Con người, tạo vật toàn mĩ
nhất của tự nhiên lại luôn luôn không bằng lòng với chính mình, luôn luôn sống
trong mâu thuẫn: cuộc sống của đời người là hữu hạn - cả về không gian lẫn thời
gian - làm thế nào để vươn tới cái khát vọng cao cả vô cùng tận của đời sống.
Thơ ca - một trong những “niềm vui thích cao quý nhất mà loài người tạo ra cho
mình”(K. Mác) - đã sinh ra để giải quyết một phần mâu thuẫn đó. Đã có bao quan
niệm về “thể loại nữ hoàng này”. Có người cho đó là “thần hứng” (Platon), là
“ngọn lửa thần” (Đecgiavin), thậm chí còn là “những cơn điên loạn thần thánh”…
Còn đối với chúng ta, thơ văn gần gũi biết bao, là cái cao cả mà không xa lạ, đẹp
bình dị mà không bình thường, thân thuộc và thân thiết… đúng như nhà phê bình
Phạm Quang Trung đã từng quan niệm về văn chương: “Văn chương, văn học luôn là
chủ - suốt đời tôi chỉ là kẻ nô lệ kiêu hãnh, hết lòng phụng sự chúng mà
thôi!”.
Nhà
thơ, nhà văn - danh hiệu cao quý không phải ai cũng có được, cho dù “con người
sinh ra vốn là nghệ sĩ” (M. Gorki), cho dù mỗi người trong chúng ta đều có một
nhà thơ trong tâm hồn mình. Viết văn, hai tiếng ấy đơn giản bao nhiêu thì cũng
khó khăn bấy nhiêu. Ai trong cuộc đời chẳng đã hơn một lần cầm bút viết văn,
làm thơ. Song viết văn làm thơ để làm gì? Giải trí ư? Hay một công việc thần
bí, thiêng liêng? Cả hai quan niệm hình như đều không phải, đều không thật phù
hợp lắm với đặc trưng cơ bản của văn chương xưa nay. Chế Lan Viên từng cho rằng:
“Thi sĩ không phải là Người, nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên,
là Yêu, là Ma, là Qủy…” (Tựa Điêu tàn). Trong khi Phan Kế Bính lại chủ
chương: “Văn chương chỉ là một thứ nghề chơi…”. Thực ra những quan niệm đó
không thật đúng cho lắm. Văn chương là tiếng hát của trái tim, là điểm dừng
chân của tâm hồn, không đơn giản nhưng cũng không quá linh thiêng, thần bí. Đến
với văn chương nghiêm túc là thứ nghề lao động khổ sai mà Phạm Quang Trung suốt
đời tự nhận mình là “kẻ nô lệ”, nhưng lại “kiêu hãnh” hết lòng để phụng
sự cho văn chương. Maiakopxki đã phải kêu lên:
Nhà thơ trả chữ
với
giá cắt cổ
Như khai thác
chất
hiếm “Radium”
Lấy một gam
chải
mất hàng năm lao lực
Lấy một chữ
chải
mất hàng tấn quặng ngôn từ
Đó
là một công việc đầy lao lực song cũng đem lại niềm hạnh phúc vô biên. Nên khi
chấp nhận thận phận “kẻ nô lệ”, Phạm Quang Trung đã biết “kiêu hãnh” ngẩng cao
đầu để tôn thờ, phụng sự suốt đời cho văn chương. Phải biết sống hết mình cho
nghệ thuật, phải có cách nhìn nhận chín chắn và đúng đắn thì Phạm Quang Trung mới
có thể đúc kết được một quan niệm như thế. Bằng chứng là những công trình
nghiên cứu, lý luận, phê bình của Phạm Quang Trung đã được xã hội công nhận gồm
các tác phẩm chính đã xuất bản: Học giả với thi nhân (khảo cứu -
1994); Văn chương với Lê Quý Đôn (khảo cứu - 1994); Tiếp cận giá
trị văn chương (lý luận, phê bình - 1995); Lý luận trước chân trời mở (lý
luận - 1998); Cảm xúc văn chương và vấn đề dạy văn ở trường phổ
thông (khảo cứu - 1998); Lặng lẽ giữa trang văn (lý luận, phê
bình - 1998); Nhà văn Xuân Thiều như tôi được biết (phê bình -
1999); Thơ trong con mắt người xưa (khảo cứu - 1999); Thổ cẩm dệt
bằng thơ (phê bình - 1999); Sống với văn chương cùng thời (lý luận,
phê bình - 2000); Thức cùng trang viết (lý luận, phê bình -
2003); Đến từ con chữ (lý luận, phê bình) - 2007; Ai tri âm
đó (lý luận, phê bình - 2009), Hồn cây sắc núi (lý luận, phê
bình - 2010), Mỹ học (Giáo trình Đại học - 2010), Quan niệm văn
chương cổ Việt Nam - Từ một góc nhìn (chuyên luận - 2011)…Tham gia dịch Sherlock
Holmes Toàn tập (Conan Doyle).
Giáo
sư Đặng Thai Mai đã từng nói: “Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những
nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ
đã biết sống đời sống xã hội của thời đại, đã sâu sắc cảm thấy mọi nỗi đau đớn
của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những lo âu, bực
bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết của loài người. Đó chính là cái hơi thở,
cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại” (Quá trình bồi dưỡng nghề viết văn của
tôi, in trong Công việc viết văn, Trường Viết văn Nguyễn Du xuất bản,
tr.84). Nhắc tới Phó giáo sư - Tiến sĩ Phạm Quang Trung là tôi nghĩ ngay tới
quan niệm về văn chương có sự mâu thuẫn giữa “nghề” và “nghiệp” mà Anh đã sớm
quyết định chọn lựa. Phạm Quang Trung bày tỏ quan điểm của mình cụ thể hơn ở
bài trả lời phỏng vấn “Viết văn là nghiệp hơn là nghề do
Lâm Viên thực hiện. Khi bàn về hoạt động lý luận phê bình, Phạm Quang Trung lên
tiếng: “Có lẽ cần tăng cường tính chuyên nghiệp trong hoạt động lý luận, phê
bình văn chương, và cũng có thể nói ở hoạt động viết văn nói chung. Phải làm
sao biến nó thành công việc hàng ngày của mỗi nhà văn, nhà lý luận, phê bình.
Nói khác đi, trong đầu anh phải luôn nuôi dưỡng những dự định, những ý tưởng
sáng tạo. Theo tôi, nên coi viết văn là nghiệp hơn là nghề. Đã
là nghiệp thì nó vận vào mình, ta buộc phải đi theo sự dẫn dắt vô
hình như một định mệnh của nó, và có muốn khác đi cũng không thể được. Trong đời
sống văn chương sôi động như hiện nay, mình phải chọn lựa những hiện tượng văn
chương nào để dụng bút đây? Tôi hay tự hỏi rồi tự tìm câu trả lời: cần qua hiện
tượng văn chương đó để giúp tháo gỡ một khâu còn vướng mắc nào đó trong đời sống
văn chương đương đại; phần khác, qua hiện tượng văn chương đó, tôi có thể gửi gắm
một phần quan niệm của bản thân về nghệ thuật và về cuộc sống. Như vậy chắc sẽ
làm nên ý nghĩa xã hội của hoạt động lý luận, phê bình đồng thời thúc đẩy đời sống
văn chương tiến triển”.
Nói
đến Phạm Quang Trung, người ta thường nghĩ ngay tới một nhà văn hóa, một ngòi
bút nghiên cứu có tên tuổi hiện nay. Nhưng cũng cần nói thêm: Anh còn là một
nhà giáo, một nhà văn. Chính vì thế sức nặng của nhận định trên trong khi trả lời
phóng viên không chỉ là sự đúc kết đầy kinh nghiệm của một nhà phê bình từng trải,
mà thêm vào đó còn là cái tâm thực của sự thể nghiệm lương tri của một nhà
giáo, của một người trong cuộc, từng lắn lộn với sáng tác và chịu đựng sự trả
giá từ quy luật “sàng lọc” nghiệt ngã đối với mọi giá trị văn chương chân
chính. Có phải vì thế chăng mà Phạm Quang Trung đã hạ bút đưa ra quan niệm “Văn
chương, văn học luôn là chủ - suốt đời, tôi chỉ là kẻ nô lệ kiêu hãnh, hết lòng
phụng sự chúng mà thôi!” một cách chắc nịch, đầy quả quyết và giàu thuyết
phục. Một nhận xét bao quát mang tính lí luận thể hiện rõ mối liên hệ giữa “nghề”
và “nghiệp”. Nhưng qua ngòi bút của Phạm Quang Trung, câu nói ấy đã trở nên nhuần
nhị như một lời thủ thỉ tâm sự, tự rút ruột ra để nói. Rất chủ quan
mà không hề tư biện, Phạm Quang Trung luôn tỏ ra sắc sảo trong việc
lý giải theo nguyên tắc diễn dịch: “Về chức phận xã hội, trong tôi có hai con
người: con người khoa học văn chương và con người phê bình
văn chương. Tôi nguyện thủy chung với cả hai con người đó trong suốt chặng
đường còn lại của đời mình. Có đồng nghiệp chân tình bảo tôi: “Đời người ngắn
ngủi lắm! Nên biết lượng sức mình”. Một đồng nghiệp khác lại thẳng thừng
khuyên: “Muốn yên thân thì chớ có đi vào phê bình. Cái nghề ấy bạc bẽo lắm đấy!”.
Để cuộc đời có ý nghĩa, ai chả muốn thành đạt, để cuộc đời hạnh phúc, ai chả muốn
yên ổn. Nhưng tôi sinh ra đời vốn là người giàu lòng tự tin. Và trời ạ, cùng với
năm tháng, lòng tự tin trong tôi hình như không có dấu hiệu thuyên giảm,
nên ở tôi hầu như không còn nỗi phân vân của sự chọn lựa nữa rồi. Dẫu sao, tôi
cũng coi những lời khuyên chí tình kia như sự nhắc nhủ cho riêng mình... (Trích
trong bài Ý nguyện của nhà phê bình trong tôi). Nhận định đó của Phạm
Quang Trung làm nổi bật nội dung cơ bản trong mối quan hệ giữa nghề văn và cuộc
sống. Đó cũng chính là sợi dây bền chắc giúp cho mọi cánh diều tài năng bay bổng
vươn tới tầm cao của thời đại, của con người mà không e sợ chới với.
Trong
suốt cuộc đời, trước những khát vọng sáng tạo không cùng, văn hào M. Gorki đã
dành hẳn một khoảng lớn cho tác phẩm Những trường đại học của tôi, trong
đó miêu tả những cảnh đời cơ cực mà mình đã trải qua. Có thể xem đó là một định
nghĩa đầy văn học cho mối tương tác giữa nhà văn và cuộc sống, đó cũng là đặc
trưng thẩm mĩ của văn học, của tác phẩm văn học mà nhịp nối chính là nhà văn -
chủ thể sáng tạo. Cuộc sống với những hiện thực phong phú phức tạp vừa là đối
tượng hướng tới, vừa là nguồn mạch nuôi dưỡng văn học. Quay lưng lại với cuộc sống,
mải mê với chuyện đúc chữ luyện câu thì văn chương chỉ còn là một thứ ngôn từ
trống rỗng và vô nghĩa. Lục Du, người viết hàng nghìn câu thơ, lúc sắp mất đã để
lại những lời trăn trối mang sức chiêm nghiệm của một hồn thơ tài năng, đi trọn
cuộc đời mới thấu hiểu nổi cái lẽ: “Công phu của thơ là ở ngoài đời” . Thì ra,
sức nặng của trang thơ, của những con chữ lại chính là ở cuộc đời đầy sương gió
ngoài kia. Bằng sự trải nghiệm cuộc đời “đưa đò” trên giảng đường, Phạm Quang
Trung đã nghe được cuộc đời đầy phức tạp, bộn bề bao âm thanh của mọi số phận.
Cái tâm của một nhà phê bình văn học chân chính cũng xuất phát từ cái tâm của
người Thầy lấy chữ “nhân” làm đầu. Nhà văn phải là người, nói như Nam Cao, “mở
lòng òa với cuộc đời, đón bắt mọi âm thanh của cuộc sống” (ý trong Trăng
sáng). Đó chính là điểm mấu chốt quyết định thành công của nghề và nghiệp văn
trong mọi thời đại.
Trở
lại với quan niệm văn chương của Phạm Quang Trung: trong sự tôn thờ vị chúa tể
của mình là văn chương, ta thấy có thân phận của kẻ “nô nệ” đồng thời có cả niềm
“kiêu hãnh”. Thế nào là “nô lệ”? Đó chính là quá trình vật lộn, trăn trở để tìm
ra ý nghĩa của văn chương chân chính. Nếu như cái kết luận của văn sĩ Điền
trong tác phẩm của Nam Cao là kết quả một quá trình vật lộn nhọc nhằn, thì cái
việc coi “cuộc sống là trường đại học chân chính” cũng hết sức công phu, đòi hỏi
một bản lĩnh, một ý thức cao của người nghệ sĩ - điều mà không phải ai cũng có
được, không phải cây bút nào cũng dễ dàng tìm được. Cũng không phải ngẫu nhiên
mà Phạm Quang Trung tự nhận mình là kẻ “nô lệ” của văn chương. Có lẽ nên coi
cách nói ấy không đơn thuần chỉ là việc ghi chép lại những sự kiện luôn biến động
của đời sống. Cho dầu Phạm Quang Trung có ý thức về điều đó để nguyện “hết lòng
phụng sự chúng” thì nhà văn cũng chỉ mới dừng lại ở đó tư cách nhà chính trị,
nói kah1c đi, văn học chưa phải là văn học, mà chỉ là cuốn sử biên niên thuần
túy. Sâu xa hơn, Phạm Quang Trung đã đứng ở góc nhìn của một kẻ “nô nệ” để cảm
nhận sâu sắc nỗi đau của của thân phận con người trong đời sống xã hội. Ở đây,
không phải là cái cảm chợt đến, mà có nguyên căn từ sự hiểu biết sâu sa hơn nhiều.
Nó là sự lóe sáng từ trong sự nhuần nhụy của tư duy cảm xúc ở nhà văn. Còn
“kiêu hãnh” ư? Phạm Quang Trung chỉ muốn làm chủ được ngòi bút của mình, bởi thế
không phải “nô lệ” nghĩa là cúi đầu thấp hèn. Ngược lại, Anh luôn ngẩng cao đầu
một cách trong sáng trước chủ nhân của mình. Ngòi bút phê bình của Anh đường đường
chính chính, không có sự tranh luận quá gay gắt, mà thầm lặng đi vào lòng độc
giả nên có sức lan tỏa rộng, không chỉ với các bạn văn mà còn với cả học sinh,
sinh viên của mình…
“Tiếp
xúc với Phạm Quang Trung, nhiều đồng nghiệp phải thừa nhận anh là một người
khiêm nhường, từ tốn. Ở một góc nhìn nào đó, quả có thế thật! Trong lý luận,
anh hay e ngại khi phải nâng vấn đề lên thành những quy luật, bản chất có tính
nguyên lý phổ quát cho mọi thời và cho mọi nước. Trong phê bình, anh ưa dùng những
từ hay tập hợp từ phụ gia kiểu “có lẽ”, “theo tôi”, “dường như”... Bảo đó là
cách nói đưa đẩy là chưa thật hiểu anh cho lắm. Lược bỏ chúng đi, anh không còn
anh nữa. Tuy xét từ một góc độ khác, anh lại là một kẻ tự tin đến mức gần như
xác tín. Anh không chút do dự khi lớn tiếng tuyên bố: Mỗi thế hệ có chức phận của
mình, và giờ đã đến thời của thế hệ anh. Hãy can đảm đưa vai ra mà gánh vác chức
phận thiêng liêng do thế hệ trước truyền lại sao cho thật xứng đáng. Nếu không,
thế hệ anh sẽ chỉ là cái bóng mờ trong tâm tưởng của những người đến sau (Chân
dung tự họa).
“Và
điều cần nói sau cùng là đã cận kề cái tuổi ‘tri thiên mệnh’ mà Phạm Quang
Trung vẫn khí hồn nhiên. Chẳng hạn anh cho rằng: Rồi sẽ đến cái thời các nhà
phê bình thuộc những khuynh hướng khác nhau ở ta ngồi lại với nhau, xiết chặt
tay nhau, thành tâm và thiện chí, vì sứ mệnh chung lớn lao và cao đẹp mà dân tộc
và thời đại đòi hỏi. Hẳn có nhiều người từ phía này cũng như từ phía kia sẽ chế
nhạo anh, hoặc bằng tiếng cười mỉa mai, hoặc bằng nụ cười chua chát.
Ôi! Đúng là đồ hoang tưởng. Mỗi nhà phê bình tài danh được khẳng định bằng
chính ‘lập trường’ mỹ học của mình. Tìm tiếng nói chung ư? Tốt thôi!
Nhưng hãy đợi đấy! Chỉ có điều, liệu có đủ kiên tâm không mà chờ với
đợi!”.
“Đại để Phạm Quang Trung là
một khối mâu thuẫn như vậy. Cũng may, các yếu tố tạo nên khối mâu thuẫn ấy
chưa đến nỗi xung khắc với nhau. Nếu không, anh ta đã chẳng làm nên cái gì
ra hồn cả”.
Cách
nói của Phạm Quang Trung trong Chân dung tự họa vì thế nên hiểu như một
cách nói nhấn, một sự gợi mở cho một vế còn ẩn chứa. Nó hướng ngòi bút vào cái
nhìn toàn diện hơn, có sự đồng cảm và dè chừng hơn. Và, văn học một thời của
chúng ta thường vươn lên tầm sử thi với những nét hoành tráng, với những chiến
thắng của thời lửa đạn đầy kiêu hãnh mà phần nào lãng quên số phận của con người
với những nỗi đau, với nét tâm tư sâu kín. Cái kiêu hãnh của Phạm Quang Trung
là muốn nhập tâm vào từng góc độ, từng khía cạnh của văn chương, để rồi anh tự
hào là “kẻ nô lệ đầy kiêu hãnh” có thể suốt đời phụng sự cho văn chương cao
quý.
Từ
trên nền một sự hiểu biết và sự cảm nhận sắc sảo ấy, quan niệm văn chương của
Phạm Quang Trung được triển khai với một cấp độ mới. Đó là sự nắm bắt những ước
mong tha thiết nhất của dân tộc và của nhân loại. Phạm Quang Trung không hề đề
ra những tiêu chuẩn mang tính chất quy phạm đối với bất kỳ nhà văn chân chính
nào. Đó chỉ là quan điểm cho riêng mình, nhưng lại mang một ý nghĩa vô cùng sâu
sắc và rất cần thiết cho bạn, cho tôi, cho tất cả chúng ta. Tôi xem đó là nét dự
cảm của văn chương, nhưng tuyệt nhiên không hề giống với những lý giải siêu
hình đầy ma quái. Nét dự cảm văn chương, với Phạm Quang Trung, có căn nguyên từ
sự đào sâu khám phá hiện thực thời đại của người nghệ sĩ. Quan niệm hết sức giản
dị ở ngôn từ nhưng đã gây cho người đọc sự cảm nhận về “chất” của quá trình
khám phá cuộc sống đa chiều. Song có lẽ thú vị và sâu sa hơn cả trong quan niệm
văn chương của Phạm Quang Trung là ý nguyện “hết lòng phụng sự” – dành cả đời
tâm huyết cho văn chương.
Từ
cuộc đời đến tác phẩm cần một nhịp nối là nhà văn mà ở đây là nhà phê bình. Nên
chăng cần xem quan niệm văn học, văn chương của Phạm Quang Trung là những lời
tâm sự của người cầm bút về thiên chức, phẩm chất của nhà văn. Đấy là sự nhiệt
tình đến mức nồng cháy, là lòng thủy chung máu thịt với cuộc đời. Đấy còn là một
cách nhìn phát hiện, một nhân cách sống và viết đáng kính nể và khâm phục. Quả
thực đó là những bài học bổ ích cho những người cầm bút, nhất là cho thế hệ trẻ
chúng tôi. Từ cá nhân tìm đến nhân loại, đó chính là nhịp nối của một trái tim
yêu thương con người “từ chân trời của một người đến chân trời của tất cả” (P.
Êluya). Bên cạnh đó, Phạm Quang Trung mong muốn mọi tài năng nghệ thuật bao giờ
cũng đi cùng với sự khổ luyện luôn rất cần sự lưu tâm hơn của mọi người. Bởi lẽ,
gắn bó với cuộc sống mới chỉ là điều kiện tiên quyết nhưng chưa phải là tất cả.
Một năng khiếu nghệ thuật chính là nhân tố truyền sức sống cho những tác phẩm lớn
lao. Những cống hiến hướng tới những công trình có giá trị của Phạm Quang Trung
phần nào đã nói lên được “tố chất” bẩm sinh của người cầm bút. Nên xem quan niệm
văn chương của Phạm Quang Trung chỉ đúng với những ai đã và đang hiến mình cho
thứ văn chương chân chính của muôn đời.
Trần Huyền Nhung
Lời giới thiệu Chuyên luận
"Văn chương với Lê Quý Đôn"
Trong tư tưởng văn học cha
ông để lại, có lẽ Lê Quý Đôn là có đóng góp quan trọng nhất. Phần không nhỏ có
liên quan đến văn học được trình bày rải rác trong “Kiến văn tạp lục” nhất là
trong “Vân đài loại ngữ” là “loại ngữ” được chọn trích dẫn từ các sách xưa của
Trung Quốc (với lời bàn thêm của Lê Quý Đôn) gộp chung lại cho thấy quan điểm
tiến bộ và tương đối toàn diện của tác giả về các vấn đề cho đến nay còn giữ
nguyên giá trị thời sự, như văn học gắn liền với đời sống, tinh thần dân tộc, sứ
mệnh xã hội của văn học, đặc trưng của văn học... Tuy chủ yếu thống nhất các
quan điểm được trích dẫn từ sách của Trung Quốc, nhưng Lê Quý Đôn không câu nệ,
mà khi cần thì có biện bác trở lại theo tinh thần “nên đem lời và ý của cổ nhân
mà đúc lại cho mới, chứ đừng bước theo lối cũ” (Điều 10 – Văn nghệ).
Những quan điểm nói trên được
tác giả “Văn chương với Lê Quý Đôn” biện giải thỏa đáng, có so sánh đối chiếu với
ý kiến của các tác giả thời trước cùng sự phân tích đánh giá dưới ánh sáng của
kinh nghiệm lí luận văn học hiện đại.
Tác giả “Văn chương với Lê
Quý Đôn” nhấn mạnh và đánh giá cao niềm tự hào dân tộc của học giả họ Lê, qua
những ý kiến như: “Các sứ thần ta sang Bắc quốc, dong ruổi đường trường muôn dặm
được sĩ phu bên ấy đặc biệt coi trọng, thường cùng nhau xướng họa nhiều bài…giữ
được thể diện nước nhà… àm mạnh quốc thể”, như Nguyễn Trực, Phạm Sư Mạnh… Đối với
di sản văn học nói chung tác giả chuyên luận cũng cho thấy Lê Quý Đôn nhìn lại
lịch sử và đánh giá rất cao nền văn học dân tộc thời Lý, Trần, Lê…
“Văn chương với Lê Quý Đôn”
là một công trình biên soạn công phu, rất có ích cho việc tìm hiểu di sản tư tưởng
văn nghệ quá khứ noi chung, của Lê Quý Đôn nói riêng. Di sản lí luận văn chương
cha ông để lại không nhiều, nên những công trình như “Văn chương với Lê Quý
Đôn” thật đáng hoan nghênh.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn
sách với đông đảo bạn đọc.
Giáo sư LÊ ĐÌNH KỴ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét