Vài năm lại đây, thơ được in
ra nhiều, nhiều lắm, có vẻ như một hiện tượng lạ. Chả khó khăn gì để nhận ra hiện
trạng ấy. Nhiều người gọi là sự “lạm phát” của thơ. Nếu nghĩ kỹ sẽ thấy có gì
đó chưa thật ổn. “Lạm phát” vốn là từ chuyên dùng trong lĩnh vực tài chính tiền
tệ, để chỉ tình trạng đồng tiền của một nước nào đóbị mất giá nên phải phát
hành nhiều tiền mặt, nhiều hơn giá trị vốn có của nó. Vậy trên thực tế, đâu phải
cứ in ra nhiều là đồng tiền mất giá, mà ngược lại, chính vì đồng tiền mất giá
mà phải in ra nhiều... Trở lại câu chuyện ta đang bàn, ai cũng biết, thơ (đây
là thơ hay, thơ đích thực) bao giờ cũng cần, không khi nào và không ở đâu bị mất
giá cả. Điều này bất chấp mọi tình huống, ngay cả khi cứ mỗi ngày lại có chừng
một, hai tập thơ được in ra như hiện nay. Vậy sao có chuyện “lạm phát” thơ?
Nhưng ở đây quả tồn tại một
sự trùng hợp thú vị: Cũng như đồng tiền khi mất giá, thơ được “sản xuất” ra khá
ồ ạt. Thực tế này buộc những ai quan tâm đến sự hưng thịnh của nền thi ca nước
nhà phải tỏ thái độ. Đại để có hai phản ứng gần như trái ngược nhau. Không ít
người bình tâm với ý nghĩ rằng, đời sống thi ca vận hành theo quy luật của nó.
Cái gì không hay, không đáng là thơ sẽ tự khắc bị đào thải. Rồi trật tự sẽ được
vãn hồi, không chóng thì chầy. Nhiều người khác thì thật sự lo lắng. Lám thơ
làng nhàng, kể cả thơ giả nữa, thì việc bạn đõc dửng dưng với thơ dám chắc có
thể tính bằng tuần bằng tháng. Một nước có tiếng là hay thơ như nước ta rồi sẽ
ra sao khi bước vào thiên niên kỷ mới!
Có thể thấy rõ, cả hai thái
độ trên đều có cơ sở. Và thế là, chỉ tội cho bạn đọc, nên tin vào ai đây? Sốt
ruột, kể cả hoang mang nữa, khi nghĩ tới triển vọng của nền thi ca hiện đại của
dân tộc trong vài thập kỷ tới là tâm trạng có thật, không nhiều thì ít. Riêng
phần mình, tôi vừa bình tĩnh vừa lo lắng. Nhưng cái cớ có lẽ hơi khác.
Tôi nghĩ, so với các ngành
nghệ thuật khác, văn chương có cái dễ và cái khó của riêng mình. Chất liệu của
văn chương là ngôn từ. Công cụ của nhà văn là ngôn ngữ. Mà ngôn ngữ lại là tài
sản chung của nhiều người, cũng như hoạt động nói năng là loại hoạt động chung
của toàn xã hội. Riêng ở góc độ này mà nhìn, cái “ưu” và cái “liệt” của văn
chương bộc lộ khá rõ. Cái “ưu” dễ thấy nhất là văn chương có điều kiện gần gũi
hơn cả với mọi người. Cảm thụ cũng vậy, mà sáng tạo cũng vậy. Ai đến tuổi trưởng
thành cũng đều có một trình độ và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ nhất định. Vậy nên,
chả có hàng rào ngăn cản nào khiến họ không đến với văn chương. Trước hết là
thưởng văn, và sau nữa, nếu có nhu cầu và điều kiện, còn làm văn nữa. Trong
quan niệm có lẽ là ấu trĩ của không ít người, nhà văn vốn được mệnh danh là
“nghệ sĩ ngôn từ” hơn người chủ yếu là ở khả năng sử dụng ngôn từ giỏi giang.
Ngộ nhận tai hại này trước nhất được vận dụng vào người làm thơ. Đã đành, “ngôn
ngữ là yếu tố thứ nhất của văn chương” (M .Gorki). Ở nhà văn vốn ngôn ngữ phải
giàu hơn người khác. Cố nhiên! Có điều tư chất nghệ sĩ của nhà văn trước hết và
chủ yếu được bộc lộ qua những phẩm chất trong đầu và tim họ như: Trí tưởng tượng
sáng tạo, khả năng rung cảm mãnh liệt, sự quan sát tinh nhạy, tài cảm thông với
muôn vật, muôn loài... Do vậy, viết văn làm thơ vừa là hoạt động ngôn ngữ vừa
là hoạt động nghệ thuật. Và cái sau mới là cái chính, cái quyết định. Ở thế kỷ
trước, có nhà phê bình phân biệt hai câu thơ và hai câu có vẻ là thơ. Một câu
là văn vần: Con mèo, con chó có lông/ Bụi tre có mắt, nồi đồng có
quai. Và hai câu ca dao: Gió đưa cây cải về trời/ Rau răm ở lại chịu
lời đắng cay. Xét về vần điệu thì hai câu trên không khác nhau là mấy. Tuy
nhiên, nhà phê bình nọ chỉ chấp nhận câu ca dao là thơ, là văn chương. Đọc lên,
ta cảm nhận được cả tấm lòng với bao dằn vặt, rồi ước ao, trăn trở nữa. Nó như
một tiếng kêu thảm thiết giữa đất trời, rất cần được bao dung, rất cần được
chia sẻ. Câu văn vần đầu tiên không có được những sự khơi gợi ấy nên không dính
dáng đến hoạt động tinh thần cao quý và thâm hậu được gọi là nghệ thuật.
Từ đó, có lẽ ta nên phân biệt
hai cách in thơ: vì nghệ thuật đích thực với mong mỏi tạo ra ý nghĩa xã hội rộng
rãi, và vì mục đích thiết thực, nặng ý nghĩa riêng tư. Ví như, một cây bút có
tuổi, sau khi in tập thơ đầu khá dày dặn gửi tặng tôi với lời phân trần: “Thơ
phú gì đâu, tôi chỉ xem đó là ký ức được ghi lại bằng hình thức ngắn gọn, dễ nhớ
thôi mà!” Có lẽ nhiều người dễ tán đồng với tôi rằng, những tập thơ dạng ấy được
in ra không phải không có ích, nhưng ý nghĩa của nó nằm ở chỗ khác, không giống
với những tập thơ được các cây bút vì nghệ thuật đích thực viết ra. Dĩ nhiên,
trong thực tế, sự phân biệt vừa nói không phải lúc nào cũng dễ dàng. Ở đây đòi
hỏi con mắt am tường đã đành, còn đòi hỏi lòng trung thực của bạn đọc, và nhất
là của các nhà phê bình.
Đó là tất cả các nguyên do
khiến tôi không quá sốt ruột khi chứng kiến việc xuất bản thơ quá ồ ạt trong những
năm vừa rồi. Tuy, phải nói là tôi thực sự lo ngại. Rất lo cho sự huyễn tưởng của
một ai đó. Cũng rất lo cho sự nhầm lẫn đáng tiếc của dư luận, và càng đáng lo
hơn nếu sự nhầm lẫn, thật giả lẫn lộn xảy ra trong giới nhà văn chúng ta. Vì
sao vậy?
Ai đến với nghề văn một cách
thật sự nghiêm túc đều thấy rằng cái luật của nghề này khắt khe lắm! Nó không
bao giờ chấp nhận những ai thiếu tài năng. Không ít người mon men đến lãnh địa
văn chương, sớm tỉnh ngộ, nên đã kịp chia tay với nó. Họ vẫn đủ thời gian tạo lập
nên sự nghiệp của đời mình, khác với sự nghiệp văn chương, nhưng danh giá chẳng
kém cạnh gì so với sự nghiệp văn chương cả. Và thế là có quyền mãn nguyện rồi.
Nói như nhiều người, họ đã thật sự hạnh phúc vì đã đứng đúng ở nơi mà cuộc đời
vốn dành cho họ. Đáng buồn là không phải ai cũng có may mắn như họ. Có một thực
tế là cái danh trong văn chương dễ làm mê hoặc con người lắm đấy! Nó ngọt bùi
nhiều hơn là cay đắng. Tôi muốn nói đến những bước đầu tiên ấy. Còn vào cuộc rồi,
sống chết xả thân vì nghề, lại là chuyện khác. In được dăm ba tập thơ dễ nghĩ
mình là tác giả, tác giả thành đạt, thành danh. Các nhà phê bình không để mắt đến
mình, đã làm toáng lên bảo là do thiển cận hoặc thờ ơ, thiếu trách nhiệm với
nghề nghiệp đấy thôi. Rất dễ hiểu nếu những cây bút loại này nằng nặc xin vào Hội
Nhà văn. Và biết đâu, giữa biển cả thi ca khó bề làm chủ như hiện nay, lại
không có nhà thơ hội viên chép miệng, gật đầu. Và sẽ là tai họa nếu không may
được Hội đồng thơ, kể cả Ban chấp hành nữa, ghi nhận! (Tôi chỉ giả thiết vậy
thôi, chứ chuyện đó khó bề xảy ra được). Tôi muốn nói “tai họa” trước tiên đổ
xuống đầu “vị thi sĩ” có danh mà không có thực kia. Vì biết đâu chả có lúc
lương tri thức tỉnh trong anh ta, và câu chuyện “Con cá vàng” mà Raxun Gamdatôv
từng kể lại không có tác dụng trên thực tế:
- Ôi!
Cá vàng! Hãy cho ta tài năng, một chút xíu thôi! – Thi sĩ bất tài nọ năn nỉ.
- Người
nói sao? Tài năng ư? Ta đã cho ngươi tất cả để trả công ngươi tha mạng ta.
Riêng tài năng thì không thể. Vì chính ta cũng có tài năng thi ca đâu!
Còn gì xót xa, bất hạnh hơn
khi suốt đời không đứng đúng nơi số phận dành riêng cho mình.
Có lẽ tôi đã nói hơi thật và
hơi thẳng? Kẻ khôn khéo ít khi xử sự như vậy. Nhưng tôi tin là nhiều người sẽ
hiểu tôi. Một lần Đoàn Thị Lam Luyến tâm sự với tôi rằng: “Để có những vần thơ
hay nhiều khi người viết phải biết hi sinh một phần cái tôi của mình đi”. Nhà
thơ nghĩ được thế, sao nhà phê bình lại có thể kém cạnh để nghĩ khác đi cho được. Đà Lạt, 7/98
Thơ trẻ ư? Còn lắm ngại ngần
Thơ trẻ tôi nói đây không phải
là thơ của giới trẻ nói chung, mà là thơ trẻ trung, thơ tân kỳ. Chỗ xuất phát
là ở tư duy thơ: mới mẻ hay mòn sáo, là ở tâm thế người làm thơ: bứt phá hay
yên vị. Trong nghệ thuật, không ai không muốn quý cái mới mẻ đi liền với những
bứt phá. Nhưng để quý thật sự, theo kinh nghiệm của riêng tôi, phải học, mà
cũng phải học thật sự.
Không cứ người trẻ mới có
thơ trẻ. Song thơ trẻ phần nhiều do người trẻ tuổi viết ra. Xem qua nhìn lại, số
người này thì nhiều, cái tên đáng nhớ lại ít, có thể tính đếm trên đầu ngón
tay. Mà xem ra ngày càng thưa vắng quá! Vì sao vậy? Ưu thế của tuổi trẻ là rất
nhạy cảm, nhạy bén. Họ không chịu nổi mọi sự gò bó, trói buộc. Đó là một tiền đề
quan trọng cho mọi sự khám phá. Để biến tiền đề thành khả năng, họ cần khắc phục
một nhược điểm cố hữu của tuổi trẻ là dễ nản chí nản lòng. Hăm hở bước tới với
bao dự định tốt đẹp, khi bất chợt gặp trở ngại họ lại dễ mỏi gối chùn chân. Thế
rồi đâm ra hoài nghi – hoài nghi người và hoài nghi mình, hoài nghi tất cả. Không
khéo đó lại là dấu hiệu tàn phai của một tài năng đang hé nụ! Thái độ quan tâm,
khích lệ tích cực kịp thời của người đi trước bao giờ cũng là cần thiết. Thế
nhưng, ta đã làm gì? Tôi có hỏi một bạn làm thơ đi dự Hội nghị những người viết
văn trẻ mới từ Hà Nội trở về câu hỏi ấy. Anh chân tình bảo: có làm, làm nhiều
là đằng khác, nhưng thiếu hiệu quả. Lại là vấn đề muôn thuở: hiệu quả. Dễ tưởng
thiếu hiệu quả là do cách làm. Tôi nghĩ không hẳn là vậy. Chủ yếu là do cách
nghĩ.
Nên bắt đầu từ chính những
nhà văn đã trưởng thành chúng ta. Nhiều, rất nhiều tâm huyết dành cho thế hệ cầm
bút trẻ, ai cũng nhận thấy. Nhưng dường như tâm lý hoài nghi sáng tác trẻ vẫn
còn ẩn hiện đâu đó trong đầu óc của không ít người. Và thế là nảy sinh ra e ngại,
phòng ngừa – e ngại trước cái mới và phòng ngừa nguy cơ chệch hướng. Thôi quý vị
hãy cảm thông cho xin một chữ bình an. Tôi nghĩ, trong chính trị rất cần
chữ an. Dân có yên thì nước mới thịnh. Sự ổn định về chính trị của Việt
Nam trong thế giới nhiều bất ổn hiện nay đang là ước ao của bao người.Trong nghệ
thuật, có lẽ ngược lại, an lại đồng nghĩa với nguy. An kéo
dài là đại nguy. Nhìn sang các nước láng giềng mà lòng cứ không yên. Ở
Trung Quốc, vào thời đổi mới, thơ mông lung xuất hiện đã gây nhiều
tranh cãi. Cho tới năm 1982, Hội Nhà văn Trung Quốc trao tặng thưởng cho hai tập
thơ mông lung là Con thuyền hai cột buồm của Thư Đình
và Nốt nhạc màu xanh của Phó Thiên Lâm thì nó mới có chỗ đứng trên
thi đàn (Xem Văn nghệ, 25/2000). Tiếc là tôi chưa có dịp đọc hai tác
giả trên, mới chỉ được tìm hiểu sơ qua thơ của Cố Thành – một trong những tên
tuổi nổi bật của xu hướng thơ mông lung. Rất nhiều điều có thể chia sẻ
cùng ông. Tôi ưa quan niệm thơ là giọt mưa long lanh trên cây lý tưởng của
ông. Cũng rất ưa ý nghĩ sau của ông: Tôi ngây thơ như lá non, bé nhỏ và
vui vẻ như các sinh vật phù du. Bài Xa và gần của ông nhanh chóng nhập
vào trí nhớ của tôi:
lúc
nhìn anh
lúc nhìn mây
Lúc em nhìn anh rất xa
Lúc em nhìn mây rất gần
(Xem Văn học nước
ngoài, 5/1996)
Đằng sau vẻ mơ hồ là nhấp
nhô, dập dồn ý tứ, vỗ liên hồi vào trí tưởng tượng của người đọc.
Đấy là Trung Quốc, một nước
mới chạm chân vào thời khoáng đạt. Nhìn ra xa hơn, ở Âu Mỹ, lòng tôi đôi lúc cứ
nôn nao. Xin không lấy thực tế ở những nền thơ sôi động như Pháp, Anh, Mỹ, chỉ
dừng lại ở nước Áo. Khoảng năm 1954, Nhóm Wien được hình thành với sự
tham gia của nhiều nhà văn trẻ tuổi, hăng hái thể nghiệm và tìm tòi cái mới, và
được xem là một hiện tượng mới trong sự phát triển của văn chương Áo. Bài thơ
sau của G.Riihm- một trong những chủ tướng của nhóm này, cứ ám ảnh tôi hoài:
Yên lặng
Có ai tìm tôi
Yên lặng
Ai tìm tôi
Yên lặng
Tìm tôi
Yên lặng
Tôi
Yên lặng
Mối quan hệ của ngôn
ngữ thông thường bị gỡ bỏ mà ngữ nghĩa vẫn được bảo tồn. Ý nghĩa của thơ ngân
vang đến không cùng, trong khi số chữ lại được dồn nén, giảm thiểu đến mức tối
đa. Thơ lạ mà hay, rất hay.
Trở lại với thơ trẻ của ta.
Nhiều người lấy cái chưa tới, chưa đạt của các cây bút trẻ nhằm biện minh cho
thái độ tiêu cực của mình. Tôi thừa nhận là dòng thơ trẻ hiện hữu, thường là thầm
lặng, chừng mươi năm trở lại đây, chưa sản sinh ra được những giá trị văn
chương độc sáng. Thể nghiệm thơ mới chỉ là những cố gắng đơn độc của một số ít
người. Sáng tạo vốn dĩ là cô đơn, với họ càng cô đơn hơn. Hình như họ
chưa đủ lực tạo ra sự kinh ngạc của phê bình, điều mà P.Neruda coi
là chứng chỉ đầu tiên của thành công. Mà nếu xét kĩ thì giới
phê bình chưa hẳn đã hoàn toàn vô can. Sự dửng dưng, lạnh nhạt của phê bình trước
cái mới còn phiêu diêu là có thật vàphần nào tỏ rõ sự bất cập, mà cũng có thể
nói là sự bất lực của phê bình. Có thể tán đồng, có thể không, nhưng cũng nên
có tiếng nói. Chỉ phê thôi cũng được. Cốt là cái tâm phải sáng và nhãn quan nghệ
thuật phải sắc.
Nhớ đến tấm gương của nhà
phê bình Biêlinxki trong quan hệ với nhà thơ trẻ Nhêkraxôv. Tập thơ đầu
tay Những ước mơ và những âm thanh của Nhêkraxôv vừa ra đời đã được
báo chí chính thống đương thời đánh giá là một tư tưởng tuyệt đẹp do một
tài năng kỳ diệu viết ra. Với thái độ nghiêm khắc, Biêlinxki chỉ xem tác
phẩm là những lời thơ chung chung…, sức rung cảm yếu kém. Thật bất ngờ,
làm Nhêkraxôv choáng váng. Tuy nhiên, khi tĩnh tâm trở lại, nhà thơ trẻ đã đi đến
một quyết định can đảm là tới các hiệu sách vét toàn bộ tập thơ của mình đem về
nhà đốt. Không lâu sau, Nhêkraxôv đã trở thành một trong những nhà thơ lớn của
nước Nga. Khi biết tin Biêlinxki qua đời, ông đã òa khóc và nói: Anh ấy là
người thầy đã giáo dục cho tôi phẩm chất làm người, anh là người đã chú ý, yêu
mến và chỉ đường vạch lối cho tôi trong giai đoạn khó khăn nhất của đời mình…
Biêlinxki đã cứu thoát tôi (Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, 11/2001).
Với dòng thơ trẻ hiện giờ, rất cần
thật nhiều những con mắt, những tấm lòng Biêlinxki trong giới phê bình. Một khi
không khí sáng tạo còn chưa thật thuận thì những người cầm bút trẻ rất cần
nương tựa vào sức mạnh của chính mình. Ai đây trong số họ có thể lớn tiếng nói
như I.Kant: Có thể tôi sai lầm trong phương pháp nhận thức… Song tôi lại
nghĩ rằng mình sẽ tiếp tục nó bằng tất cả mọi cách, bởi vì dầu tôi có sai lầm
thì sai lầm ấy của tôi sẽ bổ ích cho những người khác (Nhà văn bàn về nghề
văn, tr.139). Chẳng người cầm bút nào muốn thất bại. Nhưng trong sự thất bại kiểu
này không phải mọi thứ đều hoàn toàn vô nghĩa cả. Mà lạ quá, sao chúng ta, những
nhà văn đã thành đạt, lại chỉ xem mình là những chứng nhân?.
Phạm Quang Trung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét