Xin được lấy tên bài hát
quen thuộc của nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn làm tiêu đề cho bài viết của tôi về tập
thơ mới của anh Phạm Đình Ân – tập “Hương rễ”(*). Nhạc và thơ ở đây đều là những bài ca nhắc nhở chúng ta đừng
bao giờ quên những thời không thể nào quên– thời đánh giặc và giữ nước trong
quá khứ gần và cả quá khứ xa xưa. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi một bộ phận
thi ca giữa lúc này cứ “ lẩn vào yêu đương ích kỷ/ lẩn vào cô đơn mượn
vay/ lẩn vào buồn đau làm dáng/ lẩn vào chữ , câu” (Thơ ơi) . Để rồi cái điều
đáng trách nhất đâu đó đã xảy ra: “Thơ biết tất cả đấy/ chỉ điều này là
không/ vô ơn và tàn nhẫn “ (Thơ ơi). Cuộc đời sản sinh ra thơ mà thơ đang
tâm lãng quên ư? Vậy nên với tôi, với bạn, và với hết thảy chúng ta, những bài
ca trên vẫn cần, vẫn mãi mãi cần… Đặc biệt khi:
Nhiều năm rồi được đắm trong
bình yên
ta dường như quên đi quá khứ.
Câu thơ trên tôi rút ra từ một
bài thơ Phạm Đình Ân mới viết đây thôi, vào một ngày tháng 4/1999 khi “NATO tấn
công Nam Tư“ . Dòng tin ngắn và có phần quá đơn giản nhưng “đằng sau là bạo tàn/
chết chóc/ tro than“. Trái tim tôi lúc ấy cùng hàng triệu trái tim
lương thiện trên khắp hành tinh đã thật sự nhói đau. Họ đã
nhân danh ai, nhân danh cái gì để gieo tội ác lên một dân tộc chỉ có
một “sai phạm” duy nhất là không biết cúi đầu. Đúng là lý lẽ của kẻ mạnh như đế
quốc Mỹ đã từng “lý sự“ vào 12 ngày đêm trong tháng chạp 1972 lịch sử ở Việt
nam. Và như trong những trường hợp tương tự, lương tri của một nhà thơ chân
chính kịp thời thức tỉnh:
Chưa bao giờ tôi đau đớn như
đêm nay
Thình thình bom dội xuống
tôi
Tôi tan ra. Được sống thành
nghìn triệu
Nơi nào bom, cũng có tôi
Chở che
Cùng hy sinh
Cùng nạp đạn
Tôi quý thơ Phạm Đình Ân trước
hết bởi ý thức công dân luôn thường trực trong anh. “Trước nỗi đau lớn thấy
mình đổi khác”. Với anh , “đổi khác” tức là lớn lên cùng thời đại
mình, cùng dân tộc mình. Ở đây nếu có phải rơi lệ thì sẽ không bao giờ là những
giọt lệ yếu mềm :
Đất nước của tôi ! Nhân dân
của tôi !
máu còn rỉ chưa ngừng
Hôm nay … chúng lại
đánh bệnh viện
có người bệnh chỉ còn nửa bàn
chân vùi trong
đống thủy tinh
đống thủy tinh
Ban trưa tôi lao ra nhà trẻ
thấy một hố bom!
Run run, tôi moi lên bốn
ngón tay tí xíu ngỡ
đang ngọ nguậy
đang ngọ nguậy
Như bao nghệ sỹ khác, Phạm
Đình Ân có khả năng dùng các chi tiết nghệ thuật “đặc hữu” nhằm ám ảnh tâm trí
người đọc. Phải nói là trong không ít trường hợp anh đã thành công. Xin nêu một
chi tiết khác trong một bài thơ viết về cuộc chiến tranh khác:
Cạnh cây đa già ngã tư phố
Trần Hưng Đạo
nghiêng tấm biển chỉ đường
đạn mới xuyên qua rạn thủng
:
Hữu Nghị Quan : mười tám
kilômét
Đoạn thơ như một thước phim
tư liệu quý được quay bởi một đôi tay khéo léo cùng một khối óc minh mẫn. Không
một chi tiết thừa ! Chúng lại biết nói một cách hùng hồn. Không cần đến bất cứ
một lời giải thích nào. Người viết đã biết im lặng để cho sự thật tự lên tiếng
… Người ta hay ngại ngùng trước những vần thơ “hướng ngoại” . Đọc những
câu thơ trên và những câu sau đây nữa, chắc nỗi e ngại sẽ giảm đi nhiều lắm.
Tôi muốn dừng lại đoạn thơ rất đặc trưng trong bài “ Thái Nguyên” , một trong
những bài thơ hay thể hiện rõ bản sắc của thơ Phạm Đình Ân :
Những nhà dân nhiều năm
không có số
búp chè chát, dứa vườn thơm,
rát luỡi
miền ngược, miền xuôi gánh gồng
qua lại
áo chàm, áo nâu thơm thảo,
hiền lành
Tôi từng gắn bó với Thái
Nguyên suốt bốn năm thời sinh viên. Sau này, mỗi khi có dịp, tôi lại trở về
đây, soi vào từng kỷ niệm trong trẻo một đi không trở lại. Và ngay từ dạo ấy,
tôi đã có ý muốn ghi nhớ những vần thơ hay viết về thành phố gang thép. Thú thật
là tôi đã reo lên khi đọc đến đoạn thơ trên của Phạm Đình Ân. Cứ như bắt được của
quý. Mà quý thật chứ! Liệu có mấy ai biết làm bật nổi những nét riêng của Thái
Nguyên bằng những vần thơ trần trụi như anh? Cũng đã mấy ai biết ghi lại những
hình ảnh chân thực mà lại có khả năng chạm khắc sâu vào ký ức sinh viên thời sơ
tán như anh đã làm qua những câu thơ này:
Mì nắm luộc suông, canh măng
lễnh loãng
Soi thấy mình chân thật đến
vô tâm
Tôi như được sống lại những
năm tháng “trong thiếu thốn cả một trời đầu đủ” của đời sinh viên qua thơ anh.
Người ta bảo, tuổi càng cao con người càng ưa nhìn lại dĩ vãng. Tôi đã già thật
rồi chăng? Nhưng nếu chấp nhận tuổi trẻ để quên đi quá khứ thì liệu tôi có còn
là tôi nữa không? Nói vậy chỉ vì một điều giản dị: quên quá khứ nghĩa là quên
đi nguồn cội:
Ngửa bàn tay, úp bàn chân
Câu thơ tôi rút trong bài “Nhà giữa biển khơi” được Phạm Đình Ân làm ngay ở đảo Tốc Tan của “Trường Sa đảo
nổi, đảo chìm“. Đúng là ở đó con người dễ tĩnh tâm cảm hoài về sự sâu xa, vẻ
thiêng liêng của nguồn cội. Có điều, tôi nghĩ, chính cái ý thức của người viết
mới là yếu tố quyết định.
Khói hương thơm mọi đền thờ
Tình xưa thắm nghĩa bây giờ,
mai sau…
Câu thơ anh viết trong cuộc
hành hương về chốn “Ngọc Hân đợi chờ”. Và nói chung, khi ít khi nhiều, mỗi bài
thơ của Phạm Đình Ân trong “Hương rễ” đều là những cuộc hành hương trở về nguồn:
Bước một bước thoắt vào
hoang dã
Đáp người xưa hỏi chuyện hôm
nay
Xin được nói thêm, chủ đích
của những cuộc hành hương qua thơ anh cũng luôn xác định :
Xin được đắm vào một thời
đáng nhớ
Cho muôn thời cháy lửa, thơm
hương
Biết vậy, nên dường như mọi
tinh lực của thơ anh như được dồn tụ về hướng ấy. Chẳng hạn, anh cảm
xúc trước “ Những cánh cung đông bắc” của Tổ quốc cũng chỉ để làm bật nổi điều
sau :
Mọi cánh cung đều quay ra hướng
đông bắc
đuôi chụm ở Tam Đảo
đất tổ Hùng Vương
lại như từ đây xòe nan quạt
mát lạnh không gian đông bắc
Tuy có lẽ chưa ở trường hợp
nào tổ tiên lại ban phát cho anh nhiều tiềm năng sáng tạo đến thế như khi anh
viết về Xứ Thanh ruột rà của mình. Đó là một bài thơ khá dài, nhưng nếu có dài
thêm nữa chắc cũng không thể diễn tả hết được tình sâu nghĩa nặng của anh đối với
quê hương. Tôi không lạ khi bài thơ khởi đầu bằng những kỷ niệm thuở nhỏ:
Tôi đã mò cua trên cánh đồng
Thanh Hóa
hoa lúa trôi vèo lạch nước
tuổi mười ba
Rồi nữa, những vần thơ lung
linh nhất nhà thơ cũng nâng niu dành cho thời ấu thơ ấy :
Tôi lớn lên ở vùng nửa núi đồi
hoa lạc chơi chốn tìm trong
đất
mía ăn mòn hết răng
Phạm Đình Ân còn trở đi trở
lại với lịch sử cùng dáng hình quê hương anh trong một loạt bài thơ khác nữa. Lạ
nhất, và Phạm Đình Ân nhất có lẽ là bài “ Núi Nưa hình lược” . Ngay từ nho, anh
say ngắm hình dáng ngồ ngộ giống như hình cái lược của núi Nưa mà không sao giải
thích nổi. Lớn lên, anh mới sững sờ khi nhận thấy hình núi gắn với cái chết rất
trẻ của Bà Triệu. Anh kết thúc bài thơ trong nỗi thảng thốt dường như không kìm
giữ được:
Thế mà, người xưa ơi, không
tiếc
hai mươi ba tuổi
cái lược tuổi xuân của bà chải
mướt suốt đời tôi.
Tôi biết đây không phải là
giả thiết lịch sử mà chỉ là giả thiết thi ca. Nhưng hãy cho tôi cái quyền được
tin những giả thiết như thế, để từ đó, tôi có quyền được tin vào những truyền
thống linh thiêng của quê cha đất tổ - chúng luôn vọng lại từ ngàn
xưa và vang mãi tới muôn sau.
“Bài ca không quên” từ
khi ra đời đã được nhiều ca sĩ thể hiện. Nhưng theo tôi, có lẽ ca sĩ Cẩm Vân
chiếm được cảm tình của người nghe hơn cả. Bí quyết thành công ở đâu? Chính là
bởi chất giọng trầm ấm, lắng sâu phát xuất từ tâm hồn yêu thương và căm giận hết
mực của chị. Tôi cho rằng, nhà thơ Phạm Đình Ân cũng đã có một giọng điệu thi
ca tương tự trong “Hương rễ”. Đã đành, anh có nhiều tìm tòi về cấu tứ, câu
chữ, hình ảnh để tránh sự dễ dãi, khô cưng, sáo mòn. Nhưng trên tất cả chính
là tấm lòng của nhà thơ dành trọn vẹn cho quá khứ đau thương mà oanh liệt của
quê hương mình, dân tộc mình. Tôi nhớ tới bài “Từng dòng suối nhỏ” của
anh. Thơ anh có gì đó từa tựa như những dòng suối ấy:
Chảy từ xưa hoang sơ
Trải hiểm nghèo ghềnh thác
Lọc thời gian, không gian
Nước cội nguồn trong vắt
Cho tôi được chia sẻ niềm
vui mới trong lao động sáng tạo “Hương rễ” của Phạm Đình Ân.
“Hương” thơ có được là nhờ gốc “rễ” bền chắc của truyền thống được hun đúc từ
hàng ngàn năm về trước. Chắc anh cũng sẽ nghĩ như thế! Vậy ta nên cám ơn ai
đây? Câu trả lời xin nhường lại cho bạn đọc.
(*) Hương rễ - Phạm Đình Ân, Nxb Quân đội nhân dân, H.,
2000.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét