Chắc nhà thơ Lò
Ngân Sủn chả bao giờ tự coi mình là một nhà phê bình văn chương. Trời cho anh
chất khác, gần với phê bình, nhưng chưa phải là phê bình. Do đời đòi hỏi, anh
đã gắng gượng gánh vác: “28 đầu sách lù lù trước mặt. Nhiệm vụ của tôi là phải
đọc, phải nhận xét từng tập sách. Một công việc có thể nói là quá lớn, quá sức,
quá sự hiểu biết cuả tôi. Nhưng biết làm sao được, nhiệm vụ là nhiệm vụ. Thôi
thì đành nhắm mắt liều mình bước chân vào khu rừng dậm đầy chông gai, hiểm chở,
và đầy những bí ẩn đang chờ ở trước mắt” (I. tr.87).Trọng trách buộc anh
phải làm, khi thì ở hội đồng chấm giải, khi thì ở cương vị quản lý. “Tôi không
thông thạo cái công việc viết giới thiệu phê bình sách… - Lần khác, Lò
Ngân Sủn bộc bạch - Nhưng mà thôi, dù sao tôi cũng phải đọc sách của tất cả các
nhà văn DTTS” (II. tr.117). Rõ rồi, anh là người biết lắng nghe tiếng nói của đời,
và kịp thời, và tự giác lên tiếng đáp lại với trách nhiệm, với nghị lực phải
nói là đáng nể phục. Tôi, ban đầu như một người ngoài cuộc, đọc biết cho
vui, thế là dần dần đã bị (hay là “được”?) nỗi đam mê trước phận sự xã hội
thiêng liêng của anh cuốn theo, đến như không thể nào cưỡng nổi. Và, tôi xin được viết
những cảm nhận của tôi từ hai tập Hoa văn thổ cẩm” (Nxb Văn hóa Dân tộc,
1998 và 1999) của anh trong tâm thế ấy. Đừng cho tôi là quá say, để rồi lơi lỏng
sự tỉnh táo như thường có, và như tính chất công việc đòi hỏi.
Thú thật là qua tập sách của
Lò Ngân Sủn, tôi được hiểu thêm nhiều, đúng hơn là rất nhiều về bộ phận văn
chương các DTTS Việt Nam đa dạng và độc đáo như “hoa văn thổ cẩm” của mọi miền trên
dải đất thân yêu của Tổ quốc chúng ta. Những nhận định bao quát và những gương
mặt tiêu biểu; thế hệ đi trước mở đường và thế hệ đi sau kế tục; cái hay đáng chiêm
ngưỡng và cái dở cần vượt qua… Lại được viết bằng một lối nghĩ trung thực, cách
cảm hồn nhiên, kiểu nói cụ thể, hầu như vượt thoát mọi ràng buộc, khuôn phép, để
thật sự là mình, như cái mình có, như cái mình muốn có. Một vẻ đẹp không
luật lệ/ Sự bất thường chen nhau về hội tụ (Thơ Dư Thị Hoàn). Lần đầu tiên
tôi nghe một người xứng đáng là chủ nhân của thi ca miền núi bảo: “Cũng lạ, những
bài thơ hay của các tác giả DTTS thường là ngắn, có khi rất ngắn” (II. tr.96).
Tôi tin ngay! Cứ lấy thơ của Y Phương, Mai Liễu, Dương Thuấn … và của chính Lò
Ngân Sủn làm bằng cớ. Như bài Người đẹp đấy! Chưa đầy một
trang. Người không khát thơ, đọc xong thấy khát. Và lạ thay, càng uống
càng khát. Cũng lần đầu tiên, tôi thấy một người dám thẳng thừng tỏ vẻ không
hài lòng đối với thơ của một bậc trưởng lão “nhiều khi đến gượng gạo, gán
ghép, vô duyên khi ông chỉ chăm lo làm cái công việc cổ động tuyên
truyền, giáo dục, khuyên dăn, dạy bảo…” (II. tr.15). Cố nhiên trước đó, Lò Ngân
Sủn cũng đã từ tốn chắt lọc ra từ tập thơ những vần, những câu đáng khen
đáng học.
Lò Ngân Sủn thuộc thế hệ
văn nghệ sỹ các DTTS trưởng thành sau 1975. Điều kiện để vươn
rộng tầm nhìn ra quốc gia và quốc tế, họ có. Nhiều người trong số họ, chân đi
nhiều, mắt đọc nhiều, tay viết nhiều, và đầu óc ấp ủ nhiều nghĩ suy và ước vọng.
Tôi hiểu vì sao anh có thể nhận ra khá rõ vai trò của nghề như thế này: “Cái gì
nghề khác khó làm được hoặc không thể làm được thì nghề viết lại làm được… Tôi
nghĩ đó là cái kỳ diệu của văn học, của nghệ thuật” (I, tr.77). Lò Ngân Sủn đã
chọn lựa và đã chứng tỏ tính đúng đắn của sự chọn lựa. Anh thuộc trong số người
may mắn ở đời. Giờ có dịp nhìn lại, chao ôi, quá nhiều trắc trở và đắng cay.
Trước mắt, để đi tới những đỉnh cao, lại càng không được phép nản chí nản lòng:
“Tất nhiên, tôi mới chỉ nhích lên từng tý một, cũng y như một vận động viên nhảy
cao ấy, chiều cao thì không cùng tận” (I. tr.75).
Tôi tin những người như anh
sẽ có cơ sở đến được đích. Anh là người có học, lại biết cách chuyển sự học
thành sự hiểu cuả bản thân. Nghe anh phát biểu quan niệm về thơ văn xuôi cứ như
một nhà lý luận chính hiệu: “Phải chăng thơ văn xuôi thực ra là thơ tự do, thơ
không vần được mở rộng, kéo dài, phát triển gần với văn xuôi hơn, cho nên cũng
rất dễ sa vào kể lễ, dài dòng, dậm lời, luyễn loãng, dàn trải (I. tr.100). Anh
đặt giả thiết phải chăng, đúng như bản tính thận trọng và khiêm nhường của
mình. Sự trải nghiệm trong đời và trong nghề dạy anh điều đó. Cái riêng muôn vẻ,
biến hóa đến khó lường tồn tại cùng cái chung, nhưng bao giờ cũng phong phú hơn
cái chung: “Trong sáng tác nhiều khi rất ngẫu hứng, tình cờ, bản năng, bôt
phát, xuất thần” (II. tr.56). Nhưng cuối cùng vẫn là những thành quả, vẫn phải
có văn hay thơ hay. Lò Ngân Sủn sớm nhận ra sự thật sau: “Tất nhiên cái còn lại
với cuộc đời, với thời gian không phải là đã viết được bao nhiêu bài, viết
trong bao nhiêu thời gian, mà là các bài thơ, câu thơ, chữ thơ đã gieo vào được
lòng người, được người đời lưu nhớ” (II, tr.19). Anh muốn nói đến cái tinh đi
liền với cái chất của văn chương qua sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian
của bạn đọc. Chính từ khởi điểm này, anh đến với đời sống văn chương với đầu óc
độc lập, chỉ nói những điều mình nghĩ mình tin. Anh mạnh dạn đặt vấn đề đi thực
tế theo một cách khác: “Tham quan nơi điển hình tiên tiến là hay, là đẹp, là tốt
rồi, cái đó khỏi phải bàn. Nhưng sao lại không dám tổ chức tham quan cả điển
hình kém nát. Như thế đã là biện chứng, khách quan chưa?” (I. tr.77-78). Có thể
lý lẽ còn khô cứng, sách vở, nhưng thật khó bác bỏ cho nổi. Cái đẹp quả dễ nhận
ra qua sự đối chiếu với cái xấu, và rồi chúng ta sẽ trân trọng, nâng niu cái đẹp
hơn chứ sao!
Bao giờ cũng nghĩ bằng cái đầu
của mình, và bao giờ cũng nói những gì mà cái đầu mách bảo – ở đây không chỉ
tùy thuộc về bản lĩnh mà còn tùy thuộc vào lòng can đảm. Điều này đặc biệt cần
đối với một người làm quản lý như anh. Những quan niệm nghệ thuật giản đơn thô
thiển đây đó vẫn còn chế ngự đầu óc của nhiều người, không loại trừ cả những
cán bộ lãnh đạo. Nhiều khi anh phải dũng cảm đứng ra, mạnh dạn bảo vệ những cái
đúng của thứ nghệ thuật đích thực bị ngộ nhận, bị quy chụp. Lò Ngân Sủn ý thức
rõ rằng: “Tiếc thay, loại người sáng tác thật sự vốn đã ít và hiếm hoi, thường
lại hay bị rầy rà từ nhiều phía, có khi luôn bị dằn vặt, khổ đau oan trái - thậm
chí chết rồi cũng phải đến hàng mấy chục năm sau lịch sử mới có cơ hội minh oan
cho họ được” (I, tr.84). Bằng chứng thực tế thì nhiều lắm. Qua sách báo, qua
người khác, Lò Ngân Sủn biết, chính anh cũng từng chứng kiến, từng trải qua.
Truyện ngắn Ông già trên núi chè tuyết và đứa cháu xa quê của Bùi
Nguyên Khiết, và Thế hệ tôi mong ước đến mùa xuân cuả Pờ Sảo Mìn đấy.
“Bản thân tôi cũng đã từng gặp phải - Anh chân tình kể lại - những trường hợp
tương tự như thế, đó là vào những năm 80, có một ông cùng giới làm thơ đã đi kiện
tôi ở Tỉnh uỷ Hoàng Liên Sơn với thành tích là: một người ngoài Đảng (như
ông) đã phát hịên ra một đảng viên (là tôi) làm thơ chống Đảng, chống chế độ mà
bằng chứng là bài thơ Người dân tộc nói cuả tôi” (I, tr.72). Anh chua
chát nhớ lại những kỷ niệm buồn liên quan đến bạn bè và bản thân. May thay, chỉ
là ý kiến thô bạo của một đôi người. Tác hại không phải vì thế mà nhỏ, và có thể
xem thường. Biết vậy để anh có thêm quyết tâm đứng ra bảo vệ bạn văn khi họ gặp
phải tai nạn nghề nghiệp.
Có người kết án Bài ca thứ hai của Y Phương là “bôi bác dân tộc”. Băng cớ? Đây, đoạn đầu dựng nên hình ảnh: Quế/ Anh chiến sỹ áo chàm/ Trán dô/ Mũi thô/ Môi dày/ Chân đi dép 42 vẫn thừa năm ngón. Họ không chú ý đến đoạn tiếp. Cố tình hay vô ý? Thiện chí hay ác tâm? Dẫu thế nào cũng đều tai hại. Lò Ngân Sủn biện bác: “Nhưng bài thơ đâu chỉ dừng ở đó, mà chính từ cái bệ phóng trông có vẻ thô kệch ấy, bài thơ đã bay lên đầy kiêu hãnh: Nhịn đói không kêu/ Ốm đau không kêu/ Nhớ mẹ quá thì ngồi trên đá/ Nhớ rồi khóc không cho ai biết/ Trốn ra sông vầy nước/ Vẽ lên lên cát hình thù dãy núi quê hương…/ Chỉ có cát mới hiểu nổi lời của Quế (II, tr.29 -30). Cảm thông đến thế thì quả thật anh đã biến thành “cát” tri âm tri kỉ để hiểu ý thơ sâu xa của bạn mình rồi.
Có người kết án Bài ca thứ hai của Y Phương là “bôi bác dân tộc”. Băng cớ? Đây, đoạn đầu dựng nên hình ảnh: Quế/ Anh chiến sỹ áo chàm/ Trán dô/ Mũi thô/ Môi dày/ Chân đi dép 42 vẫn thừa năm ngón. Họ không chú ý đến đoạn tiếp. Cố tình hay vô ý? Thiện chí hay ác tâm? Dẫu thế nào cũng đều tai hại. Lò Ngân Sủn biện bác: “Nhưng bài thơ đâu chỉ dừng ở đó, mà chính từ cái bệ phóng trông có vẻ thô kệch ấy, bài thơ đã bay lên đầy kiêu hãnh: Nhịn đói không kêu/ Ốm đau không kêu/ Nhớ mẹ quá thì ngồi trên đá/ Nhớ rồi khóc không cho ai biết/ Trốn ra sông vầy nước/ Vẽ lên lên cát hình thù dãy núi quê hương…/ Chỉ có cát mới hiểu nổi lời của Quế (II, tr.29 -30). Cảm thông đến thế thì quả thật anh đã biến thành “cát” tri âm tri kỉ để hiểu ý thơ sâu xa của bạn mình rồi.
Người viết khi nào cũng
trông cậy vào sự cảm thông nơi bạn đọc. Khi có được mối giao cảm này thì dẫu
người đọc có khe khắt trước những khiếm khuyết, non dại của trang viết, nhà văn
cũng thấy yên lòng. Đây là bạn ta, có khó tính với ta cũng là vì ta, mong ta luôn
tự vượt mình, vươn tới những chân trời cao rộng. Lò Ngân Sủn thiện tâm, lại
thành tâm nên phần nhiều những tiếng chê của anh nghe lọt tai, thấm vào tim óc.
Anh khen tên bài thơ Hiến pháp ban hành như mùa xuân của Mã Thế Vinh
“gợi” và “lạ”, nhưng “khi đọc lời dịch ra tiếng Việt tôi lại thấy dáng dấp cuả
một bài diễn ca vì thiếu sự dồn nén, thiếu chất bay bổng, thiếu chất thơ”
(I, tr.113).Về ý nghĩa xã hội, sức mạnh của hiến pháp biến thành diễn ca trong
tâm tưởng của đồng bào dân tộc như nhà thơ người Nùng ấy đã làm thì thật quý.
Lò Ngân Sủn chỉ mong giá nó song hành với chất văn chương, biến thành sự tuyên
truyền một cách nghệ thuật thì sẽ còn quý hơn nhiều. Anh còn lấy làm nuối tiếc
khi nhà thơ Pờ Sảo Mìn chưa triển khai đến cùng ý thơ trong bài Cái rễ cây: “Nhưng
tiếc thay, có thể do chưa thật đào sâu suy nghĩ, có thể do công sức bỏ ra chưa
hết mình, nên có thể đã dễ dãi, vội vàng, tạm bằng lòng với mình chăng, nên có
thể đã bỏ lỡ cơ hội tung hứng” (II, tr.48). Anh cả quyết trong ý tứ mà nhũn nhặn
ở lời nói, không cả giọng, không ép uổng. Có lẽ vì vậy mà ít gây phật ý, mất
lòng. Ngay cả khi việc vạch lá tìm sâu của anh chưa thật trúng, thật đúng
cho lắm. Tôi chắc ở những trường hợp này, bạn thơ của anh nếu có tấm tức thì
khi có dịp nghĩ lại thể nào cũng dễ cho qua vì thấy anh không phải thuộc hạng
người ác tâm, ác ý. Ở đời, chê bai có lúc trúng lúc trật là sự thường, huống hồ
đây là lãnh địa của cái đẹp, của nghệ thuật, vô biên vô định biết nhường nào!
Chỉ xin nêu một dẫn chứng: bài Người làm đồng của Dương Thuấn. Lò
Ngân Sủn đề nghị cắt bỏ 2 câu đầu và 2 câu cuối của bài thơ mà anh cho là
“không cần thiết”:
Mặt trời hôm nay như hôm qua
Ngày mai mặt trời không mới
Mặt trời ngày nào cũng lên rồi lặn
Buồn
vui xưa ở đâu
Mây bay trắng đỉnh đầu
Ngoài đồng người đàn bà túc
tắc
Gánh chiều lần theo chân rạ
Mặt thông reo với gió
Hai câu đầu tôi không có ý
kiến gì. Tuy nếu bỏ hai câu cuối như là điểm tựa của ý tứ bài thơ tôi e tác phẩm
sẽ rất dễ chông chiêng…
May thay, phần nhiều cảm nhận thi ca của Lò Ngân Sủn là có thể chấp nhận được.
Không ít trường hợp còn gợi nhiều hứng thú nơi người đọc nhờ phát hiện tinh nhạy,
bén sắc của anh. Không khí câu thơ bình dị Hôm nay Cao - Bắc – Lạng cười
vang trong bài Dọn về làng của nhà thơ Nông Quốc Chấn được sống
lại thật sát hợp trong tưởng tượng của anh là “toát lên được khí thế cách mạng
Cao Bằng – Bắc Cạn – Lạng Sơn lúc bấy giờ” (I, tr.130). Lò Ngân Sủn có ý thức
phát hiện ra bản sắc riêng của các cây bút bước đầu thành đạt. Chỉ những ai đạt
tới độ chín nhất định trong hành nghề phê bình mới ý thức đi theo hướng này.
Bàn luận về phong cách sáng tác trong trường hợp nào cũng không dễ. Cái nhìn phải
bao quát, kiến thức phải rộng. Rồi lại phải được trang bị lý luận đến độ cần
thiết. Lò Ngân Sủn đã vượt qua nhiều thách thức để có thể đưa ra những nhận định,
chẳng hạn về “cái tạng, cái duyên, vẻ đẹp” của thơ Dương Thuấn ở “cái thô mộc của
sự trau chuốt, chắt lọc, gọt dũa, ít mà nhiều, chật mà rộng, ngắn mà dài” (II.
tr.39). Cố nhiên, Lò Ngân Sủn cũng cần đề phòng khuynh hướng lấn lướt của cái
chủ quan nghệ sĩ khi viết phê bình. Ví như, tôi, ít nhiều quan tâm tới thơ Mai
Liễu, chưa thật tin vào nhận xét sau của anh: “Cũng có lúc Mai Liễu muốn vươn
lên để đột phá, quẫy đạp, ngụp lặn trong dòng chảy thơ ca. Nhưng xem ra, cái tạng
của anh vẫn là cái tạng đồng đều, trôi chảy, chưa đủ sức làm nên sấm nổ, lốc cuốn,
mưa đổ, lũ tràn” (II, tr.69). Thơ một người, như con người ấy, dễ nắm bắt phong
thái, dáng dấp; khí cốt, tính cách bao giờ cũng khó nắm bắt hơn nhiều. Anh cũng
nên học cách im lặng của đá quê hương mình. Đôi khi tôi thấy anh hơi nhiều lời,
nên khó tránh khỏi lặp ngôn, thừa chữ. Chẳng hạn đoạn văn anh viết về bài Rượu của
Cầm Bá Lai: “Đây là một kiểu uống, một cách uống không bình thường, hay nói
cách khác đây là một kiểu cách uống rượu độc đáo và phi thường” (II, tr.95). Những
“không bình thường”, “phi thường”, cũng như những “kiểu uống”, “cách uống” rõ
ràng là trùng lặp.Tuy nhiên, trước sau, khi nào tôi cũng tin vào cái tâm trong,
nhất là cái chí mạnh của Lò Ngân Sủn.
Một lần, vào tháng 10 năm 1995, nhà thơ Hoàng Hưng có hỏi Lò Ngân Sủn: “Trong
hai thứ tiếng: dân tộc (Dáy) và tiếng phổ thông (Việt), anh giỏi tiếng nào?”,
anh khiêm nhường đáp: “Cả hai thứ tiếng, tôi đều chưa giỏi”. Còn nếu giờ
tôi có dịp hỏi anh là làm thơ và phê bình thơ, anh hài lòng với công việc nào?
thì chắc sẽ cũng nhận được câu trả lời tương tự: “Cả hai công việc, tôi đều
chưa giỏi”. Nhà thơ Vương Trung viết: “Thành đạt không dễ có”. Ông còn viết:
Cứ mơ đi! Mặt trời sắp lặn
Cứ mơ đi! Mặt trời sắp lên
Xin chúc Lò Ngân Sủn đạt thật nhiều ước mơ của mình!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét