Thứ Năm, 2 tháng 12, 2021

Đời phiêu lưu của Tuấn 1

Đời phiêu lưu của Tuấn 1

Chương 1
Gà trong xóm bắt đầu gáy sáng. Tuấn giật mình choàng dậy. Nhìn xuống bếp, thấy má đang lúi húi ngồi hấp bánh, Tuấn cảm thương má vô hạn.
Tuấn đưa mắt nhìn lên bàn thờ ba. Sau ngọn đèn dầu leo lét, toả ánh sáng lờ mờ, hình ảnh ba Tuấn lung linh như đang nhìn Tuấn…
Tuấn ứa nước mắt, thở dài. Chỉ trong vòng có mấy ngày mà trong gia đình Tuấn đang yên vui, bỗng xẩy đến một cái tang đau đớn nặng nề! Tương lai Tuấn sụp đổ theo cái chết bất ưng của ba Tuấn.
Năm học vừa qua, Tuấn đã học hết lớp nhất và được cấp chứng chỉ Tiểu học. Vì trường xã không có lớp Trung học, nên ba cậu đã hứa sẽ thu xếp cho cậu lên trường Quận để học tiếp. Tuần vừa rồi, ba cậu đã đem cậu lên trường Quận, nạp giấy tờ để thi vào Đệ Thất. Một gia đình quen, đã hứa sẽ cho Tuấn ở trọ. để đi học với con họ. Tuấn tin chắc, thế nào cậu cũng thi đậu, vì các môn học ở lớp nhất, cậu đều xuất sắc. Tối hôm ấy, ba Tuấn nói với má Tuấn :
- Bà tính sao ? Con Hiền học trường xã thì không tốn kém bao nhiêu. Còn thằng Tuấn nếu thi đậu vô Đệ Thất, thì cũng đỡ được vài trăm bạc học phí. Còn tiền ăn mỗi tháng, tệ nhất cũng hơn một ngàn. Biết mình có chạy ra tiền mỗi tháng cho con không ?
Má Tuấn trầm ngâm suy tính một lúc rồi trả lời :
- Tôi tính thế này, ông xem có được không ? Năm nay, ông lãnh thêm một thửa ruộng của ông bà Tư Bá để cấy thêm lúa. Còn tôi, mỗi ngày tôi cố dậy sớm, hấp ít bánh ú, bỏ mối cho bạn hàng ngoài chợ, kiếm ít tiền lời. Nếu trời cho trong gia đình không ai đau ốm, thì có lẽ cũng tạm đủ.
Ba Tuấn vui vẻ nhìn má Tuấn :
- Mình tính như vậy là hay nhất rồi. Thôi, đến đâu hay đó, lo quá nó mệt cả người!
Rồi ông quay lại bảo Tuấn:
- Con thấy đó, chỉ vì muốn cho con học hành thêm chút ít để mai sau con được nhờ, mà ba má phải lo nghĩ, mệt nhọc rất nhiều. Con nhớ cố gắng học hành, đừng chơi bời lêu lổng, mà uổng công ba má lo cho con!
Tuấn khoanh tay, ngước mắt nhìn ba má, đầy vẻ biết ơn :
- Thưa ba má ! Con xin hết lòng cám ơn ba má, trọn đời con sẽ không bao giờ quên. Con xin hứa với ba má, con sẽ tiết kiệm tiền bạc và cố gắng học hành để khỏi phụ công ba má lo cho con. Và con định bụng, ngoài giờ học hành, con sẽ giúp đỡ các việc vặt trong nhà con trọ, may ra họ có bớt cho được ít tiền cơm thì cũng đỡ !
Ba Tuấn vuốt tóc Tuấn, khen :
- Con biết suy tính như vậy, ba má bằng lòng lắm. Ba má tin chắc tương lai con sẽ khá. Nhờ đó, ba má cũng được an ủi khi về già !
Tuấn lo ôn lại bài vở để dọn thi. Má Tuấn may sắm thêm cho hai đứa, mỗi đứa một bộ áo quần mới. Ba Tuấn sang nhà ông bà Tư Bá, xin canh tác thêm một mẫu ruộng sâu, được ông bà chấp thuận.
Một buổi chiều, ba Tuấn đi cày về, tay xách một xâu ếch. Ông đưa cho Tuấn :
- Con đem xuống bếp, phụ với má con, làm một bữa thịt ếch ăn chơi !
Tuấn reo lên :
- Làm sao ba bắt được nhiều vậy, ba ?
Ông tươi cười :
- Ba cày gần xong thửa ruộng, thấy nhiều ếch lấp ló trong hang, nên ba nghỉ cày, đi bắt ếch. Một lúc mà được gần cả chục con !
Bữa cơm chiều ấy thật là vui vẻ. Nhưng đến nửa đêm, ba Tuấn đang ngủ, bỗng kêu lên ú ớ. Má Tuấn vội thắp đèn lên. Ba mẹ con chạy lại giường ông nằm, thấy ông hai tay ôm lấy ngực, thở một cách rất mệt nhọc, mắt mở trợn trừng. Má Tuấn thất kinh, cúi xuống hỏi dồn dập :
- Mình ! Mình làm sao thế, mình ?
Thấy vợ con, ông phều phào :
- Hồi chiều, tôi bắt ếch trong hang, bị rắn cắn nơi tay, nhưng tôi không lấy làm điều, vì tưởng là rắn nước. Không dè, đó là con rắn độc ! Bây giờ nọc độc nó chạy đến tim… chắc tôi… chết mất !
Má Tuấn hốt hoảng :
- Không ! Không ! Để tôi chạy kêu nhờ bà con lối xóm đem ông đi nhà thương ngay.
Ba Tuấn lắc đầu, nói một cách khó nhọc, đứt quãng :
- Không kịp nữa đâu mình à ! Nọc độc… chạy về tim rồi ! Tôi sắp sửa bị cấm khẩu… đến nơi ! Thôi… mình ở lại… rán nuôi con… Tuấn… Hiền… các con…
Ông nói chưa hết lời, thì miệng ông đã méo xệch, cứng ngắt. Tay ông quờ quạng, run rẩy. Tuấn vội nắm lấy bàn tay ba nó.
Một lát sau, ông tắt thở, mặt mày ông tím bầm. Má Tuấn ôm lấy xác chồng, khóc như điên dại. Tuấn và Hiền cũng khóc rống lên :
- Ba ơi ! Ba ơi !
Cả xóm náo động khi nghe tin ông Hai chết bất ngờ vì rắn cắn. Ông vốn ăn ở hiền hòa với bà con láng giềng, nên ai cũng mến. Họ kéo nhau đến giúp đỡ, kẻ ít người nhiều. Ông bà Tư Bá cũng đến thăm và cho số tiền để mua hòm. Bà Hai như người mất hồn, hai hàng nước mắt chảy dài trên má. Bà khóc khản cả tiếng. Các bà xúm lại an ủi và săn sóc cho bà.
Nhờ mọi người tận tình giúp đỡ, đám tang ông Hai tuy đơn sơ, nhưng rất cảm động. Bà Hai bước đi như một kẻ không hồn, nhờ hai bà mạnh khoẻ dìu hai bên. Hai anh em Tuấn thất thểu theo sau quan tài. Con Hiền còn nhỏ quá, chưa hiểu gì lắm. Nó chỉ gào khóc :
- Ba ơi! Ba ơi!
Còn Tuấn có trí khôn hơn, cậu thấy rõ cái chết bất ngờ của ba cậu là như cả trời đất sụp xuống trên đầu má con cậu! Thế là hết! Bao nhiêu dự tính của ba má cậu đều tan thành mây khói!
Sau ngày chôn cất chồng, bà Hai sụt sùi nói với Tuấn:
- Con ơi! Lúc ba con còn sống, ba má đã hứa cho con tiếp tục học hành. Suốt đời ba má đã phải vất vả làm thuê làm mướn, ba má ước ao cho con được một tương lai khá hơn nhờ sự học. Nhưng ý người muốn mà ý Trời không định. Bây giờ má một thân, chân yếu tay mềm, không biết làm sao cho con được như ý nguyện. May ra, má có thể lo cho em Hiền con học thêm chút ít…
Nói đến đó, bà oà lên khóc nức nở. Tuấn cũng khóc theo…
Nghe má nhắc đến em Hiền, Tuấn thương em vô hạn. Ngày ba còn sống, có lẽ em Hiền thương ba nhất nhà. Ai cho cái gì, em cũng bảo để dành cho ba. Tuấn suýt bật cười, khi nhớ lại, hồi em còn bé tí : mỗi ngày, thấy má đi chợ mua cá, mua rau về, thì em lân la hỏi :
- Má mua cá, mua rau cho ba ăn, phải không má ?
Nếu má trả lời :
- Ừ, má mua về cho ba ăn !
Thì em không hỏi gì nữa. Nhưng nếu má nói :
- Không, má mua về để má ăn, chớ không cho ba ăn đâu !
Thế là em nằm lăn ra khóc, cho đến khi má phải dỗ ;
- Ừ, má mua về cho ba ăn!
Nó mới nín. Nay ba không còn nữa, Tuấn thấy tội nghiệp cho em hết sức. Tuấn muốn hy sinh tất cả đời mình cho em được sung sướng. Tuấn nói với má:
- Thưa má, số Trời định cho con như thế, con xin cúi đầu vâng chịu. Má đừng quá buồn mà sinh bệnh, kẻo anh em con lại càng khổ hơn. Con xin má lo cho em con học được chừng nào hay chừng ấy.
Phần con, ông bà Tư bảo con đang còn nhỏ, chưa cày cấy gì được, tạm thời con sang chăn mấy con bò cho ông bà. Vài ba năm nữa, con lớn lên sẽ nối nghiệp ba con. Con chắc má cũng đồng ý như thế !
Bà Hai lau nước mắt :
- Con ơi ! Nhà đã vắng người, nay con lại đi nữa, thì chỉ còn má và em Hiền con mà thôi ! Nhưng không lẽ má con ta ngồi với nhau mà chờ chết đói? Con sang ở với ông bà Tư, tối nào rảnh, con xin phép ông bà về ngủ bên này cho vui.
Ngày tựu trường gần đến, Tuấn gặp các bạn cùng lớp. Hầu hết đều tiếp tục đi học. Đứa có bà con ở Sàigòn thì lên học Sàigòn, đứa lên học ở Biên Hòa, đứa đi trường Quận. Tuấn cho các bạn biết ý định của mình, ai nấy đều ngậm ngùi xót thương số phận hẩm hiu của Tuấn.
Trước lúc chia tay mỗi đứa một ngả, cả bọn định tổ chức một bữa cơm trưa ngoài đồng. Đứa nào có gì sẽ đem ra ăn chung với nhau.
Sáng hôm họp nhau lần cuối, Tuấn buồn bã nghĩ đến các bạn, ngày kia đã tung tăng cắp sách đến trường. Riêng cậu, từ nay thế là hết, mộng học hành tan thành mây khói, thực tế sẽ là mấy con bò sữa của ông Tư. Bất giác, Tuấn ngẩng đầu lên nhìn hình ảnh ba, cậu chắp tay khấn vái:
- Ba ơi! Ba sống linh, chết thiêng! Xin ba phù hộ cho má, cho các con!
Bà Hai sắp bánh vào thúng đem ra chợ. Bà định lên nhà trên thức Tuấn dậy, bỗng bà thấy con đang gục đầu trên bàn. Biết con đang buồn, bà nhẹ nhàng bảo con :
- Tuấn ơi, con coi nhà cho má ra chợ một lát. Con đợi má về rồi hãy đi chơi, nghe con!
Ra đến cửa, bà còn quay lại dặn:
- Em Hiền con ngủ dậy, con lấy hai cái bánh trong tủ cho em. Má cũng dành cho con 10 cái để con đem góp phần với chúng bạn đó!
Tuấn đứng dậy, vươn vai:
- Vâng, má đi mau về, nghe má!
Bốn cậu học trò, mỗi cậu mang một xách, đi vào trước sân nhà Tuấn, gọi:
- Tuấn ơi! Tuấn ơi!
Tuấn nghe gọi, vội chạy ra, thấy các bạn, cậu reo lên 
A ! Khánh, Lịch, Phú, Hiếu! Các anh đợi tôi một chút nghe!
Tuấn chạy xuống bếp. Má cậu đang sắp bánh và mấy trái cây vào xách cho cậu. Cậu cầm lấy xách:
- Thưa má, con đi. Các bạn con đang chờ con ngoài sân.
Bà Hai âu yếm dặn con:
- Các con chọn chỗ nào khô ráo mà chơi. Nhớ đừng bắt ếch, lỡ gặp rắn độc, nghe con!
Tuấn dạ rồi chạy ra sân, tươi cười:
- Xong rồi! Chúng ta đi! À, các bạn kia đâu?
Khánh vừa nhảy chân sáo, vừa trả lời:
- Tụi tôi vô kêu anh, còn chúng nó kéo nhau ra đồng cả rồi!
Ra đến đồng, cả bọn bàn nhau đến một bãi tha ma rộng, có nhiều mộ xây gạch sạch sẽ, bỏ các xách vào một chỗ, đoạn bày trò chơi.
Tuổi trẻ thật vô tư, chơi đùa la hét om sòm, vang dậy cả cánh đồng. Chơi chán, mệt, mồ hôi ướt đẫm áo, bon chúng cởi áo ra phơi lên mấy tấm bia cao, rồi ngồi thở. Nghỉ một lúc, cả bọn ùa lại lấy xách, lôi đồ ăn ra. Tuấn cẩn thận trải mấy tờ giấy báo xuống nền gạch, bỏ các thức ăn lên trên. Tuy mỗi đứa đem theo một vài thứ, nhưng góp lại một chỗ, trông thật no con mắt! Nào gà luộc, gà quay, chả lụa, nào là bánh nếp, bánh ú, trái cây đủ thứ. Tha hồ ăn!
Tuấn tươi cười bảo các bạn:
- Hôm nay, thật là một ngày vui nhất của chúng ta. Biết khi nào chúng ta lại họp mặt đông đủ như thế này nữa?
Hiếu nhanh nhẩu:
- Có chứ, dịp nghỉ lễ Noen tới đây, tụi mình lại tổ chức một bữa nữa, các bạn đồng ý không?
Cả bọn vỗ tay tán thành:
- Đồng ý! Đồng ý!
Dưới bầu trời thanh, chói chang ánh nắng, gió thổi hây hây, cả bọn vừa ăn, vừa cười đùa, tưởng không có gì vui thú bằng! Riêng Tuấn, cậu thoáng vẻ buồn man mác, khi nghĩ đến hoàn cảnh ngày mai của mình.
Cuộc vui nào cũng sẽ tàn. Cơm nước xong, cả bọn thu xếp trở về, vì sợ cơn mưa chiều bất ưng kéo đến. Trên đường về, đứa nào cũng có vẻ buồn. Đến gần nhà Tuấn, cả bọn siết chặt tay từ giã Tuấn, hẹn ngày tái ngộ.
Tuấn thất thểu vào nhà. Em Hiền đang chơi trước sân, thấy Tuấn, reo lên:
- A, anh Hai về! Má ơi, anh Hai về!
Bà Hai trong bếp bước vội ra hỏi con:
- Đi chơi có vui không con? Các bạn con tới đông đủ không?
Tuấn đang buồn, nhưng cố làm mặt vui:
- Thưa má, vui lắm! Tụi bạn con đến đông đủ hết. Đồ ăn chúng nó mang đến nhiều quá, ăn không hết. Còn dư bao nhiêu, chúng nó bắt con xách về. Má xem, con mang một xách nặng đây!
Tuấn tháo xách trên vai xuống đưa cho má. Bà Hai đỡ lấy, bảo con:
- Thôi, con vào nghỉ một lát rồi đi tắm cho khỏe.
Chương 2
Tuấn đến ở với ông bà Tư Bá đã được một tuần. Công việc của Tuấn : buổi sáng, lùa 2 con bò mẹ và 4 con bò con ra đồng cho ăn cỏ. Buổi chiều, đi cắt cỏ và dọn dẹp trong vườn. Công việc không có gì nặng nhọc lắm, nhưng phải làm luôn tay.
Khu vườn ông Tư khá rộng, có lẽ gần ba mẫu tây đất. Vườn bao một hàng giậu kín, có mương nước chạy vòng quanh. Trong vườn trồng nhiều cây ăn quả: dừa xiêm, xoài, ổi xá lỵ, mãng cầu v.v… Cây cao, cây thấp, rợp bóng mát.
Giữa vườn là nhà ở: Một nhà lớn nằm dọc và một nhà nhỏ nằm ngang. Nhà xây gạch, lợp ngói, theo lối cổ. Nhà lớn là nhà ở, còn nhà nhỏ làm kho lúa và làm nhà bếp. Trước nhà là một sân rộng, tráng ximăng.
Ông Tư Bá là một điền chủ hạng trung bình. Ruộng đất ông đều cho người ta canh tác. Đến mùa, họ đong lúa cho ông. Ông chỉ chăm sóc vườn cây ăn trái và nuôi vài cặp bò sữa.
Ông Tư Bá còn có một sở thích đặc biệt là sưu tầm đồ cổ. Hễ ở đâu, dẫu xa xôi, có những đồ cổ muốn bán, ông cũng lần mò đến xem, hợp ý thì giá nào ông cũng mua. Hai gian nhà lớn, gồm phòng khách và gian chái, là giang sơn riêng của ông chứa đồ cổ : các chậu, bình, bằng sứ, bằng đồng, đủ kiểu lớn nhỏ. Theo các nhà sành sõi nhận xét, có nhiều thứ sản xuất từ mấy thế kỷ trước.
Thường ngày, ông Tư ở nhà lau chùi, đánh bóng, hết bình đồng này, đến chậu sứ khác. Khi ông đi đâu vắng, thì ông đóng cửa kỹ.
Ông bà Tư Bá sinh được 4 đứa con, nhưng chỉ nuôi được 1 gái và 1 trai : Cô Thu Dung 10 tuổi và cậu Vinh, 8 tuổi. Thu Dung học lớp nhì, Vinh học lớp tư, tại trường xã.
Bản tính ông Tư Bá nghiêm trang, ít nói, hoà nhã với mọi người. Ông ít giao thiệp, hằng ngày chỉ quanh quẩn trong vườn với mấy cây ăn quả và với mấy món đồ cổ của ông. Bà Tư là người từ tâm hiếm có. Hễ chòm xóm láng giềng, ai gặp hoạn nạn gì, bà đều tận tình giúp đỡ. Bởi đó, người trong xã đều cảm mến ông bà.
Mấy ngày đầu, Tuấn mới đến giúp việc, chiều nào, bà Tư cũng cho Tuấn ăn cơm sớm để về nhà với má. Nhà ông bà Tư ở xóm trên, nhà Tuấn ở xóm dưới, cách nhau độ vài cây số, nhưng đường nhỏ khó đi. Nhất là Tuấn phải đi ngang qua một bãi tha ma lạnh lẽo, dễ sợ.
Bà Hai bị ám ảnh bởi cái chết của chồng vì rắn độc, nên lúc nào bà cũng phập phồng lo sợ cho con. Bà lên xin bà Tư đừng cho Tuấn về nhà mỗi tối nữa, mà chỉ cho về chiều ngày chủ nhật.
Lúc đầu lạ, sau quen dần, Tuấn bắt đầu thích thú công việc mới. Cậu săn sóc tắm rửa, trìu mến vuốt ve mấy con bò. Mấy con vật này cũng quen hơi cậu, nhất là mấy con bò con, hễ thấy cậu ra mở cửa chuồng, là chúng nó nhảy nhót tưng bừng, lè lưỡi liếm vào tay cậu và húc đầu vào người cậu như để tỏ lòng yêu mến.
Buổi tối, không có việc gì làm, Tuấn đọc sách và nhiều khi chỉ vẽ bài vở cho Thu Dung và Vinh. Dần dần, hai đứa nhỏ thương mến Tuấn như anh ruột. Ông bà Tư rất bằng lòng tính nết Tuấn. Thỉnh thoảng, bà Tư lại cho Tuấn đem Thu Dung và Vinh về dưới nhà chơi trọn ngày chủ nhật. Xem ra bé Thu Dung và bé Hiền hạp tính nhau lắm. Hai chị em chơi với nhau, ríu rít cả ngày không chán.
Một buổi chiều, Tuấn đi cắt cỏ về, thấy em Vinh đang ngồi khóc trước cửa. Tuấn lấy làm lạ, hỏi:
- Vinh, sao em khóc?
Vinh mếu máo:
- Em đuổi con mèo, nó nhảy qua cửa sổ vô phòng ba, em nghe “xoảng” một tiếng không biết nó làm vỡ cái gì của ba, em sợ ba về ba đánh em !
Tuấn tái mặt, hỏi dồn:
- Thế ba má và Thu Dung đi đâu?
Vinh vẫn sụt sùi :
- Ba sang đánh bài bên bác Ba, còn má và chị Thu Dung đi thăm bà Năm đau bịnh.
Tuấn bỏ giỏ cỏ trước sân, vào nhà xem. Cái cửa phòng trong ăn thông sang phòng khách, thường ông Tư đi đâu, ông đóng kỹ, hôm nay ông lại quên không đóng. Tuấn lấy ghế trèo lên nhìn qua. Cậu suýt la to lên, vì vật bị mèo làm vỡ, chính là cái bát Giang Tây rất quý, mà ông Tư mới mua được vài hôm nay!
Theo lời ông thuật lại, thì cái bát quý giá này có từ đời vua Khang Hy bên Tàu. Phía trong đáy bát, họ vẽ hai con cá vàng vờn nhau, chung quanh có những cành rong xanh. Nét vẽ rất tinh xảo. Đặc điểm quý giá của nó là lúc ban đêm hay trong phòng tối, thắp một ngọn nến, đổ nước trong vào bát: Dưới ánh đèn lung linh, người ta sẽ thấy hai con cá vàng sống động đang bơi lội đùa rỡn với nhau trong bát!
Thế mà bây giờ nó bị vỡ rồi! Tuấn lo sợ cho em Vinh, tuy không phải chính nó làm vỡ, nhưng vì nó đuổi con mèo, chắc ông Tư sẽ cho nó một trận đòn nên thân, vì ông quý cái bát này lắm. Ông còn đang dự định làm một bữa tiệc mời bà con đến thưởng thức cái bát quý. Ai dè !
Tuấn nhảy xuống khỏi ghế, ra sân. Em Vinh chạy lại ôm lấy Tuấn, oà lên khóc:
- Anh Tuấn ơi, bây giờ làm sao, anh? Ba về, ba đánh em đau lắm!
Tuấn thương hại, cậu nghĩ cách cứu em:
- Thôi em đừng khóc nữa! Để anh nhận với bác là chính anh đuổi con mèo. Nhưng em phải đi chỗ khác chơi. Nếu bác có đánh anh, em cũng đừng nói gì hết, nghe! Anh lớn rồi, bác đánh anh không đau đâu, em đừng lo !
Bé Vinh nghe anh Tuấn nói thế, nhoẻn miệng cười, nét mặt rạng rỡ :
- Cám ơn anh! Khi ba về, em sẽ ra sau vườn chơi.
Tuấn đem cỏ cho bò ăn, rồi vào đứng xớ rớ trước sân nhà, phập phồng chờ đợi tai hoạ sẽ đến, không biết nặng nhẹ thế nào?
Ông Tư vừa mở cửa bước vào phòng, đã chạy ra hét oang oang:
- Đứa nào làm vỡ cái bát của tao rồi? Đứa nào?
Tuấn tái mặt, chắp tay, ấp úng:
- Thưa bác, cháu… cháu…
- “Bốp, bốp”, mầy à! Mầy làm sao, thằng quỷ kia?
Hai má thằng Tuấn đỏ hồng, in rõ bàn tay ông Tư, mắt nó nảy đom đóm:
- Thưa bác, cháu đuổi con mèo, rủi nó nhảy qua cửa sổ vào phòng làm vỡ cái bát!
Ông Tư tiếc của đay đảy, hét lên :
- Mầy đuổi con mèo, con mèo làm vỡ, tức là mầy làm ! Tao bắt mẹ mầy phải bán nhà mà đền cho tao!
Rồi ông ngồi phịch xuống sân, rên rỉ:
- Trời ơi! Tôi mua được cái bát quý hơn vàng ngọc, chưa kịp xem cho thoả, thì nó đã làm vỡ mất rồi! Trời ơi là trời!
Bà Tư và Thu Dung vừa về đến cổng, nghe tiếng ông quát tháo, chạy vội vào. Bà dịu dàng hỏi ông:
- Có chuyện gì thế, ông?
Ông Tư đứng dậy, nắm lấy hai tay Tuấn, mắt ông vẫn còn long lên sòng sọc :
- Tôi vội đi quên đóng cửa sổ, thế là cái thằng quỷ này đuổi chó mèo làm sao mà mèo nhảy qua cửa sổ vô phòng làm vỡ mất cái bát Giang Tây quý giá, tôi vừa mua được hôm kia rồi!
Bà Tư chưng hửng, đứng yên một lúc, bà cũng tiếc của, nhưng sự đã rồi biết làm sao? Bà ngọt ngào nói với chồng:
- Thôi, ông à! Cháu nó lỡ dại, mình tha cho nó. Rồi mình sẽ kiếm mua cái khác!
Ông Tư cười sằng sặc, giọng cười nghe ghê rợn:
- Mình tưởng kiếm mua cái khác dễ lắm à? Mình thử tìm xem khắp thế giới này, xem còn cái nào nữa không, chứ đừng nói tìm khắp nước Việt Nam này! Không, tôi sẽ bắt má nó bán nhà đi mà đền cho tôi.
Bây giờ tôi tạm giam nó trong kho lúa, nhưng tôi cấm mình không được cho nó ăn. Ngày mai, tôi sẽ kêu má nó tới đây!
Nói rồi, ông bỏ vào nhà, đóng cửa lại. Tối hôm ấy, ông uống rượu say mèm rồi lăn ra ngủ. Bà Tư lén đem cơm cho Tuấn ăn và đem mùng, chiếu cho nó ngủ.
Cơm tối xong, ba mẹ con bà Tư buồn bã, cũng đi ngủ sớm. Bé Vinh nằm cạnh mẹ, khóc thút thít. Bà Tư ngạc nhiên hỏi con:
- Vinh, làm sao mà con khóc?
Bé Vinh ôm lấy mẹ, mếu máo:
- Thưa má, chính con đuổi con mèo vô phòng ba, chớ không phải anh Tuấn đâu!
Bà Tư sửng sốt, ngồi dậy, hỏi nhỏ:
- Thật thế sao con?
- Thưa má, đúng như vậy. Anh Tuấn sợ ba đánh con đau, nên anh bảo con đi chơi chỗ khác, để ba về, anh nhận là anh đã đuổi con mèo!
Bà Tư không ngờ Tuấn lại có lòng hy sinh đại độ như thế, bà vội vàng xuống mở cửa kho, ôm lấy Tuấn, giọng bà nghẹn ngào:
- Con ơi, bà biết con thương em Vinh mà cam lòng nhận tội thay cho nó. Con thật là đại lượng, bà cám ơn con lắm. Nay việc đã lỡ dĩ rồi, bà tính như vầy:
Bà có một người em gái tên là Bích Hà lấy chồng làm cảnh sát ở Sàigòn. Bà viết một lá thư ghi địa chỉ rõ cho con cầm lên cho em bà. Em bà sẽ cho con ở tạm. Vài hôm nữa, bà lên Sàigòn, sẽ lo mọi sự cho con.
Bà ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp:
- Bây giờ, con thu xếp áo quần, bà đi viết thư. Con về thưa má con tự sự, rồi sáng sớm, con ra đón xe đò đi Sàigòn ngay.
Nhà em bà rất dễ tìm. Đến bến xe xa lộ, con xuống xe, đi bộ qua cầu Phan Thanh Giản vào thành phố Sàigòn. Con cứ đi thẳng cho đến ngã tư, con rẽ sang phía trái là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Con đi lên độ một cây số, rồi xem số nhà bà ghi trên bao thư, hỏi thăm người ta chỉ nhà cho con. Nếu con không gặp ai, con lại hỏi thăm mấy ông cảnh sát gác giữa đường.
Con cứ yên tâm mà đi, mọi sự ở nhà có bà lo xong hết. Bà sẽ liệu cách giúp đỡ má con.
Đêm ấy, hai mẹ con bà Hai ngồi nói chuyện với nhau suốt đêm. Đến sáng, bà Hai đưa Tuấn ra đường, đón xe lên Sàigòn. Bà đứng nhìn chiếc xe đò chở con đi khuất rồi mới trở về.
Chương 3
Lần thứ nhất, Tuấn đi Sàigòn. Chiếc xe đò chạy như bay trên xa lộ rộng thênh thang. Tuấn thích thú nhìn ra hai bên: xe cộ ngược xuôi như mắc cửi. Càng gần đến thành phố, nhà cửa hai bên càng chi chít.
Đến bến xa lộ, xe dừng lại, mọi người tranh nhau xuống. Tuấn chờ cho mọi người xuống gần hết, mới xách cặp bước xuống. Cậu đứng vào vệ đường, tần ngần nhìn kẻ qua người lại. Chỉ trong vòng mười phút, chiếc xe đò cậu vừa đi, đã đầy người, đang quay đầu trở về Thủ Đức.
Tuấn rảo bước đi vào thành phố Sàigòn. Vừa đi, cậu vừa móc túi lấy lá thư bà Tư gởi để xem địa chỉ. Tuấn ngạc nhiên, vì không thấy lá thư đâu cả. Cậu bỏ cặp xuống đất, lục hết túi trên, túi dưới, cũng chẳng thấy ! Tuấn lo sợ lẩm bẩm một mình :
- Chết cha, lá thư rơi đâu mất ! Mình đã cẩn thận cặp chung với mấy trăm bạc. Bạc còn đây, sao lá thư lại mất nhỉ ?
Tuấn bỗng nhớ ra :
- Phải rồi, có lẽ mình làm rơi trên xe đò, khi mình lấy tiền trả tiền xe ! Bây giờ mình biết làm sao mà tìm cho ra nhà bà Bích Hà đây ?
Tuấn đứng lại phân vân một lúc, rồi tiếp tục đi :
- Mình cứ đi qua cầu đến đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, rẽ sang phía trái, đi thêm một quãng độ một cây số, mình sẽ hỏi thăm nhà bà Bích Hà, chắc có người biết. Nếu tìm không ra, thì chiều mình trở về nhà lại !
Bụng nghĩ thế, nhưng Tuấn cũng hơi sợ, lỡ về nhà mà ông Tư Bá bắt gặp thì nguy !
Qua cầu, đến ngã tư, Tuấn thấy có tấm bảng treo trên cột điện, đề “Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Tuấn mừng rỡ, rẽ sang phía trái. Cậu vừa đi vừa đếm bước chân để đo đường. Độ hơn một cây số, như lời bà Tư dặn, cậu đón đường một người đàn ông đang đi ngược chiều, lễ phép hỏi :
- Thưa ông, ông có biết nhà bà Bích Hà ở đâu đây không ?
Người đàn ông đứng lại nhìn kỹ Tuấn, ngạc nhiên :
- Em hỏi như vậy, không ai biết đâu ! Thế em không biết số nhà bà ta sao ? Em ở quê mới tới phải không ?
Tuấn vững bụng, trả lời :
- Thưa ông, vâng, cháu ở Thủ Đức lên. Cháu cầm bức thơ có ghi địa chỉ nhà bà Bích Hà , nhưng rủi cháu làm rơi trên xe đò rồi !
Người đàn ông lắc đầu :
- Như vậy thì khó tìm lắm ! Hay là em thử hỏi mấy người ở trong dãy nhà này xem. Tôi ở xa không quen biết ai ở đây.
Nói rồi người đàn ông bỏ đi một mạch. Tuấn tần ngần một lúc, rồi lại đi :
- Thây kệ ! Mình cứ lang thang đây, thấy ai ở trong mấy nhà nầy đi ra, mình sẽ hỏi thăm, chứ đường đột vô nhà người ta, lỡ may chó cắn thì khổ !
Đi thêm một quãng, bỗng Tuấn thấy ba, bốn cậu ở trong hẻm trước mặt đi ra đường, rồi quẹo trái, cùng một chiều với Tuấn. Tuấn mừng rỡ chạy theo. Nghe tiếng chân thình thịch phía sau, một cậu lớn nhất, đứng lại nhìn. Tuấn vừa chạy đến, rụt rè hỏi :
- Thưa anh, anh ở đoạn đường này, anh có biết nhà bà Bích Hà, có chồng làm cảnh sát ở đâu đây không ?
Cậu kia vừa nghe xong, đã giơ hai tay lên trời, cười ha hả :
- Chú em hỏi thăm nhà kiểu đó, thì có Trời mới biết ! Miền quê thì được, chớ ở thành phố, nếu không biết số nhà thì đành chịu thôi !
Cả bọn đi trước cũng đứng lại nhìn lui. Cậu kia vừa trả lời Tuấn xong, bỏ chạy theo các bạn. Một cậu nhỏ hơn, hỏi :
- Nó nói gì mà mầy cười ha hả thế ?
- Nó hỏi thăm nhà bà Bích Hà, có chồng làm cảnh sát ở đâu đây ? Hỏi như thế mà không tức cười sao được, mầy ? Thật đúng là mán ở rừng mới về thành phố !
Cậu nhỏ kia thấy Tuấn đứng tần ngần, tuyệt vọng, lấy làm thương hại :
- Thôi, mấy anh đi tắm trước đi, để tôi lại giúp nó một chút. Cạnh nhà tôi, có ông làm cảnh sát, may ra hỏi thăm được.
Mấy cậu kia cười hề hề, bỏ đi trước. Cậu nhỏ trở lại chỗ Tuấn đứng :
- Anh hỏi thăm nhà bà Bích Hà có chồng làm cảnh sát, mà anh không biết số nhà bà ta, thì làm sao mà tìm được?
Tuấn thấy cậu nhỏ này có vẻ thiện cảm, liền đem sự thật bày tỏ hết. Nghe xong, cậu nhỏ bảo Tuấn :
- Tôi tên là Minh, gần nhà tôi có ông làm cảnh sát, may ra hỏi thăm được. Bây giờ, tụi tôi đi tắm nơi hồ tắm gần đây. Anh đi chơi theo tôi, chốc nữa, tôi về hỏi thăm nhà cho anh.
Tuấn mừng rỡ, cám ơn rối rít, rồi lẽo đẽo xách cặp đi theo Minh. Khi cả hai tới nơi, thì bọn kia đang vùng vẫy dưới nước. Minh quay lại hỏi Tuấn:
- Tuấn có tắm không, để tôi mua cho cái vé? Bọn tôi thì đã có “cạc” tháng rồi!
Tuấn không hiểu mua “vé”, mua “cạc” gì, nhưng cậu không muốn tắm, nên lắc đầu :
- Anh cứ tắm đi, tôi ngồi chơi chờ anh.
Minh bỏ áo xống cạnh Tuấn rồi nhảy ùm xuống nước với các bạn. cả bọn bày trò chơi tạt nước vào mặt nhau, xem ai chịu đựng được lâu. Có cậu bị tạt nước ào ào, rát quá, la oai oái. Chơi chán, các cậu lại bàn nhau bơi thi. Minh kêu Tuấn nhờ làm trong tài ra hiệu để cả bọn chơi. Tuấn thấy vui vui, đứng lên vỗ tay làm hiệu.
Tức thì “ầm, ầm” cả bọn nhào xuống bơi lấy bơi để. Đứa thì bơi ếch, đứa bơi sải, đủ kiểu. Đang bơi, bỗng Minh kêu thét lên:
- Tao bị vọp bẻ, bây ơi! Chao ôi, đau quá!
Thấy Minh quặn người, hai tay ôm lấy chân, rồi chìm nghỉm, cả bọn sợ quá, bơi vội vào bờ, kêu cứu vang lên. Nhưng rủi người gác đi chơi đâu, kêu mãi mà không thấy ai ra tiếp cứu hết. Tuấn đứng trên bờ, thấy vậy, để nguyên áo quần, nhảy ùm xuống hồ.
Tuấn vốn bơi giỏi và biết cách cấp cứu người chết đuối, nên cậu cẩn thận lặn xuống sâu để xem xét. Cậu thấy Minh, hai tay quờ quạng dưới đáy hồ. Tuấn bơi nhẹ nhẹ đến phía sau lưng Minh, đỡ bổng Minh lên mặt nước. Tuy cẩn thận thế, mà suýt nữa tay Minh nắm phải đầu Tuấn.
Tuấn đẩy Minh vào đến bờ hồ, cả bọn xúm lại kéo Minh lên, thì người gác cũng vừa chạy đến cấp cứu. Tuấn trèo lên bờ. Tuy không bị uống nước, nhưng vì nín thở quá lâu và phải vật lộn với Minh, nên Tuấn mệt lử. Cậu đang ngồi thở dốc, thì cha mẹ Minh - nhờ một cậu chạy về báo tin - cuống cuồng chạy tới.
Thấy con đã tỉnh táo, ông bà sung sướng trào nước mắt. Khi nghe các bạn Minh thuật chuyện lại, ông bà vội vàng chạy đến, nắm lấy tay Tuấn, cám ơn rối rít. Minh cũng đến ôm choàng lấy Tuấn. Thấy áo quần Tuấn ướt mèm, ông thân của Minh nói với Tuấn:
- Cháu à, việc trước hết là cháu về nhà ông bà để thay áo xống đã, kẻo bị cảm. Chuyện gì khác sẽ hay!
Sau khi nghe Tuấn kể hoàn cảnh, ông thân của Minh ôn tồn bảo Tuấn :
- Cháu quả thật là một cậu bé đầy lòng vị tha và can đảm, ông bà cảm phục cháu lắm. Bây giờ, ông bà bàn với cháu như thế này:
Cháu chả cần đi tìm nhà bà Bích Hà làm gì nữa, cháu cứ ở lại đây với ông bà. Ông bà nhận cháu làm con nuôi, cho cháu đi học với em Minh.
Ông trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp:
- Nói cho cháu rõ : Ông là ông Thái Phong, làm chủ chiếc tàu buôn Nam Hải. Ông bà không giàu có lắm, nhưng nhờ Trời cũng dư ăn. Ông bà hiếm hoi, chỉ sinh được một mình em Minh đó mà thôi! Vậy mà hôm nay, nếu không có cháu, thì em Minh đâu còn nữa? Cho nên, chính cháu là cứu tinh của gia đình ông bà đó!
Cháu cứ yên tâm ở lại đây, chỉ viết thư về cho má cháu rõ, để má cháu cho bà Tư hay. Mai mốt yên yên, ông sẽ đem cháu về thăm má và em cháu.
Tuấn cảm động, khóc sụt sùi: Cậu không ngờ hạnh phúc lại đến với mình một cách quá đột ngột như thế. Cậu nghẹn ngào, không nói lên được lời gì.
Bà Thái Phong thấy Tuấn làm thinh, bà nghĩ thầm: có khi nó sợ bà gượng ép theo ý muốn của ông, nên bà vuốt tóc Tuấn, ngọt ngào:
- Con đừng nghĩ ngợi gì hết. Tuy mới biết con, nhưng ông bà thương con cũng như thương em Minh vậy!
Minh cũng nắm lấy tay Tuấn:
- Anh Tuấn ở lại đây với em đi. Anh em mình sẽ đi học với nhau!
Tuấn ngước mắt đẫm lệ nhìn ông bà, đầy vẻ biết ơn:
- Thưa hai bác, cháu không dám nghi ngờ lòng tốt của hai bác đâu, nhưng vì cháu sung sướng quá, nên không nói ra được đó thôi! Cháu được hai bác thương nhận làm con, cháu đội ơn hai bác không biết chừng nào!.
Sài Gòn, hè 1971
Nhật Lệ Giang
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...