Chế Lan Viên - độc đáo
một tiếng thơ giàu sắc điệu
Quan niệm về giọng điệu
văn chương đã được đề xuất và bàn luận từ lâu trong văn học dân tộc cũng như
văn học thế giới. Đặc biệt là sự xác định qua các công trình lý luận văn học.
Khi đi sâu vào nghiên
cứu Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nguyễn Đăng Điệp đã đề xuất hệ
thống các khái niệm cụ thể, có ý nghĩa như công cụ để tiếp cận, nhận diện
và xác định những tiêu chí thẩm mỹ cho giọng điệu thơ ca.Công trình đã góp phần
củng cố một cơ sở lý luận thống nhất và phần nào phát huy được những suy nghĩ
cá nhân để tiếp tục mời gọi các nhà nghiên cứu.
Tuy nhiên, có mấy vấn đề
cần được đề xuất và nhấn mạnh thêm về quan điểm, định hướng và phương
pháp đặc thù để khám phá và nhận diện giọng điệu thơ ca.
Cần đặc biệt chú ý cái
tạng riêng và cảm hứng chủ đạo của từng tác giả. Thao tác khám phá cần
phải được tiến hành một cách toàn diện, vì sự biểu hiện của giọng điệu trong
thơ là ở tất cả - từ cấu trúc, ý tưởng, tứ thơ đến hình ảnh, ngôn ngữ, nhất là
ý ngoài lời – phạm vi đòi hỏi sự cảm thụ tinh tế. Tâm trạng riêng nhưng tâm thế
chung. Giọng điệu trong thơ bao giờ cũng mang tính lịch sử cụ thể.
TIẾNG THƠ BIẾN HOÁ MỘT
ĐỜI THƠ
1) Sự vận động của cái
tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên
Trước hết, ta cần phân
tích rõ chủ thể sáng tạo thơ.
Theo dõi quá trình sáng
tác trong đời thơ Chế Lan Viên, có thể phân chia theo thời gian trên đại thể
như sau:
-
Cái tôi trữ tình trong thơ trước Cách mạng Tháng 8.
-
Cái tôi trữ tình trong thơ giai đoạn 1945 – 1975.
-
Cái tôi trữ tình trong thơ những năm cuối đời.
Cũng xét trên đại thể,
từ sau năm 1945 đã là khởi đầu cho sự hình thành cái tôi kiểu mới trong
thơ ca cách mạng. Đối với Chế Lan Viên, đó là sự chuyển biến từ tôi sang ta, từ
tháp ngà cá nhân ra cuộc đời chung. Điều đó cũng có nghĩa là “từ thung
lũng đau thương ra cánh đồng vui”. Chế Lan Viên đã tự xây dựng được cái
tôi công dân – tức cái tôi trữ tình yêu nước. Sự
chuyển biến này cũng mang dấu ấn riêng của nhà thơ – “Đi xa về hoá
chậm”, thực chất mang tính cách mạng rất quyết liệt:
“Ta là ai?” như ngọn gió
siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn
nến tắt
“Ta vì ai?” khẽ xoay
chiều ngọn bấc
Bàn tay người thắp lại
triệu chồi xanh
Hai
câu hỏi
Nói một cách thậm xưng,
nhà thơ đã trải qua một cuộc lột xác. Cách mạng đã đổi đời,
đổi thơ cho Chế Lan Viên. Quá trình tự cải biến mình phải trải qua biết bao
nhiêu dằn vặt, tiếc nuối, xót xa và đau đớn: “Ta lấn từng nỗi đau như
mùa chiêm lấn vành đai trắng/Lấn tật bệnh mà đi, máu đỏ lấn da xanh”. Thơ
có giọng ngậm ngùi, day dứt là vì vậy.
Sự biến chuyển của nhà
thơ có thể thâu tóm qua mấy cuộc hành trình lớn:
Cái tôi hoà nhập vào cái
ta cộng đồng
Đây là thời đoạn từ cái
tôi tự ca hát chuyển sang cái tôi tập nói. Gửi các anh là
bằng chứng cho sự chuyển giọng điệu ấy – từ cái tôi cao đạo, kiêu sa trở thành
cái tôi quần chúng. Chế Lan Viên bắt đầu nói về những người khác: “Các
anh ơi! Các anh, những người đã khuất”. Chào mừng có điệp
khúc mở đầu: “Các anh ơi!”, và sau đó mới là “Chúng ta/ Anh
em chúng ta”. Nhà thơ đã có đối tượng giao tiếp mới: Gửi các
anh, Gửi mẹ trong vùng tạm chiếm…
Cái tôi ca hát về cuộc
sống mới
Thời đoạn này bắt đầu từ
tập Ánh sáng và phù sa. Cuộc đấu tranh nội tâm tiếp tục
diễn ra một cách quyết liệt. Nhật ký một người chữa bệnh đã
có những bứt phá mạnh mẽ để tạo được sự hồi phục – cũng có nghĩa là sự hồi
sinh. Chế Lan Viên đã mượn lời đau để nói lên niềm vui: “Nhưng ngày mai
tiếng hát kịp theo lòng/ Thì lấy câu vui mà dệt đời hồng”. Nhà thơ
tâm niệm: “Mỗi câu thơ đều phải vượt lên mình”. Thơ
Chế Lan Viên có rất nhiều lời ca trong cuộc đời chung: “Khi Tổ quốc bốn
bề lên tiếng hát”.
Cái tôi đã dần dần tìm
lại được chính mình. Và, tiếng hát tâm hồn bắt đầu cất cao thành khúc hát cuộc
đời mới.
Đất nước đi vào một thời
kỳ lịch sử mới - vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Cao trào chống Mỹ cứu nước đã huy
động tổng lực sức mạnh của nhân dân, đánh dấu sự hiện diện của nhà thơ trong tư
thế mới.
Cái tôi thi sĩ – chiến
sĩ
Đây là thời đoạn thơ đầy
thử thách của nhân cách:
Vóc nhà thơ đứng ngang
tầm chiến luỹ
Bên những dũng sĩ
đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi
Tổ quốc bao giờ đẹp thế
này chăng?
Cái tôi sử thi - cái tôi
đạo đức thế sự.
Những năm cuối đời, nhà
thơ mang tư thế mới, cũng như có tâm trạng mới.
Vẫn còn chừng mực nào đó
của cái ta, nhưng giờ đây, nhà thơ trở lại cái
tôi nhân danh chính mình. Có đối thoại, nhưng bao trùm là độc bạch
trong thơ.
Cái tôi tự nói với mình về
thế sự, nhân tình, về số phận riêng trong cuộc đời, qua đó thể hiện dấu ấn đời
tư khá rõ. Trong thơ còn có cả những vướng mắc, trăn trở - Tháp Bayon;
Ai? Tôi!... và cả sự thách thức, đối mặt với bệnh tật, với cái chết – Các
mùa hoa, Từ thế chi ca,...
2/ Sự vận động và biến hoá giọng điệu thơ
Sự vận động của cái tôi
trữ tình chính là sự xuất hiện của những vị thế, những gương mặt tâm hồn khác
nhau. Kèm theo đó là sự diễn biến đa dạng của các phương tiện biểu hiện trữ
tình: thay đổi cảm hứng, sự tiến hoá của giọng điệu, ngôn ngữ, sự biến hoá của
hình ảnh, hình tượng thơ.
Thật khó có thể khái
quát và định danh một giọng điệu chung cho một thời kỳ sáng tác trải dài và đầy
biến động phức tạp.
Tuy nhiên, một cách tóm
lược, ta có thể nhận diện được giọng điệu cơ bản như âm hưởng thơ của một thời.
Sau đây là một cái nhìn đại thể:
- Thời kỳ đầu đời: Giọng điệu sầu hận, kinh
hoàng, gay gắt.
-
Thời kỳ từ sau Cách mạng: Giọng điệu oai nghiêm, tha thiết, hào sảng.
-
Thời kỳ cuối đời: Giọng điệu thâm trầm, suy tưởng, day dứt.
Mỗi thời kỳ, giai đoạn
những giọng điệu ấy lại mang những sắc thái, những cung bậc phong phú nội tại
theo những càm hứng đa dạng, cụ thể khác nhau.
Có sự đan xen tiếp diễn
những sắc điệu, thậm chí có khi ta bắt gặp sự trở lại của giọng thơ cũ nhưng đã
mang sắc thái khác. Chẳng hạn như sự tiếp nối nhưng hạ dần sắc d0ộ sư thi vào
cuối đời. Lúc này, ta dễ dàng nhận ra sự trở về của giọng buồn đau mông lung
thời Điêu tàn nhưng nét mới là có sắc thái rắn rỏi hơn
nhiều với niềm tin thiết tha: “Tro tàn đẻ ra lửa/ Em hãy tin ở đời” (Ngũ
tuyệt về lòng tin – Hoa trên đá), “Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi
lên” (Từ thế chi ca – Di cảo thơ I).
Thơ trước và sau 1975 là
sự đổi giọng một cách có ý thức:
Giọng cao bao nhiêu năm,
giờ anh hát giọng trầm
Giọng trầm – Di cảo thơ
I
Sự đổi giọng ấy là sự
thay đổi thế ứng xử của nhà thơ.
Sau đây là một vài khảo
sát cụ thể về hành trình giọng điệu thơ:
Giọng buồn đau sầu não uất hận trong Điêu tàn (và Thơ
không tên)
Lấy tư cách người dân
Chăm than khóc cho đất nước Chiêm Thành quá vãng, nhà thơ có những câu hỏi cho
những hồn ma, bóng quỷ trong những ảo tưởng, ảo giác, ảo vọng.
Những câu hỏi thảng
thốt, hãi hùng mơ hồ đầy rẫy: “Mi nhớ gì, tưởng gì trong đêm tối/ Mi
trông mong ao ước điều chi” (Cái sọ người), “Ai kêu ta trong
cùng thẳm Hư Vô?/ Ai réo gọi trong muôn sao, chới với?” (Ngủ trong
sao). Thậm chí Ta như hoảng loạn: “Hồn
của ai trú ẩn ở đầu ta?... Ai bảo giùm: Ta có Ta không?”. Hỏi ngoại
cảnh, không có lời đáp, thi sĩ đành quay về hỏi lòng mình: “Mảnh hồn ta
tiêu diệt tự bao giờ?” (Điêu tàn – thoát ra cõi ta để tìm về cái ta,
Hoàng Diệp).
Với hồn thơ cô độc, Chế
Lan Viên tìm tới cảnh ngộ buồn đau. Đó cũng là tình trạng bế tắc của cả một thế
hệ thi sĩ lãng mạn. Giọng điệu thơ Chế Lan Viên mang sắc độ uất hận kinh hoàng,
gay gắt, chối bỏ hiện tại thật quyết liệt.
Giọng ân hận chân thành,
say sưa ca ngợi đất nước và cuộc đời mới
Có
khúc dạo đầu khởi xướng thật vui tươi,đầy khí thế:
Ánh sáng và phù sa là
một bản tự kiểm đầy nuối tiếc, ân hận như một cái tôi trăn trở khôn nguôi. Ngoảnh
lại mùa đông, Ngoảnh lại mười lăm năm là cái nhìn xót xa với quá khứ. Nhưng
từ đây đã dấy lên một sắc diện mới, một tư thế mới và từ đó là một giọng điệu
mới: “Soi gương hồng cả gương soi/ Đứng, đã với cành cao ngất/ Đi, mơ
những bước dài”. Tiếng chim hót đã là tiếng hát tâm hồn. Ta chứng kiến
những giọng điệu say sưa, hào hứng, hoà hợp: Tiếng chim, Tiếng hát con
tàu,...
Chất giọng mới này là
của con người gắn bó với cuộc sống hiện tại trong niềm vui giữa muôn người. Cái
tôi từ chỉ hướng nội trong thế giới tưởng tượng của riêng mình
đã chuyển sang hướng ngoại với đất nước, với cuộc đời chung
rộng lớn, tạo nên giọng đa thanh trong thơ Chế Lan Viên, kể cả màu sắc và triết
lý nhân sinh mới: “Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”.
Tuy nhiên, giọng điệu
trong thơ Chế Lan Viên chỉ thực sự cất cao từ Hoa ngày thường
Chim báo bão. Ngay lập tức, nó đã trở thành giọng điệu tiêu biểu
cho khuynh hướng thơ sử thi một thời.
Nổi bật trong giọng điệu
ấy là âm hưởng chủ đạo: giọng điệu trang nghiêm, tha thiết, hào sảng. Ta
có thể thấy rất rõ điều này qua cụm ba bộ thơ: Hoa ngày thường
Chim báo bão, Những bài thơ đánh giặc, Đối thoại mới và phần
nào coi như vĩ thanh qua Hái theo mùa (1973 – 1977).
Thích hợp với khuynh
hướng sử thi là giọng điệu trữ tình sử thi tạo nên giai điệu
nhất quán trong cả một giai đoạn sáng tác. Trên dải phổ giọng điệu,
ta có thể nhận ra những gam màu chủ đạo ứng với nội dung cảm hứng. Trữ tình nhân
bản nổi bật gam giọng tha thiết, đằm thắm (Hoa ngày
thường...), trữ tình chính luận – dạng trữ tình
chính trị đậm chất – sẽ có gam giọng hào sảng (Chim báo
bão...).
Nền tảng của cảm
hứng sử thi thơ Chế Lan Viên là bao quát, từ cảm hứng cách mạng; cảm
hứng về Tổ quốc; cảm hứng về Đảng, về Lãnh tụ, về lịch sử, dân tộc. Đây cũng là
cảm hứng của thể tài lịch sử dân tộc gần gũi với cảm hứng chủ đạo thơ Tố Hữu.
Thơ Chế Lan Viên là
tiếng nói, là lời kêu gọi, tuyên bố đầy sức mạnh, khí thế, quyền uy - một thời
đưa nhà thơ lên hàng ca sĩ hào hùng bậc nhất:
Ôi! Tổ quốc, ta yêu như
máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ
như chồng!
Ôi, Tổ quốc! Nếu cần ta
chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn
núi, con sông...
Sao
chiến thắng
Tên Tổ quốc vang ngoài
bờ cõi
Ta đội triệu tấn bom mà
hái mặt trời hồng
Thời
sự hè 72, bình luận
Tổ quốc được định nghĩa
với nhiều tầm vóc lịch sử - Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?; Con
mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa... Nhân dân, Dân tộc cũng được
đặt trong thời đại: “Nhân dân không có thanh gươm vung một cái
đến trời mây/ Nhưng lại gánh lịch sử đến nghìn lần lớm hơn đời họ”:
Nhân dân – cơn bão lớn
chuyển rung thời đại
Nhân dân – nguyên tử
năng và sức mạnh dây chuyền
Thơ
bổ sung
Nhà thơ quan niệm: “Thần
chiến thắng là những người áo vải/ Những binh nhất, binh nhì mười tám tuổi” (Sao
chiến thắng).Thật bình dị và hào hùng!
Ở một đối cực khác, thơ
Chế Lan Viên mang giọng điệu tha thiết và chân thành. Người chiến sĩ kiêu hùng
cũng là một người tình đằm thắm. Tình ca ban mai là bài
thơ tình yêu cho muôn đời. Chùm thơ về tình yêu của người thi sĩ, cũng là thơ
về tình người và tình đời. Chất anh hùng ca và tình ca hoà quyện trong một
tiếng nói của thời đại: DIỆT MỸ LÀ CAO CẢ CỦA TÌNH YÊU (Suy nghĩ
1966).
Chủ đề: Đảng và Lãnh tụ
được thể hiện với một giọng điệu đặc sắc: vừa trang trọng, linh thiêng lại vừa
ân tình, tha thiết:“Đâu chẳng đất lành Tổ quốc/ Chẳng tình Đảng dạy dân
nuôi” (Ngoảnh lại mùa đông). Tập thơ Hoa trước
lăng Ngườithấm đượm một giọng thành kính, thiêng liêng. Tiêu biểu nhất
là Người đi tìm hình của Nước, Người thay đổi đời tôi, Người thay
đổi thơ tôi, Ta nhận vào ta phẩm chất của Người, Trong Lăng và ngoài lăng.
Thơ từ sau 1975 của Chế
Lan Viên có thể coi là thuộc mảng thơ trữ tình – thế sự.
Một sự hạ giọng cố ý kèm
theo một chủ định tạo giọng điệu thơ mới với cảm hứng thế sự - cảm hứng
đời thường.
Nổi lên giọng
điệu thâm trầm, suy tưởng day dứt trong thơ vào cuối đời
Thực ra, có sự tiếp nối
của giọng cao mang tính sử thi. Giọng cao ấy có hai khía cạnh chủ yếu: yêu và căm. Một
mặt là giọng hát say mê, tự hào cao độ khi ca ngợi Tổ quốc, nhân dân trong sự
nghiệp chiến đấu anh hùng. Mặt khác, đó là giọng phẫn nộ giận dữ, căm hờn như
trút lửa để lên án, tố cáo, luận tội kẻ thù. Ở đây, ta cũng thấy một mạch rẽ:
giọng đanh thép phê phán về ý thức hệ như chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa
xét lại, chủ nghĩa bành trướng khi nêu cao lý tưởng chiến đấu: “Hỡi
những tấm lòng lạnh tanh máu cá/Những nhiệt tình xuống quá độ âm!/Có nghe tiếng
ngư lôi và cao xạ?”(Sao chiến thắng)“Bịp thế giới bằng số tỉ dân, bằng
khối thịt biển người đồ sộ/ Lũ “thái thú” tân trang bằng một ngọn cờ hồng” (Thần
chiến thắng).
Giọng thơ Chế Lan Viên
hạ dần. Giọng chính luận trước đây mang khí vị hào hùng đã chuyển sang triết
luận thầm trầm, kết lắng, chất hùng biện được thay bằng sự suy tưởng.
Sự chuyển biến giọng thơ
là dấu hiệu rõ rệt của điệu tâm hồn nghệ sĩ. Nhà thơ về với đời thường là con
người trầm tư, nhìn đời với con mắt trải nghiệm và một thế ứng xử mới.
Có những niềm vui vẫn
nuôi dưỡng tâm hồn và khí phách nhưng nhà thơ cũng có không ít trăn trở,
bức xúc và buồn đau.
Giọng trầm giờ đây mang
nhiều cung bậc khác nhau. Có khi đều là trầm – trầm ấm, lắng đọng nhân
tình, lại có lúc là trầm buồn đau, xót xa. Khi nhà thơ đi sâu vào cõi tâm linh
thì đó lại là thâm trầm, hư tưởng, hoài nghi hoặc trầm tĩnh, an nhiên,
siêu thoát.
Thơ thiên về tâm sự, tâm
tình nên có cả sắc thái trần tình, thuật hứng, cảm hoài, nhất là ở những bài tứ
tuyệt. Từ không gian quảng trường về với không gian đời tư, không gian tâm
tưởng là một sự thay đổi lớn. Đã nhiều lúc, nhà thơ đối diện với chính mình,
đối thoại với bản thân – tức độc thoại.
Từ “hát” chuyển sang
“nói”, rồi từ “nói to” chuyển thành “nói nhỏ” – thầm thì, tỉ tê là những trạng
thái, những tâm thế khác biệt. Tuy nhiên, ở Chế Lan Viên thường có sự đan lồng,
xen kẽ giọng điệu với những sắc thái linh hoạt: trầm buồn man mác, bâng khuâng,
u hoài – Côn Sơn, Lau biên giới, Mồ mẹ nhưng vẫn trầm
ấm, yêu thương. Giọng thơ có lúc mang khí vị mỉa mai, chua xót, đắng đót – Bị
lừa, Cuội, Thời thượng, Lộn trái,... như tiếng cười gần gũi với
tiếng khóc.
Tuy nhiên, vượt lên trên
tất cả phức tạp, thế sự, nhân tình thế thái vẫn là một giọng trầm ngâm triết
luận thanh thản. Người đọc như cùng nhà thơ đi đến một thế giới mông lung, kỳ
ảo, đầy suy tưởng – Hỏi. Đáp, Siêu thực, Các mùa hoa, Lãng quên,
Sóng,...
II/ VỀ ĐẶC TRƯNG GIỌNG
ĐIỆU VÀ HIỆU ỨNG NGHỆ THUẬT
1) Tiếng thơ Chế Lan Viên là một quá trình biểu
hiện của một giọng điệu biến hoá đa thanh sắc
Là nhà thơ mang tâm hồn
cực kỳ nhạy cảm, Chế Lan Viên thích ứng rất nhanh nhạy với các tiến bộ trong
nghệ thuật.
Thơ là tiếng nói cá nhân
trước cuộc đời như một sư vang ứng. Đó chính là tiếng nói của cuộc sống dội vào
nội cảm thi nhân. Giọng điệu thơ, tuy là điệu hồn của cá nhân nhà thơ, nhưng
bao giờ cũng có sự tác động của nhịp điệu đời sống. Hơn nữa, đó cũng là sự vang
ứng với chất giọng thời đại.
Nhìn chung một đời thơ
của Chế Lan Viên là giọng thơ trữ tình chính – triết luận. Đó
cũng là phát ngôn của một chủ thể thiên về duy lý hơn duy cảm, với mạch chính
là dòng suy tưởng trên nền cảm xúc.
Nổi lên trong từng giai
đoạn là giọng trữ tình cá nhân, trữ tình công dân, theo khuynh hướng là trữ
tình sử thi và trữ tình thế sự. Trong mỗi giai đoạn thường có sự đan lồng, kết
hoà hoặc tương tác như trữ tình nhân bản và trữ tình sử thi – Hoa
ngày thường Chim báo bão.
Hiện tượng thơ Chế Lan
Viên không phải là duy nhất, nhưng là một trong những biểu hiện rõ nhất của
tiến trình hiện đại hoá thơ theo tiến bộ của nghệ thuật. Mảng thơ về
thơ có rất nhiều quan niệm của một ý thức cách tân thơ ca.
2) Sự thể hiện một cá tính sáng tạo mạnh mẽ
Giọng điệu thuộc về hình
thức, về phương tiện biểu hiện của thơ. Đây ;à hình thức mang tính quan niệm,
tức là nét thi pháp nghệ thuật thơ Chế Lan Viên.
Giọng điệu thơ Chế Lan
Viên mang đặc sắc cá tính sáng tạo của chủ thể, cũng bộc lộ rõ nét phong cách
nghệ thuật thơ. Gam giọng đặc hiệu mang bản sắc Chế Lan Viên là trữ
tình chính – triết luận như một chất lượng mang giá trị nghệ thuật.
Tiếng thơ góp phần hiệu quả cho việc nhận diện gương mặt thơ độc đáo - Chế Lan
Viên.
3) Hiệu ứng nghệ thuật của một tiếng thơ đa sắc
điệu
Chế Lan Viên có nhiều
đóng góp về đổi mới thơ hiện đại. Hiện tượng chung nhất là sự chuyển biến từ
thơ điệu hát thành thơ điệu nói như chuyển động có tính lịch sử. Không hẳn chỉ
về hình thức mới – tương tác thơ và văn xuôi mà đây còn là một chất giọng mới
của nhà thơ. Ảnh hưởng này lan toả trên thi đàn, có tác động đến nhiều thế hệ
thi sĩ – từ thời chiến đến các lớp trẻ sau này. Đặc biệt, những năm 60,
70 có những hiệu ứng khá rộng rãi và mạnh mẽ của Chế Lan Viên với lớp nhà thơ
trẻ thời chống Mỹ. Chất chính luận và triết luận gia tăng trong trữ
tình sử thi, cũng như trữ tình thế sự.
Hiện tượng thơ Chế Lan
Viên như về giọng điệu cũng mang đặc trưng rất linh hoạt trong định nghĩa, nhận
diện, vận dụng và phân tích. Đó là những khái niệm “nhoè, mờ” chẳng
khác nào Toán – là một môn khoa học chính xác mà cũng có Tập mờ.
Chẳng hạn, giọng điệu
thể hiện thuộc hình thức nghệ thuật nhưng thể hiện được rất rõ tư tưởng, tình
cảm, kể cả tư thế nhà thơ (Anh, Tôi, Ta, Ai,...). Giọng điệu như
vậy có tính chất giao thoa giữa thi pháp và phong cách.
Mặt khác, Chế Lan Viên
rất có ý thức lập nên một điển pháp thơ về rất nhiều lĩnh vực
nội dung và hình thức thơ – Quan niệm thơ, Thơ thế kỷ, Thi pháp (Thi
pháp ồn, Thi pháp trẻ,...), Vần, Vần... và chữ... ở Di
cảo thơ (3 tập) như muốn tổng kết đời thơ. Riêng về giọng điệu
thơ, như đã trình bày, có rất nhiều khái niệm vừa có tính chất lý luận, vừa là
thể nghiệm thực tiễn của bản thân.
Ta có thể thấy được
giọng điệu của nhà thơ ở các cấp độ: giọng điệu tác phẩm, giọng điệu nhà thơ,
giọng điệu cá nhân, giọng điệu thế hệ, giọng điệu thời đại... Tóm lại, điển
pháp thơ Chế Lan Viên được trình bày rất sâu, rất rộng về các
nhận thức và các quan niệm nghệ thuật một cách sáng tạo.
Có thể thống nhất nhận
định: Chế Lan Viên như đang đồng hành với chúng ta. Là bậc thi hào
mà những sáng tạo nghệ thuật chưa có hồi kết.
Tài liệu tham khảo:
(1) Nguyễn Đăng
Điệp (2002) – Giọng điệu trong thơ trữ tình – Văn học.
(2) Đoàn Trọng Huy
(1993) – "Đôi điều về quan niệm nghệ thuật của Chế Lan Viên" – Tạp
chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật số 111.
(3) Đoàn Trọng Huy
(1993) – Khuynh hướng vận động thơ Chế Lan Viên từ sau 1975, in
trong Chế Lan Viên - Về tác gia và tác phẩm – Giáo dục, 2002.
(4) Đoàn Trọng Huy
(2006) – Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên – Đại học Sư phạm..
(5) Đoàn Trọng Huy
(2009) – "Tiếng cười trong thơ Chế Lan Viên" – Tạp chí Văn
hoá nghệ thuật số 304.
(6) Phùng Quý Nhâm
(2003) – Văn hoá và văn học từ một góc nhìn – Văn học, Trung tâm
Nghiên cứu Quốc học.
(7) Lê Ngọc Trà
(1988) – Lý luận và văn học – Trẻ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét