Có lần, dăm ba người có
thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được
nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là
ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt,
cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay! Theo kinh nghiệm của
riêng tôi, điều gì mà mau chóng dễ dàng nhất trí thường là nhạt nhẽo, chẳng mấy
giá trị thực tiễn. Còn ý nghĩa lý luận thì hẳn nhiên là không nên đặt ra làm
gì: không có phát kiến mới mẻ đích thực nào lại nảy sinh trong sự êm thuận cả!
Vậy trong quan niệm văn
chương ở ta hiện giờ, đáng e ngại nhất là điều gì? Chúng tôi nghĩ, chính
là thiển kiến, thiên kiến, thành kiến – nhất là thành kiến. Chắc sẽ
có người cật vấn: thế còn lầm lạc, sai lệch trong quan niệm thì sao? Câu trả lời
là: đáng sợ chứ không đáng ngại, vì cái sai ở đây thường dễ phát hiện ra,
dễ đồng tình phê phán, và dễ cùng nhau né tránh. Còn thiển kiến, thiên kiến,
thành kiến thì khác, khó nhận ra hơn (người ta hay mang tâm lý xem thường
chúng), lại phổ biến hơn (hầu như ai cũng mắc phải, không ít thì nhiều).
Biểu hiện rõ nhất của cái
nhìn thiển kiến là xem nhẹ đặc trưng văn chương, đánh đồng sản phẩm văn chương
với các sản phẩm khác của con người và xã hội, không thấy vẻ linh diệu của lao
động sáng tạo, cảm thụ, và phê bình văn chương. Ví như, xem viết văn giống như
bao hoạt động sản xuất vật chất, tác phẩm như một loại hàng hóa, và cảm nhận
như một quá trình tiêu thụ. Còn thiên kiến trong cái nhìn văn chương lại quá
chú trọng đến mặt này hay mặt khác trong nhận diện và đánh giá các hiện tượng,
các hoạt động văn chương. Ví như, có nhà văn quá đề cao quan niệm của M.Proust
khi ông cho rằng có hai loại ký ức, ký ức ý thức và ký ức vô thức; chỉ có ký ức
vô thức mới liên quan đến sự sáng tạo văn chương. Hoặc như, có người tuyệt đối
hóa câu nói sau của Schopenhauer: “Trong một tác phẩm nghệ thuật, cái ý muốn của
tác giả, cái mục đích tác giả tự đặt ra cho mình, không có quan hệ gì. Ý muốn ấy,
mục đích ấy chẳng có thể khiến văn thơ của một người bất tài trở nên có giá trị”.
(Xem Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1996, tr 268 – 269).
Những cái nhìn thiển kiến,
thiên kiến đối với văn chương nếu kéo dài dễ đưa tới định kiến, thành kiến, và
đây mới chính là điều đáng lo ngại nhất. Xin được phép so sánh, có thể là khập
khiễng, với chuyện ăn uống. Người ta có thể ốm yếu hoặc sinh bệnh (chứ không thể
chết được) do trong một thời gian dài toàn ăn đạm bạc hoặc độc món. Đáng ngại
là khẩu khiếu con người dần dà quen đi, đến mức không còn biết phân biệt ngon dở,
không biết nhận ra đâu là bữa ăn thanh đạm và đâu là bữa tiệc thịnh soạn nữa.
Như vậy, khi thành thói quen, nhất là khi ăn sâu vào nếp cảm nếp nghĩ thì rất
khó tẩy rửa, và vì thế rất khó tiếp nhận những gì khác với mình mặc dầu có khi
vẫn biết đó là những điều đúng đắn, hợp thời và cần thiết. Tôi tán đồng với nhà
thơ Thi Hoàng:
Muốn yêu một cái gì phải tốn
sức gấp đôi
Muốn từ bỏ một cái gì
Phải tốn sức gấp hai lần yêu
dấu!
Chỉ xin nêu một dẫn dụ: vấn
đề nội dung và hình thức của tác phẩm văn chương. Tôi dám chắc một quan niệm
như sau còn bám rễ khá sâu trong đầu óc của nhiều người, không loại trừ những
người nghiên cứu và giảng dạy văn chương lâu năm mà không chịu tìm tòi, học hỏi:
- Xem hình thức chỉ là cách
tổ chức chất liệu ngôn từ, nội dung là hiện thực được tái hiện và tư tưởng được
biểu hiện qua hình tượng.
- Nội dung quyết định hình
thức và hình thức biểu hiện nội dung.
Quan niệm hiện đại về vấn đề
cơ bản này đã thay đổi hẳn:
- Cái nhìn nhị phân bị coi
là lỗi thời. Hình thức giờ đây mang tính nội dung, và nội dung mang tính hình
thức. Đâu như nhà thơ Nga tài năng Evtushenko có nói rằng: hình của ngọn lửa và
dáng của ngựa phi đâu là vẻ bề ngoài còn đâu là chất bên trong, thật khó bề
phân biệt nổi. Và nếu một ai đó bảo hình thức là nội dung và nội dung là hình
thức thì cũng không hẳn là hoàn tòan phi lý.
- Mối quan hệ giữa nội dung
và hình thức cũng được nhận thức lại: hình thức sáng tạo, sản sinh ra nội dung.
Sẽ không có nội dung định hình từ trước, chỉ có nội dung được hình thành dần dần
cùng với hình thức.
- Bản chất của hình thức
cũng không còn như trước, nó mang tính chủ thể. M.Bakhtin phân biệt rõ hai lớp
hình thức: hình thức kiến tạo nội dung và hình thức tổ chức vật liệu tác phẩm.
Phương diện đầu là hình thức của nội dung, phương diện sau là kỹ thuật của hình
thức, chức năng của từng loại không hoàn toàn giống nhau.
Sở dĩ có sự thay đổi như vậy
vì trước nay ta thường đánh đồng phạm trù nội dung và hình thức trong triết học
với phạm trù nội dung và hình thức trong nghệ thuật học. Đúng như giáo sư Trần
Đình Sử đã viết: “Chỗ khác biệt của hình thức nghệ thuật với hình thức nhận thức
là ở chỗ người ta tìm thấy hình thức nhận thức trong đối tượng và không cảm thấy
chính mình và tính tích cực của mình” (Xem Lý luận và phê bình văn học, Nxb
Hội Nhà văn, Hà nội, 1996, tr 120).
Vấn đề nội dung và hình thức
trong tác phẩm văn chương chỉ là một ví dụ tiêu biểu. Định kiến trong quan niệm
văn chương còn có thể tìm thấy ở những phương diện khác lắm khi cốt tử và cơ bản
hơn nhiều, như quan niệm về chức năng và giá trị văn chương. Ở đây, hoài nghi
khoa học rõ ràng cần phải luôn được coi trọng. Đọc Lã thị Xuân Thu tôi
đặc biệt thấm thía chủ trương sát (xét) toàn diện mà thấu đáo. Vừa sát
kim (xét đời nay), sát hiền (xét người giỏi), sát vi (xét
những điều kín đáo), lại vừa sát truyền (xét những lời đồn đại). Đặc
biệt là vừa sát nghi (xét những điều ngờ) lại vừa sát bất
nghi (xét những điều không ngờ). Thiên Cẩn thính nói: “Nhân chủ
chi tính mạc quá ư sở nghi, nhi quá ư kì sở bất nghi; bất quá ư sở bất tri, nhi
quá ư kì sở dĩ tri. Cố tuy bất nghi, tuy dĩ tri, tất sát chi dĩ pháp, quỳ chi
dĩ lượng, nghiệm chi dĩ số. Nhược thử, tắc thị phi vô sở thất, nhi cử thố vô sở
quá hĩ” (Mối lo của bậc nhân chủ vẫn không phải là sai lầm trong những vấn
đề ông ta nghi ngờ mà chính là sai ngay ở những việc mà ông ta hoàn toàn nắm chắc
không chút nghi ngờ. Không sai ở những việc ông ta không biết, mà lại sai ngay ở
những việc ông ta đã biết. Cho nên, dẫu đã biết, vẫn phải dùng pháp chế để thẩm
sát lại, dùng độ lượng để đo lường nó, dùng số thuật để nghiệm chứng nó. Như vậy
thì sẽ tránh khỏi sự nhầm lẫn phải trái và xử lý không xác đáng).
Từ đó có thể nghĩ, mọi giá
trị đều có giới hạn và chỉ là tương đối. Không nên biến những ý kiến, dẫu là khả
tín nhất, thành những tín điều, đúng trong mọi lúc, mọi nơi. Tuyệt nhiên không
nên lơi lỏng óc tự xét, tự vấn, tự phán. Đã có quá nhiều những bài học chua cay
nhắc nhủ mỗi người chúng ta rồi. Chẳng hạn, một thời do không tìm hiểu đến nơi
đến chốn bài báo Lev Tôlstôi như là tấm gương của cách mạng Nga được
V.Lênin viết tháng 9 – 1908, nhiều người đi đến chỗ đồng nhất lý luận nhận thức
với lý luận nghệ thuật. Nên nhớ Lênin viết bài báo này gần như cùng một lúc với
cuốn Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán – công trình
chủ yếu tập trung thể hiện nhận thức luận của Người. Lênin viết bài báo trên nhằm
làm sáng tỏ bản chất của nhận thức chứ không nhằm minh họa cho bản chất của
nghệ thuật. Vậy là sẽ không có cơ sở để xem phản ánh hiện thực như là bản
chất của mọi tác phẩm nghệ thuật, và như là quy luật của mọi sáng tạo nghệ thuật.
Trong tư duy khoa học, việc
tìm hiểu cặn kẽ và vận dụng sáng tạo mọi lý thuyết tưởng là chuyện cũ hóa ra lại
luôn mới. Đáng lưu tâm là hiệu quả thực tế của nó. Phải chăng mọi trì trệ trong
sáng tác văn chương đến giờ có căn nguyên sâu xa trước hết ở quan niệm nông cạn
và ít đổi thay của người cầm bút?
Trước thách thức của văn hóa
nghe - nhìn
Cách đây không lâu, một
cây bút có tuổi gặp tôi. Anh không giấu nổi cơn thịnh nộ trước nhận xét của một
tờ báo nọ về cái gọi là “Sự lên ngôi của văn hoá nghe - nhìn”. Anh lại càng tỏ
ra bực bội hơn khi chính tôi lại đứng ra bảo vệ ý kiến đó.
- Là người cầm bút, anh lại có thể tán đồng với quan niệm xem nhẹ văn hoá đọc
được ư? Quá vẩy nước vào mặt mình còn gì!
- Nhưng, anh bạn ơi, sự thật dẫu sao cũng vẫn là sự thật. Ta phải chấp nhận, và
quan trọng hơn, phải vuợt qua thách thức này.
Mà nói đâu xa, thưa các bạn, cứ từ mình mà suy ra cũng đủ rõ. Này nhé, ở nhà, nếu
rảnh rỗi đôi chút là ta bật ti vi lên. Màn ảnh nhỏ có sức hút thật mạnh. Không
ngồi trước máy thì thôi, đã ngồi vào là triền miên, hết chương trình này đến
chương trình khác, cái nào cũng hay cả, khó dứt ra lắm. Đấy là tại nhà. Khi ra
khỏi nhà thì nào rađiô, nào “phôn”. Rời ra không được. Vật bất ly thân mà! Ngơi
ra là nghe tin tức, nghe ca nhạc... Bảo văn hoá nghe - nhìn “lên ngôi” chứ bảo
văn hoá nghe - nhìn thành “môi trường sống” của con người hiện đại e cũng không
quá đâu. Tôi thấy nhịp sống của con người thời nay biến đổi nhanh lắm, nhiều
lúc đến chóng mặt. Con người cứ như quay cuồng trong việc thỏa mãn nhu cầu làm
việc, nhận thức, hưởng thụ, vui chơi... của mình. Thời gian thì vẫn thế thôi. Một
ngày vẫn 24 tiếng, một tiếng vẫn 60 phút, một phút vẫn 60 giây... mà sao cứ thấy
ngày tháng trôi đi vèo vèo. Loáng một cái đã hết một ngày. Quay đi quay lại đã
mất đứt một tuần, một tháng... Và vì nhịp độ cuộc sống như vậy nên con người hiện
đại dường như ít đọc hơn trước.
Đôi lúc nghĩ quẩn tôi lại ao ước bao giờ cho đến... ngày xưa. Thời ấy yên tĩnh
đến lạ lùng. Người ta mê đọc sách, đọc nhiều, đọc kỹ, đọc có suy nghĩ. Đó bao
giờ cũng là mảnh đất tốt cho việc hình thành các tư tưởng. Mà đã là nhà văn lớn
thì phải có tư tưởng riêng. Có tư tưởng nhất là tư tưởng riêng, theo tôi, không
dễ chút nào. Có người nghĩ hễ có tri thức là có tư tưởng. Không hẳn vậy đâu. Tư
tưởng là sự kết tinh của tri thức và nhiều thứ nữa. Đó là muối của muối. Muốn lắng
đọng không thể thiếu tĩnh tâm. Để chiêm nghiệm, để ngẫm nghĩ. Kẻ tầm phào đã hẳn
không thể có tư tưởng. Loại “trí thức vỉa hè”, cái gì cũng biết một chút, cũng
không có tư tưởng nốt.
Nhà văn muốn trau dồi tư tưởng không thể xem thường văn hoá đọc, bởi văn hoá đọc
đòi hỏi tính tự giác rất cao. Cần gì thì đọc nấy. Thiếu sách cần thì tìm. Muốn
đọc kỹ, đọc sâu thì ta dừng lại. Chả có gì cản trở cả. Tư tưởng là bạn đồng
hành của văn hoá đọc, theo ý tôi, là theo nghĩa đó. Vậy muốn trở thành nhà văn,
hơn thế nhà văn lớn, sao có thể ít đọc cho được. Trong khi ngoài đời văn hoá đọc
đang bị xâm lấn từ nhiều phía...
Từ sự lên ngôi của văn hoá nghe - nhìn, nhiều người e ngại rồi con người hiện đại
sẽ đến lúc xem thường văn chương. Tôi không nghĩ như vậy. Văn hoá đọc có vai
trò và ưu thế riêng của mình. Văn hoá nghe - nhìn có phát triển đến đâu cũng sẽ
không bao giờ thay thế được nó. Tuy nhiên, thách thức của văn hoá nghe - nhìn đối
với nhà văn là không thể không thấy. Hãy vượt qua thách thức này cùng những
thách thức khác để văn chương ngày càng đáp ứng đòi hỏi mới của con người hiện
đại theo đặc trưng của chính mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét