I/ Rồi sẽ có người đặt câu hỏi:
cần có không vẻ đặc sắc dân tộc trong nền lý luận, phê bình văn chương mà chúng
ta đang mong muốn tạo dựng? Tôi cho là cần. Ở nước Trung Quốc láng giềng vốn
nhiều điểm tương đồng với ta, các nhà lý luận nghệ thuật cũng đã nói đến hướng
này (17, tr.167). Bảo họ là nước lớn, có truyền thống học thuật độc đáo, vĩ đại
và lâu đời thì mơ đến điều đó là phải. Còn ta? Nào có truyền thống lý luận gì
đáng kể đâu! Ngay đầu những năm 1930, một câu hỏi lớn từng được đặt ra: liệu nước
Nam ta đã có một nền quốc học thật sự chưa? Cả một cuộc tranh luận sôi động đã
diễn ra, thu hút những đầu óc thông thái nhất, trách nhiệm nhất của thời ấy.
Rút cuộc, các học giả đều gần như đi đến một thống nhất là so với
văn nghệ thuật giàu có, đáng tự hào, văn luận thuyết của ta còn kém cỏi lắm. Thậm
chí, học giả Phan Khôi còn dám cả quyết: “Nước ta không có cái đáng gọi là
quốc học” (12, tr.170). Suốt những năm tháng sau đó, do phải tập trung vào
công cuộc cứu nước, tình hình vẫn không đổi khác là mấy. Khi hòa bình được vãn
hồi sau 1975, bao tâm sức lại phải dồn cả vào sự nghiệp thóat nghèo, ta cũng chả
làm được bao nhiêu. Đến nỗi vào năm cuối cùng của thế kỷ XX, một nhà văn ở hải
ngoại đã phải buột mồm thốt lên một cách chua chát là hình như dân tộc ta “đố kỵ
cái trừu tượng”!
Đó là một sự thật lịch sử
xem ra không ai có thể bác bỏ nổi. Chỉ nói riêng trong lĩnh vực lý luận nghệ
thuật, nhiều nhà nghiên cứu thời hiện đại đã không ngừng tìm tòi trong muôn vàn
gian khó nhằm phát hiện ra những điều quý giá trong di sản lý luận của ông cha.
Thế hệ đi đầu, tiêu biểu là Phương Lựu với hai công trình khoa học đồ sộ theo
hướng vĩ mô là “Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam” (1985) và “Góp phần xác lập
hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam” (1997). Thế hệ đi sau cũng mải
miết tìm tòi nhưng theo hướng vi mô, tiêu biểu là các chuyên luận “Học giả với
thi nhân” (1994), “Thơ trong con mắt người xưa” (1999) của Phạm Quang Trung, “Lê
Quý Đôn trên tiến trình ý thức văn học dân tộc” (1996) của Đinh Thị Minh Hằng
và “ Ý thức văn học trung đại”( 2001) của Đoàn Lê Giang … Như một nghịch
lý, càng đi sâu vào kho tàng lý luận văn chương cổ, ta càng như ý thức được hơn
giới hạn của ông cha ta trên phương diện tư tưởng học thuật, mà nói riêng là tư
tưởng lý luận nghệ thuật.
Tuy nhiên đấy chỉ là một mặt
của vấn đề. Cũng trong cuộc tranh luận giàu ý nghĩa về quốc học kia, các học giả
tiền bối vẫn một mực đeo đuổi ý hướng là cần tạo dựng nền học thuật riêng sao
cho thật phù hợp với nước ta. Ấy là các cụ rút ra được những bài học bổ ích từ
một số nước Âu châu, đặc biệt là từ nước Nhật ở Đông Á. Trên tạp chí Nam
Phong số 163, 6-1931, Phạm Quỳnh xác quyết rằng: Nước Pháp, nước Anh,
nước Đức… tuy về đời trước thời nguồn gốc vẫn là do ở Hy Lạp, La Mã ra, mà về
sau thời thường chịu ảnh hưởng lẫn của nhau nhiều, nhưng nước nào cũng có cái
văn minh, học thuật của nước ấy, không giống với các nước kia; học thuật riêng
đó, tức là quốc học của mỗi nước. Như nước Nhựt ở Á Đông ta cũng vậy, thật là
“con tinh thần” của nước Tầu, đồng văn đồng hóa với Tầu nhưng vẫn có một lối học
riêng của họ, tuy cũng xuất ở Tầu mà ra, mà có cái đặc sắc khác với Tầu, có thể
gọi là quốc học Nhựt Bổn được” (12, tr.141). Như vậy là Phạm Quỳnh đã
giải thích “quốc học” theo nghĩa “tương đối” được xác định ở chỗ “mỗi dân tộc hấp
thụ được cái văn minh học thuật của ngoài, tất có biến hóa theo tinh thần
riêng của mình, mà thành hẳn ra của riêng” (những chỗ gạch dưới là do PQT
nhấn mạnh). Tôi nghĩ, chúng ta hoàn toàn có thể chia sẻ được với Phạm Quỳnh.
Điều kiện tiên quyết là cần
tránh tâm lý thụ động của một nước nhược tiểu, chỉ muốn làm “học trò suốt đời”
(lời Phạm Quỳnh). Lịch sử dân tộc ta từng có nhiều tấm gương sáng chứng tỏ ý thức
tự lập, tự cường về văn hóa. Thời Bắc thuộc, hai quan thái thú là Tích Quang và
Nhâm Diên sang Việt Nam cai trị hai châu Giao Chỉ và Cửu Chân đã làm nhiều việc
gọi là khai hóa cho dân tộc ta. Nhưng 400 năm sau, một sứ giả của Ngô
Tôn Quyền tên là Tiết Tống sang thanh tra, tìm hiểu dân tình hai châu, khi về
dâng biểu lại xác nhận là không còn vết tích nào của văn hóa Trung Quốc ở hai
quận do người Tàu cai trị (18, tr.274). Điều này chứng tỏ có thời dân tộc ta đã
có khuynh hướng chối bỏ ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Có lẽ vì thế mà hai học
giả người Pháp Pierre và Maurice Durand đã đi tới nhận định: “Trải qua các
thế kỷ, văn hóa Việt Nam đã luôn luôn chứng tỏ mối bận tâm không bao giờ chịu
nhận một yếu tố ngoại lai nào Ấn Độ, Trung Quốc, Chàm hay Tây Phương mà không
tìm cách in dấu ấn riêng của mình vào” (18, tr.275).
Vả lại, nào có nền lý luận
chung hòan tòan mang tính phổ biến đâu. Bởi, muốn thống nhất về mặt lý thuyết
thì trước hết cần phải thống nhất về khái niệm văn chương vốn là đối tượng của
lý thuyết. Vậy mà mấy ai dám nói là đã có sự nhất trí một cách tương đối trong
quan niệm bản thể văn chương của mọi người, mọi thời. Xin nêu ra hai dẫn dụ.
Công trình “Nhập môn văn học” của ba tác giả người Mỹ S.Barnet, M.Berman và
W.Burto xuất bản ở Hoa Kỳ 1981, sau chừng mười năm được tái bản đến 7 lần. Uy
tín là vậy, thế mà sau khi đưa ra ba lý thuyết văn học chính nhằm giải đáp câu
hỏi “văn học là gì?”, các học giả này cũng phải thú nhận: “Khó mà đưa ra một
câu trả lời thỏa đáng” (1, tr.12). Một công trình khác của giáo sư
danh tiếng người Anh, T. Eagleton. Theo ông, trả lời câu hỏi về khái niệm văn
chương là khởi đầu của mọi sự khởi đầu. Ông đưa ra nhiều quan niệm để rồi tỏ ra
bất lực bằng cách tạm hài lòng với thứ chủ nghĩa tương đối của nhận thức: “Khi
tôi sử dụng những từ “tính văn học” và “văn học” … là tôi đặt chúng dưới dấu hiệu
giao thoa không thể nhìn thấy, để chỉ ra rằng những khái niệm này không thật sự
phù hợp, nhưng những gì chúng ta có được vào thời điểm này thì chẳng có khái niệm
nào tốt hơn” (5, tr.71). Tôi, cũng như nhiều nhà lý luận khác, từng nhiều năm
ưu tư bởi câu hỏi ấy. Để rồi cho tới nay phải buộc lòng hoài nghi mọi cách tiếp
cận đơn lẻ. Văn chương như tình yêu vậy, không thể đưa ra một quan niệm biệt lập
nào mà không có nguy cơ rơi vào phiến diện. Thế là, nói cho vui, tôi đã đi từ khái
niệm đến giải khái niệm.
Nói vậy để thấy rất cần sự đổi
mới triệt để về lý luận, phê bình, từ tư duy đến quan niệm, phương pháp cho thật
phù hợp với hòan cảnh nước nhà. Đó là đòi hỏi của chính đời sống, đồng thời là
đòi hỏi của chính văn chương. Tôi nhớ tới tâm sự rất đáng suy nghĩ của nhà văn
sớm thành danh Tạ Duy Anh. Anh từng học ở Trường viết văn Nguyễn Du. Sau khi ra
trường, sóat xét lại một cách nghiêm túc những ngày dùi mài kinh sử ở trường,
anh bảo rằng, cái ý nghĩa nhất, cái đáng kể nhất là Nhà trường đã giúp anh dần
dần phá bỏ những quan niệm văn chương cũ kỹ, lỗi thời bám rễ sâu vào
đầu óc mình ngay từ lúc còn học ở phổ thông. Có hai câu hỏi tự nhiên được đặt
ra. Tại sao cần phải kiên tâm đào thải những quan niệm văn chương cũ, mới có thể
viết văn hay? Có được mấy nhà trường, mấy ông thầy giúp học trò của mình làm được
việc khó khăn như dời một trái núi kia?
Đổi mới, đổi mới triệt để,
như vậy là một tất yếu khách quan nhằm đáp ứng con đường đi tới của văn chương
dân tộc. Bằng cách nào đây? Vẫn có thể học hỏi từ cuộc hội nhập lần thứ nhất của
văn chương Việt Nam vào thế giới hồi đầu thế kỷ XX. Nhà yêu nước Hùynh Thúc
Kháng ngay từ dạo ấy đã chỉ giáo: “Một mặt thì đem cái học cũ của ta mà đãi bòn
lựa lọc, bỏ cái hư xấu mà lặt điều tinh túy, một mặt thì tựu trung học thuyết mới
mà lựa chọn điều hay, điều tốt thích hợp với tình thế, có thể bỏ chỗ khuyết điểm
cho học giới ta, lần lần du nhập cho người mình” (12, tr.202). Từ hướng nghĩ
này, tôi cho rằng để xây dựng nền lý luận, phê bình văn chương như mong muốn,
hiện giờ chúng ta cần làm hai việc cùng một lúc: Đánh giá lại thật khách
quan, công tâm lý luận, phê bình văn chương Việt Nam thế kỷ XX, nhất là trào
lưu mácxít; và lọc lựa lấy những cái hay mà phù hợp của các trường phái, trào
lưu lý luận, phê bình phương Tây hiện đại để bồi đắp cái thiếu của mình.
Đó
cũng là đường hướng chung trong việc xây dựng nền văn chương nước ta phù hợp với
quy luật phát triển của các nền văn chương lớn trên thế giới. Văn hào Lỗ Tấn từ
lâu đã chỉ rõ: “Chọn dùng phương pháp tốt của nước ngòai, rồi phát huy
lên, để cho tác phẩm của chúng ta càng thêm phong phú, đó là một con đường. Chọn
lấy di sản của Trung Quốc, đem dung hòa với cái mới để cho tác phẩm sau này có
một phong cách mới, đó cũng là một con đường” (14, tr.202). Thành tựu của
nền văn chương Mỹ Latinh có thể xem là minh chứng điển hình. Ai cũng biết đây
là một trong những truyền thống văn chương lớn, đặc sắc của thế giới. Có đến
năm tên tuổi sáng chói được vinh dự nhận Giải thưởng Nobel thuộc về nền văn
chương trẻ trung, mới có lịch sử phát triển chừng 400 năm này. Đó là G. Mistral
(người Chile), M.A. Asturias (người Guatemala), P. Neruda (người Chile), G.G.
Marquez (người Colombia), O. Paz ( người Mexico). Thế mà, như nhà văn lão thành
người Veneduyela – Uxla Pietri trong cuốn “Sự sáng tạo của châu Mỹ Latinh” đã
thừa nhận, đặc trưng văn hóa, và nói riêng về văn chương vùng đất này lại
là ở chất lai. Nhà nghiên cứu văn chương đồng thời là nhà
thơ R. Rêtamar (người Cuba) cũng xác nhận: "Dĩ nhiên là những bậc thầy văn
chương Tây Ban Nha này là của chúng ta. Nhưng cũng chính từ lý do ấy, văn hóa
châu Phi cũng là truyền thống văn hóa của chúng ta. Ngay cả những người Anh
điêng từng bị diệt chủng rồi cũng thuộc về văn hóa của chúng ta" (13,
tr.5). Kỳ lạ là thứ văn chương lai ấy tác động trở lại rất
tích cực đối với nguồn ảnh hưởng từ châu Âu. Như“Phong trào Môđéc” diễn ra
vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX mà đại diện xuất sắc nhất là nhà thơ Ruben
Dario (người Nicaragoa sinh năm 1867 mất năm 1916). Đã có cuộc tranh luận kéo
dài suốt từ đầu thế kỷ XX cho đến nay chung quanh vai trò của nhà thơ lớn này
và chủ nghĩa Môđéc nói chung. Vào mùa xuân 1913, tại Buenos Aires, hai nhà thơ
được xếp vào hàng đầu thế kỷ XX là Lorca và Neruda đã trao đổi với nhau về R.
Dario.
Lorca: Chúng ta sẽ gọi ông
là nhà thơ của châu Mỹ và của Tây Ban Nha. Ruben…
Neruda: Dario. Bởi vì, thưa
các bà!
Lorca: Và thưa các ông!
Rồi sau đó, Lorca nói:
“Pablô Neruda - người Chile và tôi, người Tây Ban Nha, chúng tôi thống
nhất rằng Ruben Dario là nhà thơ lớn của Nicaragoa, của Achentina, của Chile và
của Tây Ban Nha.” Và cả hai nhà thơ cuối cùng nói to: "Vì vinh quang
của chúng ta hãy nâng cốc chúc mừng Người". Không gì cảm kích
hơn! Chẳng lạ khi Clara Sanchez – một người Tây Ban Nha, lại nói: "Người
Mêhicô thường nói về "3 nhân vật vĩ đại" của họ là Orôxcô, Xikâyrốt
và Rivêra (3 hoạ sỹ lớn của Mêhicô trong thời kỳ này). Chúng tôi, người dân Tây
Ban Nha, chúng tôi cũng hay nói về "3 nhân vật vĩ đại", tức "ba
Pablo" của mình. Đó là, P. Kadal (nghệ sĩ biểu diễn Violonxen), P. Picaso
và P. Neruda (13. tr.6).
Vậy
là, cần hết sức tránh bài ngọai, sa vào khuynh hướng dân tộc hẹp hòi. Cũng cần
hết sức trách sùng ngọai, rơi vào chủ nghĩa thế giới. Thái cực nào cũng đều
không hay, và cũng không phải con đường chúng ta cần đi. Hãy nhớ lại lời nhắc
nhở chí tình chí lý của. Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh thời cách đây gần 40
năm mà cho đến nay vẫn chưa mất đi ý nghĩ thời sự: "Người làm văn học,
nghệ thuật phải làm chủ kho tàng về văn học, nghệ thuật của nước mình và của thế
giới" (6, tr.438). Đặc biệt, ông còn tin tưởng: “Làm chủ
kho tàng văn học nghệ thuật dân tộc, ta hòan tòan có thể làm được. Làm chủ kho
tàng văn học nghệ thuật của thế giới thì có khó hơn, nhưng tôi nghĩ ít lâu nữa
thì chúng ta làm được” (6, tr.439). Niềm tin của ông ngày nào vẫn dồi dào
sức cổ vũ chúng ta trên con đường đi tới…
II/ Cần
xem xét lại tình hình lý luận, phê bình thế kỷ vừa qua trước khi có ý muốn định
ra con đường xây dựng nền lý luận, phê bình trong thế kỷ này. Bởi, nói như Cụ
Huỳnh Thúc Kháng ngay từ đầu thế kỷ XX rằng: “Phải biết, đất có đào hết cỏ, thì
trồng được lúa tốt. Ao có dội sạch bùn thì sau mới chứa được nước trong”. Gần
đây, một số nhà nghiên cứu đã bắt tay vào làm. Có thể tạm chia thành ba hướng
chính sau:
- Nhìn
nhận, đánh giá lại một số hiện tượng văn chương tiêu biểu như công trình “Nghệ
thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” (Nxb Khoa học xã hội, 2004) của
Nguyễn Ngọc Thiện…
- Đưa
ra một cái nhìn bao quát về lý luận, phê bình thế kỷ XX tiêu biểu là phần viết
về lý luận, phê bình của Trần Đình Sử trong công trình tập thể “Văn học Việt
Nam thế kỷ XX – Những vấn đề lịch sử và lý luận ”(Nxb Giáo dục, 2004)…
- Một
loạt bài viết về lý luận, phê bình theo phương pháp khái quát - loại hình của
Trịnh Bá Đĩnh: “Phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX” (Tạp chí Nhà văn –
3/2001), “Các hình thái tư duy phê bình đầu thế kỷ XX” (Hồn Việt, số 2), “Nửa
thế kỷ phát triển lý luận văn học ở Việt Nam” (Việt Nam, những chặng đường lịch
sử, Nxb Giáo dục, 2005). Cũng có thể kể thêm tới những tiểu luận khác như “Phong
cách học và phê bình văn học” của Đỗ Lai Thúy, “Trên đường đến với tư duy lý luận
văn học hiện đại” của Trương Đăng Dung (Văn học nước ngoài – 01/2005)…
Mặt
mạnh ở xu hướng đầu là tư liệu, ở xu hướng sau là sức khái quát, còn xu hướng
cuối là cái nhìn mạnh dạn và thẳng thắn. Cái nọ bổ sung cho cái kia, nhưng ấn
tượng chung là còn nhiều điểm trắng, nhiều ý kiến chưa thật thuyết phục, và vì
vậy mà chưa làm chúng ta thỏa mãn. Ví như, việc phân loại đội ngũ lý luận, phê
bình. Nghiêng về nhân thân nghề nghiệp, Trần Đình Sử chia làm ba lọai: nghệ
sỹ, chuyên nghiệp và báo chí. Cũng chia làm ba, Trịnh Bá Đĩnh lại gọi là: nhà
bình giải văn học, nhà phê bình khoa học, nhà phê bình thi pháp. Có lẽ anh chưa
thật nhất quán trong tiêu chí phân lọai. Theo ý tôi, nên giải quyết vấn đề một
cách dung dị hơn là xuất phát từ bản chất của chính phê bình văn chương để phân
lọai. Phê bình vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Công trình phê
bình hay nhà phê bình nào nghiêng về khoa học thì gọi là phê
bình mỹ học; ngược lại, công trình phê bình, nhà phê bình nào nghiêng về mặt
nghệ thuật thì gọi là phê bình thẩm mỹ. Nhà phê bình và công trình
phê bình tiêu biểu cho loại thứ nhất là “Nhà văn hiện đại” và Vũ Ngọc Phan.
Tiêu biểu cho loại sau là công trình “Thi nhân Việt Nam” và Hoài Thanh -
Hoài Chân. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh quả là tinh tường khi đưa ra nhận xét:
“Có thể nói, đến với văn học phê bình Việt Nam trước 1945, ta có thể
gặp nhiều cái hay ở Hoài Thanh, và nhiều cái đúng ở Vũ Ngọc
Phan” (9, tr.168). Đấy là xét chung. Ở ta có lẽ cần thêm lọai phê
bình tư tưởng, hoặc chính trị hoặc triết học. Tiêu biểu cho lọai đầu là nhà phê
bình Vũ Đức Phúc, và lọai sau là nhà phê bình Hòang Ngọc Hiến. Chắc cũng không
rời xa tiêu chí phân lọai, vì dù là phê bình nào, khoa học hay nghệ thuật, thì
cũng đều chịu sự chi phối của ý thức hệ mà rõ nhất chính là tư tưởng chính trị
và tư tưởng triết học.
Cố
nhiên, tôi không cho rằng quan niệm của mình đã thật sự hoàn hảo. Cần được trao
đổi thêm. Duy tôi lấy làm lạ về cách xem xét và ý kiến đánh giá của một vài nhà
nghiên cứu trong một số bài viết gần đây. Chẳng hạn, tôi không thể chia sẻ với
Trịnh Bá Đĩnh khi anh dựa vào đặc trưng của hình thái tư duy phê bình mà anh gọi là luận
học để biện minh cho cho cái sai lệch dễ thấy của Phạm Quỳnh. Lời Phạm
Quỳnh trong bài diễn thuyết kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Du vào năm 1924 có đoạn
sau: “…Nhân ngày giỗ này, đốt lò hương so phím đàn, chiêu hồn quốc sỹ, “thác là
thể phách còn là tinh anh”, áng tinh trung thấp thoáng dưới bóng đèn, chập
chùng trên ngọn khói, xin chứng nhận lời thề của đồng nhân đây. Thề rằng Truyện
kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn
dài ”. Tác giả bài viết “Các hình thái tư duy phê bình đầu thế kỷ XX”lên
tiếng biện hộ: “Trong ngữ cảnh này của văn diễn thuyết, nó không có gì là sai
trái vì lời văn biện thuyết về đối tượng thường mặc vừa cho đối tượng. Nó
thường rộng hơn hay hẹp hơn mà ở trường hợp này thì rộng hơn” (18, tr.208). Tôi
nghĩ là trong bất kỳ trường hợp nào thì nhận định của nhà phê bình đưa ra cũng
cần đạt tới sự chân xác khoa học, không thể như cái áo, có thể lúc rộng lúc hẹp
được.
Vậy là,
nói gì thì nói, đây mới chỉ là những bước đi dò dẫm đầu tiên trên con đường nhận
diện lý luận, phê bình thế kỷ XX . Trước mắt chúng ta còn ngổn
ngang bao việc cần làm, quá nhiều vấn đề cấp bách phải giải quyết nếu
không muốn chậm trễ hay vô trách nhiệm. Để có câu trả lời thấu đáo
quả không dễ dàng gì. Phải lao lực, lao tâm, đã đành. Còn cần rất nhiều dũng
khí của người cầm bút, bản lĩnh của nhà văn học. Nhất là rất cần trang bị
phương pháp mới, trau dồi cái nhìn mới. Đại để có những vấn đề cơ bản sau:
- Đánh
giá lại một số hiện tượng lý luận, phê bình như những Tuyên ngôn của nhóm Xuân
Thu nhã tập cũng như của nhóm Dạ Đài…
- Phát
hiện thêm những đóng góp quý giá của các nhà phê bình Lê Thanh, Kiều Thanh Quế…
- Nhìn
nhận thỏa đáng vai trò của Lê Tràng Kiều, Vũ Ngọc Phan trên phương diện phê
bình, của Phan Kế Bính, Đinh Gia Trinh trên phương diện lý luận…
- Giải
quyết những tồn đọng như vấn đề Nhân văn - Giai phẩm trên phương diện học thuật…
- Tổng
kết lý luận, phê bình sau 20 năm đổi mới.
- Nhìn
lại lý luận, phê bình ở miền Nam 1954 – 1975.
- Đánh
giá lý luận, phê bình đương đại Việt Nam ở hải ngọai …
Cần tổ chức nhiều cuộc hội
thảo chuyên đề, chuyên sâu, huy động mọi tiềm năng chất xám hiện có ở trong nước
và cả ở ngòai nước. Không nhất thiết mọi vấn đề đều phải giải quyết rốt ráo, đều
cần có kết luận cuối cùng. Bởi vì, xem ra, ngay những vấn đề tưởng đã được giải
quyết xong từ lâu nhưng xét lại, xét kỹ đâu đã hết chuyện để bàn. Sự nghiệp của
Đặng Thai Mai chẳng hạn. Có thể nói ông là một uy tín văn học, thậm chí có thể
nói là một quyền uy học thuật đã được xác lập khá vững vàng. Dường như không mấy
ai nghi ngờ cả. Nhưng liệu ta đã thấy hết vị trí tập “Văn học khái luận” (1944)
của ông chưa? Ai cũng biết đây là công trình lý luận văn chương theo khuynh hướng
mácxít có hệ thống đầu tiên ở nước ta. Giá trị lý luận thật sự của cuốn sách, theo
tôi, lại chưa được đánh giá cho tương xứng. Dùng chính cách nói của Đặng Thai
Mai, thì ông đã viết tập sách này bằng “một khối óc sôi nổi”, dưới ánh
sáng của “một thế giới quan và nhân sinh quan sinh động”. Có phải vì thế mà lý
ông đưa ra thường nhuần và tình được biểu hiện thường đằm. Sách lý luận mà viết
nhuần nhị được thế thì thật là đắc dụng.Tôi đồng ý với Trịnh Bá Đĩnh là nhiều
công trình lý luận viết sau này ở ta còn thua xa “Văn học khái luận”. Ở
góc độ khác, tôi lại thấy vấn vương trước nhận xét của Trương Chính về các tập“Trên
đường học tập và nghiên cứu” được Đặng Thái Mai viết sau Cách mạng tháng
Tám: “ Chỉ có ... “Văn thơ Phan Bội Châu” và “Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu
thế kỷ XX”…là hai tác phẩm chính trong sự nghiệp văn chương mà nhà văn Đặng
Thai Mai thật sự viết với tất cả tâm huyết của mình” (10, tr.23). Nhận xét ấy
liệu có đúng? Nếu đúng thì tại sao lại có chuyện ấy? Bài học rút ra ở đây là
gì?
Việc đánh giá vị trí của Vũ
Ngọc Phan trong lĩnh vực phê bình, theo ý tôi, cũng còn nhiều chuyện phải bàn.
Người ta thường biết đến và đề cao những công trình văn chương dân gian của ông
như “Truyện cổ tích Việt Nam”, “Tục ngữ và dân ca Việt Nam”. Đó hiển nhiên là
những cống hiến to lớn và quý giá. Bằng chứng là chúng được in đi in lại nhiều
lần, tên tuổi của chúng hằn sâu trong trí nhớ của nhiều người thuộc nhiều thế hệ.
Thế còn bộ “Nhà văn hiện đại” hàng nghìn trang, năm quyển, bốn tập ra đời trước
Cách mạng? Đúng là vào thời Đổi mới bộ sách có được tái bản hai lần vào năm
1989 và năm 1994. Không như trước đây, hiện giờ muốn tìm đọc bộ sách quý này
thì chả khó khăn gì. Nhưng xem xét thấu đáo, bằng cái nhìn mới mẻ lại hình như
chưa hề diễn ra. Ngoài thói quen đánh giá thấp những công trình khoa học, nghệ
thuật ra đời trước 1945 ra, ở trường hợp Vũ Ngọc Phan, tôi thấy hình như còn gặp
thêm ngáng trở này nữa: ông sống và làm việc quá ư thầm lặng. Có thể hoàn toàn
tán đồng với nhận xét của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh: “Ông vào nghề một cách
tự tin, không nóng vội, không ồn ào, không tìm cách gây tiếng vang hấp dẫn” (9,
tr.167). Lối ứng xử nghề nghiệp ấy gần như được ông gìn giữ suốt cả cuộc đời.
Nhìn nhận sự nghiệp của Vũ Ngọc Phan phải chăng cần đặc biệt lưu tâm tới điều
đó.
Tôi muốn nói thêm tới trường
hợp Nhân văn – Giai phẩm. Xin không xét ở góc độ chính trị, mặc dù ai cũng biết
là nó gắn với những vấn đề chính trị nhạy cảm nhất. Theo tôi, rất cần có tiếng
nói minh bạch trên lĩnh vực văn chương, văn học. Ta không làm thì người ngoài
làm, vấn đề sẽ thêm phức tạp và bất lợi. Ta không làm thì con cháu sẽ làm, vấn
đề lại trở nên trễ tràng và khó tránh khỏi sự phán xét nghiêm khắc của thế hệ
đi sau. Ít nhất là sự trách cứ. Hiện trong giới có nhiều luồng ý kiến không
chính thức khác nhau, có khi khá xa nhau. Người thì cho Nhân văn – Giai phẩm chỉ
lạc điệu, lạc thời; kẻ thì bảo lạc đàn thậm chí lạc loài. Nên phán xét sao đây?
Không nhất thiết phải có sự nhất chí tuyệt đối, song chí ít mọi sự đều phải cho
rõ, nhất là về thái độ. Tất cả là nhằm định hướng dư luận. Món nợ tinh thần nếu
không thanh toán kịp thời một lần cho dứt khoát thì để càng lâu càng thêm rắc rối,
càng thêm nặng nợ.
Hồi tưởng lại không khí văn
chương thời ấy, trong hồi ký “Nhớ lại…” in năm 2002, nhà thơ Đào Xuân Quý có nhắc
tới vụ Nhân văn – Giai phẩm mà ông cho là chuyện “kinh thiên động địa trong văn
học”. Khoảng những năm 1955 – 1956 ông dưỡng bệnh ở Nam Ninh (Trung quốc) cùng
với Chế Lan Viên. Tin tức đời sống văn chương trong nước vang sang tận đây. Đào
Xuân Quý viết: “Vì chỉ nghe những tin gián tiếp, mà lượng thông tin không đầy đủ,
không biết hết các tình tiết của sự việc, nhưng tôi cảm thấy có điều chưa thật ổn
lắm, cần phải bình tĩnh, phải thận trọng hơn, đặc biệt là phải chú ý phân biệt
những kẻ thực sự cố tình chống đối với những người vì non nớt về chính trị, bị
cám dỗ… rồi bị lôi cuốn theo”(3, tr.68). Ông có viết thư cho nhà thơ Xuân Diệu
nói rõ tâm tư của mình. Sau đó, trong thư phúc đáp Xuân Diệu viết ngày
4/12/1956 có đoạn: “Diệu rất cảm kích lời Quý khuyên trong thư. Chú ý đến nhau,
tha thiết theo dõi và giúp đỡ. Giai đoạn vừa rồi là một sai lầm chung. Trong đó
có cái lệch của mình, có phần nào do tự phụ, tự mãn, cho ý kiến của mình là
đúng hơn người khác” (3, tr.68). Có thể xem đây là một tài liệu phản ánh khá
trung thực phản ứng của dư luận trong giới chung quanh hiện tượng văn chương vô
cùng phức tạp mà đến nay vẫn chưa soi tỏ được là mấy. Nó đồng thời nói về thói
quen giải quyết vấn đề văn học nghiêng về lối ứng xử xã hội ở ta.
Nhìn lại quá khứ, đánh giá
đúng quá khứ trước hết là cho hôm nay, hơn thế còn cho mai sau. Thái độ thật sự
cầu thị trên tinh thần khoa học luôn cần đặt ra. Tôi muốn nói nhiều đến việc
xem xét lại nền lý luận, phê bình văn chương cách mạng được hình thành và phát
triển trong suốt 60 năm qua. Có một số điều tôi luôn có ý thức quán triệt trong
việc nhìn nhận lại di sản này cũng như di sản mỹ học Mác – Lênin nói chung:
1. Những nhà sáng lập ra chủ
nghĩa Mác-Lênin bàn không nhiều về văn chương nghệ thuật, mà nếu có bàn thì thường
nhìn văn chương, nghệ thuật chủ yếu dưới góc nhìn của triết học và chính trị.
Chỉ xin nêu ra hai điểm thường được nhắc tới là quan hệ giữa triết học và mỹ học,
và quan hệ giữa chính trị và văn chương. Phải thấy quan hệ giữa chúng là tất yếu.
Thậm chí có thể nói đến sự chi phối của triết học tới mỹ học, sự chỉ đạo của
chính trị đối với văn chương. (Chỉ cần hiểu những chữ chi phối, chỉ đạo cho
sát đúng). Tuy nhiên cũng phải thấy chúng là những lĩnh vực khác nhau, có đặc
thù riêng, không thể thay thế nhau được. Tiếc là đã có một thời, phải nói là
quá dài, người ta hoặc vô tình hoặc cố ý đồng nhất chúng với nhau. Giờ thì mọi
sự xem ra đã rõ, nhưng chưa phải đã hết chỗ để nói. Đơn giản như vấn đề nội
dung và hình thức của một công trình nghệ thuật. Không ít người hiện còn lẫn lộn,
dùng cách giải quyết của triết học thay cho cách giải quyết của mỹ học. Biểu hiện?
Một là, quan niệm nhị phân, đối lập hình thức với nội dung; hai là, tuyệt đối
hóa nguyên lý nội dụng quyết định hình thức; ba là, đánh đồng nội dung với chất
liệu; và bốn là, không phân biệt được cách thức tổ chức tác phẩm bên trong với
hình thức tổ chức chất liệu bên ngoài. Chỉ cần nhắc lại ở đây ý kiến thấu đáo của
nữ văn sỹ Mỹ F.Connor (1925-1964), mọi sự sẽ trở nên sáng tỏ. Bà viết: “Một số
người có ý niệm rằng bạn có thể đọc truyện rồi sau đó trườn ra khỏi truyện đi
vào ý nghĩa, nhưng đối với bản thân người viết truyện, toàn bộ truyện là ý
nghĩa”. Bà còn nói: “Một truyện là một cách để nói một điều gì đó không thể nói
được bằng cách nào khác” (1, tr.16). Có thể nói, trong một công trình nghệ thuật
đích thực hình thức chính là nội dung, và nội dung chính là hình thức. Cách nói
có vẻ phi logic ấy lại ẩn chứa một sự thật hiển nhiên ở bên trong.
2. Tư tưởng mỹ học Mác-Lênin
chủ yếu được đúc rút nên từ những thành tựu của văn chương phương Tây cuối XIX,
đầu XX. Thế mà quan điểm thực tiễn của triết học mácxít luôn yêu cầu lý luận phải
gắn với thực tiễn, được hiểu là lý luận cần được khái quát lên từ thực tiễn, được
đo bằng thực tiễn, và quay trở lại chỉ đạo thực tiễn. Những ý kiến của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin về văn chương, nghệ thuật được phát biểu vào lúc
khuynh hướng hiện thực đang chiếm thế thượng phong, gây nên một làn sóng ảnh hưởng
mạnh mẽ từ Tây sang Đông. Những tác phẩm chính của ba nhà văn hiện đại được xem
là có tiếng vang nhất trong thế kỷ XX là F.Kafka (1883-1924), M.Proust
(1871-1922), J.Joyce (1882-1941) hoặc chưa xuất hiện, hoặc tác động còn rất hạn
chế. Những công trình mang khuynh hướng cách tân rõ rệt của họ như “Đi tìm thời
gian đã mất”, “Vụ án”, “Lâu đài”, “Ulysses”… chưa được nhiều người trên thế giới
biết đến. Không lấy làm lạ nếu kiểu tư duy nghệ thuật coi trọng cách thức thể
hiện bằng chính những hình thái của đời sống còn quen thuộc, vì vậy được đánh
giá cao. Trong khi những hình thái giả tưởng, phát huy tối đa sức tưởng tượng
sáng tạo của nhà văn lại bị xem nhẹ, thậm chí bị chối bỏ, coi là ngoại đạo.
Trên đường xây dựng nhận thức luận, việc Lênin tìm đến những tác phẩm của
L.Tolstoi cũng là chuyện tự nhiên. Sự thống trị của chủ nghĩa hiện thực trong
nghệ thuật hiển nhiên là những bằng chứng tốt nhất chứng minh cho bản chất phản
ánh của nhận thức trong triết học.
3. Mỹ học Mác-Lênin truyền
bá vào nước ta thường qua trung gian là Liên Xô, nhất là Trung Quốc. Vì vậy đôi
khi rất cần phân biệt đâu là quan niệm của mỹ học mácxít đích thực, còn đâu là
quan niệm mỹ học được Liên Xô và Trung Quốc vận dụng vào hoàn cảnh của họ trong
những điều kiện lịch sử - cụ thể thật đặc biệt. Chẳng hạn, vào một thời gian
dài ở nước ta từ thập niên 1940 đến thập niên 1970 dễ thấy dấu ấn sâu đậm của
tư tưởng văn nghệ Mao Trạch Đông được tập trung phát biểu trong lễ khai mạc nhất
là lễ bế mạc Hội nghị văn nghệ Diên An tổ chức vào tháng 5/1942. Nhiều ý kiến của
ông du nhập vào nước ta được nâng lên thành phương châm trọng yếu chỉ đạo văn
nghệ một thời, như vấn đề “cải tạo tư tưởng” cho văn nghệ sỹ, hay quan niệm rằng
trong tình hình “hiện nay vấn đề quan trọng hơn vẫn là về mặt chính trị”, mặc
dù ông không quên nhắc nhở tới sự “thống nhất giữa chính trị cách mạng và nghệ
thuật cao” (11, tr.484). Đến giờ có lẽ không còn mấy ai nêu ra mệnh đề “văn nghệ
là vũ khí của cách mạng”, “nghệ thuật là công cụ để tuyên truyền”. Đơn giản là
vì đất nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới, lấy hòa bình và dựng xây làm
nhiệm vụ trung tâm, nghĩa là căn bản khác về chiến lược so với thời kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nhưng xem ra đâu đó vẫn còn lảng vảng những
quan niệm đã trở nên lỗi thời kia dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trở lại tận nguồn những ý kiến
của Marx và Engels, ta càng có điều kiện nhận ra sự thiên lệch nói trên. Năm
1846, nhân bàn về đại thi hào Goethe trong bài “Chủ nghĩa xã hội Đức trong thơ
và văn xuôi”, Engels đề cao hai nguyên tắc lịch sử và nguyên tắc mỹ học vốn được
xem là đặc trưng nổi bật của mỹ học mácxít thực thụ: “Chúng tôi quyết không phải
trách Goethe từ quan điểm đạo đức và đảng phái, mà chỉ trách ông ta từ quan điểm
lịch sử và mỹ học” (15. tr.580). Mười ba năm sau, cụ thể hóa thêm sự kết hợp giữa
hai nguyên tắc này, trong thư “Thư gửi Lassalle”, Engels nói đến “sự kết hợp
hoàn mỹ giữa chiều sâu của tư tưởng với mục đích lịch sử được ý thức với tính
sinh động và phong phú theo kiểu Shakespeare” (15, tr.580). Vậy là, tính tư tưởng
luôn hài hòa với tính nghệ thuật trong nhận thức mỹ học của những nhà sáng lập
ra chủ nghĩa Marx.
Về lý luận chủ nghĩa hiện thực
xã hội chủ nghĩa vốn được du nhập vào ta từ Liên Xô cũ cũng rơi vào tình trạng
tương tự. Nhiều người đã đồng nhất tính chân thực của nghệ thuật với tính xác
thực của nhận thức, xem nhẹ tính chủ thể trong sáng tạo. Từ chỗ sai căn bản
này, việc vận dụng càng ngày càng trở nên rời xa bản chất đích thực của nghệ
thuật chân chính. Hãy đọc lại những lời phê phán cuốn “Về một chủ nghĩa hiện thực
vô bờ bến” của R.Garaudi của một số nhà văn học trước đây. Không nói tới lời lẽ
lắm khi nặng nề. Nhiều chỗ lý lẽ lên án tỏ ra có phần vô lối. Chẳng hạn, việc
phê phán ý kiến của R.Garaudi chung quanh nhiệm vụ của nghệ thuật.
Nhà mỹ học người Pháp cho rằng nghệ thuật cần xây dựng “thiên nhiên thứ hai”
(Đúng chứ, nghệ thuật đâu phải là đời sống!), có thể bổ sung cho “thiên nhiên
thứ nhất” là đời sống (cũng không sai, như thế người đời mới cần đến nghệ thuật!
Nghệ thuật làm giàu đời sống chính là theo nghĩa này). Chẳng phải Lênin đã lưu
ý: “Cũng vẫn là một tư tưởng thôi, nhưng ở trường hợp này thì được thể hiện chủ
yếu theo quan điểm mỹ học, còn ở trường hợp kia thì được thể hiện chủ yếu theo
quan điểm nhận thức luận” (8, tr.205). Lênin còn nói rõ thêm: “Hình ảnh có thể
phản ánh vật thể một cách trung thực, hoặc nhiều hoặc ít, nhưng ở đây mà nói giống
hệt thì ngu xuẩn” (8, tr.206). Đấy là chưa nói Lênin luôn yêu cầu chúng ta “còn
phải tiếp tục đẩy tới mọi hướng, nếu không muốn lạc hậu với cuộc sống” (8,
tr.206). Bài học rút ra ở đây là sự vận dụng. Không nên coi một hệ thống lý
thuyết nào, dù ưu việt đến đâu, đều có thể giải quyết được mọi vấn đề trong mọi
tình huống.
Cũng cần nhìn nhận mọi sự
sao cho thật thỏa đáng, trên tinh thần đối thọai. Tiếc là một vài người chỉ thấy
cái hạn chế tất yếu mà chưa nhận ra cái ưu thế cũng tất yếu của mỹ học mácxít.
Nên nhớ đôi khi cái hay đi cùng hoặc xen lẫn cái dở. Ranh giới giữa chúng nhiều
chỗ khá mong manh. Xin nêu một dẫn dụ. Một trong những đặc điểm cơ bản của mỹ học
mácxít là xem nghệ thuật là một hình thái ý thức thuộc kiến trúc thượng tầng của
xã hội. Trong khi chịu sự chi phối mang tính quyết định của đời sống, nghệ thuật,
cũng như bất cứ hình thái ý thức nào khác, luôn giữ tính độc lập tương đối, đồng
thời tác động trở lại cơ sở kinh tế - xã hội. Nếu không nhận thấy đặc trưng
cùng tính tích cực của nghệ thuật, dẫn đến quyết định luận thì rơi vào giản
đơn, dung tục. Có điều, nếu vận dụng đúng hướng, các nhà nghiên cứu vẫn có thể
nhận ra những quy luật diễn biến và phát triển cơ bản nhất của nghệ thuật. Hãy
nhớ lại phát kiến gây nhiều sửng sốt cửa F.Jamenson, nhà mỹ học mácxít Hoa Kỳ,
khi ông dựa vào các thời kỳ khác nhau trong tiến trình lịch sử của chủ nghĩa tư
bản để lý giải đặc trưng của văn hóa, nghệ thuật tương ứng. Đầu tiên là thời kỳ
tư bản thị trường diễn ra trong suốt thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX. Thành tựu
nổi bật của thời kỳ này là máy hơi nước, song hành với mỹ học hiện thực. Sau
đó là thời kỳ tư bản độc quyền diễn ra từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.
Điện khí và động cơ nổ là những thành tựu khoa học đáng kể nhất, đi song song với mỹ
học hiện đại. Rồi tiếp theo là thời kỳ tư bản đa quốc gia kéo dài từ giữa
thế kỷ XX cho đến nay. Thành tựu khoa học tiêu biểu là nguyên tử lực và kỹ thuật
điện tử, đi cùng với mỹ học hậu hiện đại. Có thể ta không hoàn toàn
tán thành với cách phân chia quá rạch ròi xuất phát từ cái nhìn có phần máy móc
của F.Jamenson. Tuy nhiên, nếu khách quan mà đánh giá, không ai không thấy tính
biện chứng trong tư duy của nhà khoa học do thấm nhuần cái nhìn của triết học
mácxít.
Có thể dẫn chứng trên còn xa
vời. Nhưng chẳng lẽ chúng ta không nhận thấy tính nhân văn, tính hiện thực vốn
thể hiện sự ưu việt dễ nhận ra của mỹ học mácxít. Việc đề cao nền nghệ thuật vì
con người, vì đời sống phải chăng đã lỗi thời? Tôi tin người nghệ sỹ chân chính
ở đâu và thời nào cũng đều có thể học nhà thơ lớn Chế Lan Viên để lên tiếng “biết
ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn”. Nhiều tuyên ngôn nghệ thuật bằng thơ có
giá trị của ông vẫn mãi mãi soi sáng con đường nghệ thuật phía trước
của chúng ta.
Bài thơ anh, anh là một nửa
mà thôi
Còn một nửa dành cho mùa thu
làm lấy
Cái xào xạc của hồn anh là
cái xào xạc lá
Nó không là anh nhưng nó là
mùa.
Nếu tôi nhớ không nhầm thì
Chế Lan Viên đã đọc những vần thơ giàu ý nghĩa mỹ học phổ biến này tại Hội nghị
thơ Á – Phi tổ chức năm 1973 ở Êrêvan, sau khi ông khẳng định đầy sức thuyết phục
rằng nhà thơ lớn nhất của đất nước chúng ta khi ấy chính là sự sống.
Một đặc điểm khác cần được
xem là một đóng góp quý giá của lý luận nghệ thuật Việt Nam hiện đại vào kho tàng
lý luận nghệ thuật tiên tiến của thế giới là nguyên lý tính dân tộc. Cũng là do
hoàn cảnh lịch sử riêng biệt góp phần tạo dựng nên. Điều này có gốc rễ sâu xa từ
quan niệm văn chương yêu nước của ông cha ta. Theo Phương Lựu thì đây là nét dễ
phân biệt giữa lý luận văn nghệ cổ Việt Nam với lý luận văn nghệ cổ Trung Hoa.
Lịch sử hai nước không giống nhau. Dân tộc ta thường xuyên phải đánh giặc và giữa
nước nên văn bút không thể không trở thành tảo thiên quân chi trận.
Thời cận đại, khi cuộc giao lưu Đông Tây được đẩy mạnh, ý thức văn hóa dân tộc
không ngừng được bồi đắp, nhiều nhà văn nước ta như nhà phê bình Lê Thanh từng
trăn trở về việc lưu giữ cái mà ông gọi là “hương hỏa về tinh thần” do tổ tiên
để lại. Trong tập “Cuốn sổ văn học” (1944), ông viết : “Có người hỏi
tôi : tôi có đứa con… bây giờ biết cho nó học gì, tiếng gì ? … Tôi giả
lời ngày là chỉ nên cho nó học tiếng Việt Nam, học cho biết tường tận” (4,
tr.83). Ngay một khuynh hướng trước nay ta thường nghiêng về phê phán như Tuyên
ngôn nghệ thuật của nhóm Xuân Thu nhã tập (1944) cũng ẩn chứa tinh thần dân tộc
khá sâu đậm. Họ lên tiếng đòi hỏi thi ca “gọi về những tính cách riêng của
ta, để có thể xuôi chảy trong cái dòng sông thực của ta ; không quanh co
lúng túng vì ảnh hưởng ngoài – ngăn cái họa mất gốc ”. Đương thời, nhà
nghiên cứu Đinh Gia Trinh đánh giá cao Xuân Thu nhã tập ở điểm này trong bài “Đọc
Xuân Thu nhã tập”, in trên tạp chí Thanh Nghị. Cần thấy xu trào chung của lịch
sử được kết tụ trong ba phương châm dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng
hóa của Đề cương văn hóa 1943. Giờ đây, ta vẫn còn thấm
thía với phương châm dân tộc hóa và khoa học hóa. Riêng phương
châm đại chúng hóa có lẽ cần phải được hiểu và vận dụng một cách uyển
chuyển hơn. Nhiều người gần đây hay nhắc tới tính chuyên nghiệp của các hội văn
học nghệ thuật từ trung ương tới các địa phương phải chăng là nhằm tạo ra những
đỉnh cao nghệ thuật đáp ứng những đòi hỏi của lọai công chúng tiên tiến được
giáo dục về nghệ thuật.
III/ Dễ nhận thấy
là vào thập niên 1990, đặc biệt là những năm đầu thế kỷ XXI, việc du nhập các
trường phái, trào lưu lý luận, phê bình văn chương nước ngòai, nhất là từ
phương Tây được đẩy mạnh rõ rệt. Bức tranh chung là khá sôi động và khả quan.
Công đầu phải kể đến Tạp chí Văn học nước ngoài của Hội
Nhà văn Việt Nam. Chưa đầy 10 năm, Tạp chí này đã làm được nhiều việc thật sự hữu
ích trong việc giới thiệu lý luận, phê bình từ bên ngoài, chủ yếu là từ phương
Tây hiện đại với độc giả chuyên biệt Việt Nam. Đó xứng đáng là thứ đại cát như
nhận xét đích xác của một nhà thơ. Qua cửa sổ khá rộng mở này, ta có thể nhận
ra đủ mọi trường phái, trào lưu thuộc nhiều chân trời khác nhau như: Văn hóa –
lịch sử, Phân tâm học, Hình thức luận Nga, Phê bình mới Anh – Mỹ, Ký hiệu
học, Cấu trúc luận, Văn học so sánh, Lý thuyết tiếp nhận, Chủ nghĩa hậu hiện đại…
Một số tập sách tư liệu dầy
dặn, công phu mang tính chuyên đề đã xuất hiện như “Lý luận và thi pháp tiểu
thuyết”, “Những vấn đề thi pháp của Dostoevski”, “Nghệ thuật như là
thủ pháp”, “Chủ nghĩa cấu trúc và văn học”… Lần đầu tiên chúng ta có dịp làm
quen với những tên tuổi hàng đầu của lý luận, phê bình phương Tây hiện đại như:
R.Jakobson, M.Bakhtin, T.S.Eliot, R.Ingarden, R.Barthes, L. Goldmanns,
Iu.Lotman, H.Jauss, W.Iser, G.Lukacs, M.Kundera… Đặc biệt, chúng ta được tiếp
xúc gần như nguyên vẹn nhiều công trình mỹ học, không qua trích dẫn hoặc
tiếp nhận của người khác dễ làm giảm tính khách quan chân thực như: “Văn học là
gì” của J.Sartre (Pháp), Mỹ học của M.Kundera (Cezch), “Truyền
thống và tài năng cá nhân” của T.S.Eliot (Anh – Mỹ), “Tác phẩm văn học” của
R.Ingarden (Ba Lan), “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học
văn học ” của H.Jauss (Đức) ; chùm bài về Ký hiệu học văn học của
các tác giả R.Barthes (Pháp), A.Propp (Nga), Iu.Lotman (Nga), và M.Riffaterre
(Mỹ) ; chùm bài về Chủ nghĩa hình thức Nga của các tác giả V.Shklovski,
B.Eikhenbaum, R.Jakovson; chùm bài về Thuyết cấu trúc trong văn học của các tác
giả: Tz.Todorov và Iu.Lotman…
Cũng cần nói đến những cố gắng
bước đầu của nhiều nhà lý luận, phê bình nước ta trong việc bàn luận, tổng thuật,
giới thiệu một cách tương đối trung thực, có chọn lọc một số trường phái, trào
lưu như Phương Lựu, Trần Đình Sử, Đỗ Lai Thúy, Trương Đăng Dung, Nguyễn Văn
Dân, Trịnh Bá Đĩnh… Tiêu biểu nhất là các cuốn “Lý luận phê bình văn
học phương Tây thế kỷ XX” của Phương Lựu và “Tác phẩm văn học như là quá trình”
của Trương Đăng Dung. Do chính người trong nước viết ra, lại qua thâu nhận của
mỗi cá nhân, nên nhiều lý thuyết cao siêu của nước ngòai đã trở nên vừa tầm, gần
gũi và phù hợp hơn đối với người Việt.
Dư luận trong giới đặc biệt
đánh giá cao một số công trình phê bình vận dụng một số lý thuyết văn chương có
ảnh hưởng rộng rãi ở nước ngoài khá nhuần nhị, đưa tới những thành công khả
quan, rất đáng kích lệ. Nổi bật là hai tên tuổi gắn liền với thi pháp học nhưng
đi theo hai hướng khác nhau, góp phần bổ sung cho nhau là Trần Đình Sử với hai
công trình “Thời gian nghệ thuật trong Truyện Kiều”, “Thi pháp thơ Tố Hữu”, và
Đỗ Đức Hiểu với hai tập sách có sức nặng không kém là “Đổi mới phê bình văn học”
và “Thi pháp học hiện đại”. Ý kiến đánh giá về những tác phẩm phê bình của hai
nhà nghiên cứu này chưa phải đã hoàn toàn thống nhất, nhưng đóng góp khai mở của
họ trong đổi mới phê bình thì gần như được nhiều người nhất trí thừa nhận.
Cũng không khó nhận ra nhiều
khiếm khuyết và những giới hạn trong việc giới thiệu lý luận, phê bình văn
chương nước ngòai trong thời gian vừa qua.Việc giới thiệu còn mang tính tự
phát, tùy tiện, theo khuynh hướng cá nhân. Thích gì, gặp gì thì làm. Do sự thúc
bách tự nhiên của lòng đam mê văn chương, văn học là chính. Vì vậy ở ta chưa có
những bộ tùng thư tư liệu nghiên cứu và dịch thuật như ở Trung Quốc. Chẳng hạn
“Tùng thư lý luận văn học Âu Mỹ thế kỷ XX” do Viện Văn học nước ngoài thuộc Viện
Khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn, hay “Tuyển tập lý luận văn học mới nhất của
phương Tây” do tập thể các tác giả Vương Phùng Chấn, Thịnh Ninh, Lý Tự Tu biên
soạn (17, tr.163).
Trước tình hình ấy, đòi hỏi
về tính toàn diện trong công việc xem ra vẫn còn xa vời. Đã là tự phát tất khó
tránh khỏi một chiều. Chỉ xin nêu một ví dụ. Tôi không thật hiểu vì sao trường
phái mácxít (có lẽ nên gọi là trào lưu mới đúng vì phạm vi ảnh hưởng
rộng lớn của nó) ở phương Tây lại chưa được các dịch giả, các nhà lý luận của
ta chú ý một cách thích đáng. Như nhiều người đã biết, lý thuyết văn chương
mácxít không chỉ xuất hiện một cách chính thống trong Cộng đồng các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây. Rất nhiều tên tuổi nổi bật khác ở phương Tây cũng đi theo
xu hướng mácxít nhưng với những biểu hiện khác như C.Caudwell, T.Eagleton
(Anh), Th.Adorno, W.Benjamin (Đức), P.Macherey (Pháp), F.Jameson (Mỹ)…chưa được
làm quen ở Việt Nam. Đấy là chưa kể các tác phẩm của một số nhà mỹ học một thời
bị ghép vào khuynh hướng xét lại như G.Lukacs (Hungary) và R.Garaudi (Pháp) …
cũng gần như vắng bóng. Được giới thiệu nhiều hơn cả trong thời Đổi mới có lẽ
chỉ có G.Lukacs với “Đặc trưng văn học” (Văn học nước ngoài, số 5 - 1998), “Nghệ
thuật và chân lý khách quan” (Văn học nước ngoài, số 6 - 1999), và sau đó là
C.Caudwell với “Ảo ảnh và hiện thực” (Văn học nước ngoài, số 5 - 2000). Không
thật hiểu là vì trong khi chúng ta dường như thờ ơ thì nhiều học giả lớn trên
thế giới đã công khai thừa nhận tác động sâu rộng như một trào lưu tư tưởng của
chủ nghĩa Marx và nói riêng là các lý thuyết văn chương mácxít trong thế kỷ XX.
J.Derrida trong tác phẩm “Những bóng ma của Marx” (1993) đã khẳng định: cần phải
kế thừa di sản của chủ nghĩa Marx (19, tr.167). Riêng về mỹ học, vào năm 1991,
trong cuốn sách lý luận nổi tiếng của mình, nhà nghiên cứu M.Mitchell coi lý
thuyết mácxít như một trong những trào lưu phê bình quan trọng nhất vào thời hiện
đại(1).
Tôi muốn nhấn mạnh tới một
điểm quan trọng khác. Do tính tự phát, ta không có điều kiện tiếp xúc một cách
chân thực, một cách hệ thống tư tưởng mỹ học của các nhà lý luận, phê bình lớn
trên thế giới. Báo Văn nghệ số 11 (ra ngày 12/03/2005) đưa một thông
tin quan trọng là nhà xuất bản Voskresenhie đang bắt tay thực hiện dự án công bố “Toàn
tập mới Đostoevki” gồm 18 tập, có nhiều cái mới, cái khác với Bộ 30 tập in thời
Xô viết. Toàn tập này lần đầu tiên đưa ra những tác phẩm mới chưa hề được cộng
bố, đặc biệt là những bản gốc chưa bị lược bỏ, sửa chữa theo kiểu áp đặt chính
trị xu thời hoặc không đúng phong cách ngữ pháp đặc trưng của tác giả. Theo
logic đó thì ai có thể đảm bảo là những bản dịch ở ta xuất phát từ đúng nguyên
bản chân xác, chưa bị điều chỉnh cho hợp với quan niệm và ý muốn của
người công bố? Nếu rơi vào thảm trạng ấy, tác phẩm văn chương bị xuyên tạc một,
công trình lý luận, phê bình được viết bằng văn phong chính luận sẽ bị xuyên tạc
gấp nhiều lần. Ai có đủ cam đảm để tin cho nổi! Hòai nghi là khó tránh khỏi.
Đấy là chưa nói tới công việc
dịch thuật. Gần đây nhiều người đã lên tiếng phàn nàn là nhiều bản dịch văn
chương, văn học ở ta quá ẩu. Tôi muốn nói thêm, nhiều trường hợp còn sai lạc nữa.
Chẳng hạn, việc dịch tên, chỉ tên thôi, bài báo nổi tiếng của Lênin viết vào
năm 1905. Nguyên văn bài báo là “Partiynaia oranizatsia i partiynaia literatura”.
Có ba điểm cần lưu ý :
- Từ đảng không
viết hoa.
- Từ đảng được
dùng như một định ngữ chứ không phải như một danh từ theo ý nghĩa định danh.
- Từ Literatura theo
tiếng Nga có hai nghĩa: văn chương và xuất bản phẩm hoặc sách
báo.
Ở đây nên dịch là “Tổ chức đảng
và sách báo đảng”. Nếu dịch như nhiều người trước đây là “Tổ chức Đảng và văn học
Đảng” là không thật sát hợp, từ đó, dễ dẫn đến những sai lệch đáng tiếc khác
trong nhận thức.
Cũng cần lưu ý là do xuất
phát từ sở trường, sở thích riêng nên tính đối thoại bị hạn chế, mà thường
nghiêng về đề cao, ca ngợi một chiều. Ở đây, cần học hỏi tinh thần tiếp thu có
phê phán của các nhà nghiên cứu nước ngoài, trên cơ sở phân tích khá kỹ càng,
thấu đáo những cái ưu, cái liệt của mọi trường phái, trào lưu lý luận, phê bình
theo phép biện chứng sắc sảo. Trong Lời nói đầu và Lời người biên soạn tập sách
“Tuyển tập phê bình mới”, nhà nghiên cứu Triệu Nghị Hành thường xuyên nhắc nhở
bạn đọc lưu tâm tới những cống hiến độc đáo cùng những mặt phiến diện, thậm chí
sai lầm của trường phái Phê bình Mới Anh Mỹ (17 ,tr.165). Tuy nhiên không ở đâu
mà tinh thần đối thoại lại thể hiện cởi mở như ở trường hợp Terry Eagleton. Nhà
phê bình Anh danh tiếng theo khuynh hướng mácxít này không ngần ngại tranh luận
cả với Karl Marx trong việc đánh giá “sự quyến rũ vĩnh cửu” của nghệ thuật Hy Lạp
ngay cả khi điều kiện xã hội nảy sinh ra nó vĩnh viễn không còn nữa (5, tr.72),
đồng thời thẳng thắn chê trách cách thu thập tài liệu trong phạm vi hẹp dễ đưa
đến những đánh giá thiên lệch, chủ quan của I.Richards, nhà Phê bình thực hành
nổi tiếng người Anh (5, tr.77). Ông đặc biệt tập trung bác bỏ đặc trưng thi ca
theo quan niệm của các nhà Hình thức luận Nga biểu hiện ở chỗ “làm biến dạng”,
làm “lệch chuẩn” ngôn ngữ bình thường. Rất có lý, ông đặt ra câu hỏi: vậy coi
đâu là ngôn ngữ chuẩn trong xã hội có nhiều tầng lớp với những trình độ riêng
biệt khác nhau ? Hơn nữa, có những trường hợp như “tiếng lóng”,
lệch chuẩn đấy nhưng đâu có thể xem là thơ? (5, tr.62). Ngữ cảnh xã hội và ngữ
cảnh lịch sử tạo ra sự khác biệt của các kiểu diễn ngôn, tất dẫn đến chủ nghĩa
tương đối trong nhận thức.
Trong sự tiếp nhận bất cứ
trường phái lý luận, phê bình văn chương nước ngoài nào, nhất là thuộc phương
Tây hiện đại, tôi thường tự nhủ mình bám sát bốn điểm sau: một, cố gắng
hiểu thật tỏ tường, có chứng lý rõ ràng, cần biết đâu là điều cốt yếu nhất của
từng khuynh hướng, tránh xa cái lối tiếp thu từng bị cụ Hùynh Thúc Kháng chế nhạo
là “bàn giải trống không, dựa hơi sủa bóng” (12, tr.189); hai, đánh
giá thỏa đáng cả cái hay lẫn cái dở của mỗi xu hướng, tránh thiên kiến, gắng
bám sát phương pháp lịch sử - cụ thể khi phân tích, biện giải; ba, từ
sự tìm hiểu kỹ càng, thấu đáo, phải đi tới cái nhìn bao quát trên tinh thần biện
chứng, lấy yêu cầu xác thực và toàn diện làm mục đích; bốn, phải đề cao chủ
kiến, rút ra những kết luận cần thiết, phù hợp và hữu ích, hướng tới việc tạo dựng
một nền lý luận, phê bình của ta trong hoàn cảnh và điều kiện mới.
Tôi nghiệm ra, khó nhất,
thách thức nhất là quán triệt điểm 3 và 4. Cần có tầm nhìn khái quát trên cơ sở
nắm bắt thật chắc những biểu hiện cụ thể thường phức tạp và đa dạng, rồi đặt
trong hệ thống cũng như trong trạng thái diễn biến và đổi thay liên tục của mọi
hiện tượng. Phải học người, lại phải biết cách rời xa người, quyết không mù
quáng bắt trước, nhằm dần dần tạo ra quan niệm riêng cho mình. Trong việc hình
dung ra bức tranh chung của lý luận, phê bình phương Tây thế kỷ XX, nhà nghiên
cứu Trung Quốc Trương Hậu Thành cho rằng: “Trải qua ba lần chuyển hướng (chuyển
hướng phi lý tính, chuyển hướng ngôn ngữ luận và chuyển hướng văn hóa luận) và
ba giai đoạn là hiện đại, hậu hiện đại và sau hậu hiện đại, đã đi theo con đường
từ nghiên cứu ngoại bộ sang nghiên cứu nội bộ và rồi trở về nghiên cứu ngoại bộ
(đương nhiên không trở về một cách đơn giản mà tiến theo hình xoáy trôn ốc)”
(17, tr.164). Nhà nghiên cứu Phương Lựu ở ta lại viết: « Trước hết là tâm
lý học văn học manh nha từ cuối thế kỷ 19… Hai là ngôn ngữ học văn học manh nha
từ Nhóm ngôn ngữ học Moscou và Hội nghiên cứu ngôn nữ thơ ca Pétespurg đều ra đời
từ 1915, mà sau này người ta quen gọi là chủ nghĩa hình thức Nga…Ba là một
khuynh hướng quan trọng khác, lâu đời hơn, đó là xã hội học văn học ». (15,
tr 578)…Tôi thì dựa hẳn vào quy trình văn chương đời sống – nhà văn – tác
phẩm – người đọc – đời sống mà quan niệm chỉ có 4 thiên hướng chính:
- Chú
trọng tới đời sống, có thể gọi là xu hướng thực chứng.
- Chú
trọng tới nhà văn, có thể xem là xu hướng tâm lý.
- Chú
trọng tới tác phẩm, có thể quy là xu hướng bản thể.
- Chú
trọng tới người đọc, có thể coi là xu hứơng tiếp nhận.
Mỗi
xu hướng có những mặt mạnh tạo nên những đóng góp riêng. Cần kết hợp những mặt
mạnh của từng xu hướng vào một hệ thống nhất quán chung để bồi đắp quan niệm của
mình. Có lẽ ở đây cần nhắc tới một điều là một vài nhà lý luận, phê bình ở ta
có thói quen tôn thờ, khuyếch trương những trường phái bản thân có điều kiện
đào sâu, thấm nhuần, đến mức coi nó hầu như là tất cả. Nên có ý thức phân biệt
việc lập thuyết với việc vận dụng. Ở hướng sau, cũng cần thấy sự khác biệt giữa
vận dụng lý luận vào phê bình với vận dụng lý luận cho lý luận .
Trong lập thuyết rất cần đẩy ý tưởng đến tận cùng. Còn trong ứng dụng tôi nghĩ
có lẽ khác. Có thể vận dụng vào phê bình thì còn chấp nhận xu hướng tuyệt đối
hóa ở một mức độ và giới hạn nhất định. Riêng ứng dụng để tạo dựng lý luận thì
lại nên giữ trạng thái hài hòa theo hướng trung dung. Cái gì hay ta chọn, cái gì
không phù hợp ta lọai. Rồi uyển chuyển tổ hợp các hạt nhân hợp lý nhờ học hỏi
vào một hệ thống chung thích hợp với dân tộc mình và thời đại mình.
Sau
đây, tôi thử đưa ra một sơ đồ, mặc dầu trong khoa học xã hội – nhân văn như văn
học tôi rất e ngại việc sơ đồ hóa. Đối tượng của văn học là văn chương, một thực
thể sống, lại là thực thế sống tinh thần. Sao có thể lấy những bộ khung sơ cứng
áp đặt lên mà không rơi vào máy móc, thô thiển. Vậy hãy xem sơ đồ sau như một
công cụ trợ giúp cho việc nhận thức trở nên rành rẽ hơn mà thôi:
Ý
thức xã hội
Nhà văn Tác phẩm Độc
giả
Đời
sống
Nền
lý luận, phê bình cần lấy tác phẩm làm yếu tố trung tâm, lấy đời sống làm nền tảng,
xem trọng chủ thể sáng tạo, và không quên chủ thể tiếp nhận. Đặc biệt, ta không
thể bỏ qua tính chỉ đạo thường là gián tiếp và «suy cho tới cùng» của
ý thức xã hội (gồm tư tưởng xã hội và tâm lý xã hội) tới mọi yếu tố chính yếu của
đời sống văn chương. Điều này không xa lạ với tư tưởng của các bậc tiền bối như
Phan Kế Bính. Để trả lời câu hỏi“cái hay của văn chương ở đâu?” trong “Việt Hán
văn khảo” (1918), cụ cho rằng, trước hết là ở “tư tưởng cao”, sau đó mới “ở kiến
văn rộng”, “ở nhời bàn thấu lý”, “ở câu nói đạt tình”. Điều đó cũng không xa lạ
với tư tưởng của các nhà mỹ học, các nhà văn thuộc mọi khuynh hướng khác nhau.
G.N.Pôxpelôv, nhà lý luận nổi tiếng thời Xô viết trước đây quả quyết: “Trong những
định nghĩa nghệ thuật có sức thuyết phục cao thì sự nhận thức một cách tư tưởng
– cảm tính những đặc điểm của đời sống xã hội là đặc tính quan trọng nhất của
nghệ thuật” (16, tr.75). Nhà văn đương đại danh tiếng người Mỹ Raymond Carver
trong bài viết “Nguyên lý của truyện ngắn” tỏ lòng ngưỡng mộ Tsêkhôv ở “sự
trong sáng của câu văn và những ý nghĩa còn ẩn giấu đằng sau”. Ông trước sau
quan niệm dứt khoát: “Một bài thơ hoặc một truyện ngắn hoàn toàn có thể viết về
những điều bình thường bằng một thứ ngôn ngữ thông dụng nhưng chính xác. Bằng
cách đó, nhà văn có thể cung cấp cho những sự vật rất đổi thân quen… những ý
nghĩa phong phú và đáng ngạc nhiên”(2).
Tôi không rõ những điều nói
trên đã thật rõ ràng và xác đáng chưa. Có điều, cách ứng xử với tri thức nói
chung nên theo một tinh thần như vậy. Nói một cách khác, việc học hỏi người
ngoài chỉ thật sự có ý nghĩa đối với những đầu óc độc lập, sáng tạo. Từ kinh
nghiệm hay cũng như dở của người, ta cần biết rút ra những bài học thiết thực
và bổ ích cho mình. Chẳng hạn, từ việc tìm hiểu sự nghiệp các nhà lý luận, phê
bình lớn ở Liên Xô và Trung Quốc được phục hồi vào Thời kỳ mới, tôi đặc biệt thấm
thía sự cần thiết của không khí học thuật dân chủ đối với sự vận động của văn
chương, văn học.
Hãy nhớ lại cách đối xử một
thời của chính quyền Xô viết đối với M.Bakhtin và Iu.Lotman. Bakhtin (1895 –
1975), người được thế giới xem là một trong những nhà nghiên cứu văn chương lớn
nhất của thế kỷ XX. Ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Trường Đại học Petrograd năm
1918. Những công trình khoa học đồ sộ, giàu ý nghĩa cách tân của ông tiêu biểu
là “Những vấn đề thi pháp của Dostoeivski” được viết vào những năm 1920 – 1940
hầu như đương thời không được thừa nhận. Ông phải lui về giảng dạy và nghiên cứu
văn chương ở Trường Đại học Quốc gia Moldovia. Mãi tới năm 1963, tên tuổi ông mới
xuất hiện trở lại trước công chúng. Từ đó đến nay, những công trình mang tên
ông được tái bản nhiều lần, tạo ra ảnh hưởng sâu rộng không chỉ ở nước Nga mà
trên toàn thế giới.
Iu.Lotman (1922 - 1993) là
tác giả của gần 800 công trình khoa học gồm các bài báo và hàng chục đầu sách,
được xem là một trong những người khởi xướng cấu trúc luận trong nghiên cứu văn
chương và phân biệt nó với phương pháp ngôn ngữ học. Ông tốt nghiệp Đại học Tổng
hợp Quốc gia Leningrad năm 1950. “Năm 1961, Lotman bảo vệ xuất sắc luận án tiến
sỹ… và bắt đầu công bố nhiều bài viết và những cuốn sách. Hồi đó những tư tưởng
không chuẩn mực và hành vi phóng khoáng của nhà khoa học trẻ tuổi này đã làm dấy
lên thái độ ngờ vực của các quan chức Maxcơva và địa phương đã cấm ông xuất ngoại…Thậm
chí ông không được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô sau khi đã trở thành
Viện sỹ của Viện Hàn lâm khoa học Anh quốc, Nauy ”(20. tr.246). Suốt từ
năm 1951 cho đến cuối đời, Iu.Lotman giảng dạy và nghiên cứu văn
chương ban đầu ở Tổ bộ môn Văn chương Nga sau sang Tổ bộ môn Lý luận
thuộc Trường Đại học Tổng hợp Estonia. Tại đây, ông đã sáng lập ra trường phái
Tartu nổi tiếng khắp thế giới.
Hồ Phong (1902 – 1985) từng
là Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Ủy viên Thường trực
Ban chấp hành Hội Nhà văn Trung Quốc. Vào năm 1954, ông viết “Tài liệu thuyết
minh mấy vấn đề có tính lý luận” tức bức thư 30 vạn chữ, tỏ rõ quan điểm mỹ học
của mình. Sau đó, ông bị bắt giam đến năm 1979. Năm sau, 1980, ông chính thức
được minh oan. Quan niệm văn chương của ông, nhất là về chủ nghĩa hiện thực, có
nhiều điểm độc đáo và sáng tạo. “Hồ Phong xem hiện thực là cái mà chủ quan đã
thể nghiệm, ông gọi đó là thế giới đã được cảm thụ. Ngoài ra trong tâm trí nhà
văn còn có một thế giới cần phải có, ông gọi là thế giới được quan niệm” (20,
tr.172). Thẳng thắn phê phán khuynh hướng khách quan chủ nghĩa và công thức chủ
nghĩa vốn là căn bệnh tràn lan trong văn chương thời bấy giờ, ông lên tiếng đòi
hỏi phải điều chỉnh cả hai phía: “Nhà văn phải rót sự tán thành, phản đối của
mình vào những biểu hiện sống động của hiện thực, còn hiện thực sinh động cũng
điều chỉnh, thậm chí đổi thay hẳn thái độ, quan niệm chủ quan của nhà văn” (20,
tr.173). Ở đây, Hồ Phong không hẳn không có lý khi nhấn mạnh đến tính chủ thể
trong hoạt động đặc thù của sáng tạo nghệ thuật cho dầu đấy là nghệ thuật hiện
thực.
Nghĩ tới những vụ việc trên,
tôi nhớ tới không khí tranh luận, biện bác, tôn trọng ý kiến khác, thậm chí
trái với mình, làm nên “một cái triệu hay” (lời nhà phê bình Thiếu Sơn) ở ta hồi
đầu thế kỷ XX. Phạm Quỳnh yêu cầu phải “dám tranh luận”. Phan Khôi thì đòi hỏi
“sự biện luận” đi cùng với “óc phê bình”. Muốn thế, cần có sự tranh đua giữa
các trường phái. Cụ Huỳnh Thúc Kháng rút ra những bài học quý báu từ kinh nghiệm
đời Trần ở nước ta: “…Học phong đời Trần có vẻ đặc biệt mà có một điều xuất sắc
nhất là các nhà có thế lực danh tiếng, tụ hội muôn khách thu dụng nhân tài, có
cái phong khí hào hiệp như đời Chiến quốc…Lúc bấy giờ tín giáo có tự do, cái học
khoa cử chưa bó buộc, học thuyết Tống Nho cũng mới truyền sang, chưa thạnh hành
nên học vấn có vẻ phát triển, mà nhân tài đời ấy cũng sản xuất nhiều tay lỗi lạc
phi thường, có mạt như lối học nhà Nho sau này đâu!” (12, tr.186-187). Rõ ràng,
rất nên tránh thái độ biệt phái trong học thuật.
Bảo giờ đây ta hạn chế
dân chủ trong sinh hoạt học thuật là không đúng. Nhưng xem ra chưa tạo thành nếp.
Trước hết là trong giới chúng ta. Ví như, đã thật sự có đối thoại chưa? Theo
tôi là có, nhưng hạn hẹp lắm. Hiện vẫn còn tồn tại hay ít ra là vẫn còn sự dung
dưỡng lối phê bình quyền uy. Không khí học thuật có cái khác nhưng chỉ là cái
khác được phép chứ còn ít cái khác chưa được phép. Tôi nghĩ trình độ lý luận
cũng như nhận thức dân chủ của ta giờ đây đã đổi khác rồi. Không phải ai nói gì
người ta cũng nghe đâu. Lắm lúc rất muốn đối thoại mà không có điều kiện. Đi
theo con đường bàng thống nhiều người lại không muốn. Có lẽ giới lý luận, phê
bình chưa bao giờ lại khao khát một diễn đàn học thuật cởi mở, đa phương,
đa chiều như bây giờ. Thế và lực nước ta căn bản đã khác
trước. Phải chẳng một đòi hỏi như vậy không còn là quá đáng nữa.
Tất thảy là vì một nền lý luận,
phê bình thật sự khoa học, chứ không phải là thứ lý luận, phê bình nhuốm màu đạo
học lỗi thời theo cách phân định thật tinh tường, thật thấu lý của nhà khai
sáng Trung Quốc Lương Khải Siêu. Trong bài Tựa Bản tiết yếu sách “Minh Nho học
án”, ông viết: “Đạo học với khoa học, phải nên phân biệt cho rất rõ. Đạo học là
cái học thụ dụng, tự mình tìm lấy được… cổ kim Đông Tây chỉ có một, chớ không
có hai. Khoa học là cái học ứng dụng, nhờ các biện luận tích lũy mà thành ra,
tùy cái trình độ văn minh trong xã hội mà tiến hóa, cho nên khoa học chuộng mới.
Đạo học thời những lời nói cũ tự trăm, ngàn năm về trước, kẻ hiền triết ngày
nay vị tất đã nói được hay hơn. Khoa học chuộng rộng…” (12, tr.146). Vậy chớ
nên biến khoa học thành một thứ tôn giáo. Theo nghĩa này, gọi một nhà khoa học
nào đó là vị giáo chủ, xem một nền lý luận nào đó là thánh đường, vị tất đã là
sự đề cao.
Tôi
hình dung nền lý luận, phê bình mà chúng ta đang mong muốn tạo dựng phải là sự
kết tinh di sản đã có của ta và của người trên tầm cao mà thời đại cho phép,
đúng theo tinh thần mà nhà phê bình Lê Thanh từng mơ ước : « Đem
cái học cũ và cái học mới ra dung hòa để đúc chuốt nên một nền văn học không Tầu,
không Tây, mà hòan tòan Việt Nam (4). Cố nhiên nền lý luận, phê bình ấy
không thể đơn phương, đơn nhất, lại phải hệ thống, nhất quán và vươn tới tầm
cao của tính khoa học. Hãy xốc tòan thể đội ngũ lại theo một đường hướng chung
phù hợp. Tôi tin rồi nền lý luận, phê bình mà ta mong mỏi bấy lâu sẽ hiển hiện
trong một tương lai gần.
Nói thế có nghĩa nền lý luận,
phê bình văn chương hiện đại mang màu sắc Việt Nam với những đòi hỏi khe khắt
như trên vẫn còn ở trạng thái mong ước. Cần phấn đấu để mau chóng thiết lập. Bước
đột phá, theo tôi, nên bắt đầu từ giáo dục mà trước hết là giáo dục ở bậc đại học.
Chẳng cần quan sát kỹ cũng nhận thấy rõ hiện trạng của việc dạy và học môn lý
luận văn chương ở các khoa Ngữ văn hiện giờ ra sao. Thiếu thống nhất, rất thiếu
thống nhất. Ai cũng biết phải thay đổi hệ thống lý luận văn chương vốn đã quá lỗi
thời, bị thực tiễn vượt qua từ lâu. Nhưng biết làm gì đây? Quả là còn rất nhiều
lúng túng. Thế hệ cao tuổi thì hầu như chép miệng buông xuôi, tạm hài lòng với
việc bổ sung ít ỏi vào hệ thống lý luận đã quá quen thuộc. Lứa trung niên thì dựa
vào chút ít kinh nghiệm vốn có, mạnh dạn công phá hệ thống lý luận cũ, nhưng
chưa thiết lập nổi hệ thống mới. Thế hệ trẻ thiết tha với đổi mới, nhưng khá
chông chênh, thậm chí hoang mang, chưa biết nên bắt đầu từ đâu và rồi sẽ đi đến
đâu. Tình hình thật đáng báo động. Việc cần làm ngay theo tôi bây giờ là nên khẩn
thiết tập hợp giới lý luận trong cả nước xây dựng một bộ giáo trình, rồi bộ
sách giáo khoa lý luận văn chương theo tinh thần đổi mới cho thật chuẩn. Rồi từng
bước đưa vào giảng dạy ở đại học và sau đó ở phổ thông. Có thế, may ra mới cứu
vãn được tình hình khi chưa quá muộn. Tiếng kêu cứu của cụ Huỳnh Thúc Kháng cất
lên từ năm 1931, đến nay nghe vẫn còn thảng thốt làm sao: “Than ôi! Cái học Khổng
Mạnh lai ra Tống Nho, Tống Nho lại lai sang khoa cử, đến Tống Nho và khoa cử nhập
chung lại… thì trong giới ấy còn bảo có nhân tài xuất hiện được hay
sao? ”(12, tr.196). Thế là mọi sự đã rõ. Xin không có lời bàn luận
gì thêm.
TÀI LIỆU CHÚ THÍCH
1. Barnet B., Berman
M., Burto W. – Nhập môn văn học, Trường Viết văn Nguyễn Du – 1992.
2.
Carver R. – Nguyên lý truyện ngắn – www.evan.com.vn.
3. Đào Xuân Quý – Nhớ
lại… , Văn hóa, 2002.
4. Đinh Thị Minh Hằng
– Lê Thanh, Nhà nghiên cứu phê bình văn học, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Số
11/2004.
5. Eagleton T.– Lý luận
văn học : dẫn luận, Phê bình – Lý luận văn học Anh Mỹ, Tập 1, Giáo dục, 2002.
6. Hồ Chí Minh…- Về văn
hóa văn nghệ, Văn hóa – 1976.
7. Mitchell M. - Bảy luận
đề về thời đại hoàng kim của phê bình văn học – www.tienve.org.
8. Nhiều tác giả - Từ
điển văn học, Tập 1, Khoa học Xã hội, 1984.
9. Nhiều tác giả - Kỷ
niệm nhà văn Vũ Ngọc Phan, Hội Nvăn, 2002.
10. Nhiều tác giả - Nhớ
Đặng Thai Mai, Hội Nhà văn, 2002.
11. Nhiều tác giả - Việt
Nam, những chặng đường lịch sử, GD, 2005.
12. Nguyễn Ngọc
Thiện – Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, Tập 1, Lao động, 2001.
13. Phạm Quang
Trung – Văn chương Mỹ Latinh - Trường Đại học Đà Lạt, 2001.
14. Phương Lựu – Lỗ Tấn
– Nhà lý luận văn học, Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1977.
15. Phương Lựu – Lý luận
phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Văn học, 2001.
16 . Pôxpêlôv G.N.– Lý
luận văn chương, (Tiếng Nga), Trường cao đẳng, M. 1978.
17. Trần Hậu Thành – Tình
hình du nhập lý luận phê bình văn học đương đại phương Tây vào Trung Quốc từ thời
kỳ văn học mới, Văn học nước ngoài, số 5/1999.
18. Trung tâm Nghiên cứu Quốc
học – Hồn Việt, Tập 2, Vhọc, 2004.
19. Trương Đăng Dung - Trên
đường đến với tư duy lý luận văn học hiện đại, Văn học nước ngoài – 01/2005.
20. Viện Thông tin Khoa học
xã hội – 100 nhà lý luận phê bình văn học thế kỷ XX, 2002.
Đà Lạt, 23/10/ 2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét