật tung tấm "sà rông", vắt lên
dây, cầm chậu thau múc đầy nước trong bể dội ào trên đầu Hội. Chàng đưa tay vuốt
mặt liên hồi, cười sằng sặc phun nước phì phì, ngồi bệt hẳn xuống nền xi măng,
gỡ những dải buộc xì-líp xoay mình lại làm điệu bộ dọa dẫm và bất chợt ôm
choàng lấy Lan. Lan vùng vẫy.
"Ướt hết. Ngồi yên nào".
Lan bỏ tấm áo cánh ướt, ở trần. Ngoài sân, tiếng chân và tiếng
cười của con Năm.
"Suỵt, con Năm nó cười..."
Lan nhặt hòn đá nháp mài sát tay chân, lưng bụng của Hội. Hội
nhột, co rúm người ngọ nguậy, cố nín cười, bật thành những tiếng khí khí trong
cổ. Không nhịn được, Hội vầy nghịch ngực nàng, lấy ngón tay vân vê chỏm vú. Lan
mím môi trấn tĩnh:
"Xát xà phòng, kỳ lấy đi, ông mãnh".
Hội vẩy văng bọt xà phòng vào người Lan bảo: "Để anh làm
em thành nàng Bạch Tuyết". Lan đứng nép vào góc tường né tránh, còn Hội vuốt
nắm lấy từng mảng bọt ném tới, rơi ở nửa chừng tan dưới mặt đất. Đợi cho Hội đã
chán, Lan đến bên bể nước, múc dội ào ào từ đầu đến chân chàng, lau mình chàng
bằng khăn bông khô, bắt mặc quần áo và đuổi ra ngoài. Lan nhất định không tắm
trước mặt Hội. Còn một mình, Lan tự ngắm thân thể đìu hiu tẻ lạnh khó hiểu. Nước
đang thoát chảy róc rách trong cống, tường ẩm tỏa hơi mát, Hội thổi sáo miệng
đi lên nhà. Lan mỉm cười hài lòng: Hội vẫn yêu mình. Nếu Hội chết, mình trở
thành góa phụ. Hội có thể mất tích và mình vẫn chờ đợi. Lan nhắc thầm như thỉnh
thoảng trong những phút hân hoan nàng vẫn nói với Hội: "Cảm ơn Hội, cám ơn
Hội". Lan hát thành tiếng lúc nào không hay, bài hát trong những đêm vắng
Hội khi ngồi trong xe của những người khách quen đưa nàng về nhà, Lan cất tiếng
ca bâng khuâng nhìn phố im ngủ, quên người bên cạnh.
Hội đứng chải tóc trước gương, cười rộng khi thấy bóng Lan. Cặp
mắt đen ngời như trên cao độ chàng vẫn bay vào biền biệt. Chiếc áo sơ mi mỏng
căng trên khung ngực. Từ người chàng tỏa ra ánh trẻ trung đằm thắm làm Lan mê
và sợ. Lan ngồi trước bàn trang điểm, chải tóc, khuôn mặt trần mát mẻ, má và
môi không tô phủ hiện lên màu xanh tái. Tóc dính ướt chải bẹp, như một cô bé mười
bốn mười lăm. Lan cười hình ảnh ngây ngô trong gương. Hội bơm nước hoa vào ngực
gáy, cổ, hai bên thái dương của Lan, nàng níu cổ Hội hôn tham lam vào miệng
chàng. Hương thơm đường mía chưa tan trên lưỡi chàng. Mắt Hội nhìn thẳng, mở
nguyên như một bầu trời bằng. Buông Hội, Lan cười khanh khách, Hội ngơ ngác.
Lan nghĩ mau: chàng không đứng trên đất, chàng lơ lửng trên mây không bao giờ
chàng đáp xuống nên chàng vẫn yêu mình, yêu như bị trói liệt vào giấc mê dài
không tỉnh. Đích thực mình không còn chút giá trị nào – một vũ nữ đang dần vắng
khách, một đào già – và may mắn bắt được hạnh phúc rơi rải như hoa giấy. Những
chùm hoa giấy không hết, rớt mãi, bay tung trong không khí một buổi chợ phiên,
chợ phiên không đóng cửa.
"Em mặc jupe nhé".
Con Năm đi ngang qua, liếc vô. Hội khép cửa buồng, không khí
dịu nhẹ. Chàng đứng cạnh giường, giương mắt ngắm thân hình Lan phô bày như mới
thấy lần đầu. Cả gia tài của mình, của kẻ xấu số, còn chừng đó, niềm vui duy nhất
mang đến cho Hội. Chàng trườn ngang nệm, níu tay Lan kéo ngã.
"Coi chừng. Nhầu hết áo anh".
"Cần gì Lan. Đêm qua khi anh bay trông thấy những phố thắp
đèn nổi dập dềnh dưới vực tối, mừng ghê..."
Chàng vẫn thốt những lời tình tự đột ngột, không sửa soạn,
Lan hoang mang chẳng hiểu rõ ý định. Những lúc ấy Hội nói một mình, thổi những
ý nghĩ lông bông nàng không bắt kịp.
"Phải có em ở cạnh anh yêu em liền. Giống như hôm nào từ
xa lộ mình nhìn về phía Sài Gòn. Hôm ấy Sài Gòn bay ở trên cao hơn đầu một tí.
Còn trên máy bay, đèn bay tan dưới thấp..."
Hội kêu: "Lan, Lan", cù cho nàng phải mở mắt cười
ngặt nghẽo. Nàng đẩy nâng thân Hội lên, chàng bám cứng lấy hông như còn muốn
kéo dài cuộc tình tự. Lan mặc chiếc váy bó màu rêu, đeo xâu chuỗi dài cuốn hai
vòng, kêu con Năm đứng ngoài ban công vào coi nhà. Tuyết và thằng bồ vẫn ngủ mê
mệt.
"Tội nghiệp".
"Em nói gì?"
"Em nói con Tuyết".
Lan khoác tay Hội xuống thang. Cầu thang chung rác rưởi bẩn
thỉu. Dưới gầm là chỗ trú của một ông lão ăn mày. Ban ngày chỉ thấy mấy ống lon
và một manh bố trải. Từ khi gặp Hội, bằng lòng cho Hội lên phòng riêng, vào lúc
ba giờ sáng và chàng lì lợm ở lại cả ngày hôm sau, dường như Hội không hề chú ý
đến Tuyết ở chung. Chàng lui tới, đi về nằm trên giường, đùa rỡn và ngủ. Ban đầu
Lan cũng sợ Hội mê Tuyết, Tuyết trẻ đẹp hơn, ở tiệm nhảy, nó đứng đầu sổ những
vũ nữ có hạng. Dần dần Lan nhận ra vẻ dửng dưng của Hội, chàng không để ý đến
Tuyết. Nhiều đêm, hai ba giờ sáng ở tiệm nhảy về, Lan và Tuyết còn dong đèn trò
chuyện, riễu cợt với nhau về những anh chàng si ngốc theo đuổi bị dối gạt, lúc
về phòng, Lan gặp Hội nằm trong màn chờ, không bực dọc, chẳng khi nào chàng bước
ra ngoài góp chuyện cả. Thái độ ấy khiến Tuyết ghét Hội cay đắng, Tuyết bảo:
"Thằng bồ của mày nó khinh người". Một lần say rượu, năm giờ sáng Tuyết
mới về được đến nhà, đập cửa phòng Lan: "Cho tao ngủ chung với. Tao nằm một
bên thằng bồ mày cũng được chứ sao?" Hội mở đèn, bảo Lan dìu Tuyết về giường
của nó, thay quần áo, lau mặt, dỗ nó ngủ. Tuyết khóc như cha chết, vật vã, lảm
nhảm. Lan nói: "Ngủ đi mày, ngủ đi mày". "Tao không muốn ngủ một
mình, mày cho tao vào ngủ với mày". Lan phải nằm lại với Tuyết, thủ thỉ:
"Trong đời thế nào cũng có một người yêu mày thật nhưng mày chưa gặp được
đấy thôi". "Không, không đứa nào yêu tao cả". Những người đàn
ông đến với Tuyết đều bỏ đi và để lại cho nó rất nhiều tiền. "Tiền làm
gì", Tuyết ném tiền vào bàn bạc không đếm xỉa. Con của nó đẻ ra gửi cho ai
nuôi không nghe nhắc đến. Thằng bồ nhóc này con nhà giàu, còn đi học và cũng sẽ
chẳng ở lâu với nó, Tuyết bất kể. Nhưng Lan nghĩ khác, nàng muốn cầm chân hộ
Tuyết bất cứ người đàn ông nào đến với nó. Mỗi bận bồ nó tới, Tuyết vắng nhà,
Lan lo lắng nói dối quanh, sai con Năm chăm sóc để giữ ở lại đợi Tuyết. Nhưng
Tuyết về là hai đứa vặc nhau không tiếc lời. Bên hạnh phúc của Lan, Tuyết lêu
bêu trong những đêm dài mệt mỏi chán chường. Lan đã nói vậy với Hội và chàng hỏi:
"Em muốn anh lấy luôn Tuyết hả?" Không thể được, Lan cũng biết không
thể được. Hạnh phúc không thể san sẻ, tình yêu chỉ có một. Ngoài hè, chiều đang
đợi trên một bầu trời nắng mỏng.
"Ăn xong đi chơi. Tối ngay nghỉ đi".
Lan bấu vào bắp tay Hội như giữ lấy cho mình những giây phút
sắp tới.
"Anh đói lắm. Phải kiếm tiệm gần nhất. Cơm tây, cơm ta
hay cơm tàu nào?"
"Cơm tây đi anh".
"Ừ. Chốc nữa trời sẽ tím. Em nhớ nhớ, hễ trời tím là
mình đi ăn cơm tây. Uống rượu vang vào cho em say một bữa".
"Tối đi đâu chơi anh?"
"Đi nhảy".
Một đám khách quen hay gọi ngồi trong một chiếc xe hơi chạy
ngang ngoái cổ vẫy cười với Lan. Hội không trông thấy, chàng ngoảnh vào trong
các mặt nhà, bước dài kéo Lan đi mau hơn. Đằng xa những hàng cây cao dài thẳng,
buổi chiều ửng vàng phía bờ sông thoáng.
Dọc Đường
Ba người đàn ông ngồi quây xung quanh cái bàn gỗ tròn trong
quán và cùng hướng về phía quốc lộ chạy mất hút vào trong rừng cao su ở hai
bên. Quán bằng lá nằm cuối dãy phố mươi lăm chiếc nhà, sát cạnh con đường đất
xe hơi có thể vào, ngăn phố với rừng cao su. Đầu trên dãy phố là đồn dân vệ rào
ba lần thép gai trên treo lủng lẳng những ống lon rỉ. Người đàn ông ngồi ngoài
cùng kế cây cột chống, mặc áo lá và quần xà lỏn, một chân co lên mặt ghế, tay
bưng ly cà phê uống từ hớp nhỏ. Người đàn ông liền bên vận quần áo kaki sờn
rách, đầu đội nón bẻ vành, chân đi giày không vớ, cầm chiếc muỗng nhỏ xíu gõ nhịp
lên bàn. Người ngồi tách riêng một phía già hơn hết, tóc tiêu muối, vận quần
lãnh đen bám bụi đỏ, áo túi trắng ngả màu, trước một ly cà phê sữa.
"Có lẽ tụi nó về hết rồi". Ông già nói.
"Còn mà. Ít nhất còn cái 601 chưa về".
"Vậy ai chơi nổi với mày nữa. Mày thuộc hết số xe còn
gì? Thằng này điếm quá".
"Ờ... tôi nhớ nhưng biết cái nào tới trước cái nào tới
sau?"
Người vận quần áo kaki đỏ mặt cãi với ông già. Người vận áo
lá quần xà lỏn nói:
"Ăn chung gì. Giờ mình chơi hết các thứ xe đi".
"Đâu có được mày. Mắt tao nhìn không rõ. Xe ben chạy cà
rề cà rề tao còn ngó thấy. Chớ bọn xe đò, xe nhà chạy giờ này nó chạy trối chết
làm sao tao trông kịp".
"Ai ăn lận tía mà tía sợ".
Ông già lắc đầu:
"Tao không chơi nữa".
Bà chủ quán mập bự, ngồi phía trong, nửa dòm vô trong nhà, nửa
dòm ra trước, hỏi giọng khan như bị cúm:
"Nãy giờ cha nào ăn?"
"Huề. Không ai ăn thua hết". Người đàn ông đội nón
phân trần. Ông già xỏ dép, đứng lên thọc hai tay vô túi áo, móc tiền:
"Nè, trả tiền ly cà phê. Tao về cho sớm. Tối nay thế nào
cũng có hành quân".
Ông đặt mấy đồng bạc cắc lên bàn, bỏ ra theo phía hông quán,
bước ngay xuống con đường đất đi sang phía rừng cao su, vòng vào một gốc cây
ngoài bìa đứng tiểu. Tiếng nước chảy mạnh soi vào thân cây, người đội nón
nghiêng đầu ngó là to:
"Ông già gân dữ quá ta".
Người ngồi ngoài cũng chợt vểnh tai nghe ngóng. Tiếng ầm ì ở
tít xa.
"Còn tao với mày hả?"
"Đâu có ngán".
"Bài cào hay sóc đĩa?"
"Thứ nào cũng được. Cho mày lựa".
Người vận áo lá vừa nhíu mày suy nghĩ vừa lắng nghe tiếng động.
Khuôn mặt dài ốm nhăn nhó. Người đội nón dở chiếc nón xuống nghĩ dò xét kín đáo
hơn, cặp mắt mơ màng nhìn vào những lối cao su thẳng tối. Ông già từ sau gốc
cây bước ra đường cũng ngửa cổ nghe.
"Đậu cái này rồi về tía". Người đội nón gạ gẫm.
"Tụi bay tuột dù hết rồi. Máy trực thăng đó".
Hai người đàn ông còn ngồi trong quán ngó nhau. Người đàn bà
cũng nói:
"Trực thăng thiệt".
Vài phút sau, tiếng động cơ nổi rõ, tới gần. Chiếc trực
thăng, bay sà thấp ngang qua quán, sang phía rừng cao su bên kia lộ, quần vài
vòng lớn rồi trở lại hướng cũ. Ông già nhìn theo, cười khoái trá biểu:
"Tao biểu mà". Rồi ông bước đi. Con đường đất chạy men bìa rừng cao
su dẫn tới một xóm lá lơ thơ. Buổi chiều vàng rực ở phía sau đồn dân vệ, nhưng
phía rừng cao su xanh thẫm. Xuyên qua những gốc cây thẳng tắp đến cả hai cây số
là một chút chói sáng của quãng lộ quẹo như rớt xuống ngang tầm đất. Hai người
dân vệ từ trong lối xóm trở ra, chân mang giày bó túm ống quần bám sình và bụi
đất; một người đeo súng hai tay bưng trên miệng nút vào chiếc lá tre non kêu
chít chít từng hồi như tiếng chim, một người quàng hai tay trên hai đầu súng đặt
ngang cần cổ ngó phía trước, cả hai đều mặc đồ đen đội những chiếc nón vải đen
có lưỡi. Họ rẽ vào quán, dựng súng vô vách, ngồi vào chiếc bàn gỗ còn dư trống.
Một người kêu người đàn ông vận áo lá:
"Còn nước đá không?"
Người sau này vẫn ngồi nguyên thế co chân, chỉ xoay nửa thân
trên hỏi lại người đàn bà:
"Còn nước đá không mày?"
"Để coi. Chắc còn..."
Người đàn bà vác tấm thân nặng, lê bước vô sau bếp, lục cục
tìm kiếm và hỏi ra ngoài:
"Mấy chú uống gì?"
"La de".
Người dân vệ vẫn bưng tay lên miệng hút kêu những tiếng chít
chít, trong khi người bạn ngó lên tấm vách trong có cái giá bầy các chai nước
hơi màu xanh, màu đỏ, màu vàng, màu trắng, màu nâu, xếp dài theo tấm vách ván
ám khói đen. Chỉ còn hai chai la de trên giá. Người đàn ông vận áo lá, chủ
quán, nhăn mặt ngó chỗ khác vì tiếng nút kêu của người dân vệ. Người đàn ông đội
nón liệng chiếc muỗng xuống bàn kêu lên:
"Cha. Lâu thấy mẹ".
Người đàn bà mang hai cái ly đá chặt cục bự nhô khỏi miệng ly
đặt trước mặt hai dân vệ, rồi lại ì ạch quay trở vô giá lấy nước. Mụ dùng răng
cắn mở nút chai xong rồi cất tiếng hít hà, đưa cánh tay áo quẹt ngang mồm. Ly của
người dân vệ tràn bọt sủi tròn xuống bàn. Anh ta buông tay, chiếc lá tre xanh
nõn ép dính dọc theo ngón tay bên phải. Anh thủng thẳng lột chiếc lá liệng vào
vũng nước trên bàn. Người bạn hỏi:
"Uống lẹ đi mày. Bọn chúng đi qua thấy về lại cằn nhằn".
Người đàn ông đội nón bỏ ghế ra ngoài hè đứng ngó mông hai đầu
đường vắng ngắt như tờ. Đằng chân trời trước mặt, tiếng phi cơ ầm ỳ rồi tắt lặng
không thấy dáng. Cách quán hai ba nhà là tiệm sửa xe máy. Một người thợ liu hịu
làm việc với chiếc xe máy lật chổng bánh lên trời. Người đội nón quay vô biểu:
"Tối nay về Biên Hòa ngủ. Còn cái sáu lẻ một mà".
"Ờ, để coi".
Hai người dân vệ uống cạn ly đứng lên sửa lại quần áo, đội mũ
đeo súng, trả tiền sửa soạn bước ra khỏi quán. Người đàn bà vừa nhét tiền vô
túi vừa nói với chồng:
"Có đi Biên Hòa coi chừng giùm tôi đó".
Hai người dân vệ đi ra khỏi quán, tiến về phía đồn, dáng đi
nghiêm chỉnh hơn. Người nút lá tre đi trước cách bạn chừng hai ba thước, cả hai
đều quay dòm vô các mặt phố. Có tiếng gọi trong rào kẽm gai ở đồng và họ cất bước
chạy lúp xúp. Trong quán người đàn bà nói, trong khi người chồng mở hộc tủ của
cái bàn trên bày mấy ve bánh kẹo, chai tôm khô củ kiệu chỉ còn thấy nước đục
vàng, kê bên dưới giá xếp nước, lấy tiền. Trên đầu người đàn ông treo tòn ten
vào móc sắt hai nải chuối già và chuối sứ:
"Mấy cha chỉ bày chuyện đi chơi không à?"
Người đàn ông đi tới chiếc ghế bố đặt bên vách, nơi người vợ
ngồi để vừa ngó phía sau phía trước, lượm áo sơ mi khoác lên thân, nói:
"Mầy không thấy trực thăng quần nãy giờ sao. Bộ mày muốn
tao chết..."
"Còn tôi dễ không chết hả. Cứ đi hoài tiền đâu chịu cho
thấu".
"Tao là đàn ông mày nghe chưa? Ở nhà để lỡ như lần trước
chúng vô bắt kéo thây về rừng cho chúng. Một mình tao phải kéo bốn cái thây mày
nhớ không, cả đêm cả ngày tới chừng về phát đau còn bị người ta kêu lên kêu xuống
hỏi hoài... Đ.m. thứ đồ đàn bà ngu!"
Người vợ kéo quần tới bắp vế gãi, mặt mụ đờ đẫn không còn phản
ứng. Người đội nón trở vô quán nói tiếp:
"Máy bay quần là có chuyện mà..."
Người đàn ông chủ quán tỏ vẻ khinh bỉ vợ, bỏ vô sau rửa mặt,
rửa chân, rồi thủng thẳng trở ra xỏ quần. Hai người đàn ông ra đứng trước quán.
Trong rừng cao su nghe tiếng còi xe nhấn inh ỏi, hai ba chiếc xe đò đua nhau chạy
tới. Dẫn đầu là một chiếc "bờ dô" mũi khoằm theo sau là hai xe cá.
Chiếc "bờ dô" thắng ngay trước quán, hai chiếc xe cá vượt đi luôn.
Người đàn ông chủ quán quay vô biểu vợ:
"Tao đi nghe mày".
Người vợ nặng nề bước ra, dặn dò:
"Mai sáng về ghé chợ mua đồ về nghe".
Người đàn ông mới dớm đặt chân lên thang phía sau xe, đợi bạn
chui vô khoang nói:
"Đ.m. Nhớ mà".
Người lơ chạy vô quán nói: "Xin miếng nước chị
Hai". Không đợi trả lời, thót vô sau nhà. Người tài xế nhấn còi thúc hối,
ló đầu ra ngoài:
"Tính ngủ trong đó sao mày?"
Người lơ xe chạy ra mặt còn nhẫy nước, nhảy bám vào đuôi xe
la lên:
"Rồi, chạy đi".
° ° °
Chiếc xe từ từ ngừng trước đồn dân vệ. Người lính gác trong
chòi canh bắc loa tay kêu đuổi: "Tới trong kia đậu". Chiếc xe chuyển
bánh đi qua hết đoạn đường rào kẽm gai đậu trước quán hớt tóc. Người lơ nhảy xuống
đất kêu vô trong:
"Xuống lẹ lên cha nội".
Một người đàn ông tay ôm bọc giấy dầu, lom khom bước xuống. Tới
đất, người đàn ông muốn trở lên, nói:
"Không phải đây..."
Người lơ đã bước lên bực gỗ đưa tay cản ngang:
"Vậy tía quên hay tía lầm đường rồi. Tía ráng đợi đây
đón xe mà về. Chớ tôi cứ ngừng hoài đợi tía kiếm nhà tới đêm tụi tôi mới về tới
nhà. Cô bác kêu quá trời".
"Cho tôi đi khúc nữa".
"Tía hết tiền rồi. Rồi, chạy đi".
Chiếc xe rồ ga chạy vọt thẳng vào phía rừng cao su sẫm lạnh.
Người đàn ông đứng lại bên đường ngơ ngác. Hắn vận đồ bà ba đen, chân đi săng
đan, tóc cắt ngắn, mặt mũi gồ ghề xanh xao. Hắn ngửa mặt nhìn lên trời trông
chiếc trực thăng từ phía rừng cao su bay tới. Tiếng nổ ù tai, cánh quạt bay cuốn
bụi đất mù một khoảng; cỏ cây ngả rạp. Người lớn, con nít túa ra khỏi nhà ngắm
coi, bọn con nít chạy băng ngang lộ tới đứng bên bãi cỏ, tiếng người kêu gọi bị
gió và tiếng động cơ quạt bay tung mất hút. Chiếc trực thăng đáp xuống nhưng
không tắt máy, nó đậu vài phút rồi lại từ từ cất lên và bay về hướng đồn dân vệ
tránh xa quốc lộ. Trẻ con và người lớn còn đứng lại ngắm và bàn tán. Một vài
người nhìn thấy người đàn ông vận bà ba đen ôm bọc giấy dầu đứng trước quán hớt
tóc. Quán hớt tóc là một bức vách gỗ thùng sữa và hai cây cột ngoài, ba mặt bỏ
trống. Trong quán không có người, thợ đã nghỉ, nhưng vẫn còn một chiếc ghế ngồi
trước một tấm gương đóng chặt lên vách dưới tấm gương là một cái hộc gỗ buộc
treo bằng dây kẽm, không có một vật dụng nào để trên. Người đàn ông ngó thấy mặt
mình trong gương, con lộ, bãi cỏ, mộ đất cao xa mờ; hắn ngoảnh mặt bước tới
quay lưng lại đồn dân vệ hướng về phía rừng cao su. Kế bên quán hớt tóc là một
tiệm chạp phô của người Tàu tới một căn nhà ở đóng cửa, trên các cửa đóng dán
những bích chương và khẩu hiệu tuyên truyền tới một tiệm trữ Âu dược, một tấm bảng
gỗ treo ngang đong đưa với dấu thập đỏ. Qua khỏi tiệm trữ Âu dược là một nền
nhà đổ rồi một khoảng đất vuông cao hơn mặt đồng trồng rau muống, làm chỗ họp
chợ. Trên nền đất có vết cháy đen loang, cỏ vàng úa không mọc được. Sát chợ là
nhà việc, mái thủng, tường lỗ chỗ vết đạn, các cửa sổ bể gãy, tấm bảng treo rớt
chỉ còn một đầu dính trên tường, nhìn vào trong gạch ngói bừa bãi chưa thu dọn.
Nhà kế bên nhà việc cũng bị sập mái trước. Khỏi gian nhà gỗ, dãy phố nguyên vẹn.
Người đàn ông đi qua một tiệm một người con gái Tàu ngồi đọc báo sau quầy hàng;
một tiệm bán sách vở và tạp hóa; một lớp học với mươi bộ bàn ghế và tấm bảng
đen; tiệm sửa xe máy với người thợ đang lui hui sửa ngoài hè. Người đàn ông ôm
gói đứng lại nhìn người thợ làm việc. Anh này chợt ngửng lên toe miệng cười với
người đàn ông nhưng nụ cười tắt ngay tức thời. Anh thợ ngừng hẳn tay ngắm nghía
người lạ. Người đàn ông cố gắng cười, gượng gạo hỏi:
"Giờ này xe còn trở xuống không anh Hai?"
"Có lẽ hết".
Nói xong, người thợ tiếp tục làm việc, bỏ mặc người lạ đứng
ngẩn ngơ nhìn xuống. Một hồi im lặng người đàn ông nói:
"Cám ơn anh Hai".
Người thợ không đáp, cũng không ngó lên. Và người đàn ông lại
bước đi. Kế tiệm sửa xe là tiệm chạp phô của người di cư. Người đàn bà quần áo
nâu răng đen, vấn khăn, mắt hấp háy đứng bên mấy bó củi và tĩn nước mắm ngó người
lạ mặt chằm chằm. Người đàn ông ngó mông sang rừng cao su bên kia lộ. Hắn đi
qua hai căn nhà nữa. Trước mặt căn nhà đóng cửa, đặt một cái lu nhỏ đậy nắp gỗ
và một cái ca nhôm trên tường. Người đàn ông tiến lại bên cái lu, đặt gói giấy
xuống hè, mở nắp lấy cái ca múc nước trong lu uống ừng ực. Uống xong hắn lại
múc thêm một ca đầy đứng xích ra gần lộ để vào tay rửa mặt và cổ. Nước trà màu
nâu đen. Lấy khăn trong túi áo lau khô mặt, hắn đậy nắp lu, mang ca trở lại chỗ
cũ, ôm gói đồ đi tới chỗ tận cùng dãy phố là con đường đất đỏ vắng hoe ngăn cái
quán và rừng cao su. Hắn đứng ở đầu đường đất ngó mông vào xóm, nhìn con lộ chảy
ẩn giữa hai hàng cao su tối. Hắn bước vào quán ngồi bàn phía ngoài, đặt gói đồ
lên một cái ghế. Người đàn bà mập từ sau bếp bước ra nói:
"Hết trơn nước đá rồi. Cà phê cũng hết..."
"Thím cho ngồi nghỉ đỡ đón xe".
Người đàn bà ngó khách từ đầu tới chân. Trong rừng cao su tiếng
ve bỗng kêu từ xa lan tới gần. Người đàn ông ngó quanh khắp quán hỏi:
"Thím có bán cơm không?"
"Không, không có cơm".
Người đàn bà bỏ vô sau nhà. Người đàn ông ngồi thẳng lưng, mó
máy lật cái dây thun buộc gói giấy dầu. Hắn móc trong một túi áo lấy ra một xấp
giấy gói kỹ kiểm lại và đếm những tờ giấy bạc. Mấy tờ giấy năm đồng, mười đồng.
Người đàn bà trở ra hỏi:
"Không có xe hả?"
"Không có. Sợ hết".
Người đàn bà bỗng lắng nghe bảo:
"Có xe be tới đó".
Người đàn ông vội ôm gói đồ chạy ra lề đường. Hai chiếc xe be
kềnh càng rần rần từ trong rừng cao su, xe chạy chậm. Người đàn ông đưa tay lên
cao vẫy kêu: "Cho quá giang..." Hai người tài xế đưa tay vẫy chào và
xe vẫn chạy.
Người đàn ông thất vọng lầm lũi trở vô quán. Từ một trại binh
xa lắc vọng lại tiếng kèn chào cờ buổi chiều. Ve kêu rộn hơn. Người đàn bà hỏi:
"Chú ở đâu tới?"
"Tôi kiếm thằng em của tôi làm đồn điền cao su. Có lẽ
tôi đi lộn xe, mấy năm trước tôi có lên một lần nhưng không nhớ rõ. Tôi nhớ khu
nó ở gần lộ".
"Ôi, đồn điền cao su biết mấy mà kiếm? Đồn điền tên gì ở
đâu mới được chớ?"
"Tôi không nhớ, tới đúng nơi thì tôi biết".
"Chú nói chuyện trời đất không à".
Người đàn ông đặt gói đồ lên bàn, hai tay ngồi ôm lấy nó. Người
đàn bà đột ngột xẵng giọng hỏi:
"Giờ chú tính sao?"
"Tôi không biết tính sao hết. Tôi đón xe".
Người đàn bà cao giọng hơn:
"Chú nói cà rỡn hoài. Giờ này kiếm xe... Chú tính mà mất
toi. Bộ khi không chú ngồi đó không cho tôi đóng cửa tiêm đi ăn cơm hả. Chú
tính chuyện gì? Tôi kêu lính trên đồn tới đây bây giờ..."
Người đàn ông sửng sốt, giật hai tay ôm gói đồ vào bụng ngó
trân người đàn bà:
"Tôi nói thiệt mà thím. Tôi đón xe mà".
"Mà tôi biểu chú không còn xe nữa. Chú tính cách
sao?"
Người đàn ông ngó ra lộ, ra ngoài rừng, nói một mình:
"Ờ. Không còn xe".
Tiếng ve kêu chỉ còn lẻ tẻ, rời rạc xa xa. Trời bắt đầu tím
trên nền bóng núi xa. Người đàn bà tìm quẹt đốt cây đèn dầu hôi mắt vẫn dòm chừng
khách lạ. Một chiếc xe díp vụt ngang ngoài lộ như một cơn gió. Người đàn ông dợm
đứng dậy như tính rượt theo kêu, lại ngồi xuống ghế. Đèn thắp lên. Cửa bên hông
mở ra phía con đường đất bên bìa rừng đã đóng. Người đàn bà đặt cây đèn lên bàn
trong, tiến đến người đàn ông hỏi:
"Giờ chú tính sao?"
Người đàn ông ngập ngừng:
"Thím cho tôi ngủ đậu. Thím làm phước. Mai tôi đón xe về
sớm".
Người đàn bà kêu lên:
"Đâu có được chú. Nhà tôi đâu phải nhà cho mướn. Biết
chú là người thế nào mà cho chú ngủ đậu. Lỡ đêm chú cắt cổ tôi sao? Chồng tôi
đi khỏi, tôi không chứa đàn ông..."
"Thiệt tình mà thím, tôi đi kiếm thằng em tôi. Thím làm
ơn làm phước... Chớ giờ này tôi biết tính sao?"
Người đàn bà suy nghĩ vài giây:
"Bộ chú lỡ đường thiệt à..."
"Thiệt mà thím. Chớ khi không tôi tới đây làm gì".
Người đàn bà lại cao giọng:
"Không được! Chú ở đâu tới, tôi không biết. Chú xin ngủ
dậu, không được. Lỡ đêm có chuyện gì người ta xét nhà, tôi nói sao. Không được.
Tôi thương chú, ai thương tôi. Thôi chú đi đi, cho tôi ăn cơm. Tôi đói bụng rồi".
"Tôi đi đâu?"
"Đi đâu thây kệ chú chớ. Mắc mớ gì đến tôi".
Người đàn ông chậm chạp đứng lên nhưng chưa bước đi. Người
đàn bà tự động lùi lại một bước thủ thế. Người đàn ông nài nỉ:
"Tôi đi đâu? Thím nghĩ coi..."
"Tôi không biết. Mấy người rắc rối lắm... Tôi không kêu
lính trên đồn là may phước lắm".
Người đàn ông ngập ngừng bước ra khỏi quán. Dãy phố và con lộ
im lặng như tờ, chỉ nghe tiếng ve rộn rã và tiếng côn trùng khởi trỗi lẻ tẻ ở
bãi cỏ. Người đàn bà khép cửa quán lại nhưng vẫn còn ló đầu dòm theo người lạ.
Người đàn ông đi trở ngược dãy phố. Trong tiệm chạp phô, gia đình đang ăn cơm
trên bộ ngựa ở ngoài. Người đàn bà vấn khăn đang bới cơm không ngó thấy bên
ngoài.
Người lạ mặt đứng lại trước tiệm sửa xe. Người thợ đã tắm rửa,
thay đồ, ngồi trên ghế ngay trong cửa ôm cây đàn ghi ta đang khẩy. Người đàn
ông đứng lại, rồi tiến tới bên cửa:
"Chào anh".
Người thợ ngừng tay khẩy, ngó lên hỏi:
"Gì anh?"
Người đàn ông đứng trân một hồi mới nói:
"Anh Hai làm ơn chỉ dùm tôi có chỗ nào ngủ đậu một tối,
tôi lỡ đường hết xe về".
Người thợ cười riễu, gác cẳng lên thềm cửa:
"Chỗ ngủ đâu. Anh tới quán kia hỏi coi..."
"Tôi hỏi rồi. Họ không chịu".
"Vậy tôi cũng chịu".
Người thợ lại tiếp tục khẩy đàn và cười một mình. Người đàn
ông vẫn đứng yên tại chỗ:
"Anh Hai cho tôi ngủ đậu. Dưới đất cũng được. Mai tôi đón
xe về sớm".
"Cha này giỡn hoài ta. Tôi đâu quen biết anh".
"Anh cho tôi ngủ đậu một tối thôi".
"Bộ anh cho tôi khùng hả. Cha này kỳ quá..."
Người đàn ông quay mặt về phía rừng cao su trong ấy bóng tối
đã dày. Ngoài rừng trời chạng vạng nhá nhem. Người đàn ông đi tới bên lề đường.
Một vài tiếng đại bác nổ ầm ở xa. Hắn đi vài bước về hướng nhà việc rồi bỗng
quay bước. Trong tiệm xe máy tiếng đàn dạo đến khúc mùi mẫn. Hắn đến trước căn
nhà có đặt lu nước ở ngoài và đứng lại. Nhà cửa đóng kín không thấy ánh sáng. Hắn
gõ nhẹ lên cánh cửa rồi nghe ngóng. Có cả mấy phút không tiếng trả lời. Trong
nhà tiếng niệm Phật rất nhỏ. Hắn đứng đợi nghe tiếng mõ đều đều thỉnh thoảng đệm
tiếng chuông. Trời cứ tối dần. Một hồi hắn lại gõ cửa và sau tiếng ho là tiếng
hỏi nhỏ:
"Ai đó?"
Người đàn ông không đáp. Hắn lại gõ cửa. Trong nhà lại nghe
tiếng hỏi: "Ai đó?" Tiếng động trên cửa và một lỗ hổng tròn được kéo
ngang tầm ngực người đàn ông.
"Ai ở ngoài đó?"
Người đàn ông cúi nghiêng xuống ngang mặt với lỗ hổng:
"Tôi lỡ độ đường".
"Chú kiếm ai?"
"Dạ không, thưa bác con kiếm chỗ ngủ tối nay. Bác cho
con ngủ nhờ".
Bên trong im lặng khá lâu, tiếng thì thào rồi nghe giọng già
cả run rẩy:
"Thôi chú ơi, tôi tu hành chú đừng phá tôi".
"Thưa bác, thiệt tình con lỡ đường. Con đi kiếm thằng em
mần trong đồn điền cao su lại lên lộn xe. Giờ không có xe về. Bác cho con ngủ đậu
một tối. Mai con đón xe về sớm".
"Thôi mà chú, chú kiếm nơi khác. Tôi tu hành mà".
"Không đâu họ chịu cả. Bác làm phước thương con".
"Tôi biết chú nói thật. Nhưng chú thương chúng tôi.
Chúng tôi không làm gì hại ai cả. Chú cảm phiền. Trong nhà chỉ có mấy bà cháu
không có đàn ông. Lỡ ra tội nghiệp, chú ơi..."
"Thưa bác con thật tình. Con không gạt. Con đi kiếm người
em".
Bỗng trong nhà có giọng thiếu nữ ngắt ngang:
"Bà tôi nói thiệt mà. Khi không tới đòi ngủ đậu. Ai mà
tin được. Tụi tôi la bây giờ là lính trên đồn nghe thấy xuống tới".
"Tôi thiệt tình mà cô Hai".
"Thiệt hay không thiệt cũng không ai chứa người lạ trong
nhà".
Một tiếng nổ ầm rung chuyển đất. Lỗ hổng đóng sập lại và tiếng
chân chạy trong các nhà. Mọi cửa đều đóng vội. Những tiếng nổ tiếp theo còn
cách xa. Người đàn ông dáo dác ngó ra đường. Trên trời phía rừng cao su trái hỏa
pháo bắn vọt lên lơ lửng vài phút rồi tắt. Tiếp theo một trái hỏa pháo khác.
Người đàn ông đứng ôm bọc giấy dầu bên lu nước.
Chim cú
Huệ thức giấc, trời còn tối mù, dường như trước đó cô trải
qua một giấc mộng không nhớ lại được bị vùi lấp trong những tiếng động rầu rầu
rớt đổ choáng váng. Cô mở mắt nằm im trong mùng đoán chừng giờ khắc, phương hướng,
vị trí các đồ vật trong nhà từ trên bộ ngựa. Cái cửa sổ chiếm hết bề ngang mặt
trước, trừ cánh cửa ra vào, hiện dần với hàng song đứng vuông, đặt xéo cạnh,
bên ngoài là hàng hiên rồi tới khoảng sân tráng xi măng che tôn, chỗ đậu nhờ tắc
xi của chú Bảy, đen thui không nhìn thấy trời.
Huệ lơ mơ sắp ngủ trở lại chợt giật mình. Một tiếng kêu khác
lạ mơ hồ. Cô dỏng tai nghe ngóng. Tiếng mèo gào gọi đực hung bạo trên nóc nhà rầm
rầm, tiếng thở phì phì chống cự khó chịu, những khua động ồn ào làm lãng mất sự
chăm chú. Huệ bất chợt rùng mình, xa hơn những tiếng động phiền nhiễu ấy, một
tiếng kêu ngắn thoảng. Tiếng chim cú kêu. Mấy con mèo đã đuổi nhau đi mất trả lại
sự yên tĩnh, cơn ngủ bay biệt hẳn, Huệ trông đợi. Con chim kêu liền hai ba tiếng
trong sự vắng lặng của đêm tràn ngập. Nó đậu ở đâu? Trên cây gòn khô gần giếng
nước hay trên hàng cây cao rậm ngoài phố hông trước thành lính? Có khi nó ở tuốt
mấy cây ngoài lộ cái không chừng?
Huệ ngồi lên vén mùng, buông thõng hai cẳng mò đôi dép. Đồng
hồ kêu tích tắc đặt trên kệ hàng bên vách lẫn với những ve kẹo bánh. Cô nhẹ
nhàng bước ra mé cửa ngoài, lách tránh những đồ đạc trên lối đi, kéo chốt cửa
chậm chạp sợ gây tiếng động đánh thức bà nội già ngủ ở buồng nhỏ bên trong. Tiếng
phản lực vút tới, ngang qua trời, chói ráy bắt cô khựng lại trước ngưỡng cửa.
Chiếc tắc xi lù lù, án tầm mắt. Không khí ươm hơi gió ướt. Đợi cho tiếng máy
bay khuất, Huệ thủng thẳng ra ngoài, khép cửa sau lưng, men bên chiếc xe hơi tới
cây cột chống mái tôn ở rìa ngoài đứng lại. Mặt đất mờ mờ phân biệt với gốc ổi
thấp, cành lá lòa xòa trước sân nhà thầy Năm. Màu trời nhạt sáng hơn những mái
nhà lô xô lầm lũi. Những chòm cây rậm rịt như đám rừng ngoài phố trước thành
lính vượt khỏi các nóc nhà, mỗi mùa mưa ít nhất một lần những ngọn cao nhất bị
sét đánh nháng lửa đôi lúc bốc khói cháy âm ỉ cả mấy bữa, chim thường ríu rít
trong đám lá những buổi sáng khô ráo, buổi trưa mùa nắng im gió nghe tiếng chim
lạ đơn độc hót những khúc ngắn lập đi lập lại. Con đường ngoài đó không nhà ở
chạy dài cả trăm thước với trại lính một bên, gò mả một bên, trại lính dây thép
gai rào kín, bót gác cao lênh khênh mái lụp xụp, sân đất trống trơn bị vây ở giữa
những dãy nhà vách ván mái lá, đám gò mả bờ bụi gai góc, cái xây gạch đá rêu
phong đen đủi, cái lún thấp gần bằng mặt đất.
Huệ vịn tay vào cột, đón tiếng chim kêu. Có lẽ nó đã bay mất.
Tiếng chó sủa từng chập, mấy con mèo rượt nhau sâu thêm vào trong xóm, máy bay ầm
ĩ ở những vùng xa, chuột chạy loạt xoạt trong các vách lá. Những kẹt hẻm len giữa
hai căn nhà mở như cửa ngõ của bóng tối. Khoảng lộ cái chạy ngang ngoài đầu ngõ
sáng khô trong ánh điện. Huệ tiến thêm hai ba bước đứng giữa lối ngõ, quay mặt
vào trong xóm mịt mùng. Trời lốm đốm sao, ngôi sao Mai rõ ràng trên nóc nhà mụ
Tư Mập điên điên khùng khùng nuôi bọn điếm trong xóm. Mai sáng không mưa, mùa
mưa năm nay tới chậm.
Tiếng động rần rần bủa vây đầu óc như cả một đoàn xe hạng nặng
chạy ngang; Huệ quay mặt ra lộ, cảnh vật say ngủ như chết; cô ngước lên trời
nhìn tia lửa phụt bay giống như sao chổi; hai chấm điện vàng đỏ nhấp nháy như
đom đóm. Ba lần liên tiếp như vậy cách nhau vài giây đồng hồ, những chấn động
trong thinh không úp chụp làm choáng váng cơ thể, Huệ ngất ngư như bị xô đẩy
trong một chuyến xe buýt ních người, tự động dời chỗ hồi nào không hay.
Lúc tĩnh trí, sự im lặng khuya khoắt mở trong cơn gió mơn
man, cơn gió như thổi đến từ nơi nào ánh sáng đã hé rạng, Huệ thấy mình đứng
trước hẻm vào giếng nước, nghe rõ tiếng nước chảy róc rách trong thành giếng tiếng
nước êm ái với những giọt đọng lõm bõm rớt sâu như một đêm trăng sáng. Cây gòn
trơ những cành trụi lá cản lối, những người gánh nước lụp chụp dễ bị vấp té,
cao lênh khênh như người quá khổ; đêm nào một anh chàng Mỹ đi chơi bời say rượu
lớ quớ tránh gốc cây lọt xuống giếng khiến cả xóm hoảng hồn phải kêu nhau thức
dòng dây kéo lên, anh ta thở mạnh ướt loi ngoi, bể đầu chảy máu mà không xỉu, bỏ
đi một ngay. Qua giếng trong hẻm, lối ăn thông sang gò mả là túp nhà của bọn điếm,
con Út, con Bông, con Nam, mấy tên ma cô du đãng, Tám Toọc, Bảy Bằng, Tư Vẹo,
Sáu Nết, nhà cô Sáu thầy bói, anh chàng Tư Quy, làm trưởng khóm chuyên bắt trộm
gà, chó, mèo ăn thịt, rút cắp quần áo treo phơi trong xóm. Hồi năm ngoái, chim
cú cũng kêu cách chừng nửa tháng trước khi Tám Toọc chém chết chú Hai xích lô
máy trong sòng bài cào ở nhà chị Tám; chị Tám ở ngoài đầu ngõ cho bọn điếm mướn
phòng, chú Hai dắt khách từ Sài Gòn về; Tám Toọc bỏ trốn đi lính một hồi, lại
đào ngũ về lấy con Út. Có lẽ con chim cú đậu trong bụi tre bên gò mả kêu báo
cho đám đó. Một đêm nào xóm sẽ nghe la thất thanh trong đêm khuya, tiếng chân
thịch thịch rượt đuổi: "Chết tôi rồi..." chết tôi rồi". Bảy Bằng
bị bắt đưa ra Trung không thấy về, Tư Vẹo bị nhốt trong trại Thủ Đức, Sáu Nết
đi lính Hải quân lâu lâu mới xuất hiện trông nghiêm trang đàng hoàng hơn xưa,
chỉ còn Tám Toọc cái mặt cô hồn thấy sợ, nó vẫn đánh đập con Út mỗi lần con này
không đưa tiền cho nó đánh bạc, là bải hải chạy cùng xóm. Nó sẽ chém người nào
đó hay nó sẽ bị Bảy Bằng thanh toán trả thù nếu Bảy Bỗng thoát về được?"
Nó đã chém thằng Bảy vào chân rồi chạy thoát trước khi lính tới, lính bắt thằng
Bảy và Bảy đã nhắn lời con Nam về tao cho Tám Toọc hay mối thù ấy chỉ trừ Tám
Toọc chết mới chạy khỏi.
Huệ rùng mình ớn lạnh, trên người chỉ mặc chiếc áo bà ba trắng
mỏng, vú không nịt chảy nặng, trong ngực hồi hộp lạ kỳ như quả banh bị bơm căng
trống rỗng. Cô tựa cánh tay lên bờ rào nhà thầy Hai Bắc kỳ cưỡi vét pa làm trên
sở thuế trong nhà có một sinh viên ở trọ, cậu ta thường dậy sớm tập thể dục
ngoài sân, bất thần mở cửa và có thể bắt gặp Huệ đang xớ rớ trước nhà. Huệ sợ
hãi, nhưng không dời chân, đưa mắt kiểm điểm các nhà. Con chim cú kêu ai vậy?
Ai sắp chết đó? Huệ nghe vừa căng thẳng vừa mỏi mệt rời rã, tất cả âm thầm dịu
dàng như đêm tối; tự cười thầm mình không còn phải nhỏ nhít, mười bảy mười tám
gì. Cậu ta sẽ chỉ liếc nhìn không dám lên tiếng, cậu ta không hiểu cũng sợ hãi
tưởng gặp ma. Chính Huệ sẽ nói: "Cậu thức sớm quá há", rồi trở về
nhà.
Tuốt trong xóm, nhà thầy Chín mở đèn, hai cửa sổ mở sáng ấm
áp như một nỗi vui mừng được giải thoát. Thầy Chín tu hành mỗi sáng đều tụng
kinh gõ mõ, trước khi đi làm tận bên Khánh Hội chiều tối mới về nhà, thầy đi một
chiếc xe gắn máy cũ, nhiều buổi phải dựng cẳng chống, gò lưng đạp mươi lăm phút
mới nổ; hai vợ chồng thầy không con, nuôi thằng Hên là cháu làm con. Mới ngày
nào Hên đã lớn trọng, năm kia đỗ Tú tài đi học Sĩ quan Thủ Đức, làm thiếu úy Thủy
quân lục chiến, đánh trận bị thương huy chương đầy ngực. Mấy năm trước nó còn
vô trong quán của Huệ, tập uống la de với bạn, nghe phát thanh tuồng cải lương,
say lè nhè nói: "Cô Ba, cô giống Ngọc Giàu dữ thần". "Thằng ôn dịch,
mày không về mà còn đi phá làng phá xóm tao mét ba mày cho coi". Mới ngày
nào đó thôi, mình đã hơn ba mươi tuổi, mười năm vắng chồng lủi thủi với nội già
trong quán. Ảnh không biết sống chết, nhưng mình vẫn là bà góa..."
Huệ nghe xa tiếng kẹt cửa, thầy Chín bước ra sân lấp ló sau mấy
chậu kiểng. Phía nhà thầy Năm bên ngoài vọng tiếng cãi lẫy gay gắt của đôi vợ
chồng; thầy Năm hiền khô như một cục đất, trước làm lính cứu hỏa sau đổi sang
lính kín, trái với cô vợ hung dữ cờ bạc tối ngày bỏ lũ con nhiều bữa nhịn đói;
mỗi lần ghen tuông cô Năm la hét, đấm đá, cấu xé chồng, thầy lầm lì chịu trận,
cùng lắm là xô cô vợ tránh tròn, sau mỗi lần, thầy ở trần nằm trên võng ngoài
hàng ba ca vọng cổ hay đứng lớ ngớ dòm thiên hạ, mình mẩy bầm tím trầy trụa. Lần
này có điều lạ là thầy cao giọng hơn, tiếng cô Năm cũng vẫn rít lên như thói
quen nhưng không la lớn. Huệ chăm chú, theo dõi cuộc cãi lẫy, trong đêm tĩnh,
nhăn mặt như ngậm phải trái chua. "Đồ đĩ ngựa. Không biết mắc cỡ. Tao mà
không nghĩ tới mấy đứa con thì... mày biết chớ. Tại sao tao lấy nó. Đứng nói nữa
mày. Mày cờ bạc, tao tha thứ được. Thứ đồ đàn bà ngựa độ như mày tao phanh phui
ra thêm mắc cỡ với chòm xóm. Mày thấy tao không nói tưởng tao ngu, không hay
sao mày...". Người đàn ông thắng thế thấy rõ, cô Năm vẫn nói, vẫn kể tội
chồng một cách yếu ớt, giọng lẫn nước mắt thú lỗi. Cô Năm ngoại tình với ai? Thầy
Năm không đả động đến, thầy chỉ cốt dằn mặt vợ. "Mày cờ bạc quá mạng mà...
Tao biết lâu rồi đâu thèm nói..." Cô Năm rền rĩ đau đớn. "Mày đưa tao
mỗi tháng ba ngàn... Mày tính, tính thử coi..." "Ai biểu mày cờ bạc..."
Huệ đứng im, mở mắt nhìn xuyên qua bóng tối, ngực bị đè nén. Gió lao xao các
đám lá đâu đó, trời nhìn quen mắt như chuyển màu nhạt thếch. Tiếng mõ trong nhà
thầy Chín chậm chạp đều đặn. Cuộc cãi lẫy loanh quanh hoài hoài không im.
Trước mặt, sau gốc mít, nhà vợ chồng Hai Sáng, con lóc nhóc một
bầy tám chín đứa; chồng làm nghề chích dạo, vợ nấu cơm tháng, mấy đứa con lớn
mang cơm cho các nhà ngoài lộ mỗi bữa; trẻ con khóc ọ ẹ không ru dỗ. Lát sau mới
nghe tiếng la: "Ngủ đi mày", thằng nhỏ giật mình khóc ré một chập. Huệ
dời chỗ, quay trở về nhà ngang trước cửa nhà thầy Năm, kế bên nhà này là căn
nhà gạch của ông Đại úy, cô em gái đi làm sở Mỹ chưng diện ngất trời; cô này
thường về khuya, gây lộn với chị dâu hằng bữa. Huệ bỗng nghe tiếng chân mang giầy
nặng từ trong xóm ra. Cô bước mau vô chỗ tắc xi đậu, ẩn trong bóng tối dưới mái
tôn, quay mặt nhìn ra ngoài.
Bóng người trong tối nhìn không rõ mặt. Lúc tới gần, Huệ nhận
ra Hên bận đồ Thủy quân lục chiến, đội nón rộng vành uốn cong mép. Cô hỏi khẽ:
"Hên đó hả? Làm hết hồn".
Hên dừng chân quay mặt vô, dáng điệu ngơ ngác kiếm tìm rồi tiến
tới sát bên mép sân xi măng. Huệ tự nhiên lui hai ba bước, dựa vào thành cửa tắc
xi.
"Ủa. Cô Ba phải không, cô Ba?"
Một cơn gió bay giông lào xào ngoài đường lộ, lọt tuốt vô tới
trong mái tôn trên đầu rung lình bình. Cơn gió tắt, bầu trời lại rung động chát
chúa vì tiếng phản lực cơ. Trẻ con khóc ré theo trong nhà nào đó không phân biệt
được. Hên ngửa cổ trông theo tiếng động, mặt hiện mờ mờ trong khoảng sáng hơn ở
bên ngoài, môi như mấp máy.
"Cô Ba thức sớm dữ".
Sự im lặng đậm đặc rớt xuống che phủ tiếng mõ loáng thoáng.
Hên lột nón cầm tay, một chân giậm nhẹ trên đất. Trong mắt của Huệ, ánh đèn nhà
thầy Chín chỉ là một chấm sáng lẫn trong lá cây.
"Hên đi hành quân hả?"
"Dạ".
"Mấy bữa?"
"Không chừng. Đâu có biết trước".
Hên bước lên khoảng xi măng, giầy giẫm nghiến bụi cát nghe buốt
sắc, đứng bên vè bánh sau cách Huệ cỡ một sải tay, Huệ nghe được hơi thở chậm
chạp điều hòa của đứa con trai bóng dáng khuỳnh khuỳnh cao lớn của nó che ngang
tầm mắt, dường như nó cười lộ hàm răng trắng.
"Giờ này làm sao đón xe. Hên vô trại?"
"Không. Tới sân bay".
Huệ xích dang xa khỏi chiếc xe, ngó sang nhà thầy Năm, vợ chồng
nhà này đã im tiếng hồi nào. Cả xóm vẫn chưa ai thức dậy. Cô vận dụng hết thính
giác đón những tiếng rì rào bay lượn thật xa tới đỗi chìm ngập trong một cảm
giác bồng bềnh mơ hồ không còn biết nghe được là hiện thực hay huyền hoặc. Đột
nhiên tiếng xích lô máy nổ ròn vọng tới, Huệ rùng mình mở mắt như đã ngủ quên
khá lâu, luồng hơi gió đột lan trong xương sống, cô lao đao muốn té. Đứa con
trai chồm một bước tới bên cô, đưa tay nắm giữ cánh tay. Thân Huệ rung rẩy lạnh
toát, ngực thở dồn như sắp đứt hơi.
"Cô Ba..."
Tiếng kêu mau và nhỏ như một mũi kim xuyên chích vào da thịt
tê dại. Huệ chập choạng thụt lui, tới bên bộ ván ngoài hàng ba ngồi xuống, bàn
tay đứa con trai vẫn bám chặt vào bắp tay cô và nó bị kéo theo. Cô cố gắng hết
sức kềm chế hơi thở sắp tuôn bay hết ra khỏi ngực, nhắm mắt lại cho đầu khỏi đảo.
Đứa con trai buông bắp tay chụp mau lấy bàn tay trên ván khiến người cô hụt
không muốn vững. Nó vuốt ve một bàn tay lạnh ngắt, bỗng kêu hoảng hốt:
"Cô Ba..."
Huệ thở nóng rát phà ngay giữa mặt, nhưng toàn thân Huệ vẫn lạnh
cứng như chườm đá. Đứa con trai có lẽ sợ hãi, nó buông bàn tay, lụp chụp rối
rít nắn bóp khắp tay chân, Huệ vẫn không có phản ứng nào hơn là cơn rét run rẩy
bắt phải rên rỉ đau đớn.
"Cô Ba..."
Đứa con trai rờ lên ngực, lên mũi, lên trán. Huệ nghe như
mình không còn mặc áo trên người, đôi vú đau cứng như hồi nào căng sữa. Cô rán sức
muốn lết vô trong để dựa lưng vào hàng song không nổi, lắp bắp không ra tiếng.
Đứa con trai kêu í í trong ức như tiếng con chó, rồi bỗng nó gục mặt xuống rúc
đầu giữa hai bắp đùi ôm cứng lấy chúng, người cũng run lật bật như khóc. Xương
sống Huệ ngay đơ, mỏi rời, mồ hôi tháo đầm ngực gây ớn, cô đưa tay tính đẩy đầu
đứa con trai nhưng những ngón tay co rút bám chặt lấy những sợi tóc khô khi
nghe cơn rung động truyền sang như ngọn lửa thổi lém ở ngoài đang làm tan băng
giá.
Huệ rùng mình liên tiếp, ứa nước mắt, cơn lạnh đang bị đẩy
lùi và cơn sốt bốc lên dần trên đầu. Cô từ từ hé mắt, thấy mình ngồi buông
thõng cẳng bên mép ngựa, Hên quỳ dưới đất úp mặt vào giữa lòng cô, vòng tay ôm
ghì hai bắp chân, thở hiền hòa như đang ngủ. Cô lấy những ngón tay làm lược gỡ
mái tóc bờm xờm, êm ái; bây giờ hơi lạnh gây gây ngoài da, thấm trên chiếc áo
bà ba mỏng và trong thân sự nồng ấm chậm chạp lan đón chống chọi. Hên quay nửa
mặt đưa mắt ngó lên; hai tay rớt xuống ôm đôi bàn cẳng còn tê lạnh. Huệ khẽ động,
thấy mình có thể nhúc nhích được.
Ngoài đường tiếng xe chay huyên náo dồn dập tưởng như trời đã
sáng bét. Huệ bất ngờ xô mạnh đầu đứa con trai, rút cẳng lùi tới hàng song, Hên
sực tỉnh ngó dáo dác. Xung quanh vẫn tối thui, nín lặng hoàn toàn, không còn cả
tiếng mõ thầy Chín. Huệ thở dài, hơi thở bám nóng quanh mặt, những giọt nước mắt
khô rát.
"Hết giới nghiêm rồi".
Hên chậm chạp chống tay trên mép ván cập kệnh đứng trở dậy,
cúi lượm chiếc nón rớt, tần ngần chụp lên đầu, chưa muốn dời bước. Bóng tối
loãng nhờ trong ngọn gió phe phẩy làm mọc ốc cùng mình. Huệ có thể nhìn thấy những
vết rằn ri trên bộ đồ trận của Hên. Cô co hai đầu gối che ngực, vòng tay ôm lấy,
bên bắp tay bị nắm giữ còn đau ê ẩm, nghĩ thầm: mình bị trúng gió, đau tới nơi
rồi. Hên vẫn đứng sững như trời trồng không nhúc nhích cục cựa. Bất thần nó
xoay mình đi mau không ngó lại sau, tới đứng dưới gốc đèn đầu ngõ, bóng chiếu gẫy
trên bức tường của tiệm sửa xe. Ngoài lộ không một tiếng xe qua.
Huệ giẫm chân xuống đất yếu ớt, lò mò tìm đôi dép sút văng mỗi
nơi một chiếc. Cô đang lui cui quan sát mặt đất, bỗng nghe tiếng nổ buốt óc,
ngã nhào ngực tức nghẹt, mắt mở trừng. Xung quanh nhiều tiếng động lịch kịch
trong các nhà. Không biết bao lâu, cô thở lại được, hoàn hồn bám lấy cửa xe tắc
xi đứng lên, người nghiêng ngả như say rượu. Một vài tiếng chim lích chích trên
cây cao. Ngõ sáng hơn vì nhiều nhà thức dậy, cô nghe tiếng chị Tám mở cửa nói lớn
một mình: "Ngay ngoài ngõ mình thôi". Cô trông ra ánh đèn vàng chiếu
tỏa trên quãng đường mờ mờ như một làn sương mỏng, vắng vẻ hiu quạnh như đang
còn nửa đêm. Dưới gốc đèn một bóng người ngồi ủ rũ ngủ như quên không thấy đầu.
Cô lắp bắp rên rỉ không ra hơi, thốt la vang hàng xóm:
"Thằng Hên... Thằng Hên..."
Huệ té khuỵu xuống đất, va mạnh xuống thềm xi măng đầu bốc
ngùn ngụt như đám cháy ngon trên cỏ và lá khô, thân thể như bị bầm dập khắp nơi
sau một cuộc tra tấn dã man. Dưới lưng tiếng động của chân chạy hỗn loạn.
Mỗi người
Ông Ba dậy sớm, lúc Ngọc Anh còn ngủ. Sau một đêm trằn trọc với
những hồi tưởng miên man, ông chỉ chợp mắt chút xíu hồi gần sáng khi con ngựa của
thằng Bảy ở phía sau nhà thuộc xóm Lách đã thức giẫm chân lộp cộp trong buồng
và mộng thấy Lệ Thu; đã hèn lâu ông không gặp nàng, nàng không thay đổi, vẫn bận
bộ quần áo ngày nàng nhắm mắt lìa trần, dáng điệu lịch sự như ngày ông gặp nàng
tại Nam Vang, nàng kêu ông: "Anh Ba, anh Ba, anh còn nhớ tới em
không?" Và ông khóc nói: "Em ôi, chị Hai chết rồi"; Lệ Thu gật đầu:
"Em mới gặp chị Hai, chị sắp tới đó"; rồi biến mất, ông giật mình mở
mắt mồ hôi tháo dầm dề; ông Ba nghe mình già mau thêm nhiều tuổi nữa. Ông tự hỏi
bao giờ Lệ Thu trở lại thăm ông nữa, ngày nàng mới chết hầu như đêm nào ông
cũng được gặp nàng nhưng bây giờ một hai năm mới thấy lại mặt một lần, nhiều
đêm liền ông tơ tưởng hoài đến nàng hy vọng khi ngủ thiếp nàng xuất hiện nhưng
vô ích; bây giờ nàng về vào những lúc ông không ngờ, không chờ đợi để lại cho
ông những buổi sáng ngơ ngẩn trống trải.
Ngọc Anh nằm xoay lưng ra ngoài, sát trong tường chân duỗi
dài gần đụng thành giường. Ngày Lệ Thu chết nó nằm chưa hết phân nửa giường,
ông Ba nói nhỏ một mình: "Lê Thu ôi, chị Hai chết rồi..." Ông vô
trong nhà sau rửa mặt không muốn nghĩ tới giống gì nữa, hai cánh tay trần của
ông dây gân ngòng ngoèo xanh biếc. Những cây kim vàng không rõ cũng đã biến
đâu, ông thử gồng gân lần nữa, không chút hy vọng, chúng cũng không nổi lên; những
cây kim vàng biến mất là điềm báo hiệu tai họa xảy tới cho ông. Nhưng không ngờ
đó là chị Hai. Thiệt không ngờ.
Ông trở vô nhà, mở tủ kiếm bộ âu phục, đôi giày da đỏ, chiếc
nón nỉ xám, chiếc cà vạt đen ít khi nào dùng tới; có lẽ từ hồi năm ngoái lận,
khi Ngọc Anh đậu Trung học, là lần cuối cùng ông bận bộ đồ này đưa nó đi ăn nhà
hàng trên Sài Gòn. Bộ quần áo thơm mùi long não, chiếc quần co rút lên tới mắt
cá chân lộ đôi vớ chỉ trắng, giày da khô cứng phải khó khăn mệt nhọc mới đút được
chân vô, chiếc cà vạt vướng nặng quanh cổ. Ông Ba thấy mình già rõ, bước vài bước
gượng nhẹ nghe tiếng giày da ken két. Ông tới bên giường kêu:
"Ngọc Anh. Dậy thôi con".
Ngọc Anh hoảng hốt ngồi lên mặt mũi dáo dác. Ngó ông nó cười
gượng, đưa tay vén tóc nhưng cặp mắt vẫn chưa dời khỏi giấc mơ mà nó nhìn thấy.
"Sửa soạn đi con. Rồi xuống má hai con..."
Nói xong ông Ba không muốn dòm Ngọc Anh nữa, xoay mình bước
ra nhà ngoài chờ đợi. Thợ đã được cho nghỉ từ chiều bữa trước, ông Ba đứng giữa
lối, hai hàng tường gắn những chiếc gương trước ghế ngồi soi bóng những đồ vật
bỏ trống và hình ảnh ông chập chùng xa tắp. Dưới đất vương vãi những mảng tóc
đen. Ngoài lộ đang giờ đi mần xe cộ chen chúc hỗn độn nghe rõ. Ông Ba ngồi xuống
một chiếc ghế dòm vô gương như một người khách hàng lạ mặt. Anh Ba. Anh Ba. Chú
Ba nè... Ba Thuật. Giờ là ông Ba.
"Ba".
Ngọc Anh sửa soạn xong, đứng sau lưng ghế cũng ngó vô trong
gương, nó ngập ngừng như muốn ngó một điều gì. Ông Ba đứng lên hỏi:
"Rồi chưa con?"
Không nhìn kỹ Ngọc Anh, ông Ba cảm nhận có sự lạ lùng ở nó.
Ngọc Anh bước theo sau ông, lo khóa cửa nhà. Trên xe tắc xi xuống Sài Gòn, ông
Ba bình tĩnh thuật lại tai biến xảy ra buổi chiều bữa trước, ông tính để hỏi Ngọc
Anh bữa qua đi đâu tối mới về nhà, cả chiều bữa qua ông không còn thần trí để
nhớ tới Ngọc Anh, ở nhà thương về ông nằm chết trân trên giường, Ngọc Anh cũng
còn vắng mặt, mãi lúc sau ông mới nghe nó xô cửa chạy vào nhà kêu khóc:
"Má hai ôi, ba, má đâu rồi?" Rồi ông cũng bật khóc theo nó. Nhưng cuối
cùng ông lại nói:
"Hồi hôm má con về. Con có gặp không?"
Ngọc Anh thất sắc, tho ló mặt dòm ông, không đáp lời cũng
không tỏ cử chỉ nào.
"Má con đó. Con không còn nhớ sao con? Giờ tới phiên má
hai con..."
Ông Ba cúi đầu, nghẹn ngào không nói nữa. Ông nhớ lúc Lệ Thu
chết, Ngọc Anh còn nhỏ xíu mới tám tuổi, nó nắm tay ông bảo: "Thôi, ba ơi.
Ba đừng khóc nữa". Giờ thì không, nước mắt ông đang tuôn và Ngọc Anh thì
nhìn con đường chạy thẳng phía trước. Ông muốn nghe Ngọc Anh nói một lời nào
đó, nhưng nó im lìm. Lệ Thu, hồn em có bay theo bên anh không? Lệ Thu... Chị
Hai chết rồi.
Ông Ba đưa Ngọc Anh xuống Chợ Cũ ăn điểm tâm. Ngồi trong bàn
ông tĩnh trí hơn, ngó kỹ mặt đứa con gái, da hơi mét, mắt quầng, gò má nhô cao
ngơ ngác, nó cúi dòm mặt bàn. Ông đặt ly cà phê xuống đĩa hỏi:
"Con đau hả Ngọc Anh?"
"Con không sao hết". Ngọc Anh ngước mắt bối rối ngó
lảng ra lộ.
Cà phê ông uống thấy ngon, vị nhạt đắng. Ngọc Anh cũng uể oải,
dĩa xíu mại, món ưa thích của nó từ ngày nhỏ, nó ăn cũng không hết.
"Con nghe trong mình thế nào?"
"Không. Con không sao hết, ba".
Ông thôi không hỏi nữa. Ông trực run sợ nghĩ tai họa còn có
thể tới nữa với ông qua đứa con gái. Bàn tay ông hơi run trông nhăn nheo xù xì
như vỏ cây khô. Ông nắm tay Ngọc Anh đưa nó đi dọc theo lề đường La Som. Khu Chợ
Cũ không náo nhiệt rực rỡ như hồi xưa. Con đường xe lửa điện giữa lộ khuôn
trong hai bờ cỏ không còn dùng tới nữa. Đường nghẹt xe Huê Kỳ, xe tắc xi, xe gắn
máy. Chỉ hàng cây bên lề còn xanh tươi không tuổi tác. Ngọc Anh nhẹ nhàng rút
tay về, nó kiếm cớ vuốt lại mấy sợi tóc vương trên trán. Xưa kia ông dắt tay
con những ngày Chủ nhật đi coi sở thú, nó không dám rời ông nửa bước hoặc đi
coi hát suất trưa tại rạp Aristo hay Nguyễn Văn Hảo. Giọng ca khàn khàn đặc biệt
của kép Duy Lân trong tuồng "Máu nhuộm Phụng Hoàng cung" đóng cặp với
Phùng Há, Ba Vân; tiếng kèn Tàu thổi những điệu Quảng nghẹn ngào não nùng, bộ tịch
nhún nhảy đa tình của cô Bảy, cái miệng chúm chím, cặp mắt long lanh xếch ngược;
bộ tịch khúm núm run rẩy, già lão phều phào của kép Ba Vân. Những ngày ấy còn gần
quá, ông làm trưởng bót Xóm Lách thả dàn cho bọn em út tổ chức sòng me, bài
cào, tài xỉu, bầu cua, công khai hết tháng Giêng sang tháng Hai; chị Hai những
ngày ấy thường biểu: "Tội nghiệp chú Ba nặng lắm, rồi chú coi..."
Nhưng rồi chị ăn chay trường, đọc kinh sám hối sớm tối, không làm mích lòng ai,
không tránh oán hờn giận ai ngay với người đàn ông phụ rẫy, lủi thủi nuôi con,
chị chết không toàn thây, con Hạnh, con Nguyệt đó...; dường như trời phật cũng
ngán thằng Ba Thuật, nó đã ăn trộm bát nhang trong miễu thờ từ ngày nhỏ chơi, vẫn
chẳng thấy ông nào vật nó, bẻ cổ nó đằng trước tới đằng sau; chú Ba, chú thấy
đó... vợ chú trả quả cho chú... Lệ Thu, có thật vậy không, Lệ Thu mỏi mòn kiệt
quệ ròng rã mấy năm chờ chết trên chiếc giường vây kín, chị Hai chị cũng trả quả
cho tôi nữa sao rồi con Hạnh, con Nguyệt, con Ngọc Anh này; phải trở về xa hơn
nữa, hơn nữa... mới gặp Ba Thuật.
Ngọc Anh cũng có vẻ suy nghĩ lung lắm, mặt nó nghiêm trang mất
hết vẻ lí lắc thường ngày. Còn những gì sẽ xảy tới cho tôi nữa, Lệ Thu, tại sao
em không được ở gần anh... Khung cảnh nhà thương buổi sớm càng tăng sự cách biệt
giữa Ngọc Anh và ông. Gian phòng rộng trần trụi, hai hàng ghế đặt song song giống
như ngôi nhà thờ. Thang lầu, hành lang lạnh lẽo âm vang. Một vài tiếng ho khan,
tiếng rên rỉ, mùi thuốc sát trùng nồng. Giường của Hạnh một người khác nằm mở mắt
tho lõ dòm ông Ba khi ông cúi xuống. Ông kéo tay Ngọc Anh đi như chạy, tiếng
giày và tiếng guốc vang động.
Ông Ba hỏi thăm cô y tá tay mang mâm thuốc đang lên thang lầu,
cô ta chỉ tay ông xuống phòng thường trực. Người ta tra sổ cho hay Hạnh đã được
chở vô Chợ Rẫy. Ngọc Anh nằng nặc đòi xuống nhà xác thăm má hai của nó và chị
Nguyệt. Ông đưa nó qua một khoảng sân vào một gian nhà kín mít như căn hầm. Một
người đàn bà ngồi tựa ngay lối vào ôm mặt khóc kể lể với đứa con gái tự vẫn nằm
bên trong vì bị ba nó đánh đập. Ngọc Anh khóc òa theo, ông phải cản không cho
nó áp tới để mở tấm vải trùm xác người chết. Nó bỗng rũ người, quỵ cẳng trong
tay ông, miệng nôn oẹ, mặt xanh xám mắt nhắm nghiền xỉu đi. Ông hoảng sợ không
biết sao, vực nó dìu ra ngoài sân. Mưa lất phất ít hột đập trên hàng cửa kính
sơn trắng trên đầu tường gần mái nhà xác. Ông đặt Ngọc Anh dựa vô tường, giật
tóc mai con, kêu:
"Ngọc Anh. Ngọc Anh".
Ngọc Anh hồi tỉnh, nức nở:
"Ba ơi... Ba ơi".
"Con đi được không? Ba đưa con về nhà nghe không?"
Ngọc Anh cố lấy lại hơi thở điều hòa, lắc đầu.
"Con đau rồi. Con về nhà đi".
"Không, con đi được. Con vô thăm chị Hạnh".
"Ba đưa con về rồi ba vô Chợ Rẫy sau".
Ngọc Anh bướng bỉnh không chịu, nó bước đi không để cho ông
giữ tay ra khỏi nhà thương đứng bên hè kêu tắc xi. Ông bao giờ cũng thua nó,
lúc này nó hung hăng dữ tợn như mẹ nó lúc chỉ còn hai người. Chính ông mệt mỏi,
rã rời và cô đơn quá sức. Sau lúc gắng gượng, lên xe Ngọc Anh ngả đầu; lâu lâu
lại cong gập người ụa khan.
Vô tới Chợ Rẫy, Ngọc Anh như hồi phục hẳn, nó đi mạnh bạo hỏi
thăm kiếm chỗ Hạnh nằm. Hạnh đang được tiếp thêm máu, quanh giường có bác sĩ và
y tá. Băng quấn quanh đầu, bao lấy mặt, xuống đến nửa vai và ngực trông như một
dì phước, màu băng trắng loang máu.
"May quá. Ông là thân nhân phải không. Ông phải để người
nhà ở bên canh chừng có gì chạy kêu tụi tôi". Người y tá thì thào.
Ông Ba ngó Ngọc Anh hỏi ý nhưng nó mải chăm chú ngắm nhìn nét
mặt của Hạnh. Ông kéo tay nó ra ngoài phòng hỏi:
"Con khỏe hẳn chưa? Ba phải về lo công chuyện cho má hai
với chị Nguyệt con".
Ngọc Anh bặm môi không đáp, ông móc túi lấy tiền đưa cho nó,
nó cầm tiền trong tay như người mất hồn. Ông dỗ dành:
"Rồi ba sẽ kiếm người vô thế con".
Nhìn nét mặt Ngọc Anh, ông cảm nhận ra sự lạ, không muốn chần
chờ đứng lại. Ông sẽ hỏi nó khi công chuyện xong xuôi. Ông nghe tiếng chân Ngọc
Anh theo sau, bắt buộc phải dừng lại trên những bực thềm xuống vườn.
"Không lâu đâu. Đừng bỏ đi đâu nghe Ngọc Anh".
Ngọc Anh nhìn ông trân trối hỏi:
"Ba kiếm ai vô thế con?"
Ông ra dấu cho Ngọc Anh theo ông xuống vườn đến ngồi trên ghế
đá bên lối đi để che lấp vẻ bối rối của mình.
"Để ba về coi, Sáu Lòng với Tư Mập sáng nay mắc lo mướn
xe đòn, đi mua đất, kêu bà sư thầy trong Gò Vấp rồi... Để ba coi có đứa nào rảnh
ba kêu. Ờ, để ba biểu con Út. Ráng chút xíu thôi con".
Ông vỗ vỗ vào bàn tay Ngọc Anh đặt trên ghế, mắt nó đỏ hoe,
nó quay mặt chỗ khác. Ông nhấc mình đứng lên, vụt bị Ngọc Anh níu tay bất ngờ:
"Không phải đâu ba. Ba..."
Ông cúi mặt dòm xuống bắt gặp cặp mắt Ngọc Anh năn nỉ.
"Ba, con... Con có thai".
Ông Ba buông người rớt xuống ghế, run rẩy ớn lạnh. Trước mắt
ông bóng nắng nhảy múa, hơi thở hổn hển dồn dập, chân tay ngứa ngáy đau đớn như
những mũi kim vàng nổi lên đang căng dưới mặt da ông không thể còn đấm ngực
mình la hét phá phách đồ vật như ở nhà mỗi lúc ông giận con và không nỡ đánh
nó, không thể đánh nó. Ông chụp lắc mạnh vai con gái, miệng cắn trèo trẹo:
"Ngọc Anh, Ngọc Anh". Mặt nó xám ngoét, nó nức lên vài tiếng và lại
cúi gập mình xuống ụa nước miếng không.
Bỗng dưng cơn giận của ông Ba rơi hẫng mất hút xuống một miệng
hang sâu thẳm, từ đó lùa lên những cơn gió lạnh lẽo ghê gớm, ông buông tay sững
sờ. "Ba. Ba". Ngọc Anh khịt khịt nước mũi. Ông Ba cố gắng hết sức đứng
lên để thoát khỏi cơn băng giá, ông thở dài, rồi bỗng bỏ đi một bước mặc cho Ngọc
Anh kêu gọi phía sau:
"Ba. Ba".
° ° °
Ngọc Anh thoát chạy, giả như nghe có người đang kêu gọi bên
ngoài. Ngọc Anh bỏ Hạnh ở lại trong căn phòng ảm đạm. Năm giờ đồng hồ nó bị vây
nhốt trong đó, Hạnh bằn bặt trong cơn hôn mê, sự sống treo trên những hơi thở
thoi thóp; lâu lâu một y tá đi ngang ghé mắt thăm chừng, buổi trưa Ngọc Anh
cũng không buồn nghĩ tới ăn, ngủ ngồi trên ghế lạc vào trong giấc mộng dữ; trời
vần vũ khuất nắng, dưới vườn một người đàn ông bó bột tới bắp vế, ngồi trên ghế
đá dưới tàn cây, cặp nạng đặt ngã bên cạnh, chiếc ghế Ngọc Anh đã ngồi với ba
buổi sáng, một bên bả vai Ngọc Anh còn ê ẩm vì cái bóp mạnh của ông già; đôi mắt
của người đàn ông là nỗi lãng quên nặng nhọc, gương mặt lạ hỏi chỏng: "Tỉnh
chưa?" Ngọc Anh tới bên giường Hạnh rồi lại trở ra ngồi bên cửa sổ, ba bốn
bận, đây là hình phạt, không khí tĩnh mịch như nơi nghĩa trang, ngoài vườn ve
kêu rền; "Chị Hạnh, chị Hạnh!" Ngọc Anh để mặc nước mắt ướt rồi lại
khô trên má, nó phải trốn sự bỏ rơi độc ác, sự đắm chìm ngộp thở dở sống dở chết;
sự trống trải có sức mạnh ngấm ngầm thúc đẩy bền bỉ, "Ba ơi. Ba tha thứ
cho con", không thể chịu đựng hơn.
Ra khỏi nhà thương, Ngọc Anh nhảy lên chiếc tắc xi vừa đậu
bên hè khách chưa kịp trả tiền. Người tài xế nhìn tò mò. Chuyến xe phải chạy hết
con đường dài đâm suốt ngang thành phố thật lâu, Ngọc Anh không dám nghĩ trở
lui, nắm hai tay vào lưng ghế trước nhấp nhỏm trông xa về phía vòm cây hút hết
tầm mắt. Tại sao lại chính lúc này, phải chính lúc này, không phải hôm qua bữa
kia hay mai mốt? Tại sao, tại sao mọi sự lại chồng chất, trùng lẫn trong một
vài lúc, còn cả bao nhiêu ngày là những khoảng không vô dụng? Tại sao, tại sao
anh biết không Quang? Em đã lớn. Em phải sống đời của em. Em phải quyết định.
Đêm nay anh lên tàu, anh đợi em buổi chiều nay... Quang, anh không biết những
gì đang xảy ra cho em.
Bước xuống khỏi xe, Ngọc Anh đi như trôi trong mộng, bước
theo sự dẫn dắt của thói quen. Mùi sình từ dưới lòng sông cạn bốc lên nhắc nhở
những buổi trưa nắng im lặng tứ bề. Cửa khép hờ, gian nhà bỏ trống. Giấy má liệng
bừa bãi trên sàn, cái giường gỗ còn đó chất một va li da đã buộc chắc dây nịt,
vài chồng sách mấy túi vải đựng đồ. Các bức vách ván nham nhở dán giấy báo,
hình ảnh bìa báo; một tấm kiếng soi bể nửa, một vài câu thơ viết bằng phấn
màu... Ngọc Anh đứng chết trân giữa nhà.
Có tới cả giờ Ngọc Anh ở trong nhà ấy một mình. Sự sợ hãi thấp
thỏm trông ngóng làm quên phứt cái lý do xui khiến tới. Tôi là ai? Ở đây làm
gì? Chờ đợi gì? Nơi này tôi đã tới, đã ở lại, đã trút bỏ quần áo trên mình, trở
thành... Nơi này tôi đã khóc, tôi đã nói: "Em sẽ đâm chết anh, nếu anh bỏ
em..." Quang cười: "Nơi này giờ như không có thực nữa..." sự ảo
hóa của thực tại có sức kiềm chế không cho thoát. Ngọc Anh nhớ tới giấc mộng
trong nhà thương ở bên Hạnh, đứa con gái lăn lộn trên mặt phẳng cứng người mềm
nhũn như con sâu, da nhớp nhúa; nó sợ người ta lấy cây nọc căng hai đầu cho
thân đứt thành hai khúc, Quang cười sằng sặc riễu cợt. Ngọc Anh tưởng tượng lại
cuộc đối thoại với ba dưới vườn, lẽ ra tôi phải nói: "Ba chiều con đi. Con
phải đi theo anh Quang ra ngoài sông Mao. Ba đừng buồn con rồi con sẽ về, tại
sao con lại bỏ ba lúc này?" "Tại sao mai không được sao con? Nó không
đợi con được hay sao? Con không thể hoãn tới mai mốt sao con?" "Ngọc
Anh, không, không phải thế, trời ơi, không êm thấm như thế, đời sống tan vỡ,
chia lìa, đời sống mỗi người là lìa tách..." "Tại sao má hai? Má vẫn
thương con, che chở cho con phải không má? Má chết rồi, chị Nguyệt chết, chị Hạnh
chết, má con đã chết chỉ còn lại ba con và con, và con lúc bắt đầu phải sống..."
Ánh nắng yếu ớt là thấp trên mặt sông, những tiếng vang bên
kia sông nghe ở cao. Trong nhà tắm lộ thiên quây bằng tôn thấp ngang ngực bờ
bên kia đôi vợ chồng đang xối nước tắm cho nhau. Ngọc Anh tưởng tượng đến con
sông Mao, đó là đâu, con sông đó hoang tịch thế nào với những bờ bãi, với ánh nắng
và bầu trời của nó. Tiếng chân ngoài cầu ván cùng với tiếng huýt gió. Ngọc Anh
trông ra cửa. Không phải Quang, đó là người đàn ông ở nhà vẫn thường bỏ đi chơi
mỗi lần Ngọc Anh tới.
"Kìa Ngọc Anh".
"Anh Quang đâu rồi? Em cần gặp anh gấp".
Người đàn ông nghiêng mặt quan sát Ngọc Anh miệng mủm mỉm:
"Nó đi mất rồi".
"Hồi nào?"
"Sáng nay", người đàn ông lơ lửng.
"Sao anh ấy nói tới sáng mai".
Người đàn ông lắc đầu, lơ đãng ngó ra ngoài sông. Ngọc Anh ngồi
phục xuống sàn ván ôm mặt, nghe mình thổn thức nhưng không khóc. Người đàn ông
đi lui đi tới làm rung chuyển sàn gỗ. Từ trong đáy mịt mùng, sự đen đặc khủng
khiếp, tôi làm gì bây giờ.
"Anh ấy có dặn lại với anh điều gì không?"
"Nó đi lúc sáng sớm, tôi chưa ngủ dậy".
"Có phải anh ấy đi sông Mao không?"
"Tôi không biết".
Ngọc Anh ngửng phắt đầu, ngó trừng người đàn ông. Dưới mái
tóc bù rối, cái trán dô, cặp mắt lúc nào cũng như ngái ngủ lim dim, không tiết
lộ một điều gì. Người đàn ông kín bưng như đồ vật. Người đàn ông tìm đưa cặp
sách Ngọc Anh bỏ quên lại bữa qua, Ngọc Anh ôm vào bụng như có điểm tựa vững chắc
hơn.
"Lau mặt đi em. Khóc làm gì cho mệt".
Người đàn ông đưa chiếc khăn tay, Ngọc Anh ngoan ngoãn vâng lời.
Trong im lặng sự hiện diện của người đàn ông đè nặng, Ngọc Anh hoang mang không
biết tính toán lối nào. Một bàn tay nóng như hòn than bóp lấy bả vai ê ẩm hồi
nào, Ngọc Anh rùng mình nổi gai ốc, cổ họng thắt chặt, vùng đứng lên hất mạnh
cánh tay của người đàn ông.
"Ngọc Anh".
"Không".
Ngọc Anh. Không. Nó chống cự với nỗi mê hoảng của sự vật vây
quanh đã nhiễm vào nó, chạy thình thịch trên sàn gỗ. Cửa đóng, Ngọc Anh mò tìm
chốt bắt gặp bàn tay dính cứng như con ma da nhầy nhụa đang muốn lôi cẳng nó xuống
đáy nước. Hơi thở phì phò như bễ than thổi trong cần cổ. Buông ra, tôi la lên
giờ. Ngọc Anh. Không. Ngọc Anh ngồi thụp xuống bưng mặt khóc nức, bụng đau quặn,
mồ hôi tháo dầm mình mẩy.
"Ngọc Anh. Nín đi cưng".
Ngọc Anh cố nén cơn nức nở, cắn chặt lấy môi, ho và ụa khan,
rồi ngồi phệt xuống sàn, biết mình sắp xỉu như buổi mai trong nhà xác.
Sắc trời
1
Tôi như một chất loãng đọng vũng ánh lên màu sáng hắt hiu.
Màu sáng kỳ lạ, lạ quá đỗi nhạt thếch, nín thinh hoàn toàn của trời bên ngoài dần
dần lộ xuất hiện tách rời khỏi cảm giác mù lòa bất định. Bóng tối mở rộng, mở rộng
mãi vào những lớp bóng tối và trong ấy khuôn cửa sổ mờ ảo lồng lấy màu trời.
Lúc này tôi mới rũ bỏ hết giấc ngủ, thoát khỏi trạng thái lập lờ không mặt mũi,
tay chân, thân xác, không một chút ý niệm về nơi chốn phương hướng. Và tôi nằm
im trên giường, không đụng đậy, thân thể trần truồng. Tôi biết tôi đang ở trong
phòng của tôi.
Tôi không nhớ tôi đã trút bỏ quần áo lúc nào. Trong một giấc
ngủ tỉnh ngắn hay trong một cơn mộng du? Tôi cố nhớ lại, cố nhớ lại giấc ngủ đã
qua bằng cách nghĩ đến những hồi mộng. Tôi không nhớ được gì cả, giấc ngủ kín
mít tối bưng như một đường hầm ngột ngạt, cố sức chỉ khiến tôi rớt trở vào cái
trạng thái loãng biến rời rã. Tôi quơ tay chân tìm kiếm, trên chiếc giường hẹp
không thấy quần áo vứt liệng. Có lẽ chỉ là những hành vi tự động, tôi tự nhủ nếu
tôi mắc chứng mộng du, ở một mình thế này thật nguy hiểm, tôi có thể lần mò ra
cửa sổ kia leo lên và rơi từ tầng gác thứ tư xuống khoảng sân sau của tòa nhà
chung cư, một buổi sáng nào thức dậy mọi người sẽ bàn tán về vụ tự tử của một
tên nhà văn nhà báo độc thân. Thật là buồn cười. Và tôi vẫn nằm nguyên phơi
thân trong bầu không khí im khô.
Đâu đó một con trăng non lơ lửng, mọc hồi nào, như trong
quang cảnh một giấc mộng cũ, không biết từ bao giờ, thốt nhiên tôi nhớ rành mạch.
Đó là buổi sớm, trăng chưa lớn, ở bên một bìa rừng, đôi môi thật mềm, thật ướt,
thật bám dính nhìn rõ những đường chỉ nhỏ trên vành cong thưỡi thoa một lớp son
tím mỏng như buổi mai, đôi mắt rối rít như bờ bụi trong cánh rừng bên, đêm vẫn
chưa qua hết. "Monica. Monica. Anh ấy à, anh gàn lắm, anh con nít lắm. Anh
có nhớ năm nay anh bao nhiêu tuổi không?" Tôi cười, tôi nhìn rõ tôi vẫn
thường cười như thế hết sức ngớ ngẩn: "Đàn ông thì ngu đối với đàn
bà", Monique cười ngặt nghẽo: "Ngu, ngu. Non. Tu es poêt".
Tôi nhớ câu nói của một người bạn: "Đối với đàn bà, chỉ có thể giao thiệp
trong hai thế: đứng hoặc nằm, đứng ở ngoài phố và nằm trong phòng, cấm kỵ là ngồi,
ngồi đối mặt là ngu xuẩn". Chúng tôi đang ngồi trên một bờ cỏ, dưới chân dốc,
nghe một thứ tiếng rào rào kỳ quặc. Dường như gió hút ở đâu xa và cũng dường
như một đoạn chuyển gấp trong bản hòa tấu Monique ưa chuộng hay bắt tôi phải
cùng nghe. Tôi nói: "Em có hiểu không?" "Hiểu cái gì?" Tôi
tưởng tôi đang nói tiếp câu nói của người bạn, nhưng không phải. Monique bảo:
"Anh điên cái đầu". Nàng xòe tay ra ngắm nghía, móng nhọn và cũng sơn
tím, cười khinh khích rồi chợt chìa đưa trước mặt tôi như dọa dẫm: "Em có
thể giết chết anh, nếu anh bỏ em". Tôi buồn rầu: "Không, không nên
nói đùa thế". Người đàn bà lúc lắc mái tóc rũ che phân nửa khuôn mặt, người
đàn bà nhỏ thó, bồng nhẹ như một bó cây mềm và tôi ôm lăn thật xa cho chạy
nhanh lên dốc. Monica. Monica. Tôi rượt theo và nửa chừng tôi lẩn trong màn
sáng huyền hoặc, màu của con trăng lúc xanh lơ lúc vàng khè hoang tịch, tôi
đang sống lại chập chờn trong thân xác này như một kỷ niệm, nỗi hoan lạc xa đập
dữ dội pha lẫn niềm xót xa văng vẳng như nhịp điệu của những câu thơ tôi nghe
chưa thành lời.
Tôi ngồi lên. Trời bỗng tối hơn trước, có lẽ con trăng bị mây
che khuất, màu bạc phếch có sắc xỉn. Chắc là trời sắp sáng, nửa đêm thức giấc
thấy bóng trăng sáng rỡ vằng vặc đầu thềm lại tưởng trời đã sáng, tôi hơi rùng
mình liên tưởng đến ánh trăng trong bài thơ cổ. Tôi bước xuống giường, đạp chân
trên tấm mền bèo nhèo rớt xuống sàn, đến góc tường tận cửa ra vào bấm điện. Đèn
không cháy. Tôi sực nhớ bóng điện trong phòng hư cả tuần lễ nay và tôi cũng ít
về nhà buổi tối nên quên chưa báo cho viên quản lý. Gian phòng tối om chỉ là một
khoảng nhá nhem nơi cửa sổ, tôi tiến về phía ấy đứng nhìn ra ngoài. Phía dưới
là một mảnh sân xi măng hình vuông của một ngôi biệt thự, trong sân này có bày
chiếc bàn sắt tròn và những chiếc ghế xung quanh và một cây đu của trẻ con.
Ngoài ngôi biệt thự là hàng cây cao của một con phố vắng. Tôi chợt nhận thấy
không có ánh đèn đường trong các lùm cây, trạm bán xăng bên kia đường im ỉm trống
trải, những ngọn điện yếu ớt thường thấy thắp trong một vài góc nào dưới sân
cũng tắt ngóm: cả khu vực bị cúp điện. Bầu trời bỗng dưng cao nhẹ sáng hơn trên
những hình thể đậm đặc sẫm sịt của khu phố. Tôi đứng áp sát vào tường, làn da
trần còn khô khan hơn cả lớp vôi nữa.
Dưới phố xa vẳng tiếng máy xe nổ inh, tôi giật mình tự hỏi:
Sáng rồi chăng? Nhưng nhìn trời tôi thấy màu xám nhạt đang chuyển sẫm, đầu óc tôi
choáng váng khó chịu. Tôi dán mắt vào không trung, định thần muốn thấy rõ hơn.
Và tôi tuột rơi lúc nào không hay vào giấc ngủ đứng, hình như mắt vẫn mở
nguyên, không rõ bao nhiêu lâu nữa. Tôi bị đánh thức bởi sự căng thẳng rã rời của
thân xác, nó thấy trời thật tối bất ngờ như đêm và rợn người vì cảnh lặng lờ
tuyệt tích mọi dấu hiệu sinh hoạt. Có tiếng giầy đi qua ngoài hành lang. Đế
giày cao gót gõ nghiến trên mặt gạch hoa có cát. Đám vũ nữ trở về sau đêm. Chú
ý theo dõi nhịp bước hấp tấp về phía cầu thang. Nghe tiếng rú kinh hãi lẫn tiếng
cười ròn đùa nghịch vang âm, tôi như vừa tỉnh một cơn mộng dữ: đêm chỉ sắp bắt
đầu, đám vũ nữ bây giờ mới xuống phố. Để kiểm lại nhận định, tôi mở cửa phòng
nhìn ngó bên ngoài: đám vũ nữ đã biến mất. Không một cánh cửa nào mở. Hành lang
tối đen nín câm. Có thể đó là buổi tối không còn ai ở lại trong các phòng, có
thể đó là nửa đêm về sáng và mọi người chưa ai trở về, nếu có một hai người thì
đã ngủ như chết ít nhất phải đến trưa mới ra khỏi phòng. Những tiếng động tôi vừa
nghe chỉ là ảo giác.
Tôi quay vào, mở tủ lạnh kiếm nước uống. Từ trong tủ bốc ra một
làn hơi lạnh ủ lâu hôi nồng khó chịu. Tôi mò mẫm sờ soạng, bò ở trên sàn khắp
gian phòng tìm bộ quần áo ngoài đã cởi bỏ lúc trở về. Tôi đã dời chiếu bạc lúc
nào? Sáng hôm nay, hôm qua hay sáng hôm nào? Tôi đã ngủ vùi trong bao nhiêu
lâu? Cuối cùng tôi tìm được quần áo trong mớ chăn nhầu nát. Trong túi quần may
sẵn còn sót lại điếu thuốc rơi khỏi bao bẹp dí giữa đồng tiền nhồi nhét vội
vàng nhưng không còn lấy một que diêm. Kệ trên đầu giường nằm có rất nhiều vỏ
thuốc lá và quẹt nhưng đều trống rỗng. Tôi vừa cáu giận, vừa mệt nhọc đành ngồi
bó gối ngậm điếu thuốc không trên môi, lia ném những vỏ quẹt qua cửa sổ từng
chiếc một. Bây giờ tôi chắc chắn được một điều: lúc này là vào buổi tối. Tôi
chăm chú trông một đốm sao nhấp nháy ở ngoài trời. Có lúc nó thật rõ ràng sáng
rỡ, có lúc dật dờ bay biến như không hề có ở đó trong góc mặt sát với đường viền
trên của khuôn cửa sổ. Tôi đã ngủ vùi trong bao nhiêu lâu, kể từ lúc dời khỏi
bàn bạc? Mọi cảm giác đều nhạt nhẽo không tỏ lộ một biểu hiện chỉ điểm nào. Tôi
không đói, không khát, không ham muốn.
Nhưng thật sự lúc tôi trở về là buổi sáng hay buổi chiều? Tôi
không sao nhớ rõ rệt. Tất cả mù mờ như sau một đêm say mèm. Tôi chỉ nhớ lúc đứng
lên, canh bạc còn tiếp tục không biết với những ai trong gian buồng chật chội bừa
bãi ngột ngạt khói thuốc lá và mùi hơi người. Một người nào đó nói cho tôi nghe
không nên ra về, có mệt thì lên giường nằm ngủ. Tôi ngả người trên chiếc giường
gần chiếu bạc nhưng khuất ánh đèn, tôi vẫn nghe sự im lặng đè nén thỉnh thoảng
bật lên những tiếng động, câu nói thấp thoáng khi xa khi gần. Mãi lâu sau đó,
tôi chợt không biết từ bao giờ có người nằm chung với tôi. Một người đàn bà –
có lẽ là một người đã tham dự canh bạc – nằm đấu lưng lại nhưng một chân soải
sang gác lên chân tôi. Tôi để yên một hồi sau mới rút mình đứng lên, người đàn
bà trở mình trong cơn mê ngủ với tay như muốn níu tôi lại. Mọi người mải mê với
ván bài gay go, không ai chú ý đến cảnh tượng của chúng tôi và tôi mở cửa ra
ngoài. Tôi nhớ có những cơn gió mát ướt phả vào mặt mũi, màu trời nhờ nhoạng giống
hệt như lúc nãy tôi vừa thức dậy (có thể nào tôi chỉ mới ngủ khoảng mười lăm
phút thôi không?) con phố hun hút với hai hàng cây xanh khua động rào rào. Màu
trời với vẻ thảng thốt bỗng mở rộng chụp lấy tôi khi tôi giật mình vì bước hụt
đứng khựng trên vỉa hè (tôi đã thấy màu ánh sáng ấy ở đâu? Đọc trong thiên
Apocalypse? Trong một phim chiếu bóng?), những cử động máy móc trong khoảnh khắc
tê liệt hoàn toàn, tôi nghĩ mình sắp ngã khuỵu giữa con phố không bóng người,
ngủ dưới gốc cây như người lính tôi đã gặp đâu trước đó. Một người lính nằm ngoẹo
đầu trên bãi cỏ vỉa hè, súng bỏ rơi một bên, trước một công viên, nhắm mắt bình
thản trong khi những người lính khác chạy lăng xăng núp tránh quanh các gốc
cây, chĩa mũi súng về phía tòa dinh thự (Tôi nhìn thấy bao giờ cảnh ấy? Bao giờ?
Cũng buổi sáng hôm nay, hôm qua hay chỉ trong một giấc mơ nào nữa?). Tôi vùng dậy
hoảng hốt thật sự. Một người lính đã đuổi tôi vào trong một lối hẻm, ở đó tôi tựa
lưng vào tường nhìn những cây leo trên rào một ngôi biệt thự, nghe những tràng
súng nổ đì đọp ở đầu phố, thấy một chiếc xe du lịch bốc cháy, một người dời chỗ
núp sau một gốc cây bên hè băng chạy về phía chiếc xe cháy cất tiếng la:
"Kêu xe cứu thương, kêu xe cứu thương".
2
Điện vụt bật sáng, từ dưới phố thấp vẳng tiếng reo hò của bầy
nhỏ. Trong tòa nhà lớn vẫn lặng tờ, ánh sáng vàng đục trần trụi như những mặt
tường. Những khuôn cửa gỗ thụt đóng kín. Tôi đứng giữa hành lang, ngơ ngác với
cảm tưởng được bỏ quên thứ gì. Tiếng sè sè của lòng thang máy bắt đầu di chuyển,
rồi im tắt. Một vài giây thang máy lại chuyển động. Sau khi lục lọi túi quần bắt
gặp chiếc chìa khóa phòng lẫn trong mớ tiền, tôi đi xuống cầu thang. Cái cầu
thang bưng bít quanh co đều đặn giữa các bức vách, ngắt quãng ở mỗi tầng với một
khung cảnh không thay đổi một chi tiết: ngọn đèn sáng chiếu trên mặt sàn hình
chữ nhật gạch hoa vàng sẫm một màu, lối đi vào lồng thang máy và một khuôn trống
mở ra đêm bên ngoài. Ở tầng dưới đất mới thấy đổi khác: khuôn trống bị bít và
phía ấy đặt cái quầy của người quản lý, phía đối diện dựng một bức tường ngang
có cửa vào quán ăn của tòa nhà.
Trong quán bàn ghế bày không. Bước xuống sân tôi bị một bàn
tay nhỏ bé bất ngờ níu lấy. Đứa con gái nhỏ đang đi ngược vào, đứng lại bên cạnh
ngước mắt hỏi tôi đi đâu. Sau lưng đứa bé là mẹ nó, người đàn bà ở phòng đối diện
với tôi. Tôi xoa đầu đứa bé, nói với bà không nên mắng oan nó, tôi vẫn thỉnh
thoảng gặp nó khi thì ở dưới sân với chị người làm, khi thì thơ thẩn một mình gần
đầu cầu thang và tôi vẫn đùa với nó. Lần thứ nhất tôi gặp người đàn bà. Bà nói
vì tắt điện con bà sợ không dám ở trong phòng, bà dẫn nó xuống sân và bây giờ
hai mẹ con trở lên phòng. Người đàn bà nói xong im lặng chờ cho câu chuyện được
nối tiếp. Đứa bé lanh chanh khoe mẹ nó đã mua nến và nó sẽ mang nến đốt sáng
ngoài hành lang nếu điện lại tắt nữa. Nó hỏi tôi có cần nến thắp trong phòng nó
sẽ biếu hai cây. Người đàn bà hỏi tôi: "Ông có biết tình hình thế nào
không?" Tôi bảo không và bà tủm tỉm tỏ vẻ hoài nghi. Tôi xin lỗi người đàn
bà tiến ra cổng.
Trời không nắng, đen thẳm, khô êm. Đã cuối tháng Mười, những
trận mưa cuối mùa chắc hết. Những trận mưa tuần lễ trước xối xả, lê thể đổ xuống
vào lúc nhá nhem thường cầm chân tôi trong quán nước, dưới mái hiên hay trong
quán ăn vắng vẻ, bữa ăn phải bắt buộc kéo dài theo mưa, đọc cho hết tờ báo hằng
ngày hay chuyện trò tầm phào với anh chàng hầu bàn người Tàu nói tiếng Việt
không sõi, không có dấu hiệu nào về một cơn mưa sẽ có thể tới, trời thật trong
với bầu không khí tĩnh lặng dịu dàng của mùa hạ, màu xám bệch của trời đêm cùng
những cơn gió vẩn đục giấu giếm hơi nước như những kỷ niệm chập chờn lởn vởn
khuấy động những buổi tối bần thần đã bay mất tích. (Những buổi tối thừa thãi,
trống trải, không ý nghĩ, không trí tưởng, thui thủi trong một cơn khủng hoảng
ngấm ngầm). Tôi dừng chân mua thuốc lá ở đầu đường rẽ vào một phố sáng. Cô bán
hàng hỏi thăm giờ, mới gần chín giờ. Nhiều cửa hàng vẫn còn mở nhưng phố xá như
khuya hơn. Có vẻ gì lạ thường trong quang cảnh đường phố tôi cảm thấy rõ những
cảm giác ấy tăng thêm sự thống khoái bất chợt của cuộc dạo chơi không định trước.
Hai người thanh niên chở nhau trên xe gắn máy cười nói oang oang, xem phố như
nhà, hỏi nhau về cuộc đảo chính vừa xảy ra. Tiếng cười của họ còn nghe vẳng khi
xe đã rẽ sang phố khác. Tôi cũng cười một mình và ngửa mặt lên trời à một tiếng
nhẹ nhõm. Tôi nghĩ ra câu hỏi về tình hình của người đàn bà ở dưới sân có nghĩa
ấy, tôi chẳng biết gì cả. Đêm qua lúc tôi còn đánh bạc, cuộc đảo chính bùng nổ,
và tôi đã ngủ suốt cả ngày hôm ấy. Tôi thật là mê muội, trên đường về nhà tôi lạc
vào trong khu xảy ra chiến trận, may mắn không hề hấn.
Ở hiệu ăn quen, người ta bảo từ buổi chiều có nhiều người tìm
tôi. Anh chàng bồi bàn khó nhọc vận dụng trí nhớ ngôn ngữ, cử chỉ mô tả những
người đã đến và đưa cho tôi một mảnh giấy của Hòa gửi lại: "Bọn này ở nhà
D". Tôi không thích ngồi một mình và cũng không muốn đuổi theo bọn Hòa.
Tôi không biết đi đâu cả. Cuối cùng tôi nghĩ đến một chỗ thoáng cao, nhìn thấy
trời, những mái nhà, đường phố và có ca nhạc. Đứa bé gác thang máy, ăn mặc quần
áo lòe loẹt độ mũ lưỡi trai, nhe hàm rằng sún cười chào hỏi. Cửa lồng thang mở
và nó đứng ngoài như có ý chờ sẵn tôi. Trong lồng thang, một người đàn bà đứng
thu một góc tò mò nhìn người bước vào, mỉm cười. Tôi nhận ra Thùy, ôm tập sách
hát trước ngực, và hỏi Thùy hát ở đây. Thùy bảo khá lâu mới trông thấy tôi, độ
này tôi ít xuất hiện, tôi ở đâu. Đứa bé quay mặt chăm chú nhìn vào bảng nút điều
khiển thang. Thùy tựa vào thành lồng với dáng ơ thờ lấy điệu, mặt người ca sĩ
trang điểm thật kỹ lưỡng. Tôi khen một câu bâng quơ cho có chuyện. Thùy đáp là
nàng đã già, hai mươi tám tuổi. Tôi định không nói gì nữa, bỗng Thùy hỏi tôi
Bích rồi ra thế nào? Tôi ngớ không hiểu, Thùy cười ròn nhắc lại Bích ấy, Bích ấy
mà. Mãi tôi mới hiểu Thùy muốn hỏi về nhân vật trong feuilleton tôi đang viết
trên báo. Thang máy dừng ở trạm cuối. Chúng tôi còn phải leo lên một tầng cầu
thang nữa, nhà hàng nằm trên sân thượng. Thùy đứng lại trước tấm gương lớn gắn
trên tường ở lối rẽ của cầu thang, ngắm nghía sửa mái tóc và nói mỗi ngày nàng
mất năm đồng bạc mua tờ báo để đọc tiểu thuyết của tôi; một ngày nào nàng sẽ phải
kể đời nàng cho tôi nghe để tôi viết thành tiểu thuyết. Nhìn trong gương, tôi
thấy hình tôi cao lêu đêu đứng sau lưng người đàn bà, mặt mũi lơ ngơ u ám. Thùy
lại nói tiếp nàng thương Bích lắm, Bích là ai. Bích có thật như thế không,
"Thế nào anh cũng phải viết cho em một quyển tiểu thuyết, em chắc chắn sẽ
hay. Đời em cũng nhiều nông nổi lắm", mấy bữa nay, tôi đau sao mà không thấy
viết. Tôi cười bảo đang bí, hỏi ý kiến Thùy cho Bích như thế nào. Thùy ngạc
nhiên hỏi Bích không có thật sao, tôi đáp thật chứ, cho Bích đi tu. Chúng tôi đặt
chân đến cửa đã nghe tiếng vỗ tay lốp đốp ở trong. Thùy cười thật tươi với đám
thanh niên chào đón nàng, rồi rẽ thẳng lên phía sân khấu. Tôi nghe một người gọi
với: "Thùy, Thùy, bữa nay hát chào mừng cách mạng" – lúc ấy một cô ca
sĩ Tàu đang líu lo hát tiếng Ăng lê.
Tôi ngồi sát bên bao lơn, gần những chậu kiểng lớn. Đường phố
nhìn xuống với những ánh đèn rọi không như một cảnh bày sẵn của một nơi xa xôi.
Những ánh điện quảng cáo một hiệu máy may nhấp nháy ở đầu góc phố tít tắp theo
một chu kỳ đều đặn. Tôi bắt đầu bữa ăn trong không khí chìm lắng giữa trời đêm
bắt đầu thấm lạnh. Thùy có một giọng kim sắc mạnh, lần đầu tiên chú ý nghe Thùy
hát, nhưng lúc hạ thấp hay buông lơi thì lại nhòa mòn. Tôi nhớ ngày Thùy mới bước
chân vào nghề, có lần rủ Thùy đi chơi, tôi đã hôn nàng trước ngõ dưới một gốc
đèn sáng như đôi tình nhân chia tay khoảng ba bốn giờ khuya. Thùy run rẩy hãi sợ
một cách vừa ngây thơ vừa đa tình. Một vài lần sau khi tình cờ gặp lại Thùy,
tôi có nhảy với Thùy nhìn sát rõ tận mặt sự thay đổi của người thiếu nữ đã trở
thành ca sĩ các hộp đêm, già dặn tự chủ, tôi không bao giờ hôn Thùy lần thứ
hai. Cách đây không lâu người ta đồn Thùy tự vẫn hụt, bây giờ vẫn theo lời đồn
Thùy sống bán chính thức với một tên tai to mặt lớn của chế độ. Không khí bỗng
nhộn hẳn vì sự xuất hiện không biết từ lúc nào của một đám quân nhân ngồi ở bàn
sát chỗ dàn nhạc. Một nhạc sĩ đứng trước máy vi âm giới thiệu trịnh trọng Thùy
sẽ hát một bài "để tặng những thiên thần mũ đỏ, những chiến sĩ của cách mạng".
Đó là một trong những bài hát ít lâu nay bị cấm đoán, người ta hò reo tán thưởng
nhiệt liệt. Một anh quân nhân nhảy một bước đến chỗ Thùy đứng, làm điệu bộ như
muốn ôm lấy Thùy hôn trước sự cổ võ của đồng bạn, Thùy quay người lại chạy lui
vào trong, đưa tay bịt miệng cười trong khi anh quân nhân tiến đến trước máy vi
âm tuyên bố mình sẽ hát một bài tình cảm. Anh ta lý luận hùng hồn là anh và các
đồng bạn chiến đấu cũng vì tình cảm con người, các anh là những chiến sĩ đầy
tình cảm, từ bữa nay mọi người sẽ được tự do hát những bài hát tình cảm. Bài
hát nhắc nhở cho người ta những gì? Có lẽ rất nhiều điều ở ngoài nó, những điều
đã tan biến từ thuở nào còn vọng lại trong những âm thanh vay mượn của bài hát.
Thùy được mời xuống bàn, ngồi giữa đám người say sưa với men chiến thắng của
mình, họ ép Thùy uống rượu bằng cách hò reo từng nhịp không dứt. Một người nói
rất lớn: "Chốc nữa, Thùy sẽ về nhà ngủ sớm hơn thường lệ vì hôm nay giới
nghiêm, bọn này trở về vị trí tấn công, sáng mai Thùy dậy và thấy mọi sự đã
thay đổi có phải thú không". Dàn nhạc bắt đầu tấu bài từ biệt rồi nhường bầu
không khí cho những náo động của đám khách hàng đặc biệt. Lúc tôi dời chỗ có tiếng
chai cốc rơi vỡ lẫn với tiếng phá. Viên quản lý và mấy anh bồi lăng xăng ở
quanh bàn đông người. Trên cái ống khuếch đại phát ra khúc nhạc quân hành – người
ta mở đài phát thanh thay thế cho ban nhạc sống – tiếp đến bản thông cáo ngắn
yêu cầu dân chúng tôn trọng giờ giới nghiêm.
3
Cốc rượu uống trong bữa ăn đến một lúc làm cho mệt dốc. Tôi đứng
trên vỉa hè, tinh thần vẫn tỉnh táo sáng suốt nhưng chân đuối sức bước hết muốn
nổi. Những ô gạch vuông nhỏ trải dài, một vùng lớn lấp lánh vụn kính vỡ, giấy,
rác và chuột chạy lục đục vào trong những tủ hàng đóng kín dẹp sát vào bờ tường.
Người rịn mồ hôi ớn lạnh. Không còn một bóng người hay bóng xe cộ trên khoảng
đường phố quanh. Tôi cố trấn tĩnh, lấy lại dần hơi thở, chờ cơn mệt đi qua. Tôi
tiếp tục bước, bắt đầu mới thấy đầu óc choáng váng. Tôi nghe tiếng chân tôi, thấy
loáng thoáng những ánh điện đằng xa đẩy hắt lên cao nền thẫm lạnh, càng đi lâu
tôi càng thấy gần giấc ngủ đang đón. Một lúc tôi thấy tôi dừng bước và tòa nhà
sừng sững ở trước mặt. Trên các tầng nhiều phòng đèn thắp sáng. Chưa khi nào
người ta bị bắt buộc phải về sớm như hôm nay, người ta không thể ngủ được vào
giờ này. Hàng ăn của tòa nhà sáng trưng như mở hội, rải rác một vài người ở các
bàn. Mấy vũ nữ họp nhau ăn uống ở cuối phòng, cười nói ầm ĩ nhưng không khuấy động
nổi hết vẻ im lìm cố hữu của gian phòng quá dài. Tôi ghé bar hỏi xin một ly nước
đá lạnh. Một người đàn ông, để ria mép, cravate kéo trễ lệch, ngồi trên ghế, một
tay chống lên mặt quày, vỗ vai tôi hỏi giọng lè nhè: "Thế nào ông bạn? Có
vui không? Dù sao mình cũng phải vui chứ, ít nhất là như thế. Chẳng nhẽ mình lại
bết đến độ, trừ phi ông bạn làm ở trong phủ không kể". Một vũ nữ gọi tôi,
tôi vừa uống nước vừa đưa tay ra hiệu từ khước lời mời: Mệt, lên ngủ đây. Người
đàn ông có ria mép lại hỏi: "Tình hình ông thấy thế nào, lẽ ra đêm nay bọn
mình phải ở ngoài đường suốt sáng mới phải, ai lại bắt mình đi ngủ thế này. Tôi
sẽ thức ngồi đây nghe tin tức, mở máy phát thánh lên xem nào". Hơi thở của
người đàn ông nồng nặc hơi rượu. Tôi bảo hắn uống nữa đi rồi ngủ cho khỏe, mai
đâu có đó. Hắn ba hoa hơn, bồ tèo, bồ tèo ơi, tôi không ngủ nổi, tôi chờ phút
này từ lâu, có ai ra đường biểu tình với tôi không, có ai không giơ tay xem,
hèn, hèn, toàn một đồ hèn nhát, tởm.
Tôi giật mình, nghe kêu tên, ngay sau lưng. Monique đứng ở đó
từ lúc nào mặt xanh xao mệt mỏi dưới ánh đèn ống. Tôi hỏi Monique cần uống thứ
gì, nàng từ chối. Monique bảo đợi tôi suốt buổi tối trong nhà hàng này, nàng chỉ
vừa ra ngoài cho thoáng. Ngạc nhiên không? Ngoài hành lang sắc diện Monique đỡ
xanh xao. Vừa vào trong thang máy, Monique ôm lấy tôi hôn. Sự đụng chạm trộn lộn
cơn mệt đuối với sự ham muốn một cách khó chịu. Tôi hỏi Monique sao chưa về, Đức
đâu, Monique nói đáng lẽ về ngày hôm qua nhưng Đức biệt tích sau buổi ăn sáng
ngoài phố, Đức hẹn buổi trưa đón nàng nhưng mất dạng luôn. Monique hỏi tôi có gặp
Đức không. Tôi đáp hai ba bữa nay tôi không ló mặt ra phố, Monique hỏi tôi làm
gì khổ thân vậy, tôi nhớ nàng chăng, tội nghiệp cưng, tôi cười nói đánh bạc,
hư, cưng hư lắm nhé. Các thớ thịt bải hoải rời rã, tôi sụp vào trong một nỗi buồn
bã đột ngột không đủ trí để cười đùa với Monique nữa. Tôi cầu mong Monique đổi
ý bỏ đi nhưng tôi tự nhủ Monique không còn thể ra đường vào lúc này. Các phòng
phần lớn đều kín cửa nhưng trong hành lang vẫn ồn vọng cái không khí kỳ quặc của
những người bị giam giữ cuồng chân. Tiếng hát nghêu ngao ồm ồm và những tiếng động
lủng củng không hiểu nổi. Tôi loay quay mở khóa trong khi Monique cứ xoay khẽ
gót giầy trên mặt gạch. Monique hỏi có chuyện gì khác thường vậy và tôi đáp tôi
buồn ngủ quá. Monique tưởng tôi nói bóng, cúi sát tai tôi thì thầm cưng sẽ ngủ
ngon. Hơi thở của nàng lay động tôi một chút, nhưng càng khiến tôi bực dọc phải
cố sức kiềm chế cho khỏi đổ quạu.
Mở được cửa tôi như cái máy đi thẳng vào trong nằm lăn lên
giường tưởng có thể thiếp ngay tức khắc. Tôi nghe Monique đóng cửa phòng, mở
đèn. Một lúc Monique kêu tên tôi thất thanh, hỏi tôi ở đâu, tại sao đèn không
sáng. Tôi nói qua giấc ngủ sắp kín mít bóng hư rồi. Làm sao, làm sao bây giờ?
Tôi nói tôi biết làm sao, rồi tôi móc túi lấy quần áo bao quẹt, gượng ngồi dậy,
bật một que cho Monique thấy đường. Monique đến ngồi bên cạnh, thẫn thờ chưa hết
cơn hoảng hốt. Tôi sắp sửa ngủ gật, Monique bảo tôi mở cửa phòng cho đỡ tối và
hỏi trong nhà có thằn lằn không. Cửa phòng mở, ánh sáng ngoài hành lang hắt vào
lờ mờ. Tôi nói giọng xin lỗi buồn ngủ quá và đến đứng tựa bên cửa sổ cho tỉnh.
Đêm im vắng thăm thẳm. Trong óc tôi như lóe sáng điều gì bay qua rất mau chưa kịp
nhìn rõ. Một ý nghĩ hay một ảo giác? Hay chỉ là một luồng hơi lạnh thổi vào mắt.
Monique đã hoàn hồn, đi vào phòng rửa mặt. Tôi tỉnh ngủ chỉ còn rời rạc, tòa
nhà đang im dần, từ các khuôn cửa sổ mở ở các tầng vẫn hắt đều đặn ra ngoài những
chùm ánh sáng tan loãng dần vào bóng tối ở ngoài.
Monique ra đứng cùng với tôi bên cửa sổ, hỏi tôi đang nghĩ ngợi
gì. Làn da mặt của nàng sạch và mát, cọ khẽ bên má tôi. Bây giờ tôi mới nhận ra
nàng mặc một cái áo robe-sac và bên trong không có quần áo lót. Người
đàn bà buông thả và thụ động dưới những vuốt ve ơ thờ theo thói quen, thỉnh thoảng
khẽ rùng mình da nổi gai, bật những tiếng thở nén. Giây lát, tôi đột ngột nhìn
thấy rõ điều muốn tìm, toan nói với Monique. Nhưng nhìn xuống khuôn mặt mờ mờ mắt
nhắm khít không muốn biết gì nữa, tôi lại thôi. Monique tỏ ý thúc giục, rời bỏ
thế thụ động, lôi cuốn tôi. Tôi xốc nàng vào giường, thân thể của người đàn bà
oằn xuống như không còn xương cốt nặng trĩu. Cái giường một người không đủ chỗ
xoay trở. Một lúc sau Monique đã kéo tuột tôi xuống sàn và tôi quay cuồng trong
một thứ nhịp thúc hối chưa hề gặp. Mồ hôi vã nhớp trên da, người đàn bà rên rỉ
nhai cắn khắp hai bên bả vai tôi, cố nén giữ những gì trong cổ họng, trong lồng
ngực, trong thâm sâu sắp muốn thoát tung. Bên ngoài hành lang vang lên tiếng
chân chạy và những tiếng cười vang động. Tôi sực nghĩ tới cánh cửa phòng hé mở
và nằm im nghe ngóng. Monique hỏi chuyện gì thế, tôi bảo cửa chưa đóng, nàng bảo
mặc. Tuy chưa xong, bắp thịt còn trơ cứng sống sượng, tôi vẫn gỡ tay người đàn
bà bảo để tôi gài lại đã. Tôi len lén tiến ra và lấy chân tông vào cánh cửa
đóng mạnh, cửa khóa tự động. Tôi trở vào, Monique vẫn nằm dài trên sàn chờ đợi.
Tôi đặt mình xuống, gối đầu lên tay nàng một cách êm ái. Monique quay sang, ghì
chặt lấy tôi nhưng ôm phải sự lạnh nhạt dửng dưng bất thần khó hiểu. Monique hỏi
cưng sao thế, tôi đáp không hiểu tự nhiên như thế. Những vuốt ve dịu dàng của
người đàn bà đều vô hiệu cũng như những vầy nghịch táo bạo. Không chịu nổi,
Monique nổi giận, lật mình trèo lên thân tôi, muốn truyền cho tôi cơn ham muốn
của nàng. Vô ích. Tôi nằm ngửa, yếu đuối chán nản, bèo nhèo như cái giẻ rách, mặc
người kia giẫy giụa trơ trọi. Có, tôi muốn nói với Monique về điều tôi khám phá
nhưng thấy thật trái khoáy. Mọi lời lúc này đều giả dối, thừa thãi. Mệt nhoài,
Monique cào vào mặt tôi, nguyền rủa brute. Tôi im lặng, không giận, chỉ buồn
bã. Tôi biết là với Monique đã hết. Chúng tôi không còn gì nữa cả. Chừng như
nguôi ngoai, Monique nghe thấu rõ hơn sự nín thinh của tôi trong bóng tối và
nàng xấu hổ. Nàng lui dần, ngả lưng xuống sàn thở dài. Tôi nghĩ tôi phải nói một
câu gì và tôi bảo Monique lên giường nằm, coi chừng dưới này có thằn lằn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét