Cũng như người sáng tác, người
phê bình có cái nghiệp riêng, trời gông vào cổ, bắt cảm nghĩ cái điều
cần cảm nghĩ. Và nếu giữa đại ngàn thi ca muôn hình vạn dạng, tôi có đặt ra câu
hỏi “Vậy, rốt cuộc thơ đích thực là gì?” thì xin chớ ai nghĩ tôi mắc bệnh nghề
nghiệp, bao giờ và ở đâu tôi cũng muốn đi đến cùng cái “lý” của mọi sự. Cái phận
nó bắt vậy, đã chấp nhận, tôi không thể thoái thác. Với tư cách là một nhà thơ,
Hoàng Cát có quyền viết: Ta ấp ủ cho tháng ngày thắp lửa/ Như cây hồng, ủ
nhựa sống bật hoa.
Còn tôi, người viết phê
bình, tôi có cái quyền của riêng tôi, có sự “ấp ủ” của riêng tôi. Vì thế, đi
tìm bản chất địch thực của nghệ thuật chả phải là chuyện diệu vợi, vu khoát đối
với nhà phê bình.
Tôi nhắc đến câu thơ của
Hoàng Cát vào chính lúc này, khi tôi chợt nghĩ đến cái nghiệp của người cầm
bút, là có duyên của nó. Trong tay tôi từ lâu đã có một tập thơ của anh - tập “Ngôi
sao biếc”. Tôi đã đọc nó không phải một lần, thường vào lúc thảnh thơi, thanh vắng.
Lần đầu tôi thấy thích, những lần sau không chỉ thích mà còn quý, rất quý nữa. Ấy
là bởi, giữa thời buổi khá nhốn nháo, thật giả vàng thau lẫn lộn, các giá trị
ngàn đời của văn chương luôn bị cân đong đo đếm, thì thơ Hoàng Cát thật sự giúp
tôi ít nhiều sáng tỏ trong nhận thức để có thể bình tâm nhìn vũ trụ xoay vần.
Tôi muốn nói, đến với thơ anh là đến vói một trong những thứ thơ đích thực, gần
gũi với quan niệm lâu này của tôi về thơ. Lại được thể hiện bằng một giọng thơ
riêng, ít hòa trộn với người khác.
Xưa nay người ta đã bàn về
thơ nhiều rồi, chắc người ta còn bàn nữa, bàn mãi. Trong vô vàn quan niệm thơ,
tôi đặc biệt chia sẽ với ý kiến của Tố Hữu cho rằng: “Thơ là điệu hồn đi tìm những
hồn đồng điệu”. Nói như nhiều nhà lý luận: “Thơ là tiếng nói của con tim”. Tôi
dám chắc là Hoàng Cát chịu ảnh hưởng có thể nói là sâu đậm của quan niệm này.
Có lần, anh thẳng thắn viết: Là thi nhân, tôi chỉ có trái tim (Dâng tặng
Sài Gòn).
Một lần khác, chia xẻ với
con mình, anh nhắc lại: Câu thơ của ba chắt tự máu tim mình (Khát vọng).
Không lạ nếu biết thơ anh
chính là cái tình trải nghiệm nặng ưu tư, trắc trở và dằn vặt. “Hát một mình”
là bài thơ anh viết về bạn bè để tặng bạn bè. Tuy nhiên, do từ mình mà hiểu người,
nên trong bài thơ có một đoạn vận dụng rất đúng vào thơ anh: Chẳng còn nữa
những khúc vui hăm hở/ Hát vang trời, ré cổ, say sưa;/ Chỉ còn lại khúc trầm tư
ký ức/ Trào qua tim như sóng cuộn xô bờ.
Anh quả luôn sống với ký ức,
có buồn có vui, nhưng không bao giờ yên ả. “Với tôi, thơ là nỗi nhớ” Xuân Thiều
từng viết như vậy. Vấn đề là nhớ gì? Nhớ như thế nào? Và điều này làm nên sự
khác biệt giữa các nhà thơ. Hãy nghe Hoàng Cát bộc lộ nỗi thèm khát của
mình: Anh thèm cái đã mất/ Anh khát cái đã quên (Đừng đánh mất).
Vậy là rất giàu tâm sự rồi đấy!
Chẳng lạ nếu anh viết nhiều về ký ức tuổi thơ đến thế. Chỉ cần chạm khẽ vào “cái
thuở trong trẻo ngọc bích ấy” là lòng anh lại xốn xang trong nỗi ngẩn ngơ nuối
tiếc: Ai có được phép màu biến cải/ Đưa ta về trở lại tuổi thơ ta (Ôi,
tiếc lắm!).
Anh không ngần ngại giãi
bày: Chỉ còn kỷ niệm thời thơ bé/ Nuôi dưỡng hồn tôi như nắng
trong... (Nuôi dưỡng hồn tôi).
Xin đừng trách cứ anh. Mỗi
cây mỗi hoa, mỗi người mỗi cảnh. Riêng tôi, với tư cách là người đọc, tôi phải
cảm ơn những kỷ niệm tuổi thơ của anh đã kịp đọng lại, kịp sáng tỏ trong không
ít những vần thơ lung tlinh màu ngọc bích của ký ức. “Xin cho tôi” là một trong
những bài thơ hay như thế: Và tôi lại phập phồng trốn mẹ/ Ra gốc cây xoài
đợi gió những ban trưa/ Mắt hấp háy nhìn quả vàng chín mọng/ Cầu trời rung cho
xoài rụng bất ngờ...
Bảo tài thì đúng là tài thật,
nhưng ở đây quyết không phải là tài “nhả ngọc phun châu”. Đó là tài “sống” để
có thể truyền đạt “sự sống”, làm nên “sức sống” cho thơ. Có phải đó là bí quyết
của thơ anh? Để rồi anh có thể tự hào khi nhận ra: Ôi thoáng chốc mà đầu
tôi đã bạc/ Khi tim tôi hãy còn trẻ dại khờ!
Tôi chợt nghĩ đến ý nghĩ
tương tư của nhà văn quá cố Nguyễn Minh Châu, người có lẽ đã “ngộ” ra được cái
gì đích thực là văn chương, trong quan niệm cũng như trong sáng tác. Sinh thời,
anh từng khuyên các nhà văn hãy học sự hồn nhiên của con trẻ. Đó là bản tính
quý giá của người nghệ sĩ.
Sự hồn nhiên ta nói đây hẳn
là rất xa lạ với vẻ nông cạn hời hợt. Bởi thế, Hoàng Cát mới viết: Mới hay
– tóc bạc tình thếm nặng (Quê hương).
Rồi nữa: Nhao nhác cuộc
đời, không biến dạng trái tim (Nguyên vẹn).
Đã lộ ra sự phòng ngự, cả sự
chống trả nữa, không thể bào là không quyết liệt, cam go. Chính điều này góp phần
làm nên góc cạnh của thơ anh. Xin được dừng lại ở bài “Tôi yêu em”. Không ót những
câu thơ đẹp: Và tôi đã hôn em trong sương gió/ Em bình dị, mà âm thầm sức
lửa/ Tòa nồng say trong trái tim tôi.
Nhưng có lẽ bài thơ “sống”
được là nhờ những câu thơ khác mà nếu tách khỏi bài thơ chúng sẽ trờ nên vô
tình, vô duyên, thậm chí vô nghĩa nữa. Đó là những câu: - Tôi yêu em – Tôi
đã yêu em/ - Tôi yêu em – Em đừng hoài nghi.
Để rồi đoạn kết bật ra câu “Suốt
một đời – Em có hiểu tôi không?” kịp hóa giải tất cả. Tôi yêu em, mong em hiểu
cho lòng tôi. Đó là tình yêu vẹn nguyên rất khó bộc lộ. Biết bao cảnh ngộ, trắc
trở, hữu hình có, vô hình có, liệu em có hiểu cho chăng? Có gì đó tồi tội đáng
được cảm thông trong sự phân bua có phần bất lực của một người đang yêu khiến
người đọc không thể dễ quên cho được.
Đcọ bài “Hoa không héo” sẽ
thấy rõ hơn điều vừa nói. Bài thơ được mở đầu bằng những câu thơ “rằng hay thì
thật là hay” nhưng không hề gây bất ngờ cho ai cả: Có một loài hoa không
bao giờ héo/ Là hoa trong mắt của em nhìn/ Là hoa trên miệng em cười nở/ Là lửa
âm thầm cháy giữa tim.
Đoạn kết, trong cái vẻ âm thầm,
nhỏ nhẹ của ý thơ, lại gây nên sự xao động lớn: Cũng có khi buồn, lúc giận
nhau/ Nhanh thêm những sợi nắng trên đầu/ Nhưng sua giông bão trời xanh lại/
Như thể chưa từng xanh bấy lâu...
Cái thần tình ở đây là gì?
Chính là ở cái “chân”, cái “thật” đến độ khó có thể “chân, thật” hơn thế của
thơ Hoàng Cát. Thơ anh có thể nói trần trụi như chính lòng anh vậy. “Trái tim
tôi là một nấm mồ” – Đó là tên một bài thơ của anh. Mấy ai làm được như vậy?
Như anh từng viết về thương tật của mình trong bài “Tâm sự”: Trời ơi, chân
giả tháo ra/ Cò cò lết lết như là trẻ con/ Trót duyên thơ phú văn chương/ Đêm
ngày bò xổm trên giường với văn.
Dể thấy là anh đang “tự
trào”, nhưng cười đấy mà nước mắt trào ra ngay đấy. Thật xót xa, xót xa không
kém gì những vần thơ bộc lộ nỗi “khao khát” này: Được thả gót giày dịu nhẹ
bên em/ Không làm vỡ ánh trăng, không làm tan hương hoa sữa...
Anh là vậy, luôn đối mặt với
sự thật, kể cả những sự thật cay đắng, sự thật nhức nhối của những mất mát,
chia ly. Tôi tin ai đã từng đọc bài thơ “Ba nén hương” sẽ không thể cầm được
lòng mình bởi ấn tượng nghiệt ngã của nó: Ba nén hương, một mình tôi làm
giỗ/ Giỗ chính mình, giỗ mẹ, giỗ em tôi...
Tất cả đều là sự thật! Không
nảy sinh một chút hoài nghi! Từ cái riêng đến cái chung: Tôi không khóc, lệ
vẫn trào lặng lẽ.
Người ta có cơ sở để tin vào
những giọt nước mắt ấy của anh trong “Cảm xúc qua miền Trung”. Rồi cả cảm xúc của
anh trong bài: “Lau Quảng Trị” nữa: Tôi đã một mình khóc giữa đêm/ Khi
chân đặt xuống nước sông Hiền/ Chao ôi, Tổ quốc thành da thịt/ Da thịt bời bời
lau trắng im.
Dễ gì có được sự tin cậy ấy
nơi bạn đọc! Đó là sự đền bù xứng đáng cho mọi sự trăn trở, tìm tòi: Cái
gì ở cuối vô biên/ Cái gì đích thực ở tim con người?
Xin chúc anh thực hiện được
ý nguyện của đời thơ mình, vừa “giữ cho trái tim đừng nguội lạnh đam mê”,
vừa “dẫu khổ đau, anh vẫn được là mình”. Sự “đam mê” giữ được là khó, giữ cho
“được là mình” có lẽ còn khó hơn nhiều. Với tất cả những gì Hoàng Cát đã làm,
ta hoàn toàn có cơ sở để tin vào anh, vào chặng đường thơ kế theo của anh. Đà Lạt, 7/98
Tiếng thơ Thu Loan
Có người từng thống
kê: cứ một ngày thì ở ta có một tập thơ mới ra đời. Chẳng biết chính xác đến mức
nào nhưng cầm chắc là gần đây thơ in ra nhiều, nhiều hơn bất kỳ giai đoạn nào
trước đây. Đáng vui hay đáng buồn đây? Nhiều người hỏi tôi câu ấy. Tôi trả lời:
vừa đáng vui lại vừa đáng buồn. Vui vì mọi tiềm năng thi ca có điều kiện phát lộ.
Buồn vì các bài thơ làng nhàng “kém phẩm chất” được sinh ra ngày càng lấn át
thơ thật, thơ hay. Quả khó cho những ai muốn dấy nghiệp lên từ thơ. Trong thị
trường thơ ca hỗn tạp, được người đọc chú ý, rồi được lọt vào mắt xanh các nhà
phê bình đâu có dễ gì!
Thơ và người viết thơ thì nhiều, song thơ hay và thơ đích thực vẫn hiếm. Mà đã
là thơ hay thì bao giờ cũng cần, nhất là ở xứ sở thi ca đất Việt chúng
ta: Trong bụng mẹ đã từng mơ tiếng hát/ Nên quê tôi ai cũng biết làm
thơ (Nguyễn Bính). Chẳng cứ gì xứ ta, giải Nobel Văn chương năm 1996 chả
rơi vào tay một nữ sĩ Ba Lan là gì!
Tôi nói lai rai vậy vì trên tay tôi là một tập thơ khá nặng ký của một cây bút
vùng Cao nguyên gần đây viết nhiều truyện ngắn nhưng duyên nợ ban đầu của chị với
văn chương lại là thơ. Cảm giác lần đầu đọc thơ Thu Loan đọng lại trong tôi cho
đến giờ. Đó là bài Tuổi thơ với những câu nũng nịu mà ám ảnh đến dễ
sợ:
Tuổi
thơ là tuổi thơ ơi
Cái tay ngúng ngoắng cái cười vô tư
Nhất là câu:
Dùng
dằng túi kẹo viên bi
Cho
nhau thì lấy, đổii thì lại không
Thật lắm mà đã mấy ai nói lên được bằng một giọng điệu “dễ thương” đến vậy. Người
ta bảo cái giỏi của nghệ sĩ là ở khả năng nhập thân, hoá thân. Không là anh,
tôi cảm tôi nghĩ như anh, không là bây giờ, tôi cảm nghĩ như là bây giờ. Khó và
đáng khâm phục hơn là ở sự hồn nhiên này:
Thời
gian đi chẳng bao giờ trở lại
Chỉ trái tim muôn đời vụng dại
Xao xuyến hoài trước một tiếng ve kêu
(Đi tìm năm tháng tuổi thơ)
Trái tim nghệ sĩ là thế: luôn biết rung động trước những cái thoáng qua tưởng
không có gì đáng níu kéo, đáng lưu giữ. Để gửi gắm lòng ta, để nhắn nhủ lòng
người. Chế Lan Viên viết rằng: Chỉ khi nào uống ngụm nước giếng bên đường
anh thấy say, chừng ấy anh mới là thi sĩ (Say). Tất thảy tuỳ thuộc ở con mắt
ta mà suy cho cùng là ở tấm lòng ta. Phải giữ cho được sức thanh xuân của tâm hồn!
Nói thì dễ mà làm thì nào có dễ. Chẳng phải có người chưa đến ba mươi đã
thấy mình già lắm đó sao! Thi ca góp phần trẻ hoá con người. Và con người
không biết đến sự già nua của tâm hồn bao giờ cũng tìm đến với thơ, rồi không
ít lần trong đời tâm hồn họ ngân lên thành vần thành điệu:
Tôi
đang đi lại từ đầu
Cỏ hoa trong những sắc màu lung linh
(Thơ Bùi Đức Long)
Nói thế không phải thơ hay cứ như gió thoảng, cứ như mây trôi… Trong cái vẻ
dung dị tưởng không có gì ấy, thơ đánh thức trí ta. Thu Loan không thiếu những
câu thơ như vậy: Niềm vui ào đi như thác lũ/ Nỗi buồn đọng lại phù sa (Phố
mưa). Đặc biệt câu: Đường đi quen đếm bước/ Chẳng mấy khi nhìn trời (Bong
bóng). Thú thật, tôi giật mình thảng thốt khi đọc những vần thơ ấy. Dễ gì làm
chủ những khát khao từng được ấp ủ trong tuổi hoa niên? Cuộc sống cơm áo ngày
thường cần không? Cần chứ! Nhưng nếu chỉ cúi gằm mặt mà đi, liệu con người có
còn xứng đáng là con người nữa không nhỉ?
Để có được cái nhìn vừa hồn nhiên vừa vấn vương khi viết về mình, nhất là khi
viết về đời qua mình, về Pleiku, về Đêm hội làng, về tượng gỗ Tây
Nguyên, về người Gia Rai…, tôi biết Thu Loan, một cô gái miền xuôi thứ thiệt phải
tự vượt mình ghê lắm. Thầm lặng mà không ít trăn trở, ưu tư. Đáng mừng là chị
đã chấp nhận, tình nguyện chấp nhận không do dự phân vân cho một cuộc đánh đổi:
Vượt
khoảng cách làm người dẫu
mong manh sợi tóc
Suốt cuộc đời em còn phải đi…
(Khoảng cách)
Phải đi, phải vượt khoảng
cách để có thể đến được cái mà đời mình cần đến:
Em
biết yêu tiếng chim lảnh lót
Gió mùa về heo hút nẻo sông
(Khoảng cách)
Khi ấy những gì chị trải nghiệm sẽ có điều kiện thăng hoa. Có thể nói, chị đã
được thoả nguyện, dẫu ít dẫu nhiều:
Nếu
em chỉ là người ca sĩ lang thang
Hát những câu nói vu vơ lên thành giai điệu
Thì thơ em như làn gió chợt đến rồi bay biến
Có cần thiết gì đâu!
Không khó để nhận ra hiệu quả của thơ Thu Loan. Đáng mừng cho chị, cho tôi và
nhiều người khác gắn bó với Tây Nguyên, vùng đất nhiều tiềm năng nhưng mới bước
đầu được đánh thức. Cuộc sống và con người ở đây đâu đã hết cái cần phải yêu,
yêu tha thiết, yêu chân thành. Tôi như cánh rừng luôn khát gió - chị
đã viết vậy. Câu thơ đúng cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Vâng, tâm hồn chị chính
là những cánh rừng luôn khát gió. Sống với rừng, với núi, chị là người
của núi, của rừng, tự khi nào chính chị đôi khi cũng không hay. Chỉ một lần xuống
núi gặp đồng bằng bốn phía rộng huênh chị đã thành thực viết: Ta
như giọt nước/ Chông chênh/ Loãng tan vào biển. Và một lần
khác Qua Huế chị đã cảm nhận cảnh vật Cố đô qua trái tim Cao nguyên
thuần khiết. Không một chút làm duyên, Thu Loan viết:
Có
nỗi buồn ngàn năm vạn năm đổ ập vào
lòng ta đêm
nay qua Huế
Trăng neo vào đất dáng con đò
Ta
– gió lạ ngông nghênh của núi rừng
hoang dại
Chợt
hiền khô mềm mại một câu hò
Không còn là mong mỏi nữa, hiện thực mười mươi rồi. Do vậy tôi không chút ngạc
nhiên trước lòng tự tin ẩn chứa trong câu thơ vang lên như một tuyên ngôn này của
chị: Ta ủ tiếng chuông lòng lặng lẽ/ Âm thầm ngân vang với núi non (Đời
thường). Cũng vì vậy tôi không hề ngạc nhiên trước sự ngạc nhiên của nhiều người:
là phụ nữ sao Thu Loan viết nhiều về rượu, lại bằng lối cảm, lối nghĩ của người
thật sự say, nhiều lần say, say bằng tình bằng nghĩa hơn say rượu nồng. Gửi
những buôn làng tôi đã đi qua là một bài hay, xúc động. Bài thơ trong tập
có tựa đề chung là Một thời trăng. Trăng trong tập thơ chị quả nhiều dáng
vẻ: Trăng rơi giếng nước gió ngồi bờ tre (Tuổi thơ) - Đâu dấu
trăng mờ in lối cũ (Trở về). Bởi lòng chị luôn rung lên với nhiều
tâm trạng: Ta về nhặt ánh trăng vàng mình ta (Người dưng) - Vầng
trăng vỡ tan lạnh ngắt dòng sông (Gương mặt). Nhưng chưa khi nào ánh trăng
lại neo vào lòng tôi như trong bài thơ vừa nhắc tới: Cang rượu cần nghiêng
ngả trăng sao… Rượu buôn làng Tây Nguyên đã rưới đẫm thơ chị như vậy đấy!
Đến nỗi trong Đời thường khi một lần lòng u ám ủ ê như cây mùa
đông, ta chợt đồng cảm với những dòng thơ nao lòng sau của chị:
Có
lúc quên tháng ngày xoay tít
Bạn cùng ta nghiêng ngửa ly không
Uống tiếng cười uống tình đời trong vắt
Giữa phù du gặp gỡ vô cùng
Thu Loan từng da diết mong tiếng nói nhỏ nhoi đồng vọng đến muôn người. Chị
có thể yên tâm vì nỗi mong mỏi của chị đã có cơ sở để biến thành hiện thực. Và
riêng tôi, khi đọc xong thơ Thu Loan, tôi tự nhiên cảm thấy yên lòng hơn trước
triển vọng của lớp thơ trẻ hiện
nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét