Vai trò của tình cảm trong
văn chương
Người ta đã nói nhiều và sẽ
còn nói nữa, nói mãi về vai trò của văn chương đối với con người và cuộc sống.
Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:
Trái đất rộng thêm ra một phần
bởi các trang thơ
Vì diện tích tâm hồn các nhà
thi si
(Sổ tay thơ)
Văn chương quả là món ăn
tinh thần thiết yếu, thường xuyên của con người trong xã hội. Thưởng thức văn
chương là hoạt động hàng ngày của hàng triệu, hàng triệu con người thuộc
các lứa tuổi, các dân tộc, các tầng lớp khác nhau trên hành tinh chúng ta. Có thể
kể ra muôn vàn minh chứng cho điều này. Chẳng hạn ảnh hưởng của Đíchken đối với
dân tộc Anh cuối thế kỉ XIX. “Trong khi ấy- Xtephan Vaixơ kể lại - họ (những
người sùng bái Đíchken) không thể bắt mình chờ ở nhà trong ngày bưu phẩm
tới, cho đến khi lại có cuốn sách nhỏ màu xanh, mới xuất bản. Suốt cả tháng họ
thèm thuồng ước mơ về cuốn sách đó, kiên trì, hi vọng, tranh cãi...Và thế là cuối
cùng đành chờ đợi người đưa thư đi xe ngựa tới và sẽ giải tất cả những
câu đố thú vị ấy. Năm này qua năm khác trong cái ngày long trọng đó những người
già và người trẻ đi bộ hàng dặm để đón người đưa thư chỉ cốt nhận được cuốn
sách sớm hơn. Ngay trên đường về họ bắt đầu đọc, liếc nhìn nhau qua vai, họ đọc
to lên, và chỉ có những người tử tế nhất mới chạy ba chân bốn cẳng về nhà
để chia sẻ với vợ con những điều mình vừa tìm được... Khi Đíchken quyết định
phát biểu công khai với tư cách là người đọc và lần đầu tiên mặt đối mặt với độc
giả của mình, nước Anh tựa như say rượu. Các phòng đều bị đột kích chật ních;
những người hâm mộ thú vị leo trèo lên các cột, chui cả dưới bục của sân khấu cốt
chỉ được nghe nhà văn yêu mến” (1). Đây là chuyện xảy ra với người lớn, Còn đối với trẻ em? Nhà
văn Liên xô trước đây Coocnây Trucôpxki có kể một câu chuyện thật xảy ra với
ông ở Alupca vào năm 1929: “Bọn trẻ đang mệt nhoài vì nóng bức. Chúng la hét
inh ỏi. Một bà phụ nữ vụng về cứ quang quác mắng chúng, nhưng chẳng làm sao
chúng im tiếng cho. Tôi vừa ở xa đến. Muốn các em vui lên, tôi bèn đem truyện
“Muynhaoden” ra đọc cho các em nghe. Chỉ sau hai phút đồng hồ bọn trẻ kêu lên
vì sung sướng. Nghe tiếng reo mừng rỡ của chúng, lần đầu tiên tôi thật sự hiểu
rằng cuốn truyện vui này đối với các em chín tuổi là món quà ngon miệng như thế
nào và cuộc sống của trẻ thơ sẽ mờ đục biết bao nếu như không có cuốn sách nói
trên. Với lòng biết ơn vô cùng trìu mến đối với tác giả cuốn sách, giữa tiếng
cười vang của bọn trẻ, tôi đọc cho chúng nghe nào là cái rìu bay vút lên
cung trăng, nào là những cuộc phiêu lưu lên chín tầng mây, nào là chân ngựa cắt
rời ra mà người ta chăn nuôi trên cung trăng. Và khi tôi ngừng đọc một phút bọn
trẻ lại nhao nhao “đọc tiếp đi, chú!” (2).
Có thể xem đó là những dẫn
chứng tiêu biểu xác nhận vị trí của văn chương trong đời sống con người. Chính
tính truyền cảm, và gắn bó với nó là tính hình tượng làm nên ưu thế đặc biệt của
văn chương nhất là khi nhân loại đang bị đe doạ bởi xu hướng kĩ trị như hiện
nay.
Trong kho tàng ca dao Việt
Nam có nhiều viên ngọc lung linh ánh sáng . Một trong những viên ngọc ấy là bài
ca dao bình dị viết về bông sen bình dị:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng, lại
chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá
xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh
mùi bùn
Câu đầu là một lời khẳng định
dứt khoát, không một chút đắn đo: “Trong đầm gì gì đẹp bằng sen”. Người đời
vốn thông minh và khó tính lắm, không dễ tìm được sự thừa nhận rộng rãi nếu
không có sức thuyết phục. Bằng lí lẽ sắc bén và thực tế hùng hồn, cố nhiên. Và
dân gian đã đưa ra những bằng cớ. Trước hết là bằng cớ bên ngoài. Này nhé:
Lá xanh, bông trắng, lại
chen nhị vàng
Có màu sắc,lại có cả hương
thơm. Riêng màu sắc mới hài hòa làm sao! Chúng nằm cạnh nhau, tôn nhau lên để
cho mọi yếu tố đều có sức cuốn hút đến ngỡ ngàng!Đủ chưa? Vẫn chưa đủ! Nếu câu
thứ hai đi từ ngoài vào trong, từ “lá xanh”, “bông trắng”, tới “nhị vàng”
thì câu thơ thứ ba lại đi từ trong ra ngoài:
Nhị vàng, bông trắng, lá
xanh
Ôi, kĩ càng và thận trọng
làm sao! Khó tính đến thế làm sao những người khó tính ở đời không tin cho được.
Khi vẻ đẹp hình thức đã hoàn toàn thuyết phục thì vẻ đẹp phẩm chất đột nhiên
phát lộ ra bên ngoài ngời ngợi:
Gần bùn mà chẳng hôi tanh
mùi bùn
Bông sen đẹp cả sắc hương lẫn
sự tinh khiết, cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong. Đó chính là vẻ đẹp
bình dị của người nông dân chân lấm tay bùn đã làm nên bao giá trị trên đời
trong đó có cả những câu ca dao sáng ngời kia đó. Chỉ cần đọc một lần
trong đời những tác phẩm như vậy ta rung động và nhớ mãi. Nói về sức sống bất
diệt của những tác phẩm văn chương đã chinh phục trái tim và khối óc của hàng
triệu người đọc, thi hào Anh Bairơn đã viết: “Lạ lùng thay!Vài câu nói không to
lên thành tiếng mà viết ra lại có thể trở thành một mắt xích bền lâu trong chuỗi
dài năm tháng. Thời gian sẽ thu nhỏ con người mảnh khảnh lại trong một phân tấc
mỏng manh, ấy vậy mà một mẩu giấy con, một tí xíu thôi, như mẩu giấy này chẳng
hạn, lại sống dai hơn con người, lâu hơn cả nấm mồ con người, lâu hơn bất cứ
cái gì thuộc về con người”.
Những tác phẩm lớn như thế
góp phần làm cho con người phát triển toàn diện mà trước hết là có sự hài hòa
giữa lí trí và tình cảm, nhận thức và cảm xúc.Không phải vô cớ câu nói của văn
hào Đôxtôiepxki “Cái đẹp cứu rỗi thế giới” đặc biệt vang lên trong thời đại
chúng ta, khi nhân loại đang bước vào ngưỡng cửa của thiên niên kỉ mới. Quả thật,
khi con người không biết rung động trước cái đẹp yếu ớt, cái đẹp
mong manh liệu thế giới của chúng ta rồi sẽ ra sao đây! Có lần, tại diễn
đàn hội nghị chuyên đề về thơ Á - Phi tổ chức tại Êrêvan (Liên xô trước đây)
vào năm 1973, nhà thơ Chế Lan Viên đã vẽ lên một thế giới không có thi ca: “Các
bạn hãy tưởng tượng một thế giới không có lộc non cây xanh; tiếng cười của trẻ
con và của suối, không có tiếng hót của loài chim và mùi hương của các loài
hoa, ở xứ sở ấy, những dãy núi khi người ta cất lên lời không có tiếng vang đáp
lại...Không, không ai vì thế mà chết cả, trong xứ sở ấy. Người ta vẫn tiếp tục
sống - đúng hơn - tiếp tục tồn tại như thường. Chỉ có điều trong xứ sở ấy, những
đôi trai gái chẳng hôn nhau mà cũng chẳng hôn hoa. Và không bao giờ người ta nhỏ
lệ trước máu đổ ra của đồng loại. Người di chuyển như đồ vật. Và con số,
và tín hiệu và mật mã là tất cả ngôn ngữ ở xứ ấy.”
Trái tim sắt đá, trí tuệ lạnh
lùng đó chính là tai họa khủng khiếp cho nhân loại. Tình cảm, trong đó có tình
cảm thẩm mĩ, tình cảm văn chương có ý nghĩa vô cùng đặc biệt và lâu dài. V.L.
Lênin từng khẳng định: “Đã, đang và sẽ không bao giờ có thể có sự tìm tòi
chân lí của nhân loại nếu không có cảm xúc của con người" (3) I.M
Xêtrênốp cũng chỉ rõ sức mạnh của cảm xúc khi cho rằng: “Chúng ta không hề
biết một thứ ý chí lạnh lùng bất định nào” (4). Ở một góc độ khác có thể nhấn mạnh đến tính tích cực xã
hội của tình cảm. Động lực của cảm xúc trong việc thúc đẩy hành động được biểu
hiện sinh động và đầy sức thuyết phục qua ý tưởng của bài thơ” Con hỏi cha” của
Chế Lan Viên. Bài thơ được cấu tứ bằng hệ thống những câu hỏi hồn nhiên của
đứa con với người cha theo sự tăng tiến của mức độ vấn đề và cường độ cảm
xúc.
Con hỏi cha: “Bom có giết chết
mèo”.
Mèo, chó...những con vật vốn
thân thuộc với cuộc sống hàng ngày của trẻ thơ nên lòng người cha sao có thể dửng
dưng! Tuy trái tim người cha mới khẽ rung lên. Người cha còn đủ điềm tĩnh để nhắc
nhở đứa con:
"Có!" Khi xuống
hầm con hãy nhớ mang theo
Câu thứ hai của người con:
Bom có giết thỏ cao su
và ngựa gỗ?
Mèo chó đã gần gũi với con
trẻ nhưng đồ chơi, những thỏ cao su và ngựa gỗ gần gũi với con trẻ hơn. Phản ứng
tình cảm của người cha ra sao? Im lặng. Một sự im lặng chất chứa yêu thương và
căm thù. Người cha không trả lời. Nhà thơ buông ra một lời cảm thán:
Ôi đồ chơi trẻ bao lần hoen
máu đỏ!
Đó là câu hỏi thứ hai. Câu hỏi
thứ ba là gì đây?
Con lại hỏi cha: "Bom
có giết mẹ không?"
Hiển nhiên là câu hỏi ở tầm
mức mới, cao hơn hẳn hai câu hỏi đầu tiên, vì có đứa trẻ nào trong đời lại
không thương mẹ - người đã dứt ruột đẻ ra mình, ấp iu, chăm sóc mình ngay từ tấm
bé. Và hẳn nhiên sự bộc lộ cảm xúc ở người cha cũng phải ở một cường độ mới:
"Không" và cha ôm
con nước mắt lưng tròng
Không thể im lặng thêm một lần
nữa (người con sao chịu nổi!) nhưng câu trả lời lại không đúng sự thật. Không,
bom không thể giết mẹ - người trần mắt thịt - đâu! Sao đứa con có thể chấp nhận,
vì lẽ đứa con sẽ không chịu nổi. Ôi, trái tim trẻ thơ, non dại dường kia! Tuy,
hành động sau đó của người cha lại nói một điều ngược lại. Không, bằng cảm
tính, đứa con sẽ cảm được, đúng hơn là sẽ cảm hiểu được cái điều mà người cha
đang bị nỗi đau giằng xé kia hành hạ - người cha ấy không thể nói ra bằng lời.
Đứa con chắc không chịu nổi! Từ đây, nhà thơ chủ động đẩy đến đỉnh điểm:
Con lại hỏi: Bom có thể giết
con không đấy?
Câu hỏi như kéo dài ra, nhức
nhối, thật đột ngột mà cũng rất hợp qui luật. Câu kết như là sự phát triển tự
nhiên của mạch thơ:
Đừng có hỏi, con ơi đừng
có hỏi
Để ngày mai cha ra trận cho
con
Câu thơ đóng lại, nhưng suy
tưởng của người đọc được mở ra. Rồi chân lí giản đơn hiện lên rõ mồn một: Phải
có tình cảm, tình cảm ở mức cao, mức sâu, con người mới có thể hành động để cải
tạo thế giới này.
(1)Tiểu thuyết Việt Nam hiện
đại (Phan Cự Đệ) Nxb Đại học và THCN, H., 1975 tr 103.
(2) Văn học và trẻ em, Nxb
Kim Đồng, H., 1982, tr 56.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét