Hồng lâu mộng, tên gốc Thạch
đầu kí (1), là một trong bốn kiệt tác (tứ đại kì thư, hoặc làTứ đại danh
tác) của văn học cổ điển Trung Quốc (3 kiệt tác kia là Tam Quốc chí diễn
nghĩa của La Quán Trung, Tây du kí của Ngô Thừa Ân và Thủy
hử truyện của Thi Nại Am).Hồng lâu mộng được Tào Tuyết Cần sáng
tác trong khoảng thời gian giữa thế kỉ 18 triều đại nhà Thanh. Hồng lâu mộng là
tiểu thuyết chương hồi, gồm 120 hồi, 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết, 40 hồi
sau do Cao Ngạc (2) viết thêm và soạn thành sách. Trải qua thời gian, Hồng
lâu mộng xứng đáng được tôn vinh là cuốn tiểu thuyết ÁI TÌNH
hay nhất mọi thời đại!
Vương triều nhà Thanh, thời
Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là lúc kinh tế cực thịnh. Các thành thị lớn như
Nam Kinh, Dương Châu, Vũ Xương, Nhạc Châu... buôn bán, sản xuất sầm uất. Nền
kinh tế tự phát tư bản chủ nghĩa xuất hiện trong lòng xã hội phong kiến chuyên
chế mọt ruỗng đang trên đà tan rã, đã sản sinh ra một lớp thị dân thành thị, có
những nhu cầu thẩm mĩ mới. Hồng lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng
của thời đại: tinh thần dân chủ, tinh thần phê phán đời sống xã hội phong kiến
mục nát, phê phán những giáo điều cổ hủ đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự
do yêu đương và mưu cầu hạnh phúc, giải phóng cá tính, khao khát tự do bình đẳng…
Tác giả của Hồng lâu mộng là Tào
Tuyết Cần(*). Tào Tuyết Cần sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, gia đình đời
đời thế tập chức Giang Ninh chức tạo là một chức quan “tam phẩm đại
thần”, thu thuế tại Giang Ninh thành. Nhà họ Tào còn có truyền thống văn chương
thi phú. Ông nội Tào Dần là một danh sĩ nổi tiếng vùng Giang Ninh. Nhưng đến đời
của Tào Tuyết Cần, gia đình gặp đại họa, cha mắc tội, bị cách chức, hạ ngục, tịch
biên tài sản. Tào Tuyết Cần đã phải sống trong những ngày cay đắng nhất của đời
mình với nghèo khổ, đi khắp nơi để mưu sinh, sống trong cảnh "cả nhà rau
cháo, rượu thường mua chịu".
Tào Tuyết Cần đã dồn toàn bộ
trí lực để tạo nên kiệt tác Hồng lâu mộng trong mười năm
cuối đời. Tác phẩm đã được ông sửa chữa 5 lần trong cảnh cùng khốn, thê thảm.
Khi ông còn sống tác phẩm đã chưa hoàn thành và không được công bố. Sau khi ông
qua đời, hai mươi tám năm sau, Cao Ngạc (2) đã dựa vào di thảo của ông để hoàn
thành nốt bằng việc viết tiếp 40 hồi. Cao Ngạc đã đổi tên Thạch đầu kí thành Hồng
lâu mộng (Giấc mộng trong lầu son). Theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu
văn học thì 40 chương sau của Cao Ngạc viết tiếp không hay như 80 chương đầu của
họ Tào. Nhưng Cao Ngạc đã làm cho tác phẩm trọn vẹn, cho thấy họ Cao cũng là
người đã sống với tác phẩm và đã nghiên cứu rất kĩ về văn phong của Tào Tuyết Cần.
Hệ thống văn bản của Hồng
lâu mộng khá phức tạp và đó là đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
văn học chuyên về Hồng lâu mộng gọi là Hồng học (3). Công
chúng văn học phổ cập được tiếp cận với Hồng lâu mộng chủ yếu qua Trình
bản do Trình Vĩ Nguyên(4) và Cao Ngạc đồng xuất bản hai lần vào các năm
1791, 1792, gồm 120 hồi. Kể từ đó, Hồng lâu mộng
được in và lưu truyền rộng rãi.
Người ta cho rằng cốt truyện dựa trên hiện thực của chính dòng họ, gia đình Tào
Tuyết Cần trước đây, là chuỗi tự sự lớn nhất của đời ông, như là một sự nuối tiếc
thời kì vàng son rực rỡ, đồng thời nó cũng phản ánh bản chất xã hội phong kiến
Trung Quốc giai đoạn ông sống. Như lời Tào Tuyết Cần nói, ông chỉ viết để bày tỏ
tâm sự của bản thân, giải tỏa nỗi niềm "cô phẫn" nên không có ý định
xuất bản. Tuy nhiên ông đã tốn rất nhiều sinh lực và tâm huyết trong mười năm
cuối cùng của cuộc đời, đến nỗi ông cũng phải thốt lên:
“Xem ra chữ chữ toàn bằng
huyết
Cay đắng mười năm khéo lạ
lùng".
Cốt truyện của Hồng lâu
mộng
Hồng lâu mộng xoay
quanh câu chuyện tình duyên trắc trở giữa hai anh em con cô con cậu Giả Bảo Ngọc
và Lâm Đại Ngọc, từ đó mô tả cuộc sống nhiều mặt của một đại gia đình quý tộc đời
Thanh từ lúc cực thịnh cho đến lúc suy vi trong vòng tám năm.
Tiểu thuyết mở đầu bằng một
huyền thoại: Nữ Oa luyện đá ngũ sắc vá trời, luyện được năm vạn lẻ một viên.
Viên linh thạch còn thừa được đưa về trời chăm sóc cây tiên Giáng Châu. Thần
Anh và Giáng Châu duyên nợ, chịu ơn nhau nên phải đầu thai xuống hạ giới để
"lấy hết nước mắt của đời ta để trả lại cho chàng". Từ đó dẫn ra bao
nhiêu oan gia phong lưu đều phải xuống trần để trả duyên nợ, sinh ra bao nhiêu
chuyện sau này.
Đá thiêng hóa thành Giả Bảo
Ngọc. Cây thiêng hóa thành Lâm Đại Ngọc. Gia đình họ Giả vốn có nhiều công lao
với triều đình, số lượng kẻ hầu người hạ có lúc lên tới 448 người, sống trong
hai tòa dinh cơ tráng lệ bậc nhất Kinh thành. Ninh Quốc công và Vinh Quốc công
là hai anh em ruột. Ninh Công là trưởng, sau khi mất con lớn là Giả Đại Hóa tập
tước. Con cả Giả Phụ mất sớm, con thứ Giả Kính tập tước. Giả Kính chỉ say mê tu
tiên luyện đan nên nhường cho con lớn Giả Trân tập tước, con gái thứ là Giả
Tích Xuân được đem sang ở trong phủ Vinh Quốc. Giả Trân (vợ Vưu Thị) có một đứa
con trai là Giả Dung (vợ là Tần Khả Khanh), hai cha con chẳng chịu học hành, chỉ
lo chơi bời cho thỏa thích, đảo lộn cả cơ nghiệp phủ Ninh. Còn phủ Vinh, sau
khi Ninh Công chết, con trưởng là Giả Đại Thiện tập tước. Sau khi mất, Vợ Thiện
là Giả mẫu (họ Sử) trở thành người cầm cân nảy mực của gia đình. Giả mẫu có ba
con, con trưởng là Giả Xá (vợ là Hình phu nhân) được tập tước. Xá có con trai
là Giả Liễn (vợ là Vương Hy Phượng) và con gái (con nàng hầu) là Giả Nghênh
Xuân. Em của Xá là Giả Chính (có vợ là Vương phu nhân) được Hoàng thượng đặc
cách phong tước. Giả Chính có ba người con, con lớn Giả Châu (vợ là Lý Hoàn) mất
sớm, để lại một con trai là Giả Lan; con gái thứ Nguyên Xuân tiến cung làm phi
tử ; Giả Bảo Ngọc là cậu ấm hai, sinh ra đã ngậm một viên "Thông linh
Bảo Ngọc", là niềm hi vọng của gia đình họ Giả. Ngoài ra còn có Giả Thám
Xuân và Giả Hoàn là con của nàng hầu Triệu Di Nương. Giả Chính và Giả Xá còn có
một em gái tên Giả Mẫn, lấy chồng là Lâm Như Hải người Cô Tô, làm quan Diêm
chính thành Duy Dương, có một cô con gái tên Lâm Đại Ngọc. Bố mẹ mất sớm, Lâm Đại
Ngọc được Giả mẫu đem về nuôi trong phủ Vinh Quốc.
Trong Vinh quốc phủ còn có
gia đình của Tiết phu nhân, vốn là em gái Vương phu nhân, cùng con trai cả Tiết
Bàn và con gái Tiết Bảo Thoa vừa vào Kinh cùng đến ở.
Vì con gái của Giả Chính là
Nguyên Xuân được vua phong là Nguyên phi nên để mỗi lần về tỉnh thân, phủ Vinh
quốc cho xây dựng vườn Đại quan cực kì tráng lệ. Khu vườn Đại quan này chỉ dành
cho 12 tiểu thư xinh đẹp của hai phủ Vinh và phủ Ninh lui tới vui chơi. Giả Bảo
Ngọc là cậu ấm duy nhất được lui tới và tìm được người tâm đầu ý hợp là Lâm Đại
Ngọc. Nhưng mọi người trong gia đình không muốn cuộc hôn nhân này diễn ra. Lâm
Đại Ngọc là người con gái dung mạo tuyệt sắc, là một tâm hồn thi phú đích thực
nhưng vô cùng nhạy cảm và mảnh mai, lại cám cảnh ăn nhờ ở đậu nên tính tình
càng thêm sầu bi, cô độc. Cho nên nàng thương hoa, khóc hoa, chôn hoa, tâm hồn
nàng như một sợi tơ đàn mảnh mai, bất kể một giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều
âm vang một điều bi thương đứt ruột. Nàng cho rằng Giả Bảo Ngọc không cần thi cử,
làm quan; lánh xa công danh phú quý. Trong khi đó, Tiết Bảo Thoa, người con gái
đài các, sắc sảo, đức hạnh theo đúng khuôn phép chuẩn mực phong kiến lại luôn
khuyến khích Bảo Ngọc học hành đỗ đạt để lọt vào tầm ngắm của các bậc huynh trưởng
trong dòng họ. Lúc đầu, Giả Bảo Ngọc còn phân vân trước tình yêu của Tiết Bảo
Thoa, "gần cô chị thì quên khuấy cô em"; song dần dần, nhận thấy Tiết
Bảo Thoa chỉ mong ngóng cái danh "lập thân", nên Giả Bảo Ngọc đã dành
trái tim mình cho Lâm Đại Ngọc, mong muốn lấy nàng làm vợ. Gia đình họ Giả coi
đó là một tai họa.
Trong lúc thế lực của hai phủ
họ Giả bị lung lay do mắc tội với triều đình, cả hai phủ đều bị phân li, kẻ chết
người đi đày, trong một cố gắng cuối cùng nhằm cứu vãn gia tộc, Phượng Thư (chị
dâu của Bảo Ngọc) đã đặt kế tráo hôn. Khi mở khăn che mặt cô dâu thấy không phải
Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc bỏ đi, về sau hóa thành đá. Lâm Đại Ngọc nghe tiếng
pháo đám cưới của Giả Bảo Ngọc, uất ức phát bệnh, ho ra máu mà chết. Kết thúc
pho truyện là một khúc nhạc ai oán cho cuộc sống vương giả như mây tan bèo dạt,
như một "giấc mộng trong lầu son" như một sự chiêm nghiệm về lẽ đời của
họ Tào. Cũng có một kết thúc khác là Giả Bảo Ngọc chấp nhận sống với Tiết Bảo
Thoa, sinh được con trai nối dõi, chăm chỉ học hành thi đỗ cử nhân rồi xuất gia
nhưng cái kết này không được độc giả yêu thích, cũng có thuyết cho là của người
sau thêm vào
Thi pháp nhân vật: Những
nét mới trong thi pháp
Hồng lâu mộng không những
có một nội dung mới mang ý nghĩa thời đại, nó còn làm được một việc lớn lao nữa
là đổi mới thi pháp tiểu thuyết Trung Quốc. Tiểu thuyết Trung Quốc
trước đây, chủ yếu là tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc chí diễn nghĩa,
Thủy hử, Tây du ký... thiên về mô tả hành động, miêu tả hoạt động bên ngoài và
lời nói của nhân vật. Con người trong những tiểu thuyết đó, còn giản đơn, nhất
quán trong một tính cách, rạch ròi trung, nịnh đôi đường. Những truyện ngắn
“truyền kì”, những truyện ngắn trong LiêuTrai chí dị (5) đã bắt
đầu thấm đẫm màu sắc con người thị dân với những khát vọng nồng nhiệt hơn, phức
tạp hơn nhưng vẫn chưa có một thi pháp tiểu thuyết thực sự phản ánh một cách
nhìn mới về con người. Hồng lâu mộng đã làm được việc đó.
Dĩ nhiên là trong những hạn
chế gay gắt của thời đại. Dù cho có những nhân tố tư bản chủ nghĩa, nhân tố
kinh tề hàng hóa, thị trường, thành phố, thị dân... xã hội Trung Quốc vẫn là xã
hội phong kiến, và cái con người “mới” mà người ta chờ đợi đó đã xuất hiện chưa
hoàn chỉnh; thi pháp tiểu thuyết trong Hồng lâu mộng đã mang một số
nhân tố mới của tiểu thuyết cận đại phương Tây, nhưng nó chưa thể đi xa hơn nữa.
Nó vẫn còn bị giam mình trong cái khung tiểu thuyết chương hồi truyền thống, lấy
“kể việc” làm phương tiện chủ yếu khám phá của con người
Trước hết, đó là cách nhìn
con người trong sự phát triển đầy mâu thuẫn, sự phát triển biện chứng, có chiều
sâu đầy kịch tính, được chiếu dọi từ nhiều phía và được đặt trong những mối
quan hệ phức tạp.
Nhìn vào hình tượng những
nhân vật chính trong Hồng lâu mộng, có thể nói Tào Tuyết Cần đã sáng tạo
nên hình tượng rực rỡ của hai nhân vật nam và nữ chính là Giả Bảo Ngọc và Lâm
Đại Ngọc. Đối lập với hai nhân vật này, Tào Tuyết Cần còn sáng tạo nên một
hình tượng nhân vật có ý nghĩa điển hình rất cao là Tiết Bảo Thoa. Qua việc
khắc họa tính cách ba nhân vật này, cùng quan hệ yêu đương phức tạp của họ, tác
giả đã phơi bày mối xung đột, mâu thuẫn có nhiều ý nghĩa xã hội với một sức mạnh
nghệ thuật vô biên.
Nhân vật Giả Bảo Ngọc được
Tào Tuyết Cần tập trung bút lực và gửi gắm vào đó nhiều tâm huyết nhất và cũng
là nhân vật xuyên suốt Hồng lâu mộng. Số phận và tính cách của Giả Bảo Ngọc
đã được tác giả miêu tả không đơn giản. Đó là mâu thuẫn giữa khát vọng tự do và
sự ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Đó là tình yêu chân
thành và quý báu như chính sinh mệnh của anh ta và lạ thay, anh ta hầu như chẳng
làm được gì, chẳng chiến đấu dũng mãnh gì để đoạt lấy hạnh phúc! Mọi việc gần
như đã phó mặc! Trước khi chết, Lâm Đại Ngọc oán giận, đau buồn đốt khăn tặng,
đốt tập thơ..., không phải là không có lý! Anh ta chưa bao giờ xứng đáng là một
trang “tu mi nam tử” có lý tưởng, kiên định! Vấp phải những mâu thuẫn nghiệt
ngã của thời đại, anh ta sinh ra đau thần kinh, mắc chứng “ngây”, cứ cười hì hì
suốt ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch. Cuối cùng giải pháp “đi tu”
(phản ánh sự từ chối, sự phản kháng dù yếu ớt) đã được anh ta chọn lựa. Đi thi
và thi đỗ cao để an ủi gia dình, rồi bỏ trốn đi tu, Giả Bảo Ngọc đã đi hết sự
phát triển tính cách một cách hợp lý và quả là qua số phận anh ta, như một số
nhà nghiên cứu nhận định, có sự gởi gắm, có sự thể hiện một phần nào bản thân
tác giả. Đó đúng là một số phận tiểu thuyết theo ý nghĩa hiện đại của từ này.
Nhân vật Lâm Đại Ngọc là
một tính cách đặc sắc khác. Xuất thân trong một gia đình “thư hương môn đệ” đời
đời tập tước Hầu, vì cha mẹ mất sớm, Lâm Đại Ngọc đến ở trong phủ họ Giả lâu
dài với tư cách là người thân. Cô gái giàu lòng tự ái này, sống trong cảnh ăn
nhờ ở đậu, nhưng chẳng những nàng không hề thay đổi tính cách “kiêu kì cao ngạo”
của mình mà lại càng để ý đến xung quanh với thái độ nghi ngờ, mẫn cảm…Cuộc sống
ăn nhờ ở đậu đã tạo nên nỗi đau ngầm khó tan trong sâu thẳm tâm hồn nàng. Nàng
không chịu tuân theo số mệnh nhưng lại không làm sao thoát khỏi cái số mệnh ấy.
Vì thế, nàng thường than thân trách phận, cám cảnh cho thân mình. Cuộc sống phồn
hoa trong Giả phủ chỉ gợi lên trong lòng nàng nỗi buồn thương vô hạn. “Đa sầu
đa cảm” trở thành nét đặc trưng trong tính cách cô gái này… Nàng yêu Giả Bảo Ngọc,
nhưng do thân phận của nàng, mỗi khi Giả Bảo Ngọc ngỏ lời là nàng lại giận hờn,
buồn tủi, làm ra vẻ cự tuyệt... “Bảo Ngọc cười nói: - Tôi là người nhiều sầu,
nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành”. Lâm Đại Ngọc nghe thấy câu
ấy, mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không
phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải trợn. Má đào nổi giận, mặt
phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Giả Bảo Ngọc: “- Anh nói bậy, muốn chết đấy! Dám đem
những lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy”.
Điều đó làm cho nàng trở nên đáng yêu và tội nghiệp, làm cho nàng trở nên nhiều
nữ tính hơn. Không một nét giả dối, nàng là một nhân vật đã hiện ra với chiều
sâu tâm lý đa dạng, được bộc lộ qua tình yêu, qua những quan hệ khác. Phút cuối
cùng, nghe nói Giả Bảo Ngọc sắp lấy vợ, và người được chọn sẽ là người trong Giả
phủ, Lâm Đại Ngọc chắc mẩm người đó sẽ là mình. Chứa chan hy vọng, và từ đau buồn
tuyệt vọng, trong ốm đau, nàng trở lại sống linh hoạt, tươi đẹp... Ai ngờ đó là
phút nàng ở gần sự kết thúc nhất. Những biến động tâm lý như vậy làm cho nhân vật
thực, gần gũi, phong phú, hấp dẫn.... và về mặt soi rọi tâm lý nhân vật, đã đạt
đến trình độ của nhân vật tiểu thuyết hiện đại.
Nhân vật Tiết Bảo Thoa là
một tính cách gần như đối nghịch với Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc; chính những
nhân vật trong Hồng lâu mộng đã phát triển trong sự đối nghịch như vậy,
làm cho cuốn tiểu thuyết đa diện, đa thanh. Tiết Bảo Thoa không bộc lộ hoàn
toàn theo những tình cảm chân thực như Lâm Đại Ngọc, mà thường được cân nhắc đắn
đo. Nàng lúc nào cũng “an phận tùy thời”, “giả ngu giả dại”, nhất cử nhất động
đều tỏ ra rất mực “đoan trang hiền thục”. Nói cách khác, Tiết Bảo Thoa là một
nhân vật phụ nữ lí tính. Nàng còn ít tuổi mà đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả đều
đúng mực, hợp lí, nàng là hiện thân của nguyên lí đạo đức phong kiến. Bao giờ
nàng cũng là một người con gái sống cho gia đình, sống cho ý định người khác và
ý định đó luôn được nàng chấp nhận vì đó cũng chính là của nàng. Sự hòa hợp giữa
nàng và gia pháp phong kiến là điều hoàn toàn tự nguyện. Nàng là người có học,
xem nhiều sách, biết làm thơ, nhưng lại tâm sự và răn đe Lâm Đại Ngọc: "Bọn
con gái chúng ta không biết chữ càng tốt... Ngay đến cả việc làm thơ, viết chữ
đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải phận sự của bọn
con trai nữa.Người con trai đọc sách nhiều phải hiểu nghĩa lí để ra giúp
dân trị nước mới đúng...”. Với Giả Bảo Ngọc, một người không yêu nàng, nhưng
nàng theo sự sắp đặt của bề trên, lấy Giả Bảo Ngọc không một chút tự ái, nàng
làm bổn phận của người vợ. Nếu nói “bản chất” và “bản lĩnh” giai cấp thì quả
nàng là hiện thân của giai cấp. Khi con hầu Kim Xuyến nhảy xuống giếng tự tử,
Vương phu nhân cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhưng nàng thì không, nàng tươi cười,
an ủi đổ lỗi cho Kim Xuyến và nói: “Dì cũng chẳng nên lo lắng buồn bã làm gì,
chỉ cần cho vài lạng bạc làm ma cho nó là trọn tình chủ tớ rồi”. Nàng đã bày kế
“ve sầu lột xác” để đánh lừa bọn con hầu, tránh điều bất lợi cho mình. Tiết Bảo
Thoa lúc nào cũng tỉnh táo, cũng lắm mẹo. Nhưng nàng cũng là một nhân vật đáng
thương. Nàng cũng yêu Giả Bảo Ngọc mà phải tự kiềm chế, che giấu trong lòng. Điều
quan trọng là thái độ căm ghét của Giả Bảo Ngọc đối với lối sống phong kiến
“làm quan trị nước” không thể không xung đột với nàng về mặt tư tưởng. Điều đó
đưa đến mâu thuẫn trong tình yêu của nàng đối với Giả Bảo Ngọc: quan
hệ giữa nàng và Bảo Ngọc “như gần như xa”! Mâu thuẫn này đến tận cuối cũng
không thể được giải quyết: Rốt cuộc, tuy nàng và Bảo Ngọc thành vợ chồng nhưng
không được hưởng hạnh phúc của Tình yêu, rốt cuộc nàng cũng trở thành một nhân
vật bi kịch. Bi kịch của nàng là bi kịch của một người trung thành với đạo đức
phong kiến.
*
Tào Tuyết Cần có tư tưởng tiến
bộ nên Hồng lâu mộng có ý nghĩa phê phán xã hội phong kiến sâu sắc.
Nhưng nếu ông thiếu cái khả năng biểu hiện nghệ thuật thật cao, thì sức mạnh của
nhà nghệ sĩ ở ông không thể phát huy được xuất sắc như thế. Tào Tuyết Cần một mặt
kế thừa kinh nghiệm sáng tác của các tác gia thời đại trước, mặt khác mở đường
và sáng tạo thêm, đưa nghệ thuật sáng tác tiểu thuyết cổ điển lên đỉnh cao mới.
Thành tựu to lớn của Hồng
lâu mộng trước hết thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, và điều đặc biệt
là xây dựng rất nhiều nhân vật cùng một lúc. Trong đó có nhiều nhân vật đều do
tác giả dựa vào đời sống mà sáng tạo nên và điều đặc sắc là “loại kiểu” nhân vật
này xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc. Những nhân vật đó
sống động, có máu thịt, có cá tính rõ nét. Có một số nhân vật nhà văn chỉ phác
họa sơ qua vài nét cũng để lại ấn tượng rất sâu sắc cho người đọc. Đáng chú ý
là, trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần miêu tả nhiều nhất là phụ nữ,
mà chủ yếu lại là những thiếu nữ giống nhau hoặc na ná như nhau về độ tuổi,
hoàn cảnh sống, cách sống. Rõ ràng điều đó làm cho việc miêu tả gặp rất nhiều
khó khăn. Nhưng Tào Tuyết Cần không những có thể miêu tả được hết sức rõ ràng
cá tính của từng người, mà đến cả những tính cách gần giống nhau, chỉ khác ở những
nét đặc trưng hết sức tinh tế, cũng được ông khắc họa rõ ràng tỉ mỉ. Ví dụ tính
ôn hòa, nhân hậu, dịu dàng của Bình Nhi khác với tính ôn hòa, nhân hậu, dịu
dàng của Tập Nhân ; tính phóng khoáng bộc trực của Sử Tương Vân khác với tính
phóng khoáng bộc trực của chị ba Vưu ; Lâm Đại Ngọc và Diệu Ngọc đều có tính
kiêu kì, cô độc, nhưng họ lại có điểm khác nhau, một người nhập thế, còn người
kia thì xuất thế. Tính kiêu kì cô độc ở Lâm Đại Ngọc khiến người ta cảm thấy
nóng, nhưng cũng tính này ở Diệu Ngọc lại làm cho người ta thấy lạnh. Quả là “mỗi
người một vẻ mười phân vẹn mười”! Chính vì vậy, Hồng lâu mộng còn có
lúc được người ta gọi là Thập nhị kim thoa!
Đối với cô gái chan chứa
tình thơ như Lâm Đại Ngọc, cố nhiên Tào Tuyết Cần hết lời khen ngợi rồi. Nhưng
dưới ngòi bút của ông, ngay cả những cô nữ tì, a hoàn chẳng được học hành gì,
cũng được thể hiện rất duyên dáng, tràn đầy nữ tính, khiến người ta cảm động
khôn cùng. Vì nỗi bất hạnh của người khác mà cảm thấy đau khổ, thương cảm không
nguôi như Tử Quyên, hay có nhiệt tình nồng nàn, bỏng cháy nhưng lại bị dập tắt
phũ phàng như Tình Văn, đều đã từng làm cho người đọc cảm động đến rơi lệ.
Thông qua bấy nhiêu hình tượng nhân vật được khắc họa khéo léo, nhất là thông
qua những thiếu nữ trẻ trung bị chà đạp, bị hãm hại, mỗi người mỗi cách, Tào
Tuyết Cần đã khiến cho Hồng lâu mộng trở thành bản cáo trạng phản đối
xã hội ấy một cách sâu sắc.
Thành công lớn về mặt nghệ
thuật của Hồng lâu mộng còn thể hiện ở chỗ tác giả có tài phản ánh hiện
thực đời sống mà không để lại dấu vết nhân tạo nào trên tác phẩm. Tự nhiên,
không tô vẽ, hay nói cách khác, khéo như thợ trời, đó là đặc sắc nổi bật của
thiên tài Tào Tuyết Cần. Trong Hồng lâu mộng, mọi thứ đều sinh động, có sức
sống dồi dào; mọi thứ đều phức tạp rối rắm, muôn màu muôn vẻ, nhưng lại trong
sáng rõ ràng.
Cuộc sống được tái hiện
trong Hồng lâu mộng, dường như không hề qua tay nhà văn đẽo gọt công phu,
khắc họa tỉ mỉ gì cả, mà chỉ là theo dáng dấp vốn có tràn lên trên mặt giấy một
cách tự
nhiên, như cảnh vật thiên
nhiên trời cao đất rộng, không hề tô điểm, hiện ra trước khung cửa sổ nhà ta.
Đó chính là tuyệt bút vậy.
Đặc điểm về mặt sáng tác Nghệ
thuật của HLM là Chủ nghĩa hiện thực nghiêm ngặt. Bộ tiểu thuyết sở dĩ sinh động,
tự nhiên đến mức hầu như không thấy được dấu vết tô vẽ gì cả, là có quan hệ mật
thiết với đặc điểm ấy. Khi miêu tả, tác giả đã phản ánh tỉ mỉ sâu sắc nhưng lại
khái quát cao độ bộ mặt chân thực của cuộc sống. Mỗi người mỗi việc, tác giả
không hề xử lý giản đơn, như trong hồi mở đầu cuốn sách, ông đã nói: “Đều là
theo dấu tìm vết, không dám thêm bớt xuyên tạc”. Chính vì vậy mà HLM càng tỏ ra
tự nhiên, giống thật mà lại phong phú muôn màu muôn vẻ như chính bản thân cuộc
sống vậy.
Kết cấu Nghệ thuật của
HLM cũng rất tài tình. Mỗi tình tiết, chương, đoạn thay đổi, phát triển đều như
một dòng nước uốn lượn, ta chỉ gặp sự lưu loát, chứ không hề thấy gượng gạo, đứt
đoạn, chắp vá. Cuộc sống được phản ánh trong HLM gắn bó thành một chỉnh thể
không thể tách rời được, y như cuộc sống trong thực tế. Đằng sau những sự việc
rối rắm đan xen chồng chéo với nhau của cuộc sống, đều có ngọn nguồn và những
đường dây nối liền và những mạch ngầm đúng như người ta nói: Lối bụi đường mòn
giấu mạch ngầm ngàn dặm! Tào Tuyết Cần có tài thâu tóm được đời sống bao la
muôn vẻ vào tay mình, rồi triển khai tuần tự, thể hiện hài hòa mà chẳng hề làm
gián đoạn, mất mát. Bộ tiểu thuyết đầu đuôi ăn khớp, mọi mặt đều liên quan đến
nhau, hầu như khó rút được chương đoạn nào khỏi cuốn sách mà không làm tổn hại
đến đường mối xung quanh. Dưới ngòi bút của Tào Tuyết Cần, các tình tiết, các mẩu
chuyện đều được biến thành những bộ phận phức tạp của một chỉnh thể, chúng lại
đan cài vào nhau, ẩn hiện trong tác phẩm. Đồng thời, những tình tiết và nhân vật
đó không ngừng được mở rộng, làm phong phú sâu sắc thêm, và vận động theo một
hướng chung.
Điểm nổi bật ở HLM là Tào
Tuyết Cần đã phá vỡ cách viết truyền thống của tiểu thuyết, mở ra một thi pháp
mới của tiểu thuyết. Nếu như trước đây, nhà văn phải dựa vào những câu chuyện
éo le, li kỳ hoặc căng thẳng rùng rợn để tạo sự cuốn hút thì với HLM, Tào Tuyết
Cần đã thoát khỏi sự trói buộc của truyền thống ấy. Trong HLM, cuộc sống luôn
hiện ra chủ yếu là cuộc sống thường nhật. Chính trong cái cuộc sống thường nhật
đó, mâu thuẫn xung đột đang phát triển, câu chuyện đang diễn biến, tính cách
nhân vật đang rõ nét dần. Trong HLM cũng có cả những sự kiện, những cơn sóng to
gió lớn, đó là kết quả phát triển tự nhiên của cuộc sống hàng ngày, là biểu hiện
tập trung của mâu thuẫn và ý nghĩa cuộc sống. Tào Tuyết Cần không chỉ sành sỏi
khi miêu tả rất tinh tế, rất giống cuộc sống hàng ngày, mà ông còn có tài dùng
ngòi bút thiên biến vạn hóa miêu tả say sưa, sinh động những sự việc lớn, những
cơn sóng to gió lớn. Như đoạn Giả Bảo Ngọc bị đòn, đoạn lục soát vườn Đại quan,
đều là những đoạn viết rất hay…
Ngôn ngữ của HLM đã kế
thừa xuất sắc truyền thống tốt đẹp của tiểu thuyết cổ điển đồng thời lại vượt
hơn hẳn bất cứ tác phẩm nào trước đó. Đó là sự điêu luyện, tự nhiên và giàu sức
biểu hiện. Trong đó, ngôn ngữ nhân vật chiếm phần lớn. Rất nhiều đoạn hầu hết
là đối thoại của nhân vật, tác giả chỉ miêu tả hoặc thuật chuyện hết sức gọn ghẽ
để nối lại với nhau. Ở đây, ngôn ngữ nhân vật rất đa dạng, phong phú, luôn thay
đổi. Những lời lẽ đó, dài hoặc ngắn, thanh hoặc thô, đều hợp với từng nhân vật.
Tào Tuyết Cần đặc biệt giỏi dùng những lời đối thoại trong cuộc sống hàng ngày,
không cần tô vẽ thêm bớt gì cả, để cho nhân vật dẫn dắt chúng ta đi vào thế giới
nội tâm của họ và những chỗ sâu kín của cuộc đời. Bởi vậy có thể nói, về mặt thể
hiện ngôn ngữ
nhân vật, cùng với Thủy
hử, Hồng lâu mộng đã trở thành những tác phẩm mẫu mực trong tiểu thuyết
cổ điển Trung Quốc.
Hồng lâu mộng là một bức
tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Trung Quốc trên con đường suy
tàn. Cái vẻ ngoài tôn nghiêm nền nếp không che đậy được thực chất mục ruỗng của
giới thượng lưu sống trong Giả phủ. Cuộc sống xa hoa, dâm ô cố hữu của giai cấp
bóc lột và những mối quan hệ tàn nhẫn giữa họ với nhau đã đưa Giả phủ vào con
đường suy tàn không cứu vãn được. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung
Quốc đời Thanh. Cái cảm giác "cây đổ vượn tan", "chim mỏi về rừng"
đã chi phối ngòi bút Tào Tuyết Cần, chứng tỏ ông là nhà văn hiện thực báo hiệu
buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến. Với nhãn quan của một người có tư tưởng
dân chủ, nhà văn còn nhìn thấy những con người mới mang tư tưởng phản truyền thống.
Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đứa con "bất hiếu" của gia
đình mình, họ chống quan niệm trọng nam khinh nữ truyền thống, chán ghét khoa cử
công danh, theo đuổi một cuộc sống tự do, chống lại khuôn phép ràng buộc. Họ
yêu nhau vì phản nghịch, càng phản nghịch họ càng yêu nhau. Đó là hồi âm của cuộc
đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tư tưởng dân chủ sơ khai và tư tưởng
phong kiến.
Khi đánh giá Hồng lâu mộng,
hầu hết người ta đều không tiếc lời ca ngợi. Ta có thể thấy rất nhiều những lời
khen tặng như thế này ở những bài viết về Hồng lâu mộng:
Hồng lâu mộng lập ý mới,
bố cục khéo, từ ngữ đẹp, đầu mối rõ, khởi kết kĩ, đan cài diệu, miêu tả thật, sắp
xếp tài, kể việc thực, nói tình thiết, đặt tên sát, dùng bút kín, cái tài tình
thật không kể xiết. Hơn nữa chế giễu thì được cái hậu của nhà thơ, khen chê thì
có cái tài của sử bút, kể chuyện ma không cảm thấy hoang đường, tả sự vật không
cảm thấy chồng chất, không lời nào tự mâu thuẫn, không việc nào bất trúng nhân
tình. Ngoài ra như chúc tết mừng tuổi, mừng thọ lo tang, xem bói bốc thuốc,
thách rượu gá bạc, mất của gặp ma, bị cháy gặp cướp, cho đến những việc vặt
vãnh gia thường, tư tình nhi nữ, không có chuyện gì mà không ghi đủ. Đến như cầm
kì thi họa, y bốc tính mệnh, giải quyết rất tinh, sắp đặt xác đáng. Nhưng đặc
biệt tôi cho rằng không có gì tài khéo hơn là thơ từ câu đối hoành phi, lệnh phạt
rượu, câu đố đèn, kèm thêm văn từ, điểm diễn hí khúc, không một chỗ nào là
không ám hợp với ý chính, nhất bút song quan. Quả là một cuốn sách không tiền
tuyệt hậu, độc tuyển trên đời.
Có nhiều người với thiên kiến
hẹp hòi lại cho rằng Hồng lâu mộng là “dâm thư”, toàn miêu tả những
chuyện tình ái! Song, chính ở đây đã thể hiện rõ ngòi bút trữ tình lãng mạn tuyệt
vời của Tào Tuyết Cần: Chuyện tình ái trong Hồng lâu mộng được đan
xen tài tình giữa mộng và thực, giữa khát vọng yêu đương và thực tế phũng
phàng! Bên cạnh đó, mọi diễn biến của tình tiết yêu đương “mối tình tay ba” giữa
Giả Bảo Ngọc với Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa được lồng ghép trong những cuộc
bình thơ tưởng chừng như bất tận! Cũng có thể nói, Hồng lâu mộng là
cuốn tiểu thuyết bằng thơ! Vì thế nếu nói Hồng lâu mộng là cuốn tiểu
thuyết Ái Tình hay nhất mọi thời đại thì cũng không đến nỗi quá đáng
Sau khi Hồng lâu mộng lưu
truyền rộng rãi trong đời sống xã hội, nó không chỉ làm “mê đắm lòng người” mà nó
còn là nhân tố kích hoạt cho những cảm hứng sáng tạo mới: không ít tác phẩm văn
học đã “ăn theo” Hồng lâu mộng (6) và cũng đạt tới những thành tựu
không nhỏ. Sức hấp dẫn của Hồng lâu mộng làm người ta say mê đến nỗi
còn lưu truyền bốn câu thơ:
Tổ khoát toàn bằng nha phiến
yên
Hà phương tác quỷ thả thần
tiên
Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu
Mộng
Độc tận thi thư diệc uổng
nhiên?
Nghĩa là: Thuốc phiện
ngào ngạt nơi gác tía,
Ma quỷ, thần tiên có hại
chi?
Văn chương không nói Hồng
lâu mộng
Đọc hết Thi, Thư liệu ích
gì?
Sài Gòn, tháng 7-2010
Chú thích:
(1) Thạch đầu ký: Thạch
đầu kí tức là chuyện Thần Anh đầu thai xuống hạ giới trả nợ tình duyên rồi
lại trở về kiếp đá. Ngoài ra còn một số tên gọi khác như:
1/ Tình Tăng lục hay Phong Nguyệt bảo giám;
2/ Thập nhị kim thoa lấy chuyện mười hai cô gái đẹp trong truyện để đặt tên;
3/ Kim Ngọc kì duyên: Bảo Thoa có vàng, Bảo Ngọc có ngọc nên Bảo Ngọc lấy Bảo Thoa là Kim Ngọc kì duyên.
1/ Tình Tăng lục hay Phong Nguyệt bảo giám;
2/ Thập nhị kim thoa lấy chuyện mười hai cô gái đẹp trong truyện để đặt tên;
3/ Kim Ngọc kì duyên: Bảo Thoa có vàng, Bảo Ngọc có ngọc nên Bảo Ngọc lấy Bảo Thoa là Kim Ngọc kì duyên.
Ban đầu, Hồng lâu mộng có
tên là Thạch đầu ký. Thạch đầu ký thuộc loại tác phẩm chương hồi,
là một bộ trường thiên tiểu thuyết. Tào Tuyết Cần viết được 80 chương, "chữ
chữ đều toàn bằng máu và nước mắt". Tác phẩm ấy có thể được xem là toàn bộ
những hồi ức đau thương của công tử Tào Tuyết Cần về những ngày vẻ vang và những
ngày suy tàn của gia đình mình, của giai cấp mình. Tuy nhiên, vượt lên khỏi những
hồi ức đó, Thạch đầu ký là tác phẩm với cái nhìn rất khách quan về bản
chất ăn chơi, hưởng thụ của giai cấp quan lại quý tộc, đặc biệt là quan lại quý
tộc triều Thanh và sự suy tàn của giai cấp ấy. Nói cách khác, khi xây dựng tác
phẩm chương hồi này, Tào Tuyết Cần vừa đứng trên vị thế chủ quan của một người
trong cuộc, vừa đứng ở vị thế khách quan của một chứng nhân. Mới viết dang dở
được 80 chương, Tào Tuyết Cần qua đời.
(2) Cao Ngạc: Cao Ngạc (khoảng
1738 - 1815), tự là Lan Thự, cũng tự là Vân Sĩ, hiệu là Hồng Lâu Ngoại Sĩ, từng
làm quan dưới 2 triều Càn Long và Gia Khánh, trải qua lắm hoạn nạn trên trường
đời. Ông đã viết thêm 40 chương sau cho Thạch đầu ký căn cứ trên nền
tảng, ý hướng và văn phong của Tào Tuyết Cần. Kết cục không có hậu của tác phẩm
được đánh giá là phù hợp với phần đầu của Tào Tuyết Cần. Tác phẩm hoàn thành,
Cao Ngạc đổi tựa lại là Hồng lâu mộng (Giấc mộng lầu son), vừa phù hợp
với nội dung tác phẩm, vừa mang dáng dấp của tâm hồn ông vì hiệu của ông là Hồng
Lâu Ngoại Sĩ (người ngoài lầu son – không dính dáng gì đến công danh phú quý).
Năm 1793, Hồng lâu mộng được in ra gồm 120 chương hồi, thực sự
trở thành danh tác văn học cổ điển Trung Quốc, nhanh chóng được nhìn nhận như
là một trong những tác phẩm xuất sắc trong hơn 300 tác phẩm chương hồi thuộc
hai triều Minh – Thanh (1368 – 1911).
(3) Hồng học: Sự truyền
bá rộng rãi của cuốn tiểu thuyết này đã dẫn đến việc ra đời một ngành học lấy
tên là Hồng học. Giới nghiên cứu tổ chức định kì Hội thảo Hồng lâu mộngcó
quy mô toàn quốc. Sở nghiên cứu Hồng lâu mộng có tạp chí chuyên san để
đăng tải những nghiên cứu về Hồng lâu mộng... Hồng học ngày nay đã trở
thành một ngành học vấn ở phạm vi quốc tế. Trên thế giới chỉ có nhà soạn kịch
vĩ đại Shakespeare là cũng có vinh dự này.
(4) Trình Vĩ Nguyên: Cao Ngạc
và Trình Vĩ Nguyên là những người đầu tiên xuất bản bộ tiểu thuyết Hồng
lâu mộng đủ 120 hồi. Trình Vĩ Nguyên trong lời tựa Hồng lâu mộng (bản
Trình Giáp 1791 và bản Trình Ất 1792) viết: Hồng lâu mộng tiểu thuyết bản danh
Thạch đầu ký, tác giả tương truyền bất nhất, cứu vị tri xuất tự hà nhân, duy
thư nội ký Tuyết Cần Tào tiên sinh san cải số quá (Tiểu thuyết Hồng lâu mộng
nguyên tên Thạch đầu ký, tác giả tương truyền bất nhất, không biết do ai viết
ra, duy trong sách ghi rằng Tuyết Cần Tào tiên sinh là người san cải, biên tập). Trong
các tài liệu chính thức, người ta vẫn ghi tác giả 80 hồi đầu Hồng lâu mộng là
Tào Tuyết Cần, tác giả 40 hồi cuối là Cao Ngạc. Tuy nhiên những năm gần đây, có
ý kiến cho rằng 40 hồi cuối của Hồng lâu mộng là do Cao Ngạc cùng với
Trình Vĩ Nguyên viết. Cũng có quan điểm rằng 40 hồi cuối hoặc do Cao Ngạc viết,
hoặc do Trình Vĩ Nguyên viết. Lại có quan điểm cho rằng tác giả 40 hồi cuối là
một người khác, Trình và Cao chỉ làm công việc biên tập, sửa sang mà thôi. Lại
có ý kiến cho rằng 40 hồi cuối là di cảo của Tào Tuyết Cần. Năm 1981, Trần Bính
Tảo thông qua các số liệu thống kê về Hồng lâu mộng đã kết luận rằng
toàn bộ 120 hồi đều là nguyên tác của Tào Tuyết Cần. Cho đến nay, cuộc tranh luận
về tác giả của 40 hồi cuối (cũng như 80 hồi đầu) của Hồng lâu mộng vẫn
chưa ngã ngũ.
Trong bài Thuyền sơn
thi thảo - Tặng Cao Lan Thự đồng niên của Trương Vấn Đào có tiểu chú rằng:
"Truyền kỳ Hồng lâu mộng bát thập hồi dĩ hậu, câu Lan Thự sở bổ"
(Truyền kỳHồng lâu mộng sau tám mươi hồi đều do Cao Ngạc bổ sung), lại
có thêm câu "Hiệp khí quân năng không tử tắc, Diễm tình nhân tự thuyết Hồng
Lâu". Bản thân Cao Ngạc cũng đã viết một bài thơ đề rằng "Trọng đính Hồng
lâu mộng tiểu thuyết ký thuận đề" (Hiệu đính tiểu thuyết Hồng
lâu mộng đã đề xong). Lời Tựa Hồng lâu mộng (Hồng lâu mộng tự) của
Trình Vĩ Nguyên, Tựa Hồng lâu mộng của Cao Ngạc và Lời Mở đầu Hồng
lâu mộng (Hồng lâu mộng dẫn ngôn) của Trình, Cao đều viết rằng Cao Ngạc tế
gia ly dịch, tiệt trường bổ đoản, sao thành toàn bộ (bổ sung, sửa sang, chọn
lọc kỹ lưỡng, cắt bỏ phần dài thêm vào phần ngắn, sao lục thành bộ).
(5) Liêu Trai chí dị: Liêu
trai chí dị (những chuyện quái dị chép ở căn nhà tạm) là tập truyện ngắn gồm
431 thiên, ra đời vào đầu đời nhà Thanh (cuối thế kỷ 17) của Bồ Tùng Linh(5*).
Bộ truyện này được coi là một kì thư và được đánh giá là đỉnh cao của tiểu thuyết
văn ngôn thời cổ đại. Dựa trên cơ sở tập Liêu Trai chí dị - Hội hiệu hội
chú hội bình do Trung Hoa thư cục Thượng Hải biên tập và ấn hành năm 1962,
các dịch giả như Nguyễn Huệ Chi, Cao Xuân Huy, Phạm Tú Châu, Đỗ Ngọc Toại, Nguyễn
Đức Lân, Trần Thị Băng Thanh, v.v… đã dịch nhiều truyện sang tiếng Việt và lưu
truyền rộng rãi tại Việt Nam.
(5*) Bồ Tùng Linh: Bồ
Tùng Linh (1640-1715), tự là Liêu Tiên và Kiếm Thần, cũng có người gọi ông là
Liễu Tuyền cư sĩ. Bồ Tùng Linh sinh ra trong một gia đình tiểu thương ở huyện
Truy Xuyên (nay là huyện Truy Bác, Sơn Đông). Năm 19 tuổi, ông đỗ tú tài trong
khoa thi, nhưng phải mãi đến năm 71 tuổi ông mới đỗ cống sinh. Thân phụ của Bồ
Tùng Linh là Bồ Bàn vì lận đận nơi khoa trường, nên đã từ bỏ nghiệp nho theo
nghiệp thương gia. Sinh con đầu lòng là Triệu Kỳ nhưng chẳng may chết yểu. Đến
tuổi trung niên thì coi như ông đã tuyệt tự. Nên ông đóng cửa chuyên tâm đọc
sách và làm từ thiện. Nhưng kỳ lạ thay lúc đó ông lại có bốn người con lần lượt
là: Triệu Chuyên, Bá Linh, Tùng Linh và Hạc Linh. Bồ Tùng Linh là con dòng thứ.Ông
dành hầu hết thời gian trong việc dạy học tư, và sưu tầm những câu chuyện mà
sau này được viết trong tác phẩm Liêu trai chí dị, bao gồm 16 quyển chia
làm 431 tập truyện chính và 17 truyện phụ, vị chi 448 tập về những truyện kỳ
quái mà ông sưu tập được. Đây cũng được coi là một đỉnh cao trong thể loại truyện
ngắn cổ điển Trung Quốc.
(6) “Ăn theo” vŕ “Chuyển thể” Hồng
lâu mộng: Do Hồng lâu mộng được nhiều người yêu thích nên có ngót 40
bộ sách viết tiếp như Hậu Hồng lâu mộng,Hồng lâu mộng bổ, Hồng lâu
viên mộng... và có đến hơn 20 bộ phỏng tác như Kính hoa duyên, Thuỷ
Thạch duyên. Gần đây có: Hồng lâu mộng tân bổcủa tác giả Trương Chi, gồm
30 hồi, xuất bản năm 1984; Tào Chu bản của tác giả Chu Ngọc Thanh, gồm
39 hồi, xuất bản năm 1997; Gần đây nhất làHậu Hồng lâu mộng của tác giả Hồ
Nam với bút danh Vũ Sơn Tuyết, xuất bản năm 2007.
Chuyển thể: Hơn 200 năm nay, Hồng
lâu mộng là đề tài hấp dẫn vô cùng vô tận của sân khấu và điện ảnh, hơn 20
lần chuyển thể thành phim điện ảnh và truyền hình, trong đó hoàn chỉnh nhất có:
1987 - Phim truyền hình Hồng Lâu Mộng, đạo diễn Vương Phù Lâm, diễn viên
chính Âu Dương Phấn Cường, Trần Hiểu Húc; 2008 - Phim truyền hình Tân Hồng
Lâu Mộng, đạo diễn Lý Thiếu Hồng, đang thực hiện.
(*) Tào Tuyết Cần (1724?
- 1763?), tên thật là Tào Triêm, tự là Mộng Nguyễn hiệu là Tuyết
Cần, Cần Phố, Cần Khê.Tổ tiên ông vốn là người Hán ở Liêu Dương, sau
đó tổ xa của ông là Tào Tuấn quy hàng Mãn Châu, nhập tịch Mãn tộc.
Gia đình thế hệ trước
của Tào Tuyết Cần là một gia đình quan lại thuộc tầng lớp đại quý tộc thời nhà
Thanh Trung Quốc. Năm Thiên Khải thứ nhất nhà Minh (1618), Thanh Thái Tổ là Nỗ
Nhĩ Cáp Xích mang quân chinh phạt, đánh chiếm Thẩm Dương, Liêu Dương, tổ tiên của
Tào Tuyết Cần bị quân Thanh bắt làm nô lệ, thái cao tổ của Tào Tuyết Cần là Tào
Thế Tuyển và cao tổ là Tào Chấn Ngạn lần lượt làm gia nô cho Đa Nhĩ Cổn. Sau đó
Tào Chấn Ngạn được Đa Nhĩ Cổn phong làm phụ tá, lại có công bình định cuộc khởi
nghĩa Khương Tương nên được bổ làm tri châu Cát Châu (Sơn Tây), tri phủ phủ Đại
Đồng, Lưỡng Chiết đô chuyển vận diêm sử (chức vận chuyển muối, hàm Tam phẩm).Đến
năm Thuận Trị thứ 8 (1651), nhà họ Tào được vào Ngự tiền nội vụ phủ, phụ trách
các việc tạp vụ trong cung đình, cụ nội của Tào Tuyết Cần là Tào Tỷ được Vương
phủ hộ vệ thăng làm Nội đình nhị đẳng thị vệ (thị vệ hạng hai trong
cung).
Nhà họ Tào và vương triều
Mãn Thanh có quan hệ khá mật thiết. Vợ của Tào Tỷ họ Tôn là vú nuôi của vua
Khang Hy, ông nội của Tào Tuyết Cần là Tào Dần còn là bạn học và ngự tiền thị vệ
của Khang Hy, do đó được Khang Hy chiếu cố và sủng tín rất đặc biệt. Năm Khang
Hy thứ hai (1663), Tào Tỷ đảm nhận chức Giang Ninh chức tạo là một chức
quan to thu thuế trong triều đình, phụ trách việc thu thuế cả một vùng Giang
Nam rộng lớn và nắm việc thu mua, cung ứng tơ lụa gấm vóc cho cung đình đồng thời
giám sát các quan lại ở phương Nam và ông đã đảm nhận chức này suốt 22 năm.
Khang Hy trọng đãi Tào Tỷ rất hậu, tặng thưởng mãng bào, đích thân viết
hai chữ kính thận để tặng Tào Tỷ, sau khi Tào Tỷ mất được Khang Hy
phong hàm Nhất phẩm Công bộ thượng thư, bản thân còn hứa rằng nửa năm sau
khi đi tuần Nam sẽ vào thăm gia thuộc họ Tào.
Sau khi Tào Tỷ chết, Tào Dần
nhậm chức Tô Châu chức tạo, rồi kế nhiệm chức Giang Ninh chức tạo và Lưỡng
Hoài tuần diêm ngự sử, thăng Thông chính sứ ty thông chính sứ, là một
trong "Cửu khanh", đường đường "tam phẩm đại thần".
Tào Dần còn là một nhà thơ, nhà văn rất nổi tiếng, tinh thông thi từ, âm nhạc,
thư pháp, chính Tào Dần là người đứng ra hiệu đính và in ấn bộ Toàn Đường thi nổi
tiếng, đồng thời là tác gia tên tuổi vớiLuyện đình thi sao và nhiều trước
tác khác. Đời Tào Dần là thời kỳ cực thịnh của nhà họ Tào, năm lần vua Khang Hy
tuần du phương Nam thì bốn lần Tào Dần phụ trách tiếp giá, vợ Tào Dần là con
gái Lý Sĩ Trinh làm tuần phủ Giang Nam, hai con gái Tào Dần đều được tuyển làm
Vương phi. Trong thời gian làm quan, Tào Dần đã tham ô và bòn rút của công,
nhưng do quan hệ mật thiết với triều đình nên các lời đàn hặc tâu lên đã không
được Khang Hy phê chuẩn.
Năm Khang Hy thứ 51 (1712),
Tào Dần bị bệnh mất, Khang Hy phê chuẩn cho con là Tào Ngung giữ chức Giang
Ninh chức tạo, được ba năm thì mất. Khang Hy lại phê chuẩn cho con người vợ kế
của Tào Dần là Tào Thiếu kế nhiệm chức Giang Ninh chức tạo.
Năm 1722 Khang Hy qua đời,
Ung Chính lên ngôi, nội bộ triều đình tranh giành quyền lực, nhà họ Tào bị thất
sủng. Năm Ung Chính thứ 5 (1729), Ung Chính hạ lệnh cách chức Tào Thiếu với tội
danh hành vi bất đoan, nhũng nhiễu dịch trạm, thiếu khống rồi
hạ ngục trị tội, gia sản nô bộc bị tịch thu cấp cho quan Giang Ninh chức tạo mới.
Tào Tuyết Cần phải theo gia đình rời Giang Nam về Bắc Kinh sinh sống.
Từ đó nhà họ Tào lâm vào sa sút.
Tào Tuyết Cần sinh ra
và lớn lên khi nhà họ Tào đã sa sút, gia đình ông sống rất nghèo khổ ở ngoại ô
Bắc Kinh, nơi ông sống là Hổ môn (tức nhà Tông học của triều Thanh).
Chính cuộc sống cơ cực đã thôi thúc Tào Tuyết Cần viết nên Hồng lâu mộng,
một tác phẩm Tự tự khán lai giai thị huyết, Thập niên tân khổ bất tầm thường (mỗi
chữ xem ra đều là máu, mười năm cay đắng chẳng tầm thường). Ông đã dồn hết cả
tâm huyết để phi duyệt thập tải, tăng san ngũ thứ (viết trong mười
năm, 5 lần sửa chữa), rồi qua đời trong bệnh tật nghèo túng chẳng bao lâu sau
cái chết của đứa con trai độc nhất khi tác phẩm vẫn còn dang dở. Tào Tuyết Cần
chết, con cái không còn, chỉ còn duy nhất người vợ góa bụa, tiền nong không có,
chỉ còn vài ba người bạn thương tình, tống táng qua quýt.
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/
Đỗ Ngọc Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét