Tập tiểu luận của Phạm Quang
Trung tập hơn 22 bài viết, đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng của văn học: thế
nào là một tác phẩm văn học lớn; chức năng đặc thù của văn học là gì; có hay
không lý luận, phê bình văn học trong thời trung đại Việt Nam; phân loại tác phẩm
văn học; chống văn chương phi nghệ thuật và chủ nghĩa hình thức trong điều kiện
đất nước mở về phía kinh tế thị trường và thế giới hiện đại; quan hệ của văn
hoá và văn học; v.v...
Ngoài ra có bốn bài bình văn
cũng góp mặt trong tập tiểu luận này.
1. Đọc “Tiếp cận giá trị
văn chương”, tôi thấy hai lần ở hai bài viết Phạm Quang Trung (PQT) nhấn mạnh đề
xuất của mình về tiêu chí của một tác phẩm lớn: giàu có trong sự khám phá hiện
thực, mang tầm tư tưởng cao và sức chấn động lớn (tr.40 và tr.45). “Lưu giữ
tình cảm, tạo ra sự cảm thông phải chăng là chức năng đặc thù của nghệ thuật ?”
(tr.109). PQT đặt câu hỏi thăm dò như vậy sau khi cho rằng: “Ngay cả khi một
tác phẩm biết tách cái ngẫu nhiên để đi vào cái qui luật, biết loại cái hiện tượng
để đi vào bản chất, nghĩa là miêu tả một cách thành công hiện thực, thì đứng ở
góc độ văn chương giá trị cũng không là bao” (tr.107). PQT lưu ý với bạn đọc
“nguyên lý về vai trò quyết định của chủ thể sáng tạo ngày càng được thừa nhận
như là vấn đề cốt lõi của đặc trưng văn chương” (tr.17), rằng nhà văn phải có
“tư tưởng riêng” (tr.93), phải “đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người”
(tr.28). Tóm lại, PQT muốn “ thử nhìn nhận mối quan hệ giữa văn chương và hiện
thực từ một góc độ khác xem sao. Thực chất cách nhìn này là ở chỗ vai trò
tích cực của chủ thể sáng tạo chủ yếu không ở sự phản ánh mà ở sự biểu hiện,
nghĩa là ở cái nhìn, ở quan niệm, ở sức soi sáng, ở tính đề xuất của nhà văn
trước thực tế đời sống” (tr.105).
Có thể nghi nhận ở đây một nỗ
lực tìm tòi lý luận, một “hệ thống lý luận” giống như “cổ thi thiên ái thiên
nhiên mỹ” (thơ xưa nghiêng về yêu thích cảnh thiên nhiên đẹp). Tuy nhiên, vấn đề
là ở chỗ trong một “hệ thống lý luận” không thể tồn tại những “cấu tử” mâu thuẫn
đối kháng. Đã khẳng định một tác phẩm lớn tất phải giàu có trong sự khám phá hiện
thực, thì không thể nói: một tác phẩm bộc lộ được bản chất của hiện thực, xét về
văn chương, không có giá trị là bao (!).
Vai trò tích cực của chủ thể
sáng tạo thể hiện ở chỗ người nghệ sĩ có tư tưởng riêng, có lý tưởng cao cả
nghĩa là người nghệ sĩ này đã nhận thức sâu sắc hiện thực, thấy rõ những yêu cầu
bức thiết và lâu dài của cuộc sống xã hội – tất cả những cái đó được người nghệ
sĩ suy ngẫm chọn lọc, đưa vào tác phẩm, làm cho tác phẩm “gây chấn động lớn”
trong tâm hồn người đọc, trong dư luận xã hội.
Hơn nữa, khi nói tới chủ thể,
thì không nên chỉ thấy chủ thể sáng tạo – tức là nghệ sĩ, mà còn phải chú ý đến
chủ thể đối tượng – tức những hình tượng văn học, chủ thể tiếp nhận – tức độc
giả. Vả lại, chủ thể luận phải được thống nhất với phản ánh luận. Không có sự
thống nhất đó ở nhà lý luận văn học, thì anh ta sẽ khó đánh giá điều này: thực
tiễn – tức toàn bộ hoạt động vật chất có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm
thay đổi thế giới xung quanh theo lý tưởng của mình khi nương theo những qui luật
vận động khách quan của nó – vừa là xuất phát điểm, là cơ sở, vừa là động lực của
nhận thức, vừa là tiêu chuẩn của chân lý. Nhận thức đặc thù của người nghệ sĩ để
tác động vào cuộc sống – xã hội bằng tác phẩm văn chương – cũng không xa lạ với
điều này. Chính với ý nghĩa đó, trong thư gửi F.Lassalle ngày 18-5-1859, Engels
viết: “Sự thống nhất hoàn toàn giữa bề sâu về mặt tư tưởng, về nội dung lịch sử
đã được nhận thức – mà anh đã gán rất đúng cho ngành kịch Đức – với tính sinh động
và sự hữu hiệu kiểu Shakespeare, thì chắc hẳn sau này mới đạt tới được và có thể
là không phải do người Đức. Dù sao, tôi vẫn thấy tương lai của ngành kịch chính
là ở trong sự thống nhất đó”.
Những lời trên của Engels
cho thấy luận điểm “Sự kết hợp giữa tính hiện thực và tính lý tưởng” tồn tại
trong lý luận, phê bình văn học ở Việt Nam trong những năm 1970 và những năm
1980, là một sự bắt chước... không mấy sáng tạo.
Những lời như vậy của Engels
cho thấy quan niệm tác phẩm lớn là tác phẩm giàu có trong sự khám phá hiện thực,
mang tầm tư tưởng cao và có sức chấn động lớn – là quan niệm đúng, nhưng chưa đủ.
Ở đây phải thêm: tác phẩm lớn là tác phẩm còn cống hiến cho văn học một mô hình
nghệ thuật đầy sức mạnh, độc đáo.
Phản ánh hiện thực là thuộc
tính của văn chương, của nghệ thuật, so với các hình thái ý thức xã hội khác,
là ở chỗ: 1. Đối tượng trung tâm của văn chương, nghệ thuật là con
người; 2. Cách tiếp cận của văn chương, nghệ thuật đối với
cuộc sống con người là cách tiếp cận mang hình thức cảm tính – cụ thể và
phụ thuộc vào chất liệu xây dựng tác phẩm văn chương, nghệ thuật;
3. Văn chương nghệ thuật là thế giới người, trong đó chân,
thiện, mỹ khắc phục cái giả, cái ác, cái xấu một cách thắng lợi sớm hơn so
với trong cuộc sống xã hội.
Vì thế, nói “ lưu giữa tình
cảm, tạo ra sự cảm thông là chức năng đặc thù của nghệ thuật” chỉ đúng ở
phương diện nhấn mạnh cái tâm của nghệ sĩ và của công chúng tiếp nhận nghệ thuật.
Xét riêng về đặc trưng thẩm
mỹ của một hiện tượng nghệ thuật, có thể nói tới ba bình diện (cũng là ba cấp độ):
a) đặc trưng của hình tượng cảm tính mà nghệ sĩ trình bày cho công chúng;
b) đặc trưng cảm nhận khi tác phẩm truyền cho công chúng sức sống, niềm xúc động;
c) đặc trưng của cõi vĩnh hằng mà nghệ thuật vươn tới để con người tìm thấy sự tự khẳng định của chính mình (1).
a) đặc trưng của hình tượng cảm tính mà nghệ sĩ trình bày cho công chúng;
b) đặc trưng cảm nhận khi tác phẩm truyền cho công chúng sức sống, niềm xúc động;
c) đặc trưng của cõi vĩnh hằng mà nghệ thuật vươn tới để con người tìm thấy sự tự khẳng định của chính mình (1).
2. Đối thoại với tác giả bài
“Về công tác lý luận, phê bình” (Văn nghệ số 13, 1/4/1995), Phạm Quang
Trung không đồng tình với ý kiến: “Cả nền văn học trung đại nước ta, thành tựu
thơ văn rạng rỡ là thế, nhưng về lý luận, phê bình thì quả là ông cha ta không
sành lắm”. Phạm Quang Trung cho rằng tác giả này “khẳng định có phần ngược lại
với chính mình” trong quyển “Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam” được xuất bản
năm 1985 và “với nhiều người khác”, như các giáo sư Nguyễn Khánh Toàn, Lê Đình
Kỵ... Phạm Quang Trung quả quyết một cách có lý: “Theo lẽ thường, sáng tác ắt sẽ
sinh ra quan niệm, dầu là tập trung hay phân tán, trực tiếp hay gián tiếp, tự
giác hay không tự giác” (tr.98). Sự quả quyết này tìm thấy chỗ dựa nơi “Từ
trong di sản...” (Nxb Tác phẩm mới, H.,1980), trong Tập I “Người xưa bàn về văn
chương” của ông Đỗ Văn Hỷ, ở chính công trình của Phạm Quang Trung “Học giả và
thi nhân” (Nxb Văn hoá – Thông tin, H., 1994) và trong bài báo cũng
của Phạm Quang Trung “Người xưa với mục đích của việc bình thơ”.
Cần tiếp tục đầu tư trí và lực
cho việc vạch rõ cái nhìn trong lý luận, phê bình của văn học trung đại Việt
Nam có nguồn gốc nội sinh và cái nhìn của nó liên hệ với nguồn gốc ngoại sinh.
Đây là một vấn đề phức tạp, không dễ dàng phân định rạch ròi. Chẳng hạn, trong
“Thư kinh” có câu “thi ngôn chí” (thơ nói chí); “tại tâm vi chí, phát ngôn vi
thi” (ở trong lòng là chí, phát ngôn ra thành lời là thơ). Nguyễn Bỉnh Khiêm
cũng nói tương tự. Rồi, Chu Đôn Di bảo: “Văn dĩ tải đạo dã” (Văn là để chở đạo);
Nguyễn Đình Chiểu dõng dạc: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm...” Các nhà
nghiên cứu phải làm sáng tỏ: đâu là vận dụng sáng tạo lý luận, phê bình văn học
của nước láng giềng vào văn học nước nhà; đâu là sản phẩm lý luận, phê bình văn
học do người Việt Nam sáng tạo ra.
Phải chăng Phạm Quang Trung
đã bước đầu cố gắng đi theo hướng nghiên cứu như vậy, khi anh viết những lời
sau đây về bình thơ của Việt Nam thời trung đại: “Việc chú trọng tới cá tính của
thi nhân trong bình thơ của các nhà nho nước ta thật sự đáng được chú ý nếu có
dịp đối chiếu chẳng hạn với lịch sử phê bình Trung Hoa thời phong kiến. Theo
Lixêvits thì nhìn chung, những lời phẩm bình văn chương ở Trung Hoa xưa kia
mang tính chất đưa đẩy... nhằm phục vụ mục đích chung là bàn qua về văn”. Tới
nhà phê bình Chung Vinh “cá tính sáng tạo mới được ở vào trung tâm chú ý của
tác giả và sự miêu tả cá tính mới đươc rộng mở và gồm nhiều bình diện”. Cũng
theo Lixêvits, “Thi phẩm” (của Chung Vinh) là một trường hợp hiếm hoi “không điển
hình cho tư tưởng văn học Trung Quốc” (tr.71)?
Phạm Quang Trung không đồng
ý với tác giả bài “Về công tác lý luận, phê bình” dùng sự yếu kém, nếu quả tình
hình có như vậy chăng nữa, trong lý luận, phê bình văn học thời trung đại, để
giải thích một chiều sự yếu kém của lĩnh vực này trong văn học hiện nay của Việt
Nam. Phạm Quang Trung cho rằng: “Chớ nên đổ tất cả lỗi lên đầu thế hệ đi trước”
và lý sự: “Sự thành đạt của một Đặng Thái Sơn đâu phải trên cây đàn dân tộc!”
Phạm Quang Trung khăng định: “Tôi tin vào nhiệt huyết và trí tuệ người Việt Nam
trong thời mở cửa trên mọi lĩnh vực, trong đó có lý luận, phê bình văn chương”
(tr.101).
3. Trong tập tiểu luận
của Phạm Quang Trung có bốn bài viết về Chế Lan Viên. Ở đây tôi chỉ xin nhấn mạnh
một điểm: Phạm Quang Trung phản đối sự đánh giá cao di cảo thơ Chế Lan Viên so
với thơ của ông được xuất bản trước đó, để rồi đối lập một cách giả tạo Chế Lan
Viên – nhà thơ – công dân với nhà thơ của di cảo thơ. Nghĩa là Phạm Quang Trung
thừa nhận: “Không thấy làm lạ nếu bộ phận di cảo được công bố sẽ giúp ta có dịp
hiểu thêm những phương diện khác trong con người nhà thơ” (tr.131); thế nhưng
Phạm Quang Trung không chấp nhận lối suy nghĩ: “So sánh những tác phẩm công bố
sau khi Chế Lan Viên mất và những gì được in khi nhà thơ còn sống, tôi chợt nhận
ra: diện mạo thơ, chân dung thơ Chế Lan Viên trước đây sắc sảo đến mấy, thần sắc
đến mấy cũng chỉ mới ở trên một mặt phẳng, còn thơ chưa in và in sau khi nhà
thơ từ trần đã tạo nên một diện mạo có chiều kích khác. Đó là phù điêu. Đó là
tượng tròn. Đó là tượng đài”. Phạm Quang Trung nhận định: “... Như các tài năng
thi ca khác, người công dân - Chế Lan Viên đi vào trong thơ đã thật sự tạo nên
bản sắc riêng cho mình. Đó là tiếng thơ nghiêng về triết lý, sâu xa và đặc sắc.
Thậm chí, các nhà phê bình còn nói tới hẳn một dòng thơ riêng mang tên Chế Lan
Viên lừng lừng chảy trong nền thi ca hiện đại ở cuối thế kỉ XX này”. “Sự hoài
nghi bản sắc độc đáo của cảm hứng cộng đồng, cảm hứng xã hội trong thơ là thiếu
cơ sở”. Phạm Quang Trung kết luận: “Có một Chế Lan Viên khác mà
không lạ hiện lên trong Di cảo. Song chủ yếu vẫn là một Chế
Lan Viên quen thuộc mà ta đã bắt gặp trong suốt nửa thế kỉ qua”
(tr.33).
4. Trong tập tiểu luận của
Phạm Quang Trung hiện diện bốn bài bình văn của chính tác giả. Tôi tâm đắc nhất
bài “Cảm hứng về nguồn” bình bài thơ của Vũ Đình Liên “Ông đồ”. Phạm Quang
Trung nói đúng: “Có thể khẳng định cảm hứng hoài cổ chỉ là ở bề mặt, cảm hứng
về nguồn mới là bề sâu, thấm vào từng lời từng ý của bài thơ” (tr.161)
Xin
chân thành giới thiệu với bạn đọc tập tiểu luận của Phạm Quang Trung và mời bạn
đọc tìm hiểu kỹ hơn những vẫn đề mà trong bài này của tôi, tôi chỉ mới kịp nêu
lên cái tên của những vẫn đề ấy
(1) Nxb
Thanh niên, H., 1995.
(2) Xin xem
Trần Đình Sử: Nghĩ về đặc trưng thẩm mỹ của văn học cách mạng 1945 –
1975 (Tuần báo Văn nghệ số 42, 21/10/1995, tr.3).
Đà Lạt, 21- 01-1996
LÊ CHÍ DŨNG
(Tạp chí Văn, Số 53, ra tháng 3/1996)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét