Nhân một lần tới đỉnh mẫu
sơn, Chu Sơn đã “gặt hái” được hai “bông hoa thơ” về Tuyết và Hoa Layơn…Vẫn là
cái cảm hứng về sự cô đơn, sự lãng quên, song, Tuyết… mới chỉ là sự gợi mở,
gợi hứng, còn Hoa Layơn… lại như một sự tổng kết, sự suy ngẫm của anh
về nhân tình thế thái…
Là người chuyên nghiên cứu
thẩm bình thơ đến độ chìm đắm trong thơ, khi viết Hoa Layơn… chắc hẳn Chu
Sơn phải nghĩ ngay đến những nhà thơ lãng mạn Pháp thế kỷ 19 thường lấy hoa làm
thi liệu, thi hứng, thi cảm… Nhưng cũng thật may, thói quen luận lý, khái quát
của một nhà phê bình lý luận văn chương trong anh đã biến hẳn đi trước những
bông Layơn mỏng manh yếu ớt, để mình anh trơ trọi với xúc cảm thi sĩ… Mà đã là
thi sĩ đích thực, ai mà không thể không khóc cùng Apollinaire “Giã biệt” hoa: Anh
đã ngắt chùm hoa thạch thảo này/ Mùa thu đã chết, em nhớ cho/ Chúng ta sẽ chẳng
còn gặp nhau trên mặt đất/ Hương thời gian ở chùm hoa thạch thảo/ Và em hãy nhớ:
anh vẫn chờ đợi em (L’ Adieu). Xin nhớ lại cuốn tiểu thuyết kiệt tác Vỡ
mộng của H. Balzac, giai đoạn trong sáng đẹp đẽ nhất của nhân vật chính đã
có một tập bản thảo thơ đầu tay mang tên hoa: “Những bông cúc”…Và những “bông
cúc tâm hồn” của chàng thanh niên thi sĩ Lucien tội nghiệp đã bị những quy luật
của đồng tiền giết dần giết mòn đến thê thảm!
Đến Mẫu Sơn, thi sĩ đã “bất
ngờ” chứng kiến cảnh hoa layơn - tuy chưa bị ngắt, bị giết - nhưng nếu như vậy
còn đỡ đau lòng hơn cảnh: những cành Layơn/ cong queo/ gầy rớt/ ngập đời
giữa đám cỏ hoang/ từng bông lơ ngơ/ từng bông nhàu ướt/ từng bông tái nhợt/ cố
nhoi lên/ cố kiễng lên/ nhìn mây cuốn về xa.
Thi sĩ buộc phải tự hỏi
trong nỗi niềm se sắt, có đượm oán giận, trách móc: Ai đã đem em tới Mẫu
Sơn… Bởi anh mặc nhiên coi hoa tựa một sinh mệnh đáng yêu, mỏng manh, yếu
đuối, thơ ngây, mang trong mình biểu tượng của Tình yêu, sự hài hoà nguyên sơ
thánh thiện nhưng lại có rất ít khả năng tự bảo vệ: Bàn tay xưa giờ nâng
niu chăm chút chốn nào/ ánh mắt xưa giờ say ngắm nơi đâu/ bỏ rơi hoa nơi lưng
trời/ chôn chân hoa nơi đất khách/ giữa thinh không mình em đơn độc/ mòn mỏi kiếp
hoa hoang vu…
Đồng thời thi sĩ cũng cảm thấy
rõ một sự thật cay đắng - đó là sự bất lực của chính mình trước phận người, phận
hoa trong cơn lũ thực dụng của thế giới “Tấn trò đời”: Biết chia sẻ làm
sao trước dáng hoa trầm cảm/ biết an ủi làm sao trước phận hoa
lưu đày/ khi giọt tuyết của mùa đông cũ/ vẫn thầm hoen nhụy phấn mỗi ngày.
Thế rồi, anh tần ngần,
băn khoăn, lặng lẽ với tâm lý đời thường nhưng cũng đầy nhân bản
và tinh tế của thi sĩ trước những bông hoa gầy yếu khiến nỗi
đau lòng xa xót như càng khía sâu thêm vào lòng người đọc: Muốn
nói với em lời vu vơ như gió/ e rằng hoa đã sương gió một đời/ muốn tỏ cùng hoa
lời nồng nàn của nắng/ e hoàng hôn phai trên cánh/ lại thôi// Muốn nán lại bên
hoa/mà ngại mình nông nổi/ muốn đem hoa đi/ mà đời mình rong ruổi/ lại thôi// Tần
ngần Layơn/ dùng dằng đỉnh núi/ còi xa cuồng lên réo gọi/ đành lòng/ phải đành
lòng/ thôi.
Việc ngắt câu thất thường
cũng góp phần diễn tả nỗi lòng ngổn ngang, đứt gãy, khó xử, để tới đoạn sau, lời
chào của thi sĩ chợt giống một tiếng thở dài, sau đó là một tiếng khóc cố nén lại
nhưng cuối cùng cũng phải vỡ ra thành những lời nghẹn ngào:Chào nhé/ chao ôi lời
chào nhé/ lời cỏ hoang/ lời đỉnh vắng/ lời mặn sương/ lời nhạt nắng/ lời nào
không cực lòng nhau.
Tĩnh tâm lại, chàng thi sĩ
đa cảm đã ngẫm nghĩ về cái cuộc đời vốn nặng trĩu Mẫu Sơn, Layơn, nhưng ở
đây lại có sức khái quát giàu khả năng liên tưởng và lay động: Sao từ khi/
một mình xuống núi/ trái núi nào/ cũng mộng mị Mẫu Sơn/ sắc hoa nào/ cũng tái
nhợt/ Layơn.
Và cũng chính nhờ sự khái
quát này mà thi sĩ đã vượt lên khỏi sự đa cảm thông thường của người đời, để lại
một lần nữa mặc nhiên bước vào “quỹ đạo” của những người lấy Cái Đẹp làm cứu
cánh, làm mục tiêu, làm phương tiện giúp con người hướng thiện - những người đã
lấy Hoa làm một trong những thứ quan trọng để “nhà thơ đặt niềm tin vào” - nói
như Rimbaud (Xác thịt, cẩm thạch, hoa, Vệ nữ, ta đặt niềm tin nơi các ngươi - Soleil
et Chaire).
Thái
Hà, 24/7-2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét