Khuôn mặt
Gửi Dzư Văn Chất
Đại lộ
Hôm ấy là một buổi chiều mùa đông, cách một năm trước khi Hà
Nội lọt vào tay V.M. Tôi sắp sửa đến thăm Lan thì Vinh gõ cửa. Tôi đã khoác áo
ngoài chỉ đợi ấm nước trên bếp cồn sôi pha cốc cà phê rồi mới ra ngoài lạnh. Trời
thấp và tôi nghĩ có lẽ Lan đã bật điện để đan hoặc sửa soạn cơm chiều vì gian
nhà tối. Tôi sẽ ngồi vào ghế như thường lệ quên cả tiếng kẹt cửa nhẹ nhàng của
Hà ở trường về. Nếu không việc gì bận tôi sẽ ở ăn cơm cùng hai chị em Lan quanh
tấm phản. Trời sẽ tối sâu mãi, Lan tiếp tục công việc, tôi hỏi chuyện Lan hoặc
Hà. Lúc trở về có thể khuya và rơi mưa lạnh. Lan đưa tôi ra ngõ. Chúng tôi nắm
tay nhau và một đôi khi chúng tôi từ biệt nhau bằng cách trao đổi môi hôn.
Nhưng sự có mặt đột ngột của Vĩnh xáo trộn dự tính của tôi buổi chiều không hề
làm tôi khó chịu vì Vĩnh, Ngọc và tôi là ba người bạn tâm giao. Từ ngày Ngọc bỏ
ra hậu phương tôi ít gặp Vĩnh. Tôi chỉ biết Vĩnh bận công việc buôn bán và tôi
cũng có những công việc riêng. Bao giờ gặp nhau Vĩnh hoặc Ngọc cũng là người nở
nụ cười đầu tiên, trái lại tôi rất tiết kiệm sự biểu lộ cảm tình. Vĩnh cởi cái
áo dạ choàng thấm nước đã cũ và hỏi:
"Bận đi đâu không?"
Tôi trả lời gặp Vĩnh là vui rồi còn phải đi đâu. Vĩnh đến hơ
bàn tay – tôi nhận thấy hơi gầy – gần bếp cồn và nhìn thẳng tôi nói:
"Không nịnh đấy chứ?"
Chúng tôi cùng cười. Trong khi Vĩnh lục soát bàn giấy làm việc
của tôi, tôi loay hoay với phin cà phê. Cà phê nhà chỉ còn đủ pha một cốc,
nhưng điều ấy không quan trọng đối với chúng tôi. Chúng tôi xẻ đôi cũng như có
thể chia ba nếu còn có Ngọc. Vĩnh cho tôi biết dạo này Vĩnh thường bận rộn những
chuyến đi xa. Vĩnh hỏi về công việc của tôi. Lúc ấy tôi chưa có ý định thành một
người viết văn. Tô đọc cho Vĩnh nghe hai bài thơ của tôi làm tặng Lan nhưng tôi
không cho Vĩnh biết về Lan. Đọc thơ chúng tôi nhắc đến Ngọc vì Ngọc là một thi
sĩ, theo ý riêng của chúng tôi. Ngọc hay làm thơ và thơ Ngọc tha thiết lắm.
Theo tin tức Vĩnh nhận được thì Ngọc bị giữ và chịu những phương sách thi hành
cho một người thay đổi tư tưởng.
"Nhất là người đó giàu tâm hồn thơ" – Vĩnh vỗ vào
vai tôi và cười.
Tôi và Vĩnh đều phản đối sự bỏ đi của Ngọc nhưng vì trọng sự
chọn lựa của bạn nên chúng tôi không ngăn cản. Vĩnh cầm cốc cà phê chỉ còn cặn
giơ ngang tầm mắt:
"Tiếc không có nó hôm nay. Câu chuyện sẽ vui biết mấy. Vừa
bắt đầu một mối tình và cần nói".
Tôi bảo cần những hơi thuốc lá để nhớ Ngọc được đầy đủ. Tôi
khóa cửa và chúng tôi đi ra đường. Buổi chiều không hiểu bắt đầu từ lúc nào vì
màu trời không sao phân biệt. Những chùm lá tối bí mật và những hàng dây điện mảnh
như tóc. Chúng tôi cúi xuống mũi giầy và lá ở ven đường. Thuốc lá đốt lên nghĩ
đến Lan và cho rằng Lan đang nghĩ đến tôi. Còn gì sung sướng hơn được cạnh một
người bạn thân và biết người yêu đang nhớ đến mình? Vĩnh cho tay vào túi quần
tôi và kéo bàn tay tôi ra ngoài, xen những ngón tay Vĩnh qua những ngón tay tôi
và nắm lại. Vĩnh và Ngọc thường thích nắm tay như thế, tôi thì không, nhưng tôi
không phản đối.
"Cậu sẽ mến Châu, tôi tin chắc như thế. Châu không đẹp
nhưng đôi mắt của Châu hoang đường quá lắm".
Tôi cười:
"Thi sĩ thế".
"Thật đấy, hoang đường quá lắm. Tìm ở thế giới này một cặp
mắt hoang đường và một tâm hồn hiền dịu quả khó nhưng không phải hoàn toàn
không có như thằng Ngọc bi quan. Nếu gặp Châu, nó sẽ phải nhận điều phán đoán của
nó là sai lầm".
Tôi nhớ một lần tôi đã tranh luận với Vĩnh và Ngọc về đôi mắt
của người đàn bà. Vĩnh và Ngọc về một phe cho là đôi mắt của người đàn bà có dự
một phần quan trọng trong tình yêu của người đàn ông, nhưng chưa đủ. Tôi quá
khích nhất định cho rằng đôi mắt của người đàn bà là cửa ngõ đầu tiên độc nhất
để vào tình yêu, người ta chỉ yêu vì đôi mắt và những cái khác đến sau. Tôi nhắc
lại với Vĩnh ý kiến của tôi và Vĩnh nắm chặt tay tôi thêm.
"Tôi gặp Châu trên những chuyến xe hàng về tỉnh nhỏ nguy
hiểm và gian truân. Châu rất can đảm và hy sinh. Châu chỉ còn hai chị em, một đứa
em gái nhỏ còn đi học".
Tôi muốn nói tới Vĩnh tại sao Châu lại giống Lan đến thế. Đôi
mắt hoang đường ư? Cũng có thể nói thế với Lan. Có những buổi tối, biết thói
quen của tôi, Lan pha cho tôi một cốc cà phê. Sau làn khói tím của thuốc lá và
cà phê tôi nhìn vào cặp mắt Lan qua một khoảng không gian nhỏ hẹp gần gũi được
phóng đại. Cặp mắt lòng đen to và sâu, mi mắt hơi sưng lên. Tôi nhìn thấy thật
xa như ở quá khứ một đứa em gái nhỏ còn đi học? Chắc cũng giống Hà, bơ vơ bên cạnh
chị và những đồ đạc trong gian nhà. Tôi thường vuốt mái tóc Hà mềm để theo lối
Nhật Bản và giảng cho cô bé những ý nghĩa của bài học thuộc lòng ngộ nghĩnh. Hà
ôm lấy chân tôi và trong mắt thật cảm động. Tôi hổ thẹn vì vẫn giấu giếm những
điều ấy với Vĩnh.
"Tôi hiểu Châu và Châu cũng rõ tôi. Nhưng chắc là không
được bằng các cậu. Nhân thể đến thăm Châu nhé".
Không ước định với nhau, chúng tôi theo đường đi qua những đại
lộ.
*
Nhà Châu ở một phố nhỏ gần ngoại ô tôi chưa qua lần nào. Đường
không trải nhựa nhưng sạch vì dưới đế giày tôi cảm thấy sự tròn trĩnh của những
viên đá xanh lô nhô mặt đường. Phố gồm hai dãy nhà giống nhau. Tôi dò theo mặt
Vĩnh để đoán nhà Châu. Trời đã sụp xuống đột ngột tôi chỉ nhìn thấy gò má của bạn.
Vĩnh buông tay tôi và tiến lên trước. Đứng sau Vĩnh nhìn qua tấm kính cửa sổ mờ
tôi không phân biệt được gì. Châu đón Vĩnh bằng một chuỗi cười hồn nhiên dài và
ấm. Tôi nghe tiếng cười trước khi gặp mặt Châu và tiếng cười ấy chạy qua da thịt
tôi khiến tôi cảm thấy lạnh.
"Anh giới thiệu với Châu đây là anh Tâm mà anh thường
nói chuyện với Châu".
Châu đứng lui vào bên cửa nhường lối vào vừa chào vừa dò xét.
Tôi không trông rõ mắt nàng.
Nàng mời chúng tôi ngồi xuống những chiếc ghế gỗ có dựa theo
kiểu cũ và điện đã bật lên. Mắt nàng to và sâu, buồn lạ lùng mặc dù lúc ấy nét
mặt nàng đang vui. Có một cái gì quyến rũ trong mắt ấy. Tôi rất kín đáo khi
quan sát Châu.
"Em vừa về chiều nay, anh đến sớm thì không gặp".
Nàng còn mặc trên người tấm áo dài dạ đen.
"Thu đâu?"
"Nó chơi ở trên dì em".
Vĩnh đứng lên đi lại gần Châu nói:
"Chúng ta lên phố đi".
"Ở ngoài lạnh lắm phải không anh?"
Nói câu này Châu có ý muốn tôi trả lời vì nàng nhìn tôi rất ý
nhị. Tôi chỉ hơi mỉm cười và lấy tay lật mấy trang sách. Tôi ngồi gần bàn uống
nước và trên ấy có một cái cặp trẻ con ở dưới là một vài quyển vở và sách.
"Đi gần anh còn ngại gì".
Châu quay người đi nên tôi không rõ ý Châu thế nào. Buồng
không hẹp kê được một bộ phản, một tủ gương đứng, một bàn uống nước và còn thừa
một khoảng rộng làm luôn luôn hơi lạnh. Phía trong là sân tối. Châu đi vào đổi
áo dài. Tôi cầm lấy cuốn sách đã lật và đọc bâng quơ. Cuốn sách giảng về quan
niệm luyến ái theo chủ nghĩa cộng sản. Thấy sự tò mò của mình đi quá xa, tôi đặt
trả cuốn sách xuống dưới cặp. Vĩnh nhìn vào gương và cười với tôi nhưng tôi tin
chắc Vĩnh không chú ý đến cử chỉ của tôi vừa rồi.
Ra đến ngoài trời tối hẳn. Chúng tôi đi dưới ánh điện Châu
khoác thêm áo choàng. Nàng kể cho Vĩnh về cuộc hành trình buổi chiều của nàng.
Xe bị mìn đổ, chết người. Ngày mùa đông lạnh lẽo ở vùng tiền tuyến. Châu rất có
khiếu kể chuyện. Tôi đi bên cạnh Vĩnh chú ý nghe như được nói cho riêng mình. Đến
một ngã tư, Châu bảo Vĩnh:
"Anh biết không, suýt nữa em không về nhé. Có người hứa
bảo đảm đưa em qua bên kia sông".
Giọng Vĩnh hài hước:
"Nghĩa là qua bên kia thế giới chứ gì".
"Đúng rồi, bên kia thế giới" – Châu nói rất ngây
thơ.
"Nghĩa là không bao giờ về" – Vĩnh cười thật vui.
"Mời cô đưa tay, tôi sẽ đưa cô qua bên kia thế giới".
Vĩnh nắm tay và dắt Châu qua đường. Tôi đi sau nhìn dáng
Châu. Tôi nghĩ đến đến cuốn sách tình cờ đọc ở nhà Châu. Tôi tin rằng Châu còn
tất cả sự ngây thơ.
Chúng tôi đi vào hè rộng của đại lộ nhiều cây lớn. Ánh sáng
điện không đủ sức hắt vào hè. Những biệt thự đã ngủ sâu ở trong. Tôi nghe tiếng
giày và giọng của Châu. Một lát, Châu hỏi Vĩnh:
"Anh Tâm ít nói nhỉ?"
Vĩnh hơi suy nghĩ:
"Vì anh ấy là thi sĩ".
"Ồ thi sĩ nghĩa là làm thơ, vậy chắc anh đương làm thơ,
anh đọc cho Châu nghe xem nào".
Cả Vĩnh và Châu đều quay về tôi. Tô bước thêm vài bước. Đến một
chỗ ánh sáng rõ tôi nhìn xuống hè đường. Một dòng số ghi trên viên gạch lát:
1934. Suốt trong buổi ấy tôi chỉ nói một lần như thế này: Viên gạch của bờ
hè đại lộ này hôm nay được 18 tuổi khi chúng tôi đi qua. Tôi tưởng sẽ nghe tiếng
Châu cười, nhưng không trong luồng gió lạnh chỉ có một tiếng Vĩnh. Châu im lặng
lạ lùng. Tôi hối hận vì câu nói vô nghĩa của tôi. Tôi nhìn mãi những viên gạch
đi qua nhưng không tìm thấy dòng số nào nữa, cho đến khi qua khỏi đại lộ ấy.
Vĩnh và Châu lại bắt đầu nói chuyện nho nhỏ. Tôi cố không tin sự im lặng đã qua
của Châu vì tôi không hiểu nó.
Tôi từ biệt hai người ở ngã ba rẽ về nhà tôi. Vĩnh cố mời tôi
cùng đi ăn. Châu đứng khuất sau vai Vĩnh. Nàng cúi chào khi tôi bắt tay Vĩnh.
Tôi vượt qua hàng cây xuống đường và tiếng bước của hai người bắt đầu. Tôi bỏ đại
lộ vào phố nhỏ.
*
Từ ngày ấy tôi không gặp lại Châu nữa. Còn Vĩnh cho đến ngày
Vĩnh mất tích, chúng tôi gặp nhau hai lần. Lần nào tôi cũng đều hỏi thăm Vĩnh về
Châu. Cái cảm giác buổi đi chơi tay ba còn rung động mãi lòng tôi. Và câu nói của
tôi hôm ấy là đầu đề một bài thơ của tôi. Lần thứ hai Vĩnh cho tôi biết là Châu
hoạt động cho ngoài kia. Tôi không ngạc nhiên về điều ấy. Vĩnh tâm sự:
"Châu hay nói dối quá. Tôi không dám tin vào đôi mắt
Châu nữa. Người ta có thể mang một tâm hồn trái nghịch với đôi mắt người ta
ư?"
Tôi quả quyết với Vĩnh rằng Châu không dối, Châu thực thà. Và
nếu Châu có hoạt động cho ngoài kia cũng vì sự thực thà ấy, vì lòng yêu nước nhiệt
thành thiếu ý thức mà thôi. Tôi tin Châu, tin vào đôi mắt Châu. Vĩnh lắc đầu:
"Không, còn những chuyện khác nữa".
Nói xong Vĩnh đốt thuốc lá trầm ngâm. Tôi không muốn hỏi những
chuyện ấy và chỉ cố gắng nhấn mạnh là nên tin Châu, tin đôi mắt của Châu.
Đêm ấy Vĩnh ngủ lại với tôi và đôi mắt của người đàn bà lại
là dịp để chúng tôi tranh luận đến gần sáng.
Vĩnh được dịp phơi bày những sự hiểu biết về phái yếu. Những
lúc ấy tôi biết Vĩnh đang đau khổ dữ lắm.
Mãi sau khi Vĩnh biệt tích, tôi mới hiểu đêm ấy là đêm Vĩnh đến
từ biệt tôi. Đó là vào mùa hè năm sau. Sự biệt tích của Vĩnh đột ngột, gia đình
Vĩnh không hay biết, đến ngay tôi là bạn thân cũng vậy. Mẹ Vĩnh tìm tôi, và nhất
định cho đó là lỗi ở Châu. Bà cụ không biết Châu, chỉ biết Vĩnh có liên lạc với
Châu và Châu hoạt động cho ngoài kia:
"Tôi chắc em nghe lời dụ dỗ của nó mà bỏ ra ngoài kia
hay là bị ngoài ấy bắt".
Tôi cố gắng phân giải cho mẹ Vĩnh biết điều ấy không thể có
được. Vĩnh không bao giờ bỏ ra ngoài. Tôi tin Châu hoàn toàn vô tội. Tô cố an ủi
bà và hứa sẽ dò xét tin tức của Vĩnh. Sau này khi vào đến Sài Gòn, tôi được tin
Vĩnh ở ngoại quốc. Đưa bà cụ ra về, tôi đến Lan. Không khí mùa hè oi ả, chúng
tôi đặt ghế ngồi ở ngõ. Bao giờ Lan cũng với cuộn len đan để tìm sự tương tự với
mắt Châu. Tôi buồn nhớ Vĩnh. Tại sao lại có sự gãy đỗ giữa Vĩnh với Châu? Liệu
tôi với Lan có giống thế không? Tại sao tôi yêu Lan? Mà không yêu Châu chẳng hạn?
Tôi xua đuổi ý nghĩ này. Nhưng tôi cảm thấy sự ngọt ngào từ mắt Lan và giọng
nói tiếng cười Châu buổi ấy lẫn lộn cùng sự im lặng của Châu sau câu nói vô
nghĩa của tôi…
Tôi hỏi Lan giả thử có một cuộc chia cắt đất đai Lan sẽ đi
hay ở lại. Lan ngửng lên rất lâu trả lời:
"Em chưa rõ nhưng có lẽ em ở lại. Nhưng tại sao anh lại
hỏi em như thế?"
Tôi trả lời đó chỉ là câu hỏi và tôi hỏi tiếp giả thử tôi đi
thì Lan nghĩ sao.
"Em không biết. Đó là quyền của anh. Chúng ta chưa phụ
thuộc vào nhau".
Tôi bỗng cảm thấy tôi yêu Lan lắm, yêu muốn phát khóc. Tôi bảo
cho Lan biết tin Vĩnh mất tích. Lan ngừng công việc hỏi:
"Ồ anh Vĩnh mất tích, sao thế?"
Tôi vẫn thường nói về Ngọc và Vĩnh với Lan, nhưng chưa bao giờ
nói về Lan với Ngọc và Vĩnh. Tôi vẫn tự trách như thế là một thái độ thiếu
thành thực.
"Anh có rõ nguyên cớ không?"
Tôi trả lời là không được rõ và tôi cũng kể cho Lan nghe về
Châu.
"Chắc chị ấy buồn lắm".
Khuya lắm tôi mới từ biệt Lan. Tôi không về thẳng nhà mà lang
thang ngoài phố. Tôi nhớ cùng một lúc mắt Lan và mắt Châu trên những lùm cây.
*
Mùa hè năm sau, sự chia cắt đất đai thành sự thực. Cũng như
chúng tôi đã nói chuyện với nhau, tôi quyết định bỏ đi và Lan ở lại. Hình như sự
chia rẽ giữa chúng tôi không đau khổ mấy vì chúng tôi cảm thấy điều đó ngay từ
lâu. Yêu nhau trong thời loạn không bao giờ nên tính đến sự bền vững. Tôi không
nài ép Lan theo tôi cũng như Lan không giữ tôi ở lại. Chúng tôi nhận sự chia
cách thật tự nhiên và chua xót. Căn nhà của Lan lặng lẽ thêm, khuôn mặt Lan và
Hà càng ủ rũ. Lan quyết định trở về quê với cô vì nàng còn người anh lớn đi
theo kháng chiến.
Buổi tối trước khi khởi hành tôi hẹn ăn cơm với hai chị em
Lan và chúng tôi sẽ nói chuyện như thường lệ. Sau khi thu xếp mọi công việc, trời
còn sáng, tôi dạo qua các phố để thu lần cuối những ánh hình kỷ niệm vào trí nhớ.
Và sự tình cờ đã khiến tôi gặp Châu. Nàng gầy hơn lần gặp trước cách đây hai
năm. Nàng đi bên đường và cũng nhìn tôi nhưng có lẽ không nhận ra tôi. Tôi gọi
tên nàng trước. Nàng đứng lại hơi ngạc nhiên. Sau khi tôi tự giới thiệu và nhắc
lại kỷ niệm cũ, nàng tỏ ra vui mừng được gặp một người bạn của Vĩnh:
"Đã hai năm đấy anh nhỉ và anh Vĩnh bỏ đi hơn một năm rồi".
Nàng không thay đổi chỉ gầy đi một chút nên cặp mắt thêm lạ.
Tôi hỏi thăm nàng xem nàng có biết tin tức gì của Vĩnh không và tôi nói thẳng
cho nàng biết nhiều người nghi nàng có dính đến vụ mất tích ấy. Nàng mỉm cười rất
nhẹ và hồi lâu sau nói:
"Nhưng tôi mong rằng anh còn hiểu tôi".
Chúng tôi cùng bước song song trên đường về nhà Châu. Tôi nói
tôi là người bảo vệ cho nàng. Dáng cảm động, Châu hơi nghiêng sang một bên:
"Cám ơn anh".
Tôi hỏi về sự quyết định của nàng trước thời cuộc. Châu nhìn
vào tôi hỏi lại:
"Anh biết là tôi hoạt động chứ?"
Tôi mỉm cười gật đầu, bảo với nàng rằng tuy thế tôi tin ở con
người nàng hơn là những hành động của nàng đã qua hay sắp tới. Nàng cúi đầu đáp
khẽ:
"Có lẽ anh nhận xét đúng nhưng tôi không đi vì nhiều cớ
khác".
Tôi nói với nàng tôi rất hiểu tâm sự những người ở lại. Tôi
so sánh Châu với Lan. Buổi chiều vàng bệch vài phút rồi tắt hẳn. Chúng tôi đi
vào đại lộ cũ. Chúng tôi cùng bước trên bờ hè ấy. Đèn thành phố đã nhoi lên. Đến
một chỗ, Châu dừng lại hỏi:
"Anh còn nhớ một câu anh đã nói ở đây hôm ấy hay
không?"
Tôi nhìn xuống viên gạch. Dòng số 1934 lật ngược trước mắt
tôi. Tôi nói gần như thì thầm: Viên gạch của đại lộ bờ hè này hôm nay được
hai mươi tuổi khi chúng tôi qua. Và tôi nắm chặt bàn tay Châu, hai bàn tay run
cảm động. Sự im lặng này giảng nghĩa sự im lặng hai năm trước.
Tôi đưa Châu về tận nhà, vẫn gian nhà cũ, nhưng không vào.
Tôi bảo với Châu ở cửa rằng tối nay là tối cuối cùng của tôi ở Hà Nội. Châu mỉm
cười và tiễn tôi bằng cặp mắt hằng cửu của nàng.
Tôi không quay về nhà Lan mà đi mãi trên những bờ hè đại lộ.
Sáng hôm sau tôi lên đường khi thành phố chưa dậy.
Isabelle
Lưu ngồi trên chiếc cối đá dưới gốc măng. Con chó già nằm xuống
trước những thân rễ xoài ra chạy trốn. Nước đầy con kinh như buổi chiều chậm.
Bên kia bờ thấp thoáng ánh đèn dầu và tiếng nói. Isabelle phải chết, Isabelle
phải chết. Lưu đến gần vuốt ve con vật già để nó liếm lên tay và chàng vạch bằng
những chữ hoa xuống mặt đất mịn nước mưa những trận qua: Isabelle phải chết. Một
giọng hát trầm, những dây đàn trùng một bản vọng cổ bay qua trên mặt nước.
Nhưng bằng cách nào? Isabelle phải chết, nhất định như vậy rồi, nhưng bằng cách
nào? Phải chọn cho nàng cách chết, một lối chết, một trường hợp chết cho riêng
nàng. Như cho Lưu? Lưu và Isabelle! Có cái gì trong hai tiếng ấy? Isabelle sẽ tự
tử. Nhưng bằng gì? Một viên đạn, liều thuốc ngủ hay mở ngỏ mạch máu cổ tay.
Không. Isabelle không tự tử. Isabelle vẫn đi một mình dọc theo bờ sông trên kè
đá nghiêng, môi phớt hồng. Rồi một quán cà phê hiu quạnh ở đây nó, phải chính
nó, nó sẽ giết Isabelle trước cặp mắt kinh ngạc của người gái già thu
tiền. Phải nó sẽ hạ sát Isabelle, không ai ngoài nó cả, dù
người ấy là Isabelle cũng không có quyền về cái chết của Isabelle. Và cách chết
nữa. Nó sẽ chọn cho Isabelle cách chết. Nó sẽ bắn một viên
đạn vào tim nàng như trong phim trinh thám, không vào giữa trán nàng chỗ chấm
trang điểm của người thiếu nữ Ấn Độ. Nó sẽ bổ vào đầu Isabelle bằng một
cái búa Raskolnikov, như Raskolnikov bổ vào đầu hai người gái già úa héo, nó bửa
đôi đầu Isabelle, người con gái mắt to như hòn bi thủy tinh và đôi môi sẵn
sàng. Bàn tay Lưu đau tê; chàng không để ý con chó già đã nhay bàn tay ấy rất
lâu, dấu đỏ bầm. Lưu đập mạnh tay vào giữa đầu con chó, nó sợ hãi và dúi vào
lòng chàng. Lưu đứng lên lấy chân xóa hàng chữ "Isabelle phải chết"
trước khi theo lối có trong vườn. Con chó già thẫn thờ theo sau. Bài vọng cổ vẫn
đìu hiu lẩn khuất sau hàng dừa và khoảng không gian những cây xanh.
Isabelle nép đầu vào ngực nó và nói:
"Em hoàn toàn thuộc về anh".
"Như?"
"Như em hoàn toàn thuộc về cái chết".
Nó đặt cả hai tay lên cái cổ tròn Isabelle và nâng nhẹ
như ve vuốt. Cho tới khi đôi mắt Isabelle mở to nhìn nó và nó nhìn
Isabelle, trông thấy hai hòn bi thủy tinh đến chết. Isabelle chết.
Lưu thở dài. Con chó già quay trở lại trong vườn, Lưu bước
vào nhà. Đó là gian nhà gỗ lợp ngói kiểu cổ. Những cây cột to và hoành phi câu
đối. Hai bộ phản dày nặng và già như rui kèo, đồ vật, súc vật, người, ở đây.
Mái ngói cao căn nhà rộng Lưu ngồi xuống bàn trước tập giấy trắng. Cuốn lịch xếp
không cần năm tháng không cần thay đổi cùng thời gian, đứng đó. Ngoài đường xa
vọng vào những tiếng kèn ve vang. Lưu nói lên một mình:
"Ồ mình về Sài Gòn chứ".
Để gặp Isabelle. Từ một xó nhà con mèo đi đến phía Lưu ngồi,
nhảy lên nằm cuốn tròn trong lòng chàng rên nho nhỏ.
Bữa cơm ăn bên trái bếp một cái bàn mộc, ở đó trông lên trời
mờ đục hơi nước. Cụ Tám, giáo học về hưu, rót hai ly bia bọt ngầu. Đằng xa cụ
bà lui cui với luống hoa tím. Lưu mời lớn:
"Cụ vào xơi cơm".
Bữa cơm sẽ qua đi với truyện mưa nắng vườn cây và cuộc sinh
hoạt. Nhưng Lưu hỏi:
"Giờ này còn xe về Sài Gòn không nhỉ?"
"Ông tính về?" Cụ Tám hỏi. "Ừ cũng nên về chơi
ít bữa".
Bà cụ vun xong luống hoa trở vào nói với Lưu:
"Trời muốn mưa mà ông đi?"
"Có khi Sài Gòn không mưa".
Bà cụ móc túi lấy tiền đưa cho Lưu và bảo:
"Ông mua dùm tôi với cô Ba ít tấm vé số dưới Sài Gòn, đổi
nơi coi có hên không".
Lưu ngạc nhiên:
"Cô Ba mua giấy số?"
Bà cụ cười:
"Cô ấy muốn trúng độc đắc mà".
Cụ Tám trỏ vào Lưu:
"Cho cô ấy cái số độc đắc này".
Bà cụ tiếp:
"Hay ông có tính thật tôi lo cho".
"Cụ không sợ nay mai thống nhất vợ cháu nó "bắt thường"
cụ sao?"
Mặt bà cụ buồn hẳn, cụ có một đứa con trai tập kết miền
ngoài, nhưng cụ vẫn nói:
"Cô Ba hiền khô à. Cô ấy trông nom cho ông. Tôi sẽ dành
cho hai người miếng đất góc kia cất nhà".
Theo tay chỉ Lưu trông ra những tùm cây xanh.
Đột nhiên Lưu nảy ý kiến:
"Hay cụ cùng đi Sài Gòn với cháu?"
Cụ Tám trợn mắt:
"Ông không có việc gì sao?"
Lưu lắc đầu:
"Cháu sẽ đưa cụ đi dạo đêm Sài Gòn".
"Thôi để ông đi một mình. Tôi không thích, Sài Gòn rộn lắm".
Vẻ lặng lẽ của khuôn mặt lời nói buổi chiều với những tấm phản
dày, mái ngói nghiêng, cột lớn khu vườn rộng đã như thế sáu mươi năm liền không
mệt mỏi. Cụ Tám sinh ra ở đây lớn lên và chắc sẽ chết nơi đây. Vẫn đi dạo những
con đường ấy trong những buổi tối ấy mà không bao giờ chán, cuộc đời là tha thiết
như thế chăng? Bây giờ bà cụ muốn cắt một mảnh thân thể, một mảnh đời ấy cho
Lưu nhưng Lưu còn phải nghĩ tới Isabelle.
Lưu còn nghĩ tới Isabelle.
*
Hai người đứng trên thềm nhà hát lớn bắt đầu hiu quạnh ngó
mông vào những con đường lớn đầy bóng cây và ánh sáng chập chờn gió về đêm giữa
thu. Tấm áo dài trắng dính sát vào thân Yến gầy không có ngực. Khán giả đã về hết,
những lời bình phẩm cũng im xa trên vỉa hè.
Lưu nắm lấy bàn tay Yến, xương xẩu không có lấy chút hơi ấm
và bước từng bực xuống đường. Yến rút tay ra và Lưu cho tay vào túi quần chờ đợi.
Yến cất tiếng hỏi:
"Anh nghĩ thế nào về vở kịch?"
Lưu đếm thầm trong trí bảy bước rồi mới nói một ý nghĩ đã có
sẵn:
"Anh mê tiếng hát trên sân khấu".
Yến chậm rãi:
"Và anh mê luôn cả người hát?"
Lưu biết đã đến lúc phải hút thuốc lá. Ánh diêm xòe rồi vụt tắt,
vỉa hè như sáng rõ lên và đốm lửa nháy trong mắt Yến. Lưu bình tĩnh:
"Quỳnh Giao".
Giọng Yến gần và thản nhiên:
"Người như Quỳnh Giao hợp với anh, phải không anh
Lưu?"
"Người nào? Người trên sân khấu hay người ngoài đời?"
Yến không trả lời mà im lặng. Xác lá khuya khua động trên mặt
đường. Càng sâu vào khuya Lưu càng thấy Yến mỏng như tờ giấy. Mớ tóc uốn rối
lên. Giữa hai người vẫn khoảng cách một hàng gạch. Lưu bỗng thổi sáo một bài
hát Tây cũ kỹ. Yến gắt:
"Em không thích anh khuấy động như vậy".
Lưu bực mình vì bao thuốc rỗng không; chàng vo tròn ném xuống
vỉa hè và đá nó một quãng xa như lừa bóng. Đến ngõ rẽ về nhà, Yến bước thẳng
sang đường không ngó mắt. Lưu gọi:
"Về thôi chứ?"
Yến không đáp. Lưu lẳng lặng theo sau. Đoạn đường còn sâu hút
và tối lạnh. Yến hỏi từ đằng trước không ngoái lại:
"Anh viết xong cuốn tiểu thuyết của anh chưa?"
"Em là vợ anh em phải biết điều đó chứ".
Yến đợi cho Lưu đến ngang hàng nhìn thẳng vào mắt Lưu hỏi tiếp:
"Tại sao anh bỏ dở?"
Lưu buột miệng trả lời cũng không hiểu vì đâu:
"Vì anh vừa tìm thấy một nhân vật mới rất đẹp:
Isabelle".
Yến nghiêm nghị:
"Em nhắc anh mãi là em không thích nói đùa".
Lưu bướng bỉnh cãi:
"Anh không nói đùa. Anh vừa nghĩ tới Isabelle. Ồ!
Israel. Ta sẽ giết mi vì hạnh phúc của mi. Nghe thấy không?" Lưu hoa chân
múa tay như đang đóng kịch trên sân khấu.
Yến nhìn thẳng tiếp tục đi với ý nghĩ của nàng. Lưu cụt hứng
và xuống đường một mình, Yến trên vỉa hè. Đêm Hà Nội bỗng nặng nề những tiếng ì
ầm đâu đây. Lưu muốn quay về nhà chui vào chăn ấm. Yến thức dậy nói lớn:
"Anh có biết tại sao không bao giờ anh viết trọn được
tác phẩm nào không?"
Lưu chán ngấy đến mang tai nhưng vẫn trả lời:
"Vì lẽ giản dị anh không phải là nhà văn chuyên nghiệp,
lúc nào thích thì viết. Mà anh chẳng thích cái gì trọn vẹn cả".
"Không phải. Anh sợ trách nhiệm". Yến gằn giọng.
Lưu bỗng cười ngất, tiếng cười vang động cả chòm cây suốt dọc phố vắng. Nhưng
Lưu im bặt vì thấy tiếng cười vô nghĩa mặc dù nó còn kéo dài trên môi và trong
đầu. Lưu nói:
"Trách nhiệm? Trách nhiệm với ai mới được chứ? Với em?
Hay với hàng phố này? Em phải nhớ anh có thể viết xong và đốt đi cũng chẳng thiệt
hại gì cho ai…"
Yến cắt ngang lời:
"Anh là một thứ raté của cái xã hội này".
Lưu im bứt, không ngờ Yến có thể tàn nhẫn đến thế. Mặt Lưu
nóng bừng tưởng muốn vỡ ra thành nước mắt, cổ họng bị nghẹt cứng. Yến dịu giọng
không nhìn Lưu:
"Anh chui vào tháp ngà sống một mình xa cách mọi người.
Không ai hiểu anh ngay cả vợ anh". Ngừng một chút giọng Yến lại sôi nổi
hơn: "Tại sao lại Isabelle? Cái xã hội chiến tranh đau khổ này không liên
lạc gì với anh hay sao? Lúc nào anh cũng mơ tới một nơi anh chưa đặt chân đến
những người anh không gặp và không cùng sống như họ. Anh có thấy như thế là
không tưởng không? Để rồi anh sẽ chết vô ý thức như con sâu cái kiến".
Lưu xúc động vô cùng muốn la lớn cho Yến thôi không nói nữa.
"Anh biết rằng em rất ngay thẳng. Em vẫn tự hỏi: Không
biết còn cái gì ràng buộc chúng ta?" Yến tiếp.
Lưu trấn tĩnh xong đi sát gần Yến nắm lấy tay Yến, vẫn không
chút hơi ấm nào. Yến không rút tay và Lưu bắt đầu nói:
"Anh cám ơn em đã thành thật với anh. Hôm nay thì anh hiểu
cái nguyên nhân ngăn cách vợ chồng chúng ta ngót năm nay, từ ngày em hoạt động
lại theo lý tưởng của em. Anh biết nhưng anh không muốn nhúng vào vì trọng sự
tin tưởng của em. Nhưng tới bao giờ thì chính em muốn phá đổ sự tin tưởng của anh.
Có thể là em có lý: anh là một thứ raté đầy rẫy trong cái xã hội này,
không tưởng, bất lực".
"Chỉ có điều này anh cần cho em rõ là anh không sống một
mình xa cách mọi người. Anh đã kể cho em biết đó: anh là con hoang, mẹ anh là
đào hát. Đào hát chỉ có những phút sống thực ở những nhân vật mình đóng, ngoài
ra khi sống với mình thì chán chường quá lắm. Anh thừa hưởng cái di sản quý báu
và vô phúc ấy của mẹ anh. Anh chỉ muốn sống và sống được khi anh nghĩ nhập được
với cái sống của kẻ khác. Mẹ anh đuổi theo những nhân vật và chìm vào trong ấy
và không muốn bao giờ màn buông xuống đèn tắt đi. Anh cũng vậy, anh đuổi theo
cuộc đời của kẻ khác muốn nắm lấy, muốn lấy làm mình như thất bại. Ừ anh không
tưởng, raté. Nhưng nếu anh sống cho riêng anh thì anh tự tử từ lâu rồi,
người đào hát sẽ chết rũ khi xa sân khấu. Anh sống bên cạnh em tưởng như xa
cách nhưng thật anh đang cố sống cái đau khổ của em: người con gái mồ côi thiếu
thốn mọi thứ, đã tự cướp lấy cho mình một số vốn tri thức và quay lại trả thù
xã hội. Chúng ta yêu nhau vì chúng ta hiểu nhau nghĩa là chúng ta sống lẫn được
cuộc đời của nhau. Khi đã không thể nào nhập được nhau tất nhiên tình yêu kia
cũng chết đi. Đến bây giờ em không yêu được anh nữa nhưng anh vẫn yêu em tha
thiết vì anh đang sống tất cả cái day dứt vò xé của tâm hồn em như chính trong
thân thể anh. Đau đớn nữa là anh đã cho anh cái ảo vọng muốn rằng tất cả mọi nỗi
đau khổ của mọi người anh yêu anh phải chịu đựng. Chỉ một anh đau khổ là đủ. Có
phải là ngông cuồng không?"
"Isabelle hay Yến cũng thế, hãy trao cho anh cái đau khổ
của em, anh muốn và anh sinh ra để như vậy. Còn nữa, anh nghĩ rằng trong xã hội
phải có những kẻ chết như con sâu cái kiến vô tội hồn nhiên mới làm cho người
ta ghê tởm. Nếu mọi người ý thức và cầm lấy khí giới thì cuộc tàn sát sẽ thản
nhiên và thú vật như thế nào. Nếu cần, anh biết nhận thất bại và mãi mãi là thứ raté".
Đêm ấy Lưu dựa đầu vào ngực khô héo của Yến mà ngủ.
*
Sài Gòn mưa, Lưu bước mau trên vỉa hè phố lớn, nghĩ Sài Gòn
ít mái hiên hơn Hà Nội. Trước hết Lưu dừng lại ở một hàng bán vé số, xé ba tấm
trong ba tập khác nhau. Rồi Lưu tìm đến một tiệm nước sang trọng có âm nhạc
giúp vui vào buổi chiều. Căn phòng đương trống. Tiếng kèn đồng áo não, dương cầm
buồn tẻ và đại hồ cầm như tiếng đập yếu ớt của mạch máu. Tấm màn sau lưng ban
nhạc màu tím của hoa héo. Ghế ngồi trải màu huyết dụ. Điệu Blue buồn, Isabelle
khiêu vũ, chết trong tay nó. Hình như đã xảy ra ở đâu rồi? Bên quầy rượu
là những khách hàng ngoại quốc. Lưu không trông thấy mặt những người đàn bà rót
rượu. Bản nhạc hết rơi vào khoảng trống không nhạt nhẽo. Nhạc công xuống quầy
giải lao. Ngoài Lưu còn năm người khách nữa trong tiệm. Ba người lính thủy dựa
lưng trên ghế dài chéo góc đang nói chuyện. Đôi vợ chồng già, người Việt Âu
hóa, trầm ngâm. Người vợ bưng ly nước cam uống; màu vàng tươi quá không hợp với
bà. Ly người chồng là cà phê nước đá đen trong. Không ai chú ý đến người nữ ca
sĩ đã lên tiếng hát trước máy vi âm. Màu hồng của áo và bài hát kể một sáng
Chúa nhật trời mưa với một đám tang. Nó đi trong đám tang ấy cúi đầu,
nói chuyện với Isabelle trong áo quan:
"Em thuộc hoàn toàn về anh như thuộc hoàn toàn về cái chết.
Em có ân hận không?"
"Không".
"Bây giờ chỉ riêng mình anh chịu đựng đau khổ
thôi".
"Vâng chỉ riêng mình anh thôi".
"Bây giờ anh sung sướng?"
"Vâng, em sung sướng".
"Như?"
"Như hai bàn tay không".
Không ai vỗ tay cả. Ba người lính thủy mỗi người nhìn về một
phía theo đuổi ý nghĩ riêng. Người chồng già ngước mắt lên trần; người vợ trông
ly nước cam. Gần bàn Lưu thêm một thiếu phụ. Nàng mặc áo dài màu hoa cà đơn sơ,
mái tóc rối thân người mảnh. Một thoáng Lưu bất chợt thấy mình đã sống trong cảnh
này lúc nào rồi và người thiếu phụ kia thật quen thuộc. Tiếng kèn đồng xé khoảng
chật hẹp mở đầu khúc nhạc huyên náo. Có thể Isabelle ngồi đúng chỗ ấy, áo mưa xắn
lộ đôi cổ tay tròn trĩnh. Nó ngồi đây và nó đã bước sang
bên Isabelle cúi xuống.
"Thưa cô hôm nay trời mưa thật buồn".
"Nếu không khoác áo choàng. Nhưng tiếc rằng, thưa ông,
tôi lại khoác áo từ nhà" – Isabelle cười ngất.
Mưa đổ mạnh bên ngoài làm xa hẳn tiếng kèn. Lưu bắt gặp cắp mắt
thiếu phụ nhìn chàng. Thiếu phụ cúi xuống ngó mặt bàn, mặt bàn vẫn còn trống
như sàn nhảy về khuya, như sân khấu về khuya. Lưu chợt kêu lên trong trí:
"A! Quỳnh Giao!"
Khi người bồi mang đặt cốc nước lên bàn Quỳnh Giao, nàng trao
cho hắn một mảnh giấy nhỏ. Bên kia người thủy thủ ngồi giữa – còn trẻ lắm – đã
ngửa sau ghế ngủ. Còn hai người bạn cố tình chụm đầu vào nhau thì thầm che khuất
cho bạn. Gian phòng rộng bỗng tỏa không khí hải cảng mà đôi vợ chồng già là chủ
quán, Quỳnh Giao người gái giang hồ thất nghiệp và Lưu gã con buôn khánh kiệt
tài sản.
Anh chàng thổi kèn đồng mặt choắt giới thiệu một bài hát do
khách hàng yêu cầu. Người nữ ca sĩ cất tiếng, giọng vút lên đột ngột khiến anh
thủy thủ trẻ giật mình ngơ ngác. Lưu nhận ra đó là bài hát của vở kịch Quỳnh
Giao đã đóng. Lưu biết mình sẽ nói những gì với Quỳnh Giao sau bài hát này. Ôi
Isabelle! Ta sẽ giết mi vì hạnh phúc của mi. Nghe thấy không?
*
Đi được một đỗi xa khỏi quán nước mà hai người vẫn chưa nói lời
nào. Lưu đã nắm tay Quỳnh Giao tránh một vũng nước – mưa đã tạnh – và giữ im
bàn tay, bàn tay xương xâm xấp mồ hôi giá lạnh. Tới một chỗ rẽ Quỳnh Giao rút
nhẹ tay và nói:
"Tôi cảm động lắm. Không thể ngờ còn có một khán giả nhớ
ra tôi. Đó là lần thứ nhất lên sân khấu và chắc cũng là cuối cùng".
"Cô không biết hôm ấy cô làm tôi xúc động vô cùng?"
"Tôi hay nhân vật tôi đóng?"
Lưu hơi mất tự nhiên:
"Tôi không trả lời được. Điều chắc chắn là không bao giờ
tôi quên được giọng hát và giọng nói của cô hôm ấy".
"Giọng ấy hôm nay còn không?" Quỳnh Giao hỏi hết sức
thản nhiên.
"Vẫn còn".
"Cám ơn ông".
Hai người ra đến bến tàu. Mặt sông lạnh lùng sau trận mưa. Những
thân tàu trầm mình nặng nề trong bóng tối. Bên kia sông một vài đốm lửa trôi vật
vờ.
"Cô có dự định trở lại sân khấu không? Tài nghệ của cô để
quên đi thật uổng".
Quỳnh Giao cười gọn:
"Không có sân khấu để trở lại và chẳng có kịch để
đóng".
Lưu bỗng nảy ý kiến:
"Tôi có kịch cho cô đóng. Tôi sẽ viết kịch".
Quỳnh Giao lại cười:
"Còn sân khấu?"
Lưu khoa tay làm một cử chỉ rộng:
"Đâu chẳng có thể là sân khấu được? Như cô đứng đó tôi đứng
đây trước có thể bắt đầu khai diễn một vở kịch".
Quỳnh Giao thấp giọng:
"Như thế hơi mệt đấy ông ạ".
Hai người bỏ bến tàu sau lưng, ngược vào thành phố theo một
đường hè rộng. Họ im lặng cho tới khi đến một phố sáng hơn. Quỳnh Giao hỏi:
"Ông thử kể cho tôi nghe vở kịch của ông?"
Lưu không suy nghĩ đáp:
"Vở kịch của tôi nhan đề là: Isabelle".
"Cái tên quyến rũ đấy chứ".
"Nhưng nó giết Isabelle".
"Nó giết Isabelle? Nghĩa là…"
Lưu cúi đầu trầm tư. Những ý nghĩ quen thuộc bỗng trở thành
xa lạ không ràng buộc. Lưu, Isabelle. Nó, Quỳnh Giao. Yến, càng không nói
ra được.
Quỳnh Giao vẫn đều bước.
Mưa đã tạnh hẳn từ lâu, không khí trong mát. Lưu hít lấy khoảng
trống vào ngực. Mặt đường bóng căng như ngực dậy thì. Phố nhỏ này hiện lên một
vài mái hiên thấp. Lưu nói:
"Chúng ta hãy tìm một chỗ nghỉ chân".
Đó là một quán cà phê thân mật ánh sáng dìu dịu bàn ghế xinh
xắn, những chiếc phin trắng và nóng. Cho đến lúc mà đầu óc Lưu rỗng tuênh
toang. Lưu muốn khóc nức nở. Trên mặt kính mờ ngăn cách với đường phố Lưu ngó
thấy mặt mình là một kẻ xa lạ. Bây giờ thì Isabelle chỉ còn trơ là một cái tên.
Ba âm cách biệt: I-Sa-Ben. Nó đã ngỏ hết Isabelle. Nó không
phải là Lưu, Isabelle không phải là Yến, hẳn nhiên không thể là Quỳnh Giao. Nước
thừa trong phin tràn khỏi nắp hứng ra bàn và nhỏ xuống sàn, màu đất loãng Quỳnh
Giao nói:
"Theo ý tôi, thưa ông, như thế chưa gọi là kịch được. Đó
chỉ là một cuộc phiêu lưu của tâm hồn trên những miền đất hoang của nó".
"Cuộc phiêu lưu ấy có bao giờ ngừng không?"
"Không".
"Kịch đã bắt đầu từ đấy, thưa cô".
Cuối cùng Quỳnh Giao từ biệt lúc hơn mười giờ. Khi Quỳnh Giao
sang bên kia đường không còn bóng trên mặt kính, Lưu biết không bao giờ được gặp
người đàn bà ấy nữa. Nền trời thấy xuất hiện lốm đốm sao.
*
Mưa buổi sớm làm rầu rĩ thành phố. Hè đường nhớp nháp vắng
người. Những sạp báo chụp lên những tấm tơi kín mít. Lưu mệt mỏi vì một đêm ít
ngủ nhưng không muốn ở lại Sài Gòn. Rời khỏi hàng điểm tâm Lưu và Quang đi nép
qua những mặt nhà đến bến xe. Nước làm mờ khúc phố xa. Quang dắt Lưu băng qua
đường ở ngã tư với một mắt đèn đỏ, một chiếc ô-tô nhỏ lẻ loi dừng sát lề. Hai
người đứng lại dưới mái hiên lấy khăn tay lau mặt – mưa rơi dầy hơn. Mai sáng cứ
lặng lẽ đi buồn nản. Chiếc xe nhỏ rồ máy hực hực, thong thả lăn bánh vào khoảng
hơi nước, Lưu hơi chóng mặt buồn nôn, thèm chỗ nghỉ lưng, Lưu thấy mắt chừng
trũng xuống, mặt nhớp nháp khó chịu.
Quang hỏi:
"Anh cần về lắm hay sao?"
Lưu gật đầu. Một cơn gió hắt nước mưa vào chỗ hai người đứng.
Lưu nói trong trạng thái tâm thần mê mẩn:
"Tại sao mình lại đứng đây nhỉ?"
Lưu từ chối không hút thuốc khi Quang mời vì Lưu biết chỉ một
ngụm khói thuốc đủ làm chàng mửa ngay tại chỗ. Quang khó khăn mới đốt xong điếu
thuốc ấm rồi thả tầm mắt sang tận bên kia góc phố – mảnh tường vàng thầm nín
loang lổ những bích chương – nói trầm trầm như mải theo đuổi ý tưởng:
"Tôi nghĩ cái tội của mình đối với chính mình là chúng
ta đã dùng đời chúng ta để tạo thành tiểu thuyết ngay trong khi sống. Chúng ta
muốn đời chúng ta phải là một câu chuyện có thể kể được mà chính ta là nhân vật
chính. Bởi thế chúng ta không sống, chúng ta chỉ luôn luôn tự hỏi phải sống như
thế nào? Phải sống như là chẳng sống gì cả. Chọn lựa thái độ chính trị, lịch sử
thì được nhưng không có chọn lựa khi sống…"
Ngực Lưu nhỏ lại rỗng không, Lưu chẳng thể nói nhiều được.
Lưu bíu lấy vai Quang thều thào:
"Anh làm ơn đưa tôi về dùm".
Rồi cố phát nụ cười trên khuôn mặt tái ngắt.
Lưu tiếp:
"Tôi có thể chết hôm nay".
Quang vẫy tắc xi dìu Lưu lên, đưa ra bến xe. Trên chuyến xe
lô vắng khách hai người ngồi phía trước gần tài xế. Ba mươi cây số đường chạy
trong mưa trắng và trời đục. Lưu ngoẹo đầu vào ngực Quang thỉnh thoảng hé mắt
qua làn nước mắt. Tim của Quang nhảy đều. Tiếng máy êm vì xe chạy chậm. Đôi khi
Lưu muốn ngồi lên nhìn xuống những khoảng ruộng vườn cây cối bên đường nhưng cảm
thấy không còn sức lực. Có nhiều phút Lưu tỉnh hẳn trông thấy nét đăm chiêu của
Quang và xa hơn màu da cháy nắng của người tài xế. Hình như chuyến xe dừng lại ở
giữa đồng không, một chỗ nào rất lâu để cho mưa rào rạt trên mui lẫn những tiếng
xầm xì ấm áp. Ít nhất mình cũng là nhân vật của Quang chứ. Ý nghĩ chợt tỉnh dậy
ở Lưu, rồi lại chìm xuống cơn sốt. Lưu hơi tỉnh khi được đặt nằm trên giường dưới
lần chăn đơn. Trước khi thiếp đi lần nữa Lưu còn biết gần mình có Quang, hai vợ
chồng cụ Tám và thoáng thân hình của cô Ba hiền khô.
Chiều thì Lưu tỉnh hẳn. Mồ hôi đã khô đầu nhẹ nhõm. Ngoài nhà
Quang đàm luận với cụ Tám. Trời không mưa chừng như có nắng. Lát sau Quang vào
bảo với Lưu:
"Thôi tôi phải về Sài Gòn".
Lưu bắt tay cám ơn Quang. Quang nắm tay Lưu nhìn thẳng trong
mắt Lưu nói:
"Tôi quên chưa cho anh biết chị Yến gửi lời thăm
anh".
Không hiểu sao Lưu lại mỉm cười.
Quang ra về Lưu bước xuống giường. Qua vài giây hoa mắt, Lưu
bước với cảm giác không vững vàng. Lưu xuống bếp, bà cụ Tám đang sửa soạn dọn
cơm chiều.
"Ông mạnh rồi sao?"
Lưu cười, tìm đưa cho ba cụ mấy tấm vé số và nói:
"Cháu cũng mua một tấm kỳ này. Nếu trúng độc đắc cháu sẽ
đi hỏi cô Ba cụ à".
Rồi Lưu ra vườn. Cây cối còn ướt. Lưu tìm đến ngồi trên cối
đá mà gần đấy con cho già đã nằm phục từ bao giờ. Khoảng đất sũng nước con kinh
đầy. Bên kia bờ lạnh ngắt. Isabelle đã chết.
Mùa hè
Niên học hết, mùa hè đã tới, những trận mưa đầu mùa đổ xuống
vào buổi chiều. Một trận mưa giông dữ dội tối sầm căn phòng học rộng làm chỗ
liên hoan từ biệt của một lớp học lớn tuổi. Mưa đột ngột làm ồn đám vui, đèn được
bật lên tạo một thứ ánh sáng giả trái thời, một không khí biệt lập giăng đầy những
ảo ảnh. Không ai nghe thấy gì ngoài một cơn náo động hoài hoài.
Tôi quay sang thằng con ngồi bên hỏi:
"Anh có định đi chơi đâu không?"
"Có lẽ tôi lên Đà Lạt nghỉ chừng một tuần. Còn phải về dạy
lớp hè nữa chứ".
Thằng con nhìn tôi, cái nhìn thẳng, thực tế. Nó biết thừa câu
hỏi của tôi chỉ là một cái cớ, tôi muốn gợi chuyện khác. Nó là một thằng con
trai tốt, đón trước ý định của tôi, và không khi nào chuyện ấy phải khui ra sỗ
sàng giữa bố con. Tôi quay nhìn người học trò đang gào thét một bài hát lạ tai ở
trên bục, bỏ mặc cho thằng con ngó mình. Nó đang tính toán, một bài tính nhẩm
trong đầu, đo lường, cân nhắc sự cần thiết của tôi và giới hạn lòng tốt của nó.
Nó rút trong túi một bao thư và kín đáo đặt vào tay tôi buông thõng khuất sau
bàn giấy. Tôi nắm chặt món tiền và dấu vào túi quần.
Học trò hò la các thầy chung vui với chúng. Thằng con tôi ngó
vào tôi và tất cả các cặp mắt trong phòng đều dòm theo. Tôi phải đứng dậy bởi
trong lớp này chỉ có hai chúng tôi, thằng con tôi nó không biết làm gì trước
đám đông trừ việc cầm cục phấn giảng bài trên bảng. Tôi ngâm một bài thơ cổ với
giọng cảm khái. Mọi người im phắc, mưa trút nước ở ngoài và nước mắt tôi rưng
rưng. Thằng con tôi mỉm cười, nụ cười vắng vẻ. Tôi cũng nhìn nó và hài lòng thấy
nó xúc động. Nó là giáo sư toán học nổi tiếng ở các trường lớn, kiếm nhiều tiền,
có xe hơi, nhà sang, sống đời độc thân phóng túng. Nó lớn lên, bước vào đời được
ưu đãi, bỏ quên ngay cái tuổi thơ khốn khổ. Sự phong lưu ôm kín lấy nó làm nó
phiền muộn, tôi hiểu thế. Những giấc mộng của tuổi thanh niên được thành hình
mau chóng dễ dãi bằng tiền rồi được ném tung cho bay biến vào những canh bạc,
những cuộc cời. Chính nhờ nó mà tôi mới có mấy giờ dạy ở trường này sống qua
ngày. Tôi nhìn nó, vẻ mặt gân guốc mờ mờ, vẻ mặt phô ra đó không còn gì chứa dấu,
mọi điều đã hiện thực thành cuộc sống nó đang sống, một người lạ ngang với tôi,
có thể hơn tôi, và tôi không có thứ quyền hành nào với nó. Bởi chính tôi… Bài
thơ dứt, bọn học trò phá động rầm rầm và đòi được nghe nữa. Bài thơ thứ hai,
tác động đối với tôi cũng như với người khác sút giảm nhiều. Tôi đọc và bắt trí
nhớ, thằng con nhìn cửa sổ, học trò thì thào đâu đâu. Tôi nghĩ ra sự xúc động của
tôi lúc nãy, của thằng con tôi, chỉ là một thứ "réflexe conditionné".
Con chó nghe chuông rung ứa nước miếng. Và khi con chó đã bị đánh lừa nhiều lần
thì nước miếng cũng phải cạn đi chớ. Tôi đã lầm, bài thơ không khơi dậy ở tôi, ở
con tôi một giấc mộng nhỏ nào, những giấc mộng của tôi đã tan theo khói thuốc,
của con tôi đã bay theo giấy bạc.
Thằng con tôi đứng dậy trước kiếu từ mặc dù trời còn mưa, tôi
đứng lên theo. Nó nói bên tai tôi:
"Tôi đưa bố về".
Tôi đi theo nó lặng lẽ, xuống hết cầu thang gác ra hành lang
đến chiếc xe hơi đậu sát đó. Nó mở cửa phía sau cho tôi lên.
"Anh mới đổi xe".
Nó gật đầu và mở máy. Đến một ngã tư, nó cho dừng xe lại và gọi
một thiếu nữ đang trú mưa bên hè. Cô ta lên ngồi phía trên với nó và dường như
không thấy tôi, có lẽ tôi ngồi co ro trong góc nệm. Tôi cũng không trông thấy mặt
cô vì cô trùm chiếc áo mưa đỏ, xét dáng đoán chừng cô còn đi học. Có lẽ cô là học
trò và cũng là tình nhân của thằng con tôi.
"Anh vừa ở trường về? Bao giờ anh đi Đà Lạt?"
Cô ngúng nguẩy rũ rũ mái tóc làm tôi bắt nhớ đến người đàn bà
mấy mùa hè trước. Điêu ngoa, điệu hãnh, nhún nhảy. Nhưng cũng dại khờ non nớt
biết mấy. Thằng con tôi không trả lời, nó nhìn thẳng cái chùi kính đang sè sè gạt
nước ở trước mặt. Cô gái thoáng liếc thấy bóng tôi và chúng tôi im lặng. Thằng
con đưa tôi vào đến tận ngõ nhoài người mở cửa cho tôi xuống. Tôi nói:
"Cám ơn anh".
Bước dài vào một mái hiên, tôi đứng nhìn chiếc xe lùi ra khỏi
ngõ. Tôi có cảm giác thảnh thơi hớn hở, của người đang đi tới chốn hứa hẹn. Thế
là xong, hè rồi tôi được hoàn toàn của tôi. Tôi mở cửa, bước lên gác, thay quần
áo, thắp ngọn đèn, nằm xuống bên mâm thuốc, hút bữa chiều. Và rồi tôi sẽ ngủ
yên giấc.
*
Đối với tôi, trong chuỗi ngày phẳng nhẵn, hun hút như con đường mòn trong rừng
già, một tháng hè là một khoảng trống đặc biệt như rừng bỗng thưa ra ở đó cho
nhìn thấy trời thấy mây thấy nắng. Mùa hè Sài Gòn là mùa hè ẩm ướt. Gian nhà của
tôi nhỏ hơn chật hơn tối hơn vì những trận mưa dài miên man, gian dưới bỏ trống
thường xuyên, đồ đạc bụi bậm luộm thuộm, một cái sân vuông nhỏ như tấm khăn
tay, một cái nhà cầu, một cầu thang gỗ dốc ngược, gian gác gần sát mái không đồ
đạc nằm duỗi chân hết chiều ngang, tôi lẩn lút thấp thoáng trong đó chậm chạp
như một con chuột không gây tiếng động. Cả một tháng tôi ở yên không bước chân
khỏi cửa, ngày hai bữa đứa nhỏ bên hàng xóm gõ vào vách gỗ đưa cà mèn cơm qua
phần hở trên đầu vách ngay chỗ tôi nằm, tôi chỉ việc khom lưng đỡ lấy. Buổi tối
khuya trước khi hút bữa cuối, tôi xuống mở sẵn cửa cho người gánh nước quảy vào
một đôi nước. Tôi nằm đó, bên bàn đèn, yên tĩnh ngơi nghỉ hoàn toàn không còn bị
khuấy động chút nào vì công việc vụn vặt là mấy giờ đến lớp đứng trước mặt một
đám học trò quậy phá như một cơn ác mộng. Gần hết hè thằng con tôi sẽ trở lại một
ngày nào đó, đưa thêm tôi một món tiền nhỏ nữa và báo cho tôi những giờ tôi được
mời và đã được xếp trước cho năm tới. Tôi tiêm cho nó hút vài điếu, nhìn nó vụng
về lúng túng không biết cách nằm, không biết cách hít vào cho đều, phun khói
phì phì, đỏ mặt, ụa mửa. Lần đầu nó từ chối, bây giờ thì không, mỗi năm đến thăm
tôi vài lần nó đều hút cho tôi vui lòng. Tôi đã nói:
"Không phải cứ hút một vài điếu là nghiện đâu mà sợ. Anh
biết tôi chỉ mới nghiện thực thụ hai năm nay. Vậy mà anh biết tôi chơi từ bao
giờ không? Từ năm anh chưa ra đời. Không phải ai cũng nghiện cả. Người ta có ý
chí là vượt được hết. Tôi chỉ nghiện khi tôi nghĩ rằng đời tôi không còn gì
đáng kể nữa".
"Mộng ước, danh dự, lý tưởng tôi cho là hão hết. Mà còn
hèn nhát, còn tham sống thì phải tìm tới đam mê. Anh còn trẻ, anh còn nhiều
ràng buộc, anh còn danh dự để thể hiện, còn nhiều mộng, còn lý tưởng còn đam
mê, không khi nào anh nghiện được cả. Tôi già rồi, tôi gần năm mươi tuổi, chỉ
còn "cái này" là thứ đam mê hợp nhất. Anh thấy không? Nó là thứ đam
mê lặng lẽ, sáng suốt. Ông nội của anh xưa kia cũng chơi từ trẻ, rồi bỏ mấy chục
năm không thèm sờ đến dọc tẩu đến sáu mươi mới nghiện thực. Tùy anh hết, nghiện
hay không là do nơi anh".
"Đến phiên tôi, lỡ tôi nghiện từ năm ba mươi tuổi thì
sao" – Thằng con tôi trả lời, nó cười hơi gằn – "Ông sáu mươi, bố gần
năm mươi và tôi ba mươi".
"Tôi không mong như thế. Ba mươi tuổi nghiện là đại họa
thiệt thòi hết chỗ nói. Ba mươi tuổi người ta mới bắt đầu thành hình, lúc ấy
người ta mới khám phá ra tình yêu. Tôi còn chậm nữa, gần năm mươi tôi mới biết
yêu. Yêu là một sự giản dị tầm thường không phức tạp như tuổi trẻ tưởng tượng rắc
rối. Yêu là… là hiện hữu ở ngoài mình và ở trong sự hiện hữu của người khác. Và
người khác ấy tiên quyết không phải là cái bóng của mình hay của bất cứ cái gì.
Và trong tình yêu như thế anh đạt được cái trạng thái của Lão "Tâm
hư", đạt được mọi sự… Chậm, chậm quá, tôi nghiện mất rồi và cái "Tâm
hư" ấy tôi tìm thấy ở thuốc phiện…"
Tôi bừng tỉnh, cái dọc tẩu cầm nguyên trên tay và thuốc đương
cháy xèo xèo. Thằng con trố mắt nhìn tôi như một thứ quái thai. Tôi kịp ngừng lại,
suýt chút nữa tôi kể lể hết với nó và không hiểu nó sẽ nghĩ thế nào. Kể cũng lạ,
không riêng nó mà hết thảy mọi người, người ta có thể chấp nhận cái việc tôi
nghiện nhưng không thể nào cho rằng tôi có thể yêu. Dường như từ bao nhiêu đời
nay tình yêu là cái món dành cho tuổi trẻ, sự đam mê như một cơn sốt run rẩy của
khí huyết phương cương. Đến một độ nào đó yêu là sự lố bịch, là bệnh hoạn, là
vô luân, là quái vật.
"Tâm hư" là trái tim đã hỏng".
Thằng con tôi riễu cợt. Nhưng tôi biết nó muốn được nghe câu
chuyện, muốn được biết cái kinh nghiệm của tôi, vì nó cũng hiểu có thể chỉ là lần
duy nhất bố con chuyện trò lâu và xa như vậy.
"Tôi nói cho anh nghe. Bố tôi lấy vợ cho tôi từ năm tôi
mười sáu tuổi khi tôi đang học năm thứ nhất. Vợ nhà quê, người cùng làng. Đám
cưới xong tôi bỏ nhà đi mất, sống lang thang rồi gặp mẹ anh. Tôi yêu mẹ anh bằng
cái thứ tình yêu ở tuổi anh bây giờ. Cho nên… cho nên… tôi không khi nào phiền
trách mẹ anh. Tôi buồn, tôi có buồn chứ. Hồi ấy tôi cũng đã có ý định tự tử.
Anh đừng tưởng tôi sắp sửa tìm cách đổ lỗi rằng sở dĩ ngày nay tôi thân tàn ma
dại thế này là vì mẹ anh gây ra. Không phải, tôi không hèn như thế đâu. Tôi đã
nói chính tôi muốn nghiện và tôi mới nghiện đây thôi. Chính tôi với mẹ anh đã
làm khổ anh vì cái tình yêu đần độn của chúng tôi. Cho tới sau này tôi mới hiểu…"
Tôi ngừng lại không nói nữa, tôi nhất định kìm giữ. Thằng con
tôi ngoảnh mặt chỗ khác. Cái kinh nghiệm không thể nói ra, nó không hiểu nổi.
Phải. Cho đến khi gặp nàng tôi mới biết yêu, yêu thực lần thứ
nhất và lần chót, khi nàng đi mất tôi cay đắng nhận ra rằng sự may mắn chỉ đến
với mỗi người một lần trong đời. Thật là buồn cười không tin được. Nhưng sự thực
như thế đó. Mỗi mùa hè, bên ngoài trời mưa, tôi nghe trong tâm hồn phảng phất một
ngọn lửa nhỏ lùa hơi ấm trong cái con người đã kiệt quệ, tôi đê mê nằm im cùng
với khói thuốc ủ lấy ngọn lửa ấy ru mình vào cõi hư vô huyền hoặc. Hình bóng
nàng có thể ngày một nhạt dần trong trí nhớ nhưng ngọn lửa ủ kia vẫn được khơi
dậy khi mưa đổ, nhất là những lúc nửa đêm, ngọn đèn lay lắt, mưa vỗ rào rào
trên các mái tôn trong xóm. Tình yêu đó ngắn ngủi, ít nói, không dồn đọng bên
ngoài thành lời, nó thanh thản mềm mại như khói thuốc. Mỗi mùa hè, trong những
lúc xuất thần, tôi vẫn thấy thân tôi rung rinh như nàng cùng đi chân không trên
ván gác ở khít vách. Tiếng thở dài của nàng như một hơi gió trên bến sông xa.
Tiếng kêu nhỏ ngạc nhiên trong cổ nàng. Cặp mắt nàng như thu hết những ánh sáng
còn sót ở bóng tối vây quanh. Nàng đứng nép ôm con ở bóng tối vây quanh. Nàng đứng
nép ôm con ở một góc, tôi ngồi vắt vẻo cố giữ thăng bằng trên đầu vách. Lố bịch,
không ngờ, không thể ngờ được. Tôi thở dồn chóng mặt. Nàng nói: "Cám ơn cụ",
khi tôi sửa giúp xong chỗ dột trên mái. Tôi hơn nàng ít nhất cũng mười lăm tuổi,
khoảng thời gian bình thường đã khá dài, đối với một người như tôi, thêm chồng
chất ngổn ngang những thất vọng, phiền não, những mộng ảo tan vỡ làm thế nào
tôi gặp được nàng. Vậy mà, trong đêm ấy, tôi đã tìm thấy tình yêu, tìm thấy hạnh
phúc ở nàng.
Suốt đời tôi, cho đến khi gặp nàng, tôi bị ám ảnh bởi cái
kinh nghiệm đầu tiên về đàn bà từ năm hai mươi tuổi. Trong cuộc yêu đương thứ
nhất, chàng thanh niên thất vọng, rời khỏi người đàn bà, ý nghĩ trước nhất là
cái hành động kia không tuyệt vời như trong tưởng tượng, như trong giấc mộng và
cũng không thể bằng cái thú vui cô đơn mình tự tạo lấy. Cái thân thể chưa nguôi
được phủ lên một cảm giác mông lung, hồi xưa tôi gọi là cảm giác siêu hình của
hành động, thui thúi, cái âm vang trên da thịt thật là nhạt nhẽo phi lý. Phi lý
hơn nữa là biết mình sẽ phải làm lại, làm lại mãi mãi không cưỡng được. Lòng tự
ái của tuổi thanh niên dẫn tôi tới thái độ triệt hủy tình cảm trong lửa dục. Ngọn
lửa ấy rực rỡ thiêu đốt hết sự thân ái có người muốn mang tới, nó chóng sáng
thành một nỗi cô đơn nóng nảy. Chính vì thế, người vợ do tôi tìm lấy đã bỏ tôi.
Tôi tỉnh dậy chán chường. Nhưng khi tôi mang đặt tâm hồn vào trong cuộc ân ái,
tôi gặp trở lại sự thất bại buổi ban đầu. Và tôi nghĩ không bao giờ người ta gặp
được tình yêu và hạnh phúc cả.
Với nàng, trong khi không chờ đợi mong ước, tôi gặp tất cả
trong một tâm hồn mệt mỏi, một thể xác nghiện ngập yếu đuối. Chính tôi, tôi
cũng không ngờ hạnh phúc lại đến trong một tình trạng như thế, nỗi hạnh phúc đột
ngột tràn đến trong chúng tôi bằng những thôi thúc vô biên, những lượn sóng vồ
vập như giữa biển khơi không thấy bến bờ, một thứ tiếng nó âm thầm chôn giấu ở
dưới tầng đáy nào của cơ thể. Đó là một thứ đêm trong suốt như ngọc huyền, một
thứ mặt trời ấm áp có thể nhìn thẳng. Ra khỏi thân nàng, tôi bàng hoàng kinh ngạc,
không biết có phải chính tôi đã vừa đặt chân vào một miền đất lạ hoang vu,
không biết có phải chính tôi vừa nhóm lên được ngọn lửa nồng nàn giữa khu rừng
già mịt mùng khô khan. Có thể như thế được không? Có thể nào điều tìm kiếm những
năm hai mươi tuổi lại đến vào tuổi già lão chăng? Lúc ấy tôi nghe nàng rùng
mình, cố gượng hé mắt rồi lại nhắm nghiền, nước mắt nàng ứa ra, ngọn đèn dầu
lay lắt chực tắt soi mập bờ cái thân hình khốn nạn của tôi. Thân thể chúng tôi
vẫn còn ghi rõ nhiều âm vang âm thầm. Tôi đặt mình nằm xuống với cảm giác cay đắng
cô đơn nhưng không còn là nỗi cô đơn tan loãng như khói thuốc, đó là nỗi cô đơn
đã kết tụ rất nhỏ, rất gọn nấp ở trong ngực tôi. Tôi cầm lấy tay nàng:
"Em, em có nghe thấy anh nói không? Anh yêu em, anh chưa
yêu một người đàn bà nào như em. Em có hiểu được như thế không? Hạnh phúc chỉ đến
một lần, một lần duy nhất trong đời người và của anh là đêm nay. Em, em có nhận
thấy như anh không?" Nàng bật khóc nức thành tiếng, dấu mặt vào trũng vai
của tôi. Tôi chỉ còn biết nói, nói như trong một cơn mê:
"Em yêu, anh biết chúng ta không gặp nhau vĩnh viễn được.
Cuộc đời chúng ta chỉ đan vào nhau một lúc nào đó thôi rồi… nhưng đêm nay em đã
làm sáng nghĩa cái cuộc đời phi lý của anh từ trước đến giờ. Anh hiểu rằng anh
đã lầm khi anh tự hủy hoại, người ta sống nhẫn nhục để người ta chờ cái hạnh
phúc sẽ tới, hạnh phúc ấy có thật, không phải là viển vông như anh đã tưởng. Hạnh
phúc thế nào cũng gặp và chỉ gặp được một lần trong đời, nhưng lúc ấy ta còn đủ
năng lực để giữ nó lại với mình không? Em yêu, em không hiểu, anh định nói gì
phải không? Em hiểu em càng thêm buồn, anh đau đớn lắm. Anh và em là những người
khi hạnh phúc đến không cầm lại được. Rốt cuộc chúng ta chỉ có tình yêu, tình
yêu không phải là hạnh phúc em à…"
Tôi còn nói, nói miên man cho đến khi nàng ngủ vùi và tôi gỡ
tay nàng, leo trở về nhà. Những lần sau, nàng bắc ghế trèo sang với tôi khi
hàng xóm đã yên nghỉ, nhìn nàng tôi thương biết mấy, nàng thảm hại như con thạch
sùng run rẩy, bám chặt lấy bức vách rung rinh. Nàng nằm bên bàn đèn xem tôi
hút; mắt díu dần và nhiều khi ngủ quên. Không bao giờ tôi gần nàng nữa và dường
như nàng cũng không muốn khêu gợi tôi. Chỉ vài ba lần chúng tôi ôm ghì lấy
nhau, tôi nhóm dần lên trong tôi ngọn lửa hiu hắt và khi ngọn lửa tắt tôi lặng
lẽ áp sát thân mình nghe sự rung chuyển của nàng như những hồi gió cuốn vội
vàng. Tôi dạy nàng tiêm thuốc, nàng thông mình và khéo tay lạ lùng. Một đêm tôi
thức trắng, lắng nghe những tiếng động bên kia vách. Tiếng chân nàng trên sàn
gác rung rinh, tiếng thì thào của nàng như hơi thở bên tai, tiếng van vỉ của
nàng… tôi nghe tất cả và tôi tưởng như tất cả nàng làm cho tôi. Chồng nàng ghé
về. Buổi sáng, tôi mở cửa xách thùng rác ra đổ đầu ngõ, tôi gặp nàng. Nàng mỉm
cười nụ cười từ biệt mà tôi không hay. Buổi trưa hôm ấy tôi thiếu thuốc, cơn
nghiện vật tôi rũ liệt chân tay, sùi bọt mép mê man. Trong đầu tôi lịch kịch những
tiếng khua động dữ dội, ngực tôi như bị búa gõ. Đến xẩm tối tôi hồi tỉnh và
xung quanh tôi yên lặng và tôi như chết. Tôi lần mò đứng lên thắp đèn và dòm
qua khe vách, gác của nàng trống chỉ còn giấy rác. Tôi lại nằm xuống và đợi
không biết đợi cái gì. Buổi tối thằng con tôi đến bắt gặp tôi co quắp như cái
xác chết, nó lái xe đi tìm thuốc về cho tôi. Khi tôi đã no thuốc, tôi ép nó hút
thử điếu đầu tiên. Thằng con tôi bỏ về lúc mười giờ, tôi đoán nó đến tiệm nhảy.
Đêm cuối mùa hè Sài Gòn trời lạnh về khuya nhưng tôi nghe ở đâu đây trong tôi
có ủ một ngọn lửa ấm đủ cho quãng đời còn sót và ngọn lửa ấy chỉ tắt khi tôi đã
chết. Nhưng làm thế nào tôi nói được điều ấy cho thằng con tôi hiểu.
Cuối đường
Đầu năm 1949 tôi bỏ Sài Gòn về Hà Nội. Từ một thành phố yên ổn
vui tươi trở lại, tôi rơi xuống một thành phố điêu tàn ngơ ngác. Những ngày
đông lạnh lẽo ngắn thêm vì giờ giới nghiêm. Ngay giữa phố đông đúc như Hàng
Bông, Hàng Đào vẫn còn nhiều nhà đổ nát tan hoang. Khoảng bảy giờ tối hết xe điện,
người ta nhường phố xá cho lính lê dương say rượu. Thỉnh thoảng về muộn tôi phải
đi qua những phố vắng tanh, vội vã lẩn lút trên vỉa hè hay sau hàng cây như một
tên ăn trộm. Có khi lính Tây đuổi tôi để được la hét cho đỡ buồn, tôi chạy
quanh co hết phố này sang phố khác như chơi rượt bắt với chúng. Một hôm tôi bị
rượt từ phố Đường Thành chạy về Quan Thánh. Vừa băng qua vườn hoa Hàng Đậu sang
phía nhà Thương khách thì từ một ngách tối, một tên sổ ra chụp được tôi. Tôi
vùng vẫy và đánh trúng mặt nó khiến cái mũ trắng rơi xuống đất, tôi có thể chạy
thoát. Nhưng tôi đứng nguyên một chỗ nhìn tên lính cúi xuống nhặt mũ, nó cười sằng
sặc. Nó trẻ bằng tôi, mắt xanh như mắt mèo. Nó quàng vai tôi mời tôi vào quán uống
rượu. Tới mười giờ đêm, nó dìu đưa tôi về tận nhà. Trước khi chia tay, nó ôm
hôn lên đầu cổ tôi như mưa rồi khóc. Tôi tức giận gạt mạnh nó và lảo đảo vào
nhà. Chị tôi sợ hãi đóng chặt ngay cửa. Tên lính còn đứng lại đập cửa la hét
nguyền rủa hàng giờ sau mới chịu bỏ đi.
Nhà tôi ở khu Ngũ Xá. Hồi ấy tôi thất nghiệp ăn ở nhờ gia
đình chị tôi, dạy mấy đứa cháu nhỏ trừ tiền cơm. Tiền tiêu pha vặt vãnh là tiền
dành dụm trong mấy năm làm ăn ở Sài Gòn. Mỗi buổi sáng tôi dậy dùng những chuyến
xe điện thứ nhất lên phố. Những chuyến xe buổi sớm thường kéo theo hai ba toa tối
om chạy băng băng không ngừng, tôi nhảy bám vào toa sau cùng chắc chắn không phải
lấy vé lên đến tận chợ Hôm. Trời buổi sáng bao giờ cũng lạnh cóng, tôi dựa vào
thành xe trông lại phía sau con đường sắt bóng mướt và mặt đường tê cứng. Qua đầu
phố Hàng Đào nơi một đống gạch đổ tôi còn thấy những mảnh vải rách rưới rúc vào
nhau mà ngủ. Đến chợ Hôm trời cũng đã mờ sáng. Tôi té xuống hè đường ngồi xổm
ăn một đống xôi lúa nóng chan hành mỡ béo ngậy rồi đi lang thang đợi đến chín
giờ về thư viện đọc sách. Bỏ học đã lâu định lợi dụng thời gian nhàn rỗi này học
thi Tú tài. Thư viện tĩnh mịch, cửa gương bóng loáng, mặt bàn nhẵn trơn trụi,
ghế cao và rộng. Phòng đọc sách lớn nhưng thường thường chỉ có dăm bảy người, mỗi
người một bàn thật xa nhau để khỏi nhìn thấy nhau. Chúng tôi làm việc trong
không khí dễ dãi quen biết, mỗi người có thể mượn số sách không giới hạn bày đầy
trước mặt, trong khi luật lệ ấn định không lấy quá hai cuốn một lần. Tôi chọn một
góc kín đáo khuất sau một cái cột mà từ người thủ thư cho đến người giám thị
phòng đọc ngồi ở chỗ của họ không thể trông thấy tôi. Chỗ ấy lại gần lò sưởi ấm,
lúc nào buồn tôi có thể ngủ được. Thường buổi trưa tôi ngại không về nhà, tôi
ăn trưa – một cái bánh tây, một ly cà phê sữa – ở ngay gian hàng gửi xe của thư
viện. Quãng năm giờ tôi rời khỏi thư viện vì vào giờ ấy tôi thường gặp phải những
ông công chức mới hồi cư vào lục lọi những chồng công báo dầy hàng chục năm để
tìm cái nghị định bổ nhiệm xin hồi ngạch.
Mùa đông qua hết, đến mùa xuân rồi tôi vẫn chẳng học được chữ
nào, óc của tôi chưa làm quen lại được bài vở. Hàng ngày tôi vẫn lui tới đều đặn
thư viện nhưng toàn đọc sách truyện nhảm nhí. Tôi có ý định tìm việc làm. Những
chuyến xe điện buổi sớm đã chạy chậm hơn một chút trong buổi mai êm dịu và toa
xe cuối cùng không còn tối nhiều như khi mùa đông nữa. Tôi thường phải lẩn
tránh người soát vé đứng ở toa đầu máy nhìn xuống rình mò. Một buổi kia trời bỗng
trở rét dữ dội. Con tàu lại chạy với tốc lực mùa đông. Tôi thảnh thơi đứng tựa
thành xe quay lưng lại với toa đầu máy lắng nghe tiếng khẹt khẹt của cây cần điện
chạm vào dây giăng trên trời. Người soát vé xuống đứng bên cạnh tôi lúc nào tôi
không hay. Hắn vỗ vào vai tôi làm tôi hoảng hốt. Không quay lại tôi vội vàng nhảy
ùa xuống đường. Đà xe mạnh làm tôi ngã úp sấp và chết ngất. Khi hồi tỉnh tôi vẫn
còn nằm trên mặt đường cạnh đường sắt. Tôi quờ tay lên đường sắt bóng và mặt nhựa
gồ ghề. Phố xa lặng thinh. Rồi tôi nghe tiếng xe điện sắp đến từ xa. Chỗ tôi nằm
ngay đầu Hàng Đào, những mảnh vải rách rưới vẫn quấn lấy nhau ngủ vùi. Tôi lồm
cồm bò lên vỉa hè. Chuyến xe điện qua thản nhiên. Áo tôi rách toạc một mảnh ở
vai, chân tay mặt mũi tôi sây sát rớm máu. Tôi khập khễnh đi xuống hồ Gươm vốc
nước rửa. Nước lạnh giá làm đau xót các vết thương. Tôi ngồi xuống vệ cỏ khóc
cho ấm mắt, cuống họng và ngực. Chán không khóc nữa tôi đứng dậy.
Chiều hôm ấy rời khỏi thư viện tôi không muốn về nhà. Tôi muốn
ngủ đêm ở một chỗ khác nhưng chẳng nghĩ ra chỗ nào có thể về được. Tôi cứ lang
thang qua các phố cho tới khuya. Trời rét như cắt tôi chỉ mặc một tấm áo
blouson. Các vết thương nhức nhối. Mồ hôi nhờn cả da mặt. Tôi tức giận vô kể.
Tôi không gặp những tên lính Tây say quấy phá. Tôi chờ đợi một đội quân tuần tiễu
nào sẽ nhặt tôi về giam. Hay thí cho tôi một tràng đạn sợ hãi vào ngực. Tôi sẽ
nằm thẳng cẳng ở giữa cái thành phố co dúm này. Cuối cùng tôi vẫn phải về nhà.
Chị tôi dương cặp mắt khiếp hãi nhìn tôi. Ông anh rể càu nhàu trong màn. Sáng
hôm sau chị tôi bôi thuốc đỏ vào các vết trầy, tôi ngồi nhà không lên phố. Tôi
gọi lũ cháu mang sách vở tới gần xem xét và đánh cho chúng một trận nên thân.
Chị tôi khép nép sợ sệt thay cho con. Tôi tát chúng mạnh quá đến nỗi bàn tay ê ẩm.
Chị tôi xuống bếp khóc, lũ trẻ ra ngoài đầu hè khóc, bỏ gian nhà trống không
cho tôi với những vết thương bắt đầu mưng mủ.
Trong năm ấy tôi gặp đứa bạn học cũ hồi còn học lớp nhất trường
tỉnh. Hắn trông nom một xưởng sửa chữa xe hơi. Hắn mời tôi vào quán nước cạnh đền
Bà Kiệu. Cầu Ngọc Sơn đã được sơn lại mới đỏ như quết trầu. Mùa xuân còn mới
trên màu nước của hồ Gươm, những rặng cây ven hồ. Tôi ngỏ ý với bạn muốn xin
làm chân phụ việc ở xưởng hắn để học nghề chữa máy. Hắn hỏi tôi mấy năm ở Sài
Gòn tôi làm nghề gì. Tôi nghĩ lại cũng ngạc nhiên không hiểu tôi đã sống cách
nào, tôi không có nghề ngỗng gì hết, tôi trả lời như vậy. Hắn bảo tôi tại sao
không xin đi làm, tôi còn đỗ được cái bằng Trung học Pháp như còn hắn không có
bằng cấp gì. Tôi nói tôi vốn ghét ngồi bàn giấy. Hôm sau theo lời hẹn tôi tìm đến
xưởng máy. Tôi lên một chuyến xe điện đã đông người, chạy từng chặn nhỏ qua các
phố tấp nập. Xưởng ở trong ngõ khuất nẻo giữa phố Tây. Tôi bước giữa hai hàng
rào rậm lá mát mẻ xếp đặt chương trình trong đầu. Mỗi buổi sau giờ làm việc tôi
sẽ thong thả về thư viện nghỉ ngơi đọc sách. Ông quản lý chưa đến, tôi phải đợi.
Tôi ngồi trên cái đe sắt giữa sân, xung quanh bừa bộn dụng cụ và người ta làm
việc. Thỉnh thoảng tôi cũng chuyển dùm lên tay, không rời chỗ ngồi, cho người
khác cái búa, cái lắc lê… Nắng đã làm tôi bứt rứt nhấp nhổm. Ông quản lý đến. Hắn
trông thấy tôi từ cổng vào và mỉm cười với tôi. Xong hắn còn đi dặn bảo công việc
cho mọi người khắp lượt mới đến chỗ tôi. Hắn rủ tôi ra ngoài đường. Hắn lại đưa
tôi vào quán nước hôm qua, ngồi đúng cái bàn cũ. Ngập ngừng mãi hắn ngỏ ý
khuyên tôi nên tìm việc khác làm vì hắn thấy công việc ở xưởng không hợp với
tôi. Lúc ấy tôi mệt mỏi ngáp dài không buồn trả lời. Hắn móc túi cho tôi ba trăm
bạc. Bắt tay từ giã hắn tỏ ra ân hận đã không chiều ý tôi nhưng hắn nhấn mạnh rằng
như thế rất hợp lẽ và tốt cho tôi về sau này.
Tôi lủi thủi về thư viện. Chỗ tôi thường ngồi có người chiếm
mất. Tôi bực mình, phòng đọc có hàng chục bàn trống sao hắn lại lủi vào góc ấy.
Tôi đến đứng đằng sau lưng ghế của tôi bảo với người ngồi rằng đó là chỗ hằng
ngày của tôi chiếm, yêu cầu hắn rời đi chỗ khác. Hắn ngửng mặt lên nhìn tôi, bộ
mặt đẹp trai. Hắn rời sang ghế bên cạnh. Tôi ngồi vào chỗ xong lại bảo hắn tôi
không thích ai ngồi gần tôi như thế vướng víu tôi lắm. Tôi yêu cầu hắn rời sang
bàn khác và nên chọn bàn nào khuất khỏi tầm mắt tôi, tôi không ưa sự có mặt của
người khác. Hắn lại nhìn tôi một lần nữa, hiền lành và dễ thương. Rồi hắn lặng
lẽ thu xếp sách vở đổi chỗ khác. Tôi ngủ chập chờn rất nhiều giấc nhỏ trên ghế.
Mỗi khi chợp đi trong đầu tôi ồn ào náo nhiệt, tỉnh lại xung quanh lặng ngắt quạnh
hiu. Vào giữa trưa tuyệt đối êm tĩnh. Tấm kính lớn che mặt trước phòng đọc sách
mỏng như tờ giấy bóng. Mọi người đã về hết chỉ còn người thủ thư và người giám
thị ngồi nguyên chỗ. Tôi xuống nhà gửi xe ăn trưa. Cái đầu ghế dài ở trong góc
tối một người đã ngồi. Hắn tỏ ý muốn chào tôi và tôi ngạc nhiên không quen mặt.
Hắn đứng lên, tôi ngồi vào chỗ bỏ trống. Trong tối nhìn ra tôi mới nhớ mang
máng hình như hắn là người đã chiếm chỗ tôi hồi sáng trong phòng đọc. Tì tay
vào tủ hàng, hắn trông ra phố. Dáng của hắn là học trò, người gầy dong dỏng,
tay chân quều quào như củi. Mái tóc chải lật ngược, đầu lớn so với mình. Mắt hắn
mỗi khi nhìn buồn một vẻ thản nhiên. Tôi bỗng thấy tội nghiệp hắn. Và tôi gợi
chuyện trước tiên để chúng tôi quen nhau. Tên hắn là Quang.
Từ sau mỗi lần ra thư viện Quang ngồi trước mặt tôi. Công việc
của hắn là chép và tự mình họa những bài thơ lãng mạn vào một cuốn vở đóng bìa
gáy da kỹ lưỡng. Tôi bực mình một hôm đã giảng cho hắn biết cái lãng mạn ấy lỗi
thời lắm rồi. Đời sống của người ta không phải là những giây phút ngồi gọt giũa
tỉ mỉ những cảm xúc, tinh ý vụn vặt. Đời người là một sự trống rỗng lớn cần lấp
đầy bằng tất cả những gì mình có, nghĩa là sự tự do của mình. Đừng giết thì giờ
lối đàn bà. Và trong khi hắn ngồi viết như thế có nhiều người đang chết. Nghe
tôi nói Quang buồn lắm, hai cánh tay của hắn lúng túng vụng dại. Hắn tâm sự với
tôi về gia đình của hắn. Mẹ nghiện thuốc phiện, hắn còn chị cả chưa lấy chồng,
một đứa em trai học cùng lớp và bốn đứa em nhỏ. Gia đình nghèo túng, hắn đang nạp
đơn xin việc. Hắn tiếc không được theo đuổi học hành và biết mình không đủ
thông mình, tinh thần để tự học. Đứa em trai học ngang hắn thông minh xuất sắc
hơn hắn. Hắn thú nhận rằng bản chất của hắn là yếu đuối không thể sống mà nương
tựa vào kẻ khác. Có phải ai cũng phá vỡ được hiện tại của mình để phiêu lưu vào
tương lai đâu. Tôi bảo hắn tôi là kẻ ghét nghe chuyện tâm sự. Tôi không nghèo
nàn đến nỗi phải giả bộ sống bằng những mẫu chuyển tưởng tượng của kẻ khác. Nội
đời của tôi đủ cho tôi sống chưa hết, đủ cho tôi biết thế nào là khổ sở, là ý
nghĩa của kiếp người. Đời hắn là của hắn, hắn phải tự nhận lấy mà sống, tôi
không can dự gì hết. Rồi tôi mỉm cười nói cho hắn biết thật ra sự khổ sở của hắn
cũng chẳng lấy gì thê thảm lắm. Sau buổi nói chuyện ấy, chúng tôi im lặng nhưng
vẫn chơi với nhau.
Mùa hè, tôi và Quang thân mật với nhau hơn, chiều chiều tôi và
Quang về qua nhà hắn. Nhà Quang ở là buồng trong một căn nhà bị trái phá bắn sụp
phía ngoài. Gạch ngói được xếp đống gọn gàng, nhưng cỏ hoang mọc bừa bãi trên nền
đất. Tôi dạy thêm mấy đứa trẻ hàng xóm cùng với lũ cháu và chị tôi mua cho tôi
được một cái xe đạp cũ. Thỉnh thoảng tôi đèo Quang xuống hồ Tây tắm, hắn không
biết bơi chỉ ngồi trên bờ trông quần áo cho tôi và mơ mộng. Một bữa tôi nhất định
kéo hắn xuống nước, suýt hắn chết đuối nếu tôi không bình tĩnh. Lên bờ mặt hắn
tái mét thở không ra hơi. Khi đi về hắn bảo nếu chẳng may hắn chết hôm ấy, gia
đình sẽ cho là hắn tự tử vì thất tình. Cô hàng xóm hắn để ý vừa bỏ nhà theo
trai. Tôi cười giễu nói rằng chỉ những anh chàng yếu đuối mới cần ái tình làm
chỗ trốn thân phận và mới thất vọng ê chề. Người ta dễ yêu nhất vào trường hợp
nào? Khi người ta thất bại, khi người ta sợ phải chịu đựng kiếp sống một mình,
nghĩa là khi người ta bỏ chạy. Quang không bày tỏ ý kiến. Tôi đưa hắn về nhà và
đạp xe đi chơi. Thành phố Hà Nội đông đúc hơn trước. Buổi tối đã nhiều người dạo
mát quanh bờ hồ và những phố buôn bán. Tôi ra bờ sông, lên nằm dài trên một đống
cát còn ướt người ta vừa lấy ở dưới sông lên. Tôi nằm im buồn không muốn cử động.
Ít hôm sau Quang từ biệt tôi để đi làm. Hắn xin được một chân
Công an. Hắn nhìn tôi dò xét ý kiến. Tôi chẳng quan tâm. Hắn cười cho biết thêm
nhiệm vụ của hắn là ngồi bàn giấy biên chép tên những người hồi cư. Hắn phải
lên quận V.T. thuộc tỉnh Sơn Tây. Hắn muốn được cùng tôi đi chơi. Tôi từ chối
vì vốn ghét cái không khí những buổi chia tay. Hắn bắt tay tôi về nhà thu xếp
hành lý. Tôi chúc hắn may mắn. Thỉnh thoảng được ngày nghỉ về Hà Nội, Quang vẫn
tìm gặp tôi. Nhưng chúng tôi chẳng biết nói chuyện gì với nhau nên những cuộc gặp
gỡ hết sức ngắn ngủi và tẻ nhạt. Hồi này tôi được một người quen cũ của gia
đình giao cho trông nom một tràng than. Công việc bận rộn suốt ngày, tôi không
còn thì giờ nghĩ ngợi lăng nhăng. Lần gặp cuối cùng tôi thấy Quang đen và vững
chãi hơn trước, tôi bảo cho hắn biết điều ấy. Quang mỉm cười nhưng con mắt thì
vẫn buồn một vẻ thản nhiên. Khoảng hơn tháng sau tôi đọc báo thấy tin quận V.T.
nơi Quang làm việc bị tấn công trong đêm tối tất cả nhân viên trong quận đều bị
bắt mang đi. Tôi muốn tới hỏi thăm gia đình Quang xong lại thôi vì nghĩ không
quen ai. Tôi qua lại nhiều lần căn nhà đổ nát vẫn chưa sửa chữa nhìn vào trong
thấy ánh đèn thấp thoáng rồi không vào. Tôi bỏ đi trong các phố tối nhiều cây.
Trời đã lại mùa đông rét ngọt. Tôi hút nhiều thuốc lá đến buồn nôn. Khi trời đã
khuya lắm, tôi lạnh nổi gai ốc cùng mình ngực cồn cào khó chịu. Tôi phải ngồi dựa
vào cửa một căn nhà và ọe cho nôn mửa, nước mắt nước mũi đầm đìa. Tôi ngoẹo đầu
vào tường đá hoa nghỉ ngơi dễ chịu. Trước mặt tôi là cái cầu đá xe lửa cao và
rét với những lần cổng đục tối om. Nôn xong tôi lại hút thuốc lá. Người tôi nhẹ
như khói. Tôi cũng không nhớ lại tại sao tôi lại về được đến nhà lúc nào.
Công việc bán than không chạy tôi nghỉ việc và lại vào thư viện.
Phòng đọc sách nhiều người đến làm việc hơn trước. Tôi không còn chiếm được chỗ
ngồi cố định thường lệ nữa. Vả lại tôi cũng không còn muốn ngồi suốt ngày vì
không được ngồi cô đơn. Trong dịp này tôi gặp và quen Tuấn – em trai của Quang.
Đúng như Quang nói, Tuấn thông minh nhanh nhẹn hơn Quang. Hắn hay đọc sách
chính trị, có nhiều cao vọng. Tôi không thích Tuấn nhưng thường nói chuyện với
Tuấn và nhắc tới Quang. Tuấn chê anh là an phận tầm thường. Đối với tôi Tuấn
cũng coi tôi là cùng một loại. Tuấn cho rằng muốn làm được việc lớn nhiều lúc
phải hy sinh những người thân của mình, dù có phải làm cho họ khổ sở, không phải
là ích kỷ, vì việc làm của mình sẽ có ích cho một số người nhiều hơn. Nên mặc dầu
biết gia đình nghèo túng, Tuấn vẫn không muốn đi kiếm tiền giúp gia đình sợ làm
lỡ dở sự nghiệp to tát sau này của mình. Tôi không bao giờ nói gì với Tuấn hết.
Sáu tháng sau ngày bị bắt Quang trốn thoát trở về Hà Nội. Tuấn
cho tôi biết tin Quang đã đi bộ ròng rã một tháng trời lạc trong rừng chịu đói
chịu khát cho tới khi không bước được nữa phải bò phải lết. May gặp quân tuần
tiễu Pháp nhặt được đưa về Hà Nội. Quang sắp chết và hiện nằm ở bệnh viện Đặng
Vũ Lạc Hàng Cỏ. Tuấn nói tại sao Quang có thể ngu dại chỉ vì gia đình mà liều
lĩnh đến chết. Tôi tức giận mắng Tuấn là thằng bất nhân bất nghĩa. Tuấn sững sờ
không ngờ tôi hung tợn làm vậy. Tôi nói nếu Tuấn xấc láo nữa tôi sẽ trừng trị
Tuấn thích đáng. Đời người không thể giản lược theo mấy nguyên tắc về chính trị
tư tưởng hay triết học, người ta không phải bắt buộc sống theo một vài khái niệm
sẵn có. Tương lai không phải là con ngáo ộp dùng để dọa và bóp chết hiện tại.
Phải làm đầy hiện tại, làm đầy… Tôi tới ngay nhà thương. Đẩy cửa buồng, tôi
trông thấy một bộ xương trần truồng. Thịt không còn, da teo lại cháy xám, những
đầu khớp xương nhô ra. Trên mặt râu tóc xồm xoàm khô cứng. Tôi chỉ còn nhớ
Quang nơi hai con mắt vẻ buồn vẫn thản nhiên. Quang cười, răng nhe vàng ớn, lợi
đỏ và dài. Quang không nói được. Tôi lấy tấm chăn mỏng phủ lên người Quang, lát
sau mẹ của Quang trở vào. Mặt và môi bà thâm sịt nhưng mắt đỏ hoe, hai tay gầy
guộc run rẩy. Bà kể lể biết bao nhiêu nỗi đau lòng. Bà lập chỉ cho tôi trong những
khuỷu tay khuỷu chân trầy loét cả xương. Tôi vẫn trông vào mắt Quang, mắt Quang
vẫn đảo được và Quang quay mặt đi. Quang không thể cựa quậy, không mặc quần áo
được. Quang tỏ dấu cho mẹ im lặng. Hai hôm sau Quang chết. Đám ma Quang đưa vào
buổi sáng. Đêm hôm trước tôi không thể ngủ. Sáng tôi dậy trước cả những chuyến
xe điện. Tôi nhảy chuyến xe đầu tiên lên phố. Buổi sáng mùa hè mát mẻ, bánh xe
lăn rần rần, tiếng chuông điện kêu ríu rít. Tôi đứng tựa sau xe cạnh thúng mủng
của vài người từ ngoại ô vào. Những người ấy xuống chợ Đồng Xuân, tôi còn lại một
mình. Qua Hàng Đào, căn nhà đổ nát đầu phố đã biến mất mang theo cả những mảnh
vải rách rưới, tôi mua vé đi hết đường. Hành khách buổi sáng thưa thớt. Tàu
băng qua thành phố để lại ra ngoại ô, chạy sát vào những mặt nhà thấp chưa tỉnh
hẳn. Tôi cứ nhìn vào sự chuyển động ấy mà thấy chóng mặt. Ở trạm cuối cùng tôi
bước xuống vỉa hè sứt mẻ, dưới đường cát bụi lồi lõm. Tôi đi bộ vào trong làng
để đến nghĩa địa, khu đất rộng trên một gò cao. Từ đây tôi có thể quan sát cảnh
vật chung quanh, một vài người đứng chơ vơ giữa đồng rộng, một khu đồn rào nữa.
Trên cỏ sương hãy còn ướt, một vài lỗ đất đào sẵn sâu hoắm. Tôi trải lá và giấy
dưới một gốc cây ngồi đợi đám ma của Quang. Mệt quá tôi có ngủ mất đi một lúc.
Bàng hoàng tỉnh dậy đám ma vẫn chưa tới. Nhiều tiếng chim hót trên đầu. Đã nhiều
năm tôi không để ý nghe tiếng chim hót bao giờ. Tôi đứng lên và lắng tai. Xa xa
thoáng tiếng xe điện chạy với tiếng chuông vội vàng. Từ phía rặng cây ở chân trời
con đường đất tiến lại qua mắt tôi. Một thứ tiếng động ầm ì không biết phương
nào đưa tới. Tiếng động rõ dần làm rung chuyển mặt đất lan tới chỗ tôi đứng. Một
đoàn chiến xa xuất hiện bò lùi lũi. Mặt đường bị đào lên. Đoàn xe càng tới gần
tôi càng đinh tai nhức óc. Thân thể của tôi cũng rung lên như mặt đất mỗi lúc một
dữ dội. Tôi nghẹn ngào và lại nằm lăn xuống cỏ. Tay chân mặt mũi tôi như bị cào
cấu bởi những móng tay sắc. Lát sau thì cảm giác tê dại. Trong tận cùng của cơ
thể sự vùng vẫy từng hồi yên dần, lịm đi. Tôi nhắm mắt vì nắng rực ở trên mi, đầu
óc tôi rất sáng. Giá lúc ấy người ta mang chôn tôi, tôi cũng biết nhưng không
thể nào làm gì để chống lại.
Buổi sáng ngoài bãi biển
Gởi Bống
Lúc này tôi cần được một mình, sự hiện diện bất cứ một người
nào thân cận đều làm tôi bực bội. Tôi cựa mình lách ra khỏi vòng tay của người
đàn bà, ngồi dậy đặt cái gối thay vào chỗ của tôi, hắn ôm cái gối trở mình vẫn
ngủ thiếp. Tôi thay quần áo xuống phố. Đi hết phố chợ ngắn tới bến xe đò, tôi
tiến gần bãi biển trên những mặt đường cao hơn. Gió biển thổi trong không khí
buổi mai se lạnh. Ở ngã ba con đường ra bãi, tôi tìm thấy một căn biệt thự kiên
cố có dựng tấm biển hàng ăn ở bên ngoài. Qua lối sỏi tôi bước vào một hàng hiên
bày ba bộ bàn ghế mây thấp có không khí gia đình. Tôi thả dài người trong chiếc
ghế rộng, hút thuốc lá ngắm khu vườn cây um tùm của biệt thự, nghe tiếng sóng bể
xa xa. Tôi ngủ chập chờn trong vài phút thú vị, suốt đêm qua tôi thức trắng.
Nghe tiếng chân, tôi mở mắt kêu lên: "Bà Georgieff". Người đàn bà
Pháp sửng sốt: "Ông Nghệ, có phải ông Nghệ không?". Bà Georgieff nắm
chặt tay tôi cảm động, trông bà già béo hơn xưa, quan sát tôi một cách chăm
chú, cặp mắt nâu long lanh của bà không có tuổi, da mặt của bà nhăn nhúm. Bà
kéo tôi ngồi xuống ghế và bà ngồi đối diện, bà hỏi tôi rất nhiều, tất cả những
gì về tôi trong những năm qua. Tôi trả lời vắn tắt, những câu hỏi khó đáp tôi mỉm
cười. Rồi bỗng bà Georgieff im lặng, bà ngó tôi lắc đầu bảo: "Ông mất ngủ".
Tôi bàng hoàng gật đầu. Bà cất tiếng gọi chị người làm ở nhà sau bưng lên cho
tôi một thau nước nóng và chiếc khăn mặt bông. Rửa mặt xong tôi tỉnh hẳn, tôi cảm
ơn bà chủ, tôi nói: "Bảy tám năm không có gì thay đổi cả". Bà
Georgieff xua tay: "Nhiều nhiều lắm. Nhưng trước hết ông hãy dùng điểm tâm
đã".
Bà Georgieff dọn cho tôi một cái toast, một ly cà phê sữa, bà
cũng uống cà phê sữa tiếp chuyện tôi. Bà hớp từng ngụm nhỏ bảo: "Ấy mỗi buổi
sáng tôi chỉ uống một cốc này là nhịn tới trưa". Tôi ăn uống thoải mái và
tìm lại sự thân mật dễ dàng như ngày nào chúng tôi còn ở ngoài Hà Nội. Khi tôi
ngó vào trong nhà tỏ ý một câu hỏi không muốn nói ra bằng lời, bà Georgieff hiểu
ngay, bà phác một nụ cười bảo: "Nhà tôi mất rồi, đã ba năm nay. Bệnh kiết
lỵ lâu ngày nó làm hỏng gan. Hồi mới vào đây chúng tôi cũng vẫn tiếp tục liên lạc
với bên Lào làm ăn nhưng từ khi ông ấy chết tôi bỏ rồi". Việc làm ăn mà bà
Georgieff nói là buôn thuốc phiện lậu; ngoài Hà Nội tôi quen ông bà Georgieff
là bởi công việc buôn bán ấy, tôi làm môi giới chạy hàng xách, hai vợ chồng nhà
này mở quán rượu ở phố Hai Bà Trưng. Ông Georgieff năm tôi gặp, gầy yếu, mới đầu
tôi tưởng ông nghiện thuốc phiện. Tôi không thể quên cặp mắt hóm hỉnh thông
minh của ông trũng xuống giữa hai gò má nhô xương, ông nói được tiếng Việt Nam
và ưa nói văn chương bóng bẩy. Những buổi tối mùa đông đến lấy hàng, ông thường
rủ tôi đánh cờ hay belotte. Điều tôi mến nhất ở ông là sự tế nhị trong phép
giao thiệp, chẳng bao giờ ông đá động đến chuyện chính trị giữa hai nước thời bấy
giờ. Ông coi tôi như một người bạn trẻ, bà vợ ông coi tôi như một đứa em, hơn
thế nữa một đứa con. "Ông còn nhớ Charles không? Bây giờ hắn ở Hồng
Kông". Tôi nhìn vào mắt, lên trán lên tóc bà Georgieff, tôi nói: "Hôm
nay bà thiếu cái khăn choàng"; bà mỉm một nụ cười âu yếm. Buổi sáng hôm ấy,
tỉnh rượu, nằm trên giường trong nhà của gia đình Georgieff, tôi trông thấy bà
đứng ở giường chít một cái khăn dạ xám. Đêm trước là đêm Giáng Sinh, ông bà
Georgieff mời tôi tới ăn Réveillon tại nhà, và giới thiệu với Charles một người
bà con xa của gia đình, là phóng viên trong quân đội viễn chinh. "Hắn giải
ngũ rồi và làm phái viên cho một nhật báo". Nói chuyện với Charles, để che
giấu cái tự ti mặc cảm của tuổi hai mươi, tôi uống rượu mạnh như hắn, tới nửa
đêm tôi gục nôn mửa bừa bãi; Charles ra mặt trận ngay sáng hôm sau. Tôi cười
nói với bà Georgieff: "Nghĩ lại đêm Noel tôi còn xấu hổ. Bây giờ thì tôi uống
rượu đã khá". Bà đứng lên pha thêm cà phê vào cốc của tôi nói giọng mơ
màng: "Đêm Noel ấy là vui nhất của vợ chồng tôi đấy. Sau này chỉ còn hai vợ
chồng già thui thủi. Nhất là vào đây mới chán, sống Hà Nội quen thành ra cũng
nhớ. Tôi đang thu xếp xin về Pháp". Tôi nín thinh nhìn xuống bàn chân nhăn
nheo của người đàn bà ngoại quốc, thoáng thấy lại một vài cảnh gặp ở ngoài phố.
Chợt nhớ ra, bà Georgieff hỏi tôi: "Ông có thực hiện được điều mơ ước ông
nói đêm Noel không? Ông bảo ông sẽ viết văn và ông sẽ dành cho những người Pháp
như vợ chồng chúng tôi một cuốn sách. Ông còn nghĩ tới điều đó nữa
không?". Tôi lắc đầu đáp: "Tôi có nói thế hay sao? Tôi quên tiệt. Bà có
thể tin là tôi trở thành nhà văn được ư?". Bà Georgieff trố mắt ngạc nhiên
vì câu hỏi vô lý của tôi, tôi đứng dậy đi mấy bước qua mặt bà và nói tiếp:
"Bà trông tôi có dáng văn sĩ không?". Bà xịu mặt không trả lời, tôi
biết mình đùa lố bèn xin lỗi, bà an ủi: "Ông không được mãn nguyện".
Mấy ngày ra nghỉ ở đây tôi đã quên được cái không khí buồn nản đầu độc của Sài
Gòn, bỏ lại những bộ mặt quen thuộc đáng ghét phải gặp hàng ngày là những mặt
nước ao tù phản chiếu bộ dạng của tôi trong đó thành những hình thù trơ trẽn.
Chỉ trong một giây, tôi nổi giận một cách bệnh hoạn, trông thấy tất cả những mặt
ấy hiện lên bao vây tôi reo hò bằng một thứ tiếng quái gở. Tôi nói: "Tôi bất
mãn với tôi". Bà Georgieff đổi chuyện hỏi: "Ông Nghệ còn ở chơi ngoài
này lâu không? Tôi mời ông ở lại đây cho vui, tôi chẳng có bè bạn nào".
Tôi đáp rằng tôi còn một người bạn gái nên bất tiện, bà lại hỏi: "Nếu ông
không bận ra biển mình đánh vài ván súc sắc". Tôi nhận lời, tôi rất đỏ, thắng
điểm liên tiếp. Khi trời đã có nắng, xung quanh chúng tôi vẫn vắng vẻ êm tĩnh lạ
lùng, tôi nhìn cái dáng cúi của bà Georgieff theo dõi bàn tay tôi khi lắc mấy
con súc sắc ném xuống cái khay tròn bọc nhung, tôi hỏi: "Bà vắng khách nhỉ?".
Bà vơ mấy con súc sắc đáp: "Từ nãy giờ tôi mới thấy ông ném một lần mà hỏng
ngay, ông đỏ lắm. Ông quên hôm nay là sáng thứ Hai, du khách về Sài Gòn hết cả
rồi". Tôi ngắm cái bàn tay da đã dùn và đầy tàn nhang của người đàn bà ngoại
quốc nhớ tới cái khuỷu tay trắng của một người đàn bà khác có một vài nốt muỗi
đốt đỏ thò ra cửa xe tắc xi tôi gặp một bữa trên đường phố Sài Gòn đã làm tôi
liên tưởng tới những nhân vật da trắng – của một tác giả Anh – tàn tạ hư hoại cả
một đời ở những xứ thuộc địa xa lạ. Bỗng nhiên tôi muốn nói vài điều giấu kín với
bà Georgieff. Tôi thường thổ lộ tâm sự với những người gặp gỡ thoáng qua chốc
lát, không bao giờ với người thân cả. Bởi tôi không muốn những người còn gần
gũi với tôi lâu dài biết, họ sẽ là phần phụ của trí nhớ tôi, làm tăng thêm những
nỗi ám ảnh mà riêng ở tôi đã đủ nặng nề rồi. Tôi nói với người lạ, những người
chỉ gặp một lần, họ nghe đó và thường khi họ cho là tôi bịa đặt hoặc có tin họ
cũng chẳng thường xuyên bên cạnh tôi để nhắc nhở. Nói với người lạ là được nói
một mai ngân hàng ở trạng thái bình thường.
Bà Georgieff ngửng đầu lên nhắc: "Tới phiên ông, ông
nhìn gì đó". Tôi bốc mấy con súc sắc lên bàn tay đáp: "Tôi đang ngắm
bà và nghĩ đến câu chuyện của tôi". "Chuyện gì?". Tôi ném ba cái
hột xương xuống mặt khay lật ngửa ba mặt người chạm màu đỏ ngồi trên ngai, tôi
nói: "Một trong những câu chuyện tôi không thể nào viết ra được. Bữa kia
tôi đi trên một chuyến xe buýt đông người từ ngoại ô vào thành phố. Tôi đứng
bên một người đàn bà Pháp gầy yếu? Bà ta mặc một cái váy đã cũ, tóc bà vàng
cháy cứng, tay đeo một cái sắc vải nhăn nhúm, cầm một cây dù, một tay níu lên
thanh sắt ở trần xe, chân bà đi đôi săng đan kiểu trẻ con. Mỗi lần xe chuyển động
bà xô vào người tôi là bà lại lắp bắp xin lỗi. Bà lấy vé người ta thối lại cho
bà năm cắc bằng ba đồng nhôm tròn to nhỏ không đều, bà cầm chắc trong bàn tay.
Một lúc bà đánh rơi mấy đồng hào xuống ván xe tôi cúi xuống nhặt hộ cho bà, khi
ngửng lên tôi trông thấy bà đang thò tay rút lấy cái bút máy trong túi áo của một
người đàn ông đứng cạnh… Ba con súc sắc ném xuống, hai con tung ra khỏi khay,
lăn xuống đất, bà Georgieff chăm chú ngó tôi, tôi vừa nhặt chúng lên vừa nói:
"Đúng ra thì lúc ấy tôi tưởng tượng và tôi trông thấy. Bởi bà ta nhận mấy
đồng tiền tôi trao lại lúng túng thú nhận một thứ tội lỗi nên tôi trông thấy những
việc không bao giờ xảy ra. Có nhiều chuyện nữa, tôi trông thấy và tôi không viết
ra được nên tôi… Tôi cứ có cảm tưởng là tôi trông thấy những bóng ma trong khi
những kẻ khác thì tin vào khoa học". Bà Georgieff hỏi: "Ông không viết
vì thế?". Tôi gật đầu. Bà Georgieff lại hỏi: "Có phải lúc ấy ông nghĩ
đến vợ chồng chúng tôi không?". Tôi không thể trả lời câu hỏi ấy. May mắn
vừa lúc mấy người Mỹ bước qua cổng đang đi vào trong vườn, tôi bảo: "Bà có
khách, lúc khác tôi lại thăm bà". Bà nắm chặt tay tôi tỏ nỗi xúc động:
"Cám ơn, cám ơn Nghệ". Lẽ ra lúc bấy giờ tôi phải ôm hôn lên trán bà
Georgieff và nói: "Từ biệt Emma". Tôi từ biệt bà lặng lẽ.
Tôi đi từ trên hành lang xuống vườn theo lối tráng xi-măng
thoai thoải phía bên trái, bọn khách hàng của bà Georgieff lên lối bên phải, nhìn
thấy ở xa dưới những hàng cây một chút mặt biển như một vũng nước xanh rờn,
nghe thấy tiếng bà Georgieff gọi với: "Nhớ lại thăm tôi nghe Nghệ",
tôi quay lại vẫy tay mỉm cười. Ra ngoài đường, tôi lại tỉnh một giấc nữa. Cái cảm
giác sau đêm thức trắng là cảm giác trồi sụt liên tiếp qua những trạng thái mê
tỉnh gần nhau khó phân biệt, nhưng có một lúc người ta cảm tưởng mình sáng suốt,
ý thức như bay trên cái cơ thể mệt mỏi, thoát ngoài cái khối đầu đảo nặng, và
nhìn sự vật bên ngoài qua một lớp màn che là cái thân xác uể oải. Một người nào
cũng đã hỏi: "Ông sống nhiều thế, ông có thể viết văn được, tại sao không
viết?". Tôi đưa trí óc tôi bay lởn vởn về những chốn đã đi qua để tìm người
đã nói. Tôi nghe thấy giọng trả lời giễu cợt của tôi sau câu hỏi: "Tôi cần
được một nhà văn nâng đỡ khuyến khích như bà chẳng hạn". Hẳn là nữ văn sĩ,
chừng ngoài ba mươi tuổi, không đẹp lắm nhưng có một thân hình khéo léo. Đó là
một buổi chiều, ở lưng chừng con đèo cao gần nơi đồn trú của tôi, hắn dừng xe
ngắm cảnh mặt biển hoàng hôn ở dưới thấp, và tôi vừa tắm dưới suối leo lên đường.
Hắn đi với một người đàn bà khác, cũng là văn sĩ, gầy và xấu hơn, cả hai đều mặc
quần chẽn đen bó sát ống chân, áo sơ mi xắn tay những hàng kẻ ngang lớn màu nâu
như da ngựa vằn. Tôi vốn không ưa bọn văn sĩ, nhất là văn sĩ đàn bà, vai trò bọn
ấy đóng trong đời sống xã hội là một vai hề làm vui bọn khán giả vô ý thức,
riêng bọn văn sĩ đàn bà là bọn hề khôi hài bằng vẻ đạo mạo nghiêm trọng. Suốt
buổi gặp gỡ, tôi giả bộ tỏ lòng ngưỡng mộ kính phục hai nhà văn của tôi và lấy
làm thú vị về sự trêu cợt. Tôi đưa bọn họ lên trên ngôi bắt họ đóng cho tôi
xem. Khi thoạt trông thấy hai người đàn bà đứng trên đèo chênh vênh với hai bộ
y phục giống hệt nhau như hai con thú vừa được xổ chuồng, tôi đã nhận ra một
người. Tôi đã bắt gặp bộ mặt tự mãn này trong một tờ báo nào qua một cuộc phỏng
vấn có đăng hình bộ mặt thò lên sau một cái bàn giấy sau lưng là tủ sách đóng
gáy da, tay đang cầm bút đặt ngòi trên một thếp giấy nhìn thẳng vào ống ảnh.
Tôi tiến lên trước mặt hắn, diễn tả bằng một giọng nói kiểu cách sự vinh hạnh
được yết kiến những nhân vật quan trọng trong xã hội: "Thưa bà, nếu tôi
không lầm thì bà là X. tác giả cuốn…". Tôi ngập ngừng vì quên mất tên cuốn
sách của hắn, hắn tưởng tôi lúng túng vì cảm động và ban cho tôi một tia mắt
thân thiện. Sau đó tôi được giới thiệu với người thứ hai, một nữ văn sĩ đã từng
du học ngoại quốc, bộ mặt người này gồm những nét gầy và góc nhọn, cặp mắt sắc,
tất cả những chi tiết mà người đời thường cho là biểu hiệu của trí thức, riêng
tôi, tôi nhận ra ngay đó là cái mặt của dục tình bị đè nén. Tôi mời hai người
đàn bà về thăm chỗ trấn đóng của tôi. Ngồi ghế sau xe hai người tôi tìm hết lời
ca tụng nhà văn đẹp của tôi. Tôi hỏi: "Trong bài phỏng vấn bà, tôi thấy
nhà phóng viên giới thiệu bà giống một nhà văn ngoại quốc nào đó, thưa bà có
đúng như thế không?". Hắn nhắc lại tên nữ văn sĩ kia bằng giọng uốn éo nhịp
nhàng hãnh diện, tôi nói: "Tôi tiếc chưa được đọc nhà văn kia để so sánh với
bà". Hắn giảng cho tôi nghe về tác phẩm của nữ văn sĩ ngoại quốc như bà
giáo giảng bài cho học trò, toi luôn luôn gật gù mỉm cười. Sự thực thì tác phẩm
của thầy hắn cũng như của hắn tôi chỉ đọc vài trang là liệng đi, bởi chúng chẳng
liên quan gì đến cuộc sinh hoạt của tôi. Tôi không thể nghe những câu chuyện ngồi
lê đôi mách của đàn bà, những lời giáo huấn của các bà mẹ bà chị, những tình cảm
vụn vặt quanh quẩn nơi xó nhà… Trong khi đưa hai nhà văn đi thăm trại, tôi ra lịnh
cho lính của tôi chọc thủng bánh xe và lốp phòng hờ của họ. Nhà văn đẹp của tôi
ngạc nhiên trước mọi cảnh tượng khiến tôi không nín được cười, tôi ưa cái nét mặt
bất động dửng dưng của người bạn hắn. Chúng tôi bàn luận về sự nghèo nàn của
văn chương hiện đại. Tôi nói: "Nước nhà còn hai nhà văn như bà với cô đây
là đủ quá rồi". Nhà văn đẹp của tôi nhìn ra chỗ khác đáp: "Ông quá
khen". Chỉ có người bạn nhìn tôi bằng cặp mắt nghiêm nghị xét đoán, tôi
đóng bộ mặt thật thà ngớ ngẩn khiến hắn bật cười một tiếng ngắn khô khan. Khi
đưa h ai người đàn bà ra xe, tôi đóng kịch làm một anh chàng thi nhân ngô nghê,
tôi kêu lớn như không ngăn giữ được tình cảm: "Trời ơi, mặt biển buổi chiều
đẹp quá chừng, nước tím như màu mắt người yêu ban đêm vậy. Bà có nhìn thấy sóng
vỗ như đập vào những ngọn cây dưới chân núi không?". Nhà nữ văn sĩ đẹp của
tôi, mặt ngây ra một cách dại khờ, có lẽ hắn đang cố làm cho tâm hồn hắn loãng
ra trong cảnh vật dễ rung động. Tôi chỉ muốn tát cho hắn một cái để nhắc với hắn
rằng có một người đàn ông thô bạo đang đứng sát bên hắn và đang quàng tay ngang
lưng hắn. Nhưng hắn đã tự hút trống hết hồn hắn, không chú ý gì tới xung quanh,
hắn không nghe thấy cả tiếng bạn hắn gọi từ phía xa. "Bánh xe hết hơi rồi…
không về được thành phố kịp tối nay đâu…". Tiếng gọi bạt trong cơn gió thốc
buổi chiều. Hình ảnh hai người đàn bà gió thổi làm mỏng đi trên đèo cao và trước
mắt tôi hiện lên màu ngọc bích chập chùng của những rừng núi chạy biền biệt đến
cuối tầm mắt. Tôi bỏ mặc người đàn bà ngu dại ướt sũng những tình cảm, đi lại
phía xe hơi. Bạn hắn ngó tôi với cặp mắt hiểu hết ngọn nguồn, chúng tôi cùng cười
vang với nhau đồng lõa. Tôi rủ người này leo lên một mô cao nhìn về những lớp
núi rừng trùng điệp phía tây, mặt trời khuất từ lâu sau những ngọn cao, đã nhuốm
màu đen xanh chếnh choáng. Tôi nói: "Như cặp mắt của cô lúc cười tình tứ, bỏ
quên cái vẻ nghiêm khắc bức bối ban trưa". Lát sau nhà nữ văn sĩ đẹp leo
lên chỗ chúng tôi đứng nói với bạn: "Cậu có thấy không, con người thật là
ti tiểu trước cái bát ngát của vũ trụ. Lúc nãy tôi tưởng như tôi có thể tan
ngay tức khắc trong không trung, mình chẳng cần hiện hữu làm gì". Tôi vội
đáp: "Không nên, không nên, một người đẹp như bà mà mất đi, không thể được.
Và thiệt thòi cho văn chương biết là bao". Người đẹp nghiêm chỉnh đáp:
"Văn chương cũng chỉ tầm thường, sánh sao nổi với vẻ đẹp của vũ trụ, lúc
này đừng nghĩ đến văn chương thêm thẹn". Tôi hỏi: "Người như bà mà
còn ti tiểu, thứ như tôi chắc là đồ bỏ đi". Người bạn thúc khuỷu tay vào
người tôi ý không muốn tôi nói nữa. Trong bữa cơm thết đãi hai vị khách quý,
tôi và người bạn uống hết nửa chai rượu còn lại, chiều hôm trước mình tôi đã uống
hết nửa chai. Chúng tôi nói chuyện ồn ào. Trước mắt người đẹp chúng tôi như hai
con thú rừng nô giỡn dọa dẫm con thú nhà khiếp sợ, tôi vui thích với người đàn
bà có rất nhiều đàn ông tính. Người đàn bà ấy đã vỗ vai tôi một cách thân mật bảo:
"Tôi khuyên anh không nên viết văn, văn chương nó làm hỏng anh đi".
Tôi trợn mắt làm hề nói với người đẹp: "Bà nghe bạn bà nói có xuôi
không?". Người đẹp chỉ nhắc bạn: "Cậu bắt đầu say rồi đấy". Tôi
ngắt lời người bạn: "Không, cô ấy chưa say, tôi hoàn toàn đồng ý. Nhất là
đàn bà lại càng không nên viết văn, cô có đồng ý với tôi không nào?". Mặt
người đẹp sưng lên vì giận dữ, còn mắt người bạn thì long lanh một vẻ đẹp man rợ
hòa hợp với những nét sắc cạnh trên mặt. Chừng hơi say hắn nói không nể nang:
"Đồng ý, hoàn toàn đồng ý. Kinh nghiệm bản thân đây – hắn cười một cách thỏa
thê – muốn làm đàn bà hiền thục hãy sống hiền thục, đừng viết hiền thục, giả dối.
Đã viết là biến chất, như tôi là hóa thân thành cái khác mất rồi. Tôi thành đàn
ông, có phải không? Mà thành đàn ông nhiều lúc nhớ đàn bà vô kể". Tôi vỗ
tay như xem trình diễn trên sân khấu. Hứng chí hắn tiếp lời: "Như anh
không viết là phải, nếu ưa cái đời sống của mình thì hãy sống với nó thực hơn.
Viết là muốn cái khác, trong khi muốn cái khác mà cứ phải che đậy nói về cái
mình đã bỏ đi là giả dối, là đạo đức giả. Anh có ưa cái đời sống loăng quăng
này của anh không? Có. Anh còn muốn gì khác không? Không. Vậy đúng rồi, ôm lấy
nó mà sống mà tận hưởng thú vị, việc gì phải viết, bỏ cái thú sống thực đổi lấy
cái thứ sống giả". Tôi chìa tay ra cho người đàn bà lạ lùng ngồi trước mặt
bắt lấy, tôi rung rung hai bàn tay ướt lạnh mồ hôi bảo: "Cám ơn. Thật là
chí lý. Cô là một nhà văn chính cống, tôi thành thật khen ngợi. Có nhận lời
khen của một nhà văn chưa viết không?". Hắn đưa tay lên vuốt lại mớ tóc cắt
ngắn, mặt nhăn nhó nói: "Rất hân hạnh, hân hạnh lắm. Có thể nhận được lời
khen của nhà văn không bao giờ viết cũng được". Nói xong người đàn bà ấy
cúi gập mình xuống nôn ọe, nhà nữ văn sĩ đẹp không rời khỏi ghế nói chỏng:
"Đã bảo mà, say rồi". Tôi xô ghế đứng dậy đỡ người bạn, hắn nôn thốc
vào cánh tay tôi, bắn cả lên ngực áo. Tôi dìu hắn về cái ghế nằm của tôi, hắn
thì thào: "Chưa khi nào say tới như thế, mình say thật rồi… Xin lỗi hộ tất
cả mọi người có mặt… Ra xin lỗi hộ mọi người … bảo… bảo mình cần phải ngủ lắm…".
Tôi hôn lên trán hắn như hôn đứa em gái ngỗ nghịch nhưng hắn ngủ vùi mất rồi.
Khu đồn của tôi đóng trên một khoảng đất nghiêng thấp hơn mặt đường, trần trụi
cỏ không mọc được, giáp lưng vào một thung lũng nhìn ra biển. Đêm đêm từ đồn xuống
xa xa dưới hũng tối óng ánh vùng điện của một thị trấn và ngày tới mặt trời mọc
dưới tầm mắt mình. Tôi nhận ra tôi đã đi sâu vào phố bỏ xa bãi biển, những dãy
phố nhỏ nhà thấp, cây thấp. Tôi tìm đường trở lại khách sạn. Cửa phỏng mở, Hợi
đã dậy đang ngồi bói bài một mình ở đi-văng, những quần bài nhỏ bằng hộp diêm
được xếp thành hàng tư ngay ngắn và hắn ngồi ngắm chúng thẫn thờ. Tôi tới nằm
lên giường nhắm mắt nghỉ ngơi. Một lát tôi nghe tiếng hỉ mũi, tôi mở mắt nằm
nguyên nhìn Hợi. Hắn vẫn tiếp tục bói bài bằng đủ mọi kiểu, hắn lật ngửa từng
đôi một thỉnh thoảng chọn lấy một con đặt riêng sang bên, hắn xếp bài thành
hình tròn quay quanh một quân nằm giữa, rồi xóa đi bày thành hàng dài lấy tay đếm
năm quân một lại ngừng… Mấy gian phòng xung quanh có lẽ người ta đã trả lại nên
im lặng. Ngoài cửa phòng của tôi là một khoảng hình vuông thụt vào của cái hành
lang hẹp, mấy cửa phòng đâu vào nhau, đầu hành lang nơi cầu thang đêm trước là phòng
của một dân Mỹ. Chiều thứ Bảy tôi ra đây định ở ít hôm một mình, có những lúc
tôi cần sự cô đơn để giải những chất độc của đời sống hàng ngày tôi phải thở
hít. Nhưng chỉ được một buổi chiều tôi lại thấy cần một đồng bạn. Buổi tối tôi
tìm đến một khách sạn lớn có phòng khiêu vũ. Phòng khiêu vũ này chỉ mở mỗi tuần
một tối thứ Bảy là ngày đông du khách, người ta đón những vũ nữ từ Sà Gòn xuống
rồi sáng Chủ nhật lại đưa về. Đám vũ nữ rẻ tiền không sống được ở thủ đô, đành
phải đi kiếm ăn xa, họ được nuôi ăn bữa chiều thứ Bảy, bữa sáng Chủ nhật và ngủ
ở hiên nhà ngang phía sau phòng nhảy, khi tôi đi vào nhà sau qua chỗ này tôi thấy
những ghế bố đã giăng màn sẵn, xung quanh ngổn ngang những thanh gỗ đang bào
còn chất đầy vỏ bào, người ta đang sửa nhà. Tôi gặp Hợi, người vũ nữ cuối cùng
chưa ngồi bàn, hắn có nét mặt dễ thương, khuôn người còn có dáng, tính lại dễ
dãi xuề xòa. Không khí trong phòng tối tăm khó thở, âm nhạc thì lổn nhổn chói
tai, có một nữ ca sĩ lại hát tiếng Trung Hoa và tiếng Mỹ giọng Tàu. Tôi đề nghị
với Hợi ra ngoài bãi tắm. Hắn hẹn với tôi nửa đêm quay lại đón, hắn sẽ về khách
sạn của tôi. Tôi bỏ ra ngoài bãi thuê ghế nằm hóng mát. Gần bên tôi có một người
mang theo cái máy phát thanh nhỏ trong ấy có một buổi hòa nhạc. Một lúc nào tôi
nghe được một khúc Sonate bằng trung hồ cầm lẫn với tiếng sóng biển. Tôi thấy
tôi được hạnh phúc hoàn toàn. Tôi tơ tưởng về hạnh phúc của tôi. Tôi sinh ra
không phải để hưởng thứ hạnh phúc trọn vẹn hoàn hảo, hạnh phúc theo thói quen,
bởi như thế khi tỉnh giấc sẽ chán và khổ vô chừng. Rồi hạnh phúc trở nên một thứ
tù ngục, chính vì lẽ đó mà nhiều người hoài nghi hạnh phúc phá vỡ tới cùng bất
cứ cái định nghĩa nào về hạnh phúc. Đừng bảo những người ấy là khao khát tuyệt
đối, họ là những người không sống và chỉ nghĩ suy về đời sống thôi. Có lẽ vì lối
sống lang bạt, vì sự sáng suốt của tôi, tôi không muốn tìm cái hạnh phúc ấy,
tôi nhận rằng với tôi chỉ có một thứ đáng kể ở đời là những bonheur d’occasion
như lúc này. Tôi hưởng hết cái hạnh phúc ấy trong những dịp may mắn tôi gặp,
không cho cái hiện tại hay cái tương lai vào khuấy động phá tan để suốt đời tay
trắng chua chát. Rồi khi mất chẳng ân hận luyến tiếc. Không toan tính không lo
nghĩ, hạnh phúc đến và đi theo cái ý muốn của đời sống xung quanh và tôi sống
buông xuôi tay như thả mình cho nước cuốn. Như lát nữa tôi sẽ bảo với Hợi lưu lại
với tôi ít ngày, tôi còn một món tiền đủ hai người tiêu chung, chúng tôi hợp
nhau lại mà hưởng những thú vui của những người cô đơn cần có nhau. Và khi sự
cô đơn đã lấp đầy, chia tay nhau trong một thứ tình cảm mong manh ấm áp như những
ngọn lửa sưởi trong cuộc hành trình mỗi người một ngả còn dài dằng dặc. Tôi chỉ
chịu được những tình cảm đột khởi rồi dịu xuống mất đi và thù ghét những tình cảm
phải chăm nom giữ gìn. Tôi có ý nghĩ ngược đời sau này: những kẻ ghê gớm tàn nhẫn
nhất là những kẻ sống thuần với tình cảm, những tình cảm mà mỗi ngày họ nhóm
thêm cho cháy rực, đến độ thành đam mê ngu muội. Một ngày nào người ta sẽ nhân
đạo hơn khi người ta sáng suốt thảnh thơi, coi thường tình cảm, lòng yêu ghét
thù hằn giận hờn không bao giờ kéo dài qua giây phút. Khi cô đơn, khi hưởng hạnh
phúc, tôi ưa tới những nơi xa lạ không người quen biết, những phòng khách sạn đồ
đạc trở về ý nghĩ khởi đầu là để dùng vào một việc nhất định nào đó không phải
để quyến luyến. Cắt đứt mọi liên lạc ràng buộc tình cảm, tôi trôi qua những người
và sự vật chung quanh mình không ghi một dấu vết. Bản Sonate tới những khúc nhạc
cuối cùng, thả xuôi trên dây trầm còn một thứ rung động nhẹ nhàng trước khi tan
biến. Tôi ưa âm nhạc ở điểm đó, nó ghi lại hạnh phúc và rồi thôi, trả lại cái
nhịp hỗn loạn cho đời sống. Nó không có cao vọng như văn chương là muốn chụp
lên đời sống để sửa đổi nó. Vô ích, vô ích lắm.
Tôi quay về phòng khiêu vũ lúc gần một giờ sáng, trăng ở trên
đầu yếu đuối. Trong phòng đã thưa người, nhưng Hợi vẫn còn nhảy với mấy người
trai trẻ náo động. Tôi ra ngồi trên thành bể xây hình thang ngoài sân khách sạn,
hút thuốc lá nhìn một cặp vợ chồng đứng dựa trên từng lầu ba ngắm mặt biển
trăng. Bọn trai trẻ bỏ về, tôi vào. Ở cửa phòng tôi nghe một giọng hát âm đàn
ông, tôi không ngờ đó là Hợi. Hắn hát vụng về lỗi nhịp trong giọng ngân không
giấu được sự cảm động, nhưng bài hát và hắn tạo ra được hết cái không khí mệt mỏi
nửa khuya. Tiếng cười nói xầm xì, mấy cô vũ nữ ngồi vây quanh quầy rượu trên những
chiếc ghế cao cẳng tính tiền vũ phiếu. Bồi bàn đang dọn dẹp những bàn trống,
trong những góc tối một hai bọn khách đang điều đình rủ những vũ nữ về với
mình. Hát xong Hợi đi xuống chỗ tôi ngồi, hắn cầm khăn tay chấm nước mắt và hỉ
mũi. Trong bóng tối của căn phòng khách sạn, giữa tiếng ồn ào cãi lẫy bên phòng
người Mỹ, hắn đã thì thầm tâm sự với tôi mộng ước của hắn là trở thành ca sĩ để
kiếm tiền đỡ cực nhục hơn, khi tôi khen hắn hát hay, hắn bảo với tôi: "Bọn
cao bồi nó cứ định kéo em đi, em trông anh hoài không thấy". Ra đến ngoài
đường hắn yêu cầu tôi: "Anh đưa em ra ngoài bãi một lát cho mát, về làm gì
sớm vậy. Về bây giờ em cũng chẳng ngủ được đâu, nhiều hôm không đi làm em cũng
quen mắt thức đến ba bốn giờ sáng". Chúng tôi trở về khách sạn lúc ba giờ
sáng. Tôi phải đánh thức người gác cổng ngủ ở ghế bố ngoài đầu hè dậy mở cửa
cho chúng tôi. Tôi ở một khách sạn nhỏ, lối vào một hẻm đóng bằng cửa sắt kéo.
Tôi dậy tới ngồi cạnh Hợi, trong khi hắn đang xếp và trang
bài. Mắt hắn đỏ hoe, hắn đã đánh phấn thoa một chút hồng lên hai gò má che được
phần nào lớp da mặt rỗ. Tôi nhớ sáng hôm qua khi thức giấc, cái ánh nắng lộ liễu
của nửa sáng chiếu vào phòng đã phô ra trước mắt tôi một con người khác đêm trước.
Tôi hơi ngạc nhiên nhưng không thất vọng. Cái mặt rỗ của Hợi làm xấu hẳn đi
nhưng tôi ưa cái xấu đó, cái xấu làm cho người ta trở nên tầm thường hèn mọn và
dễ yêu hơn. Tôi hỏi vu vơ: "Em buồn hả?". Hợi đáp: "Ừ, em buồn,
em nhớ nhà. Tự dưng có những lúc em buồn phát khóc vô cớ, nhưng chỉ một lát
quên ngay". Hắn vừa nói vừa mỉm cười: "Anh để em bói cho anh một quẻ".
Hắn bắt tôi đặt bàn tay trái lên bộ bài, hắn bảo bàn tay ấy thông với quả tim
và khi mình nghĩ tới điều gì thành thật nó sẽ hiện lên, kinh bài ra làm hai phần,
nhặt lấy một cây bản mệnh. Hắn bày bài ra xem một mình không giảng giải với tôi
một lời nào. Tôi hỏi thì hắn xỏa đi lắc đầu bảo: "Anh chẳng có chuyện gì cả,
anh chẳng nghĩ đến chuyện gì hết". Tôi nghĩ mình đã dại, chắc hắn muốn tìm
đọc trong bài để hiểu tôi, tôi biết chắc rằng hắn chẳng thể hiểu nổi tôi nhưng
tôi không thích hắn vẽ trong đầu bất cứ một hình ảnh nào về tôi. Tôi đứng lên bảo
Hợi: "Thôi, chúng mình ra biển chơi". Hắn mặc áo cánh trắng, choàng
cái khăn mỏng lên tóc, mang cặp kính đen mắt xếch và xách cái túi đựng quần áo
khăn tắm cho tôi. Hắn bảo: "Anh đưa em ra chợ mua cho em mấy bản nhạc để
em ngồi hát cho đỡ buồn khi anh tắm". Chợ trưa đã vãn người. Những gian
hàng, người mua bán không còn hoạt động náo nhiệt. Mọi sự chuyển động như theo
một nhịp máy điều hòa tất nhiên đến nổi cho người ta cái cảm tưởng là một sự
chuyển động tĩnh, chết. Trong khi Hợi đứng chọn nhạc trong một gian hàng bên
hông chợ, tôi thơ thẩn dạo mát qua những cuốn sách bày trong tủ kính. Tôi tự hỏi
lẩn thẩn những người đọc tìm thấy những ý nghĩa gì khi nhìn những bìa sách để
có thể mua về vùi đầu vào đọc mê mải. Đối với người viết thì đã đành hắn có thể
thỏa mãn lúc viết xong vì đã giãi bày được những điều ấm ức trong lòng hay hắn
hãnh diện một cách lố bịch là hắn đã quan trọng vì làm được một công trình hữu
ích cho đồng loại, cho hậu thế. Nhưng còn người đọc? Tôi rất ít đọc sách bởi
tôi coi thường cái tâm sự của người khác và tôi cũng không tin nốt cái hữu ích
của sách vở văn chương đối với xã hội. Tôi tự ví tâm hồn tôi như tâm hồn của tỉnh
lỵ, liên lạc với bên ngoài những gì cần thiết, còn ngoài ra sống trọn cho mình
để quên, quên tất cả. Tỉnh nhỏ không có trí nhớ hay chỉ có trí nhớ chết mà
thôi, lạc giữa tỉnh nhỏ tôi là một người hoàn toàn tự do. Hợi còn mua thêm một
trái mãng cầu xiêm, hắn nói: "Tắm xong anh ăn món này ngon lắm".
Bãi biển vắng ngắt, cách chừng vài trăm thước mới có một hai
gia đình ra nghỉ hè còn lưu lại. Chúng tôi chọn hai cái ghế dưới bóng rợp của một
kiosque có đặt bàn bi-a và máy phát điện. Tôi xuống tắm và Hợi ngồi trông quần
áo cho tôi. Mặt biển phẳng lặng, nước buổi sáng càng ra xa càng mát lạnh. Trước
mắt tôi là một mặt phẳng mênh mông lấp lánh ánh nắng. Những lúc hụp đầu xuống
tôi mở mắt trong màu xanh đục lẫn những vẩn vàng nhỏ li ti. Tôi cử động một
cách khoan thai. Lúc tôi quay nhìn vào bờ, Hợi nhỏ lại lẫn vào trong những đồ vật
của bãi biển hình vòng cung. Tôi chỉ nhận ra hắn nhờ ánh mặt trời phản chiếu
trên mặt kính đen. Tôi bơi ra xa hơn nữa. Tôi nghĩ nếu tôi cứ cử động chậm chạp
như thế này mãi cho tới khi tay chân cứng lại chìm xuống thì trên mặt biển rộng
không phương hướng này tôi sẽ tới chỗ nào. Trong khoảng thời gian ấy đối với
tôi vẫn có nghĩa là một đời tôi còn lại; đối với Hợi là bao lâu, nửa ngày, một
ngày, hai ngày…; đối với bà Georgieff. Tôi hụp đầu xuống và bị sặc, tôi không
dám nghĩ nữa. Với bà Georgieff, tôi mất bây giờ, hay vài năm nữa, hay vài chục
năm nữa, tôi cũng vẫn là cái thằng bất đắc chí buổi sáng hôm nay, nếu tôi không
trở lại gặp bà bằng cách này hay cách khác. Tôi quay người trở vào bờ tìm đích,
nhưng không còn nhận ra chỗ ngồi của Hợi nữa. Một ý tưởng lởn vởn: nếu bây giờ
chuột rút tôi chìm xuống giữa đường bơi vào bờ. Tôi sợ hãi. Thời gian còn lại
cho tôi được bao lâu nữa? Làm thế nào biết được. Tôi chết trước khi vào tới bờ,
tôi là kẻ mất tích. Chỉ có một kẻ bị liên quan đó là Hợi và hắn phải chịu đựng
cái chết của tôi một cách vô lý đến thế ư? Tôi thả người bơi ngửa nhìn lên trời
cao để quên sự ngọ nguậy láo khoét trong đầu. Làn nước mát ôm lấy tôi như da thịt
rời rợi của Hợi. Khi tôi quay sấp người tôi thấy tôi lạc hướng. Tôi vội nhắm
vào gốc cây lớn làm đích để bơi thẳng. Tôi đạp mạnh, soải dài tay như mở một cuộc
thi. Tôi bơi thi một mình với sức lực của tôi. Tôi không nghĩ gì nữa hết, xung
quanh tôi là tiếng dập ồn ào của chân tay tôi. Khi tôi bắt đầu bị uống liền vài
ngụm nước mặn chát, chân đập chìm dần sâu dưới mặt nước thì ngón chân tôi đụng
xuống cát nhão. Tôi dừng lại, nước ở ngang cằm. Tôi mệt mỏi bước lên bờ, bãi biển
chỗ này hoàn toàn xa lạ. Tôi ngồi trên những khoảng mô cao, nghỉ cho đỡ nhức đầu.
Lòng tôi tự dưng buồn bã lạ thường, giống như lúc tỉnh cơn say rượu. Tôi đi dọc
theo bãi đến gần nửa cây số mới về đến chỗ Hợi. Hắn đang ngồi ăn quà của một cô
hàng gánh, ngước cặp kính đen, mỉm cười hỏi: "Anh có ăn ốc không?".
Tôi lắc đầu nằm xuống ghế, trong quán hai ba người đàn ông đang đánh bi-a. Bà
chủ quán ngồi sau cái quầy cạnh tủ lạnh đang dũa móng tay nghe nhạc. Ăn ốc
xong, Hợi ném cho tôi cái khăn tắm hỏi: "Anh ăn mãng cầu nhé, em bóc cho.
Anh đi đâu về đấy?". Tôi nói: "À… anh bơi vòng xuống cuối bãi".
Hợi bẻ cho tôi một miếng mãng cầu bắt tôi phải ăn, hắn đặt cái kính đen xuống
bàn để nhìn tôi âu yếm cho sự săn sóc được đầy đủ.
Lúc ấy một cô bé mang những xâu chuỗi ốc bán dạo đi ngang.
Tôi gọi lại mua cho Hợi một vòng và tôi đeo một vòng. Bất chợt, tôi nghĩ tới một
cô gái rất nhỏ hồn nhiên ngây thơ, em gái của một người bạn, tôi sẽ tặng xâu
chuỗi ốc tầm thường này. Tôi gặp được một hạnh phúc. Tôi tròng xâu chuỗi ốc vào
cổ Hợi, làm bộ cúi xuống để hôn phớt lên mái tóc hắn kín đáo che mắt người xung
quanh, dù những người ấy chẳng thèm để ý đến chúng tôi. Hợi sung sướng vụng về,
nắm lấy bàn tay tôi đang buông trước ngực hắn hồi hộp và xiết mạnh. Tôi đi thay
quần áo trở lại đã thấy Hợi đòi cho tôi cái ghế ngồi khô, kêu sẵn cho tôi một cốc
cà phê. Tôi nói: "Nằm nghỉ một chút rồi chúng mình đi ăn cơm". Tôi nằm
im nhìn mặt biển, Hợi đeo kính lên khoanh tay trước ngực. Tôi tưởng hắn sắp sửa
kể lể tâm sự với tôi như đêm hôm qua khi chúng tôi ngồi trên xe ngựa chạy ì ạch
vòng quanh những dốc núi, dưới biển sóng vỗ ì ầm. Thứ tâm sự nhắm mắt lại tôi
cũng có thể bịa ra đúng với chi tiết ly kỳ hấp dẫn hơn đời thực. Nhưng không, hắn
nằm im một cách dễ chịu. Cho tới khi đi ăn cơm, hắn vẫn đi bên cạnh tôi ngoan
ngoãn như một cái bóng. Chỉ thỉnh thoảng sợ tôi quên mất sự hiện diện của hắn,
hắn níu lấy cánh tay tôi và đôi lúc bấm những móng tay nhọn vào da tôi. Tôi cứ
lặng yên để xem hắn làm gì. Một lần hắn ấn mấy ngón tay sâu dần tưởng chảy máu
được, tôi vẫn điềm nhiên khiến hắn phải thì thào: "Anh gan thật". Chỗ
bấm ấy thành vết bầm tím, tôi gan thật.
Trong bữa cơm, Hợi bảo tôi: "Chừng nào về Sài Gòn, rảnh
anh cứ đến em nghe không? Chừng nào anh hết cả mọi chỗ đi chơi anh cứ đến em,
lúc nào em cũng có ở nhà cả". Ngừng một lát, hắn hỏi: "Bao giờ anh định
về?". Tôi hỏi lại hắn: "Em muốn về hả?". Hắn vội trả lời:
"Em ở bao lâu cũng được, em muốn hỏi phần anh ấy". Tôi bảo: "Lúc
nào chán muốn về cứ việc về, anh ở lại một mình cũng không chết ai mà sợ".
Hắn ân cần nói: "Chúng mình cùng về, em muốn cho anh biết nhà em. Hay là
anh không thèm tới?". Tôi gật gù đáp: "Được, để đó tính sau. Bây giờ
anh có món tiền phải tiêu hết đã mới về được". Tôi chờ vài giây đợi phản ứng
của Hợi rồi mới nói tiếp: "Tất nhiên trừ phần của em không suy suyển".
Hắn cười tỏ vẻ biết ơn. Trưa nắng, gió biển vẫn thổi làm cho người ta choáng
váng trong một cơn say trống trải. Về đến khách sạn, bước vào phòng chúng tôi
trở nên hai kẻ thui thủi bị nhốt chung. Chúng tôi lại tìm đến gần nhau trong
vài phút đó mong ngủ được. Nhưng sự trống trải của biển cả, của thành phố, của
khách sạn, của căn phòng, của hai cơ thể hình như dìm tâm hồn người ta xuống tỉnh
thức tráo trân. Tôi ra ngồi trước bàn, tự nhiên lúc ấy tôi muốn làm lại những
thí nghiệm mà bao lâu nay tôi bỏ dở. Bộ bàn ghế mộc, kê khít với tủ một bên là
cái la-va-bô rửa mặt với tấm gương, trên mặt bàn một ấm nước, một khay tách, một
chai nước lạnh. Chắc chưa có ai tới đây ngồi vào đó để suy nghĩ, để viết. Từ
lâu tôi không dùng đến bút, cũng như không có giấy. Tôi ngồi im và tôi biết chắc
rằng tôi sẽ viết, tôi sẽ phải viết. Tôi buồn đến phát khóc được. Hợi vẫn nằm ngửa
trên giường. Hắn gọi: "Anh đưa hộ em mấy bài hát trên đầu tủ với".
Tôi cầm mấy bài hát đưa cho hắn rồi nằm xuống bên cạnh. Dưới đường còi xe hơi
giục giã, một chuyến xe đò sắp rời bến. Hợi hát nho nhỏ lạc hết điệu, tôi giằng
lấy bài hát bảo: "Hát sai toẹt, để người ta hát cho mà nghe". Tôi cất
tiếng hát và Hợi lắng nghe. Hết bài hắn nói: "Anh hát hay lắm, dạy em
đi". Tôi bỏ bản nhạc xuống, hát thuộc lòng, hắn hát theo dò dẫm. Hứng thú
đến với tôi, tôi bảo: "Em yên lặng, để anh hát ru cho mà ngủ". Chuyến
xe rồ máy chạy trả lại sự yên tĩnh cho tôi. Tôi vỗ nhẹ vào lưng người đàn bà và
bắt đầu hát. Một bài hát chắc chắn Hợi chỉ được nghe một lần trong đời. Bài hát
xưa lắm, những người thích nó kẻ đã chết, người còn sống thì quên không nhắc lại.
Riêng tôi, tôi thường thì thầm với mình những phút cô đơn.
Khuôn Mặt
I.
Tôi mặc áo mới, đứng soi gương, tự dưng tôi ứa nước mắt. Màu
áo xanh lá cây thẫm hơn vì bóng nắng buổi chiều vẫn hắt từ cửa vào mặt gương đã
tắt từ lâu. Tôi nhìn rõ khuôn mặt của tôi quen thuộc bao nhiêu năm trở nên xa lạ,
một người khác hiện lên trong bóng mờ của tấm gương, với những giọt nước mắt ướt
bên khóe. Không còn cô thiếu nữ áo đen lặng lẽ kín đáo thoáng qua trên những đường
phố cố định, lộ trình từ nhà tới sở làm, cái vẻ đẹp giấu giếm bấy lâu nổi bật
trên màu áo khiến tôi sợ hãi. Má tôi ửng đỏ, một vài người qua lại ngoài cửa in
bóng qua gương. Tôi nói thầm với chàng, tôi vẫn giữ thói quen tưởng như chàng
luôn luôn ở bên tôi khi tôi bối rối lo lắng: "Có phải anh thường bảo với
em rằng anh chỉ muốn cho em được sung sướng. Anh hãy tìm cách báo cho em biết
lúc này có phải là em sung sướng như anh muốn không? Hay em đang phản bội anh. Anh
hãy tìm cách nào cho em biết ý muốn của anh, em sợ em lầm đường". Chưa bao
giờ tôi nhận được một dấu hiệu nào của chàng, ngay bây giờ xung quanh tôi là sự
im lặng hãi hùng cuồn cuộn những tiếng động của chiều ngoài châu thành. Tôi hỏi:
"Có phải anh trả lời em bằng sự im lặng không? Em không tin người chết đã
ra ngoài đời sống thế gian. Anh chẳng thường dạy em người chết vẫn quanh quẩn
dòm ngó chúng ta hay sao?".
Tôi nhìn gian nhà, không có một kỷ niệm nào của chàng làm dấu
vết, không có lấy một tấm ảnh chàng để tôi nhìn vào mà đoán biết. Chàng để lại
tôi một mình trên đời. Tôi ra ngoài đường, mấy đứa trẻ đang đánh đáo ngước mắt
nhìn tôi, tôi không dám ngó lại, cắm cúi bước. Tôi ngượng ngùng cúi chào mấy
người hàng xóm, họ e dè đáp lễ như không nhận ra tôi. Thoát khỏi những cái nhìn
của hàng phố, tôi nhẹ cả người.
Bóng tối chạng vạng, xe cộ nhấp nháy đèn pha chói. Con đường
hẹp và đông đúc không vỉa hè, tôi phải đi sát lề trên những mô đất nhấp nhô cạnh
mương khô và những căn biệt thự nhỏ um tùm bóng lá. Băng qua con lộ lớn thẳng tắp
dẫn tới phi trường, tôi bước sang một khúc đường chưa trải nhựa nhiều bụi tối
tăm. Đây là ranh giới giữa hai quận của thành phố chưa được trồng cột đèn, hai
bên đường là những bãi trống đổ rác thưa thớt vài túp nhà lá. Đèn thành phố
cách chừng vài trăm thước nữa mới có. Tôi đi chập chững vào khoảng đường và tôi
gợi lên hình bóng chàng, hình bóng của một người đã chết. Không, một người mất
tích, một người vắng mặt. Những ngày gần đây tôi hiểu chàng nhiều hơn. Trước
kia chàng nói với tôi: "Anh yêu em chỉ làm khổ em. Anh biết thế mà không
làm sao được. Vì giữa chúng ta còn một khoảng cách biệt anh không vượt nổi, đó
là những người chết, họ xen vào giữa tình yêu của anh với em. Em hiểu anh nói
gì không?". Tôi gật đầu nhưng sự thực là tôi chẳng hiểu gì hết. Buổi ấy
vào mùa hè chúng tôi nằm trên đồi cát cao ven sông Nhị Hà nhìn bóng trăng vừa mọc
đằng cuối sông bát ngát. Bây giờ tôi thực hiểu, khi Minh ôm tôi vào trong tay
cúi xuống sắp sửa hôn tôi, bỗng dưng tôi từ chối, Minh hờn trách tôi. Minh
không hiểu được lúc ấy tôi nhìn thấy khuôn mặt chàng tới trước khuôn mặt Minh.
Tôi hiểu chàng còn khó hơn tôi nữa vì những người chết mà chàng nhìn thấy ngăn
cách tôi với chàng là những người chàng không hề quen thuộc, không quen thuộc
nên chúng lạnh lùng và tàn ác lắm, còn khuôn mặt chàng, làm sao tôi quên được,
với tôi bao giờ cũng đầy vẻ rộng lượng tha thứ. Minh làm cùng sở với tôi, Minh
ngỏ ý muốn cưới tôi và tôi chưa quyết định, tôi đợi ý của chàng. Tối nay tôi đặt
ra một cách hỏi ý chàng, tôi khấn với linh hồn chàng (nhưng chàng đã chết thực
chưa? Tôi không sao biết được, là tôi tới thăm một người bạn gái không thân lắm,
nếu người ấy có nhà tức là chàng thuận, và trái lại…Tôi đi chưa hết nửa quãng
đường tối thì nghe sau lưng tiếng chân lạo xạo. Tiếng giày của một người đàn
ông bước thong thả. Người ấy vượt qua mặt tôi, nhìn tôi trong khi tôi cúi gầm đầu
xuống. Tôi run sợ muốn quay trở về, xung quanh tôi tiếng côn trùng ầm ì như ở một
bãi tha ma. Sau những lùm cây phía bắc là vùng ánh sáng bốc lên từ phi trường.
Tôi đứng lại một phút và bóng của người lạ mặt trong khoảng tối trước mặt. Tôi
rẽ sang lề đường bên trái, nhìn những ánh đèn sắp tới, tiếp tục đi. Nhưng sự hồi
hộp vẫn ở gần quanh tôi. Giữa quãng đường vắng ngoại ô tôi cảm thấy chua xót,
tôi không thay đổi được đời tôi; tôi vẫn chỉ là đứa con gái mồ côi yếu đuối như
ngày nào trước khi gặp chàng. Tôi là con nuôi của một gia đình buôn bán ở Hà Nội,
đời cũng chẳng buồn cũng chẳng vui. Tôi đã bỏ cái gia đình nơi tôi vừa là một
người thân vừa là một kẻ lạ để theo chàng vào Nam trong dịp di cư. Chàng là nguồn
tin tưởng độc nhất của đời tôi. Tôi lại nghe thấy tiếng chân người lạ ở sau
lưng lúc nào, tôi chậm lại để cho người ấy vượt qua nhưng lần này hắn không đi
nhanh nữa. Tôi qua đường, người lạ một lát cũng qua theo. Tiếng chân đều đều của
người đàn ông không còn làm tôi hốt hoảng như lúc nãy, tôi đã đi được nửa đoạn
đường tối, trái lại cái tiếng động nhẹ nhàng cách xa làm tôi yên lòng hơn, nó
giúp cho tôi tưởng tượng đến chàng đang che chở cho tôi. Buổi tối bỏ Hà Nội là
buổi đầu tiên và cũng là cuối cùng, tôi được sống gần chàng hoàn toàn. Chàng
đưa tôi đi dạo quanh hồ Gươm và chỉ cho tôi nghe mùa thu trên không trung đen
biếc trong vòm lá, dưới mặt hồ. Rồi chúng tôi về ngủ ở Tòa Thị Chính đợi sớm
hôm sau sang trường bay. Chỗ làm việc dẹp bỏ, những căn phòng dài, đèn bóng lờ
mờ, người ta nằm hỗn độn trên những tấm bàn chắc nhẵn bóng, dưới sàn đá hoa
ngoài hành lang. Những người nóng ruột ở lại dưới mấy sân quần vợt, bóng rổ,
bóng chuyền. Lúc chúng tôi về trời cũng đã hơi khuya đối với không khí thành phố
bây giờ, chúng tôi đặt bước thận trọng giữa những gia đình ngổn ngang để tìm lối.
Chúng tôi nằm ở góc phòng trên lầu gần cửa sổ, suốt đêm tôi thức trắng mà tưởng
như mộng. Ánh sáng của những ngọn đèn lúc trắng lúc vàng khè chiếu xuống những
thân người bừa bãi kỳ lạ, không quen thuộc, không mặt mũi. Nếu không có chàng
bên cạnh tôi sẽ chết khiếp trong cái thế giới huyễn hoặc vì sự lặng lẽ dửng
dưng đến đau đớn. Người ta nói chuyện rì rầm, những tiếng khóc của trẻ con lạc
lõng, lời gắt gỏng mơ hồ… Có một lúc tôi chợp mắt vì mệt mỏi, mở mắt tôi thấy
cái áo khoác của chàng đắp trên ngực tôi, tay chàng nắm lấy tay tôi. Chàng ngồi
hút thuốc lá nhìn ra ngoài trời, văng vẳng tận phố xa những tiếng khua động cầu
cứu đuổi cướp bằng chậu thau mâm đồng. Chàng mỉm cười bảo: "Em ngủ đi, mai
đi máy bay mệt đấy". Tôi hỏi: "Sao anh không cùng đi với em, em sợ lắm".
Chàng đáp: "Ít hôm nữa", nhưng hôm đó không bao giờ đến cả, chàng ở lại
Hà Nội và biệt tích. Tôi nghi nếu đêm ấy những người chết đừng thức dậy lẻn vào
trong thành phố, những người sống đừng bao vây chúng tôi thì chúng tôi đã thành
vợ chồng và năm nay gần ba mươi tuổi rồi tôi chẳng phải là một trinh nữ bị bỏ
quên. Tôi cảm thấy những người nằm xung quanh chúng tôi bấy giờ đáng ghê như những
con cuốn chiếu cử động, bằng rất nhiều chân tay vô hình. Họ là những sinh vật
mà đời sống bị dồn xuống thế hèn mọn là những khúc cây ngọ nguậy, sự hiện hữu của
họ lén vào giữa chúng tôi như một luồng khí độc, mặc dầu họ không để ý đến
chúng tôi, họ co rúm vào trong họ một cách thiểu não lạ thường. Tôi nói với
chàng: "Anh đừng bỏ em, em chết mất". Tôi tựa vào góc tường để chàng
che trước tầm mắt. Chúng tôi ngồi bó gối và chàng vòng tay đặt sau lưng tôi,
chàng hôn lên tóc tôi, hôn rất nhiều, một lúc sau tôi gục xuống đầu gối chàng
khóc. Tôi khóc cho đến bốn giờ sáng.
Tôi đứng lại vì không nghe thấy tiếng chân phía sau lưng nữa.
Tôi bạo dạn liếc nhìn, người đàn ông lạ đứng cách tôi vài chục bước, có lẽ hắn
đứng lại để đốt thuốc lá. Tôi hài lòng cất bước, sau lưng tiếng chân lại làm nhịp
cho trí tưởng tượng của tôi. Bốn giờ sáng, chúng tôi lên xe hơi. Mười chiếc cam
nhông đậu dài trên vỉa hè cây cối um tùm, ồn ào nhốn nháo đám người bỏ thành phố.
Tôi đã leo lên xe đứng chen giữa một gia đình tư chức đang kiểm điểm con cái và
hành lý, tôi bỗng nhận ra tôi lạc mất chàng. Tôi bấu lấy thành xe cất tiếng gọi:
"Anh ơi!". Dưới đường người ta lăng xăng kiếm xe, kiếm chỗ, khuân vác
đồ đạc, không ai thèm nhìn tôi lấy một giây. Tôi gọi như đứa trẻ nít lạc mẹ, những
người cùng xe đã thu xếp yên vị bắt đầu chú ý đến tôi. Họ hỏi han tôi, không
nghe được câu nào hết, tôi biết chỗ của tôi không ở giữa họ. Tôi xách cái va li
nhỏ đựng quần áo, gia tài của tôi, xuống xe và sục sạo trên vỉa hè. Đoàn xe bắt
đầu rồ máy, cái đầu tiên đã chuyển bánh, tôi sắp sửa khóc rồi thì thấy chàng
cũng đang chạy quanh cái xe tôi đã lên kiếm tìm. Chàng đi mua bánh mì cho tôi
ăn lót dạ. Đoàn xe bò chậm đón đợi, chạy qua các phố và im lặng trở về dần dần.
Lát sau chỉ còn tiếng máy ầm ì chiếm lấy khoảng trời khuya đi qua. Tôi đứng bên
chàng bám chặt lấy cánh tay chàng không muốn rời xa. Trên cầu Long Biên, gió thổi
hơi lạnh từ mặt sông lên, những người đang ngồi đứng dậy nhìn về phía thành phố.
Ở một xe nào phía trước người ta nghe thấy tiếng khóc lớn của một bà lão
"Thôi cho tao về, tao không đi đâu cả" lẫn trong tiếng bánh xe lăn rầm
rầm qua những ván gỗ, những thanh sắt của sàn cầu rung chuyển. Tôi nhìn thành
phố chìm dần xuống trong sương đêm, ở đấy tôi gửi lại quá khứ.
Ngọn đèn đường đầu tiên chụp ánh sáng xuống mặt làm tôi bàng
hoàng, tôi đã qua hết quãng đường tối với sự luyến tiếc vu vơ. Ở đây nhiều tiếng
động hơn, tôi không còn nghe rõ tiếng chân người lạ. Tôi đi trên đường cao bên
một cư xá công chức chạy dài. Những căn nhà thấp màu hồng nhạt, mái lợp
fibrociment giống nhau, mỗi nhà đều có người chiếm ngụ nhưng vẫn đầy vẻ trống
trải. Những đường nện đất khô cứng dẫn vào cư xá, những hàng rào gỗ mới quét
sơn màu phân biệt, thỉnh thoảng một vài ngọn cây leo mới mọc lưng chừng là những
dấu hiệu của một đời sống chưa thân mật. Bên kia đường dãy tường thấp của một
cơ xưởng. Người đàn ông đi lui ra ngoài lộ vượt qua mặt tôi, lần này hắn không
nhìn tôi và tôi trông theo hắn, cái lưng hơi gù trong dáng đi và cử động chậm
chạp. Tôi nghĩ hắn sẽ rẽ xuống một con đường khô dốc nào đó của cư xá và độ dốc
sẽ kéo hắn nhanh hơn vào trong một gian nhà với hai căn buồng xếp đặt như hai hộp
diêm. Nhưng hắn có ý chờ tôi, thỉnh thoảng ngoái cổ lại một cách tình cờ. Tôi
nghĩ đến quãng đường khá dài còn lại cảm thấy mệt mỏi.
Tôi nói thầm với chàng: "Anh khuyên em phải can đảm. Làm
thế nào mà can đảm mãi một mình nổi. Anh biết không, rồi tới một ngày hình ảnh
của anh em không còn giữ được trong trí tưởng em nữa, cuộc đời hằng ngày sẽ
nghiến vụn nó ra làm cho nó tan biến mất. Như bây giờ muốn nhìn khuôn mặt anh,
trí tưởng tượng của em đã bất lực. Năm năm qua rồi. Anh chỉ hiện lên đôi lúc rõ
ràng trong giấc mộng mà thôi, khi tỉnh dậy thì đầu óc em trống trơn dù em có muốn
ghi nhớ lại để có thể mở mắt trông thấy anh nhưng không thể nào được. Em muốn
được gặp anh khi thức không phải khi mê, nhưng anh thấy không, mỗi giây phút
trôi qua làm mòn dần trí nhớ. Đã có lúc em phải vay mượn ở những khuôn mặt khác
những nét hao để tưởng tượng tới anh nhưng em biết em chỉ có được một khuôn mặt
xa lạ không phải của anh…". Sang tới trường bay Gia Lâm trời đổ mưa lớn.
Chàng dìu tôi chạy băng trên khoảng sân mông mênh trú dưới cánh máy bay cùng
nhiều người khác. Trời vẫn còn tối, dưới những cánh máy bay, những đám đông đứng
dồn vào nhau im lặng. Tầm mắt mở ra chiều rộng, mất chiều cao, chạy trên những
hình khối ngổn ngang lờ mờ. Sau màn mưa dầy hiu hắt những ánh đèn sắp lặn. Đứng
gần nhau người ta phải la lớn để nghe cho rõ. Những lớp nhà quanh phi trường thấp
xuống hơn và lùi xa tít, có lúc tôi tưởng thấy mọi vật biến mất trong cơn mưa
lũ, tôi và chàng đứng giữa một khoảng không trần trụi. Khi người ta chuyển những
phi cơ từ những kho phía xa không nhìn thấy ra sân, tiếng động cơ rồ mạnh, tiếng
bánh thếp cứng lăn rúng động cả cơn mưa và cơ thể, những thân sắt quay ngang dọc
nặng nề. Rồi tới một sự im lặng hoảng hốt và trận mưa kéo dài vào bất tận. Một
vài tiếng chân chạy giẫm trên mặt nước của mấy người phi công ngoại quốc, họ gọi
nhau bằng tiếng nước họ. Càng về sáng mưa càng lớn và gió xoay chiều luôn, tôi
đứng dựa vào thân máy bay chỗ cánh rộng nhất và chàng đứng phía nước tạt che
cho tôi. Phía đông hừng sáng dần, màu ánh sáng nhợt nhạt tẻ ngắt như màu chì.
Chàng nhìn tôi kêu: "Chết rồi, em ốm mất. Em lạnh lắm phải không?",
lúc ấy người tôi run rẩy mắt tôi nhòa lệ. Chàng ôm lấy tôi như muốn ủ cho tôi bằng
hơi ấm của thân chàng. Tôi ghì lấy chàng gục đầu vào ngực chàng và miệng tôi ngậm
lấy một mẩu áo của chàng để ngăn tiếng nức nở. Tôi quên những người xung quanh
như quên định mệnh, tôi muốn giữ chàng rất lâu cho riêng mình tôi. Những người
khác, định mệnh đó sẽ không thể nào gỡ chàng ra khỏi tay tôi. Trời xấu, cầu
hàng không hôm ấy bị bãi bỏ. Người ta chở chúng tôi đến tạm trú trong ngôi đình
ở một làng cách phi trường chừng ba cây số. Tôi bị cảm, nằm trên một bệ đá.
Chàng phải ngồi săn sóc bên cạnh. Tôi nói với chàng: "Em sợ em không đi được,
anh cho em về". Chàng cười bảo: "Em đừng nghĩ quẩn, em bị cảm lạnh, uống
thuốc rồi lát nữa là khỏi", rồi chàng nói đùa cho tôi vui: "Em định về
đâu? Nhà của mình trong Sài Gòn cơ mà". Tôi cảm thấy yếu ớt vô kể, tôi nhớ
cái giường của tôi; trước kia khi tôi ốm tôi nằm một mình trong căn gác quạnh
hiu giữa sự săn sóc ơ thờ của cha mẹ nuôi, nhưng ít nhất tôi còn cảm thấy sự
yên ổn bảo đảm cho tôi. Tôi nhớ tới căn nhà tôi ra vào, những người tôi gần
gũi, cái bếp những buổi sáng mùa đông tôi ngồi nhóm lửa ấm áp, những tấm cửa gỗ
ngoài mặt hàng tối mang xếp theo số thứ tự khi đóng mở, cái quầy hàng tôi ngồi
sau đó hàng giờ nhìn ra phố xá, tất cả những vật ấy bình yên và che chở cho tôi
chống mọi bất trắc ở ngoài. Bây giờ tôi có chàng tôi lại có thêm cả tôi, và lại
có nhiều người khác nữa, và cả một tương lai mới mẻ nhưng tôi không thể nào tìm
thấy sự bền vững ở xung quanh. Trực giác cho tôi biết rằng người con gái như
tôi đã làm một hành động táo bạo quá tầm sức mình và sẽ phải nhận lãnh những hậu
quả không hay. Tôi nói với chàng: "Em muốn ở lại Hà Nội vì em không muốn
làm bận anh. Em sẽ không mang lại sung sướng cho anh đâu, em chỉ làm khổ anh
thôi". Chàng hỏi tôi: "Em định nói chính anh là người không mang lại
sung sướng cho em chứ gì?". Tôi không biết là mình đang cười hay khóc nữa,
tôi vội đáp: "Anh tha lỗi cho em. Không, em sung sướng lắm, em sung sướng
được gần anh". Sau này từng trải tôi hiểu được rằng có những hạnh phúc làm
cho tâm hồn kẻ nhu nhược sợ hãi không dám nhận. Hình như số mệnh trêu cợt tôi
nên cho tôi được nán lại bên chàng thêm một ngày. Buổi chiều tôi khỏi cảm và
chàng dẫn tôi dạo chơi quanh làng. Chúng tôi đã nghe âm vang câu hát, giọng cười
của những người đắc thắng sắp trở về và nhiều cặp mắt khinh bỉ của dân làng
nhìn chúng tôi đi qua. Trên bờ đê một khu đồn bỏ trống đứng chơ vơ, khi chúng
tôi tới gần mới biết có nhiều người trong làng đang sục sạo ở bên trong thu nhặt
những đồ vật bỏ lại, vài người mang cả xẻng cuốc tới đào lấy sân gạch. Chúng
tôi xuống chân đê, nhìn về thành phố li ti bên kia. Những tiếng động phá hoại ở
đồn vọng xuống làm đổ vỡ dần dần những hy vọng của tôi. Tôi lo sợ nghĩ tới cuộc
hành trình dài mấy nghìn cây số không có chàng ở bên đến một miền đất lạ. Tôi
không dám nhìn chàng và nói: "Em sợ phải đi một mình vào trong ấy".
Chàng an ủi hứa với tôi thu xếp xong vài công việc chàng sẽ vào ngay. Chàng hỏi
tôi: "Lớn rồi, em sợ gì?". Tôi không trả lời được. Làm sao tôi nói
cho chàng hiểu được cái linh tính của người đàn bà trong giờ phút nghiêm trọng
của một đời? Tôi chỉ biết nắm lấy tay chàng, tôi chỉ biết nhìn chàng. Tôi mong
chàng nhận được cái linh hồn trọn vẹn của tôi trong ánh mắt. Nhưng chàng đầy tự
tin, sự hiện hữu của chàng tràn ra cuốn lấy tôi như một dòng nước mạnh. Và tôi
yêu chàng, yêu chàng mãi mãi… Bây giờ người đàn ông đi ngang hàng với tôi cách
tôi chừng hai bước, ánh đèn chỗ này đã bớt lộ liễu. Tôi liếc nhìn người lạ và
tim tôi thắt lại. Hắn có nét mặt hao hao giống chàng. Tôi vờ trật gót chân, cúi
xuống sửa guốc. Người lạ kia cũng đứng lại đợi, hắn dám quay cả người không giữ
gìn ý tứ nữa. Tôi hỏi mau trong trí: "Có phải đây là cách anh trả lời em
đó không? Em sẽ trở về nhà". Khi ngửng lên tôi thấy không thể quay về một
cách vô lý như thế được, tôi phải tới nhà người bạn để xem người ấy có nhà hay
không. Tôi bước tới và người đàn ông chỉ đi khi tôi lên ngang hàng với hắn
nhưng hắn không nói một lời nào hết. Sự im lặng của người lạ đè nặng lấy tôi
như một hình phạt trong chờ đợi, hắn cử động ở bên tôi như một cái bóng ám ảnh
mỗi lúc một gần. Tôi bắt đầu nghe thấy hơi thở của tôi dồn trong ngực vì hắn đã
sát bên tôi, thỉnh thoảng cánh tay hắn chạm vào vai tôi. Tôi thu hết can đảm
nhìn thẳng sang phía hắn nhưng hắn tảng lờ quay mặt sang bên kia đường làm như
người vô tình không biết đến sự giận dữ của tôi. Một lũ trẻ con đuổi nhau la
hét ầm ĩ chạy xen vào giữa chúng tôi, nhân dịp tôi tìm cách lảng tránh kẻ lạ,
tôi nghĩ kế làm cho hắn thất vọng. Tôi đứng lẫn vào đám người mặc áo cánh dạo
phố trước một xe nước mía. Tôi thấy hắn bước sang rạp chiếu bóng trước mặt xem ảnh
và cặp mắt vẫn luôn luôn theo dõi tôi. Máy phóng thanh hát oang oang một bài cải
cách phổ thông, những tấm ảnh lồng trong một cái khung mắt cáo, ánh nê ông đỏ kệch,
cái máy nghiền mía ầm ầm bên tai tôi gần nhất. Tôi đợi hàng năm phút hắn cũng vẫn
quanh quẩn ở cửa rạp chiếu bóng. Lừa lúc hắn mải nhìn một thiếu nữ đi với một
người bạn trai trên xe gắn máy bước xuống hè, tôi bỏ đi mau. Tôi đi sát vào
trong những khoảng tối. Được một đỗi tôi ngửi thấy mùi khói thuốc lá và người lạ
đã sát lưng tôi. Tôi bước chậm lại, không biết phải xử trí ra sao. Ở khu này ít
xe cộ, phần nhiều những tắc xi chạy ngang đều chở khách về thành phố. May mắn
là người lạ không tỏ một cử chỉ vô lễ nào, hắn chỉ ở sát bên tôi và nín thinh một
cách thân cận. Từ xa tôi trông thấy ngọn đèn treo dưới mái hiên tại nhà bạn và
cây trứng cá. Tôi gõ cửa hấp tấp và không nghe tiếng trả lời. Tôi gọi tên bạn
hai lần và tôi nghe tiếng người lạ cười giễu cợt. Nhìn kỹ tôi mới thấy gian nhà
khóa trái cửa, tôi quay lại bực tức. Tôi đứng dưới ngọn đèn và chắc chắn kẻ lạ
mặt nhìn ra sắc diện của tôi. Hắn bước chậm từ dưới bóng cây ra ngoài sáng,
khuôn mặt hắn trông rõ dần. Hắn còn trẻ lắm, trẻ hơn tôi nhiều, mắt hắn nhìn
tôi không chớp, tôi nhíu mày thủ thế. Chợt hắn dừng lại như gặp một sức cản trở
bất ngờ, hai tay buông thõng thất vọng. Hắn quay ngoắt bỏ đi lầm lũi, tôi ngẩn
người một phút và rồi sự tủi thẹn làm tôi bất động. Tôi tựa lưng vào tường nghỉ
cho đỡ mệt nhìn theo bóng người lạ khuất dần. Tôi hỏi thầm: "Bây giờ em lại
trở về nhà một mình hở anh?".
II.
Đó là tại cái đầu khốn nạn của tôi. Khi tôi bước tới gần nàng
đầu tôi bị giáng ba nhát búa, nhát đầu bất ngờ và mạnh nhất làm tôi buông xuôi
hai tay sợ phải ôm lấy sọ, hai nhát sau nhẹ như nhịp nảy của nhát thứ nhất. Tôi
nhớ rõ khuôn mặt tái mét như tàu lá của người đàn bà, môi run sắp khóc, tôi biết
tôi chỉ đưa tay cho vịn là người ấy đã đi theo tôi. Nhưng tôi sợ cái đầu của
tôi nên tôi bỏ đi. Tôi mắc một chứng bệnh kỳ lạ, lâu lâu tôi bị như ai cầm cái
búa chim gõ vào những gân máu và đi lúc nào tôi không thể định được, có khi
hàng năm không thấy nó, bất thình lình một bữa nào đang ở ngoài phố giữa trời nắng
nó xuất hiện kéo dài vài ngày hay vài tháng không biết chừng. Những lúc ấy tôi
vẫn tỉnh táo như thường, mỗi nhát gõ trong đầu chỉ làm tôi chết lặng vài tích tắc
nhìn sự sống trôi bấp bệnh xung quanh. Một kỳ nặng nhất là chứng bệnh hành hạ
làm tôi không thể nằm, dù đặt đầu lên gối bông mềm. Tôi tìm tới một ông bác sĩ.
Ông ta lục những bộ sách thuốc bày ra bán trên bàn tra cứu, rốt cuộc ông cũng
chẳng bảo cho tôi rõ được chứng bệnh ấy, nhưng ông cứ bắt tôi nằm sấp lên trên
một cái bàn sắt trắng và tiêm cho tôi tám mũi theo hai đường song song từ sau
gáy lên sọ, mũi kim chạm vào xương sọ cứng xịt thuốc phì phì. Tôi thề không trở
lại với một ông bác sĩ nào nữa hết, vì trên đường từ phòng khám bệnh về nhà, bệnh
của tôi vẫn phát. Tôi để mặc rồi nó quên tôi, lúc nó trở lại tôi coi nó như là
chứng tật tự nhiên của cơ thể.
Như bây giờ cái đầu của tôi trở về trạng thái bình thường.
Tôi đã đi một đỗi xa, quay nhìn lại không còn thấy căn nhà thắp đèn ngoài hiên
nơi người đàn bà đứng. Ngoài cái rạp chớp bóng với ánh nê-ông tẻ nhạt, tất cả
những gian nhà lô nhô thấp cao không thẳng hàng đã đóng im cửa, sau đó là khúc
quành. Đây là lần đầu tiên tôi theo chân một người đàn bà ngoài phố. Tôi trông
thấy người đàn bà khi nàng băng ngang con đường xuống phi trường, vào khúc đường
không trống đèn, tôi nghĩ nàng thuộc loại đàn bà không đứng đắn. Nhìn rõ mặt
nàng, tôi biết tôi nghĩ lầm. Cho đến khi đối diện với nàng trước căn nhà khóa cửa
tôi vẫn cho rằng nàng thuộc loại dễ dãi, vẻ nghiêm trang chỉ là mặt nạ. Sở dĩ
tôi chưa nói với nàng một câu, vì tôi muốn quan sát nàng; không gì thú vị bằng
đi bên cạnh một người đàn bà biết người ấy đóng kịch và mình cùng đóng đôi. Người
đàn bà đóng kịch và tin thật vào vai trò, còn tôi, một nửa người sống với vai kịch,
nửa còn lại tách ra làm khán giả để cười. Hơn nữa tôi cũng chẳng tìm được cách
bắt chuyện, tôi cảm thấy rằng với người đàn bà loại này tôi không thể hỏi những
câu tầm thường ngớ ngẩn mà không bị cự tuyệt. Tôi bước trở lại con đường cũ, tiếc
không còn được nhìn những cái dáng mảnh mai của người đàn bà. Tôi định quay lại
đón nàng nhưng lại sợ phải đi bên nàng một đoạn đường quá dài vắng vẻ và còn
nhiều ánh sáng, lúc nãy còn được vì phố đông không ai chú ý. Bây giờ sự quạnh
hiu của ngoại ô như một con mắt lớn theo dõi mọi cử chỉ. Tôi tới khúc đường
không trồng điện, những đèn trong nhà ở khúc trên không còn soi ra lộ nên khúc
đường này cũng không còn tối quá nữa. Tôi đứng cạnh một bụi tre bên đường dở
thuốc lá hút, tôi tính nếu người đàn bà lộn trở lại theo đường cũ tôi sẽ đưa
nàng về tận nhà. Và tôi sẽ nói chuyện với nàng. Những gì? Tôi chưa biết. Khi đứng
rình nàng trước rạp chiếu bóng, tôi thấy rằng nếu mình chú ý được nhiều đến người
khác mình sẽ quên được mình. Chính lúc ấy tôi quên hết buổi chiều trống trải
tôi đã đi qua. Có một người để mình nghĩ tới với những ý nghĩ dịu dàng, dù là
giả dối, mình sẽ cởi bỏ được sức đè nặng của sự vật biết bao nhiêu. Tôi đứng đã
thấy tê chân và tôi tưởng tượng người đàn bà đang đi tới trên khúc đường tôi
không nhìn thấy, tôi định những vị trí nàng qua và đưa nàng tới gần đầu đường
tôi đang đợi. Tôi làm như thế lần thứ hai thì nàng xuất hiện ở chỗ rẽ. Bỗng
nhiên tôi hồi hộp, nàng đi trên đường phố vắng ngắt một mình nàng bíu chặt hai
tay, khép tà áo như vịn vào mình bước hấp tấp. Tôi muốn chạy nhanh tới trước
nàng. Tôi vứt mẩu thuốc vào bụi, hai bàn tay đẫm mồ hôi, chưa khi nào thần kinh
tôi yếu ớt đến thế. Nàng càng tới gần, tiếng bước của nàng càng dội mạnh trong
ngực tôi. Tôi bước ra khỏi chỗ ẩn để trấn tĩnh, nàng đứng sững trước mặt tôi,
miệng mở ra kinh ngạc. Nàng vừa tính tránh sang bên thì đầu tôi bị đập mạnh.
Tôi phản ứng chụp lấy bàn tay nàng. Tôi tỉnh lại ngay, miệng lắp bắp:
"Xin lỗi cô, tôi… đau đầu quá".
Nói xong tôi tức giận đã thật thà một cách lố bịch. Nàng nhìn
tôi vẻ nghi ngờ thương hại, tôi không suy nghĩ nữa, ôm hôn lên môi nàng một
cách táo bạo hỗn xược. Tôi nghe thấy hai đầu gối nàng rún xuống, cái hôn thứ
hai nàng phải bám vào lưng tôi để khỏi khuỵu ngã, tôi cười vang trong đầu khoái
trá. Sau lưng nàng, cách xa đó, con đường sáng không một bóng người, bên cạnh
khóm tre và bóng tối không động đậy. Lưỡi tôi nếm phải những giọt nước mắt chảy
nhanh qua môi nàng, tôi buông nàng ra nói:
"Tôi đưa cô về nhà".
Chúng tôi bước đi, tôi đỡ ngang lưng nàng và nàng cúi gầm đầu.
Bình tĩnh tôi bắt đầu nói, tôi không nhớ tôi đã nói những gì, một lát hình như
tôi không nói cho nàng nghe bởi không có tiếng nàng đáp lại, tôi nói cho tôi
nghe. Tôi nghe cái giọng trầm trầm đều đều của tôi, tôi nghe những câu chuyện
tôi đã kể vang vang bên tai, lời nói không ngập ngừng thoát ra từng nhịp bao
vây lấy hai chúng tôi, đuổi lùi ngoại vật, như một giấc mơ êm ái. Từ lâu lắm
tôi quên mơ ước, tôi chỉ có giấc mộng khi ngủ mà mộng chính là sự xâm nhập khủng
khiếp của ngoại vật vào mình. Sự mơ ước hiện lên trong ngôn ngữ tạo thành cái
thế giới buổi ban sơ chỉ có hai người. Tôi nói nhiều, tôi nói mãi, đuổi khỏi
chúng tôi những mối ám ảnh của nỗi cô độc tối đen, đi vào một nỗi cô đơn chung
mới lạ.
"… Bây giờ anh tưởng tượng, anh đưa em đi mãi cho tới tận
cùng của đêm nay và lúc tỉnh dậy chúng mình thấy rằng chúng mình đang ở trong
thành phố Hà Nội …"
Tôi nói trôi chảy như đọc thuộc lòng từ trong một bản kịch
nào đó, sự thực những ý tưởng lôi cuốn nhau đến, tôi chỉ thấy rõ khi phát ra
thành lời, trước và sau đó tôi không dự liệu điều gì. "Em đã sống ở Hà Nội
nhưng em không thể nào biết cái thành phố Hà Nội của anh. Không có gì thay đổi
cả, anh đưa em về thăm lại những căn nhà anh đã ở giữa những phố khác nhau. Anh
đưa em đi qua những đường anh đã đi, anh chỉ cho em thấy những kỷ niệm dầu ở mỗi
góc phố mỗi mặt nhà, mỗi khúc rẽ. Anh đưa em đi vòng quanh thành phố bằng những
con đường kín đáo ít người biết. Em nghĩ xem giữa trời khuya thành phố là một
căn nhà rộng dành riêng cho hai chúng ta".
Chúng tôi đã ra tới chỗ ánh sáng và tôi thấy nàng mỉm cười, nụ
cười hiếm có làm cho khuôn mặt rực rỡ, khóe mắt nàng còn ướt lệ. Tôi ghì chặt lấy
thân nàng sợ nàng sẽ tỉnh lại và bỏ tôi đi mất. Nhưng chính lúc này tôi đã tỉnh.
Tôi ngắm tôi đứng dưới cột đèn trên một con đường gần dốc cầu vào thành phố với
một người đàn bà không quen biết mặc áo xanh, tóc cắt ngắn, khuôn mặt xanh xao
trong mê muội, cặp mắt dại dột, môi thoa một chút son nhợt. Những lời nói đã mất
hút rồi và trời như khuya lắm ở ngoài châu thành. Tôi vẫy cái tắc xi chạy
ngang. Lên xe nàng hỏi:
"Đi đâu đây anh?"
"Anh đưa em về nhà".
Tôi cười thầm, câu hỏi cũng như câu trả lời đều dối trá, những
điều cả hai đã không đả động đến mới là sự thật. Tôi không muốn nàng nghĩ tới
đó, tôi vuốt ve mơn man từ cánh tay nàng lên đến gáy, đến cổ, đến tóc, trên mắt,
trên má, trên môi nàng. Tôi ghé vào tai nàng thì thầm. Những lời lần này hoàn
toàn là gian xảo, chúng giống như những bàn tay mơn man những chỗ mê sảng của
người đàn bà không phải là những lời quý báu đã làm cho chính tôi cũng say đắm
như lúc ở dưới đường.
Căn nhà tôi ở nằm trong xóm cất ven sông. Con đường vào là đại
lộ của xóm với những đường hẹp nhỏ ngoằn ngoèo giữa các kẹt nhà, có một phòng
thông tin máy phóng thanh còn ca hát, những quán nước, quán phở, quán cà phê
còn trưng đèn đông khách, những hàng rong còn tụ tập trẻ con. Tôi dẫn nàng bước
trên những cầu ván. Tôi nép vào những vách nhà gỗ, nước lớn vỗ ì ọp dưới chân cừ.
Tôi mở cửa, bật đèn, nàng đứng ngay ở ngoài cửa. May mắn là hai bên đều vắng
người. Mấy cô hàng xóm, gái chơi đều bận việc. Tôi nói lớn, đùa giỡn một cách sỗ
sàng:
"Mời giai nhân rời gót ngọc vào tệ xá".
Tôi dọn dẹp những đồ đạc bừa bộn trên giường trên bàn trong
khi nàng ra đứng ngoài hiên nhìn ra sông. Tôi khép cửa lại và tới sau lưng
nàng. Tôi vuốt ve nàng và nàng bỏ mặc. Bên kia bờ sông là cánh đầm lầy. Tôi hôn
nàng và nàng nói:
"Em sợ lắm. Anh cho em về".
Tôi không giấu nổi nụ cười chế giễu trước mặt nàng, tôi bảo:
"Rồi anh đưa em về".
Nàng víu chặt hai tay vào thành gỗ nhô một nửa người ra ngoài
mặt sông trong khi tôi vòng tay ôm lấy bụng nàng và một tay gỡ dần những ngón
tay mềm yếu của nàng. Nàng nói giọng sắp khóc, lời nói yếu quá tôi nghe không
rõ vì lúc ấy tôi đã bế bổng được nàng lên tay.
Tôi vẫn còn bồng nàng trên tay đứng nguyên một chỗ. Nàng chăm
chú nhìn vào mặt tôi như nhìn một khuôn mặt quen thân từ lâu, trong mắt chiếu
ra một vẻ phục tùng ngây thơ lạ lùng, phản nghịch với dung nhan chập chờn tàn
phai ở nàng. Giây phút sự cuồng bạo đàn ông tan di, tôi thấy tội nghiệp cho
nàng vô kể. Tôi ghé sát mặt nàng, bắt đầu nói, để ru tôi về gần gũi với nàng.
Tôi nói, tôi kể lể những kỷ niệm thành thật nhất đời tôi:
"Em có biết tại sao anh yêu không? Anh nhỏ tuổi hơn em. Ừ,
tại sao anh yêu những người lớn tuổi hơn mình?" Tôi nghe nàng thì thầm bảo
tôi: "Anh nói cho em nghe đi, đừng lặng im sợ lắm". "Hồi xưa năm
anh chừng lên mười, anh theo gia đình từ Bắc và người Nam, đi bằng tàu hỏa. Anh
nhớ vì chiến tranh con đường sắt thường bị ngắt quãng nhiều đoạn ngắn, phải đi
mất nhiều ngày. Có đêm phải rời khỏi tàu đi bộ trên đường tàu đắp cao lạnh giữa
đồng, qua những cây cầu sắt bị dội bom đã chao nghiêng nhưng chưa đổ, để sang
tàu khác tiếp tục cuộc hành trình. Những toa tàu thiếu điện tối om và chật
ních, anh chỉ là đứa trẻ con nắm chặt lấy tay mẹ sợ lạc. Trên chuyến tàu năm ấy
anh gặp một cô sinh viên học ở Hà Nội về quê ở miền Trung. Những buổi chiều chậm
chạp tẻ lạnh, tàu chạy men theo những núi rừng cây khô cháy, đá lởm chởm, cô ta
đứng bên đứa nhỏ là anh trông ra ngoài cửa sổ và hát khe khẽ như ru anh. Cô ấy
xuống tàu, một ga nhỏ nào đó, vào nửa đêm lúc anh đang ngủ. Sáng dậy anh mất cô
ấy, anh mất những đoạn đường dài đã đi qua với tiếng hát êm đềm. Anh khóc, anh
khóc mãi. Anh nhất định đòi mẹ phải cưới cô ấy cho anh và nếu bây giờ gặp lại
cô ấy, chắc cô đã già lắm, anh vẫn ao ước hỏi cô làm vợ. Nhưng anh không nhớ mặt
cô ấy thì làm sao mà gặp nhỉ?"
Tôi vừa bắt đầu cười thì đầu tôi nhói mạnh năm sáu cái liên
tiếp, miệng tôi há hốc muốn văng tục cho hả giận. Chắc lúc ấy nét mặt tôi khả ố
lắm, tôi thấy nàng cựa quậy muốn thoát khỏi tay tôi. Tôi bám lấy nàng chặt chẽ,
nàng đạp hai chân vào không khí nhoài người ra ngoài. Những nhát búa vẫn bổ chậm
vào gáy tôi, tay tôi lỏng ra, nàng vẫn rướn người ra ngoài mặt nước. Tôi không
kêu lên được, nàng đập mạnh chân một lần nữa, tôi buông xuôi hai tay và nàng
ngã ngửa xuống nước. Tôi bám tay vào thành gỗ chắn ngang nhưng không cục cựa nổi,
cái đầu khốn nạn chưa tha tôi. Tôi nghe vang vọng đâu đây tiếng lạ, của một người
đàn ông: "Có người té xuống nước". Tôi bàng hoàng tỉnh dậy và mặt nước
dưới chân tôi đã khép lại bình thản, tôi nghe tiếng nhảy ùm của người ở nhà lân
cận. Tôi vội vàng lao mình xuống nước.
III.
Từ khi lớn lên, chưa bao giờ tôi được nghe một giọng nói mơn
trớn đến thế. Lời nói của người con trai trôi tôi vào tới cùng bản thể trong ấy
giấu kín tuổi ấu thơ hằng cửu mà mọi sự vật điều hòa lên một giọng nói khác như
vậy. Ngôn ngữ rất đầy, rất thực xô đẩy nhau rơi và lấp kín những trống không của
tâm hồn như một lực lượng bất tận của vật thể. Tôi chìm ngập trong một thế giới
hiển hiện những cảm giác xúc động biến hóa vô lường. Đêm đen và lạnh, con đường
sắt bóng song song vun vút, thân người dịch nghênh sắp trơn tuột trên cầu chênh
vênh, mặt sông bốc hơi, rừng núi khô cứng gai góc đâm nhọn, tiếng hát êm đềm của
một khuôn mặt bất cứ là của ai và…
Tôi nhìn vào tận mắt người con trai, anh bồng tôi trên tay,
cơ thể không còn thuộc về tôi. Tôi chờ đợi nhủ thầm: Nói nữa đi, đừng để cho
cái chết len vào giữa chúng ta, cái chết với muôn vàn cánh tay chới với đang
níu giữ hồn em. Mắt người con trai mở sáng tươi cười, nhưng tự dưng chúng sững
lại lạc tinh như mắt người chết. Cặp mắt của chàng đó. Tôi đạp chân chạy trốn,
hai cánh tay ai kìm giữ tôi. Khuôn mặt kề gần nhăn nhó đổi dạng vừa thoát lên từ
địa ngục, tôi đạp chân chạy trốn. Tôi rơi nhanh ra khỏi cánh tay nhẹ nhõm nhắm
nghiền đôi mắt lại, không kêu một tiếng. Một làn ấm áp nghẹn ngào ôm lấy, chìm
sâu vào nó, một toa tàu đơn chiếc chạy trong một đường hầm tối xô vào vách đá
tan tành. Đầu tôi đập mạnh vào một vật cứng, tôi tưởng tôi sắp sửa tỉnh khỏi một
cơn mê. Rồi là một cơn bồng bềnh lúc nhẹ nhàng lúc nặng nhọc trắng xóa. Cảm
giác ở trong phi cơ đang bay qua cơn mưa ngoài không trung mịt mờ, lướt trên một
mặt phẳng nhẵn bỗng gặp một vài hố trũng hút xuống, rồi lại xuôi trên mặt phẳng
mênh mông. Giọng hát chập chờn không nghe bằng tai, đâu còn thể xác nữa, một
chút gì lởn vởn như một luồng khói nhạt là tôi.
Tôi cố gượng mở mắt chỉ thấy những màu trắng, màu vàng, màu
đen nhảy nhót. Những tiếng huyên náo văng vẳng ở cõi nào tới, tôi muốn bắt lại
tôi nhưng tôi bay đi. Tôi tỉnh lại hơn, không biết mình đang ở đâu, không nhận
nổi đâu là đầu mình chân tay của chính mình. Tôi thở ở chỗ nào đây và tôi còn sống.
Tôi còn sống, tôi muốn thở mạnh, nhưng đau nhói không định được chỗ, đau nhói từng
nhịp, hơi thở nghẽn lại.
Hình như người ta khiêng tôi trên băng ca, tôi thoáng nhìn được
màu trắng xóa của trần nhà cao. Tôi nghĩ: người ta mang tôi vào bệnh viện, tôi
vội nhắm mắt. Người ta nâng đầu tôi dậy, chỗ đau đó, tôi nghe tiếng kêu rú, lịm
ngất. Tôi hồi tỉnh dần dần và tôi muốn tìm thể xác của tôi. Trước hết tôi tìm
hai cánh tay không thấy, có vật gì đè nặng xuống tôi, tôi chú ý và mệt lắm. Tôi
phải lấy lại hơi thở đã, tôi thở, tôi chỉ là một cơ năng đang thở yếu đuối. Trí
tuệ tôi bắt đầu vận động, tôi nghe thấy đầu của tôi là một tảng đá nứt rạn. Vẫn
còn cảm giác hư vô, các phần của thân thể không dính với nhau, nhiều phần đã biến
mất, cái đầu không ngọ nguậy. Màu ánh sáng đục trùm lên tôi. Tôi hé mắt từ từ
đón lấy sự sống chậm chậm, một chuyển động đường thẳng dao động giữa hai cõi âm
dương. Một vật gì đụng nhẹ, tôi nhận ra bàn tay trái của tôi đang nằm trong một
bàn tay khác. Một cái bóng cúi vào trong tầm mắt của tôi: chàng và người con
trai ấy. Rồi tôi bỗng nhiên động đậy, hình như tôi mỉm cười. Bây giờ mắt tôi mở
bình thường, tiếp xúc với bên ngoài, tôi cảm thấy hai bàn tay, một của tôi một
của người khác, đặt nằm trên vải đen lạnh. Tôi nói một câu: "Em muốn chết".
Nhưng bộ máy phát âm yếu chỉ thổi qua hơi gió và câu nói bay hút trong đầu tôi.
Tôi nhìn thấy phía sau đầu người con trai cái bóng đèn trắng sữa lớn treo trên
trần nhà, cái bóng đèn đêm tôi từ biệt chàng trong một phòng đông người, tôi
dùng bàn tay của tôi kéo chàng che khuất. Tôi muốn hỏi: trong phòng đông người
không? Nhưng tôi sợ không nói được. Người con trai ra hiệu cho tôi đừng nói.
Tôi giật tay cho chàng ghé sát tai vào miệng tôi, tôi cố gắng hết sức phều
phào: "Chỉ cho em… tìm lại thân thể…" Nói xong tôi phải nhắm mắt nghỉ
mệt. Chừng anh không hiểu ý, tôi ráng kéo bàn tay anh đặt lên một chỗ tình cờ
và hai bàn tay làm cử động, tôi nhận ra ngực tôi qua một lần chăn mỏng. Tôi thấy
anh gật đầu, tôi yên lòng nhắm mắt trở lại. Bàn tay trái của tôi được buông ra.
Bàn tay, vừa nắm lấy nó lúc trước vuốt lên trên cánh tay vai trần, tôi hiểu rằng
tôi không mặc quần áo, chỉ phủ một lần chăn thôi. Bỗng thèm một bàn tay nữa,
hai cái ấp vào mặt tôi vuốt ve hai má tôi, cặp mắt, cặp môi, cái cằm, cái cổ,
xuống đến cánh tay phải và nắm lấy bàn tay phải của tôi. Bàn tay lạnh xa lạ kia
đưa tới đâu cảm giác mọc lên ở đó. Thốt nhiên hai bàn tay biến mất để cho tôi
rung động với những phần tìm lại được, sau đó xuất hiện ở phía xa nắm lấy hai
bàn chân của tôi. Tôi sung sướng cử động mấy ngón chân. Lần lượt tôi chiếm lại
cả cơ thể và ngủ thiếp. Thức dậy, tôi thấy mấy ngón tay ai đang quệt những giọt
nước mắt trên gò má. Tôi đã khóc trong khi ngủ, tôi không cầm nổi nước mắt ứa
tràn, tâm thần tôi tỉnh táo. Hai ống chân tôi giá buốt, có lẽ cái chết đã chiếm
xong phần ấy rồi. Tôi đưa bàn tay gọi người con trai, tôi muốn nhìn rõ ràng
khuôn mặt anh. Tiếng của ai kêu la thảm thiết. Người con trai quay đầu về phía
tiếng kêu ấy, xong anh ghé vào mặt tôi nói thầm: "Em tha thứ cho
anh", tôi không hiểu ý anh. Tôi nhìn chừng như anh vừa khóc, mắt đỏ hoe.
Anh cầm bàn tay tôi hỏi: "Em đã tỉnh chưa?". Tôi muốn gật đầu mà nhấc
không nổi, tôi bèn chớp mắt. "Tại sao em không bảo anh mà em lại muốn chết?".
Phút tôi đạp vượt khỏi tay người con trai, tôi không có ý nghĩ rõ rệt là tôi
đang tự tử, tôi biết chắc mặt sông ở sau lưng, tôi như bị thôi thúc đột ngột bởi
một mãnh lực thầm kín nằm sâu trong tôi từ bao nhiêu ngày. Tôi đã từng nghĩ: nếu
tôi được trông thấy mặt chàng, tôi chết mãn nguyện. Trước đó khi người con trai
ôm ngang thân tôi, gỡ dần những ngón tay níu vào thành gỗ, là cảm giác khiếp sợ
lạnh ngắt cả cơ thể: khiếp sợ sự trinh tiết bất ngờ của tôi đối với người con
trai. Tôi nhớ tôi là một thiếu nữ chưa hề bị xâm phạm và như thế thật là quái gở
đối với sự tưởng tượng của mọi người. Người con trai hỏi tiếp: "Anh muốn
cưới em, có được không?". Câu nói là một lời an ủi, tôi không cầm được nước
mắt. Muộn quá rồi, nếu anh biết em hằng nhìn vào cõi chết, chọc thủng cái màu tối
đen dầy đặc bao phủ nó. Em đã nhìn thấy qua khỏi khúc đường mù như nơi em gặp
anh, như những buổi tối mùa đông cô đơn của một chuỗi năm tháng đã díu lại làm
một, hiện lên dưới ánh sáng ban ngày những con đường thẳng tắp hay quanh co, những
thân cây um tùm hay xơ xác, những vỉa hè, những cánh cửa, những mặt nhà phô bày
quen thuộc và những khuôn mặt trôi qua loáng thoáng không níu giữ được, chẳng
thể tưởng nhớ. Con đường đi vào cõi chết dẫn trở về cuộc đời không tiên đoán được;
nhìn thấy sự vật mỏng lại, dẹp xuống chỉ còn là những mặt phẳng. Em không muốn
sống mãi với cảm giác chênh vênh, lòng mình sâu hút như vực thẳm trong khi xung
quanh phẳng lặng như tờ. Muộn quá rồi, bây giờ em đang nhìn khuôn mặt của anh
trên nền trắng hư vô, đang chới với giữa cả quá khứ ngưng đọng, hiện tại của em
là những giây phút tách rời rung động một mình không ngớt. Cái chết em trông thấy
trong mắt anh xa vời, em còn sống đây, sống những thời khắc cuối cùng của một
cái chết chờ đợi. Và sau đó …
Tôi nhìn mấy cái bóng trắng loanh quanh bên giường tôi. Người
ta sửa soạn tiếp máu cho tôi, người con trai bị che lấp. Những giọt máu ngấm
vào cơ thể sưởi lên một cơn nắng của sớm mai mùa hè. Chậm chậm hơi nóng bốc lên
đầu dìm tôi vào cơn say của sự sống vay mượn đang nhập, hơi thở của tôi rộn rịp
hơn, nghe như có tiếng lá cỏ reo trong một cơn gió nhẹ. Tôi tận hưởng cái đời sống
đơn giản chạy theo những lượng hồng huyết cầu mới tới. Tôi ngủ thiếp đi, sức
căng của động mạch tăng dần trong lồng ngực yếu ớt. Giấc mộng pha trộn hai màu
trắng loãng và đỏ hồng không có hình bóng và tôi nghe giọng nói ấm áp như tấm
chăn đơn đắp lên một thân thể gầy gò.
Tôi mở mắt không thấy người con trai ở bên, người nữ y tá
đang thu xếp dụng cụ truyền máu. Tôi nghe những tiếng xầm xì và tiếng rên la
thoang thoảng. Cô y tá trước khi bỏ đi bảo: "Ông ấy sắp trở lại bây giờ".
Người con trai trở lại, cặp mắt ngơ ngác thất thần, đầu tóc bù xù, bộ quần áo
đêm qua không thay nhàu nát. Tôi hỏi anh chỗ tôi đang nằm ở đâu, yêu cầu anh kể
cho tôi nghe về xung quanh tôi. Anh bảo tôi đang nằm ở bệnh viện cấp cứu, dưới
kia là cái chợ chính ở trung tâm thành phố, nhà ga xe lửa, bến xe buýt; đã bốn
giờ sáng chợ cá đã họp, tôi sắp sửa nghe thấy tiếng xe buýt tới bến. Tôi lẳng lặng
để cho người con trai dẫn tôi vào cái thế giới mà mọi vật đã được lời nói phủ
lên vẻ huyền ảo che đậy những khía cạnh thô kệch của nó. Tôi nằm trong gian
phòng ở từng thứ nhất, hai mươi giường kê sát thành từng hàng, giường tôi ở sát
cửa vào, mấy giường kế cận không có người nằm. Dãy giường bên kia, một đứa nhỏ
bị tai nạn xe hơi gãy chân bất tỉnh nhân sự, một người đàn bà giận chồng tự tử
– người con trai xích ra cho tôi nhìn người chồng ngồi với hai đứa con nhỏ bên
giường vợ – một bà già hấp hối cảnh binh nhặt được ngoài hè, một thiếu nữ uống
thuốc phá thai băng huyết.
Tôi bảo người con trai: "Anh nói nốt cho em nghe câu
chuyện bỏ dở". Anh nói: "Lúc ấy anh định hỏi em: Biết đâu em chẳng
chính là cái cô sinh viên anh mơ ước thuở bé?". Tôi lắc đầu: "Anh nói
chuyện khác đi vậy". Người con trai nhíu mày suy nghĩ, tôi bảo: "Anh
nói về anh cho em nghe". Tôi trông vào đôi mắt đen sâu của người con trai
dưới cặp lông mày đậm và xếch, đuổi theo cái giọng nói âm thầm vào tận những kẹt
ngách tối tăm của quá khứ anh vẫn dìm sâu trong tiềm thức, phút này hiện lên
trước cái chết, cái chết của tôi. Giọng nói ấy lẫn vào tôi, đuổi tôi ra ngoài để
chiếm lấy, giấc mộng của anh thành giấc mộng của tôi và tôi biết cái chết đang
ôm ấp mình. Anh nhắc những ấn tượng đầu tiên của một đời, khi đứa trẻ bước khỏi
ngưỡng cửa xuống thềm nhà ra đường chơi nhìn thấy mặt hồ mênh mông hơi lạnh những
buổi sáng mùa thu, căn nhà tuổi nhỏ nằm trong một khu ba mặt là hồ nước xanh đục
màu lá như một hòn đảo. Con đường dốc đứng, dãy tường mặt sau của xưởng máy với
những khung cửa kính chấn song sắt đặt cao im lìm như nhà tù, cây cầu đá có những
vòm cổng đục xe lửa chạy ngang, mỗi ngày đứa nhỏ lủi thủi đeo cặp tới trường,
sân trường những hầm xi măng chữ chi lộ thiên nước ngập tới mắt cá, trông lên
trời nghe những hồi còi báo động rền rĩ. Rồi những thành phố đứa nhỏ đi qua để
lớn lên, những nhà ga trước những ngả đường rộng hiu quạnh, những phòng ngủ tỉnh
nhỏ, những con sông cùng bến chợ, tới khi trở về nơi ấu thơ hắn hiểu rằng mình
sinh ra không cội rễ, xa lạ với mảnh quê hương phần mộ cũ. Càng đi nhiều bao
nhiêu hắn càng nhận thấy mình mất hết những ràng buộc thân tình để còn một mình
giữa một không gian ở đâu cũng là xứ sở. Tôi nghe thêm những điều u uẩn:
"Tại sao anh lại yêu những người lớn tuổi hơn anh? Tại sao anh xua đuổi chạy
trốn những gì trong sạch mà người ta nâng niu quý mến ở đời? Tại sao anh không
yêu nổi những thiếu nữ hồn nhiên chưa ai đụng chạm, anh chỉ tìm gần gũi những
người đàn bà dày dạn? Tại sao lúc này anh yêu em?". Tôi là một người đàn
bà dày dạn. Người con trai gọi về những mối ám ảnh của anh, lời nói lúng túng
thiếu mạch lạc, chính anh cũng chưa soi sáng nổi tâm hồn của anh. Một mối ám ảnh.
Khi người con trai mười sáu tuổi yêu người con gái hàng xóm, một đêm kia thức dậy
nghe ở gác bên tiếng khóc than, người con gái đã chết vu vơ như một ngôi sao rụng
trong đêm mùa hè. Khi người con trai mười tám cầm tay lần đầu một người bạn
gái, nàng rút tay về kinh hãi bỏ chạy; một tuần lễ sau nàng chết, người con gái
hiền hậu vừa mua một chiếc nón mới, một đôi guốc mới chưa dám đội, chưa dám đi.
Những cái chết làm cho anh sợ, bàn tay anh như vấy đầy dơ bẩn chạm vào những vật
quý báu sẽ làm cho đổ vỡ, anh chỉ được quyền đứng xa mà nhìn ngắm luyến tiếc một
thiên đường đóng chặt cửa với anh, bàn tay giơ tới đâu sự vật tinh khiết tan biến
ở đó. Bây giờ rồi em chết và anh sẽ nghĩ tất cả mọi vật trên đời này anh chẳng
được quyền mó tới. Tôi muốn bảo người con trai: "Em là đứa con gái còn… nếu
em chết không phải vì anh". Nhưng anh không để cho tôi nghĩ ngợi, anh đưa
tôi ra ngoài mặt biển, trên một con tàu nhỏ, đậu tránh bão trong một vùng biển;
buổi sáng mai thức dậy mặt biển êm tĩnh lên ngồi trên boong nhìn tất cả sự vật
thản nhiên sáng sủa, húp một bát cháo nóng của đầu bếp Trung Hóa, xem một người
thủy thủ câu cá. Tôi nhắm mắt, người tôi dềnh lên vội vàng, đầu tôi nhức nhối
như nằm trong hầm tàu sóng biển đang xô đập…
IV.
Có người vỗ lên vai, tôi mở choàng mắt, quanh tôi và trước mặt
tôi là bác sĩ và y tá. Một người bảo tôi: "Cô ta chết rồi". Tôi bàng
hoàng nhìn vào mặt nàng, đầu nàng quấn băng trắng máu đỏ loang, môi tái nhợt,
hai mắt khép kín, tôi vẫn còn nắm chặt bàn tay trái của nàng khi mệt quá ngủ
thiếp mồ hôi ở tay tôi làm nhớp cả tay nàng. Tôi đứng lên đưa mắt thù nghịch
nhìn mọi người. Lúc đêm tôi quỳ gối bên cạnh giường nàng để nói chuyện với
nàng, người ta đánh thức tôi trong cái dáng điệu lố bịch ấy. Tôi tránh xa đám
người, bước tới gần vòi nước ở góc phòng, xấp nước vỗ lên mặt trong khi họ sửa
soạn mang xác nàng đi. Trời đã sáng, những người bệnh đều nằm im. Tôi rùng
mình, trong một khắc sống lại hết đêm qua với nàng, từ khi gặp nàng ở quãng tối
cho tới khi nàng ngã xuống. Đầu nàng đập thủng sâu vào một cái cọc nhà gãy ngầm
dưới mặt nước, máu ra nhiều, người ta đã hai lần tiếp máu cho nàng và bây giờ
người ta mang nàng trên băng ca ra khỏi phòng. Một người cảnh binh xuất hiện chụm
chân chào theo lối nhà binh đáng ghét, nói: "Tôi mời ông về quận để điều
tra". Tôi đi theo hắn. Ở đầu cầu thang chúng tôi phải đứng lại. Hai người
phu san vực bà già ăn mày cảnh binh nhặt được hấp hối ngoài lộ vừa mang vào hồi
hôm, định trốn khỏi nhà thương nhưng yếu sức đi không nổi té lăn cù dưới chân cầu
thang. Trong khi người ta vực bà trở lên, bà lẩm bẩm rên rỉ: "Cho tôi về
thôi"; người ta gắt với bà: "Bà về đâu? Chừng nào bác sĩ cho giấy ra
mới được ra". Người bà hôi thối rách rưới đến lợm giọng, hai cẳng sưng
phù. Qua chỗ chúng tôi đứng một người phu phân trần: "Bà già này kỳ cục
quá. Chưa khỏi mà cứ định trốn".
Dưới phố, còn sớm, người ta chở tôi trên một cái xe jeep chạy
nhanh. Về tới quận cảnh sát chưa tới giờ làm việc, tôi phải ngồi đợi ở cái băng
dài ngoài hành lang không người canh giữ. Tôi có ý bỏ đi tránh phiền phức vì
tôi không mang theo giấy tờ trong người. Nhưng tôi cảm thấy tôi không bỏ đi được.
Tôi nghĩ đến nàng đang nằm trong nhà xác và thân nhân của nàng tới giở tấm vải
phủ mặt để nhìn mà than khóc. Tôi cố tưởng tượng ghi nhớ vẻ mặt nàng, nụ cười ở
đoạn đường sáng, vẻ lo âu khi tôi quàng tay ngang thân nàng, vẻ thiêm thiếp khi
tôi nói cho nàng và tôi, những hình bóng của quá khứ vây bọc chúng tôi. Nhưng
có những khoảng trống đáng sợ mà khuôn mặt nàng không hiện lên, tôi không chắp
nổi những đường nét thành hình ảnh, sự quên lãng hãi hùng gậm nhấm cả linh hồn
tôi. Hình như khi đó, sự việc xảy ra đêm qua tưởng chừng đã bị đẩy lui nhập vào
một cái hố quá khứ mà dư âm còn phải chờ đợi thời gian mới vọng tới. Tôi điên tức
với chính tôi và tôi chỉ muốn người ta để yên cho tôi được quỳ bên nàng úp mặt
vào nàng khóc cho hả.
Viên cảnh sát hỏi cung tôi hãy còn trẻ. Chỉ thỉnh thoảng hắn
mới ngước mắt ném cho tôi một tia nhìn láu lỉnh, hắn làm ra vẻ thấu suốt những
ý nghĩ thầm kín của tôi. Hắn biên tên tuổi của tôi một cách nắn nót, đặt những
câu hỏi một cách chậm chạp dường như thích thú muốn kéo dài câu chuyện.
"Cô Nguyễn Thị Thanh với ông là thế nào?"
Thanh là tên của nàng, tôi nghe như tên một người lạ. Đọc tên
nàng lên người ta đã chia rẽ nàng với tôi, từ lúc gặp nàng tôi chỉ biết nàng
không hề nghĩ hỏi tên nàng.
"Tôi quen cô ta ở ngoài đường, tôi mời cô về nhà
chơi…"
Viên cảnh sát đợi tôi nói tiếp, khuôn mặt trắng trẻo bụ sữa
ngửa lên, vẻ tò mò còn ngây thơ. Thấy tôi im lặng nhìn cái mũ lưỡi trai úp trên
bàn, hắn hỏi:
"Rồi sao nữa?"
"Cô ấy ngã xuống sông, đầu đập vào cọc ngầm. Tôi và người
hàng xóm vớt đưa vào nhà thương".
"Tại sao cô lại ngã xuống sông?"
"Tôi không biết".
"Có phải ông đã xô cô ấy không?"
"Không", tôi trả lời gằn giọng ngó thẳng vào mặt
viên cảnh sát.
Hắn cúi xuống viết và đẩy tờ giấy tới trước cho tôi ký. Ký
xong tôi đứng tên, hắn bảo:
"Ông phải tạm giữ ở quận để giải sang biện lý cuộc".
"Tôi phải ra tòa?" Tôi ngạc nhiên hỏi.
"Còn tùy cuộc điều tra và những điều ông sẽ trả lời ông
dự thẩm".
Người ta dẫn tôi xuống nhà giam thuộc dãy nhà thấp bên hông
tòa nhà lớn, gian nhà chứa xe. Gian phòng trần trụi ẩm ướt hôi hám kê mấy cái
băng dài sát tường. Một cửa sổ chấn song sắt mở ra một mảnh tường rêu loang lổ.
Trong phòng có chừng bảy tám người nằm ngồi tản mác trên ghế. Hai cô gái mãi
dâm, mặc áo hoa ngắn, quần đen bóng nhàu nát, đầu tóc rối bù không chải, da mặt
nhợt nhạt, mùi nước hoa rẻ tiền còn phảng phất. Một cô da đen như lai Miên hỏi
viên cảnh binh dẫn tôi vào:
"Thằng chồng tôi chưa tới lãnh tôi sao thầy?"
"Ờ… ờ… đâu rồi có đó", viên cảnh binh giễu cợt.
Viên cảnh binh đi khỏi, cô chửi tục bâng quơ. Một thằng nhỏ ở trần mặc quần xà
lỏn, gối đầu lên tay co quắp ngủ. Ở một góc riêng biệt ba người đàn ông, một
người đàn bà thầm thì to nhỏ, quần áo tươm tất hơn, ra dáng người buôn bán. Tôi
ngồi xuống dưới chân thằng bé con tựa lưng vào tường nhắm mắt. Tôi muốn quên
cái đầu khốn nạn của tôi bởi tôi cảm thấy nó sắp dở chứng. Sau một giấc ngắn,
tôi tỉnh dậy nhẹ nhõm hơn trước, nhưng dấu hiệu cơn đau đầu cũng biến mất. Tôi
suy nghĩ về cái chết của nàng, tôi không hiểu vì sao nàng cố tình đạp vượt tay
tôi cho ngã xuống nước. Nàng sợ hãi vì tôi đã tỏ ra thô bạo với nàng? Nhưng tại
sao nàng lại không chịu theo tôi vào nhà, nàng không ngờ tôi sẽ như thế, nàng
tin vào những câu nói mê sảng của tôi? Giả vờ, người đàn bà chừng ấy tuổi đầu
không thể còn ngây dại tới mức ấy. Một người đàn ông, một người đàn bà trong một
căn nhà vắng ban đêm, không phải là lúc mơ mộng. Đó là việc ngẫu nhiên bất ngờ?
Suốt đêm qua bên cạnh nàng, tôi đã chứng kiến những giây phút tỉnh táo của
nàng, không hề thấy nàng tỏ vẻ kinh ngạc về sự việc xảy đến với nàng, tôi nhìn
rõ cái chết quá quen thuộc với nàng. Nàng tự tử? Tôi không tin bởi khi ôm nàng
trong tay, dìu nàng bước theo tiếng nói vào thế giới mơ mộng tạo ra, tôi thấy
nàng say đắm như tôi, mà tôi, tôi còn ham sống lắm, mặc dầu nhiều đêm chong đèn
thức giấc tôi vẫn ngắm nhìn hai bàn tay mình và cái chết. Tôi đặt hai bàn tay
xòe trên đầu gối, cái quần bết sình đã khô cứng. Tôi biết tất cả những cặp mắt
trong phòng giam đang dòm tôi, tôi bỏ mặc. Tôi tưởng tượng hai bàn tay tôi như
còn đang xoa trên thân thể của nàng, tôi yêu nàng cùng với cái chết. Chắc một
điều là tôi dự phần quyết định trong cái chết của nàng, tôi đã giết nàng cùng với
những kẻ… những kẻ khác, tôi không thể nói lại điều ấy với ai.
Tôi nhớ lúc tôi bảo muốn cưới nàng và nàng khóc, lòng tôi êm
ái lạ thường. Mãi mãi đó sẽ còn là những giây phút quý báu của tôi, những giây
phút tôi muốn sống bình thường như mọi người. Nhưng hình như một sức mạnh nào
đó cứ xô đẩy tôi và mọi vật xung quanh tôi vào trong trạng thái bất thường. Thằng
nhỏ duỗi chân đạp vào đùi tôi thức dậy, nó mở cặp mắt trâng tráo ngó tôi như một
người đồng cảnh quen thuộc và chẳng buồn nói lấy một lời.
Tôi rời chỗ bước ra giữa sàn, cái khoảng trống bừa bộn rác rưởi,
đi qua đi lại, tôi cố nghĩ xem cái không khí buồn tẻ này giống như nơi nào tôi
đã qua. Bây giờ đến phiên hai cô gái điếm nằm duỗi dài trong một dáng điệu nghề
nghiệp. Người đàn bà vẫn ngồi chung với ba người đàn ông ở góc riêng biệt, tới
đứng bên cửa sổ, hai tay vịn vào chấn song sắt bắt chước một vẻ mơ mộng trong
tiểu thuyết. Ba người đàn ông cũng tản mác đi lại trong phòng như tôi. Một người
đứng tuổi đeo kính trắng cử động uể oải hay ngáp trông rõ là một công chức kỳ cựu.
Một người lanh lợi tóc sấy dợn sóng, sơ mi trắng, cổ thắt nơ đỏ, quần giữ thẳng
nếp, tay còn cắp một cặp da kiểu những nhà thầu. Một người vẻ mặt lo âu thường
liếc nhìn trộm ông đứng tuổi đeo kính và người đàn bà đứng bên cửa sổ. Thằng bé
con cúi gập mình, đi lục soát dưới mấy gầm ghế như tìm kiếm một vật thất lạc.
Cô gái điếm đen đã ngáy khò khè. Cô kia mập và trông thật ngu đần, mắt cô húp lại,
lông mày cúp xuống, nhỏm dậy đập vào cẳng cô bạn kêu: "Ngủ hoài". Cô
bạn tỉnh dậy và hai bên chửi lộn om sòm. Ở ngoài có giọng cảnh sát la im và tôi
rơi hẫng vào sự tĩnh mịch. Trong suốt thời gian ấy, người đàn bà làm như không
nghe một tiếng động nào, hắn đứng quay lưng với tất cả, màu áo hoa của hắn sáng
lên vì nắng đã chiếu vào phòng. Tôi nhớ tới cái không khí của hội chợ sắp tan,
trời đã khuya, đèn nến sáng trưng, hoa giấy sặc sỡ, những gian hàng thưa người
bám bụi, những con đường lộn vòng giữa những dãy nhà tạm bợ, tiếng máy phóng
thanh oang oang trơ trẽn. Tôi tưởng tôi đã dẫn nàng đi dạo trong đó, chúng tôi
đi sát bên nhau, chúng tôi gần nhau, chúng tôi là một, chúng tôi không để cho sự
chán chường mệt mỏi của kẻ khác chia rẽ chúng tôi. Tôi tưởng nàng ngoan ngoãn
ngủ yên trong tay tôi và tôi che chở cho nàng. Lúc này tôi bắt đầu muốn khóc, cổ
họng tôi đầy ứ nước mắt, tôi nuốt mãi vào ngực.
Một lát người ta dẫn hai cô gái điếm ra ngoài, thằng nhỏ làm
hề hát mấy câu cải cách tạm biệt. Người đàn bà quay lại nói trống không:
"Chín giờ". Người đàn bà bước lại gần cầm cánh tay người đàn ông đưa
lên nhìn đồng hồ nói lại: "Chín giờ thiếu năm, còn phải đợi bao lâu nữa?",
lần này không ai buồn trả lời. Quãng nửa giờ sau, năm chúng tôi được chở tới
tòa án, thằng nhỏ ở lại một mình.
Trong khi chờ đợi biện lý cuộc xem xét hồ sơ, người ta để
chúng tôi ngồi ở hành lang bịt kín phía sau, ánh sáng không đủ soi rõ mặt người
bên cạnh. Tôi chỉ nhìn thấy những cẳng chân đi lại bên ngoài dưới cánh cửa tự động
mở ra khép vào. Tôi nghe tiếng người đàn bà xầm xì lúc thoạt vào rồi thôi. Sự
im lặng chờ đợi của đêm đã sắp tàn. Tôi trông thấy trong tưởng tượng một đứa trẻ
chừng mười bảy tuổi cởi trần ngồi ở thềm nhà, một căn nhà lá tiều tụy đầu xóm
những đêm tôi về muộn. Trong khi những con chó thấy người sủa ran rồi chạy tán
núp vào các ngách, nó ngước mắt nhìn tôi, tôi tưởng thấy lại ở nó hình ảnh của
tôi thuở nhỏ. Tôi tưởng tôi là nó với sự đau khổ thầm kín ngồi im giữa bóng đêm
ngắm một người khác cũng là chính mình đang lớn lên, lớn lên một cách xa lạ.
Trước khi vào tới chỗ đứa trẻ, tôi phải đi qua một ụ rác lớn, tôi phải nhìn một
bà già ngồi với một đôi quang gánh bên ụ rác móc đồ. Bà thường thảnh thơi ngoáy
trầu dưới bóng cây đèn điện khẳng khiu làm bằng một cây gỗ do xóm trồng. Một buổi
sáng dậy muộn, tôi nghe người trong xóm bàn tán xôn xao về cái chết của đứa trẻ:
bố nó thất nghiệp mấy tháng nay, sáng hôm đó mẹ nó đi chợ vắng, nó đuổi bầy em
ra ngoài chơi đóng cửa lại ra sau bếp treo cổ. Lẽ ra còn cứu sống được thằng nhỏ
nếu mẹ nó không hấp tấp tự ý cắt dây (người ta tin rằng cha mẹ không nên cắt
dây cho con cái, phải mượn tay người ngoài). Những đêm sau, khi về ngang chỗ đứa
trẻ ngồi tôi vẫn hy vọng gặp nó ở đó nhưng chỗ ấy đã vắng người, tôi không tin
được thằng nhỏ ấy chết. Đối với tôi, việc tự tử vẫn là một hành động tối thậm
phi lý mà tôi không thể hiểu nổi. Người tự tử nếu không điên thì cũng ngu tối
trong khoảnh khắc, nhưng thằng nhỏ tự tử kia làm cho tôi sợ bởi tôi không giải
thích nổi. Tôi đang nghĩ rằng nàng cũng tự tử và tôi khiếp hãi rợn gai ốc. Nàng
tự tử. Nếu thế tất nhiên không phải vì tôi, tôi chẳng nghĩa lý gì trong đời
nàng. Nhưng trước mắt mọi người tôi phải gánh chịu trách nhiệm về cái chết của
nàng, gánh chịu một mình, ý nghĩ ấy làm tôi khổ sở. Tôi lặp lại điều tôi đã
nghĩ khi ở quận cảnh sát: tôi giết nàng… cùng những kẻ khác và tôi không thể
nói lại điều ấy với ai. Có những người bị đời sống tiêm vào mạch máu những chất
độc phản ứng chậm mỗi ngày, cho đến một lúc vừa đủ độ thì bằng cách này hay
cách khác phải chết, tôi là mũi thuốc cuối cùng tiêm vào đời nàng…
Người ta đã vào dẫn bọn bốn người ra ngoài. Bây giờ một mình
tôi ngồi với những vòng tròn xanh đỏ trước mắt, mi nặng trĩu, tôi biết mình sắp
ngủ gục và tôi nhất định cưỡng lại. Nhưng còn tôi, tôi cũng là kẻ bị nhiễm độc
từ thuở ấu thơ và nàng, cái chết của nàng, có phải là liều thuốc cuối cùng của
đời tôi? Đến bao giờ tôi gặp liều thuốc cuối cùng? Đến chừng nào độ thuốc đủ sức
đánh gục tôi? Tôi còn chống trả tới lúc nào? Tôi khám phá ra rằng sở dĩ tôi
chưa tự tử, và không bao giờ hết, ấy chính bởi lẽ, mặc dầu từng giờ phút chất độc
vẫn tăng lên, từng giờ phút cơ thể tôi vẫn chống trả lại một cách kịch liệt.
Tôi không ham gì đời sống nhưng tôi không chịu để cho độc dược hoành hành, tôi
cưỡng lại một cách bướng bỉnh. Tất cả ý nghĩ tồn tại của tôi là ở chỗ đó, bắt đầu
từ đó; nếu không thử hỏi với cái thân phận khốn nạn của tôi, tôi còn sống làm
gì cho bẩn mắt thiên hạ. Tôi là một đứa con hoang, nói như thế không đúng Thanh
ạ – bỗng dưng tôi gọi tên nàng, nàng đã thuộc, đã ngấm vào tôi rồi – anh là đứa
con không muốn nhận cha mẹ. Mẹ anh là vợ lẽ và đã bỏ cha anh theo người khác. Lỗi
ở cả hai người nên anh thù ghét cả hai. Khi còn sống với cha anh, mẹ anh không
những bị vợ cả hành hạ khốn khổ mà còn bị cha anh đánh đập tàn nhẫn. Anh mất ngủ
từ năm sáu bảy tuổi, nhiều đêm thức giấc vì tiếng mẹ khóc anh không thể ngủ lại
được, anh nằm nghe giường bên tiếng cha anh càu nhàu rồi tiếng thoi đấm huỳnh
huỵch, mẹ anh không dám khóc lớn và cả anh nữa. Cho tới trận đòn ghen cuối cùng
của bà vợ cả trong ấy, vì thương mẹ, anh lăn vào và bị người ta đạp chết giấc
thì mẹ anh quyết định dẫn con bỏ nhà chồng trốn vào Nam. Lẽ ra anh phải sung sướng
với sự tự do của mẹ anh, nhưng không hiểu người ta đã nhồi vào đầu thằng bé con
từ bao giờ một thứ luân lý lạ lùng, anh theo mẹ anh và anh khinh mẹ anh đã
không đủ can đảm chịu đựng. Anh muốn dù cha anh có đầy đọa mẹ anh thế nào mẹ
anh vẫn phải chung thủy với ông, trung tín như một kẻ nô lệ anh hùng. Đồng thời
anh cũng thù cha anh đã bạc ác khiến mẹ anh phạm vào tội đối với luân lý, trong
thâm tâm anh cũng không muốn mẹ anh trở về sống trong cái tù ngục gia đình của
người cha. Từ đấy anh đã thù ghét luân lý vì nó bám chặt lấy anh như một cục đá
đeo trong đầu, rồi anh thù ghét luôn chính anh và anh đã không dám chọn một
phía nào cương quyết. Anh thương mẹ nhưng anh lại sợ luân lý xã hội. Mẹ anh rất
hạnh phúc với người chồng thứ hai, điều đó càng làm tăng sự chia xé trong tâm hồn
anh, anh không thể nào chịu đựng được cái vẻ mãn nguyện hớn hở của mẹ anh với một
người đàn ông khác không phải là cha anh. Nhưng cha anh lại là một người khả ố.
Anh chỉ được sống trong gia đình mẹ anh cho tới năm mười bảy tuổi thì anh phải
bỏ đi. Mẹ anh vẫn thương anh, có phần hơn những đứa con sau này; người cha ghẻ
đối đãi với anh cũng tử tế, nhưng anh không thể sống mãi với những người mà anh
vẫn nuôi lòng thù hận không giảm. Anh thù hận luân lý, anh thù anh. Anh cũng
không thể trở về với gia đình ấy vì họ khinh bỉ mẹ anh trong khi chính họ là
nguyên nhân xô đẩy mẹ anh vào đường tội lỗi (có phải là tội lỗi không khi mẹ
anh chỉ đòi cái quyền được hưởng sự sung sướng như mọi người?). Anh trở thành một
đứa con hoang. Nhiều đêm khuya, anh đi qua lại hai căn nhà ngụ hai gia đình của
anh, gia đình cha và mẹ anh ở cùng một khu cách nhau vài phố, nhìn từ xa ánh
đèn đầm ấm của hai không khí gia đình mà chẳng chỗ nào anh có thể ở được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét