Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

Văn chương ta, cái thiếu nhất giữa lúc này

Văn chương ta, cái thiếu nhất giữa lúc này
Thường nghe vang lên trong các hội nghị, hội thảo về văn chương ở ta vào thời gian gần đây nhận định quen thuộc sau: Còn thiếu, thiếu lắm những tác phẩm đỉnh cao, kết tinh tài năng, trí tuệ của dân tộc đang nhanh chóng chuyển mình trong thế kỷ mới, hòa nhập với thế giới hiện đại. Chắc chả mấy ai hòai nghi về tính xác thực của đánh giá tương tự.
Chỉ nhói lên một trăn trở: tại sao, tại sao vậy? Có phải các nhà văn thiếu vốn sống? Không hẳn. Nhiều cây bút sống hết mình, đam mê viết, ra sức tận dụng hết thảy những trải nghiệm sống động của đời mình. Chỉ tiếc là lắm khi họ còn tỏ ra vung vãi, phung phí quá nhiều chất liệu. Như con sâu ấy, thịt thì nhiều, mà sao xương cốt lại yếu ớt làm vậy.  Hay có thể do yếu tay nghề? Cũng không hẳn. Trong thời buổi giàu có thông tin như hiện nay, rất nhiều người, nhất là các cây bút trẻ, đọc nhiều, biết nhiều, và không ít người trong số họ thường xuyên có ý thức bứt phá, quyết thay đổi cách thức thể hiện, những mong tạo ra cách viết mới, thích ứng hơn với cuộc sống hôm nay. Đến giờ, thật đáng buồn khi phải thừa nhận là hiệu quả đổi mới về thi pháp chưa cao, thậm chí đây đó còn chưa rõ. Ngay những người hăm hở nhất đôi lúc cũng đã có dấu hiệu mệt mỏi, ít nhất là tỏ ra không mấy hài lòng với sự táo bạo vào một lúc nào đó, trên một chặng nào đó của chính mình…
         Còn có thể đưa ra nhiều cách lý giải khác nữa xoay quanh sức vóc, vốn liếng của nhà văn. Riêng tôi nghĩ cái thiếu nhất trong văn chương ta giữa lúc này có lẽ chính là tầm tư tưởng, sức suy nghĩ ẩn chứa trong tác phẩm. Ta thường đòi hỏi sự khám phá của tác phẩm, tính sáng tạo của người viết. Nhiều người tìm những phẩm chất quý giá này trong mối tương quan giữa văn chương với đời sống. Với họ, khám phá cao nhất là khám phá ở hiện thực; sáng tạo lớn nhất là sáng tạo ra những hình tượng về hiện thực. Tôi không phủ nhận hạt nhân hợp lý của quan niệm này trong một thời điểm nhất định và với một dạng văn chương nào đó. Như văn chương hiện thực, trong những năm tháng kháng chiến gian khó mà oanh liệt chống kẻ thù ngọai xâm khi ta phải coi trọng sức mạnh tuyên dương, tuyên truyền của nghệ thuật. Nhìn bao quát thì một quan niệm như vậy khó tránh khỏi hời hợt và phiến diện. Cần thấy biểu hiện trước hết và trên hết của sức khám phá và sáng tạo trong nghệ thuật là trên phương diện  tư tưởng.
Có thể nhận ra điều đó qua bài học nghề nghiệp của các nhà văn bậc thầy. Chẳng hạn, Ts. Aitmatov. Ông là nhà văn Kiecghidia, thuộc vùng Trung Á. Rất nhiều tác phẩm của ông từ lâu đã trở nên quen thuộc với bạn đọc Việt Nam, như Chuyện núi đồi và thảo nguyên, Vĩnh biệt Gunxarưi, Con tàu trắng, Một ngày dài hơn thế kỷ, Đọan đầu đài…Một lần, ông có kể lại trường hợp viết truyện ngắn nổi tiếng Con chó khoang chạy ven bờ biển của mình. Trong văn nghiệp đồ sộ và thành đạt của mình, hầu như Ts. Aitmatov chỉ viết về một đề tài duy nhất: mảnh đất và con người quê hương ông. Truyện ngắn trên thì khác. Câu chuyện lại xảy ra với dân tộc Nipkh ở miền Đông bắc Xibiria. Thật là một ngọai lệ thú vị! Nguyên do là ông có một người bạn tên là Sanghi - nhà văn đầu tiên của dân tộc Nipkh. Dạo còn học với nhau ở Trường viết văn Gorki, nhà văn này có kể cho Ts. Aitmatov nghe một câu chuyện có thật xảy ra với chính anh ta lúc còn nhỏ. Lần ấy, anh đi săn  hải cầu với ba người lớn khác. Bất hạnh lớn đã xảy ra. Họ bị lạc trong sương mù dày đặc. La bàn mang theo lại bị mất. Hơn hai ngày lênh đênh trên biển, và gần như họ mất hết hy vọng thóat nạn. Người ông của anh bảo mọi người ngưng chèo. Đúng lúc ấy có một con chim lớn bay ngang qua, và những người trên thuyền dõi theo hướng bay của nó. Thế rồi họ quyết định dồn hết sức lực còn lại chèo thuyền theo hướng đó. Chẳng bao lâu sau, đất liền hiện ra. Mọi người ôm lấy nhau khóc vì sung sướng.
Câu chuyện có thật xảy ra chỉ có vậy. Bình thường, quá bình thường, không có gì thật đáng nhớ cả. Như bao câu chuyện ly kỳ khác ta từng được nghe kể trong đời. Tuy nhiên, Ts. Aitmatov đã sử dụng câu chuyện mà ông cho là “tình cờ” không có gì quá đặc sắc ấy để viết nên một truyện ngắn được nhiều người xem là kiệt tác của ông khi thêm vào chỉ một chi tiết (chi tiết đinh – như các nhà nghiên cứu văn chương thường nói). Trong truyện của mình, nhà văn để cho con chim chỉ bay ngang qua sau khi xảy ra một bi kịch: người ông, người bác, và sau cùng là người cha đã lần lượt nhảy xuống biển để dành chút nước ngọt cuối cùng cho cậu bé. Nếu cuộc sống cần tiếp tục thì cậu bé phải là người sống sót. Giải thích về cách xử lý này, Ts. Aitmatov nói: “Tôi không viết một chuyện mạo hiểm. Tôi muốn mời người đọc suy nghĩ về những quy luật đạo đức của lòng nhân ái, về lương tâm, bổn phận, tóm lại về tất cả những gì làm cho con người có tính người”.
Thế là đã rõ, nhà văn không kể về đời sống, mà qua những câu chuyện của đời sống để nói về và với con người. Đích sau cùng của mọi thứ văn chương chân chính khác nhau trên đời là làm sao để con người ngày một giàu chất người hơn. Có thể giải thích quy luật đạo đức mà Ts. Aitmatov mong muốn gửi gắm tới bạn đọc trong truyện ngắn trên như sau: Ta thường nói các bậc tiền bối sống trong lòng các thế hệ kế theo. Tuy không nên chỉ hiểu vấn đề giản đơn trên phương diện dòng giống. Thế hệ đi trước chỉ thực sự sống trong tâm trí của các thế hệ đi sau khi họ biết hy sinh cuộc sống quý giá của chính mình cho thế hệ kế tiếp. Một bài học nhân sinh lớn lao, quảng đại mà thật sâu sắc! Tôi nghĩ, đó chính là chiếc chìa khóa thần kỳ làm nên sự bất tử của mọi tác phẩm văn chương lớn xưa nay. Nói như Ts. Aitmatov: “Như thế, chuyện của tôi được xây dựng trên những con người và những biến cố có thực. Nhưng văn học phải vượt qua cái thực của sự kiện ấy” (Xin xem Nhà văn bàn về nghề văn, Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng, 1983).
Lẽ nào bài học giàu ý nghĩa nghề nghiệp ấy đã lỗi thời trong thời đại chúng ta? Và đối với nhà văn nước ta? Nếu không phải thế thì căn bệnh suy tư tưởng vẫn còn bắt những vầng trán của những người giàu tâm huyết với sự nghiệp văn chương nước nhà phải tiếp tục đau đáu nghĩ suy …
Cuộc sống càng hiện đại, văn chương càng cần thiết
Từ lâu, người ta đã bắt đầu đo lường sự sung túc của con người và xã hội không chỉ bằng GDP (tổng thu nhập quốc nội) và GNP (tổng sản phẩm quốc dân) mà còn bằng, và đặc biệt bằng BNB (tổng hạnh phúc quốc dân). Thật phù hợp với quy luật phát triển của con người và xã hội hiện đại!
Vậy để đạt được hạnh phúc, con người cần  phải thỏa mãn những nhu cầu nào? Như mọi người từ lâu đ thống nhất, đó là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Riêng vai trị của từng loại nhu cầu ấy trong việc tạo nên hạnh phúc chung của con người và x hội thì xem ra ý kiến cịn khc nhau. Đôi khi khác nhau quá xa.Vậy mà việc vươn tới một cuộc sống tịan diện, hi hịa lại gần như hịan tịan ty thuộc vo việc giải quyết mối quan hệ thiết cốt ấy. Về phần mình, tôi luôn đề caoThuyết Kim tự tháp các nhu cầu do nhà tâm lý học theo chủ nghĩa hành vi Abraham Maslow đề xướng từ năm 1943. Đáy Kim tự tháp của ông là những nhu cầu thiết yếu của đời sống con người như ăn, uống và các tiện nghi vật chất khác. Tầng trên là nhu cầu được an toàn và được bảo vệ. Sau đó là các nhu cầu được yêu thương và tùy thuộc, nhất là nhu cầu được gia đình, tập thể và cộng sự, đồng nghiệp chấp nhận. Trên nữa là nhu cầu biết ơn, nhu cầu tự trọng và được người khác tôn trọng. Cao nhất, trên đỉnh tháp, là điều mà ông gọi là nhu cầu hoàn thiện cá nhân, nghĩa là nhu cầu đem lại hạnh phúc cho con người sau khi đã phát huy hết năng lực tiềm ẩn của bản thân.
Abraham Maslow còn khẳng định, nhu cầu hoàn thiện cá nhân là động lực cao nhất của con người khi đã thỏa mãn các nhu cầu bậc thấp hơn. Như vậy, vật chất rõ ràng là rất quan trọng, nhằm thỏa mãn các điều kiện thiết yếu cho cuộc sống. Nhưng vật chất chỉ là cơ sở ban đầu giúp xã hội vươn tới những nhu cầu tinh thần ở bậc cao hơn, giàu chất người hơn. Đáng lưu ý là các cuộc điều tra xã hội học đã xác nhận tính thuyết phục của Thuyết Kim tự tháp các nhu cầu của Abraham Maslow. Trong thực tế, những người có thu nhập thấp sẽ trở nên hạnh phúc rõ rệt khi có thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, khi đã vượt qua mức thu nhập nào đó (chừng 10.000 đôla Mỹ mỗi người trong một năm), thì những khoản thu nhập bổ sung chỉ làm tăng rất ít hạnh phúc của con người và xã hội.
Rõ ràng, theo thuyết này của Abraham Maslow, thì cuộc sống càng hiện đại, văn chương càng cần thiết trong việc thỏa mãn những nhu cầu ngày một cao của con người. Các nhà văn chúng ta hoàn toàn có đủ lý do để hiến thân cho sự nghiệp sáng tạo cao quý vì nhu cầu tinh thần vô hạn của con người và xã hội hiện đại.
Phạm Quang Trung
Theo http://www.pqtrung.com/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...