Thứ Hai, 30 tháng 5, 2016

Hơn nửa đời hư 3

Hơn nửa đời hư 3
NHỰT KÝ NĂM 1945 - ÂM LỊCH, NĂM ẤT DẬU
1) Tháng giêng dương lịch có xảy ra một việc cho rằng lạ: nhơn xuống trại ruộng (đường mé sông đi Bãi Xàu) xem dỡ nóc lá cũ thay lại mới, có một con rít to bằng ngón chân cái, dài hơn một gang tay từ nóc rớt xuống, chun tót vào quần lúc nào không hay, không cắn mà cũng không động đậy. Mãi hơn hai giờ sau, tôi đạp xe trở về nhà ở đường Đại Ngãi, mở cửa vô ngồi nơi ghế xa-lông, tôi đang quạt xạch xạch, bỗng thấy đầu con rít to bằng ngón cái có hai càng to đỏ lòm to bằng đầu mút đũa ngo ngoe bò từ trong quần cụt bò ra. Tôi tá hoả tam tinh, đứng phắt dậy và tuột cái quần cụt ra, bất chấp đang đứng ở xa-lông, ngoài kia là đường cái tức giữa thập mục sở thị. Nhưng con rít to tướng kia đã vụt biến mất, tôi nhắm mắt lại để định thần, và cũng không dám tìm hiểu rít đã rớt tự nhiên hay đã chạy trốn kẹt xó nào mất dạng. Trong mắt tôi vẫn còn hình bóng nó, mình đỏ au, đầu vàng khè và cặp càng to hằng đầu mút đũa.! Nếu bấy lâu tôi tính ác, thì dễ gì nuôi con rít độc trong quần suốt mấy giờ đồng hồ mà nó không cắn không kịp. Thật là khó hiểu và cho đến bây giờ tôi cũng chưa giải nghĩa cho xuôi việc lạ lùng nầy. Xin đừng vội nói con rít nầy tu!
2) Ngày 16 tháng chạp Giáp thân (29-1-1945), tôi đang ở nhà sau căn 31 đường Đại Ngãi, lui cui cắm cúi rửa kiếng để lát nữa thợ gắn vào cửa tủ sách, bỗng đứa ở bên căn 33 bưng qua một cái lư hương không (tro và nhang trút sạch) rằng chú Tư (em một cha khác mẹ) “đã đổ bỏ và không cho thờ nữa” nay trả lại tôi lư hương không nầy. Thiệt là một tin sét đánh, nghe rồi nước mắt tự nhiên tuôn trào, lòng dường dao cắt, tôi cầm cái lư hương hai tay run rẩy, xin con ở giùm qua hốt lại một mớ nhang tàn, đem về bên ni đốt ba cây nến lâm râm khấn vái hồn mẹ vợ, đứa em đã nghịch ngợm, giận vợ chồng tôi mà đành làm một tội bất kính lớn đối với người quá vãng, thôi thì xin dung thứ bao nhiêu tội tôi xin gánh chịu. Thà rằng chín giận mười hờn, em C. cầm lư hương qua trả cũng đủ, lựa chi có cử chỉ ấy, làm xúc phạm đến hương hồn một người đã theo đạo Thiên chúa nhưng tôi vẫn thờ theo đạo Khổng, để tưởng niệm ân thâm gả con cho tôi. Quả thật tôi là một thằng hư, đến lư hương thờ cúng mẹ vợ mà không đủ tài giữ gìn cho khỏi chuyện xúc phạm nầy. Xin mẹ nhơn từ tha thứ cho em C. và bao nhiêu tội con xin gánh chịu. Ngày nay nhớ lại, sau đó vợ chồng tôi hồ tan keo rã, một phần lớn cũng vì sự em chồng trút lư hương thờ mẹ vợ, và không trách, khi hết thương, nàng sẽ mượn cớ bước sang thuyền khác dễ dàng. Mấy hàng lẩn thẩn nầy ghi chép giữa lúc bom Mỹ mỗi đêm, năm 1945, bay qua trút trên đầu đạo binh Nhựt trú đóng ở Sốc Trăng, hoạ lây cho dân Việt vô cô, không gây chiến mà vẫn gánh chịu nạn chung. Những tin tức nầy đối với tai hoạ treo trên đầu dân Sài Gòn và phụ cận là Gia Định vào nửa tháng tư năm 1975, thì là mười phần không có một. Nay ngồi đánh máy chép lại ký ức cũ mà lòng ngao ngán viết bất thành văn.
Bắt đầu tháng ba dương lịch năm Ất Mão 1945 nầy, tin tức ngoài chiến trận hoàn toàn xấu tệ: mất Ban mê thuộc, Plei-ku, Kon-tum, là “phối kiểm vị trí”; mất Quảng Trị, Huế, cũng lại vì phối kiểm nữa, kế đến mất Đà Nẵng, rồi Đà Lạt, rồi Nha Trang, rồi gì gì nữa, đều mất luôn lòng nào ngồi đánh máy cho yên? Nhưng cũng vẫn bắt buộc phải ngồi đánh máy để quên hết việc ngoài tai, lại nữa con người chỉ có một lần chết? Chỉ tội đọc tin đồng bào chạy nạn từ xa xôi Đà Nẵng, rừng già miền Trung, chạy bộ vào Miền Nam, của mất nhà tan, bổn mạng còn rẻ hơn loài hạ thú, bất giác tủi hổ thấy mình vì kiếp sống thừa chật đất, có mắt ngó có tai nghe mà vô khá nại hà. (Ai dám nói sống dai thấy nhiều, là có phúc?) (Trang nầy đánh máy đến đây thì tối lại ông Thiệu tuyên bố từ chức Tổng thống trên đài truyền hình 21-4-1975).
3) Ngày ba mươi tháng chạp Ất Dậu (12-2-1945), đứng trong nhà ngó ra thấy bạn học cùng trường ở Chasseloup năm xưa là Nguyễn Ngọc Chỉ, nay là tri phủ làm việc trên Tây Ninh, về nghỉ phép ở Sốc Trăng, đi ngang nhà, quần đùi tay sơ mi lòi cùi chỏ, thế mà đầu đội nón cát trắng lại có gắn huy hiệu của chánh phủ đô hộ ban và chỉ được phép dùng khi mặc âu phục đại lễ. Không thể nín được vì xốn mắt quá, nên phải gọi lại mà rằng: “Chỉ à! Đợi phải cần đội nón có huy hiệu “tri phủ chủ quận” ấy thì người ta mới biết mầy là ai hay sao? Uổng vì tao nay là một thằng dân quèn nên không thể nước mấy vào nhà, nhưng tao vẫn không quên bài ngụ ngôn “Bạn học trò, một người đậu một người rớt” của ông Trương Vĩnh Ký. Mầy về lấy ra coi lại. Chỉ giận lắm mau mau đi một nước, và sau mất tại Trà Vinh, vì không chịu ăn theo thuở, ở theo thời (bất thức thời vụ).
Mải ham nói chuyện cà kê nghê ngỗng mà tới ngày quan trọng thứ sáu 9-3-1945 mà không hay biết gì. Xin các bạn chịu khó tìm đọc quyển hồi ký “1925- 1964, tập II từ 1945 đến 1954” của ông Nguyễn Kỳ Nam thì biết. Sách nầy đọc thật hấp dẫn và tả cảnh binh Nhựt trong đêm ấy thủ tiêu chánh quyền đô hộ Pháp và khuya 12 giờ, tuyên bố giải tán chánh phủ trào Tây ở Đông Dương.
Tin nầy đến sáng ngày 10-3-1945 thành phố Sốc Trăng nghe radio mới hay Toàn quyền Decoux đã bị Nhựt bắt làm tù binh và cả thành náo động như ong vỡ tổ, nhưng vẫn bán tín bán nghi, bởi tám chục năm nô lệ không dễ gì tháo bỏ trong một giây phút, mơ màng e nỗi radio đồn tin thất thiệt. Một điều lạ mắt là thấy các quan lang-sa, từ quan bố đến ông cò, đều ra chợ mua và giấu hối hả những nhiên liệu giấu được và còn mua được như dầu xăng, rượu cồn để chạy xe, dầu nhớt, vỏ ruột xe v.v... Họ bắt các tàu dưới sông phải đậu một chỗ để chờ khi có việc họ dễ dàng tẩu thoát và lúc nầy mới thấy họ phần giống chuột hơn giống người, nhưng biết thì biết vậy, nào dám nói ra vì họ có súng và đang điên loạn. Nói thật, ban đầu cũng không thấy chi đáng sợ, chỉ biết họ sắp sửa trốn bỏ cho mình ở lại bơ vơ để lo tự thoát thân và chỉ biết mau mau ra khỏi tầm tay quân lính Nhựt mà thôi.
Ngày 11-3, radio tuyên bố rằng quân đội Nhựt thông cáo cho các sắc dân Đông Dương biết rằng khởi từ đây, Đông Dương được độc lập, nhưng buồn cười là độc lập ấy đầu tiên đặt tạm dưới quyền bảo hộ của Đại Nhựt Bản! Buổi chiều ngày 11-3 có một tốp lính Tây và quan Tây hôm trước chạy trốn, nay trở về khá đông tụ tập ở chợ Bãi Xàu, rồi cùng với tên Siccé là lính đoan coi lò nấu rượu làng nầy, đồng kéo qua chợ Sốc Trăng, ào vào các hiệu buôn khách như Di Ký, Diễu Hưng. Di Lạc, Vĩnh Dũ Nguyên, bắt buộc những nhà nầy có bao nhiêu thực phẩm, đồ hộp, rượu chai, giấm chua, đường và hộp quẹt, v.v., phải đưa nạp cho họ, và khi các nhà buôn yêu cầu xuất trình giấy “bông” (lúc đó hộp quẹt bán, phải có “bon” do chánh phủ ký mới mua được tức thì họ chìa súng lục ra rồi đi luôn, mà các hiệu buôn thấy họ rút lui là đủ hú hồn hú vía, nào cần chi tiền. Thành phố Sốc Trăng lần thứ nhứt bàn tán lăng xăng rằng mới thấy ông Tây mua không trả tiền mà mấy ông Ba Tàu không nói gì. Tại sao lúc nầy kẻ thì dữ quá còn người thì hiền quá? Và cái gì làm cho họ đổi thay tâm tánh mau quá vậy?
Ngày 12-3 nhằm thứ hai, 28 tháng giêng ta. Có tin đội quân đội Nhựt đã đổ binh sang khỏi sông Bassac và đã kéo tới thành phố Cần Thơ. Dân thành phố Sốc Trăng bắt đầu xao xuyến. Nhưng nỗi lo sợ đến cùng tột, khi đến chiều lang-sa đưa lính đặt chôn trái phá dưới gầm cầu quây kinh xáng Maspero, định phá huỷ cây cầu sắt độc nhứt nối liền Cần Thơ qua chợ Sốc Trăng; khi ấy ai nấy đều kinh hồn thất sắc, kể như sẽ chết hết, vì thuở ấy chưa ai hiểu sức tàn phá của trái phá lang-sa là dường nào.
Ngày thứ ba 13-3 (29 tháng giêng Ất Dậu). Sáng dậy sớm thấy bộ tịch mấy ông Tây khăng khăng quyết tử thủ, nên sợ, vợ chồng tôi đưa nhau xuống tản cư nơi trại ruộng, trọn ngày đóng cửa khin khít, sau rõ lại Tây họ giả bộ kháng chiến cho dân sợ, rồi Tây rút êm trốn hồi nào không hay.
Ngày 14-3-1945. Thứ tư, mồng một tháng hai Ất Dậu. Bữa nay mới thật là ngày đáng kỷ niệm cho tỉnh nhỏ Sốc Trăng để nhớ thuở bị binh Nhựt chiếm đóng. Sáng vừa năm giờ, trời tưng bẩng tôi đã thấy lính Nhựt lù lù đi ngang hé cửa hai bên phố đường Đại Ngãi. Họ chia ra nhiều tốp để nhập Châu Thành, tốp đi ngả giữa đường Đại Ngãi nơi có nhà Ba tôi ở; tốp khác đi bọc ngả mé kinh lấp có nhà ông Phán Sáng; một tốp nữa đi ngả Chợ Cá nhà bà Phủ An. Tôi lấp ló kẹt cửa, thấy rõ lính Nhựt đi hai hàng, tay cầm súng trường đầu gắn lưỡi lê, chân bước chậm chậm, mất ngó kỹ đôi bên, còn giữa đường có một tốp hộ tống một ông tá bốn lon, cao lớn dình dàng dẫn đầu, gươm dài tuốt trần, cán gươm lấp lánh một máy radio nhỏ xíu để bắt nghe tin tức, mệnh lệnh.
Họ kéo qua cầu bon, đến dinh Tham biện chủ tỉnh, thì ông Barthel đã trốn mấy ngày trước rồi. Họ thất vọng kéo tới nhà các quan toà. Có một ông da cà phê sữa sớn sác còn nói tiếng Tây và xưng mình là Président. Họ nghe thấp thố tưởng đó là Résident, tức quan đầu xứ, họ sai lính bắt trói đem kê sát vách tường định bắn, thời may viên thông ngôn cắt nghĩa lại, Président du Tubunal có khác với Résident de province, nên ông nầy thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Quả ông nầy chưa tới số! Tuy rằng tha chết, nhưng họ bắt dẫn theo làm tù binh. Đó rồi họ kéo tới ty ngân khố. Mụ Hémon, vợ ông kho bạc, nguyên là con gái của ông Favier, phó giám đốc trường máy đường Đỗ Hữu Vị, nơi tôi đầu quân năm xưa, mụ Hémon đang pha cà phê buổi sáng. Nhờ nhạy linh tính, mụ cầm một tách nóng hổi hai tay dâng cho ông tá Nhựt. Ông nầy kéo ghế ngồi xuống hớp từ hớp cà phê ngon lành, và không xiết lời cảm ơn. Sẵn trớn, mụ mới thỏ thỏ mét ông quan tư rằng ban nãy mụ ra sân xuống bếp lấy hũ đường, mụ bị một lính Nhựt sờ vào má! Ông tá hiểu được đứng dậy ra sân trống, gọi các quân lính xếp làm hai hàng sau ngân khố, mụ chỉ ngay người lính đã xúc phạm mụ, lập tức ông tá gọi người lính bước ra khỏi hàng ngũ, xáng cho mấy bốp tai nháng lửa, thấy đủ ba mươi sáu ngọn đèn, xử phạt xong ông day lại mụ Hémon và chậm rãi nói: “Thưa bà, tôi có phận sự đến đây giải giới tất cả người Pháp và bắt họ làm tù binh. Chồng bà và bà cũng bị bắt. Nhưng vì tách cà phê ban nãy, vây tôi cho phép bà trở vào nhà lựa những gì quí báu thu góp vào một xách tay. Tôi cam đoan bà sẽ không mất món nào, vì quân lịnh của đạo binh Nhựt là quân lịnh sắt. Bây giờ mời bà hãy mau tay để kịp lên xe!”. Mà quả thật, mấy tháng sau sau khi quân Nhựt đầu hàng, mụ Hémon theo chồng trở lại Sốc Trăng, khi gặp tôi, việc đầu tiên là mụ cười cái miệng móm xọm và không ngớt ngợi khen quân đội Nhựt vì suốt mấy tháng bị giam cầm cái xách của mụ có trên năm chục lượng vàng lá, không hao đến một ly!.

Sau khi ông tá làm xong phận sự đi lùa bắt Tây, đến trưa gần Ngọ, có một ông tướng lãnh Nhựt ngồi xe sơn màu lá cam, ghé toà bố, ra lịnh cho cai hầu ra mời thân hào nhân sĩ, các nhà tai mắt và công chức lớn nhỏ tề tựu tại dinh tỉnh trưởng và ra chỉ thị cấp thời lập Uỷ ban cai trị như đã tả nơi trang trước. Tôi không tham dự mấy lần nhóm họp nầy, vì muốn ở ngoài càn khôn để được tự do.
“Sớm khuya, khăn mặt, lược đầu.
Phận con hầu, giữ con hầu, dám sai!” (K.V.K)
Ngày 15-3, hay tin ông chủ quận Châu Thành, coi luôn ty cảnh sát thành phố là ông đốc phủ Ngô Văn Nghị. Nhớ lại mới đây, ngày 25-2 có ông Đoàn Quan Tấn, hội trưởng hội khuyến học Sài Gòn cùng xuống đây với cố giao Hồ Đắc Thăng, diễn thuyết về nghệ thuật hát bội, mình được mời cùng dùng cơm tại dinh, nay ông lên làm trưởng ty cảnh sát, ắt ông không làm khó dễ sòng thín cẩu, vì biết mình chơi cầu vui chớ không có máu cờ bạc. Mừng lòng một đỗi.
Ngày 16-3, có bạn nhỏ Đức, Thanh niên tiền phong, đến cho hay không chừng mình sẽ được cử coi ty thương chánh, mình cười và năn nỉ hãy để được yên, e khi vào đó thấy kho á phiện, động lòng tham thì khốn!
Ngày quân đội Nhụt bắt và giải về giam tại lữ xá băng-ga-lô tên Siccé, trước coi lò nấu rượu trắng công xi ở Bãi Xàu và lão Canavaggio, là trưởng ty mật thám Sốc Trăng. Nghe nói Canavaggio có bị đánh, nhưng không biết nặng hay nhẹ. Làm cái nghề đánh người, nay người đánh lại, cũng là oan oan tương báo.
Ngày 17-3, nhóm thanh niên biểu tình dán giấy tuyên bố “Việt Nam độc lập”. Có tên Pháp Fauvel là người đi mua lúa đứng cho hãng Continental, chẳng lành thì chớ, nhè xé bố cáo của thanh niên, bị bắt giải cho quan Nhựt ở băng-ga-lô, ông nầy đánh vài bốp tai, nếu tên Pháp biết lỗi nhẫn nhịn bao nhiêu cái tái tai không chống lại thì việc đến đây ắt chấm đứt, ngờ đâu tên nầy không chịu xuống nước cầu hoà và vung tay thoi lại, khiến cho quan Nhựt nổi đoá, dạy lính bắt trói anh ta dắt đi khắp chợ phố cho trẻ nhỏ hành hà, mặc tình đánh đập. Có người chủ tiệm mộc tên Lưu Trọng Quyền, chủ hiệu Việt Nam mỹ nghệ, là nặng tay hơn cả. Đến chiều quân đội Nhựt giải Canavaggio, Siccé và Fauvel xuống tàu đi Ngã Năm, bắt dẫn đường để nã tróc thêm những người Tây lẩn trốn trong vùng nầy. Lúc giải xuống tàu, thiên hạ đúng coi nườm nượp.
Ngày 18-3 nhằm chúa nhựt. Nghe nói có lịnh không cho người Nam lai vãng và thông đồng nói chuyện hoặc cho đồ ăn cho người Pháp bị giam lỏng ở băng-ga-lô. Trái lại, người Pháp quá nhát gan, sợ người Việt oán thù, nên hạ mình xin quân Nhựt ủng hộ, rán canh gác cho kỹ kẻo người Việt nam cho ăn đòn, oan mạng. Nếu lương tâm họ trong sạch thì đâu có cái sợ vô lý như thế? Buồn cười là họ quên tất cả đến lầm gởi tánh mạng trong tay đại thù địch Phù Tang! Quả gởi trứng cho ác!
Ngày 19-3-1945 nhằm ngày thứ hai trong tuần. Hôm nay nghe nói sẽ có hai cuộc biểu diễn: một là chở các quan lang-sa lên Cần Thơ, hai là nhóm thanh niên biểu tình. Và tôi là khán giả khỏi trả tiền mà sẽ đi dự kiến như đi xem cải lương. Té ra vì tánh tọc mạch và tiểu nhân thiếu độ lượng (coi Tây làm tù binh) mà tôi bị kẹt như đã nói ở đoạn trước, tôi nghe tiếng đồn thanh niên đòi đả đảo:
a) ông chủ quận châu thành, họ trách ông còn quá ưa Tây và ông đòi giải tán họ!
b) ông phủ đứng đầu công chức toà bố thì quá ưa hộp quẹt và ưa bông mua vải
c) ông phủ Trần Văn Tân, là một tên sâu dân mọt nước, một đồng bạc cũng ăn, ăn hết không chừa!
Thanh niên lại chê ông kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích là “làm phách”, còn ông luật sư N.V.D, thì thân Tây hơn thân Việt và biết tiếng mẹ đẻ ít hơn tiếng lang-sa. Ông toà thì họ chê có vợ đầm, ông đốc công trường tiền thì họ chê nói tiếng Tây còn trật (Trần Tân và Đỗ Văn Trà). Tôi nghe ngóng nhàm tai, trong thâm lâm tôi phát sợ một cái gì xảy ra, nên khi bốn xe camion chở người Pháp đậu trước dinh ông Chánh vừa sấp sửa lăn bánh thì tôi lật đật về nhà. Nhưng vừa về tới và chưa cởi áo, thì có chủ tiệm rượu Hoà Bình tửu, tên là Cu Liếm, lúc đó là một thanh niên xốc xáo nhứt, đến gọi tôi gấp trở ra toà bố vì đám biểu tình “muốn cần dùng gì đó”. Ấy rồi tôi bị kẹt như đã nói nơi đoạn trước. Và cho hay trăm sự, “hư” cũng tại mình. Nếu tôi là gái chính chuyên, không dốc lòng “làm đĩ” một phen nữa, thì tại sao tôi “đứng ra đường cả buổi như ban nãy?” Bởi tôi bán dạng thuyền quyên, chán chường khoe mặt mốc, thì nay còn than van “thanh niên mời mọc” làm gì cho thấy dối lòng? Quả tôi giấu đầu lòi đuôi. Và cử chỉ của tôi là cử chỉ của một thằng tự mâu thuẫn lấy mình. Thú thật, tôi có hành động như vậy, cũng vì một chút hiếu thắng. Mấy chục năm thi rớt mãi, và mãi lận đận lao đao nơi trường ốc, tại sao không cho tôi “đánh ba búa” chơi như tướng hề Trình Giảo Kim trong truyện Thuyết Đường? Xin chớ cười và ai có qua cầu mới hay mới biết! Đánh được ba búa cho sướng tay rồi sẽ xuống, có hại gì?
Nhưng khi lâm sự, lên ngồi lưng cọp rồi mới biết. Bỗng thinh không tôi để thanh niên lôi tôi ra, và làm cho tôi từ rày mất hết tự đo Còn gì cái thú “ăn lương hàm chánh thất” (ăn lương của vợ), sống lêu lổng ngoại càn khôn, rong chơi hút gió, gọi là “thả xệch phê” (do chữ siffler là hút gió) ngày ngày cùng a-xẩm, á-múi (a-muội) xoa bài mạt chược vui cười qua ngày tháng, và thôi rồi từ giã cái tự do, từ rày phải tập làm nghiên, chỉnh túc y quan, sáng vác ô đi, tối vác về, và một khi trở vô chung lo việc nước, thì thân không khác con bò kéo xe cỏ cho bò khác ăn, và từ đây phải bỏ hết những gì hư, tập tánh nết trở lại đường hoàng, cho xứng đáng bộ mặt Phó chủ tỉnh?
Mà ăn cái thá gì, vì vẫn làm ông Phó mà trả lương theo lương thông phán hạng nhì, không tới hai trăm bạc mỗi tháng! (tính ra tôi trở vô làm từ ngày 19-3 cho đến ngày 4-6-1945, lãnh lương được 437$56! Thấy thảm não quá ông chủ tỉnh lâm thời nhóm Uỷ ban dạy xuất tiền công nho làng phụ cấp thêm 500$00, vị chi tôi lãnh được cả thảy là 937$56).
Cái số của tôi là số “dã tràng xe cát”, một đời cực nhọc không công cán gì! Lại còn mang lời ăn tiếng nói! Lúc còn làm nơi dinh thống đốc, tuy là thơ ký quèn nhưng anh em chúng bạn đều nể mặt. Nhà dư ăn, không thiếu nợ ai. Công việc làm, dịch điện tín mật mã và ghi chép công văn mật, là việc trọng yếu, tôi làm tròn phận sự nên Tây tà đều kiêng; các người trên trước tôi, ông Ngôn, bà Bá đều có học lực và hạnh kiểm cao, bạn bè ngồi chung quanh đều hay giỏi, và tôi học khôn với họ rất nhiều. Từ khi rớt kỳ thi huyện chót (1942), tôi thấy tương lai không ngõ thoát, nên tôi xin nghỉ việc. Tôi có linh tính nếu kéo dài đời công chức ở đây, có ngày Nhựt lên nắm chánh quyền thì cái kiếp làm nô lệ vẫn y như cũ nếu không nói là thay chủ mới còn e bóp siết nặng nề hơn, và “làm đĩ” một lần với Tây cũng đủ xấu hổ trọn đời! Tôi không muốn trải thân cho ông bạn lùn giày vò bóp méo vo tròn, ngờ đâu kiếp làm tôi mọi cho ngoại bang vẫn còn nặng nợ, xin được trảm giam hậu nhưng không dễ gì xin đại xá.
Chánh phủ Pháp không cho tôi từ chức, và đã ban đặc ân cho tôi đổi về xứ sở ấp ủ se ấm mấy ngày tàn của cha già đã trên bảy mươi tuổi. Kế hoạch của tôi là dốc lòng thoát thân, nhưng tôi đã thất vọng to. Tôi còn luyến tiếc kiếp sống an nhàn “bơ sữa”, dè đâu về đến tỉnh nhau rún ở chung một nhà với cha, mới hiểu muộn màng câu “Xa mỏi chân, gần mỏi miệng!” Ba tôi tuổi Đinh Hợi (1887), tôi lại tuổi Nhâm Dần (1902), cách xa thì như thường, đáp lại gần thì xung khắc. Tánh tôi thêm lỗ mãng quen nết con cưng và con hư. Bình nhựt với chúng bạn, tôi quen ăn ngay nói thẳng giận thì tôi chịu. Nay với cha già, bay giờ nghĩ lại ăn năn đã muộn, vì nhiều việc vặt vãnh, tiền chợ tốn hao, ba tôi vì già chịu nấu cho mềm, tôi thì còn trẻ lại thích gân giòn xương sụn, mỗi lần nấu nhừ, hễ vừa miệng cha thì không vừa miệng con! Tánh tôi lại ham gây gổ, thấy việc trái dẫu là ông phủ, ông gì, tôi cũng không nhịn. Nhưng tôi được tánh thích làm vừa lòng kẻ dưới, nhất là đám em út bạn nhỏ, dẫu lỡ chửi tôi cũng nhịn, và thường hay binh vực kẻ yếu chống chọi người bề trên. Từ ngày đồi về Sốc Trăng, tôi không học thêm được gì nữa, vì nhân viên toà bố đều lục lục thường tài. Tôi lại bị giao trọng trách coi về hành chánh, giữ hộ tịch bộ đời Pháp, nhứt là “đứng bàn ông chánh” tức làm thông ngôn cho chủ tỉnh, mà có khi ông phó cũng xâu tôi làm thông dịch viên luôn, thế là tôi “đứng cả hai bàn chánh phó”. Chỗ nầy đối với người khác thì “no” lắm, vì kiếm chác được nhiều, tỉ dụ xin nhập tịch dân Tây, xin sắm súng hộ thân, xin khẩn đất, xin cất nhà, v.v., nhưng tôi cứ “nét thắng như mực Tàu”, tôi không ăn hối lộ vì đã có vợ giàu, tôi lại cứng cỏi, vì biết mình trong sạch nên coi Tây tà và các nhà thế lực trong tỉnh như không có. Làm việc ở toà bố được một năm, xảy ra việc ông cai tổng Nhiêu Khánh là tổng châu thành, lục cụ Thạch Suôn từ trần. Tôi viện lẽ mấy tháng sau nầy thường đau yếu, tôi vừa nằm nhà thương sở tại và còn nghỉ dưỡng bịnh, tôi mượn các cớ ấy nên nói với chủ tỉnh xin cho tôi từ chức, hưu trí non (hưu bổng tỷ lệ), để có dịp ra ứng cử cai tổng thế ông Suôn, và như vậy tôi vẫn còn phục vụ trong chánh phủ. Thế là ông B. mắc kế tôi, vì khi được cho về hưu, tôi phỉnh lờ việc ra tranh cai tổng. Như vậy, tôi được nghỉ việc trong buổi trong xứ còn chiến tranh, mà tôi không bị khiển trách vì tôi hội đủ điều kiện, đủ thâm niên về hưu, và việc tôi làm vẫn hợp lệ đúng như luật định.
Nhưng số trời khó chạy, và tôi đã lính già ra non! Vợ trước của tô, cô Tuyết, quen sung sướng ở Sài Gòn, bài bạc không ai nói, nay về chung một nhà với cha chồng em chồng, tù túng bực bội, nên thường mượn cớ lên Sài Gòn buôn bán kim cường, ban đầu đi về ít bữa, sau kéo dài hàng tuần rồi hàng tháng.., cái hoạ bội tâm đã nẩy mầm từ đây. Thêm nỗi tôi vì quá mê đồ xưa và quá tin người bạn trăm năm (nay đã hết trăm năm), bởi tin nên mắc, quá nghe nên lầm! Cái tội bất hiếu của tôi và tội làm chồng bất xứng, thôi thì khỏi nói!
Từ ngày thôi làm công chức, đời tôi đã hư nay còn thêm lậm. Tôi trở nên một “ông viên ngoại” rất nhàn nhã, và rất hư thân. Cò bót làm ngơ, sức bực tham biện chủ tỉnh, tôi muốn vào văn phòng lúc nào cũng được, khiến nên nhà tôi, số 31 đường Đại Ngãi là một nhà xét (cercle) thín cẩu đánh công khai chứa hai sòng bài, bài con chim chơi tôi ngày sáng đêm không dứt, cửa ngõ không đóng và đèn đốt thuốc phiện rần rần, chung quanh cái đi-văng đỏ “long phụng sàng” lót ngay sa lông ngó ra đường cái, là nơi anh hùng hội, đủ mặt trai hư: Bảy Thà (Kế Sách), Tư Chẩn (Bãi Xàu), Y (con trai Tám Nam Thành), Mười (con ông trưởng toà Kiều), v.v., và thỉnh thoảng lại có sự hiện diện của Việt Hùng, lúc ấy chưa trổ mặt nghệ sĩ hữu danh cải lương như nay, và vẫn còn khoác áo tiểu công chức, nhưng đã thành thạo đủ nghề ca ngâm và khi cao hứng thường đến cho chúng tôi nghe những bản thúc giục lòng ái quốc và những bản cải cách nung nấu lòng kháng chiến chống quân xâm lăng: “Bà Tư bán hàng có bốn người con” v.v...

Ấy, tôi đang ở trong cảnh “giả dại qua ải”, muốn bài bạc để quên cảnh rối rắm nước nhà, Bá Lạc Đài (nhà xét của tôi) thực ra không phải để đóng vai vua Trụ mất nước”, kỳ thực đó là hình thức bề ngoài để che mắt nhà cầm quyền Pháp, khiến họ quên tôi kể như một công chức về vườn vô thưởng vô phạt.
Ấy nay vì đám thanh niên tiếc mến chút tánh tháo vát và tánh cứng cỏi của tôi rồi bỗng kéo tôi xuống khỏi đài truỵ lạc chơi bời ấy và sáng hôm 19-3, lại đẩy tôi lên diễn đàn nầy, là cái bệ lan can ngay thang lầu văn phòng ông chánh cũ, bảo tôi tuyên bố ít lời cảm ơn vì được cử làm phó hội trưởng Uỷ ban cai trị trong tỉnh, là tuyên bố làm sao? Họ lại bảo tôi nhậm phận sự tức khắc, không được diên trì vì thời kỳ quá cấp bách. Theo họ phải có người ký tên giấy thông hành tạm, bài sanh ý và bài thuế trâu ghe, không thì công việc của tỉnh phải đình trệ hết. Rõ sướng cho tôi chưa?
Nhưng quả thật không sướng chút nào! Tôi từ giã đám bạn nhỏ thanh niên, mà tôi thề không có giao thiệp và vận động cho họ đề cử tôi như vậy, tôi bước vào văn phòng chủ tỉnh, ra mắt ông hội trưởng Lâm uỷ hành chánh là ông đốc phủ sứ Võ Văn Đảnh, vốn là bạn cũ quen biết nhau từ lúc còn làm chung một toà bố ở Sa Đéc, lúc ấy ông là huyện đứng đầu phòng địa bộ điền thổ, còn tôi là ký lục phát ngân coi về bút toán ngân sách địa hạt. Tôi chào và bắt tay ông. Tôi tỏ vẻ ái ngại, nay không muốn làm thì cứ trái lòng thanh niên cũng khó, bằng nhận làm, thì e tài bất kham trọng trách, thiệt là nan giải; và thật ra tôi không có nhúng tay vào việc biểu tình, không tham dự cũng không xin xỏ việc đề cử ngang xương nầy. Tôi còn nói nữa, nhưng bao nhiêu ấy đủ làm ông Đảnh chia xớt nỗi lòng. Ông bắt tay đưa ra cửa, khuyên tôi chiều vô làm việc và nên tạm nhận hai phòng búl toán công nho tỉnh, là nghiệp cũ sở trường của tôi, dầu sao cũng ít nặng nhọc hơn ghế phó hội trưởng. Tôi vừa ra khỏi cửa, đám thanh niên chận tôi lại, tôi thú thật hết và họ cương quyết dặn tôi đừng chịu áp lực bất cử của ai: “Làm phó hội trưởng thì làm, bút toán đã có người khác”.
Và việc gì phải đến, đã đến.
Từ ngày 19-3, tôi trở vô toà bố với chức phó tỉnh trưởng, tiếng nghe cho rôm, chớ lợi lộc danh giá gì? Tôi dư biết đang đóng vai tuồng thằng hề làm trò xiệc đi dây chọc cười, thằng ngổng đánh đu bầu (chớ chi được đánh đu tiên có đào lịch sự thì cũng đáng), và ngày nào tôi rủi lé xuống đài, dẫu chết phơi thây cũng chẳng ai thương! Tôi biết dư, làm đây là làm tạm thời, trong cảnh ngộ dầu sôi lửa bỏng, chớ ngày nào trong tỉnh trở lại bình thường thì tôi sẽ được “mời” ra lập tức và cái cỗ ngon lành dọn sẵn nầy, sẽ có người trên Sài Gòn được bổ nhiệm xuống hưởng, thứ đồ bất tài thi rớt như tôi, mấy đời ai cho vượt bực, ngồi trên ngồi trước người thi đậu? Trong bụng biết vậy, nhưng nay cờ đã về tay, không phất há chẳng “phi anh hùng”!
Công việc khi vô thấy rất bề bộn, ứ đọng nhiều ngày, nhưng tôi đều coi là thường, vì tôi đã quá quen thuộc, và đều thu xếp ổn thoả, đến ông Đảnh cũng ngạc nhiên và mừng thấy tôi làm việc được: Thật tình mà nói, thanh niên có mắt và biết lựa, biết tánh tôi ngay thẳng ắt làm xong đâu vào đó, nhưng họ quên và tội nghiệp cho tôi, vì làm theo công tâm, nói nghe thì dễ, nhưng đụng chạm rất nhiều. Những ai thương tôi cũng có, nhưng người ghét và ganh tôi thật ra không phải ít:
- Ngày 20-3, mới vô làm được một ngày, sáng sớm vừa để chân vô toà bố, gặp ông Đảnh từ trên lầu bước xuống, cho hay trọn ngày ông sẽ vắng mặt vì phải lên thị sự đất giá công điền ở quận Kế Sách, và ân cần dặn tôi “hãy coi tiệm, coi nhà cho vén khéo”, “những giấy tờ quan trọng để đó tối về ông ký”.
Trời tối sẩm ông Đảnh vẫn chưa về, đợi mãi không được, tôi lui cui đạp xe về nhà, vừa ngồi vào bàn lùa được một miếng và, bỗng có đội Tỷ, là lính hầu sau đóng lon quản, chạy đến hối, có hai ông quan võ Nhựt muốn gặp gấp. Cuộc tiếp xúc hoà nhã, tôi thừa dịp xin họ dễ dãi cho ba ông Tây làm sở dẫn thuỷ nhập điền, nay còn kẹt ở vàm Cổ Cò, hiện muốn ra trình diện chịu làm tù binh, ông sĩ quan Nhựt chịu ký giấy để lại cho họ cầm đi Cần Thơ vô sự. Khi ông Đảnh về, hay tin nầy, ông tỏ vẻ rất bằng lòng cách tôi dàn xếp mau và khéo như vậy.
- Ngày 22-3 - Hôm nay Uỷ ban cai trị nhóm kỳ đại hội lần thứ nhứt, tôi thủ vai thơ ký Uỷ ban. Tự tay bao gồm từ tả tờ vi bằng phiên nhóm và thảo hết thơ văn và nghị định. Bản thảo ông Đảnh chấp thuận không sửa đổi câu nào.
Ngày 24/3 - Có lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Châu Trinh. Thức đêm viết bài nhắc công đức, sáng ngày ông Đảnh cử làm đại diện đọc trên diễn đàn đặt nơi công trường Hai Hình. Nhờ có ống phóng thanh do Nguyễn Văn Thân, con ông Đại, cho mượn, trên năm trăm người dự kiến và dự thính đều tỏ vẻ hài lòng. Một phụ nữ, bà sương phụ Phủ Chiếu, không cầm lòng đậu, lấy khăn lau nước mắt mãi. Sáng ngày bà lên toà bố xin một bông rượu cồn để lên Sài Gòn có việc, bây giờ mới hiểu nước mắt mỹ nhân là do không có rượu chạy xe hơn là cảm vì giọng vịt đực mình lên bổng xuống trầm.
Ngày 25/3 - Hôm nay, chúa nhựt, có thanh niên biểu tình. Sau khi kéo đi cùng đường, họ về tề tựu tại công trường Hai Hình. Có năm người ghi tên diễn thuyết. Mình đứng nghe:
1) Thầy sáu Trần Ngọc Vĩnh, đông y sĩ, mừng Việt Nam độc lập và cám ơn Đại Nippon (sic);
2) Phan Mỹ Nhựt, làm sở Bưu điện, nói về chủ nghĩa Thanh niên;
3) Võ Văn Hai, cũng làm sở Bưu điện, nói về ý kiến của Thanh niên đối với những trang sử oai hùng: chống Nguyên, kháng Minh, vua Quang Trung, Nguyễn Thái Học;
4) Lâm Văn Nhơn, thơ ký toà án, nói về ý nghĩa và sự hy sinh của dân Việt Nam;
5) Lê Văn Lý, con ông Xếp Lỏi, nói về chủ nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Tương như vậy là dứt, sửa soạn ra về, té ra thanh niên kéo mình lên diễn đàn. Không từ chối được, mình ứng khẩu về ý nghĩa bốn chữ Tận trung báo quốc của Quan Công Hầu và bốn chữ Tin trung báo quốc của Nhạc Võ Mục.
Ngày 26/3 - Lên lầu đưa công văn cho ông Đảnh ký, ông khen “Anh viết văn xuôi hay quá”. Mình cám ơn và thuật lại chuyện Diệp Sanh trong Liêu Trai, nữa đời luân lạc thi mãi không đậu, sau vâng lời một ông quan đỡ đầu, theo ông nầy về kinh, kèm dạy cho con ông ấy thi đậu và thành tài, Diệp Sanh cũng đậu khoa ấy, nhơn đi phó nhậm, con ông quan đưa Diệp Sanh trở về cố trang thì vợ Diệp Sanh khóc lạy rằng vì nghèo, quan cửu của chồng chưa chôn nay xin hồn ma đừng về khuấy phá. Nghe đến đó bỗng thấy Diệp Sanh sụp xuống, chỉ còn áo mão một đống còn người đâu không thấy. Bây giờ mới rõ lại, lúc ông quan sai người mời Diệp Sanh theo về kinh thì Diệp Sanh đang đau nặng, và chỉ cái hồn xuất ra đi theo người mời, còn cái xác trơ ở lại cho vợ gói ghém tẩm liệm. Cho hay cái tinh anh của một người bất đắc chí nó mạnh như vậy. Nay tôi tự ví như Diệp Sanh còn anh là ông quan đỡ đầu cho tôi đó.
Nghe đến đó. Ông Đảnh cười, ngó tôi mà rằng: “Chuyện anh kể nghe sao bi thảm quá. Mà anh là Vương Hồng, đâu phải Diệp Sanh?”. Ấy cái tình giữa hai tôi nồng nàn thân thiết như vậy, nay ông Đảnh đã thành người thiên cổ duy tôi luân lạc vân còn luân lạc, ai nói sống dai là hạnh phúc?
Ngày 27-3, ông Đảnh đi Bố Thảo (Thuận Hoà) chủ toạ cuộc đấu giá đất công điền bỏ tôi ở lại toà bố; ông Nghĩa thanh tra tiểu học kiêm thủ lãnh thanh niên, bảo tôi ký các giấy trưng dụng súng của các điền chủ làng Mỹ Phước, tôi tỏ vẻ ái ngại vì chữ ký ông Phó lậu vô giá trị, nhưng ông Nghĩa vẫn bảo ký, cười mà rằng: “Ký đi! Không sao đâu! Chỉ mình hai tôi (Đảnh và Nghĩa) có nói chuyện anh” (Câu nầy tôi ghi lại y nguyên văn, và có lẽ có một nghĩa nên hiểu ngầm).
Ngày 28/3 - Thứ tư, rằm tháng hai Ất Dậu. Ngày nay phí phạm sức khỏe nhiều nhứt và chỉ làm việc không công, “gánh bàn độc mướn”, làm cho người khác hưởng, còn mình vẫn “hoàn cốt khỉ”.
Phải chăng kiếp trước làm mọi bá gia? Sáng nầy, cả toà bố đều náo động, vì có quan Phó Thống đốc Nhựt, Satoh, lần đầu viếng tỉnh, với nhiệm vụ thanh tra tình hình cai trị các tỉnh. Mặc dầu ông Đảnh làm chủ tỉnh nhưng do quan hai Nhựt và thông dịch viên Sếp Hên nói sao với ông, mà ông chỉ tiếp xúc với mình. Tôi phải vừa bổn thân ghi chép khẩu lịnh ông truyền, và noi theo đó đặt để lại tờ sự vụ lịnh bằng Pháp vãn, tự đi đánh máy và trình lên cho ông đặt chữ ký vào, nhứt nhứt đều một mình làm cả.
Đến 12 giờ trưa, bổn thân mời ông Satoh và ba ông sĩ quan tuỳ tùng qua dinh chủ tỉnh dùng bữa cơm. Ông Satoh ngỏ ý cậy tôi đi kiếm mua cho ông một đôi bít-tất mà ông gọi tiếng Pháp là socquette, và dặn giá nào cũng mua, dẫu trả theo giá chợ đen cũng không sao! (même s il le faut, au marché noir). Mua được đem về, xem bộ ông rất hài lòng và mời mình ở lại dùng bữa, nhưng mình xin kiếu vì ngày nay là rằm, ăn chay. Lúc ấy nếu quả mình muốn xin cho làm thiệt thọ, thì đây là dịp may hiếm có để ớ lại mặc sức xin xỏ, nhưng mình đã có ý riêng, chỉ mong thoát khỏi biển trầm luân và không có lòng cầu cạnh.
Tin buổi chiều ngoài phố đều đồn mình “giỏi tài ngoại giao” và làm 9/10 công việc cho chủ tỉnh. Riêng chỉ sợ nói mình bợ đít.
Ngày 23/9. Ông Satoh ở Bạc Liêu trở về, ghé nói với mình: “J ai beaucoup à faire à Baclieu” (Tôi ở Bạc Liêu có nhiều việc phải làm lắm), coi bộ ngài rất ưng bụng về tỉnh Sốc Trăng, và chính mình tiễn ông ra xe về Sài Gòn, còn ông tỉnh trưởng Đảnh vẫy tiễn trong vòng rào toà bố. Nhưng cái ngày mình bị đào thải, ông Satoh nào hay biết.
Ngày 31-3 (thứ bảy) Uỷ ban cai trị họp phiên bất thường. Ông Đào Văn Hội làm đơn xin trở vô làm việc lại, và mình làm đơn xin nghỉ việc về hưu.
Ông hội trưởng Đảnh yêu cầu mình ở lại tiếp tục làm việc chờ ông đi dự kỳ đại hội tỉnh trưởng trên Sài Gòn, đãi lịnh trung ương rồi sẽ hay.
Ngày 3-4-1945 - 4 giờ khuya có lính kêu cửa cho hay chiếc tàu sai đi bắt Tây ở Cà Mau nay hư máy nằm chình ình tại ngã tư Cái Quanh. Giữa canh khuya phải viết tay tờ lịnh khẩn cấp như vầy:
Lịnh phiếu
Cai Mã Văn Cự, được lịnh nầy phải theo tên Long Suôn xuống chiếc tàu “Phước Hùng”, truyền lịnh cho chiếc tàu nầy mở máy chạy lập tức ra ngã tư, rước nhà binh Nhựt về Sốc Trăng, không được trái lịnh nầy.
Vì gấp rút, tôi, Phó Hội trưởng Uỷ ban cai trị tỉnh Sốc Trăng, ký lịnh nầy thế cho ông chánh chủ tỉnh Sốc Trăng ngày 3-4-1945. 4 giờ sáng.

Từ 4-4-1945 đến 23-4-1945 - Không xảy ra việc chi lạ. Nhờ biết tháo vát, công việc trở lại bình thường, nhưng tự xét thấy tủi thân vì lúc làm thơ ký “chấm công ăn tiền”, nhàn hạ làm sao nay lên ngồi ghế phó tỉnh tưởng nhọc xác bằng mười, có khi phải đặt gấp tờ lịnh rồi tự đánh máy lấy cho ít mất thì giờ, rồi tự đóng dấu trước, và bổn thân lên thang xuống thang xin chữ ký của ông chủ tỉnh cho người xin việc về kịp con nước khỏi chờ đợi tốn tiền, hoặc phải thị oai nộ nạt là cái bình sanh không muốn vì chỉ làm mích lòng anh em, thêm họ cứ khuấy rầy bằng xin bông mua sữa, mua áo thun, quên rằng mình còn phải nhiều việc quan trọng hơn như đương đầu với sự đòi hỏi quẫn bách của quân đội Nhựt, của nhà thương thiếu sữa nuôi trẻ, vân vân... Càng lấy công bình và lương tâm mà làm, càng thêm đụng chạm sanh oán sanh thù.
Ngày 8-4, ông chủ tỉnh đi Sài Gòn dự đại hội các chủ tỉnh từ 9-4 đến 12-4 giao nhà coi “nhà”, may được vô sự bình yên. Coi xử lý thường vụ và ký thế...
Ngày 10-4 và 11-4, có quan Năm Nhựt chức tá, đến nói về vấn đề súng đạn và có năm ông sĩ quan khác ghé tra vấn về vấn đề kinh tế, đêm ngủ lại đây mà lữ quán băng-la-gô chưa sửa chữa, phải châm chước mượn mùng mền nơi dưỡng đường của các bà sơ, mới được êm thắm. Cũng về vấn đề mùng mền và vải drap của dưỡng đường, sau quân đội Nhựt ép mình ký giấy sung công, mình đổ thừa làm tạm chưa có giấy bổ nhiệm, nên chữ ký vô giá trị, nhờ đó sau khỏi thường tiền và nghe đâu nơi nhiều tỉnh khác, mấy ông phó nhẹ dạ ký bừa đều thường tiền túi.
Chiều đến, bảy giờ tối, cái lão Nhựt Ezaki té xe bể đầu bầm mình, mình dậy chở lên nhà thương băng bó và chích thuốc ngừa phong đòn gánh. Về sau gặp ở đâu lão cũng xí xô xí xào cám ơn, nhưng tiếng Nhựt, tiếng Ăng-lê mình nhứt định không học, tủi thân trót biết tiếng Tây, làm đĩ một lần đủ nhục!
Về một vụ lập bản thống kê lúa gạo trong tỉnh, nơi Bạc Liêu hẹn một tuần nhựt là hoàn thành, tỉnh Sốc Trăng hẹn nửa tháng. Quan Nhựt để gươm lên bàn, trách tôi không lòng hợp tác tôi bình tỉnh trả lời: “Thời gian mười lăm hôm mới đủ hỏi từ quận xuống tổng đến làng rồi chờ làng chạy tờ lên tổng lên quận mới đến loà bố. Hay ho gì hẹn gấp mà cho tin sai, thà tôi hẹn trễ mà tin đúng”. Từ ấy người Nhựt ở Sốc Trăng biết tôi cương trực và mọi việc giao thiệp đều dễ dàng. Để chứng tỏ cách làm việc, tôi ra lịnh các anh em toà bố ráp lại làm một bảng thống kê khẩn, nội một buổi sáng là xong kẻ cộng người đánh máy, Nhựt khen Sốc Trăng làm việc số dách.
Ngày 12-4, ông chủ tỉnh ở Sài Gòn về, ra lịnh giải tán nhóm Bảo An. Bữa nay, có xe thơ bắt đầu lấy thơ chạy lên Sài Gòn. Ông Đảnh đặt thơ dạy mình đánh máy, ông ký tên gởi theo xe Huê-Nam, đề nghị mình làm phó chủ tỉnh thiệt thọ. Mình vâng lời gởi đi mà mười phần biết chắc không đi đến đâu. Số mình là vậy.
Ngày 20-4-1945, có quan tư Noda cùng đi với ông Diệp Văn Kỳ đến thanh tra trong tỉnh, mình kiếm mua dùm họ được hai bịch thuốc hút Mélia bao vàng, và đêm lại sai dọn dẹp mùng mền cho họ nghỉ tại lữ khách riêng toà bố (mai son des passagers), sáng ngày mình hối hả đi vắng vì công vụ, sau nhận được tờ lưu bút của Diệp quân, và cũng là di tích chót của chủ bút tờ Thần Chung như vầy
“Monsieur L Administrateur-adjoint,
Mr le Commandant NODA me charge de vous écrire, parce que vous étiez absent à notre départ, - ces mots afin de vous remercier très sincèrement de votre hospitalité, lors de notre passage dans votre province.
Nous avons constaté avec plaisir que sous votre sage administration, les populations de Soctrang ont continué à vivre dans la tranquillité et la sécurité la plus absolue.
En réitérant mes sincères remerciements, Mr le Commandant NODA et moi, vous souhaitons bons succès et prospérité.
Signé: Diệp-Văn-Kỳ.
Đó là bức thơ viết hối hả nên nếu có phạm lỗi nhỏ đôi chỗ nên châm chế dịch là:
“Ông phó tỉnh trưởng. Quan thiếu tá NODA có cậy tôi viết thư nầy để lại ông vì lúc chúng tôi lên đường, ông vắng mặt. Chúng tôi thành thật cám ơn lòng tử tế tiếp đãi nhã nhặn, và lấy làm vui mà thấy dân sự ở tỉnh sống yên ổn và tiếp tục sống hoàn toàn an ninh nhờ sự cai trị sáng suốt của ông. Một lần nữa, chúng tôi xin đa tạ và quan tư NODA và tôi chúc ông thành công và thịnh vượng. Ký tên: Diệp Văn Kỳ”.
Ngày 22-4, thay mặt tỉnh trưởng, điếu tang mẹ anh Thái Tân Hoà bạn đồng liêu cũ trên dinh Thống đốc và mẹ bạn Thái Tân Đồng, cùng làm nơi toà bố Sốc Trăng.
Ngày 26-4, ra Đại Ngãi đọc điếu văn thay mặt tỉnh trưởng, điếu ông Đoàn Văn Tùng, là thân phụ bạn Đoàn Bá Lộc, lục sự toà án.
Ngày 5-5, đến kỳ hậu lệ tại toà bố, có quan hai Nhựt Yamamoto dự kiến.
Ngày 6-5, đổi thiếu uý Yamamoto, ông Watanabé đến thay.
Ngày 7-5, thiếu uý Watanabé đến nhà viếng xã giao.
Ngày 9-5, quan năm Nishyama đến thanh tra. Đảnh, Hồ Văn Xuân và mình đến chào ra mắt tại sở Hiến binh. Thiếu uý Watanabé đọc diễn văn phúc trình. Bữa tiếp tân có rượu bia, đậu phộng rang muối y như Triều Châu thường dùng ăn với cháo trắng, hột vịt chiên tráng thật mỏng (hà tiện) và gỏi dưa leo bóp đường.
Ngày 18-5, dự tiệc nhà cựu bang trưởng Triều Châu, Lưu Liễu tự Bang Tư, thịt dê nấu tám món do Châu Xi, chủ quán cơm danh tiếng đứng nấu.
Ngày 2-6-1945, trong đống công văn nhận được, có bức thư số 1985-P đề ngày 28-5-45 do ông Minoda ký, (và do tôi ký nhận tuân lịnh ngày 4-6-45 số 1433 CP) thì thống đốc Minoda ra lịnh thuyên chuyển ông Nguyễn Văn Trác tự Paul Larrive chức rédacteur de lère classe des Services administratifs (tôi dịch tham tá biên tập đệ nhứt hạng ngạch hành chánh) xuống thay thế tôi và dạy tôi phải nghỉ việc lập tức, vì cuộc thanh niên bầu cử tôi là không hợp pháp.
Khi tiếp công văn nầy, ông Đảnh tỏ vẻ buồn nhiều hơn tôi. Đến đêm tôi thản nhiên đi xem hát, gánh Long Xuyên xuống hát thâu tiền cứu giúp đồng bào ngoài Bắc Kỳ. Tôi ngồi gần ông Đảnh và gặp lại sau lâu năm xa cách bạn học cũ là Hồ Văn Ngà, nhưng tôi không nói chuyện nhiều e có người nghi tôi cầu cạnh, vì lúc ấy Ngà giữ chức phó khâm sai miền Nam. Dè đâu buổi gặp ấy cũng là ngày vĩnh quyết, Ngà bị hại cách mấy tháng sau.
Ngày 4-6-1945, tôi vô toà bố giã từ anh em, bắt tay biệt nhau.
Ông Đảnh nói mấy lời cảm ơn tôi đã tận tâm giúp ông mấy tháng nay. Luôn dịp tôi xin một bản sao thơ cho nghỉ việc.
Ngày 5-6, tưởng đà hết nợ, dè đâu ông Đảnh và ông Hồ Văn Xuân đi Long Phú, xe đi ngang qua nhà, hai người ép tôi cùng đi và trên xe, ông Đảnh tỏ ý tiếc thay mình ra đi, ông vô toà bố dường như thiếu một người. Ông nói một câu tiếng Pháp: “Je sen ùn vi de autour de moi” (Tôi có cảm tưởng thấy một khoảng trống chung quanh bao vây tôi). Ông than: “Anh đi rồi, bá ban vạn sự đều trút dồn về một tay tôi, nên ngã lòng quá”. Đoạn ông tâm sự: “Đánh trống động chuông, bứt mây động rừng”. Tôi với Nghĩa là bạn thâm giao, tôi lại mang tiếng nhờ Nghĩa “cử lên ngai vàng nầy”. Nay dẫu có vì tại Nghĩa mà hư hỏng việc trị an, tôi mang danh bất tài, thì cũng đành liều cho mang tiếng luôn. Chừng ấy có lẽ tôi sẽ đặng an ủi: “Ôi! Nên cũng Hà mà hư cũng Hà”.
Ngày 7-6-1945, có gánh Việt Nam kịch đoàn xuống diễn tại Sốc Trăng của chánh phủ trong đoàn có cô Năm Phỉ, người tôi mơ ước và đã nói nhiều trong “Năm chục năm mê hát” (trang 99). Gặp nhau, nghẹn lời vì tôi đã có bạn, và cô danh tiếng lẫy lừng, một đoá hoa, đang thời xuân sắc, ong bay bướm liệng chung quanh dập dìu.

Cùng đi với Việt Nam kịch đoàn, có ban chớp bóng của Sở Thông tin Sài Gòn xuống tuyên truyền. Ăn cơm tại Câu lạc bộ gọi Cercle de Sốc Trăng, do chủ tỉnh đãi Cô Năm và mười người tai mắt trong xứ của ông Cò-mí dẫn đoàn chớp bóng. Tuy đã nghỉ việc, nhưng người đẹp mời ngồi gần và không xiết gọi mình ông Phó nầy, ông phó kia, nghe nhột nhạt mà không dám mở lời cải chính. Tiệc xong, đi xem diễn tuồng “Vì đâu nên nỗi”. Ghế mời R.5 và R.6 (R, là réservé: ghế dành riêng), khi chưa làm tuồng, Cô Năm còn xuống ngồi gần hàn thuyên tâm sự, cô hẹn chấn chắn sẽ đến nhà ăn “ăn cơm một bữa, như buổi còn ăn chén hột gà chưng trên Chợ Lớn”, báo hại mình mãi ấp cây chờ thỏ, sau rõ lại Cô chọn đi dùng bữa tại nhà ông Hội đồng Quản hạt Nguyễn Văn Nhung bên Bãi Xàu và đi khiêu vũ trên đồn điền Robert Labsthe ở Hélène-ville (phụng Hiệp), hai nơi nầy cố nhiên sang trọng hơn nhà lên thơ ký tiếm vị Phó tỉnh trưởng, để gái bao ăn hột gà chưng năm xưa.
Ngày 22-6. Ông Phủ Hồ Văn Xuân được lịnh đổi đi làm chủ quận Long Mỹ (Rạch Giá). Tiệc tiễn biệt có đánh thín cẩu.
Ngày 27-6 hội quán Quảng Đông mời dự tiệc đãi sĩ quan hiến binh Nhựt. Đánh tửu rất vui, rượu bia rót đầy ly uống không bao giờ cạn. Say và làm mất một kỷ vật quí, đó là ống điếu hút thuốc vấn bằng bích ngọc rất cổ.
Ngày 27-6, dự tiệc ông Đảnh gả con, rể là một tham tá lục sự ở Vĩnh Long. Nhóm họ và chơi thín cẩu tại dinh chủ tỉnh! Tiệc cảm động vì ông Đảnh trao hết tiền hồ và sính vật cho con và rể trước mặt họ hàng và sui gia. Thực đơn viết toàn Việt ngữ, như vầy:
Hôtel Inspection- Sốc Trăng ngày 27-1945 (23 tháng 5 năm Ất Dậu) (nhóm họ)
Long đình ngư bì  (canh da cá bóng)
Phụng thể kim hoa  (Gà lôi đúc lò)
Mạch tửu chữ dương  Dê tơ nấu rượu.
Đại hồng bưu thạch (Heo con đúc lò)
Liệt thiêu tiền ngư  (Cá bống chiên)
Thập trận đại hội  (cù-lao lửa)
Ngọc chủng Lam-điền  (Cơm, cá, thịt kho)
Quả bỉnh song hiệp  (trái cây, bánh ngọt)
Hương băng thanh vị  (bom lách-xê)
Võ Văn Đảnh và nội nhân đốn thỉnh.
Ngày 7-7, dự lễ tứ tuần chị Emilie Pennen là vợ trước ông Nguyễn An Ninh.
Ngày 14-7, máy bay Mỹ bắn chiếc xe hơi chạy trên đường Văn Cơ - Đại Ngãi. Lúc bắn vào lối 12 giờ khuya. Chết ba người: hai người theo xe đi rước thầy, và ông đông y sĩ Thầy Tàu, mọi lần rước bằng xe lôi không sao, hôm nay sanh sứa đòi ngự xe ôtô, và vì đèn pha rọi sáng, nên máy bay Mỹ bắn theo chết tốt. Rạng ngày lên nhà xác nhìn kẻ lòi mắt, người văng óc, máu me đỏ lòng, ghê quá. Chiến tranh diễn ngoài Đông Dương đã trở nên khốc liệt và tỉnh nhỏ Sốc Trăng vẫn còn mê ngủ như các tỉnh nhỏ khác. Người Nhựt bắt đầu bại trận mà còn giấu.
Ngày 4-8, một ngày mà được mời dự ba bữa tiệc, cậu Ba Etienne mời đám giỗ cúng cha; ông Nghĩa đãi thân bằng lương hữu (đã nói nơi đoạn trước), và ông mời đãi thiếu uý Nhựt Watanabé.
Nhơn tiệc nầy, mình say, đòi ông Watanabé cho xem gươm báu, nghe mình xin như vậy, ông Watanabé tái mặt, trâm một hơi tiếng Nhựt với Sệp Hên là thông dịch rằng gươm rút ra khỏi vỏ phải có vấy máu mới trở vào vỏ được. Đến phiên mình xanh mặt hết say và xin rút lời nói vụng về. Ông Watanabé nhứt quyết không nghe, nắm tay mình và dắt Sếp Hên ra sân sau Câu lạc bộ, chỗ có trồng bụi chuối. Mình tưởng giờ tử hình đã đến, ông tuốt gươm sáng quắc mời mình xem lưỡi gươm hồn bất phụ thực, mình nào dám nhìn. Bỗng nghe một tiếng “phụp” một cây chuối to lớn ngã cái “rột”, ông Watanabé cười mà rằng: “Chuối thế mạng người”. Watanabé đưa tôi trở lại tiệc hồn tôi lâu lắm mới nhập, và từ ấy tôi không dám hở hang lời nói nữa. Mãn tiệc vội nghe tin ông Nghĩa, đứt gân máu lại là một bài học khác cùng một ngày cho kẻ dẫu ham rượu cách mấy cũng phải chừa. Nhưng trên đời có mấy thằng ham rượu, thề thốt đinh ninh rồi biết giữ lời?
Đêm nay, tiệc tan, thiếu uý Watanabé lui về, còn lai hai bợm rượu Nhựt, một đội trưởng và một tài xế, kẹp cổ tôi bảo dắt lên nhà Ba Chỉ, lựa ba cô đưa nhau trở lại Lữ quán băng-ga-lô chọn ba phòng.
Sáng ngày, ông Đảnh hay, dạy tìm ra cho ra khoản trả tiền: ba cô ba chục là chín chục, tiền phòng mười tám đồng (sáu đồng nhân cho ba), vị chi một trăm lẻ tám đồng cả thảy. Mấy đời có ai đánh bài công khai dinh tỉnh trưởng và được xuất công nho bao tiền trả gái.
Ngày 10-8- Từ đây, sự việc diễn biến đột ngột và quá mau, không theo và không hiểu kịp. Mới ngày 4-8 còn yến ẩm cười nói vô tư lự, hôm nay 10-8 lối mười giờ khuya, có tiếng gõ cửa gấp.
Ông Watanabé cùng đi với Sệp Hên, mặt buồn lắm, đến từ giã, rằng có việc đi xa và xin gởi tôi một báu vật. Tôi tỏ vẻ ưng thuận. Watanabé bèn gỡ cây gươm đeo bên mình, trân trọng hai tay đưa tôi, và rằng: “Cho xin gởi và khéo giữ gìn. Như hai năm nữa không trở lại thì xin tặng luôn làm vật kỷ niệm, bảo kiếm nầy đã lưu truyền đến tôi là ba đời”. Than ôi. Trong bước truân chuyên lao đao lận đận, tôi mỏi mắt chờ trông mà cố nhân Watanabé nào thấy dạng hình, duy bảo kiếm vẫn còn treo mãi trên vách. Thân tôi trói gà không chặt, mang tiếng là học giả mà câu văn viết chưa gọn, thêm tuổi già lẩn thẩn theo sau, ông giao cho tôi làm chi binh khí chỉ báu trong tay nhà tướng, nội chuyện ông chém chuối, nhớ lai tôi đủ lạnh mình (Té ra ngày 10-8 đã có tin hai trái bom nguyên tứ Mỹ thả xuống Hiroshima rồi và Nhựt sắp đầu hàng mà ông Watanabé rất kín miệng, còn giữ bí mật với tôi. Và ông gởi gươm mà không nói).
Ngày 10-8, tôi đến thăm ông đốc Nghĩa.
Ngày 13-8, Thanh niên tiền phong thành lập tại Sốc Trăng và làm lễ ra mắt (14-8). Ông chủ tỉnh cậy tôi đại diện, giới thiệu thủ lãnh Dương Văn Đen với công chúng. Tạ Bá Tòng diễn thuyết về mục đích của Thanh niên tiền phong.
Ngày 12-8, tin Nhựt đầu hàng Đồng Minh đồn rùm. Bọn chợ đen nhạy hơi, bán đổ bán tháo vật tích trữ lâu nay, vì biết rằng chiến tranh sắp dứt.
Có tin đáng mừng là Đồng Minh sẽ tuyên bố độc lập cho tất cả các nước bấy lâu bị bắt làm thuộc địa của các nước Tây phương giàu mạnh. Duy tình trạng Nam phần Việt Nam rồi sẽ ra sao?
Vấn đề nầy rất lâu không dứt khoát. Trong buổi nhóm tại Long Xuyên, trước mặt thân hào nhân sĩ và ông phủ Nguyễn Văn Tiếp làm chủ tỉnh tạm thời, ngày 30-3-1945, ông Satoh là Phó Thống đốc thay mặt ông Minoda thống đốc và có quyền hành rất lớn, đã nhạy miệng thổ lộ như sau:
Nguyên văn bằng chữ Pháp:
“II y a un gros malentendu au sujet de l indépendance de l Indochine. Celle-ci toute entière ;st sous le contrôle “militaire du Japon. L indépendance de Empire d Annam et du royaume du Cambodge a été proclamée. La Cochinchine, non seulement se trouve sous” le contrôle militaire nais encore sous l administration militaire japonaise. Donc, pas l indépendance de la Cochinchine.
“Juridiquement, la Cochinchine était un pays franais! Juridiquement” vous étiez Franais. Vous étuez tous, sujets rancais, c est-à-dire des” Franais. Il y aurait bientôt une procla-nation du Commandant en chef de” l Armée japonaise. Vous allé? conquérir probablement la nationalité annamite. Au point de vue sentimental, je comprends que vous sentez annamites. Les habiants pourront donc pavoiser leurs maisons aux couleurs annamites. Pour les bâtiments publics, n arborez pas le drapeau annamite, on pourrait dire que c est l Empire d Annam qui gouverne la Cochinchine. Je ne sais pas quand cela arrivera. Personnellement, j en serais heureux, mais maintenant vous êtes sous l Administration militaire japonaise.
“M. le Vice-Gouverneur insiste : “L Empire d Annam abrogé le traité de protectorat avec la France. L Empire d Annam était un pays protégé, et la Cochinchine était une terre franaise, maintenant, elle est sous le contrôle militaire japonais, (extrait du compte-rendu du passage de Monsieur le Vice-Gouverneur Satoh à Long Xuyen le 30 Mars 1945).
Tôi xin tạm dịch:
“Hiện có một hiểu lầm rất lớn về chế độ độc lập của Đông Dương. Cho hay toàn cõi vẫn ở dưới quyền điều khiển của nhà binh Nhựt. Sự độc lập của đế quốc An Nam và của vương quốc Cao Miên đã được tuyên bô. Nhưng cõi Nam Kỳ vẫn dưới quyền kiểm soát và dưới quyền cai trị của nền hành chính quân đội Nhựt. Và như thế đâu có độc lập cho xứ Nam Kỳ.
Đối với mặt luật, thì Nam Kỳ trước đây là một lãnh thổ thuộc Pháp. Đối với mặt luật, mấy ông đây đều là Pháp. Các ông đều là thần dân của Pháp tức người Pháp đó chi! Sắp có bản tuyên bố của quan tổng tư lịnh tổng quân đội Nhựt. Các ông sẽ thâu hồi đại khái quốc tịch An Nam. Luận về tình cảm, tôi hiểu được ông muôn được làm dân An Nam. Như vậy dân sự vẫn được treo quốc kỳ An Nam. Nhưng dinh thự công cộng không nên treo cờ An Nam, không khéo có người sẽ nói đế quốc An Nam ngự trị trên đất Nam Kỳ. Tôi chưa biêt việc ấy chừng nào sẽ đến. Riêng tôi, nếu chuyện nầy xảy đến, tôi sẽ rất vui mừng. Nhưng hiện nay các ông vẫn được đạt dưới quyền cai trị của nhà binh Nhựt”.
Phó Thống đốc Satoh lại tiếp:
“Đế quốc An Nam đã thủ tiêu tờ điều ước đô hộ của Pháp quôc. Đế quốc An Nam trước đây là một nước bị đô hộ, còn Nam Kỳ trước đây vẫn là một lãnh thổ Pháp, nay bị đặt dưới quyền kiểm soát của quân đội Nhựt...” (trích bản phúc trình cuộc tuần du tai Iong Xuyên của Phó Thống đốc Satoh ngày 30/3-1945 hiện cất giữ tại nhà).
Than ôi! Một cục mỡ béo treo trước miệng mèo, một miếng thịt bít-tết ngon lành treo trước mõm chó, đất Nam Kỳ là một thiên đàng dưới dương gian, thảo nào người ta không thèm thuồng, hễ vớ được rồi là quyết ngoặc lại cho chắc, bao giờ chịu nhả ra! Lại còn giả đạo đức, lấy luật nầy luật kia ra nói! Cho nên sau nầy dẫu thua sát nước mà họ vẫn kiên trì không chịu trả Nam Kỳ lại cho ta, và khi cùng phương đối đế, không giữ được nữa họ mới đành buông bằng cách chôn súng rồi chỉ chỗ cho lấy, vân vân...
Ngày 19-8, có cuộc biểu tình mừng độc lập và hoan nghinh ông Nguyễn Văn Sâm được vua Bảo Đại phong làm khâm sai Nam Bộ, Hồ Văn Ngà làm phó khâm sai.
Ngày 20-8, Thanh niên tiền phong biểu tình.
Ngày 25-8, Nội các Trần Trọng Kim đổ, Nguyễn Văn Sâm từ chức theo, Hồ Văn Ngà nhượng bộ. Có tin Bảo Đại thoái vị. Thiệt là quá mau và tỉnh nhỏ Sốc Trăng nào hiểu biết gì. Toàn thể công chức chỉ biết vâng vâng dạ dạ, sai gì làm nấy.
Ngày 26-8, lễ tuyên thệ của Thanh niên tiền phong trên sân vận động Chung Đôn.
Ngày 27-8, đúng ngày mình vô làm nơi Trường Máy, nay đã được 22 năm kể từ 27-8-1923. Ông Đảnh mời vô toà bố nhờ viết bài xin trả chức.
Ngày 29-8, nửa đêm nghe tiếng còi báo động, sáng hay tin ông Đảnh chủ tịch, ông Sang bác sĩ, ông Quế chủ sự Dây Thép và ông Sính trưởng toà bị thanh niên bắt rồi thả. Ngồi nhà, tâm trí ngổn ngang, nghĩ lại thương ông Đảnh tốt với mình quá, biết bao giờ gặp một người tri kỷ như vầy. Đọc lại bút tích ông viết mấy tháng trước: “Tất cả những vấn đề nào anh làm đặng, trả lời được thì nhờ anh cứ trả lời và giải quyết thế tôi. Người nào, quan khách nào tôi không rước thì anh cứ rước và trả lời “en l air” (sic) cho xuôi việc và gởi đi lịch sự thôi”. (Võ cố nhân ôi, ngày nay tôi đọc mà còn ưa nước mắt).
Về tình nghĩa thầy trò, lúc tôi còn làm, tôi có nhận của một ân sư một giấy xin lãnh coi sóc lữ xá băng-ga-lô, một ân sư khác can thiệp cho bồi cũ ông chánh B, xin một chân lính cảnh sát. Hai việc đều ngoài phạm vi của tôi vả lại trái với lương tâm. Hai thầy nay đã năm yên dưới ba tấc đất, xin tha thứ cho con? Không phải con quên ơn hai thầy, nhưng xin thầy hiểu việc công đâu làm như việc tư được?
Ngày 2-9, Việt Minh biểu tình lần thứ nhất, tại Sốc Trăng vào mười bốn giờ chiều. Lưu Trọng Quyền dẫn theo một tù xa đề: “Bắt cóc bọn thân thiện với Pháp”. Sai may cờ mới treo trước cửa và dự biểu tình cho đến mãn cuộc.
Ngày 5-9, thanh tra miền Tây của Lâm uỷ hành chánh là ông Nguyễn Văn Tây, cùng đi với Chung Bá Khánh, trước học Chasseloup, đại diện Phật giáo Hoà Hảo, xuống Sốc Trăng diễn thuyết nhìn nhận ông Đảnh coi về cai trị. Thành lập Uỷ ban địa hạt gồm Dương Kỳ Hiệp (em cột chèo ông Nghĩa) làm chủ tịch, Tạ Bá Tòng làm phó chủ tịch. Cố vấn: ông Trương Đại Lượng đại diện Hoà Hảo và Sơn Thái Nguyên đại diện người Việt gốc Miên.
Ngày 7-9, Cần Thơ có lộn xộn, Hoà Hảo giành quyền cai trị. Thanh niên Sốc Trăng và Bạc Liêu kéo lên hiệp với thanh niên Cần Thơ mới dàn xếp xong.
Ngày 9-9, tiễn ông Lý Bình Huê toà Sốc Trăng, lên làm cố vấn Bộ Tư Pháp. Thanh niên bắt mấy người theo Hoà Hảo: Trương Đại Lượng, Lý Công Quận, Nguyễn Hữu Trinh (ngoài gọi Xã Mười Trinh) nghiệp chủ lớn, con bà Cả Tru.
Kể từ ông Đảnh có Uỷ ban hành chánh lâm thời giúp việc cai trị, mình trở nên “hưu thiệt thọ” và lãnh phận sự thay mặt Uỷ ban tiễn đưa chiến sĩ từ trần:
- Ngày 21-11-1945, điếu Phan Thành Mỹ chết trận Cái Tắc, người thứ nhất nằm nghĩa địa mới lập trước trại lính tập cũ nay không biết còn chăng?
- Ngày 22-11-1945, đọc ai điếu nhơn lễ truy điệu trận vong tướng sĩ;
- Ngày 23-11-1945 ứng khẩu khóc tại mộ anh Nguyễn Văn Chức, 37 tuổi, thợ hồ;
- Ngày 1-12-1945, khóc tiễn trước mộ chung “chiến sĩ trận vong”, anh Lâm Văn Hai tự Lén, 25 tuổi, đánh xe ngựa con ông Lâm Văn Xện, có nhà và chuồng ngựa trước trại ruộng của mình trên mé kinh và mé lộ dưới đường đi Bãi Xàu. Anh Lén chết mất xác ở Cần Thơ trong trận đánh du kích chống quân Pháp. Tôi khóc anh Lén thật tình và người chung quanh cũng khóc với tôi. Đời còn lắm phong ba, chết là yên, sống thừa thêm khổ.
Ngày 15-12-1945, đọc ai điếu nhơn lễ truy điệu chiến sĩ trận vong lần nữa.
Tuy khóc thật tình, nhưng nước mắt vẫn còn, và biết bao giờ cạn. Và đời vẫn còn thừa chuyện tếu, bắt buộc phải lau nước mắt để cười, mới sống được đến hôm nay.
Năm 1945, tôi không giữ nhật ký vì lịch bỏ túi không đâu có bán thêm nữa có lệnh cấm ngặt không cho ghi chép vì e lọt tay địch thù? Đêm 24-9, lối 2 giờ khuya, tôi được mời vô khám đến 27-9 lối 10 giờ sáng thì thả. Nhưng nhớ lại lúc đó trời bắt đầu có gió lạnh và sắp dứt mua. Có hai mươi ngoài người như tôi, trong ấy còn nhớ có Phán Kiểng, hội đồng Nhung, bác sĩ Sang, nhất là ông trưởng toà Sính, vì quá lật đật quên đem hàm răng rời theo, sáng ngày anh em ngồi chò hỏ ngó mặt nhau buồn nghiến vì sợ ở luôn đây với tết thì xui xẻo lắm. Có Phán Lợi ăn cưới về còn mặc nguyên com-lê nỉ đen, thảy đều do Chủ tịch mới hội nghị gấp mười một mười hai giờ khuya, bác sĩ S. tay còn xách túi da đựng thuốc vì chiều bữa đó ông được mời đi đón anh em ở Côn Đảo về, tội nghiệp nhất là ông trưởng toà S, quên đem theo hàm răng giả, nên sáng ra ở nhà đem cơm vô chúng tôi được hưởng trọn những gì ngon giòn còn ông chỉ trệu trạo và nuốt cơm lạt, ở được vài hôm cũng vừa quen quen với nhà pha Sốc Trăng nầy, bỗng chiều bữa nọ, cơm nước vừa xong, bác sĩ vốn là bạn thân từ lúc nhỏ, nay thêm thân vì đồng cảnh ngộ làm tù, hai đứa tôi đang cùng đi bách bộ trong khám cho đỡ tù túng chân giò. Thoạt nghe từ một trại giam bít bùng, có tiếng ai lên dây đờn cò réo rắt. Bác sĩ lấy mắt hỏi tôi, tôi cười và nói nhỏ rằng: “Thời buổi loạn ly, nếu họ cho phép đem đờn vào khám thì e chúng mình còn ở đây lâu, vì trật tự không còn và một khi trật tự đã mất, thì người ta ở ngoài sẽ quên mình và đôi ta sẽ khó trông cậy vào công bằng soi xét”. Nhưng rồi cũng quên đi... Ngờ đâu qua hôm sau, chiều đến vào đúng giờ ấy, lại nghe giọng đờn nữa, và phen nầy càng nhức nhối não nùng hơn đêm trước nhiều:
“Nghe não nuột mấy dây buồn bực,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu” (Tỳ bà).
Không thể chịu được nữa, bác sĩ và tôi phăng lần theo hướng có tiếng đàn. Qua khỏi sân nhà xay lúa và giã gạo thì đến khám giam tội tử hình, quen gọi khám tối. Trong một khuôn cửa sầu thảm âm u, bỗng vọng ra tiếng đàn rõ rệt. Buổi ấy lính tráng cũng thật tình dễ dãi. Vả chăng hai tôi vẫn là bực đàn anh trong xứ, một người là bác sĩ chủ sở y tế địa phương có tiếng là hiền từ nhơn đức còn tôi dầu sao đi nữa mới mấy ngày trước còn ràng ràng vẫn được thanh niên yêu vì bầu cử lên làm phó tỉnh trưởng một thời gian, có quyền ký sổ mua gạo mua thực phẩm nuôi tù, vì các lẽ ấy nên xếp khám là ông Quản Lý (tên Lý) vẫn tha hồ để chúng tôi đi đi lại lại trong khám không một lời khiển trách. Nhờ vậy chúng tôi bước trờ tới cửa sổ nơi phát ra tiếng đờn. Chúng tôi định thần nhìn kỹ giây lâu, thấy lần lần hiện ra một bóng người trần truồng ngồi đưa lưng ra cửa, chân còng trong một cây cùm sắt to bằng cườm tay người lớn. Lúc ấy tiếng đàn đã bặt từ nãy giờ. Tôi lên tiếng hỏi và không quên búng mạnh vào một điếu Bách-tô đốt sẵn ngay chỗ có tiếng người. Bỗng thấy lẹ như chớp, người ấy tay chụp điếu thuốc, hít một hơi dài gần như nuốt mất cả khói, tay kia vội vội kéo manh đệm che phân nửa khúc thân dưới quá loã lồ, một cử chỉ tuyệt nhã đối với một tử tù bắt tôi băn khoăn nhớ cảnh “đàn che nửa mặt bến Tầm Dương” và nước mắt tôi bỗng rơi vì xúc cảm. Đoạn người ấy lễ phép thưa: “Dạ, không phải tôi đàn, ấy tôi hút gió bằng miệng mà thôi”. Nhơn chúng tôi hỏi vì tôi chi mà thân bị nhốt khám đại hình, bỗng người ấy đáp: “Trước kia làm nghề đi bạn ghe chài, chẳng may chủ chở đạn dược súng lậu Nhật chận bắt, chủ thuyền, lái và thuỷ thủ có dư tiền lo lót nên đều thoát khỏi vòng lao lý, duy thân nầy nghèo khổ trơ trọi, còn sót lại nằm đây, không biết ngày mai ra sao!”.
Người ấy nói tiếp nếu có được trong tay một chót đuôi lá trầu hay một cạnh lá gì cũng mặc, sẽ lấy đó làm “lưỡi gà” và tiếng kêu càng giòn càng giống hệt tiếng đàn cò hay tiếng kèn hơn nữa, và khi ấy muốn thổi bản nào, giọng nào, dây hơi nào, đều dám chắc không thua đàn thiệt. Chúng tôi cũng ngồi tù như anh, trong tay không có lá nào, vậy xin cho nghe một buổi đàn miệng suông cũng đủ là thoả nguyện. Nghe làm vậy, người ấy bèn giụm hai tay trước mồm, thọc hai ngón trỏ vào họng, rồi vừa thổi ra vừa hít hơi vào quả thật chúng tôi đứng nghe khoái trá đến quên cả cảnh tù đày và chỉ nhớ và thèm thuồng đây là một nghệ thuật độc đáo, có một không hai.
Cũng trong đêm ấy, cửa ngục thoạt mở cho chúng tôi ra khỏi khám đường Sốc Trăng, nhớ lại chúng tôi đà trải qua bốn ngày bôn đêm trong nầy. Kế liên tiếp và dồn dập sự biến chuyển của thời cuộc năm Ất Dậu, Bính Tuất (1945 - 1946) tới mãi không ngừng, chúng tôi khiếp nhược chỉ biết lo cho thân, khiến cho đến nay, tin tức âm hao người nghệ sĩ xấu số kia cũng bặt, sống chết không hay.
Đã mấy lần về thăm nhà, có người chỉ biết nghệ sĩ ấy quê ở Đại Ngãi, mà tông tích thế nào không ai biết.
Trong những buổi tiếp xúc với người Nhựt, bất cứ với quân đội hiến binh hay sĩ quan, tôi luôn luôn giữ thái độ mềm mỏng nhưng bất khuất, không bao giờ bợ đỡ, biết thì nói, không biết thì thưa không biết. Chủ trương của tôi là giữ lợi khí duy nhứt của kẻ yếu là ăn ngay nói thật. Tôi hiểu rằng đối với người có binh khí cầm tay, nhứt là đối với người Nhựt mộc mạc, nóng tính, ghét dối trá một khi bắt được nói dối thì chăng bao giờ nghe nữa. Như vậy là mình tìm cái chết. Trái lại dịu ngọt và nhỏ nhẹ, giữ đúng tiếng nói của lương tâm, thì hoạ may đổi con sư tử ra con trừu. Vả lại trong thời kỳ chiến tranh, mạng người rẻ hơn bèo. Bao giờ mình là người thụ động, bị ở trong cảnh đánh giặc, chớ lòng nào gây chiến với ai? Từ khi tôi thôi làm, có vấn đề nào éo le, cần nói chuyện với cơ quan Nhựt tại tỉnh, ông Đảnh thường cậy tôi dàn xếp và ông thường viết câu: “Anh rán hát cho hay...”. Mỗi khi có tiệc tùng, người Nhựt thường buộc tôi có mặt. Những khi như vậy, lòng nào muốn mà cũng phải đi, cũng vì tánh nhát sợ có sự hiểu lầm. Khi tôi thôi việc, họ thường nhắc nhở. Trong thơ viết từ giã yêu cầu cho thôi để hưởng hưu bổng, có câu nầy nay đọc lại thấy xấc: “Tôi không xin xỏ cũng không van nài, cũng không tìm cách từ chối bằng lối si-mê hay xu mị, kiêu ngầm hay chọc tức. Ngày nào quý vị biết rõ tôi là “đại chi vô dụng” (như cây cỏ dại mọc xó hè) và dể tôi yên thân, ngày ấy tôi mới thật mừng”. Câu nầy không phải của tôi và tôi lấy ý của Chateaubriand, nhưng không đủ tài dịch rõ hơn: “Je ne demande rien, je ne sollicite rien, je ne veux mettre ni passion, ni orgueil, ai taquinerỉe à refuser, mai aussi je sentirai une vraie joie, le Jour cù il ser arrêté que je ne sui bon à rien ét qưil faut me planter là”.
Khi bị ép ra làm, tôi có nghĩ hai câu đến nay chưa bằng bụng vì tôi không có khiếu về thơ tuy có tánh song tàng, ưa mượn của kẻ khác, hoặc làm thơ con cóc:
Lầu xanh dời lạt lầu hồng,
miệng ngoài nói cứng mà lòng đã ưng.
Lầu xanh xé giấy khoan mừng,
Giấy kia dầu xé cũng từng lầu xanh!
20 (tt ): 20. 1945-1946-1947
TỪ ĐÂY GIA ĐÌNH BẮT ĐẦU TAN!
THÂN NHƯ CON VỊT QUAY TÍT!
Ý ĐỊNH KHÔNG MUỐN SỐNG!

- 18-12-1945 (16/2-1946: tản cư vô Hoà Tú;
- 25-10-1946 (15-11-1946: tản cư lên Kế Sách;
- 7-7-1947 ( rời Sốc Trăng chạy tuốt lên Sài Gòn.
Vô khám Sốc Trăng nếm mùi cơm gạo lức nước phong-tên vì tôi nhứt định gặp cảnh nào theo cảnh nấy, nên không cho người nhà đem cơm vô. Tôi thản nhiên cười nói như ở ngoài đời, anh em đều lấy làm lạ, hoặc cho tôi lập dị. Trưởng toà Sính là người nhiều phong kiến, một hai đòi xin giam chỗ khác, không ở chung với thường phạm; tôi không đồng ý, cho rằng “tố nào theo tố nấy” như vậy mà yên thân hơn, tách ra riêng chăng may bị bỏ rơi đói khát, hoặc họ phóng hoả chết cháy cũng chưa biết được, đã oan mạng, thêm mang tiếng tự mình lựa cái chết. Ông Sính nghe được, mới chịu thôi, không kêu nài. Vả chăng kêu nài cũng không ai nghe.
Tưởng ở đây đến Tết, ngờ đâu 2 giờ khuya hôm 24-9 vô đây đến 10 giờ sáng 27-9-1945 cửa khám mở rộng cho về; đi bộ từ ngục về tới nhà, tay ôm chiếc chiếu lác đã xười, vì tật chơi đồ cổ không bỏ và dầu sao cũng là vật kỷ niệm bốn ngày Dũ-lý. Về nhà bế môn không tiếp khách, duy tiếp một người như ruột rà là em Kim Chi, đến thăm chúa nhật 30-9, là bạn thân của cả vợ và chồng.
Mua hai trăm ký gạo giá tám mươi bốn đồng (84$00), không như bây giờ 1975, một bao trăm ký trên 20.000$.
Ngày 11-10 cho đến ngày 21-10, tản cư xuống trại ruộng lộ nhỏ đường đi Bãi Xàu vì tuân lịnh Uỷ ban kháng chiến. Nhưng ở đây cũng không được yên, vì tuy khách không đến khuấy rầy, nhưng tối bữa 13-10 (đêm 8 qua 9 tháng 9 Ất Dậu) có quân tử ngồi rường đến viếng; không trộm của mình mà nhè áo quần tế nhuyễn của ông bà công táp Huỳnh Văn Đạo ôm sạch. anh em làm sao biện minh? 21-10, dọn trở về nhà cũ, 31 đường Đại Ngãi. Lúc nầy thành phố sôi sục, nạn cướp bóc trong các làng xa do giặc Thổ khuấy, tin Sài Gòn rất xấu chưa biết chừng nào bọn Tây xuống đây. Ở nhà cũng không yên, Tư thường đi vắng, qua nhà anh là Tường Khi canh bài, khi gặp Thân. Mối tình đầm thẩm khi nghèo, nay đã manh nha tan rã...
Ngàv 9-12 là ngày 10-12 (5 và 6 tháng 11 Ất Dậu) gặp lại bạn cũ hội Khuyến học Sài Gòn là anh Ngô Quang Huy, chạy xuống đây, chia nhau giấy quyến hút thuốc vì đều là bợm ghiền thuốc điếu. Huy cho hay vài tin tức Sài Gòn, rồi từ giã nói lên đường đi Cao Lãnh.
Ngày 16-12, em là Vương Minh Quang dọn đồ đạc, ghế tràng kỷ, tủ áo xuống ghe và đưa thân phụ chạy về tản cư bên quê vợ ở làng Thạnh Thới An, sau bị giặc Thổ đốt phá cướp sạch luôn độ nghề làm thợ bạc, bàn cán là vật kỷ liệm thân phụ trân trọng về sau tiếc mãi. Thổ tàn ác, lột sạch, thân phụ phải đóng khố bằng vải mùng rách mà bọn chúng còn muốn không buông tha tánh mạng. Mấy hôm sau, Quang qua Hoà Tú gặp mình, mình tạm gởi mớ áo quần đỡ ngặt và phụ thân bớt lạnh đêm đông.
Ngày 17-12-1945, thanh niên đến nhà treo đồ bổi lá khô trên trình thượng hai căn phố 31 và 33 của thân phụ, ép mình ký tên cho phép đốt nhà “tiêu thổ khi có giặc Tây đến. (Về sau nhà cháy, nhưng bên bang “Công sở Quảng Đông” ở sát vách qua cứu kịp, khỏi bị hoả tai. Lúc tản cư trở về, nhà còn y, duy nám sém cửa sổ)
Cùng trong ngày, mình về dọn đưa lư hương vừa nhang qua tạm để góc tre sau trại ruộng dường Bãi Xàu, tản cư về, bát nhang ông bà còn y nguyên, vô sự.
Ngày 18-12-1945, đến lượt mình dọn hết đồ đạc sách vở đồ đưa xuống ghe tản cư vô ở nhờ nhà Trần Đắc Lợi (Chủ Lý) làng Hoà Tú. Ngày 19-12, ghe vô tới nơi, dọn lên.
Ngày 26-12, dự xem thanh niên diễn tuồng ái quốc tại nhà Chủ Lỹ.
Ngày 27-12-1945, dùng tiệc cơm Tàu nhà Trần Kế Vĩnh do chú Chín Cảo đứng nấu. Cũng vì tánh ham cao lương mỹ vị, mà chạy bỏ xừ mấy phen, nhưng chưa thấy tởn. Ngày nay vùng nầy không còn một cục gạch di tích sự nghiệp xưa, chớ xóm bà Hương Chanh nầy, trước năm 1945 là một vùng sum mậu nhứt:
- Nhà Ba Chen là một villa khang trang đẹp đẽ, nhiều nhà vùng Sài Gòn Gia Định ngày nay cũng khó sánh về mỹ thuật; em gái Chen là cô Tư, làm bánh, nấu bếp khéo vô song.
- Nhà Chủ Lỹ, là một ngôi nhà cổ ba căn, lẫm lúa cội núi dăng dăng. Lỹ là tay hào kiệt coi tiền như đất, mấy năm tản cư, đồng bào chạy ngang đều được tiếp tế đầy đủ. Gạo lúa muốn xúc bao nhiêu anh không bao giờ nói, vì tánh anh là người tiền phong, anh nuôi ý tưởng xã hội chủ nghĩa và vẫn xem tiền là phù vân, là nước bọt. Nếu có khả trách là trách anh vốn đệ tử tiên nâu, hút đến phá sản. Khi anh nằm xuống, ruộng vườn ông hà để lại không còn (nên khỏi bị truất hữu) đuy còn một chút ruộng hương hoả thì vợ con cũng chưa lãnh, vì trục trặc giấy tờ.
- Không đẹp mà khoái lạc nhứt là cơ ngơi của Trần Kế Vĩnh, ngoài gọi cậu Hai Vĩnh. Nhà ở là một nhà lầu của ông bà để lại, tuy thấp xưa mà kiên cố: vách tường dày ba lớp gạch (vách ba mươi), bọc thêm bên trong một lớp hàng rào sắt ba phân tròn, không sợ giặc cướp buổi đó. Nhà cất nối dài, nhờ vậy sau tôi dọn về đây, lại có dịp bành trướng tủ sách sập vàng y như lúc ở chợ Sốc Trăng. Nhưng chỗ tôi thích nhứt là vườn rau của Hai Vĩnh và ao nuôi cá tôm. Mương đào nước chảy thì Vĩnh nuôi cá, đủ thứ đủ giống từ cá trê vàng lườm, và tôm, loại tôm càng thật lớn con, giờ nào buổi nào có khách tới muốn ăn thức gì đều có sẵn, từ tôm nhúng giấm đến tôm luộc, tôm nướng, qua cá nướng trụi hoặc xắt lát mỏng nhúng tái ăn “tạp-pín-lù” (gọi ăn cù lao). Nhà Vĩnh tư niên chứa đủ rượu Tây ngon, rượu khai vị Martel, rượu sâm banh, chỉ thiếu nước đá, vì thuở ấy khó sắm tủ fri-gi-đe chạy dầu hôi, kỳ dư tàu vị yểu, nước chấm maggi, nước mắm hòn không bao giờ thiếu. Vĩnh không tiếc tiền, dọn ruộng đắp đất làm được một sân túc cầu trồng cỏ còn khéo và đều đặn hơn sân đá banh vườn ông Thượng Sài Gòn. Nhưng tuyệt đẹp tuyệt mỹ và bất ngờ nhứt giữa cảnh đồng khô cỏ cháy nước mặn là vườn rau Hai Vĩnh bốn mùa có đủ ớt cay, củ sả, nghệ vàng, ngải bún, và các thứ rau ngoại quốc chỉ hạ thuỷ thổ với Đà Lạt như xa-lách xon (cresson), xa-lách Đà Lạt, luôn cả khoai Tây (pomme de terre) béo bùi không chút sượng. Vĩnh có đến ba đầu bếp chuyên môn nấu theo Tây Tàu và Ta. Như đã nói bởi ham ăn khoái khẩu mà xuýt chút nữa tôi đã chôn xác và bỏ cả gia tài nơi điền Bà Hương Chanh nầy.
Năm 1946 (Bính Tuất) tin dồn dập đến tôi tại Hoà Tú và đều là tin xấu, tin nguy:
- Ngày 5-1-1946, hay tin chợ phố Sốc Trăng bị đốt, binh Tây kéo đến, bên ta rút lui.
Ngày thứ bảy 6-1-1946, đến phiên chợ phố Bãi Xàu bị cháy.
Ngày 7-1-1946, đồn điền Phủ Thạnh (Hoà Tú) ngang điền bà Phủ An, tổ chức phiên canh phòng ngừa giặc Thổ cướp phá. Điền Phủ Thạnh (con cháu là Cao Triều Trực, Cao Triều Phát), cũng ở ngang điền Nguyễn Tấn Phát (có đào con kinh nay còn gọi kinh Xã Phát), không biết hai người giận nhau điều gì, duy bên nhà dòng Nguyễn Tấn, lúc trước thấy có tấm biển treo đề hai chữ “Chánh Thọ”, không ai biết muốn nói gì, sau có người nói nhỏ, đó là “Chó Thạnh”.
Ngày 9-1-1946, tin đến càng gần, ở Hoà Tú đứng chỗ trống thấy khói mịt mù đó là chợ phố Nhu Gia bị hoả thiêu.
Ngày thứ tư 10-1-1946, Thổ dựa hơi Tây đàn áp dân ta, cướp của giựt tài sản dân đem theo, lửa khói mù trời miệt ấp Hoà An. Chúng vô lương tâm, lùa giết đồng bào vô cớ, chúng nắm tay nhau giăng thành hàng, chân giậm đạp dưới sình bùn như đi bắt chim, bao nhiêu người trốn trong lứt đế ô-rô đều bị chúng tôi ra, không trốn khỏi người nào, và đều bị chúng lấy phảng phát cỏ kéo cán thêm dài, chúng chặt đứt đầu, và oang oang tuyên bố theo lịnh Pháp dạy: “An Nam độc lập còn lâu, Đàn Thổ làm giàu một bữa!”. Lối dã man ấy, chúng gọi trong lúc rượu trắng nốc say tuý luý là “cáp duồng”, do chữ “Vương” trong “An Nam quốc vương”, nói không đủ tiếng và gọi tất là “Duồng”. Ngó ra cánh đồng chỉ thấy thiên hồn địa ám, tiếng hò tiếng hét và lửa cháy lu bù... Trong bụng nao nao, ai ai đều toan chạy nhưng chả biết chạy đi đâu. Thân khổ?
Thứ sáu 12-1-1946, tin báo đến tai: Ba bị Thổ cướp sạch tại Thạnh Thới An, trọn đêm không ngủ và nước mất cứ tuôn rơi. Sáng ngày mượn Ba Kỷ là người vạm vỡ nhứt trong đám bộ hạ, tuôn bụi lướt sình đi lấy tin tức và tiếp tế cho Ba (phụ thân), chớ thân tám thước nuôi cho nên vế nên vai nầy cam tội bất hiếu vì trói gà không chặt, đi chân không trên ruộng nẻ mùa khô, một mình không vững, chạy không xong, tiếp cứu Ba làm sao được! Giặc Thổ đâu không thấy, chỉ thấy trâu nhốt trong chuồng bị muỗi chích nên khua sừng vào cổng chuồng, hai thằng dân chợ, cả hai đều cận thị, không dùng vào đâu được.
Ngày 17-1-1946, linh ứng khiến nên mượn Thanh niên, Nông dân cứu quốc dọn sách và đồ đạc cho vừa mắt, việc xong đền ơn rất hậu, nhờ đó gây cảm tình. Nửa đêm có một anh lay xách tầm vông vạt nhọn, đến báo tin định đốt nhà mình đang tá túc, vì nghi là Việt gian. Sáng ngày ra mắt Uỷ ban cách mạng, cất nghĩa thân mình không khác con cóc đến ở nhờ hang rắn độc, nay xin phép cho mình dời qua nhà khác...
Ngày 18-1-1946, dời hết sách và tủ giường qua nhà anh Chủ Lỹ, cho ở nhà sau trọn ba căn rộng nên được dịp bày binh bố trận y như nhà cũ ở chợ Sốc Trăng. Khi binh Tây kéo đến, lấy chỗ nầy làm trụ sở, cấm phá phách, nhưng đó là việc sau.
Đêm 18-19 tháng giêng Tây (mồng năm rạng mồng sáu tháng chạp Ất Dậu). Đêm nay là đêm kinh khủng nhứt trong cuộc tản cư nầy, vừa mười giờ khuya, tiệc liên hoan cháo vịt nửa chừng, bỗng thấy lửa đỏ trời, tiếng súng nổ chát chúa điếc tai, thì ra đó là tin Tây kéo binh dùng tàu từ Bạc Liêu đánh lên Hoà Tú. Cả mấy gia quyến lật đật hốt ba mớ đồ và chạy bộ lẩn quẩn sáng đêm trên đánh đồng từ ấp Hoà Quái qua Rọc Tre, tới ấp Hoà An, chung quy một đêm tới sáng coi lại chạy không hơn ba cây số, mà kẻ mất quần, người rách áo, duy Chủ Lỹ, tay dắt mẹ, tay thủ siêu đao, ai nấy đem của quý hộ thân. Anh Chủ Lỹ chỉ lựa một lồng cu và đem theo một con gáy hay nhứt và một bó lúa vừa chín, ấy quan niệm của một người tôi cho là tiền phong là vậy! Cũng đêm nầy, người ở lại không chạy, lục soát phòng tôi, đốt giấy tờ tài liệu, thất vọng vì kiếm không thấy tiền bạc tức giận bèn rọc bìa sách may làm túi ba nha, vứt sách ra đầy ruộng, may sao cậu Năm Tuấn em Ba Chen lượm lại phơi khô sau trả đủ, thật là ơn trọng.
Ngày 20-1-1946 đến 25-1-194ó, ngồi trong ghe lớn chèo khắp vùng Lá Banh (Thổ gọi là Chắc Đối, một tên tiền định chờ phóng hoả, do chữ “Mà chắc mà đott”, tiếng Miên nghĩa là “vừa xỏ” (mà chắc), “vừa ghim” (mà đoạt), vì cá ở dưới sông nhiều cho đến bắt xỏ xâu không kịp. Đó là làng Gia Hoà thuộc hạt Sốc Trăng giáp giới tỉnh Bạc Liêu. Chạy tản cư là chạy chết, quanh đi quẩn lại chỉ dời chỗ nầy qua chỗ khác gần đó, trêu tức người bất lương chờ dịp làm hỗn, lấy của hại mạng, hễ thấy ghe Diệp Quang Dõng dời đi, thì chống ghe lại thế chỗ, và ghe Dõng lại lấy chỗ cũ của mình, vần quay xay lúa, đâu chẳng tới đâu, chán quá!
Vì kinh nghiệm năm Bính Tuất (1946), nên qua năm Mậu Thân (1968), năm Nhâm Tý (1972), năm Ất Mão (1975), nhứt định không chạy nữa, và ở một chỗ, thà chết được chết tại nhà, như vậy mà tìm được lẽ sồng, may thay! Một lẽ khác là thiên đạo chí công, tránh bịnh tránh vi trùng, không bao giờ tránh được bão tố lụt ngập, đó đều là tai trời ách nước, người ta ra sao thì mình như vậy, ở cho vững lương tâm là thượng sách. Lại nữa: “Ở đời, khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”, cũng đừng thiên mưu bách kế, khoe tài khoe giỏi hơn ai, khôn một đời chỉ dại một phút. Bình sanh vơ vét, phè phỡn mà, muốn trường cửu sao được? Rõ là thiên sanh hữu mạng, nếu bất thân thì ráng bắt chước sen bèo, mọc trong bùn mà chẳng hôi tanh, giữ vững phận bèo phận sen quản bao giọt nước hoạ may có lối thoát.
Ngày 27-1, chạy đã quá mệt, chèo chống rã tay, đua nhau đổ về nhà thờ Cha Lý, một chân tu đã trên tám mươi tuổi, ở Lá Banh, nơi nầy Thổ không dám động, một là vì chỗ tu hành, hai là Giatô - giáo là đạo của Tây, tức quan thầy của Thổ cho nên Thổ rất nể. Ở đây quả là một thánh địa, yên ổn tâm hồn được một thời gian, cầm bằng phơi nắng suốt nửa ngày bỗng gặp một tô nước mát, thêm dịp đâu lạ lùng, gặp được một bộ Vĩ dã thi tập của Tuy Lý Vương, do một tên Thổ già vơ vét một chiếc ghe nhà trí thức nào đó bỏ chạy, mua được với giá năm đồng (5$) không thì bác Thổ đã xé tơi làm giấy hút thuốc, đi đời một bộ Hán văn hiếm có (xem lại “Thú chơi sách” thuật đầy đủ hơn).
Ngày 7-2, bình bồng trên ngọn sông vắng Lá Banh (Chắt Đốt) thoạt gặp sếp Hên là thông dịch viên của hiến binh Nhựt, cũng bỏ chạy như mình, và không biết va có xấu với ai chăng, chớ với mình vẫn tốt, gặp lần nầy rồi vĩnh biệt sếp Hên luôn, kiếp con người buổi loạn ly còn rẻ hơn con trùn con dế. Ôi! Sếp Hên!
Ngày 10-2, chạy loạn mà tánh ham ăn ngon không bỏ, gặp giữa rừng già một chợ chồm hổm trên nước, thật sự là không biết bao nhiêu ghe thuyền bu xung quanh một chiếc xuồng ba lá, trên xuồng có một chảo mỡ sôi và một chị gái đầu gà đít vịt độ ba mươi tuổi, đang chiên và phân phát mau lẹ, một đồng bạc được ba con cò vừa đủ lông, rán mỡ vàng lườm, nóng hổi vừa thổi vừa ăn, còn khoái khẩu và đặc biệt hơn bồ câu ra ràng xa xỉ phẩm của bọn đài các nhóm cao lâu Chợ Lớn: Đại La Thiên, Thoại Quỳnh Lâm thời vàng son buổi trước. Cò con là thực phẩm không mất tiền mua của “sân chim” Lá Banh, mỡ heo rẻ rề, khen cho chị nông dân quê kệch xóm Chắc Đốt, lại trổ tài “ngự thiện”, biết tìm cách hốt bạc của bọn tản cư còn đột lốt phong lưu lỗi thời?

Ngày thứ hai 12-2, ngồi trong ghe nghe tin đồn xóm Bà Hương Chanh bị Thổ đốt, đến chiều có tin chắc chắn không bị đốt, quả nhiên tin đồn thất thiệt đời thuở nào vẫn có, và cái miệng con người nếu sớm biết câm thì hay biết mấy.
Gặp một chiếc ghe của Ba Oai ở Kế Sách đi ngang, truyền rằng kinh sấm dạy: đi lên thì sống, đi xuống là chết; ngặt thuyền mình đang trở mũi về Nam mới ngao ngán làm sao. Dòm lên bờ sông, cột nhà cháy còn đỏ om, càng tê tái lòng.
Ngày 15-2-1946, có người nhà ở Hoà Tú đến trao tay một giấy phép cho trở về. “Ai về nhà nấy, giặc đã yên”, giấy ký đề ngày 14-2-1946 của quyền chủ quận Phú Lộc (Đặng Hữu Nghiệp) sau lưng còn có mấy hàng chữ Thổ.
Ngày 16-2-1946, chống ghe từ Gia Hội (Chắt Đốt) về chỗ cũ làng Hoà Tú, bụng vững vì chắc “khỏi bị đốt rồi!” Xế chiều dọn đồ đạc xuống ba chiếc ghe cà vòm, hai chiếc của Bà Cả Tám cho mượn, một chiếc của anh Chủ Lỹ.
Ngày 17-2-1946, là ngày hồi quy, lòng phơi phới như trống mở cờ rung. Sáng sớm bảy tám người kéo ra chợ Hoà Tú ăn mỗi người một tô hủ tiếu các chú và uống mỗi người một tách cà phê sữa, nó ngon làm sao! Húp hủ tiếu không chừa cặn! Nút từ giọt cà phê đến sạch tách! Ôi, thứ đồ quen bơ sữa, hư thân? Thế mà lúc nãy, khi dưới ghe đi lên, đi ngang một lùm cây có một nhóm người đang dựng cột nhà, thấy bọn nầy rần rần rộ rộ đi, tưởng là bọn bạt ti zăn Tây đi bố, đã núp trốn trong cây, bọn nầy đi rồi mới dám ló ra, té ra người nhát người, các anh là lương thiện, chúng tôi đây cũng là lương thiện, khéo sợ nhau làm chi, chúng tôi nếu làm cho các anh sợ, chẳng qua là hổ giả hổ oai, con hổ có sợ người đã đành, bầy cáo như bọn tôi thế cũng có người kiêng nể, nghĩ cũng nực cười? Quả đúng: khi cá ăn kiến, khi khác kiến ăn lại cá!
Trưa ngày 17-2-46, tôi phải qua ấp Cây Gừa nơi có đồn lính Tây đóng để xin chiếu khán trên giấy phép chở đồ về chợ Sốc Trăng. Cùng đi có chị Sáu Lụa, sau là bạn trăm năm của Trần Kế Vĩnh, và nay đã mất từ lâu trong một tai nạn xe hơi chạy sau, xóc đầu vào đít xe bò chở tre và tầm vông, chị bị ngọn tre đâm vào mặt vào đầu nên chết tức tối. Đã nói đàn bà, đến Trời cũng phải sợ! Trong khi tôi ở nhà trước đang đứng xin Tây ký giấy phép và đang cắt nghĩa bọn bạt-ti-zăn Thổ hoành hành cướp bóc người Việt Nam, chị Sáu Lụa mon men xuống bếp, sáu trự Tây đang làm việc trên bu rô, cái lò nướng bánh bay hơi thơm phưng phức, chị Sáu không dằn lòng được, bèn dở nắp lò thấy sáu cái bánh bột mỳ nhân thịt, gọi bouchée à la Reine, bánh vừa chín, màu vàng khè bay thơm ngào ngạt, nhột mũi quá, chẳng lành thì chớ, chị ngó giáo giác, thấy vắng bóng người, thì lẹ như chớp, tay chị đã nhón lấy hai cái bánh và sẵn giấy nhựt trình cầm tay, chị gói lẹ làm một gói, rồi tỉnh bơ ra ngồi chờ tôi nơi băng trường kỷ kê ngoài lan can; khi tôi lãnh được giấy phép từ giã Tây ra về, vừa đi tới bờ mẫu, chưa ngoài hai chục thước, nghe tiếng chị hỏi nho nhỏ: “Dượng ăn không, Dượng Tư!”. Tôi đứng lại, chị phạch cái gói ra có hai cái bánh mời mọc cám dỗ ngon lành, mình mẩy tôi mọc ốc, mà tay vẫn bốc một cái bánh đưa vào mồm, miệng còn ứa ngốn vừa thốt câu nhân đạo: “Trời đất ôi! Bánh của Tây, chị dám ăn cắp, nó biết nó bắn thấy cha!”. Thay vì im, chị còn bướng bỉnh: “Bánh ngon quá hè! Phải chi miếng giấy lớn, tôi đã gói hết!”. Chị Sáu cũng may đã từ trần, phải chị còn, có cái gì mà chị không dám làm! Và người nữ cán bộ tên là Sáu Lụa, quê ở Bãi Xàu xưa, kháng chiến chống Tây như vậy đó!
Nhưng vẫn chưa hết nạn. Về tới nhà Chủ Lỹ, trời đã quá ngọ. Bốn lính Tây mình lông lá ở trầni trùi trụi, mặc quần đùi, nịt kè kè cây súng lục bên lưng, đang thả hồn theo mây theo, gió trên bộ ván, trước đây là tổng hành dinh của anh Chủ Lỹ nằm hút, bên vách trước mặt Tây, tôi đang lui cui mở tủ fri-gi-đe xem có gì ở trong. Bỗng tôi đóng cửa tủ lại, day mặt ngó bốn thằng mập đang ngủ vùi như bốn thây ma, tôi tỉnh hồn lại và lấy chăn tắm lật đật tôi ra nào phi tiêu nào bê rê mũ bánh dừa, nào túi đựng dao ba- nha may bằng lưng bìa da các sách quý của tôi, còn ràng ràng chừ mạ vàng: “Bulletin des Amis du Vieux Huế” V.H..., tôi biết Tây đang ngủ mê, tôi dồn hết vào chăn và êm ái ôm ra trước nhà nơi con kinh đang chảy xiết, tôi chuồi trọn gói vào dòng nước phi tang xong rồi tôi mới trở vô đánh thức mấy ông Tây, nhờ mấy ông cho phép dọn đồ lui ghe cho kịp con nước. Tôi còn giả bộ thân thiện biếu lại ba cuốn sách khiêu dâm như Satan condutt le bal, La garonne v.v..., cho mấy anh đọc chơi giải buồn... Tôi xin thêm được một xấp độ mười lăm giấy thông hành tạm ghi tên, tôi giả cớ tìm người khuân dọn, rủ hết anh em lớn nhỏ, bây giờ thế yếu, thà sớm thoát chốn nầy chờ dịp khác, mấy anh em nghe lời giả bộ người phu gồng gánh xuống dọn và theo ghe tôi về chợ Sốc Trăng rồi chia nhau giải tán, vuột khỏi bàn tay đẫm máu của lính Thổ tàn ác và lính Tây không kém ngón dâm dật, ưa hãm hiếp và cướp bóc có danh. Trong khi các anh em lo dọn, tôi lại giả đò đi tắm, kỳ thật là đi thu hồi cái hộp sắt đựng kim cương mà sau nầy vì giá trị quá lớn nên đứa gian phi đã quá mê và ẵm luôn vừa vợ vừa cái hộp sắt hiệu Fichet chứa đầy hột xoàn. Cơ khổ! Lúc tôi chôn vào bùn cái hộp ấy, tôi nhớ rõ ràng là dưới gốc cây dừa nơi ao tắm của Hai Vĩnh, và đúng mực nước mặt ao nầy. Thế mà hôm nay mò kiếm cả giờ mà không gặp cái hộp. Tôi tưởng đã bị kẻ trộm phỗng tay trên, nhưng sau rốt tôi tìm được thì cái hộp đã trồi lên cao hơn mặt nước cả tấc Tây vì lúc chạy và chôn đồ là trung tuần tháng mười một Ất Dậu (đầu năm 1946) và ngày nay đến lấy là vào tháng chạp gần Tết, trời bắt đầu hạn hán, nước sắc và mực nước xuống thấp hơn độ trước. Thảo nào, và báo hại vì đang nắng đổ mồ hôi nhiều và dầm dưới nước trót buổi, nên tôi bị cảm hết mấy ngày và vẫn mất vợ. Còn nhớ lúc ba chiếc ghe lui bến ông Tây xếp bót Hoà Tú tử tế, có cho một tên cai bat-ti-zăn Thổ theo hộ tùng, cai nầy tới mỗi khúc quanh sông Cổ Cò đều bắn súng đùng đùng, tôi khuyên đừng bắn vì phí phạm đạn dược, nhưng va vẫn không nghe, về sau tôi rõ lại va bắn để báo tin cho các bợm Thổ đừng xuất hiện kẻo khó lòng, vì va đã có lời dặn của chủ Tây, nếu để hơ hỏng, tôi có bề gì, chuyến về Tây bắn va nát óc.
Té ra hôm ấy mình gởi thân cho ăn cướp mà không hay biết. Đêm đó thức tới sáng, ngồi be ghe chịu cho sương sa gió thổi tôi về tới nhà bị cảm ho mấy ngày. Trong khi ấy người vợ trước của tôi, đau một chuyến thập tử nhứt sanh, một tay tôi tận tuỵ điều dưỡng, không kể dơ sạch, bổn thân làm cái việc đổ bô lau quét nhưng nay kể lể làm gì với người đàn bà bạc tình ấy, sống mười chín năn với kẻ nầy và sống hai mươi tám năm với người kia.
Tản cư lên Kế Sách (25-10-1946 đến 15-11-1946)
Ở Hoà Tú tản cư về, lại bị ở trong một thế kẹt. Tháng 2 năm 1946, Pháp đẻ ra “Hội nghị tư vấn Nam Kỳ”, mà phiên chớm khai mạc định vào 12-2-1946. Vừa trở về xin giấy định cư, gặp chủ tỉnh Barthel mời làm một chơn trong hội đồng nầy thay mặt cho tỉnh Sốc Trăng. Tôi giả đau từ chối khéo nên thoát nạn. Và người ra gánh vác để chết đáng thương, vì bị ám sát, lại là thầy cũ xưa dạy lớp tư (cours préparatoire) là ông Cao Đắc Lý. Ông nầy đã làm nhà mô phạm thì tưởng nên ở trong phạm vi dạy trẻ cho yên thân. Ông lại ra làm hương chủ hương cả làng sở tại Khánh Hưng, nội cái phát bông mua vải mua đường, vì thiếu kinh nghiệm hành chánh, ông đã bị bộ hạ bán đứng và mang tiếng (thầy pháp ăn mà thầy chùa chịu), nay lại nhận làm hội đồng tư vấn cho thực dân Pháp, thì dầu tu hành đạo đức như ông cùng không thoát búa rìu dư luận và của người kháng chiến; tình cảnh của ông, theo tôi, đáng thương hơn là đáng trách. Đó là cảm tưởng của tôi xét qua chút tình nghĩa thầy trò, chớ dư luận chung trong tỉnh, vẫn chờ một ngày kia, nguội rồi sẽ lấy bình lâm, công tâm soi xét.
Riêng tôi, tưởng một lúc “đánh ba búa Giảo Kim chơi”, không dè vì cãi lời thầy, “trót xuống núi lỡ rồi”, chúng nào để cho yên. Tôi cố giả dại qua ải, nhưng giả cũng không xong. Từ tháng hai đến tháng chín năm Bính Tuất (1946), tôi trở lại cái đời lêu lổng ăn chơi bài bạc, ấy là lỗi thời và có tội lúc quốc gia hữu sự. Bi cảnh cáo bốn ngày nếm gạo lức, nước phông-tên, chưa đủ; nay rục rịch hay tin kín “bên ta muốn “mời” ra Ngã Tư tiếp sức”, “bên nầy Tây sắp ép ra làm việc lại”, đêm nằm nát một lá gan tính không ra kế. Sẵn chị Hai Giang Văn rủ ren, nên nhận lời tản cư phen nầy lên Kế Sách xem cho biết cảnh vườn cây ăn trái, và cũng để tránh cơn gió mạnh: trở lại kiếp con giang hồ trải thân đãi khách nữa thì nhứt định không làm, nhưng biết làm sao từ chối với bên ta? Đã không còn trai tráng làm một Thạch Bernard, tuy có máu Tây mà chống lại Tây đến lính Tây ghê mặt; cũng không làm được như Paul Giang Văn, lẫy lừng mấy trận đánh binh đội Pháp lấy một cự mười thôi thì đi theo chị Giang Văn nầy là má của Paul, gọi tránh gỉó vừa lánh mặt khỏi làm tay sai cho Pháp và như vậy tuy không ích gì cho bên ta, nhưng cũng được khỏi tiếng giúp giáo cho giặc, tuy không khỏi tội “lãnh đạm với thời cuộc”. Nhưng đi tản cư kỳ nầy mới biết là lếu. Chỉ chạy nhà nầy qua nhà nọ cho chúng nuôi cơm, thọ ơn người vẫn là khó trả, hay là như vậy mới đúng với câu Tử vi thầy Tàu xem lúc bé: “Có phần ăn cơm bá tánh”! Còn nhớ lời Ba tôi nhắc lại việc bói số nầy, nghe câu ấy, ai cũng khen tôi có lộc ăn, duy Ba tôi nói gọn: “Số ăn mày không khác”. Cùng đi chung tản cư trong một chiếc ghe lồng khá rộng, gồm có: chị Giang Văn, vì anh ấy ở sẵn trên vườn đợi mình, vợ chồng một bạn làm y tá tên Châu, và hai đứa chúng tôi đủ vợ đủ chồng. Vợ chồng anh Châu đi được bốn ngày thì trở lộn về chợ, vì một hôm chị tâm sự với tôi trước khi tản cư chị giấu nữ trang trong một hộp thiếc thòng xuống giếng sâu sau nhà. Tôi hỏi: Còn sợi dây? Chị đáp sợi dây để nguyên. Tôi nói: Thế là chị “dâng cơm cho ni (ni là mầy)!”. Chị chưa hiểu, tôi mới giải: Chị giấu cái hộp mà còn sợi dây nhủn nhẳn, chị đi rồi, đứa nào còn ở lại, ra lấy nước dùng, thấy mối dây bèn kéo lên thì cả gia tài của chị cúng cho nó! Nghe tôi bàn làm vậy, vợ chồng anh Châu ngủ không được và sáng ngày lật đật không đợi giã từ, quá giang ghe quen rút êm về chợ Sốc Trăng, cũng may, không ai để ý chị Châu giấu vàng và vàng còn y nguyên, năm sau gặp lại nhau trên Khánh Hội (Sài Gòn), kể lại chuyện cũ, chị mắc cỡ, nói câu nửa chừng: “Mắc dịch anh, chuyện cũ nhắc hoài!”.
Còn lại vợ chồng tôi, ban đầu ở nhà vườn chị Giang Văn, là một túp lều chứa hai tim vàng còn chật huống hồ chứa vợ chồng chủ nhà thêm chứa vợ chồng tôi. Nhưng ở vườn chị Giang Văn cũng không yên thân, có tin báo động Thổ sắp đến cướp phá.
Ngày 1-11-1946, là lễ các Thánh (27 tháng 9 ta), đề huề cùng chị Giang Văn khăn gói đùm đề chạy qua tá túc nhà Bảy Thà là em của Từ Ngươi Đông, bạn học cũ. Chị Giang Vãn chiếm giang san là một giường Hồng kông có lò xo (ressort), vợ chồng tôi khẩn một bộ ván ba rộng chán. Nhà Bảy Thà ở về xóm chợ, nên mỗi sáng lại cũng ra tiệm các chú cà phê xíu mại, xá xíu bánh mì không khác lúc ở chợ Sốc Trăng. Bảy Thà là tay thín cẩu lúc trước, nay tiếp đãi tử tế, biết thuở nào báo đáp ơn tốt nầy. Sau gặp lại trên Sài Gòn, Thà làm sốp phơ, nhưng phong độ cũ không mất. Từ năm 1972, nghe nói Thà thôi làm tài xế và lui về Kế Sách xây nhà nhỏ y chỗ cũ nối lại nghiệp ông bà. Biết thuở nào chúng ta gặp nhau. Trước đây gặp một lần thì Thà đã đầu bạc trắng còn tôi thì như đèn treo trước gió, đã bảy mươi tư tuổi đầu (1975).
Riêng anh Từ Ngươi Đông, năm ngoái còn gặp anh xách gậy dạo chơi vùng chợ Tân Định, mắt lờ răng rụng ráo. Nãm nay, nhứt là từ lễ mừng Độc lập, dân ta toàn thắng, hết hạn xiềng xích thoát ách kìm kẹp Mỹ Mẽo, cũng chưa gặp và biết anh có còn để bắt tay mừng, thoả kỳ vọng ao ước năm xưa. Anh Tư Đông ôi!
Ngày 2-1l-1946, giữa trưa lén làm chúc ngôn đề phòng bất đắc kỳ lử. Nay xem lại không khỏi buồn cười, vì người thụ hưởng chỉ định đã ôm cầm sang thuyền khác.
Ngày 3-11 (thứ bảy), anh Huỳnh Vạng Thân, cai tổng kiêm chủ quận Kế An lúc ông Đảnh về làm chủ tỉnh Sốc Trăng, mời đãi cơm tại nhà và viếng vườn sầu riêng đã có trái và vườn trồng quít xiêm, mỗi năm hoa lợi trên mười vạn. Đến mùa có khách trú đến mão, mua trụm quít trái trên cây, nằm dưới gốc chờ chín và canh trộm lén. Trái sai nhành, lá xanh xen trái đỏ trái vàng, lúc ấy đứng dưới gốc bắt thèm, cảnh nhà vườn giàu hơn nhà làm ruộng, nay thời ai ai cũng trắng tay, hoạ may từ đây độc lập sẽ xây dựng lại mấy hồi. Nhưng cố nhân Huỳnh Vạng Thân có còn chăng? Chung quanh không ai biết mà trả lời!
Ngày 8-11-1946 ghé nhà Trần Phong Ngàn. Đặc biệt anh viết chữ Hán rất đẹp. Thấy anh bắt nhớ người cha sanh thành, tóc bạc phơ thường ngồi ghế tre trước cửa nhà số 31-33 đường Đại Ngãi khi thì sử dụng cây đờn Tam (Tam huyền), khi khác hút thuốc Gò xem người qua lại, lòng còn gởi đám mây Hàng, nhớ nhà ghê! Vợ anh Ngàn là chị Thu, chị của Từ Ngươi Đông, trước học lớp nhứt trường tỉnh, cùng một lớp với chị Võ, chị của Nguyên Văn Truyện, Nguyễn Văn Kế và kẻ hèn nầy. Ngàn tưởng tôi giỏi thơ, ngâm vang nhà và bắt tôi hoạ lại. Tôi nói dốt thơ, Ngàn tưởng tôi khiêm nhường và vẫn không tin.
Ngày 10-11-1946 (tháng 10 Bính Tuất), dự tuần lễ vàng tại Kế Sách. Nhà làng, gọi nhà việc (nhà để làm việc), hoặc nhà vuông (vì kiểu vuông vắn y nhau), khi khác gọi công sở, nay đổi lại là trụ sở Uỷ ban. Buổi nhóm có đủ mặt thân hào và anh em mới tháng trước đây làm chung tại Sốc Trăng dưới danh từ “Uỷ ban ban ủng hộ kháng chiến”. Mấy ngày rày không tìm ra cách trả ơn vợ chồng Giang Văn, nay thừa dịp nầy, cởi chiếc nhẫn đeo tay và chiếc nhẫn của vợ, dâng vào hộp tuần lễ vàng, một chiếc gọi đóng góp mọn mảy phận nầy, một chiếc gián tiếp trả ơn chị Giang Văn, tuy vẫn biết chị không là Phiếu mẫu và kẻ hèn nầy còn xa và làm sao sánh được người xách giỏ xử Hoài âm. Chẳng qua là một ví dụ vụng về của một tên gàn ham dẫn sách.
Mướn ghe đi ăn cơm dạo thiên hạ thét cũng thấy thẹn, bèn xin về chợ như cũ và ghe về nhà ngày nào nay cũng quên. Duy có ghi rõ mỗi ngày tiền mướn ghe chỉ có một đồng bạc, tiền cơm tiền nước chủ thuyền không kể, thiệt là giá rẻ quá sức tưởng tượng, không như tháng tư Tây năm 1975, đồng bào chạy từ miền Trung vào Sài Gòn, kẻ mướn trọn chiếc thuyền hay tàu trên bạc triệu, kẻ khác chỉ một thân tay xách mà trả giá trên mấy trên ngàn, hồi tưởng lại một phần vì đồng bạc rẻ như bèo, mà một phần lớn là người vẫn bóc lột người, và biết chừng nào đồng bào mới giác ngộ bỏ tánh tham nhũng, biết cứu người lâm nạn và biết không lợi dụng những cơn nguy cơ ấy mà lột da xẻ thịt người thất cơ.
Bài học khôn của cuộc tản cư nầy là từ đây không đi theo các chị nữa, mà cũng không nghe lời các chị nữa. Tính coi bữa ra đi ghe chèo trên ruộng ngập nước, khoảng Phú Nổ có thèo lèo ngon, bỗng có tiếng la hét từ xa, chị Giang Văn ngồi trên thuyền oai như Tôn phu nhân, dõng dạc hét bảo tôi xách súng nhảy xuống ruộng chờ Thổ đến thì bắn, tôi vâng lời nhảy xuống nước, hỏi bì đạn đâu thì chị nói không có, xem đi xem lại thì cây súng là loại súng gió bắn se sẻ, có khi đạn làm bằng hột đậu xanh. Cũng may Thổ không dám đến cho nên ngày nay tôi còn đây để thuật lại một chuyện anh hùng rơm. Leo lên thuyền, ủa lên ghe, trực nhớ lại câu hát Miên và cùng nhau cười ngả nghiêng ngả ngửa. Thổ Sốc Trăng, những lúc đua thuyền, hát rằng:
Kra bây xi srâu, bon mành xâu hen đenh
Kra bây dơ chênh, bon dênh oi trây mơ!
Dịch là:
Con trâu ăn lúa, anh không dám đuổi
Con trâu đi rồi, anh đuổi cho nàng xem.
Con trâu đang ăn lúa là con trâu đói và hung dữ, đuổi nó chém toi mạng. Con trâu ăn no là con trâu hiền, dẫu la ó sau đít nó, nó cũng vẫn đi và không quay đầu lại. Tôi nói anh hùng rơm là vậy.
Anh Giang Văn và tôi chỉ là người lối xóm. Lúc bình thời, nhà anh là một căn phố lầu ở đường Đại Ngãi, gần nhà Di Ký, đối diện và xéo xéo nhà Ba tôi số 31-33 cùng một con đường. Chị Giang Văn là người có bóng sắc, Tây lai biệt dạng mũi cao mắt sáng, nên sanh con đều lịch sự. Con trai là Paul, chết cho nước trong buổi đầu kháng chiến chống giặc Pháp. Vợ chồng Giang Văn trước ở chợ Bãi Xàu, sau dọn về đường Đại Ngãi bán đồ tạp hoá, quen gọi Bazar Giang Văn. Khi có Nhựt lật đổ chánh quyền Tây, nhứt là có Uỷ ban ủng hộ kháng chiến chúng tôi mới thân nhau và tình càng khăng khít từ độ chạy tản cư lên Kế Sách. Sau đó xa nhau, đến khi tôi chạy lên Sài Gòn, bỗng hay tin anh mất và mang theo một bầu lâm sự nan giải, anh tự vận hay tự tìm cái chết vì không muốn làm luỵ gia đình với một chứng bệnh nan y, thổ huyết. Chị Giang Văn mới mất gần đây, vì dâu trước của chị bà C.V.V, tuy có chồng khác, nhưng nuôi chị đến mãn đời
Lìa Sốc Trăng chạy tuốt lên Sài Gòn, ngày 7-7-1947.
Tôi không muốn rời Sốc Trăng là nơi nhau rún, quê cha đất tổ, lại nữa tâm thân hư hỏng lê gần khắp lục châu, ăn cơm gần khắp lục tỉnh, năm 1947 cũng đà mỏi cánh, ỷ y có hai trăm mẫu ruộng tốt ở làng Hoà Tú, tuy rằng ruộng bên vợ, nhưng công lao khó nhọc không có tôi thì gia đình họ Nguyễn chẳng bao giờ hưởng được gia tài bà Phủ An mà di chúc một tay tôi viết tôi làm, vả lại ruộng do tôi và Thị Tuyết đồng đứng tên trong địa bộ, nhưng ngờ đâu sau nầy hồ tan keo rã, thôi thì mình còn hai tay, tự lập lấy thân, nên mặc cho bà ấy ăn trọn. Từ tản cư ở Kế Sách về, vợ thường đi vắng, dối rằng lên Sài Gòn đòi liền bán xoài còn thiếu, thật ra tôi quá tin nào biết sự nhị tâm của một người đã chung chạ từ mười chín năm, tuy không con nhưng cực khổ có nhau và lúc lâm bịnh một tay tôi nuôi dưỡng. Ban ngày tôi thường đi chơi mạt chược giải khuây nơi khách sạn với các bạn Huê kiều, nhứt là với mấy a-múi xẩm con nheo nhẻo. Đêm đến lật đật ăn cơm chiều thật sớm rồi qua ngủ nhờ nhà anh vợ là nhà lầu bà Phủ An, nơi đây kiên cố và có một toán lính Tây gác đêm, vì lúc ấy có nạn bắt cóc và bài trừ Việt gian, đêm nào tối trời và thỉnh thoảng ngoài ngã Tư thường vô chợ, chúng tôi dầu biết chẳng có làm gì nên tội, nhưng đèn nhà ai nấy sáng, tránh voi không xấu mặt. Và vẫn tánh như khó chừa, qua ngủ, nhờ bên nhà lầu bà Phủ Anh còn nhiều cuộc vii chán, cháo gà, cắt tê trâu, thín cẩu “chà nhẹ nhẹ”. Cùng lúc đó các công chức được lịnh vô ngủ Toà bố, thì đâu có ngủ mà vẫn thức sáng trắng với canh bài con bạc, vợ con cuối tháng không tiền đi chợ. Thiệt là hư hỏng?
Một buổi trưa nọ. Độ trước ngày 7-7-1947 lối mươi bữa, tình cờ tôi đến Phòng ngủ Tư Cảnh, trên đại lộ Kinh lấp xéo xéo dãy phố bà Phủ An, bỗng gặp một thầy tướng Tàu còn trẻ, nói được tiếng Việt, khi thấy tôi, y nói khan: “Sắc diện xấu, nếu không sớm cao chạy xa bay, e sẽ mắc nạn gần”. Trong bụng bán tín bán nghi, tôi hỏi gượng: “Nạn gì?” - “Nạn bị bắt không bên nầy thì bên kia! Bên nầy là bên nào, còn bên kia là bên gì? Ông hiểu lấy? Tôi thấy sao nói vậy. Nếu ông chậm trễ, qua khỏi rằm, e bít lối đi”. Tôi giã từ, biếu thầy năm đồng nhưng thầy không lấy, và rằng: “Tuy vậy, ông còn trở lại. Nếu sau nầy lời nói tôi có linh nghiệm; ông sẽ thưởng tôi?”. Thế là tôi nhứt định phái đi.
Lúc ấy tôi ho khúc khắc, một vì lo rầu việc nhà, một lẽ khác vì thuốc men không có. Tánh tôi vốn kỹ, muốn khứ lai minh bạch, nên liền đó tôi viết ít hàng gởi ra Ngã Tư xin phép đi Sài Gòn dưỡng bịnh, bữa sau được giấy trả lời vỏn vẹn hai chữ “cho đi”.
Vững bụng rồi, buổi chiều tôi vào Toà bố từ giã bên nầy là B, chủ tỉnh B, do dự, muốn cầm ở lại, viện cớ nếu để tôi đi sẽ làm nao núng nhiều người. Nhưng tôi nói thẳng: “Ở đây không có đảm bảo”. Tôi kiếu từ, đi mua vé xe, chỉ còn một chỗ chót. Tối, tôi về nhà, từ giã cha già, tội nghiệp thấy ông ứa nước mắt, tôi cầm lòng không đậu. Tôi giao việc nhà cho em là Quang, vì lúc ấy, cảnh còn trong xa, còn Vinh đã đền xong nợ nước, thân gởi ngoài cù lao, chưa biết chừng nào mới được đem xác về. Sáng ngày thui thủi xách một gói nhỏ quần áo ra xe, là một chiếc Citroen đã cũ kỹ, bảy chỗ ngồi, mang số C.P.145. Tôi ngồi băng giữa sau lưng tài xế những hành khách kia đều lạ, phụ nữ và trẻ con sau rõ lại là gia đình ông Bang Tư (Lưu Liễu), ăn mặc theo tàu, nói giong Triều Châu. Lúc ấy làm dân ông Tưởng thống chế là sướng nhứt đời ra đường không ai dám tra xét, vì tướng Lư Hán theo lịnh của Đồng Mình tước khí giới của hàng binh Nhựt vùng bắc tuyến. Thiếu chi đàn bà Việt Nam cắt tóc, diện theo xẩm buôn bán chợ đen chợ đỏ, làm giàu ngang xương, đến khi gặp lính Tây hãm hiếp không chừa, khi ấy họ mới bớt việc giả Tàu giả khách. Và quả lời thầy tướng tiên tri rất đúng. Xe tôi là chuyến áp chót qua khỏi ngày rằm tháng đó, thì đường Sốc Trăng lên Sài Gòn nghẽn lối, vì nhiều cầu vùng Phụng Hiệp bị phá hư xe không qua được, và nếu tôi còn bận bịu ở lại dưới thì có lẽ cuộc đời tôi đã xoay hướng khác, cố nhiên không giống như ngày nay, âu cũng là số mạng hay, tiền định. Và không biết xoay nên hay hư để sa lầy thêm nhiều?
Mà chuyến ra đi nầy, nhớ lại, cũng cam go không xiết kể, tưởng đã không đi đến Sài Gòn. Xe chạy vừa tới Phụng Hiệp, thoát được bót canh của lính Tây, nó xét giấy, nhìn mặt từ bộ hành rồi ra hiệu cho đi, bỗng cách không hơn một cây số ngàn xe ngừng lại vì có một nhóm thanh niên ra chận. Phen nầy nói ra sao? Một anh trai độ mười lăm mười sáu tuổi, trên tay lo le một quả mãng cầu sắt (lựu đạn), thò đầu vào cửa xe, không ngó người nào, lăm lăm chỉ ngó tôi, hỏi:
- Ông là ai?
Nghe hỏi mình mẩy tôi nổi ốc, nhưng gượng làm tỉnh:
- Tôi là Vương Hồng Sển.
- Ông đi đâu?
- Tôi đi Sài Gòn, đau đi uống thuốc.
- Thằng Cảo chết rồi, anh biết không?
Tôi nghe gọi bằng anh, lập lức hoàn hồn lại, và thằng Cảo là đứa em vừa hy sinh cho nước, tôi ngó ngay người ấy mà rằng:
- Tôi đã biết tin đó.
- Thôi, anh Hai đi đi, và chúc anh mạnh giỏi. Tại tôi nhỏ, anh không biết là ai, chớ tôi biết anh dư. Tô là bạn của Cảo, mỗi ngày đi học đều có ghé trước cửa nhà anh. Thôi, xe chạy đi!
Cả xe đều nhẹ nhõm, bác tài xế sang số mau mau miệng lầm bầm:
- Không có ông thì kẹt nặng.
Xe chạy ngang chợ phố Cần Thơ, không dám ghé vì sợ trễ chuyến đò. Qua khỏi bấc Cái Vồn, vừa chạy được vài cây số lại gặp một trạm người mặc áo vải đen (Hoà hảo). Xét hỏi giấy tờ, đếm từ tấm giấy trong ví, cũng may không sờ mó trong thân vì tôi có giấy một mớ nữ trang đem lên vợ. Xe chạy một đôi mới biết đó là binh lính của ông Năm Lửa, đóng ở Ngã Ba, mới đây còn gọi là Ngã Ba Bà Năm, sau cấm tiệt không cho gọi làm vậy vì có người cắt nghĩa “Ngã ba ống quần”.
Qua khỏi tay dân quân Hoà Hảo có tiếng là thích ép người chạy nạn phải thuộc hay biết một vài câu kinh mới buông tha, cũng may những người tôi gặp đều hiền và biết điều, hay là lời đồn kia là lời đồn huyễn, chuyên nói xấu người khác đạo? Đến bến phà Mỹ Thuận, thấy có trật tự khá, vì đây là địa điếm quan trọng chặn hai ngả thiết yếu, đường về Hậu Giang và đường đi Châu Đốc, Long Xuyên và Sa Đéc, nên trấn một thiếu uý Tây, có chút học thức, tránh được nạn hối lộ đút lót. Xe tuy khá đông, nhưng lên xuống đò ngang có thứ tự và qua sông suôn sẻ. Lòng mừng được một đỗi, xe chạy bon bon và lướt qua cầu An Hữu, rồi Cái Bè, duy khi đến Cai Lậy thì gặp một chướng ngại bất ngờ tưởng đã không kịp lên tới Sài Gòn trước bảy giờ tối là giờ thiết quân luật. Có một tên ba-đá (soldat) nhừ nhừ say, một hai muốn bắt chúng tôi xuống để nó mượn xe trở lại An Hữu gọi rằng đi thăm một thằng bạn hữu rồi sẽ trả xe cho đi thong thả. Lúc ấy trời đã chênh chếch ngả bóng về chiều, độ gần mười lăm giờ có hơn, bất đắc dĩ tôi phải dùng cách xuống nước, nài nỉ ôn hoà, cắt nghĩa êm ái rằng đường tới Sài Gòn còn xa, anh ta còn có thể đón xe sau còn nhiều chuyến nữa, và nếu dung tha chúng tôi đi trót lọt thì có ơn lớn nào bằng. Cũng may không biết tại “tiếng Tây” của tôi chưa “rỉ sét” còn đủ cam ngôn mỹ từ làm xiêu lòng ông ta, hay là nhờ một cạc-túc (cartouche) thuốc Bách tét (Bastos), hai chục gói chớ không vừa, của bác tài đem đặt trên ghế bô chỗ nó nằm mà tên say nầy gật đầu ra dấu hiệu “phóng sanh” Chúng tôi khấp khởi mừng bằng đầu thai một kiếp mới, lật đật lên xe dung rủi..Sau khi xe chạy đã xa nghe bác tài rủa một câu chỉ đủ lọt tay tôi:
- Ông coi? Đ.m! mua được năm bịch thuốc bao xanh, tưởng đem lên Sài Gòn chộ một chút lời, không dè mãi cúng dọc đường cô hồn các đảng mà cụt vốn. Chính thằng ban nãy là con hạm lớn nhứt, hôm qua đây nó đòi đốt xe tôi vì tội tiếp tế cho địch, cũng may bữa nay nó say nên quên phứt không nhìn ra tôi, và nó dốt không biết đọc sô xe ông à? Lại nữa ông biết tiếng Tây giỏi quá, coi bộ nó phục ông lắm, nên mới thoát khỏi tay nó với một bịch thuốc rẻ rề. Tôi cũng chạy vài chuyến nữa rồi kiếm nghề khác nuôi vợ con, chớ tình hình như vầy còn cầm tay lái e có ngày “mất xe mất mạng”. Xe lên tới Sài Gòn ghé chợ Bến Thành vô sự. Tôi lên xe kéo, nhờ kéo về dãy phố đường Aviateur Garros (nay Thủ khoa Huân), tìm số 75 nhà bà Hai Hẩu, xin cho tạm dung thân một thời gian để kiếm chỗ định cư.
Từ ngày 14-7-1947, lại một phen nữa, một gói một xách, tôi từ giã Bà Hai và dời về ở đậu nhà anh Tư Pierre Nguyễn Thuận Thiên, mà chúng tôi thường thân mật gọi nhau là anh Tư Ve, vì anh là bạn ve chai có hạng, lấy rượu chát làm nước, và Ve là do chữ Pierre nói trại. Chị Ve, lên tộc là Emilie Penne, không ai khác hơn là bạn trăm năm của ông Nguyễn An Ninh, nhưng nửa đường chia tay. Vợ chồng anh Ve hào hiệp có tiếng, thêm chị là người đồng hương, nên tôi không ngần ngại đến ở chung để mong gặp người đầu óc, nhưng rủi cho tôi, những khách làm chánh trị như Lê Văn Trường (nha y sĩ) tôi ít gặp, và vì số hư đi đến đâu cũng hoàn hư, khiến tôi chi gặp toàn khách tay bài con bạc, khi kéo bài oắt, khi đánh cắt tê cóc keng, khi dà-dách, khi xì-phé chạy gạo, chơi để giết thì giờ, chơi để quên thời sự. Nay đem lại những bạn như Nguyễn Văn Công (hãng Denis Frères), Cao Thượng Thinh, trong bộ biên tập tờ bác do Lê Văn Trường chủ trương, thì đã ra người thiên cổ, còn lại như Etienne Penne và chúng tôi, thì đã chia tay mỗi người có một số phận khác nhau.
Một điều nên nhắc là nay nước nhà đã độc lập, nếu cần dựng ia nhắc chuyện cũ, thì tưởng nên gắn một tấm bảng đồng nơi đường Nguyễn Huệ (Charner cũ), nơi trụ sở năm xưa của nhà khách sạn Chiêu Nam Lầu của người cô ông Nguyễn An Ninh, là nơi tụ hội khách làm chánh trị của nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục, và cũng nên gắn một tấm bảng đồng khác nơi số 34 Bonnard nầy, là nơi còn dấu chân ông Nguyễn Hữu Thọ buổi thiếu thời, lối năm 1946-1947 vậy. Một người khác, không biết nay có còn mạnh khỏe chăng, là bạn Võ Văn Nhung, cựu giáo viên ở Sốc Trăng, có tên trong bộ biên tập quyển “Lịch sử thủ đô Hà Nội” (Viện sử học Hà Nội xuất bản năm 1960), đi tập kết từ lối năm 1946 nhưng nay sao chưa thấy trở về?
Qua ngày 19-7-1947, tôi mua được vé máy bay (giá 50 đồng) cho vợ bay về Sốc Trăng, ngờ đâu từ đây, con cá lặn biệt tăm, con chim bay không trở lại. Con người bạc tình ấy, khi nắm được hộp nữ trang quý giá, đã ôm cầm sang thuyền khác. Sự thật, khi trở lên, nàng có hỏi tôi muốn giữ hộp đựng mấy trăm hột kim cương do bà Phủ An để lại cho hai tôi ấy chăng? Nhưng lúc ấy, thân ăn gởi nằm nhờ nhà anh Ve, tôi không muốn có sự rắc rối cho bạn nếu rủi ro bị mất cắp, nên tôi không nhận giữ hộp của báu làm chi. Và quả thật, kiến tài ám nhãn, chẳng những tôi mất của tiền lại mất luôn vợ từ đó. (Án ly dị tại toà Sài Gòn xử ngày 7-7-1958). Nhưng thà như vậy mà rảnh tay! Có lẽ cuộc dứt tình đã khởi sự từ sau tản cư Hoà Tú trở về, nhưng vì tôi ngu tối nên không để ý, và khi thu hồi số của thì lòng tham con người càng mau xúi giục sự phân ly.
Ngày 31-7-1947, gặp Năm Sa Đéc đã quen từ lúc làm việc ở Sa Đéc, trước là nhân ngãi, nay ra đá vàng. Hai lần bị phụ tình, nay mới thiệt ban trăm năm lại không làm hôn thú. Nhưng đây mới là tình thật.
Tháng 10-47, dọn từ nhà anh Ve lên ở với Năm, một căn nhà lá, trên đất Thầy Sáu, xóm Cù Lao, đường Võ Di Nguy nối dài.
Ngày 3-4-1948, được cho vô làm trở lại nơi Viện bảo tàng, ăn lương công nhật, tính theo lương thông phán hạng nhì. 1.173$00 mỗi tháng và kể từ 1-4-1948 (số lương tuy ít, nhưng đủ dùng, nhờ vật giá rẻ, tiền phố 300$, đi chợ mỗi ngày 1$ đủ ăn, một vịt quay 40$)
Tháng 6-1948 có bố ráp tại xóm Cù Lao, lính Tây bắt cả xóm ra ngồi ngoài sân, trong lòng sợ có người lấy mất chiếc xe đạp Peugeot của bác sĩ Sang cho mượn làm chân, cũng may lính Tây cho lãnh xe lại, không lấy. Tuy vậy tiền hung hậu kiết, vì nhờ nạn bố ráp nầy, mình xin được Sở Canh nông cho phép cất một căn nhà lá tạm (giá 1.800$00, vừa công và vật liệu, cá cần đóp và đòn tay tạp). Tuy là nhà lá nhưng ở được đến năm 1953 mới dọn đi, vì nơi đây là hạnh phúc nhất trong đời tôi, vừa còn trẻ, thêm sanh nơi đây một đứa trẻ duy nhất chào đời ngày 15-1-1951 đặt tên là Vương Hồng Bảo.
Ngày 2-2-1953, dọn về nhà mới xây dựng tại làng Bình Hoà, ấp Hoà Nhơn, tỉnh Gia Định, là nơi cư trú cho đến nay. Xác nhà đã cũ trên một trăm năm, trên cửa còn chạm năm tạo lập: GIÁP DẦN NIÊN (1954).
Xác nhà nầy mua giá 6.500 bạc, giấy bán đứt đề ngày 23-2 năm 1951 lập tại Phú Xuân Hội (Nhà Bè), có thị chứng trước mặt làng ngày 30-1-1951. Chở về Bình Hoà, xây dựng lại với vật liệu cũ từ 28-9-1952 tới 2-2-1953, hoàn thành, phí tổn tính chung là 18.826$.
Cất trên sở đất diện tích 964 thước vuông (Bằng khoá II số 1.392 ngày 11-3-1965, tờ đoạn mãi lập trước chứng khế F.Fays ngày 6-11-1952, ghi trước bạ ngày 8-11-1952, bộ số 315 trương 6, số 37 giá mua 20.000$00).
Đây cũng là một duyên phần gần như tiền định. Một lần xin cất trong Thảo cầm viên, sau Viện bảo tàng và hứa khi mãn phần sẽ hiến Chánh phủ, nhưng lời xin không được chấp thuận. Kế đó xin với Đô thành Sài Gòn cho cất trong vườn Tao Đàn, khi lâm chung sẽ cho luôn Đô thành vừa nhà vừa từ khí thập vật, nhưng cũng chẳng ai nghe, nay xây cất được trên sở đất của mình làm chủ, sau có trăm tuổi thì con thừa hưởng, phải chăng đây là duyên phần tiền định như trên đã nói.
Mấy phen gặp biến cố: Mậu Thân (1968), Nhâm Tý (1972), và Ất Mão (1975) đều thoát khỏi nạn binh đao, thêm nữa, nếu xây cất trong Thảo cầm viên và vườn Tao Đàn, chi cho khỏi nạn cướp phá của Bình Xuyên và lính Nùng, tôi nói có duyên phần là thế.
21: Từ 1948 đến 1963
Dẫn - Tôi định việt tập Hồi ký nầy đến năm 1947 là năm chạy lên Sài Gòn xây dựng lại đời mới, và lựa nhan sách là “HƠN NỬA ĐỜI HƯ”. Nhưng từ ngày được giải phóng, tôi thấy còn không mấy ngày, nhiều lắm là một đôi năm nữa tôi cũng nằm ngay cán cuốc, nên tôi có ý đổi tựa sách lại là “SUỐT CẢ ĐỜI HƯ”, và định chấm dứt hồi ký với năm 1974.
Hôm nay tái hồi như con ngựa chạy đã mỏi chân, tôi thấy đời của tôi cũng không đến nỗi “buôn huyền buồn” và khóc gió thương mây cho lắm lại càng vô bổ nếu không nói là lẩm cẩm.
Cũng là tiền định và rất toại nguyện, như:
1) Của tổ phụ, ông bà cha mẹ để lại, vốn là con đầu lòng, nhưng nay để lại cho hai em Quan và Cảnh, hưởng trọn, âu cũng chưa phải là con bất hiếu;
2) Năm 1943, mua được của ông Trần Thanh một sở đất rất là vừa ý, tưởng xây dựng nơi đây một vuông nhà theo ý tưởng, đất diện tích 5 mẫu 16.00, toạ lạc tại ấp Hoà Đức làng Hoà Thuận, tổng Nhiêu Khánh, tỉnh Sốc Trăng (tờ đoạn mãi để ngày 2-7-1943, đăng bộ ngày 17-7-1943, quyển Q.78 số 14 và Quyển 36 số 592). Đào mương đắp liếp tính việc nuôi cá trồng cây móc một ao sâu rộng 30 x 40m. Lấy đất đổ làm nền cao 30m x 40m rồi năm 1947, bán đổ bán tháo bỏ chạy lên Sài Gòn, ấy cũng may nền cao nhờ đó ngày nay trở nên nền chùa và thánh thất, và ao nước vẫn tứ mùa có nước ngọt để cung cấp cho đồng bào ăn và uống, ai nói việc làm không có âm đức? Có lẽ âm đức ấy, nhờ đó mà trời nhỏ phước cho có sự nghiệp ngày nay; âu cũng là tiền định.
3) Năm 1952 mua được đất vừa ý và mua được xác nhà lý tưởng, nhưng không đủ tiền dựng nhà. Khiến đâu nhờ gặp toàn hảo tâm, anh em cho mượn vừa đủ. Cất nhà rồi, lo việc trang trải nợ nần. Lại một dịp may khác: vay được tiền Sở Kiến ốc. Cuộc xin vay nầy lại là một bất ngờ lạ: ban đầu liệu cơm gắp mắm, tôi làm đơn xin vay ba chục ngàn đồng (30.000$00). Nửa tháng sau, viên thơ ký đòi lại, bảo viết đơn đổi lại xin vay năm chục ngàn (50.000$00) thì đơn sẽ được chấp thuận. Tôi vốn có tánh bi quan, nghi cho thấy rấp toan ăn hối lộ, nhưng cũng chiều lòng sửa lá đơn theo ý thầy muốn ngờ đâu nửa tháng sau lãnh được tiền 50.000$00 vốn, trả làm 60 kỳ, mỗi tháng trả 1.186$98 vừa vốn vừa lời trả đến 31-8-1958, dứt nợ. (Chứng chỉ giải trừ thiệt thọ ký ngày 5-12 năm 1958 của trưởng ty bảo thủ để áp quyền). Tôi thắc mắc theo hỏi thầy: “Tại sao vay ít ba chục ngàn, không cho; lại cho vay số nhiều năm chục ngàn?”. Thầy đáp tỉnh bơ: “Thầy không biết làm toán vay 30.000$00 không có biểu thanh toán (barème) vay 50.000 có bài toán làm sẵn, coi theo đó mà đòi, chớ không chi lạ!” Té ra tại mình xấu bụng nghi oan chớ thầy vẫn thanh liêm. Mô Phật!
4) Trả xong mấy mối nợ khuẩn bách, nhưng còn nhiều số nợ khác thiết yếu không thua. Đang cơ bối rối, vô kế khả thi, bỗng đáu mua vé số, trúng được một trăm ngàn đồng (100.000$) (trúng độc đắc thứ nhì, kỳ sổ ngày 10-11-1956, vé mang số 056.609), nhờ đó, có nước đồng nước sông mới đầy, làm nên sự nghiệp như ai. Ai dám nói trời không có con mắt?
Thành thử, vợ bỏ, thấy mất phần ăn gia tài của bà Phủ An để lại, nay đền bù, có hơn. Kết luận tiền của là phù du. Mất đừng buồn, có cũng chẳng nên mừng, cuộc đời như canh bạc, nói cách khác, như một đại mộng, con người như tay bài, khi ăn khi thua, phải biết giữ nét mặt đừng thay đổi, mới xứng ba chữ: gan, tỉnh, dằn.
Nếu để tôi kể như vầy hoài, thì buồn chán lắm và biết bao giờ dứt?
Vậy xin tóm tắt các việc xảy ra từ năm 1948 trong các bài riêng biệt như sau:
a) Với ông Năm Lửa ở Cần Thơ, độ nọ có người gởi thơ lên mời hiệp tác “làm từ điển”, tôi viết giấy trả lời sẵn lòng nhưng xin để cho chạy hiệu và không ra mặt. Té ra sau đó việc chẳng đi tới đâu kế ông Năm từ trần,
b) Dưới trào ông Bảo Đại, bà bá tước D, đến bảo đưa danh thiếp bà lên Đà Lạt tiến dẫn. Nhưng không có danh thiếp sẵn, nên ở đâu hoàn đó. Nhớ lại khi cất nhà, bà có cho mượn số tiền mười lăm ngàn (15.000$00), trả được mười ngàn (10.000$00), còn thiếu năm ngàn (5.000$00). Năm 1963, yết kiến bà tại Paris, bà bằng lòng cho luôn căn dặn tuy rằng không đồng một tôn giáo, khi nào hay tin bà từ trần, xin đốt cho một cặp đèn. Tôi thành tâm van vái Phật Trời, cầu xin ông và bà D, mạnh khỏe lâu dài, và ngày nói tới còn lâu mới đến. Ơn bà một kiếp không quên,
c) Trào ông Trần Văn Hữu, ông Hồ Quang Hoài và các ông thủ hiến kế tiếp, không được như “đầu chim vịt”, không được như hoa sen hay là môn ngứa, nhưng tôi vẫn là tôi, nhớ lại tuy ăn lộc đó nhưng vẫn không thấm nước. Mặc ai bôn chôn mình vẫn an ủi tìm cách hành vi đợi thời.
a) CỐ ĐÔ HUẾ VÀO NĂM 1958 VÀ BUỔI GẶP GỠ NGÔ ĐÌNH CẨN
Bài nầy tôi viết ra làm ba đoạn:
1 - Huế: vấn đề ăn uống.
2. Tôi nhớ Huế - chuyến đi năm 1958.
3. - Buổi tiếp xúc với ông cố vấn Ngô Đình Cẩn.
1. Huế: vấn đề ăn uống - Huế với tôi, quả có nhiều duyên nợ ăn và nợ ham mê đồ sứ cổ. Thuyết tiền định, không biết có nên tin được chăng, nhưng riêng tôi, nếu được ra viếng xứ Huế trước sau mười bốn lần không tốn tiền chuyên chở, không tốn tiền phòng vào thuở Huế còn chút ít hương vị cổ, còn phong gấm rủ là, chưa đến nỗi tan tành xí quách, âu cũng là một diễm phúc lạ. Mỗi lần như vậy, tôi ở chơi một tuần lễ, ít khi tôi kéo dài quá mươi hôm.
Tôi không bao giờ để mất thì giờ và luôn luôn học hỏi được nhiều điều bổ ích. Tuy tôi chưa biết Huế đầy đủ bằng nhiều người, nhưng trong thâm tâm vẫn tự hào, giữa Huế và tôi, mối cảm tình riêng khó diễn ra lời. Một ngày là duyên hai ngày là nợ, nếu vậy ba bốn liên miên ngày đến không nhớ mà đếm, như vậy mối tình Huế và tôi vẫn đậm đà biết mấy? Không kể từ năm 1965 đến năm 1967 tôi ra Huế, lúng túng như gà kẹt sân, quần thảo lân quẩn chung quanh cối xay, đi đi lại lại cũng chợ Đông Ba, mây con đường phố quá quen thuộc, hoặc viếng Viện bảo tàng không biết đến lần thứ mấy, hết Hoàng thành nội ngoại, đến xa nhứt là xóm Tây Lộc chọn lựa mua đồ sứ cổ, chớ hai lần trước kia, một vào năm 1955, một vào năm 1958, lúc ấy còn tự do và an ninh khá nhiều, khi thì tôi thuê thuyền ngao du tận lăng Thiên Thọ của vua Gia Long hoặc hái sen hoặc chụp ảnh cả ngày, khi khác tôi thời: cơm trưa trên bộ ván một, lăng ông Minh Mang, (gớm? Vô lê thật), cơm rồi kéo nhau xuống bến đò gần đó thời thêm món tráng miệng là món bánh bèo mặn, xong rồi nhấp chén trà sen ngự trà, hóng gió nghỉ ngơi đến xế mà mấy gặp ai khuấy rầy? Không như từ những năm 1965-1967, tình hình căng thắng, nói ra xa hơn lăng Tự Đức đôi chút là đã phập phồng sợ bị bắt cóc, sợ bị hớp hồn, vì vậy những năm đó, tôi đành chuyển nghề, không dám du ngoạn và an phận làm tên thợ vô danh đi săn đồ cổ. Nhờ vậy, tôi lục lạo rong chơi gần khắp các xóm thơ mộng gần Thành Nội, khi thì làm quen các nhà đại gia, khi thì viếng nhà các cựu công thần lớp trước, thôn Vỹ Dạ, xóm Kim Long, khu Thiên Mụ... Đến chỗ nào, ban đầu tôi bợ ngợ hít hà liền miệng, lạ mấy lạ tai, chầy ngày bớt thành quen, hạp tình hạp lý cho nên gần đây khi nghe tin Huế bị nạn năm Mậu Thân, tôi bồi hồi xúc cảm tưởng còn hơn khi hay tin chính gia đình Ba tôi và em tôi bị nạn Thổ đốt nhà cướp đoạt tài sản lúc chạy tản cư ở Thạnh Thới An năm 1946. Có thể nói khi Nhựt lật đổ Pháp thực dân, lúc ấy tôi đã về hưu trí non và vẫn bình thản điềm nhiên đi dự kiến đám chủ da trắng lên xe ca-mi-ông riu ríu đầu hàng quân đội Nhựt da vàng và mấy có nghe tiếng súng con súng lớn nào? Đến khi Việt Minh lên nắm chánh quyền, cũng có lộn xộn một thời gian, nhưng những lúc ấy nào biết giặc giã là gì dẫu bọn Thổ nổi dậy đốt phá chém giết thì sự tai hại cũng có chừng mực, và cái khí hào tầm vông vạt nhọn, phảng kép cổ dài đã che lấp những sơ hở buổi giành độc lập. Không như tai hoạ chiến tranh bắt đầu từ năm Mậu thân (1968), nay nhớ lại mới là tởn óc.
Đầu năm Mậu thân, ở đâu mà lại không có cảnh bị bắn giết đốt phá? Chính Gia Định cũng có cảnh nhà cửa tan ra cái bụi, bàn ghế của tiền thập vật cháy ra khói tro, chỉ vì người cầm quyền ngoan cố, bám theo chánh sách Mỹ và Thiệu chúng nó vãi tiền ra lại cho đồng bào ta cùng một giống cầm súng bắn lẫn nhau, là như vậy họ mới có dịp đục nước béo cò, không khác những tên tớ gian tham khi chủ sai đi mua vịt quay gà quay, giả lựa chọn con nầy nắm kéo con kia, liếm mỡ dính tay cho đã rồi đem về chủ một con gà một con vịt chỉ còn bộ xương dưới lớp da khô đét. Mỡ và thịt ai kia đã rút rỉa hết rồi! Nghĩ cũng thẹn cho con nhà văn trói gà không chặt, lúc thế bọn ấy đang mạnh cũng phải giả dại qua ải, và đợi cho đến ngày hôm nay chúng đã cút mất, mới dám nói ngay sự thật.
Chính năm 1968, tuy không làm gì nên tội, nhưng tôi đã “đánh trống chiến trong bụng”, khi hay tin chiến tranh đã lan tràn tới Ngã Năm Bình Hoà, và bót Hàng Xanh (Ngã tư Xa lộ) bị đột nhập, chỉ vì sợ quân lưu manh theo đóm ăn tàn kiểu Mỹ, cướp nhà hôi của. Tuy vậy tôi cũng chưa sợ mấy, và trong bụng một phần lại nghĩ khác, ước mong sớm thấy “đổi đời”, vì đã quá chán chê bọn tham nhũng vơ vét. Khi hay tin nhờ đọc báo và nghe radio, biết Huế đã thất thủ, trong hơn hai mươi ngày bị chiếm, nào thấy mất mát của chìm của nổi nào do bên kia lấy, và chỉ thấy bên nầy thừa dịp vơ vét rồi hô hoảng phi tang. Khi tôi trở ra đó một vài năm sau, chỉ thấy cung điện di tích cựu triều xác xơ điêu tàn, cho hay thành xưa điện cũ phải chịu vạ lây, vì bọn thiếu tài vẫn tham quyền cố vị, quyết ngồi lỳ vơ vét cho đầy túi tham, sống chết mặc bây! Trong khi ấy, đồ sứ cổ trong viện trong cung, chúng hôi giấu bán ra ngoại quốc rồi còn cả gan phao vu mất mát vì nạn chiến tranh. Xét ra lúc ấy “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, có mấy ai vào được trong Đại Nội, nếu không có giấy phép hẳn hoi? Và chính bọn gia nô bên trong mới có bàn tay nham nhúa nhứt. Nga có điện Cẩm Linh, Trung Quốc có cung điện nhà Thanh ở Bắc Kinh, cả hai nơi nầy vẫn bảo tồn nguyên vẹn. Nước Pháp có lâu đài như Versailles, Louvre và Fontainebleau là nơi nô nức khách hoàn cầu đến viếng. Khơme có Đế Thiên, Đế Thích. Chỉ có cố đô Huế ngày nay điêu tàn, chỉ vì ở một lúc dưới tay bọn giỏi chạy theo Mỹ nhát, ăn hại thì có, bảo tồn bảo thủ thì không ngơ. Cửa Thường Tứ, cửa Đông Ba, sau năm Mậu Thân, đổ nát như thành quách Chàm đời trước. Đến khi bày chuyện tu tao tái thiết, lại là một dịp quơ quào thồn nhét cho đầy túi thau. Chữ vàng “Ngọ Môn”, gân guốc sắc bén và làm bằng vàng thật, hai đầu rồng của cái ngai vua cũng làm bằng vàng thật, chúng đã tháo gỡ từ năm nào, cũng không thấy tìm ra thủ phạm. Cửa Đông Sa, nếu kể từ ngoài đi vô thành nội, nhớ mại thuộc mé hữu, có mấy phiến đá Thanh thật to, cẩn sát trong vách thành, trơn tru mòn lì như mặt tấm gương giồi, còn nhớ mỗi lần có dịp đi ngang, dầu gấp cách mấy cũng dừng bước lại rờ rẫm như thăm người bạn. Đã mấy đời, tay người rờ đá, đá cũng mòn. Tôi đâu phải là người tiên phong làm việc nầy? Từ đây không có dịp trở ra thành mấy phiến đá Thanh cửa Đông Ba có còn chăng? Hay trong lúc giận cá chém thớt, đã trầy trụa hay lủng lỗ đi rồi? Mà tiếc làm sao được, khi thân người buổi chiến tranh, còn chẳng ra gì thay, người xưa từng nói: “Nguyện tác thái bình cẩu, mạc tác loạn ly nhơn”. Vẫn xưa nay không đổi. Kỳ đài hùng tráng, Ngọ môn kiên cố, nay ra sao?
Lần đầu tôi ra Huế, chân ướt chân ráo, là năm 1955, ngày 15 tháng ba dương lịch ra đó, ngày 22 trở về. Tuy thì giờ ít, nhưng tôi thâu thập tài liệu khá nhiều. Bộ Giáo Dục chỉ cấp cho tôi bảy ngày phép, nhưng nhờ trường Viễn đông Bác cổ cần dùng tôi giúp chuyên môn và cấp theo tôi anh nhiếp ảnh có thực tài Nguyễn Mạmh Đan, hai tôi lúc ấy còn sỏi dẻo, đã đi khắp chỗ, viếng khắp nơi, từ trên lăng các vị vua triều Nguyễn cho đến trong sâu trong Đại Nội, từ cung điện cấm cho đến Viện bảo tàng, hoa viên tư gia, chùa xưa, phong cảnh đẹp bất cứ chỗ nào tôi ưng ý là anh Mạnh thâu hình vào máy... Mấy bức ảnh ấy, ngày nay tôi còn giữ và xem đi xem lại quả là những tài liệu có giá trị đánh dấu một buổi vàng son của thời Huế đô chưa suy sụp lắm (1955).
Ngày 2-4 dương lịch năm 1958, tôi lại được theo chân phái đoàn viện Đại Học Văn Khoa Sài Gòn viếng cố đô được một tuần lễ. Các sinh viên, chia ra nam và nữ, trên hai mươi người đều được phân ra làm nhiều tốp, gởi đi nhiều nơi có chỗ ăn và ngủ tử tế, chúng tôi, nhóm giáo sư ba người, ông Nguyễn Khắc Hoạch, ông Nghiêm Thẩm và tôi, được tạm trú trên lầu thư viện đại học (trụ sở cũ ngân hàng Đông Dương đời Tây). Ra viếng Huế kỳ nầy, mục đích của tôi là cung chiêm lại kỹ kiến trúc lăng Thiên Thọ (Gia Long) lăng vua Minh Mạng (Hiếu Lăng) và lăng Tự Đức (Khiêm Lăng). Nếu còn thì giờ, tôi sẽ liệu tìm cách hiểu qua kiến trúc của hoàng thành. Kỳ dư tôi không tha thiết mấy, nhưng bất ngờ là tôi được tháp tùng phái đoàn vào chào, cho đủ lễ, ông cố vấn Ngô Đình Cẩn, lúc ấy tuy giữ chức cố vấn nhưng còn hiền và chưa lộ vẻ hách như sau nầy (buổi tiếp kiến sẽ thuật trong một bài khác).
Thứ hai 7-4-1958, tôi theo phái đoàn lên xe ca-mi-ông mười bánh đi Đà Nẵng, để có dịp cho sinh viên miền Nam, các cô và các cậu cử tân khoa, được viếng đèo Hải Vân, năm hòn Ngũ Hành và Viện bảo tàng tại đó, tên Pháp gọi Musee Parmentter, là tên của nhà khảo cổ chuyên môn về cổ tích và nghệ thuật Chàm.
Viện nầy xét ra là một nơi duy nhứt liên hoàn cầu, còn tàng trữ được nhiều thạch bi, cổ vật và di tích Hời của nhiều thế kỷ đời trước, không biết nay có còn đủ bộ như lúc tôi được thấy năm đó chăng? Và nhà có công gìn giữ nhiều năm là ông bạn cũ của tôi Nguyễn Xuân Đồng, nay ắt đã về hưu và năm 1975 ông đã chạy về đâu? Nghĩ ra tội nghiệp cho ông: giữ của cho các vua Chiêm Thành, thì các vua đã thăng hà từ lâu, giữ gìn cho viện bác cổ thì viện ở xa không gởi tiền về, giữ cho các trào Diệm và vân vân thì các trào đổ thừa làm tôi cho Pháp thì theo Pháp mà đòi, rốt cuộc ông Đồng nay chạy đi đâu và sức khỏe ra làm sao? Tôi nhớ ông lắm, mà biết làm sao bây chừ?

Xế chiều ngày viếng Đà Nẵng, phái đoàn lên máy bay nhà binh trở về an toàn đáp sân bay Tân Sơn Nhứt, tuy hết ngây ngất vì đứng cả mấy giờ đeo tay trên trần máy bay và vẫn còn” u mê” (xin đừng nói lái) vì mấy ngày ngồi dưới sạp cây của xe nhà binh thì phải biết. Tuy vậy không ân hận chút nào vì thu thập được nhiều sàng khôn.
Nếu có ân hận là thầm tiếc không biết Huế lúc còn vua chúa, nhưng mất cái nầy được cái kia, nhờ vậy tôi biết bộ mặt Huế khi đã sạch son hết phấn. Viếng cố đô, vào tận điện vua mà khỏi mặc đại phục, kể cũng là một cái thú hiếm có! Nhưng viếng chỗ tôn nghiêm mà tự do quá mức độ như mấy kỳ ra Huế từ năm 1965 đến năm 1967, thì thà thủ lễ và còn nhớ chỗ đó đó có ông vua ổng ngồi mà hay hơn và không thầm tủi con cháu nhà học trò biết đọc sách!
Trong ba năm liên tiếp 1965-1966-1967, tôi được trường Đại học Văn khoa Huế mời ra đó dạy về “văn chương quốc âm Miền Nam”. Tôi mà sức mấy? Không một cấp bằng, không một chữ trong bụng, trước học ngoài đường ngoài phố xá. Nôm không thông, Hán dốt đặc, gặp ông Nguyễn Đạm hỏi tôi vua Tự Đức ngồi câu với thị Bằng ngồi nơi thuỷ tạ mà nơi gốc cột nào? Vua Tự Đức, cầu con mà muốn có con với bà nào? Vân vân và vân vân, toàn là những câu tôi không trả lời được, thế mà nhận làm giảng viên đại học văn khoa Huế, hèn chi người Nam có tiếng là “bán trời không cần có nhân chứng”. Nhưng tôi đã nhận lời, vì thuyết của tôi là “biết bao nhiêu nói bấy nhiêu”. Lại nữa đây là một dịp “nhứt cử lưỡng tiện”! Vừa nếm các món ngon kinh thành Huế, vừa đi săn cổ ngoạn cho phỉ tình. Duy từ năm 1967, là kỳ chót, một sinh viên khuyên tôi năm sau không nên ra, tôi nghe lời thưa với ông khoa trưởng cho tôi thôi dạy từ niên khoá 1968, có dè đâu anh sinh viên ấy biết được cơ trời, tiên tri trúng phóc, vì năm 1968 là năm Mậu Thân, biết chưa? Sự thật, tại sao tôi không ra Huế từ năm 1968, một phần là trong thâm tâm tôi tức tối vì sự khám xét phiền phức và sự hách dịch vô lối của nhân viên phi trường cũng như sự làm khó dễ bộ hành về hành lý và giấy tờ tra xét khi ra sân bay và khi rời phi trường. Vả chăng cái xách của tôi là toàn đĩa cổ tô xưa, các bác xóc ra xóc vào mãi thì mẻ sứt hết còn gì?
Ngày nay, ngồi viết hồi ký, còn tiếc vì chưa biết rõ tình hình đất Thần kinh đã biến chuyển ra sao từ hiến cố Mậu Thân.
Tuy vậy cũng an ủi được là biết Huế buổi còn thanh nhàn, ít nào cũng biết vài cổ tích còn sót, vài nhân vật cũ còn sanh tiền và nào phong cảnh cổ, cách thờ phượng, nhân tình ăn ở ra làm sao, chỗ nào làm bánh ngon, chỗ nào nấu ăn khéo. Cho đến nay, tuy không ra được nữa chớ lòng hằng nhớ những chốn đã trải qua.
Nhưng tuổi đã chẳng chờ ta rồi?
Tôi có một phương pháp riêng, chắc chắn giúp tôi biết nhiều về xứ Huế. Cứ mỗi kỳ tôi dự định lên đường ra đó, thì trước nhứt lúc còn ở nhà, tôi ra công nghiên cứu trước, một chỗ nào hữu danh, sau nầy khi ra tới đó, sẽ viếng thăm. Tỷ dụ tôi tra cứu các sách khảo về du lịch, và bộ sách lót đầu nằm vẫn là bộ Đô thành hiếu cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế) nói về lăng tẩm, chùa chiền, dinh thự đại gia như phủ Gia Hưng, phủ Vĩnh Lại, dinh ông Thân Trọng Huề, Tôn Thất Hân, v.v...). Xong xuôi rồi, khi ra đến nơi, tôi còn hỏi dò lại các thân hữu cố tri, hoặc nếu cần, sẽ nhờ mấy anh sinh viên thông minh đưa tôi đến chỗ và giãi bày bổ túc tìm hiểu những vấn đề còn thắc mắc; cụ Trần Tiễn Thành năm xưa đã chết cách nào và nhà nơi ông ngộ nạn nay ở đâu, thuộc khu phố nào, bây giờ ra sao? Và chỗ nào đức Duy Tân giả ngồi câu đợi Trần Cao Vân? Bến Ngự là chỗ nào? Và nơi đâu là chỗ “Ông già Bến Ngự” (cụ Phan Bội Châu) đậu thuyền? Cho đến ngày nay, ngồi viết bài nầy, tôi còn luyến tiếc một nhà ẩn dật đã gặp tại nhà cụ ấm Tư nơi đường Võ Tánh và nhớ tiếc không gặp lại để học hỏi thêm. Tiên sinh trước làm việc tại Quốc sử Quán Huế, cùng với ông Ngô Đình Nhu, dưới quyền ông Phạm Quỳnh. Khi tôi gặp tiên sinh; đầu đã bạc xoá như thúng bông, và hai ta trong buổi chiều tàn bóng xế nầy, biết có thuở nào gặp lại? Chu nhân là cụ ấm Tư, có danh là chuyên trà rất khéo, và trong buổi minh đàm (uống trà nói chuyện) tay ba, tiên sinh từng hỏi tôi xưa bà Thị Bằng hoạ thi với đức Dực Tôn tại góc nào nơi thuỷ tạ Khiêm Lăng? Vua Tự Đức cầu cơ cầu tự nơi nào? Và tại sao Ngô Đình Nhu không ưa nếu không nói là đố kỵ Phạm Quỳnh? Toàn là những câu hóc búa, tôi không trả lời được. Tự thấy mình quá dốt và mặc dầu làm giảng viên Đại Học Văn Khoa, tôi bỏ mặc cảm và hạ mình xin thọ giáo. Người ta học trong trường, tôi học ngoài hè ngoài phố là vậy. Tiên sinh có hẹn sẽ vào Sài Gòn thăm con và sẽ gặp lại nhau, nhưng tôi đã biết trước làm gì có cuộc tao phùng Bá Nha, Tử Kỳ. Không gần được người hiền để học thêm những gì hiểu biết sâu xa, tôi đành cam tâm làm con hạ thú vui với vấn đề bao tử. Bởi thế nay tôi rất tiếc quán mụ bán bún bò góc đường Chi Lăng, Nguyễn Du, nghe nói mụ đã xuống bán dưới âm phủ từ Mậu thân, và biết chừng nào lại ăn thứ bún bò của mụ? Cái mụ gì buôn bán lạ kỳ: ăn một tô, chưa thấm tháp vào đâu, vì tô có một chút nhéo. Kêu thêm tô thứ nhì, ăn vừa lưng lửng biết mùi kêu tiếp tô thứ ba, mụ trả lời cộc lốc: “Hết rồi!”. Mụ ơi, mụ chết cũng vì vậy. Tức quá mà! Một người nướng thịt có biệt tài dường thế, chết thật uổng. Đó là ý nghĩ của tôi, một người trọn đời không làm chánh trị, và để thì giờ nghiên cứu vấn đề ẩm thực vui cái dạ dày no bụng hơn! Tóm lại về phương diện “nhứt ẩm nhứt trác” tôi không chịu để thua ai và mỗi lần ra Huế, tôi đều có thảo thực đơn trước còn kỹ hơn nhà tướng vẽ hoạ đồ xuất chinh, hay nói trong nghề nghiệp, kỹ hơn tôi dọn bài cho sinh viên đại học. Khi ở Huế một tuần nhựt thì tôi dọn chương trình đủ một tuần; không kể những ngày gió bắt mưa cầm, mà ai lại không biết, một lần Huế mưa là mưa thúi đất, một cơn mưa hai ba ngày chưa dứt, tuy Huế không phải là quê hương của ả Chức, tội nghiệp nhứt là đám học trò con nhà xa đi học chợ, phải có sẵn một bộ khô để thay khi vào lớp, nhưng Huế đã có một thứ áo tơi chằm bằng lá khô, còn linh nghiệm hơn áo đi mưa của bọn Mèo nhiều. Những ngày mưa như vậy, tôi chỉ có nước ở lại trường. Ăn qua loa cho xong bữa, khi nem bánh mì, khi trở bữa mượn người nhà anh lao công chế biến độc vị “thịt nướng”, không thì gà luộc xé phay. Con gà Huế, nhỏ con, nhưng thơm ngon lạ lùng, hơn xa con gà Nam Vang, thịt nhớt, và hơn xa thật xa, con gà Mỹ, tuy lớn con mà thịt bủn rề như gà mắc toi, duy có rô-ti là ăn đỡ đỡ. Khi tôi tìm được quán của mụ bếp do ông viện trường linh mục họ Cao chạy vô Sài Gòn để lại, thì đà rất trễ, tôi không nếm được đủ món của tay ngự thiện phái nữ Huế đô nầy. Nhưng làm gì thì làm, không làm chánh trị nhưng tôi đồng tình với nhà ái quốc Tôn Trung Sơn, sự ăn sự uống là một “tối đại vấn đề” quan trọng còn hơn chầu xưa chọn ngày tế cờ xuất binh. Cứ mỗi lần ra đó, buổi đầu tiên là tôi rảo một vòng chợ rồi về phòng tả thực đơn, cân nhắc đắn đo để tránh sự bất ngờ và sự sai lệch chương trình hoạch định.
Có người đã trách tôi không thấy nhắc đến chè ngọt. Sự thật, tôi không thích ngọt các món như kem, đậu hủ và chè sen, đều thua ở Sài Gòn nên tôi không kể. Có thứ chè nấu với đậu ngự, tôi nhận là ngon, nhưng ít khi gặp. Tôi ít thức khuya và không tận tuỵ dầm mưa chịu cảm vì một chén chè bán dạo. Sở dĩ ra Huế tôi chú trọng nhiều về vấn đề ăn uống vì muốn thưởng thức cái ngon của xứ lạ Chợ Đông Ba bán nem nướng rất ngon, nem vắt tay chớ không vo tròn như ở Sài Gòn. Nước tương chấm thì không chỗ chê duy khổ một nỗi đang ăn ngon bỗng anh cùi thò tay vào khiến cụt hứng nuốt không vô.
Nạp tiền “mãi lộ” xong, lẩn bẩn giây lát lại thấy bàn tay không ngón chìa nữa. Tôi có tánh ham ca nhạc nhưng nhạc Huế chỉ nghe được một lần nhà cụ ấm Tư với nàng Bô tê từng hầu đức Hoằng Tông, vừa đàn vừa ca bản Huyền Trân ai oán. Muốn nghe dưới đò, ngặt sợ xúc phạm thuần phong mỹ tục, và gái xuống đò không sạch. Với mớ tuổi trên lục tuần, từ rày phải áp dụng lời dạy cổ nhân: “Dạ ngoạ bất phúc thủ” (đêm nằm chẳng úp đầu) và thú vui còn phải tránh “Vãn phạn giảm số khẩu” (cơm chiều bớt và miếng), sợ e trúng thực. Tuy nói vậy chớ tôi không để mất hai bữa bê thui và ca-ri dê là hai món khá đặc biệt của quán đường Phan Bội Châu gần một rạp hát bội lèo hèo. Quán chỉ bán mỗi tuần hai buổi bất di bất dịch: chiều thứ tư nấu ca-ri thịt dê và chiều thứ bảy, trở món bê thui, làm một tuần chỉ hai buổi mà cũng đủ làm giàu. Nếu so sánh với món ăn Sài Gòn, nội bò bảy món Chi Lăng cũng hơn xa. Nhưng ra ngoài lấy gì mà kén? Đại khái và ưng ý nhứt có món cháo lòng đường Phan Bội Châu, nước trong mà ngọt, vừa nhẹ tiêu vừa ngon mát, và khoái khẩu không kém là món cháo gà xôi gà đường Chi Lăng phố Già Hội, rất khổ và rất hạp vệ sinh. Khi nào tỳ vị tốt và lá gan không chứng nhõng nhẽo, thì nếm thử tô tiết canh Phan Bội Châu hoặc ăn bánh khoái Võ Tánh cầu Đông Ba đi xuống. Tôi không ghi trong chương trình những gì không thích như cơm Tây ở Câu Lạc Bộ mé sông Hương, gió mát thật nhưng đắt tiền và lạt phèo, quán Thượng Hải đường Phan Bội Châu bán cơm Tàu, dở như “Hạch” mà mắc không chỗ chê, và có một quán Tàu ở mút đường Chi Lăng, cảnh thật xinh mà nấu ăn thua Chợ Lớn xa quá, duy lúc tính tiền thì hơn Chợ Lớn rất nhiều. Ra Huế là để nếm của ngon vật lạ của người đất Huế, chớ thứ hột vịt lộn úp mề và cơm ăn Hối thèn (cơm Tàu hạng sang) thì thà để dành tiền về Sài Gòn, Chợ Lớn, ăn vừa khoái khẩu vừa khỏi bị cắt cổ. Một món lạ khác là ăn “cơm hến ngoài cồn”, nghe lạ tai, nhưng khi đưa đến chỗ tôi “ăn cơm ngó” chớ không thò đũa vô được, vì bình sanh tôi sợ mắm, lại nữa tôi đau chứng nước tiểu có lòng trắng trứng (albumìnurie). Năm khi mười hoạ, em tôi ở Sốc Trăng gởi mắm ngon lên, thì tôi ăn với điều kiện: ăn mắm phải ăn mình trần vận chăn, ăn trong xó bếp hoặc với vợ con, hoặc ăn không cho ai ngó miệng Ăn mắm không bao giờ nên mặc đồ lớn, như những buổi ra Huế là xứ có nhiều khăn đóng áo dài.
Đất Thần kinh, những món đặc biệt tôi thích là tỷ như trái vả, tròn tựa trái sung, nhưng lớn hơn nhiều, và chỉ mọc trên núi Huế, không thấy ai trồng hay là nó không hạ thuỷ thổ miền Nam. Trái vả xanh tươi, hái từ bụng núi đem về xắt mỏng. ăn kèm với rau ghém, khi ăn bánh khoái, khi kẹp thịt nướng, thì không gì thay thế ngon bì. Trái chuối chát trong Nam, dẫu là chuối non chuối hột, mùi lai cũng kém xa. Trái vả, chát vừa vừa và giòn rụm, có đặc tánh làm cho bao nhiêu chất dầu chất mo trong bữa ăn đều quánh lại và trôi mất, khiến ăn được thêm nhiều không ngán. Không thế nào trái chuối chát non hay miếng mít luộc đất Sài Gòn mà ngon hơn trái vả đất Huế. Và xin hỏi, trái nầy là của ta hay là sản phẩm của người Chàm? Tôi muốn biết đặng trả món nào cho người món ấy. Của Xê-da trả lại cho Xê-da (Rendez à César ce qui appartienl à César). Cho đến một thứ cải con nhổ ăn sống ngoài nớ, cũng khác mùi vị với thứ cải con đất Gia Định, Đồng Nai. Và tại sao cũng thì rau răm, là thứ rau cay cay mọc lẹt đẹt dưới đất thấp, mà rau mọc ở Huế thì thơm ngon lạ lùng, còn rau răm Sài Gòn, vẫn xanh lá tươi tốt không thua, nhưng mùi vị rất kém, không bì rau răm Huế chút nào. Có nhiều thứ rau nữa, ở Sài Gòn đều có mọc đủ giống, nhưng rau Huế cắn vào thơm phức khiến lần đầu ra đất Thần kinh, chuyến về tôi mang trọn một bao lớn đem về cho bà con thưởng thức món lạ đất nhà vua, nhưng một lần sau, nhơn đi ăn với một chị giáo sư người Pháp (chị M. Piat), tôi khen rau thơm ngọt, chị pha lửng một câu nữa khôi hài nửa đúng sự thật, làm tôi cụt hứng không mang rau về nữa. Tôi thì đinh ninh nhờ phong thổ đặc biệt, lạnh nhiều mát mẻ nên rau Huế thơm ngon khó sánh, nhưng chị đầm nầy cãi lại, nói một câu sét đánh: “Ils ne les lavent jamais!”. Tôi xin để nguyên văn và miễn dịch câu nầy ra tiếng Việt, vì không muốn vì một câu nói chơi mà làm mất niềm hoà khí gây hiểu lầm lớn chuyện giữa Việt và Pháp, nhưng suy nghĩ lại, thà dịch rồi bỏ qua: “Chúng nó không bao giờ rửa”. Người đồng bào Huế đô phải nhìn nhận tại sao quán bán bê thui, ngon thì có ngon thật, nhưng bầy hầy thiếu vệ sinh quá, dường như coi rẻ khách hàng: quán thì tum hủm chật hẹp, dọn vài ba cái bàn mà không cái nào sạch, ly chén không bao giờ cho vào nước e nó mòn đi chăng Mỗi lần dọn đũa, thì trao cho khách ba miếng giấy súc cắt vuông để khách tự lau đũa lấy, nói thật, tại vì bụng đói mà có tánh ham nếm món lạ nên mới lết đầu vào, chớ nhớ lại chờm gớm quá! Bưng tô ca-ri, anh dọn bàn nhúng trọn ngón tay cái luôn và móng lay viền lằn đen thui, miệng lại thập thò điếu thuốc Cẩm Lệ, ý chừng muốn khách thấy ca-ri có ngón tay nhúng là hiểu “ăn đi, vừa ăn, không nóng không phỏng miệng đâu!”.
Huế là xứ lạnh, dễ chịu. Đàn bà lớn tuổi, phần nhiều đều hút thuốc. Các cô quý phái ngồi xe nhà, chạy trên cầu Trường Tiền, cô nào như cô nấy thì thòm lo le điếu thuốc vấn trên môi. Các chị bán bún bò, vai gánh nặng trĩu, miệng cũng lấp la lấp ló nửa điếu thuốc tàn. Tôi hiểu vì lạnh điếu thuốc có mãnh lực làm cho ấm lòng, hay là mỗi cô mỗi bà đều có tâm sự buồn lòng nên cậy điếu thuốc giải sầu? Nhưng tôi là dân Miền Nam, chưa quen mất thấy người đẹp hút thuốc. Có một việc tôi công nhận là câu “ớt nào là ớt chẳng cay”, có lẽ câu nầy áp dụng xứ Huế thì chưa được đúng. Chính tại quán cơm Âm Phủ, bữa ăn thịt nướng rau sống, tôi nhai ngon lành ba trái ớt sừng trâu mà không thấy le lưỡi hít hà. Ớt xanh, rau sống, tỏi tươi, nem chua, trẻ, ngồi ăn mà nhớ đàn bà xứ nầy; ngay xưa làm cung phi, làm hầu thiếp nhà quan, vợ bé ông thương, ông hầu tước, đã quá quen cảnh ấy nên không ghen hay không dám ghen, thậm chí trái ớt xanh Huế cũng khác, không như ớt ở đâu đâu nhứt là nhớ ớt nhà, “ớt cay xé miệng mới là ớt ngon?”.
Đường Phan Bội Châu, núp sát hào nước bờ thành, có quán cháo lòng, hiệu đề hai chữ, nhớ chữ đầu là “Vĩnh”, chữ sau mại mại nhớ là “Lợi”, quán hiệu Vĩnh Lợi phải không? Đầu xuân Mậu Thân nghe dường như xóm nầy bom đạn nổ nhiều hơn chỗ khác và nơi thảm cỏ xanh trước quán có nhiều mồ mả mới vùi. Cái quán nầy hiện có còn chăng, hay đất Huế đã mất đi một nơi quan khách? Huế đô có rất nhiều quán bán cháo lòng, nhưng theo tôi, tôi chấm quán nầy là ngon nhứt. Đất Thần kinh, cháo lòng dọn với thịt luộc; trong tô cháo ở Huế, vẫn thiếu miếng dồi nướng đặc biệt của vùng Sài Gòn và của bợm nhậu, dồi dồn huyết tươi và sả ớt bằm, khi nướng mùi thơm bay nhột mũi. Quán Vĩnh Lợi dọn đĩa lòng ra không chỗ chê, nào bao tử, nào phèo non: nào tim gan giòn ngọt, nào dồi trường màu trắng buốt như bông bưởi, món thịt luộc thái mỏng cũng ngon ngọt lạ thường nhưng không một miếng dồi (hay là cháo ngon chấp dồi?). Ngặt chủ quán rất kén khách, dầu có tiền nhiều muốn vô đây phá mồi cũng không được với lão, vì thường ngày lão hay để dành mớ nhắm cho bợm quen; người khách lạ, đang ăn ngon miệng, xin rối thêm, lòng còn trong rổ mà lão dám đáp tỉnh bơ “đã hết”! Chẳng qua lão để dành hoặc cho khách quen chưa đến, hoặc lão nhớ còn một nồi cháo đầy, bán hết đồ lòng đồ bổi, lát nữa lấy gì bán kèm với cháo? Ăn thịt luộc ở Huế, khiến tôi bất nhớ món thịt luộc trong Nam. Tôi định con heo xứ Huế là giống heo nhỏ con, heo bản xứ, không bao giờ lai giống với heo các nước khác. Heo Huế tuy nhỏ con nhưng thịt săn và mềm, thớ mịn, khi luộc phay chấm với nước mắm Hòn thì ngon tuyệt, ngon không chỗ nói. Ở Sài Gòn và những nơi khác quen dùng thịt heo ướp lạnh, từ ngoại quốc đưa vào, còn như heo nuôi thì cũng là giống heo to con ngoại quốc nữa, hoặc heo gây giống ở Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho), loại heo nầy thịt cứng sớ to chỉ dùng làm ram-bông (jambon) theo Tây tà, hoặc nấu nướng món thường thì được được, chớ ăn phay ăn luộc, dùng làm nem thì mất ngon và ăn không thú bằng heo cỏ heo ta: nem kém dai và nhai nghe xam xảm. Miệt Chợ Đệm, trong Chợ Lớn đi vô, mấy năm thái bình trước khi có chiến tranh, cũng có món cháo lòng nổi danh một thuở. Người đất Chợ Đệm, khoe ở đó có nước con sông Ba Cụm chảy ngang, khi luộc thịt lấy nước sông ở đó luộc thì thịt trở nên giòn ngon, vì trong chất nước có một chút phèn làm cho săn thịt. Tôi nghe mà không dám cãi, vì cắt nghĩa thế nầy nghe khoa học quá, đút miệng vào sẽ có người cười rằng mình dốt có tật hay cãi bướng. Nhớ lại lúc nhỏ, ở Chợ Đệm có một ông thợ bạc có con gái đẹp. Ông kén rể, đứa nào có đít lôm, cứ xuống Chợ Đệm coi mắt cô nàng, sẽ có một bữa cháo lòng mát ruột và chuyến về, dầu được dầu không, cũng có một cặp vịt sen đem về nấu cháo ăn thêm. Nhắc Chợ Đệm là phải nhắc “bối Ba Cụm”, ăn trộm có danh ngày xưa trong vùng. Ra Huế ăn cháo để đỡ lòng, dám mơ đâu cầu hôn như Lưu Bị thuở trước, e ngoài kia bị bối Ba Cụm.
Trở lại món ăn xứ Huế, bất nhớ đến tô tiết canh cũng bán tại quán Vĩnh Lợi đường Phan Bội Châu nầy. Tôi không hiểu tại sao tôi ăn được món tiết canh chỉ tại xứ Huế mà thôi, về Sài Gòn, tiết canh đường Hồng Thập Tự, và tiết canh ở Gò Vấp, thiên hạ vào chiều ngồi ăn nượp nượp mà tôi chạy dài không dám rớ; có lẽ tại Sài Gòn, thời tiết nóng bức, và tiết canh, cũng như thịt đông ngoài Bắc, chỉ ăn vào mùa có gió lạnh lạnh mới thấy ngon lành. Tôi lại nghe có lão mặc áo dài đen, trước đây giữ chức trưởng ban văn chương tại trường Văn Khoa, lão có đầu bếp biết làm tiết canh khéo, lão khoe hoài nhưng tôi tuy vẫn muốn nếm mà không muốn chơi với con quạ áo đen nầy. Nói vòng vo bắt nhớ buổi đầu tiên học ăn tiết canh ở Huế.
Tôi, chiều hôm đó bước vào quán Vĩnh Lợi, một mình. Tôi ngồi cùng bàn với một anh quân binh trẻ nói tiếng trọ trẹ. Thấy anh gọi tiết canh, tôi cũng bắt chước gọi theo. Anh đòi một ly rượu trắng, tôi cũng đòi nhưng chủ quán sai người mua cho tôi một ly rượu thuốc, và căn dặn phái mua cho được tại nhà hai cô gái đẹp gần dốc cầu Đông Ba, phía bên ni nè, gần nhà Hồng Thuận, hiệu buôn mè xửng danh tiếng. Rượu mua về, tôi nhâm nhi mấy hớp, ly rượu gần vơi, đầu khởi sự quay, vừa cháng váng tơ lơ mơ thì món ăn dọn ra. Tôi liếc anh quân binh, anh làm sao, tôi làm y như vậy. Anh lấy miếng bánh tráng nướng, bóp nhỏ thả vô tô, tôi làm theo. Anh trút hết chén nước tương thơm phức vào tô, tôi cũng làm theo. Anh nặn chanh, tôi cũng vắt miếng chanh đến không còn một giọt. Anh trút thêm đĩa dưa giá chua, rồi nào tỏi, nào ớt, nào gừng ngâm giấm, nào riềng thơm, anh đều cho hết vào tô: thảy thảy tôi đều làm tên học trò ngoan bắt chước thầy không sai một mảy. Đoạn anh cầm đũa ngó tôi như mời mọc: “Vô ta nè!”. Tôi cũng cầm đũa mời lại: “Anh làm trước đi?”. Câu nầy tôi nói nho nhỏ trong trí, đủ nghe lấy mình. Anh cười. Tôi cũng cười theo.
Anh bưng rượu nốc cạn ly, đánh một cái khà. Tôi cũng cạn nốc ly như anh. Anh kê đũa lùa thật mạnh tay bao nhiêu thứ trong tô vào mồm. Tôi cũng nhắm mắt lùa rau và máu tươi vào miệng.
Ban đầu tôi tưởng không thể nào nuốt trôi những thứ lạ ấy được, nhưng may sao, trước có rượu nóng làm tiên phong dẫn đường, và đây sẵn đạo hậu tập, trong miệng cái gì ngọt ngọt thơm thơm cay cay nồng nồng theo sau, tiết canh lần đầu càng ăn càng thấy hấp dẫn, ngon lạ ngon lùng; khoái khẩu tôi lùa hết tô đầy, dám húp luôn cạn nước chất đỏ đỏ béo béo dưới đáy tôi; đến chừng ngó tấm gương lớn treo trên vách, thấy mồm mép mặt mày tùm lum tề lê những máu và huyết. Khi ấy tôi đứng dậy, quên chào anh quân binh thầy dạy ăn tiết canh, lật đật lại quầy trả liền, ra đường gọi một anh xích lô đưa thẳng về nhà Mo-ranh (Đại học Văn khoa), leo lên giường nằm nhắm mắt, ban đầu ngờ ngợ trông một sự gì xảy ra, hoặc nôn ọe trả lại cho sàn nhà những gì mới nuốt, hoặc sẽ ngây ngất khó chịu với ly rượu thuốc gọi rằng rất bổ, không dè tôi đánh một giấc ngon lành thẳng thét, trời sáng bét hồi nào tôi mới thức. Đã không có bợn dạ, mà dường như trong bụng thấy mát mẻ hơn ngày thường. Từ đó, tôi ghi vào lòng, kỳ tới nếu ra Huế, thế nào cũng nhớ ngày thứ ba phải lại thưởng thức tiết canh của lão già Huế sồn sồn, mặc áo “cháo lòng”, vận quần “huyết heo”, lão không bao giờ biết tắm là gì, nhưng có tài bào chế tiết canh ngon tuyệt!
Vừa bổ vừa ngon, lại có thêm ly rượu “thuốc bổ”, thì nó khoái thế nào?
Quán cháo lòng quán cháo gà xôi gà, thì từ bốn giờ chiều mới mở cửa, và vừa quá bảy giờ tối đã đẹp. Khách hàng vẫn mấy mặt, gặp nhau hoài đến hoá quen. Mỗi quán mỗi ngày mua thịt thà vừa đủ bán, không cần khách ăn khuya, và như vậy không tội nghiệp cho kẻ lỡ đường lỡ một chuyến tàu. Ngày rằm và mồng một âm lịch, càng thêm khổ, vì các quán đều theo Phật giáo cữ sát sinh, thảy đều đóng cửa không bán. Có một kỳ nọ, tôi làm cách, ỷ y có quán, tôi từ chối bữa tiệc đám cưới của một bạn buôn đồ cổ, chồng Mụ Tám cố mời mọc, tôi không nghe. Rồi từ giã, bước đến đâu đều cửa đóng then cài, báo hại hôm ấy về phòng ăn bánh mì nguội với nem chua trừ bữa. Ngươi Huế rất giàu tín ngưỡng rằm ngươn, mồng một, đi đến chỗ nào cũng thơm nghi ngút hương trầm, và đây là thứ trầm thiệt đất Quảng, thơm nhẹ lâng lâng thoát tục.
Nhớ đến buổi chiều ăn cơm quán cóc do người Hải Nam làm chủ và đứng làm đầu bếp. Thú vô cùng. Ngồi cái bàn thấp thấp sát bên đường Trần Hưng Đạo. Ngó tới trước là phố xá đông đúc toàn những mắt nhung tươi cười, tóc cắt ngang lưng, nón bài thơ lơ lửng. Ngó ra sau là con sông Hương lùa gió mát, văng vẳng bên tai tiếng véo von từ đài phát thanh đưa lại, hồn mộng say sưa, con cá béo từ cửa Thuận An tươi rói, con tôm cũng tươi, đĩa gà luộc hay đĩa mì xào, đang đưa hồn tưởng chừng lạc lối Thiên Thai.
Trong Thành Nội, số nhà 70 đường Đinh Bộ Lĩnh, có quán bán cháo lươn và lươn miến, thêm chạo tôm và đồ bổi để nhậu. Vừa lạ miệng vừa ngon thèm. Con lươn đất đế kinh, thịt thơm, mùi vị rất khác con lươn đất sình trong Nam, tuy cùng một giống.
Nơi day phố lầu trước khi vào cửa Thượng Tứ, có một quán Hải Nam, có món mì hoàng thánh tôm xào giòn, thật là hẩu tố (hảo đa, ngon miệng). Con cá bống chiên của quán này cũng ngon quá thể, ăn giòn đến xương xóc cũng giòn và kỳ vi đều giòn, nhất là khúc đuôi vàng cháy, thật là giòn khớp, giòn rụm, hằm bà lằng (hết thảy) đều giòn. Ăn mút từ miệng xương đầu, gặm từ khớp xương đuôi. Ăn rồi bữa cơm thấy xương rải đầy mặt đất, giựt mình thấy mình rất gần thú hơn gần người, hèn chi ở Huế, nơi các nhà vọng tộc có tục ăn riêng không ngồi chung với ai. Ăn chung miệng nhai ngồm ngoàm, e mất thể thống! Làm dân Việt, làm con Lạc cháu Hồng, được ít nữa hai cái tự do mà qua các nước Âu châu phải cữ kiêng mất thú: ăn cho thật kêu, cắn xương rôm rốp và húp canh cho thật kêu, húp nghe sồn sột. Nơi khác gọi như vậy là thất giáo và bất nhã, nhưng nơi đây, như vậy mới là tự do khoái khẩu. Đến như xương xóc thì nên nhớ ba điều: ăn cơm Tây, tập giấu khúc xương, không bao giờ gặm trước mặt khách khứa; xương gà xương cá, phải chừa lại vén khéo sạch sẽ trên đĩa; ăn cơm Tàu tha hồ bỏ vãi vỏ cua và xương thừa trên nấp bàn trắng toanh như vậy mới cho chủ nhà thấy món đãi khách thật là ngon miệng; cháu 72 đời đức Thánh Khổng, năm trước qua Sài Gòn dự tiệc nhà nước, đã ợ một tiếng muốn điếc con ráy ông chủ tiệc là ông bộ trường Quốc gia giáo dục, cả bàn đều nghe, vì ông Khổng-cháu, muốn tỏ được thết bữa tiệc vĩ vèo. Giữa hai ông Tây và Tàu, chỉ có người dân Việt, được gần với tự nhiên, hoàn toàn tự do, không có sự kềm thúc đài các giả, tha hồ mút xương, gặm xí quách (trừ cốt) và cứ bỏ vãi xương dưới đất, dơ dáy ư, ối thứ nhà nghèo, đâu cần lễ phép, đã sẵn con mực, con vện tế độ, tẩy uế!
Đường Chi Lăng, từ cầu Gia Hội đi lên, nơi mé trái, một đổi xa xa nhưng chớ qua khỏi đầu đường Nguyễn Du, có một ngôi nhà trệt rất cũ kỹ, ba căn thấp lè tè, chưn cột đã bị mối nhắm gần đứt tiện, nơi ngoài mái hiên có bày một lồng kiếng rất sạch, trong lồng có treo lủng lẳng mười con gà luộc, da vàng lườm tươm mỡ, xé bán không kịp và phải mau mau vô lãnh phần không kẻo hết, vì độ hơn bảy giờ tối là đã cạn nồi cháo cũng như trong lồng không còn một con gà; Trong quán, gạch lót lâu đời nên đã tróc men, chỗ lồi chỗ lõm, nhưng chớ nên khó tánh câu nệ, chịu khó ngồi chờ phiên, vì cháo ở đây rất ngọt nước và đặc biệt là đĩa gà xé phay, tôi chưa gặp ở đâu ngon hơn. Khách đài các ở đế đô, thời một tô cháo là vừa, vừa cho dạ dày cũng vừa cho túi tiền; nhưng đối với khách hạng Trí Thâm, Bát Giới miền Nam một tô không phỉ. Xin thời thêm một đĩa gà xé phay nữa, và nếu thấy còn lỏng lẻo, hãy chêm thêm và kêu thêm một đĩa nữa, độc vị xé phay.
Tôi ra Huế nhiều lần, và cứ mỗi ngày thứ năm trong tuần, làm sao tôi cũng phải ghé lại đây thưởng thức món cháo gà Gia Hội, không phải quán chỉ bán có ngày thứ năm trong tuần như quán bán bê thui và ca-ri dê đường Phan Bội Châu, nhưng vì tôi dốt thơ, người ta thì thích ngâm thi Đường “lạc diệp tri thu”, tôi lại thích ra Huế nếm món cháo gà Gia Hội; Tôi tọc mạch muốn biết vì sao cháo gà xứ Huế ngon lạ ngon lùng. Tôi định con gà ở đây là gà không lai chạ, không giao thiệp với gà Mỹ và bởi rặc nòi, nên khi nấu nướng theo cách đơn giản địa phương gà luộc, thì đặc điểm gà Huế vừa xương mềm, ngọt thịt, nhất là da rất giòn và không nhớt.
Các bạn muốn cười thì mặc ý, nhưng hãy tin tôi. Có lần về Sài Gòn tôi bắt chước mua gà giò, lựa thứ lông vàng chưn cẳng vàng, đem về luộc xé phay và nấu cháo khi ăn vẫn thua gà Gia Hội.
Một phen sau đó, tôi ra Huế, đi một mình lại quán, gọi một tô cháo đặc biệt và một đĩa thịt xé phay có đủ phao câu, đầu cánh và một đĩa xôi. Tôi để ý mụ chủ quán trộn gà cách nào để ăn cắp nghề và muốn hiểu tại sao nó ngon đến thế. Té ra cái bí quyết chuyên môn chỉ dồn trong hai bàn tay trầu của mụ. Mụ đứng bán từ xế chiều đến xẩm tối, tuy trước bụng mụ có nịt một tấm khăn choàng khá sạch, nhưng miệng vẫn nhai trầu tay vẫn xỉa thuốc, khi khách gọi gà luộc thì cũng bàn tay ấy mụ xé thịt, xé chớ không xắt không chặt, khách gọi xôi thì mụ cũng bốc xôi với bàn tay xỉa thuốc ấy. Đến lượt tôi dặn ba món: cháo gà, gà xé phay và một đĩa xôi, thì mụ vẫn để y tay từ ban nãy, vốc một mớ rau thơm lấy ngón tay ngất vụn bỏ vào đĩa, một tay sửa cục thuốc xỉa cho đừng rớt, quẹt sơ tay vào khăn choàng bụng, xong rồi lấy tay ấy xốc xốc trong tổ gà xé rời, lựa mấy miếng cho vừa giá tiền, xé nhỏ ra vụn, cho vào tô vào đĩa, bốc thêm mỗi món trong rổ lớn nào phao câu nào đùi gà, nào chéo cánh như lời tôi đã dặn, đoạn dùng trọn hai bàn tay còn trầu vừa nhồi vừa trộn xốc xáo, vừa bóp nặn cho đến thịt gà thật nhão mềm, thấm thía chất ngọt, kế đó lanh lẹ bà thò vá múc vào nồi cháo sôi sục, múc một vá nước cốt gà nóng hổi cho vào tô vào đĩa, rắc sơ ba hột tiêu lên mặt rồi sai bưng lạ tôi.
À há! nói có hại bên vai vác chứng miêng, và xin các bạn Huế chớ phiền, sở dĩ tô cháo gà và đĩa gà xé phay Gia Hội ngon không đâu bì, bí quyết là vì nơi xứ khác, làm gì có bàn tay trầu mụ bán cháo Huế?
Cà phê Hải Nam mé sông gần chợ Đông Ba, pha thật ngon thơm, nhứt là khi gặp tiết trời lạnh lẽo buổi sáng tinh sương, mấy lần trước khỉ ra sân bay, đến nhấp tách cà phê phin lúc sương còn mù mù, hớp từ hớp nóng thơm ngát, sông Hương vận khói, núi Ngự tăm tăm, lòng lâng lâng không muốn rời. Cánh tuyệt diệu, mấy giọt cà phê như cam lồ thần tiên...
Chợ Đông Ba, giữa hai quán Hải Nam bán điểm tâm bánh bao và hủ tíu, có một mụ dáng người cao mảnh khảnh, thường mặc áo dài trắng đã xuống màu hoen, sớm nào cũng gánh ra đây một nồi bún to ộc ệt. Tôi đã từng dùng bún riêu do mấy cô mỹ miều bày quán ở Sài Gòn. Mỗi khi ra Huế, mỗi sáng sớm tôi đều chứng kiến mấy chị sồn sồn thi nhau gánh gánh chạy ngang khu Đại học Văn Khoa Mo-ranh cũ, để chạy qua cầu Trường Tiền, qua khỏi cầu sao sao cũng hạ gánh xuống, lấy thuốc Cẩm Lệ ra hút, tán gẫu vài câu cho bớt lạnh, vừa lấy gạch cua gạch cáy ra tán nhỏ, giằm thật nát, cho vào nồi chao qua chao lại cho đều màu, rỗi gánh ra chợ bán. Tôi dám chắc trong các chí, không chị nào có nồi bún riêu ngon bằng chị có gánh đặt ở giữa hai quán cóc Hải Nam chợ Đông Ba nơi mé sông Hương nầy. Tháng chín năm 1967, chị bán mỗi tô là ba chục bạc, thật rẻ không chỗ nói. Chị rất biết chiều lòng từng người khách. Mỗi lần chị múc, chị xem tướng người mua. Chị liếc sơ, độ ý khách rồi mới giạo trong nồi tìm miếng thịt giò cho trúng ý. Chú lính trẻ còn răng, chị lựa khúc xương vừa giòn vừa dai để gặm cho đáng đồng tiền. Đối với tôi, ông già quá tuổi, chị lựa miếng giò để khi ăn còn nhớ đến phen sau. Có người nhớ Huế vì khúc Nam Bình canh khuya nghe giữa sông vắng. Tôi mà có ra Huế biết bao giờ? Một lẽ khó nói, hay là vì khúc xương giò thưởng thức buổi sáng trên bờ sông Hương
22: Tôi nhớ Huế- Chuyến đi năm 1958.
Tôi lên đường đi Huế hôm nay, 2-4-1958, là lần thứ nhì, vì tháng 3 năm 1955, tôi đã ra đó một lần rồi. Buổi sáng 2-4, tôi vô sở là Viện bảo tàng, lóng nhóng chờ lãnh lương. Được 7.790 đồng, để lại nhà 2.790 đồng, bụng bảo dạ khi trở về sẽ châm vô cho đủ 3.000 xài trọn tháng tiền chợ. Nay đem theo 5.000 bỏ túi, ân hận thấy ít, vì không mấy thuở được công du ra đất đế đô, cũng, nên thừa dịp mua sắm vài món Nội phủ sở thích, máy bay khứ hồi, đã có chánh phủ cho không, lại nữa cơm nước và chỗ trọ, đã có ông Viện trưởng viện Đại học ngoài ấy bao bọc.
Theo lời dặn thì 14 giờ khởi hành, còn lâu hoắc. Đợi mãn giờ làm, đạp xe về nhà ăn qua loa ba chén dằn bụng, nằm nghỉ lưng được một chút, kế soạn kỹ hành lý đem theo cho vào túi xách, pha một bình trà ngon ngồi nốc cạn bình, xong đâu đó rồi, lật đật lên xe xích lô mượn đưa lên địa chỉ 294 Phan Thanh Giản. Nơi đây phái đoàn tề tựu gần đủ mặt, chỉ còn chờ ông và bà trưởng đoàn đến là khởi hành. Trong lúc chờ, tôi ngồi đếm, về nữ sinh có năm sáu cô, về nam sinh có trên mươi người, nay cũng không nhớ tên, duy nhớ một anh Doãn Quốc Sỹ. Đây là các cô cử cậu cử tân khoa vừa thi đậu, được chánh phủ biệt đãi cho đi “bêu ngựa” Huế đô, ngắm gái đẹp trai xinh và phong cảnh đất Thần kinh và bổ túc sự nghe sự thấy. Ông Trương Bửu Lâm, giám đốc viện khảo cổ, làm trưởng đoàn. Nếu có nên cám ơn, thì cám ơn ông có lòng tốt để cho tháp tùng đi chơi không tốn tiền, chớ lão Nguyễn Khắc Hoạch và Nghiêm Thẩm, đều là bọn “đi cọp” như mình, không nói hai linh mục dòng Tên, Larre và Gélinas, và một sư huynh đồng hành thì cũng là “cọp”. Còn nói gì bà T.B.L., vốn là Bạch Nga xuất ngoại, theo chồng cho biết Huế, thì cũng là “cọp” cần gì cám ơn. “Phi thuyền” nầy là một chiếc máy bay quân sự, của lính dù dùng ra trận mạc, tiện nghi không có, từ trước tàu ra sau có hai hàng ghế băng dài bằng gỗ ngồi “u mê” thấy mẹ, khách ngồi đâu mặt nhau, có mấy sợi dây treo lòng thòng, phải nắm cho chắc, kẻo máy bay đảo thì té lăn cù, bà lật bùn rền, hai ông cha văng kiếng, văng nón, lối tóc hớt trọc có chừa một lỏm tròn giữa óc o. Ngồi một chỗ cả giờ, ngó mặt nhau mãi chán quá. Không biết bụng ai thế nào, chớ bụng tôi được đi cọp, vẫn suy nghĩ lung tung, tự hỏi thầm: chớ chi bà L, mập thêm một chút, dễ coi hơn, chớ ốm và giẹp như khô mực, thì bên Việt Nam phụ nữ đẹp hơn nhiều; còn tại sao cha L., tu hành giống gì mà béo trục béo tròn, trái lại cũng thì tu mà cha G, lại ốm tong teo, nội cái mặt chỉ thấy sống mũi cao và cúp vọp, hay lão ta dòng Do Thái? Một cô cử gốc gác miền Nam, mới gần nửa giờ đã tâm sự và thổ lộ can tràng: “Gái đời nay, không tiền không sắc như tôi, nên phải đi học làm vốn. Bọn có chút sắc, nhất là có tiền, trai nó cưới từ hồi mười bảy”.

Mảng nghe đến đó, máy bay đáp xuống sân Phú Bài mà không hay. Khởi hành 14 giờ, đến Huế 16g30, cũng mau khá đến. Có xe camiông nhà binh đến rước đưa đến toà viện trưởng, chào linh mục Cao Văn Luận, để ông dạy cho biết ăn đâu ở đâu. Các cô có nhà cha mẹ tại đây thì cứ về nhà, mấy cô khác gởi vô nhà kín ở tạm chớ không phải đi tu mà sợ. Mấy anh sinh viên trai ở chung một chỗ với nhau càng được thêm vui. Ông và bà L., biệt đãi, ở một phòng riêng, còn cha L, cha G, chực về tạm nơi tu viện ở đây, duy ba đứa tôi, Hoạch, Thẩm, và tôi, một già hai trẻ, được cắt cho một phòng rộng trên lầu thư viện Đại học, trước đây là trụ sở Ngân hàng Đông Dương, một toà nhà đồ sộ ngó ra mặt sông Hương.
Sấp xếp hành lý xong mà giờ cơm chưa đến, phái đoàn rủ nhau qua sông ra phố, thả xích phê dọc đường ngấm sơ cách bán buôn sinh hoạt Huế đô. Vả chăng tôi biết Huế từ 1955, năm nay 1958, tôi thấy Huế đã tiến bộ nhiều. Năm trước dạo phố thấy trong một hiệu bán kiếng đeo mắt, có một cái máy nhỏ dùng mài cạnh kiếng, thế mà cũng có kèm một mảnh giấy trắng viết đại tự quốc ngữ: “máy mài kính” dán lên trên, tôi nghĩ thầm xứ nầy là xứ văn chương, ông chủ nhà nầy quả là xứng đáng con cháu quan viên xưa, thích đề thi viết liễn và mỗi mỗi đều trông có dịp khoe chữ tốt văn kêu. Năm nay trở lại chỗ cũ không thấy cái máy ấy nữa, hiệu buôn kính đã biến thành một quán buôn sách, và từ buồng trong, nghe lảnh lót vọng ra, tiếng trong trẻo, có lẽ là của tiểu thơ con gái ông chủ nhà, nếu cô bán hàng làm công không lý tự do đến thế, hay đây là một Ngọc Cẩm, một Thanh Thuý tương lai Bà Lâm thấy gánh chè đậu ngự, gọi lại và đãi hết phái đoàn. Mụ bán chè còn mặc chiếc áo dài vá quàng, thân trên mới tinh, nửa thân dưới, vạt trước vạt sau là vạt áo cũ nhục nhục phai màu. Chiếc áo nên thơ, cần gì phải nón bài thơ, đây bắt nhớ lại câu hát cũ: “Áo vá vai, vợ ai không biết? Áo vá quàng chí quyết vợ đây!” đây hay là tôi, cũng vậy). Và một câu nữa: “thương em thuở áo mới may, Bây giờ áo đã thay tay vá quàng”? Vá quàng là áo vá nửa thân, trên mới dưới cũ, cũng là một cách tiết kiệm mót máy lớp trước, dè đâu phong trào tân tiến xằng theo Mỹ Thiệu, trước kia là Diệm Nhu, đã đánh chết khỏi từ đây, và đây là lần chót tôi còn thấy chiếc áo vá quàng nầy, và những lần sau ra Huế chỉ gặp bùn rền váy đầm, áo tân thời eo thắt ngang lưng, hoặc áo thun bó sát thân ngực chớ áo vá quàng hoàn toàn không thấy nữa. Ăn một chén chè khỏi trả tiền, mà nghĩ bao nhiêu chuyện. Đường Chi Lăng, phố Gia Hội, hai bên bờ con kinh đào từ đời vua Minh Mạng, gọi là phố Hàng Bè, trừ những nhà xây cất theo lối cổ nay không thể sửa đổi canh tân được, còn sót nhiều ngôi nhà đã có từ đời Thiệu Trị, Tự Đức, những nhà nầy để y như xưa, luôn cả táng đá đã lỳ mòn, có táng kiểu trái bí, có táng kiểu cánh sen lật úp, rất ngộ nghĩnh, thấy một nhà đang phá ra cất lại mới, bỏ cù bơ cù bất những tảng đá Thanh kiểu cái trống, giá thử không nặng lắm và nếu cho mình, mình sẽ rinh về làm kỷ niệm thì hay ho quá! Đâu là nhà Trần Tiễn Thành, thuở bị ám sát? Và Chợ Dinh ở đâu, có phải là khu khi xưa có dinh quan Thượng, Phụ Chánh nầy không? Có một mớ nhà khác đã thay kiểu mới, có kê thêm lầu lẹt đẹt, rộng rãi hơn thì có, nhưng kể về tồn cổ thì hỏng rồi. Những dãy khang trang tân thời, chiều chiều ngợp khách du, là dãy Trần Hưng Đạo dọc bờ sông Hương, tấp nập trai thanh gái lịch. Dầu sao và đi đến đâu, thành phố Huế còn lưu lại nét cổ kính và nhà nào ít nữa cũng còn sót một vài cổ vật: chiếc lư đồng cổ, cái khán thờ cũ, bộ chén trà xưa hay đôi chậu kiểng đời trước, còn luôn cả chưn chậu gọi là đôn, làm bằng đá Thanh đã meo mốc lang thương nhiều thế hệ. Đi ngang nhà cụ Nguyễn Đình Hòe, thấy trong thiên tỉnh có mấy chậu lan và một bể cạn có kiểu xinh xinh cổ kính.
Ngày 3 tháng 4 - Sáng điểm tâm rồi dắt nhau dạo xem trong Đại Nội. Nơi góc hướng nam, chỗ trước đây bà Từ Cung ngự, vẫn còn xưa sao nay vậy. Đồ sứ Pháp, đồ sành do Tây cống sứ và chế tạo tại các lò Sèvres, Limoges, còn giữ được rất nhiều, mỗi chưa cột đều có chưng một chiếc lục bình cao hơn thước, cái vẽ màu xanh đỏ, cái phết men thiên thanh, sau đây thấy bày trong vài phòng triển lãm Sài Gòn, khen cho vật không chân mà biết chạy, hay là vì túi tham không đáy, bất kể vật cổ tích quốc gia? Và nhám tay, ăn cắp là tội nặng.

Trước mặt tiền nam cung, có một sân rộng tường bao chung quanh, giữa sân có hai cây vải (lệ chi) do bàn tay ai trồng, lá xanh om, tàn tròn vịn, gốc lớn một người ôm không giáp: đang trưa đứng bóng, tuy nghe tiếng chim trong lá kêu lảnh lót mà gió lặng yên lá không lay động, khách như tôi đứng tần ngần lòng xúc cảm vô hạn, tưởng tượng chốn nầy ngày xưa náo nhiệt oai nghiêm bao nhiêu mà ngày nay thê lương, lạnh lùng bấy nhiêu nhưng xưa nay gì cảnh vẫn kín cổng cao tường và vẫn chứa ẩn ruột bí sử khó tả.
Buổi chiều đến cung chiêm lăng Vua Minh Mạng và chuyến về còn dư giờ ghé triện lại xem vị trí Hòn Chén và điện thờ bà Thánh mẫu Thiên Y A Na linh thính. Trong các lăng tẩm những vua nhà Nguyễn, không kể lăng đức Thiệu Trị bị hư hại vì bão lụt nhiều lần chưa tu bổ, so sánh lại, lăng Gia Long hùng tráng đơn sơ ẩn tàng nét hùng của một người dám chỉ ngay chỗ nằm, ngoài ra lăng Minh Mạng, quả là lăng tẩm một ông vua hưởng lâu cảnh thái bình và ăn ở theo sách, mỗi mỗi đều đối chiếu, đình tạ nguy nga, phảng phất một nét buồn rất nên thơ, xứng với một ông vua kiêm thi sĩ, một môn đệ trung thành với triết lý Khổng Mạnh. Tương truyền miếng thịt phải xắt thật tròn thật vuông, ngài mới bằng lòng.
Bữa cơm tối xong, chia tay ra về. Ba chúng tôi, Hoạch, Thẩm, và kẻ nầy, rủ nhau ra ngồi lan can cầu Trường Tiền xem kẻ qua người lại và xem cảnh sông Hương và thành phố Huế dưới ánh đèn. Lúc ấy chưa có lệ đuổi không cho dụm ba dụm bảy trên cầu.
Ngày 4 tháng 4 Hôm nay xem lăng Khải Định và lăng Tự Đức, có ông Bửu Kế, giám đốc thư viện hướng dẫn. Lăng vua Tự Đức rộng lớn và còn kiên cố nguyên vẹn. Nhìn kỹ lại đây quả là một “tiểu giang san” dành cho một ông vua đã quá mệt mỏi vì việc nước quá rối ren và đã có ý định rút lui về đây đóng vai thái thượng hoàng. Ai trách ông bao nhiêu, tôi lại thương và kính ông bấy nhiêu.Tôi kính ông là người con chí hiếu, tôi thương ông là người chung quanh bị bao vây bởi một bầy tôi bất tài, buổi tàn niên của ông còn thêm một số ăn hại, phá nát cơ nghiệp, chuyên ám sát người ngay, và ép vua nhỏ tuổi chạy theo dài dài.
Ở tôn lăng nầy mỗi đình mỗi tạ, mỗi cây cầu, đều có đặt chữ “khiêm” đứng trước. Đức Dực Tôn rất biết xét mình và trên các tờ “châu bản” để lại chữ son vua phê có khi còn dài hơn, nhứt là lời ngự phê còn văn chương lưu loát hơn văn các đài quan cử nghiệp Tôi đã nói ông vua nầy rất hiếu với mẹ, nay đọc lại bài Ngẫu cảm của ông (xem Nam thi hợp tuvển quyển 1 Nguyễn Văn Ngọc, bản năm 1927, trương 248):
Sự đời ngẫm nghĩ, nghĩ mà ghê!
Sống gởi, rồi ra lại thác về.
Khôn dại cùng chung ba thước đất.
Giàu sang chưa chín một nồi kê.
Tranh giành trước mắt mây tan tác,
Đày đoạ sau thân núi nặng nề.
Muốn để hỏi tiên, tiên chằng bảo,
Gượng làm chút nữa đế mà nghe!
Ông biết như vậy mà cũng không tránh được lời gièm pha của hậu thế, nào bất tài, nào để cho mất nước. Trách vua Tự Đức rồi thì còn lời nào để trách cứ cha ông vua vừa bị truất phế gần đây?
Nội cái việc truất phế, chung quy chúng ta vẫn lầm mưu một bọn ỷ đông làm cái việc thường thấy giữa đám dân làm ruộng trong Nam: một ông chủ điền vì ham mê bài bạc tửu sắc, bỏ ruộng lên chợ, giao sở đất cho tên “tằng khạo” coi sóc, rồi tên tằng khạo gian hùng ấy lập mưu hất cẳng, đoạt mất sở ruộng của ông ta; kế đó, trời bất dung gian, tằng khạo hưởng chưa được mấy năm, bỗng bị người khác hù làm cho hết hồn, chạy mất dạng rồi về chầu âm phủ luôn, thật là đúng như câu 3 bài nầy: khôn dại cùng chung ba thước đất.
Xem hai lăng về, cùng phái đoàn dùng cơm chung của ông viện trường đãi. Mãn tiệc. Thẩm, lui về phòng nghỉ ngơi, tôi rủ giáo sư Hoạch cùng đi với tôi ra bến xe, ngồi ô-tô buýt qua Kim Long, mò đường lần đến nhà ông Nguyễn Hứa Huệ, định đến đây tìm mua đồ cồ ngoạn. Ông Huệ là một y tá từng đi chích thuốc và trồng trái dạo khắp đó đây và châu lưu khắp các nơi hiểm hóc miền Trung, cho nên khi về hưu, ông góp nhóp đầy nhà những đủ thứ đồ cổ từ cái hũ đời Đường, Tống, qua cái chén sứ đời chúa Trịnh đến cái tô đá đời Tây Sơn. Một kỳ trước ông đề nghị bán trọn nhà cho tôi với một giá rất hời, nhưng tôi đã bỏ ra dịp tốt vì lúc ấy tôi quyết dành tiền cất nhà để ở, hơn sắm đồ cổ mà tôi đã có nhiều. Kỳ nầy tôi lại thì ông đã bán tất cả cho ông Hoàng Nai, những món còn lại đều xoàng xĩnh, tôi mượn của Hoạch một ngàn bạc để mua một chậu sành, gọi quán tẩy, nhưng khi về đến Sài Gòn tôi bán lại cho ông Nai, lỗ mất mấy trăm bạc, vì xem kỹ, cái quán tẩy tầm thường quá tôi đã mua lầm. Và tánh tôi không thích giữ gì trong lòng đã hết ưa. Sở dĩ tôi rủ được lão Hoạch đến Kìm Long, vì tôi khoe nhà ông Huệ, kiến trúc lạ lắm: Và nhà nầy quả rất đáng bỏ giấc nghỉ trưa để lặn lội đi tìm. Tôi chỉ cho Hoạch những nét đặc sắc của ngôi nhà lợp tranh nầy. Bề ngoài, nhà xem rất đơn sơ tầm thường, nhưng khi bước vào trong rồi, mới thấy cái vẻ đẹp khó kiếm của nó. Nhà chạm trổ thật khéo, dẫu nhà lợp ngói cũng không khéo bằng. Mấy hàng cột đều nhỏ chột thôi, độ một tấc ngoài trực kính, nhưng trơn láng bóng thấy mặt, nhẵn nhụi như có đánh một lớp sơn, sau rõ lại đây là loại cây lọ nghe, một loại gỗ mun là giống gỗ rất hiếm, và ít khi được ngay ngắn suôn đuột hầu làm cột nhà. Đặc điểm của ngôi nhà nhỏ bé nầy là có chưng mấy tấm “liên ba ngứa” tức những phiến gỗ chạm hoa sen (liên hoa, đọc trại “ba” vì cữ tên một bà hậu đời Nguyễn). Mấy tấm liên ba ngửa nầy chạm trổ rất công phu, có dây, có lá, có hoa sen đại hoá, có ngó sen bỏ vòi tinh xảo như một bức tranh thêu và vì lâu đời quá nên đã lên nước đen thui bóng ngời. Theo tôi, đây là một lối làm thêm đẹp một ngôi nhà tranh, tức chạm những phiến gỗ nầy đúng ni tấc lòng căn rồi đóng đinh bắt ốc miếng chạm lên mái để che bớt lá tranh lợp không đều; tôi chưa thấy một kiểu nhà nào như vầy và chưa vội kết luận nhà ngói nơi địa phương khác có nên dùng liên ba ngửa nầy không. Dầu sao, nhà tranh Kim Long của ông Nguyễn Hứa Huê có qua khỏi nạn hoả tai năm Mậu Thân chăng? Ở Sóc Trăng, năm xưa tôi có gặp nơi làng Thạnh Thới An, một nhà lá cột tre, mà tôi xin đổi với một vuông nhà ba căn vách gạch lợp ngói, nhưng ông chú nhà lá không khứng đổi. Về sau nhà này gặp nạn thổ đốt và đã không còn, thật đáng tiếc. Theo tôi, trường kiến trúc nếu biết lo xa, nên tìm những kiểu nhà nầy lấy kiểu để dạy hoặc mua về dựng lại cho trẻ đàn em học thêm thì hay biết mấy.
Ngày 4 tháng 4 là ngày lễ đạo kỷ niệm ngày Chúa thăng thiên, nên phái đoàn không dẫn dắt sinh viên đi dạo, Hoạch, Thẩm, và tôi, nhảy rào, không đến quán ăn chung với phái đoàn. Chẳng những vậy, thay vì thăng thiên, chúng tôi kiếm chỗ nhậu và ác ôn thay quán nhậu bán thức ăn rất ngon lại có tên rất chướng: “Quán cơm âm Phủ”!
Ngày 5 tháng 4 - Ngày nay là 17 tháng hai âm lịch, đúng ngày giỗ mẹ, thế mà mảng ham rong chơi ngoài nầy khiến lỗi đạo làm con. Tuy có nhớ ngày và căn dặn ở nhà phải nấu mâm cơm đạm bạc miễn thật lòng thành, dầu vậy cũng không khỏi thắc thỏm chốn tha phương. Sáng hôm sau, còn nằm trên giường nghe bầy sẻ trên ngay cửa sổ kêu rân, khiến nhớ nhà ghê. Chim sẻ bất cứ ở đâu cũng chót chét một giọng, không giọng Huế giọng Sài Gòn gì cả. Ngày thường không để ý. Nay vừa xa nhà mấy hôm đã khắc hoải và phân biệt nọ kia. Đi ra ngoài lạ mắt lạ tai, vui lên nên quên hết. Nay giựt mình không có mặt ở nhà để dâng nén hương trên bàn thờ mẹ, tui hỏi tủi, buôn huyền buồn. Người sao quá giàu nghị lực, lưu vong bình bồng đâu cũng là nhà, như vậy mới làm quốc sự và làm chuyện lớn được. Tâm trí như mình, không hơn đàn bà. Theo chương trình, hôm nay phải dậy thật sớm để đi lên lăng Thiên Thọ là lăng đức Gia Long. Đường vẫn xa hơn các lãng khác, lại rất vắng vẻ; biết đâu không gặp người lạ mặt làm khó dễ lại cũng phải đề phòng rủi ro việc khác. May sao, nhờ tàu máy và xe đưa mau lẹ, nên tiết kiệm được thì giờ quý báu. Lên đến chốn lại bất được một tin mừng khác là sẽ mục kiến tại chỗ một buổi lễ tế chư vị tiên đế, vì bữa nay đúng là ngày thanh minh. Lễ do chánh phủ ra lịnh tổ chức và do phủ Tôn nhơn cử hành. Đây là một dịp hiếm có, mừng thầm để xem ngoài này tế lễ ra thế nào, chắc là trịnh trọng lắm; ngờ đâu xem được rồi lại càng thất vọng, buồn tủi cho các liệt thánh, các vua cũ nhà Nguyễn.
Theo tôi, thà chánh phủ nhà Ngô nên bỏ qua đừng nhắc đến, còn hơn là sai làm lấy có. Khéo bày đặt một lễ tạm bợ, thiếu nhiệt tâm nhiệt thành. Đám cúng giỗ các vua trước, từ Gia Long đến Tự Đức, thế mà lộn xộn còn thua đám ma nhà héo trong Nam. Chúng tôi đang đi và nói cười dưới núi, vừa bước chân lên vòng lăng. Tôi đang đứng than thở trước cảnh voi đá gãy vòi, ngựa đá sứt tai, con nầy mất đầu, ngựa kia gãy đuôi, và hình đá các công thần, ông mất gươm, ông khác đầu lìa khỏi cổ lăn nằm dưới chân bên đôi hia gãy mũi, có vài ông còn nguyên vẹn thì chạm trổ không cân xứng, phần nhiều thân hình nhỏ bé, còn đầu thì quá to, tỏ ra nghệ thuật đời Cao hoàng kém thua nghệ thuật Chiêm Thành và Cao Miên, duy không hiểu có phải vì ẩn ý tạc tượng nhỏ để ngụ ý chỉ có ông vua nằm đó là lớn? Vì câu nệ nghi thức cổ hủ, nên mỹ thuật đi đời nhà ma, thuở nay mả vôi hạng nhà giàu trong Nam đến thằng lùn chun qua không lọt cái cửa thấp lè tè, cũng là vì bởi!
Nếu có được một chút đắc thể là trải bao tuế nguyệt nay tượng đã rêu phong meo mốc và tuy bằng đá nhưng vẻ mặt ông nào cũng có dáng tiều tuỵ rầu rầu phải chăng đá cũng biết buồn cho cuộc phế hưng thời đại. Đang đứng nghĩ ngợi, bỗng nghe tiếng chuông tiếng trống đánh dồn: tiếng kèn, tiếng thanh la inh ỏi tôi lật đật bước săn lên chánh điện để kịp xem hành lễ cúng Thanh Minh. Từ dưới dốc leo lên, ngước mặt thấy trước tiên bốn cái lọng vàng gió đưa và cờ xí tung bay phấp phới, lòng tôi rộn rực và khiếp phục, nhưng khi đến gần thì đây là một cảnh xốn mắt làm sao. Thuở nay lư hương thờ các tiên đế, lại lấy tô rồng năng móng cắm nhang vào, thôi cũng châm chế được đi. Nhưng tại sao nơi bàn hương án, tấm quân bàn và tấm lá chấn thêu vẫn không có và thay vào đó, là mấy tấm vải Tây đỏ tạm bợ, “chửi” mấy tô Nội Phủ lư nhang, và cảnh xem tang thương não lòng làm sao.
Tội nghiệp hơn nữa, là năm ấy vừa xảy ra một trận bão lụt lớn, và để tránh ngập nước, các chưa bàn đều kê gạch vụn, vừa xấu xí, vừa không xứng nghi thức tế thờ vua chúa chút nào.
Nghĩ cho các vua là vua mất nước, đây là lễ của người ta gắng gượng “thí” cho, nên có khác. Nhưng vong hồn các vua hưởng sao vô? Chủ đứng tế, là tộc trưởng trong tôn nhơn phủ. Như vậy cách lựa người đã xứng đáng lắm. Ngặt thay người ấy lại là người theo Jésus. Vì đã theo đạo Gia-tô, nên ông nầy, tuy cháu mấy đổi của đức cao hoàng, lại từ chối không chịu lạy trước bàn thờ tổ tiên theo lễ Khổng Mạnh dạy. Người ta đón tiếp phái đoàn văn khoa Sài Gòn, niềm nở đưa chúng tôi vào chỗ tế, rồi nghĩ sao ông dạy qua nói tiếng bơ với cha L, và G. “Lát nữa hai cha xem, tôi không lạy đâu! Lạy người chết trái với đạo của mình mà!”.

Tội nghiệp hai ông linh mục L, và G, khuyên giải cách mấy ông cũng nằng nặc không nghe, bởi ông là người triệt để theo thiên chúa giáo.
Hôm ấy tôi lại thấy trên bàn lễ có để thờ nhiều bài vị, thảy đều sơn son mạ vàng. Đây là ông tộc trưởng nghĩ ra cách dồn các vong linh các tiên đế vào một chỗ để tế cho gọn, quên rằng xưa kia, thể thống nhà vua, không khi nào ngồi ăn chung với một ai. Trong gia đình nghèo cũng vậy, bao giờ cháu con ngồi ăn chung với ông bà? Vả chăng mỗi vua có mỗi lăng, và mỗi chỗ nên có một cuộc tế khác biệt, nay tế một chỗ, các hồn vua cháu vua con nào dám cùng mâm đối toạ với vua tổ vua cha, rắc rối vậy thay, và các vong tiên đế phải một bữa nghẹn ngào tụ hội hưởng nhậm ăn nuốt sao vô? Nghĩ mà xót xa giùm. Tội lắm, ngheo ông tộc trưởng Tôn nhơn phủ?
Tôi thấy có tất cả ba bàn thờ, trên mỗi bàn cồ đặt nhiều bài vị. Ông tộc trưởng đã không khứng ra đứng lạy hành lễ, các chi nhánh khác vẫn luân phiên thay nhau ra quỳ lạy đúng phép. Nhưng các người ấy, khi thì rất đông, đến trên chục người xúm xít đứng chật một chiếu lễ, khi thì lải rải chỉ có năm ba ngoe, lạy lưa thưa trên một chiếc chiếu trải bên tả hoặc bên hữu chiếu giữa. Tôi không hiểu rành, nên hỏi nhờ một cụ Ưng..., đứng bên cạnh tôi (cụ làm việc nơi viện Văn hoá Huế). Cụ dạy nhỏ: “Đông người hay ít là tuỳ theo dòng lớn nhỏ, tuỳ thế hệ, tỷ dụ thế hệ “Ưng” nay đã ít ỏi nên lưa thưa, thế hệ “Bửu” còn trẻ tuổi nên nhiều và đông hơn. Vả lại khi tốp nầy lạy bên tả, tốp khác lạy bên hữu, là tuỳ theo chi nhánh, lạy ông bà của dòng mình, còn ông bà dòng khác thì đã có dòng khác lạy”.
Đến lượt một nhóm ra đứng hành lễ, thấy có một vị chít khăn chữ “Nhứt”, mặc áo dài rộng kết nút ngà, xem phải thế lắm, nhưng nhìn kỹ thấy ông vận quần “bi-ra-ma” (pyjama) sọc dưa lằn xanh lằn trắng là thứ y phục vận khi ngủ khi ở tư thất của Tây u, tôi không nhịn được, day qua hỏi cụ Ưng, cụ lấy cùi chỏ thúc tôi và đáp giọng bực tức: “Hỏi làm chi? Cái quần cúng lễ, nó đã bán ăn rồi!”.
Nhờ dự lễ nầy, lần thứ nhứt trong đời tôi, tôi có dịp hớp một chung trà “ngự tứ ướp sen”, nhưng vua chúa đâu còn? Hương trà vẫn thơm hơn các thứ trà đã nếm, nhưng hưởng chốn nầy, khi ngôi vua đã sụp đổ từ lâu, dẫu thơm cách mấy, hương trà không còn ngon như chầu trước. Dòm lại mình, thấy ăn vận lủn củn trong bộ áo ngắn cụt tay, lại tự hổ thầm, ngày xưa được uống trà vua, phải quỳ lạ y và áo khăn chỉnh tề đâu có như vầy? Và sự đổi đời, giá trị chữ Tự do, là như thế hay sao? Được cái nầy mất cái kia là vậy.
Nghe nói giống sen nầy lấy giống tự bên Trung Quốc, và khi xưa, hột sen hái nơi hồ lăng Thiên Thọ, luôn luôn phải dành cung tiến nội cung. Bông sen cũng lớn đoá và hương thơm hơn các giống sen khác. Và cũng nhờ có mặt hôm nay tại buổi lễ nầy mà tôi hiểu lễ xưa nhà vua “ban thịt tợ” ra sao. Nhơn buổi lễ tế, tôi để ý nơi gian nhà sau chỗ tế, thấy đang đứng ngồi lóng nhóng từ buổi sáng sớm một nhóm rất đông, có người sồn sồn, có kẻ đã già sụm, nhưng toàn nhẵn nhụi ông nào như ông nấy cằm mép không một sợi râu, và thảy đều mắc áo dài rộng màu lam dợt, da trời. Đó là mấy quan thị xưa, các vị thái giám, nội giám của triều đại cũ nay còn sống sót. Một lát nữa, khi lễ tất, các vị nầy sẽ khiêng ba con tam sênh (tam sanh) vào đây, rồi sả nó ra từng miếng lớn miếng nhỏ và tuỳ phẩm trật, tuỳ địa vị, sẽ phân phát chia sớt, trước cho các ông các cụ dòng hoàng tộc, sau cho các ông giám nầy cùng hưởng “Miếng thịt làng hơn sàng thịt chợ”. Không chi đó cũng là bổng lộc hoàng ân, và ban thịt tợ chầu xưa làm tạm ắt như thế nầy. Đây là thịt kiếng các tiên đế trước. Nhưng nói ra thì thẹn, và xin nói nhỏ đủ nghe:
- Con heo quay, đã nhỏ vóc lại ốm tong, da lợt lạt vàng mét, thật không bằng con heo hàng, con heo quay treo nơi sạp một anh Chệc Chợ Cũ Sài Gòn.
- Con dê luộc, da tải mét, có chỗ cạo chưa sạch lông, không ngon mắt chút nào!
- Con bê thui, vì làm hối hả, từ lúc nào, để đến hôm nay, đã có mùi. Bê thui trở mùi, ăn nín thở, thì ăn sao vô?
Ngó kỹ ba bàn thờ, thì than ôi ông trưởng tộc Tôn Nhơn Phủ đã quên mất bổn phận. Bổn phận của ông, do chánh phủ cắt sai, là đến đây hành lễ dâng hương cúng ông bà ông vải của ông, và cúng theo đạo Nho do ông bà để lại. Như ông muốn giữ chính đạo Giatô và vì ông là công giáo, thì ông nên từ khước. Bằng ông đã đại diện chánh phủ, thì đến đây lễ buộc ông phải khấn vái và lạy theo cổ tục ông đã không làm như vậy, tức ông mang tội với vong linh người chết và cũng mang tội với người sống. Nếu ông a dua tân trào, ông hành lễ miễn cương, gắng gượng, không ai khen ông đâu, lương tâm ông sẽ xét xử và sau nầy lịch sử sẽ phê phán ông.
Vua khi xưa, ăn mâm lớn cỗ đầy và ăn một mình một mâm. Không ăn thì hồn có đói chăng? Chớ ăn như vậy thì tủi. Người sống thấy còn khó chịu thay. Tôi không trả lời được. Ông sẽ đọc mấy hàng nầy không? Ông là dòng dõi vua, cháu chắt đức Gia Long, không thì cũng xa gần cháu con các vua khác. Nay ông dồn bài vị các vua cũ làm một chỗ, ông không lạy, theo tôi, ông có lỗi lớn với tổ tiên ông.
Ngó lại các hoàng hàng phái có mặt tại buổi lễ. Nhớ lại, vị nào có danh phận lớn, địa vị cao, bề thế rộng, hoặc có tiền trong túi, thì đã cao chạy xa bay, hoặc ở Paris, hay nơi ngoại quốc khác, không nữa cũng đã vào Sài Gòn. Còn lại ở Huế đô, người có máu mặt thì viện cớ nầy cớ khác, ở lại nhà hành lễ tại gia. Những người hiện diện hôm nay ở đây, hoặc vì phận sự bắt buộc, hoặc vì không nỡ bỏ ông bà nên phải đến dự, kỳ dư, như tôi thấy, bây giờ tôi mới hiểu vì sao các ông hoàng có mặt, không ông nào giống ông nào, như đã nói nơi đoạn trước.
Ở lăng Gia Long về, nhờ xuôi con nước nên tàu chạy mau, tới viện Đại Học, trời còn sớm chán. Ngó đồng hồ thấy điểm mười lăm giờ. Tôi lật đật gọi xích lô nhờ đạp lên hồ ông Hoàng Mười, đường Võ Tánh, tìm thăm Cụ ấm Tư Lưu Đình Tiễn. Để tỏ tình sơ giao. Cụ ấm biếu tôi một ấm Mạnh Thần, nhỏ và đẹp như loại ấm Cổ Nguyệt Hiên. Từ chối cách nào cũng không được. Té ra lòng tốt của tôi, đổ đường thăm bạn cố tri, lại hoá ra vì bụng tham vì ích kỷ. Đến để xin ấm trà, một ấm trà quý không dễ gì tìm! Lòng tham chỉ biết nhận, mới là xấu hổ hơn nữa?
23: Buổi tiếp xúc với ông Ngô Đình Cẩn.
Ngày 6 tháng 4. Bữa nay chúa nhật, phái đoàn được thong thả trọn buổi sáng. Tôi rủ giáo sư Hoạch và Thẩm qua phố Gia Hội. Ông Hoạch gặp gánh bún riêu bán dạo, thèm món nầy từ lâu nên gọi một tô và đứng ăn ngoài đường bất chấp người thấy. Trong khi ấy tôi ghé nhà buôn đồ đồng góc đường nơi đầu cầu và trả mua được một lò hương (hương lô) có quai xách và một siêu đồng để nấu nước pha trà, hai món nầy giá 350$ và 90$, cả thảy là 440$, sau có người ở Sài Gòn nài mãi nên tôi đã bán. Buổi trưa, Hoạch và Thẩm, và tôi, bỏ bữa cơm của ông viện trưởng, nhảy dù đi ăn bánh khoái khỏi cầu Đông Ba đường Võ Tánh, đúng là ngon và lạ miệng. Nhưng khi trở về chỗ trọ thì hết khoái, vì có lịnh dặn chiều nầy không được đi đâu, và phải túc trực vào 17 giờ, y phục phải cho đúng đắn và phải cho đủ mặt để đi chào ông Cố! Cố đây là cố vấn Ngô Đình Cẩn, Cậu út Trầu xứ Huế, cục cưng của triều đình nhà Ngô danh gọi cố Trầu. Và bữa ra mắt ông Cố vấn nầy mới là đáng kể, mấy trang viết từ trước chỉ là để có món tiền nhuận bút của tạp chí Bách Khoa của anh Lê Ngộ Châu. Tuy nói rằng đủ mặt, nhưng trong phái đoàn có hai linh mục dòng Tên và một bà đầm gốc Nga, lẽ đáng phải có mặt, nhưng đoàn viện cớ xin ba người ở lại nhà đừng đi. “Chúng tôi không chừng có bàn đến quốc sự cơ mật” - kỳ trung, ông cố vấn ghét Tây và không biết tiếng Tây, nên không khứng tiếp, và báo hại ông viện trưởng phải một phen nói láo. Trước tiên, ghé nhà ông viện trưởng, ba đứa tôi cám ơn người đã tất tình và đã lo lắng cho cả đoàn mọi việc từ miếng ăn đến chốn ngủ. Ngồi nơi xa-lông của ông Cao Văn Luận, anh Doãn Quốc Sỹ ham làm tàng, xin hút nhờ một điếu thuốc lào, vì thấy bình điếu tuy bằng gốc tre nhưng có viền bạc khéo xem rất mỹ thuật không dè tuổi trẻ láu táu, vừa kéo một hơi là sặc sụa, ho có dây, ai nấy đều cười lên ruột.
Cặp mắt viện trưởng long lanh dưới đôi nhỡn kính trắng. Ông Lâm dường rất thân với viện trường và xưng hô “con” ngọt. Đồng hồ điểm quá 17 giờ, xe ca-miông chúng tôi mới đến trước cổng nhà ông Cố vấn ở Phú Cam, nguyên là nhà cũ của cụ cố Ngô Đình Khả để lại. Ông Cẩn rất có hiếu với mẹ, nên mặc dầu thay bực đổi ngôi, nhưng mẹ ở đâu con ở đó. Vả lại tánh bà cụ cưng con út nhiều cho nên nay giang san trong tay, “phú hữu tứ hải”, bà cụ và cố vấn, ưng thủ cựu thành Phú Cam hơn là điện ngọc lầu son chốn khác. Xe ngừng cửa ngoài, có người vào báo. Ông Cẩn mở hé cửa hông ló đầu ra, liếc thấy chúng tôi độ mười lăm mười sáu người, vội ập cửa lại, miệng la lớn: “Chu choa! Đi đâu mà đông rứa! Ai có đủ cho mà ăn?”. Đoạn ông mời riêng ông viện trường bước vào sân trong, hai người to nhỏ với nhau, kế ông viện trưởng bước ra, dặn khéo chúng tôi hãy đi bách bộ giây lát để ông cố vấn có thì giờ xếp đặt cuộc tiếp kiến. Lối nửa giờ sau, ông cố bổn thân ra mời, và khi cho khách vào, không hiểu vì ý gì, ông không mở cửa cái và chỉ mở cửa hông và cho chúng tôi lách mình vào từng người một. Trong khi chúng tôi đều mặc đại lễ đại phục, nơ, cà-ra-oách đàng hoàng, chính tôi chật vật lắm mới mượn được một cà-vẹt đen dư dùng của lão Thẩm, trong khi ấy ông Cẩn mặc một bộ đồ lụa lèo, kiểu “xá-xẩu” cắt may như kiểu áo bọn lính mật thám thời Pháp thuộc, chưn mang đôi giày da láng đen kiểu đi ban (escarpin).
Ông đứng hiêu hiêu tự đắc chờ ông Cao Văn Luận, giới thiệu từng người, rồi ông mới bắt tay chào. Nói thật, tôi lúc ấy chưa biết cái oai của ông cố vấn. Tôi thuở nay vẫn tôi là tôi, tôi kiếm chuyện cũng không hề bợ đỡ ai. Tôi lại có cái tật lấc khấc, cứ tưởng người ta cũng như mình, tóm lại tuy có tuổi nhưng tôi vẫn làm như “ngựa con chưa từng gặp khái”. Tuy ông Cẩn, năm 1958, đã ở ngôi cố vấn của anh mình từ bốn năm nay, từ 1954, nhưng nói chí tình, ông chưa hách lắm như mấy năm sau nầy. Ông Cẩn vừa bắt tay mọi người, vừa nói chuyện không thôi với ông Cao Văn Luận. Tôi mới là dại cho chớ! Đến phiên tôi chào, tôi vừa bắt tay ông Cẩn, miệng vừa dứt một câu chuyện kháo với một sinh viên. Tôi bước tới nắm tay ông và gặc thật mạnh, bất ngờ tay áo của ông bật lên và lòi ra một chiếc vòng bằng vàng thật lớn lủng lẳng khuất trong tay áo, nên nãy giờ không ai thấy. Tôi giựt mình và thầm tự trách mình đã quá trớn, cũng may ông Cẩn không nói gì, duy tôi còn nhớ tay ông mềm mại khác thường và no tròn như bàn tay một người đàn bà ăn không ngồi rồi, hoặc nói theo giọng thầy tướng, như bàn tay một người phúc hậu, giàu sang sung sướng mãn đời khỏi lo. Chiếc vòng ông đeo đang làm cho tôi lưỡng lự phân vân, thì ông đã buông tay tôi để bắt qua lay người kế tiếp. Cùng một lúc tôi bước vô trong và cũng vừa lấy tay gãi mũi, thoạt nghe thoảng qua tĩ quan rõ ràng là một mùi “nị”, một mùi Chà, một mùi hương lâng lâng nửa như trầm hương, nửa như nước hoa của bọn thầy phù thuỷ Xiêm-Miên, hay Ấn Độ quen dùng. Lạ quá! Người gì đeo vàng như gái, lại xức dầu thơm!
Bàn tiệc vẫn đặt chưa xong, khách vào trong vẫn đứng tần ngần lóng ngóng. Ông Cẩn mời chúng tôi đi một vòng với ông trong vườn, để tiệc được sắp xếp an bài. Nhà họ Ngô Đình, lớp xưa như thế nào, chưa biết được. Chớ cảnh Ngô gia trang (nên gọi đây là Vương phủ chưa), năm 1958, lúc tôi được biết, cũng là lạ lùng lắm: Vuông nhà chính, mái lợp tranh, có lẽ là nhà tổ phụ từ ông Khả để lại sao thì nay giữ y không đổi. Đứng ngoài sân dòm theo cửa sổ, thấy bên trong lót nhiều bộ ván gỗ, và sao nhiều thế? Thứ ván hai, tức hai tấm cỡ chín tấc bề ngang, ba thước, ba thước hai bề dài và hơn một tấc bề dày, lót làm một bộ ván mỗi bộ, mặt bóng lưỡng, dường như mỗi ngày mỗi đánh bóng lau giồi nên lên nước đỏ au láng trơn thấy mặt. Ván nầy do ông bà để lại hay vừa sung công đây đó đem về và để chật nhà làm vầy? Tôi lại thấy rất nhiều người chạy lăn xăn trong nhà, mặc áo dài xanh, chân đi đất không guốc dép, vì đứng xa nên không rõ những người nầy nam hay nữ, đàn bà hay nội thị không râu nay lạc mất vua theo chầu ông cố, hoặc nữa đây là hầu thiếp tôi tớ tay sai. Thảy đều sồn sồn, không người nào trẻ. Chung quanh bốn góc nhà nầy có dựng bốn cái nhà canh lô-cốt cao cẳng, đây có lẽ là bốn tháp canh mới xây cất gần đây, kiên cố lấm vì làm bằng bê tông cốt sắt, nhưng ông cố Trầu mới vọc vạch học chơi đồ cổ mà không có chút hiểu biết gì về chiến thuật học, nên bốn cái tháp canh nầy, phần trên giống giống cái bồn chứa nước của các xi-tẹt nhà Tây miền Nam, có thang sắt leo lên, còn khúc giữa biến thành lồng lớn, ông nuôi một con thượng cầm, và sát dưới đất có một chuồng khác, ông nuôi một con hạ thú. Ông Cẩn không nói ra nhưng muốn địch thể với Sài Gòn, lập riêng một vườn bách thú, vừa nuôi chim lạ thú lạ, như voi có, cọp có, ngựa có mà cũng có chim lớn con như nhan sen, già đãy v.v... Một điều đến nay tôi không cắt nghĩa được là hôm ấy chính mắt tôi thấy ông Cẩn gọi một con hổ con lại gần lưới chuồng, ông đưa mồi cho hổ ăn, một tay ông vuốt đầu nó như ta vuốt đầu mèo. Ông có ma lực gì? Trong buổi chiều hôm ấy, Hoạch và tôi bị ông sửa lưng nặng. Trong khi ông mắc bận cho cọp ăn mồi, bỗng giáo sư Hoạch đưa vài cô nữ sinh đến gần và cắt nghĩa: “Đây là hổ, hổ ăn thịt”. Nói chưa hết câu, bỗng nghe có tiếng Cố gắt thật lớn: “Hừ? Hổ nào ăn thịt? Người ta đâu có tiền nhiều mà mua thịt cho hổ ăn? Hổ nó ăn cơm!”. Chúng tôi ai nấy đều nghẹt thở khi nghe Cố giải thích làm vậy riêng tôi rất khoái thầm khi thấy một ông giáo sư đi học bên Tây về, bị Cố dạy đời, Hoạch thấy tôi che miệng cười, Hoạch oán tôi mà tôi không hay biết và lát nữa anh em cô bác sẽ biết cách trả thù của Hoạch. Nghe Cố giảng bài bác vật học xong, mỗi người tản lạc đi xem chỗ nào mình thích. Bỗng một nữ sinh kêu gọi tôi giựt dội: “Thầy ơi thầy? Lại đây thà xem con chim gì dữ quá, nó mới nuốt sống một con chim bồ câu đây nè?”. Tôi bước đến gần lồng, nhìn kỹ con chim và làm tàng, nói lớn, cắt nghĩa vừa cho cô nữ sinh và cả nhóm nghe: “Đó là con chim Pháp gọi marabout. Trong Nam, thấy nó có cái đãy dưới cổ để đựng cá tép đem về cho con, nên gọi con già đáy, nơi khác thấy nó đầu trụi lủi không còn một sợi lông nào nên đặt tên nó là “con già sói”. Vừa đến đó bỗng nghe sau lưng có tiếng “Hừ! Hừ” y như lúc nãy, vừa day lại thì thấy Cố Trầu. Ông hừ tôi rồi nói: “Nói tầm bậy! Đó là chim ông Lão, biết chưa?”. Tôi nín thinh chịu trận, nhưng trong bụng thấy tức mà không dám phản đối. Tôi đưa cô nữ sinh qua chỗ khác và để gỡ xấu, tôi nói nho nhỏ đủ cho cháu ấy nghe: “Cố nói khi nãy thầy không dám cãi. Vì ở Huế gần vua chúa, nên dân ở đây lễ phép quá độ, như vậy mà còn nay rầy mai phạt. Thấy già mà không dám dùng chữ già và bởi huý nên dùng chữ lão. Lão hay già cũng vậy. Một đàng thích nói chữ, một đàng ưa dùng nôm. Bọn ta, người trong Nam, không có vua từ lâu, nên mạnh miệng: hễ chim sói và già thì gọi chim già sói, thấy nó có đeo cái đãy thì gọi con già đãy cho vui vui, kỳ trung không có ý gì thất lễ. Nhưng cháu giữ đấy, Cố nghe e khó cho thầy”.
Quan khách đi một vòng giáp khu vườn và đang đứng xem một con voi nhỏ ăn mía cây thì có người lại báo tin tiệc dọn đã xong, nên Cố mời chúng tôi trở lại nhập tiệc. Nghĩ cho ông Cố nầy cũng thường thật. Mời chúng tôi tới nhà mà không cho chúng tôi vào nhà. Bàn tiệc đặt trước đại môn, nơi sân rộng có trồng lan chậu và lan treo (phong lan), lúc ấy đang trổ bông, hương đưa phảng phất.

Trong lúc các anh em đưa nhau tìm chỗ ngồi, thì cái tật tôi không chừa và tôi còn lục đục mảng nhìn một con cọp từ xa đứng trấn góc vườn, trong cảnh nhá nhem gần tối. Mới thoạt trông thấy hình dáng một con cọp to lớn đen đen, ngồi chồm chỗm hai tay trước chống xuống đất, xấu xí và không được khéo lấm, không ra vẻ cọp thiệt, cũng không oai nghi mỹ thuật chút nào trong bụng có ý khinh thầm và nói trong bụng: “Cọp dồn trấu xứ nầy làm dở quá, chưa được tinh xảo như trong Sài Gòn? Đến chừng tôi lại gần xem kỹ, tôi hết sức kinh ngạc, vì không phải cọp dồn trấu mà kỳ thật đó là một hòn đá cuội kinh niên hình dáng rõ ràng là một con hổ chực mồi, và như thế đây là một vật thiên tạo kỳ quái không đâu có. Hổ đá nầy, nghe đâu, Cố đã chọt trong Đại Nội nhà vua, Cố ưng ý từ thuở nào nên xúi bọn nịnh nhắm mắt cho tụi nó rinh về đây, biến vườn cố làm ngự viên, và báo hại thạch hổ thôi chầu vua về chầu Cố vấn! May thay khách ngồi bàn còn chừa cho tôi một ghế đặc biệt, là để tôi ngồi cách Cố ba ghế khác đều có giáo sư ngồi. Cố ngồi đầu bàn đưa lưng vào nhà, đầu kia ông viện trưởng Cao Văn Luận ngồi, mặt ngó vô nhà. Tôi ngồi bên phải của Cố, tức ngồi bên tay trái ông viện trưởng; và như vậy tôi ngồi ở khóm giữa, và bao nhiêu sinh viên nam và nữ, chia nhau ngồi các ghế còn lại. Tôi sẵn đói và khát từ ban chiều nay thấy trước mặt một ly bia lạnh mát là tôi không nhịn được, cứ việc hớp và ngà ngà lúc nào không hay? Trong nhà dọn ra để trước mặt mỗi vị quan khách một chén lớn bánh canh tôm, thịt và cua. Tôi sớn sác lấy muỗng múc một muỗng đầy đưa vào miệng, nhưng mùi tanh của tôm không mấy được tươi và mùi bánh canh nửa lạnh nửa nong nóng bắt tôi rùng mình, muốn ói ra. Tôi cúi gầm đầu xuống bên tay phải, định lén nhổ xuống đất giống gì nhờn nhờn ngậm lo trong miệng, bỗng tôi đánh thót giựt mình vì sát bên tôi có một con chó bẹt-rê a-lơ-măng (chó ngao Đức) to lớn, lưng đen hông vàng, cặp mắt sáng quắc, le lưỡi thè lè canh tôi nãy giờ. Tôi lật đật day đầu qua tay trái, cũng định nhả phứt cái gì đang ngậm xuống đất, nhưng chưa kịp nhả thì tôi thấy một con chó danois ngồi chồm hổm cách tôi không xa, và con chó nầy đầu chần vần trông còn dữ tợn bằng mấy con bẹt-rê kia nữa. Nguy quá tôi không còn dám nhúc nhích cụ cựa gì được. Triết lý thầy Tàu đã dạy, phải biết “tiên bảo kỳ thân”. Thôi thì, nay nhổ bên ni không được mà nhổ bên tê cũng không xong, bên nào cũng có tài cẩu (đại cẩu) chực hờ ra tay, không nhổ ra được thì chỉ còn một cách an toàn hơn cả là đừng cần biết vật kia tanh hôi đến bực nào và cứ nhắm mắt thủ tiêu nó vào bao tử! Đó là thượng sách! Nếu ực một cái chưa trôi, thì rán ực hai ba cái, chừng nào thứ kia nằm trong bụng thì tức là tai qua nạn khỏi, chớ lúc ấy còn kén lừa còn chê tanh chê hôi, người ngoài biết được thì e khốn khó đến mình! Triết lý là đó! Ngẫm nghĩ tới đó, tôi buông cái muỗng bỏ mứa tô bánh canh và chụp lẹ ly bia thứ nhì, nuốt ực ực một hơi cho sạch miệng. Tôi đang bực mình, bỗng nghe một nữ sinh mời tôi xơi hột vịt lộn:
- Thầy ơi thầy, hột vịt lộn úp mề, ngon quá, thầy! Mời thầy xơi với chúng con?
- Hứ! - tôi trả lời - Ai đời ra đây mà ăn hột vịt lộn bao giờ? Muốn ăn hãy đợi về trong mình mà ăn. Trong Chợ Lớn bán rẻ rề, lại thêm được ở tại nhà, dẫu có chột bụng phá bụng thì cũng ít bần tiện như ở đây. Tuy vậy, lúc ấy tôi đã say nên không giữ lời và nói tiếp, nếu cháu ăn không hết thì cứ dời mấy đĩa hột vịt lại gần đây thầy thủ tiêu cho mà xem!
Lời nói là lời nói chơi, pha lửng với mấy cháu nữ sinh, không dè lọt vào tai ông cố vấn. Ông nghe được, nói tỉnh bơ: “Ăn hết cho về ăn còn ỏ lại!”. Thế là kẹt! Ai biểu? Tôi ngồi làm tỉnh, nhưng trong bụng đánh lô tô từng hồi. Tôi phải nói nhỏ năn nỉ các cô nữ sinh, tội nghiệp thầy, lén dời mấy đĩa hột vịt ra xa, không thì thầy sẽ tử trận hôm nay tại Huế.
Tôi đang ngồi, trong ruột bào chọt vì hai ly bia uống khi bụng trống, tôi liếc thấy mấy đĩa nem ngon lành sắp bên cạnh, tôi vội gắp một chiếc cho vào mồm nhai trệu trạo, bỗng nghe dường như nem nầy khác lạ, sao lại nong nóng.
- Thưa ông, tôi hỏi nhỏ viện trưởng, nem ở đây như vầy hay sao? Tại sao nem lại ấm ấm nóng nóng như vầy?
- À, nem Huế thường người ta phải để cũ thì mới dai giòn, viện trưởng Luận đáp. Nay nem nầy chưa kịp cũ, còn mới quá. Muốn cho nó cũ đi, phải luộc sơ nên nóng.
Bỗng tôi thấy một chàng trai vạm vỡ ra đứng hầu cạnh ông Cố: người nầy mặc bộ âu phục kiểu sọt (short), áo ngắn tay, quần cụt trên gối, để lộ hai nắp tay gân guốc hai vế đùi thịt no tròn cứng rắn, lạ nhứt là khuôn mặt người nầy vuông vuông, xương cằm lớn, chân mày liên mi, dưới cằm tuy cạo nhẵn nhưng còn ló râu mới mọc xanh xanh bó hàm giáp mí, chạy từ quai hàm nầy liền qua mí hàm kia, nhìn lâu quả không phải người Việt chính cống. Sẵn ông viện trưởng nãy giờ tỏ ra có cảm tình với mình, nên tôi đánh bạo hỏi nhỏ ông một câu tiếng Pháp:
- Thưa, hết thảy người ở Huế đều một típ như người nầy hả?
- Không! - Ông đáp nhỏ - Đó là một tên Nhựt!
- Thưa, nếu là Nhựt, sao lại ở trong nhà nầy?
- Vâng, đó là một tên hộ vệ riêng của Cố vấn. Ông dùng tiếng “gác-đờ-co” (garde corps).
Tôi nhìn kỹ lại một lần nữa, quả thấy anh nầy bộ tịch vạm vỡ, xứng đáng là một vệ sĩ đủ sức chống đỡ cho một người sẵn tánh sợ ám sát như Cố Trầu. Kế đó, tôi nghe tiếng ông dõng dạc hô to lên như trên sân khấu hát bội:
- Trẻ tớ! Đem trầu cho ta!
Tôi nghe tiếng dạ rân và tức thì anh hộ vệ Nhựt ban nãy chạy vô nhà trong bưng ra một ô trầu, hai tay dâng lên Cố một cách rất lễ phép, và rất có điệu bộ. Cố thò tay lấy ra một lá trầu, vừa têm vừa cuốn lại gọn gàng, bỏ vào miệng nhai bỏm bẻm rất thành thạo như người quen ăn trầu xỉa thuốc theo lối xưa. Bỗng chút có một anh hộ vệ khác cũng bặm trợn như anh hộ vệ Nhựt nãy giờ, bưng từ trong nhà ra một cái ống phóng thau, chùi bóng thấy mặt, dâng lên cho Cố nhổ trầu. Dâng rồi đứng hầu, uy nghiêm như đứa tớ trung thành thuở vua chúa còn trị vì. Bất giác tôi suy nghĩ thầm: “Mẽ? Lạ quá? Lão nầy là ai? Đực rựa hay bán nam bán nữ, tức là lại cái? Mà lại cái sao được, vì vừa rồi có người nói với mình, lão có tánh ưa ăn vụng, thỉnh thoảng lén lút lão ưa mượn vợ đám nịnh thần chầu rìa. Mỗi lần có mụ nào đến nhà trêu bẹo, dâng cơm sát giường, lão bất dung tha “đá chẳng theo!” Nghe nói tánh lão không thích con gái tân, thiếu chi người muốn gả con cho lão, còn nheo nhẻo mà lão không ưng, dẫu tiên sa phụng lộn, lão cũng không đàng, lão chỉ khoái mượn xài đỡ đàn bà của bọn nịnh thần, vừa tiện lợi khỏi tốn tiền nuôi cơm, vừa là “đất có cày rồi” dễ khai phá! Kiếp trước lão là chim cu, hay tu hú, thích đẻ trứng cho chim khác ấp. Ổ sẵn! Nhưng nghe đâu vỏ quít dày, có móng tay nhọn! Bọn quỷ cái cũng khôn không vừa, được nằm với Cậu thì tha hồ mượn tiền cậu làm vốn, triệu nầy qua triệu kia, (nhưng đó là việc khác). Nghe nói lão con đùm con đề với mụ Luyến. Nhưng tại sao đàn ông đực rựa gì mà tay đeo vòng vàng, thêm xức dầu thơm có mùi thầy Ba Chà, lại biết nhai trầu xỉa thuốc, thật là lạ! Tôi trông mau mãn tiệc về sớm cho khỏe, nào ngờ đại hoạ sắp đến mà không hay. Bỗng không, Hoạch lão giáo sư chưa vợ, ngủ chung hổm rày một phòng với Thẩm và mình, có lẽ lão oán mình dám cười khi Cố dạy “cọp ăn cơm”, nên gây chuyện:
- Thưa Cố vấn, đây là cụ Sển, làm quản thủ Viện bảo tàng ở Sài Gòn. Cụ rất sành về đồ cổ. Như Cố vấn có cần dùng hỏi điều gì thì sẵn sàng đây xin Cố vấn hỏi cho chúng tôi nghe với cho vui.
- Được lắm! - Cố đáp - Trẻ tớ! Đâu nà, vô khênh cái khuông tiền cổ ra đây cho ta nào.
Tôi ngồi chết điếng mà không biết làm sao thoát, vì mình dốt, chữ không đầy lá mít, làm sao đọc chữ trên các tiền cổ cho rành, nói bậy anh em ở đây cười chịu sao nổi. Cũng may, có cô hồn độ mạng. Khi khuông tiền được đưa ra, tôi làm gan bước tới xem, trong lòng mừng khấp khởi, vì đã tìm được lối thoát. Quá trên khuông, tiền sắp không có thứ lớp, thay vì sắp theo niên hiệu các đời vua lại sấp theo cỡ lớn nhỏ, thành thử tuy xem đẹp mắt nhưng lộn xộn năm trước năm sau. Tôi bình tĩnh nói:
- Thưa Cố vấn, khuông nầy có nhiều đồng có giá trị lắm. Tiếc một chút là người sắp tiền chưa rành về sử học, nên sắp chưa được đúng chỗ. Tường nên cho gỡ ra và sắp lại cho có thứ tự thì hay hơn nhiều.
Ngờ đâu nói làm vậy, là tôi tự chôn sống lấy tôi. Cố vấn nhổ cổ trầu và hỏi:
- Sao vậy?
- Vì đây, thưa Cố vấn, đồng tiền nầy - Vừa nói tôi vừa lấy tay chỉ lên khuông tiền - đồng tiền nầy niên hiệu đề Thiệu Trị (1841- 1847) lại nhè sắp lên trên tiền nầy, niên hiệu Minh Mạng (1820-1840). Trái lại, tiền nầy, hiệu Tự Đức (1847-1883) lại sấp trên đồng Gia Long (1802- 1819), con đứng trước cha, cháu trước cố nội, kỳ quá.
Đến đây, giáo sư Hoạch, có lẽ chưa hết hận nên chưa chịu buông tha tôi, Hoạch hỏi tiếp:
- Nãy giờ cụ Sển cắt nghĩa nghe thông quá. Tưởng Cố vấn nên cầm cụ ở lại đây vài ngày, sắp đặt bộ tiền cho có thứ tự rồi sẽ về. Cụ Sển bằng lòng ở lại giúp Cố vấn chứ?
- Thưa Cố vấn - tôi làm tỉnh đáp - đó là lời ông bạn giáo sư muốn nói chơi vậy thôi. Tôi mà chữ nghĩa bao nhiêu. Việc ở lại Huế sấp tiền là việc mọn, tôi rất vui lòng ở lại nếu Cố vấn cần dùng. Nhưng làm như vậy có khác nào ở Cố đô nầy hết nhơn tài, hết người lỗi lạc hơn tôi hay sao? Có lý nào.
Quả thật, câu nói êm xuôi chạm ngay lòng tự ái của Cố. Ông nói lớn:
- Thôi được! Tôi không cần người nào ở lại cả. Ở Huế nầy thiếu chi người hay giỏi. Dẹp tiền vô bây!
Thế là tôi thoát nạn. Hú hồn! Câu chuyện đến đây bắt đầu thấy nguôi, người nào cũng muốn rút lui. Ông trưởng đoàn T.B.L ra dấu hiệu. Một cô nữ sinh, gốc miền Nam, vừa xinh vừa bặt thiệp nhứt trong đoàn, đứng dậy lễ phép nói mấy câu vừa gọn vừa đầy đủ trước cảm tạ lòng chiếu cố của Cố vấn, nhờ đó phái đoàn hưởng được mấy ngày vui chơi học hỏi rất nhiều về Huế đô, sau rốt vừa từ giã để mai nầy lên đường trở về Sài Gòn. Cả bàn tiệc khi ấy đều đứng dậy và tựu lại gần Cố vấn để nghe ban huấn từ. Nhưng tôi nào có nghe được gì ngoài mấy tiếng Cố đô, Cố đô, lặp đi lặp lại không biết đến lần thử mấy. Ông nói không đầu không đuôi rời rạc như bã trầu ông đang nhai, nhưng thật tình, lúc ấy ông tỏ ra rất hảo tâm, vì hứa hẹn phen sau, nếu chúng tôi ra Huế đô, sẽ được dùng xe nhà đi đó đi đây, khỏi nạn “u mê” vì ngồi trên sạp chiếc xe mười bánh. Một lần nữa, và đây là lần chót, chúng tôi bắt tay từ giã Cố vấn, bàn tay mềm mại tốt phúc của một người có một thuở làm lãnh chúa ngoài nầy, hét ra lửa, địt ra khói. Anh em không giận lâu, tôi và Hoạch làm lành, ngủ sớm để mai lên đường về xứ.
Ngày 7 tháng 4 - Sáng bốn giờ đã thức. Năm giờ rưỡi, xe mười bánh nhà binh đến rước, muốn u mê cho u mê luôn. Cũng một lần nầy rồi về đến nhà. Xe cây, không nệm, mỗi lần đường xấu xe dằn, ngó mặt các cô nhứt là bà L., tội nghiệp và quên đau. Lót mấy cái khăn lông lau mặt cũng không thấm tháp. Xe leo lên đỉnh đèo Hải Vân, ngừng lại dòm trời, mây, nước. Lòng thấy lâng lâng ngặt nỗi không biết làm thi. Xe đến Đà Nẵng, trời còn sớm chán.
Trước vào xem Viện bảo tàng đồ cổ tích Chiêm Thành (musée parmentier), rồi lên xe dạo khắp Ngũ Hành Sơn, trở lại Đà Nẵng dùng cơm Tây nơi một tiệm Hải Nam rất vui và ngon miệng. Mười bốn giờ rưỡi, ra phi trường, bay được nửa giờ, máy bay bị gió hút lọt vào một lỗ giữa trời thiếu không khí gọi là trou d air, đang bay bỗng rơi tọt xuống thật thấp, tưởng đà bỏ mạng không còn thấy mặt vợ con. Cánh quạt vẫn quay mà máy cứ rơi, vì thiếu gió. Nào bùn rền lật tốc, nào kiếng đen đeo mắt, nào nón cát hai lão linh mục luôn và người bị hốt lên rồi quăng mạnh xuống nền tàu. May sao máy bay kềm lại vững, và bay tiếp tục, nhưng phải một phen lên ruột. Mười sáu giờ rưỡi, đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhứt.
Về đến nhà, không lo cho thân, lật đật lấy mấy món cổ ngoạn ra xem, mừng quá, không có món nào hầy hấn. Có mấy chiếc nem mỏng như lá lúa và mấy gói mè xửng làm quà cho mẹ con nó mừng. Chuyện ông Cẩn, gói kín, để hôm nay mới thuật (1968). Tuy đó là câu chuyện khảo, như món thịt nguội, nhưng hâm lại vẫn nóng. Năm nay viết lại nữa, cũng còn được ăn, và thì giờ qua mau quá.
“Thuật một chuyện đi săn đồ cổ Huế” đã đăng lần đầu trong Bách Khoa số 275 (15-6-1968) và số 276 (1-7-1968), cũng như bài “Nghiên mực Tức Mặc Hầu của vua Tự Đức” (Bách Khoa 290 -291 số xuân Kỷ dậu 1969) và cũng như bài “Chuyện bảy cây ngọc Như Ý tại Viện bảo tàng Đài Bắc (Bách Khoa số 292 ngày 1-3 -1969) tôi đã viết lại các bài nầy trong ba tập “Khảo về đồ sứ men lam Huế”, nên nay xin miễn chép lại trong tập Hồi ký nầy. Rủi cho ba tập nói trên, tôi viết xong từ năm 1972 nhưng không có người chịu xuất bản. Sau tôi xin được Bộ Giáo dục ưng xuất bản (Nghị định số 223/VHGDTN/VH/KT/NĐ ngày 25-7-1974, tiền nhuận bút 250.000 đồng tôi đã lãnh và ăn tiêu rồi; nhưng về xuất bản cứ diên trì mãi, đầu năm 1975, ba tập bản thảo chạy đến cơ quan Văn hoá và Trung tâm Học liệu (số 240 đường Trần Bình Trọng) rồi kẹt luôn ở đây luôn về gần 200 bức ảnh tài liệu cho đến ngày được giải phóng. Tôi không lãnh ra và vái được thấy xuất bản trước khi tôi lìa đời.
Ngày 21-5-1975
Vương Hồng Sển
24: Viện bảo tàng- Ông Diệm là người thông ngôn
Người quân sĩ, khi ra trận, có khi thắng khi bại. Thành công mới là đáng kể. Người công chức trong chế độ đã qua, nhục vinh lẫn lộn, và không nên quơ đũa cả nắm. Có cái cũ mới có cái mới, vinh là giữ cho đến già được hai chữ “liêm” “cần”; nhục là lén ăn của đút, làm giàu ngang xương, dẫu không ai biết, còn có lương tâm cấn rứt. Công chức ngày xưa, nay nổi mai chìm, nay thơ thới vinh vang, ăn trên ngồi trốc, chẳng may tham nhũng bị bắt tại trận, mất chức ngồi tù, kẻ nào khéo tu, ăn chắc mặc dày là nổi, không khéo tu, thì chìm luôn trong biển ô nhục mạt kiếp cùn căn. Công chức không nên khinh, và đáng thương hơn là đáng ghét.
Làm công chức lớp xưa, khi giữ tròn được bổn phận, gẫm có chỗ sướng: tuy lương ít ỏi, nhưng vẫn có đều đều, nếu biết liệu cơm gắp mắm, thì khỏi lo như bác nhà nông, nai lưng kệch dầm sương dang nắng mà còn lo hạn hán lụt lội nhiều bề; và vẫn sướng nhiều hơn, chú thương gia, mỗi khi tính sai một con toán hay lầm một chuyến bổ hàng, là có thể tán gia bại sản. Người công chức ngày xưa, sống ở giữa chốn thị thành, khi trẩy Bắc ra làm ở Hà Nội, dinh toàn quyền, khi vào Nam tùng sự nơi dinh thống đốc, nếu có lịnh sai xuống tận Cà Mau thì cũng ở chợ làm nơi dinh quận hay toà bố, không sợ muỗi mòng đỉa vắt, và hưởng đủ mọi thứ phong lưu đời trước, tiệc tùng ăn nhậu, và luôn luôn làm việc nơi bàn giấy, có quạt máy mùa hè trong Nam, và có lò hơ mùa giá rét ngoài Bắc, thương gia hạng trung và điền chủ cỡ nhỏ, làm sao sánh bằng anh công chức cỡ lương bảy tám chục đến một trăm đồng mỗi tháng. Không có cảnh “lặn lội eo sèo” như bà Tú năm xưa nuôi chồng cực khổ, và vẫn ung dung với cảnh “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”, nên có nhiều người chỉ trích. Tôi tả oán mấy câu, rao Nam đôi chặp để vào để thuật chuyện hôm nay, tuy vẫn biết “chuyện thằng tôi là đáng ghét” (le moi est haissable).
Tôi hai lần đã “đụng ông Diệm”. Ngày nay nhắc lại ông, nói rằng “tiếc” thì sẽ có người vọt miệng chửi: “tôi phe Tổng Diệm”, bằng nói “ghét” thì thú thật ông không có làm gì cho tôi có ác cảm, và nên ghét là “thằng đã bỏ chạy” ôm mớ tiền vơ vét cạn kho, bay qua Đài Loan, tên ấy tội đáng chết bằng mười bằng trăm. (Nhưng thiên bất dung gian, chuyện còn dài, hạ hồi phân giải).
Nay xin nhắc chuyện cũ về ông Tổng Diệm. Còn ai hách hơn ông, vào khoảng năm 1960? Thời thế đẩy đưa, ông lên như diều gặp gió. Quyền uy suất sá, bạo lực bao trùm từ vĩ tuyến 17 đến tận mũi Cà Mau. Tổng thống đầu tiên của Việt Nam cộng hoà! Câu “hét ra lửa”.., nơi đây nên dùng một nửa, dùng trọn câu, e ông đỏ mặt!
Ấy thế mà bỗng nhiên, một hôm ông làm thông ngôn cho thằng thơ ký quèn ăn lương công nhựt là tôi, vì vậy cho nên tôi đã hạ câu “làm công chức có khi lại sướng hơn ông Tổng thống!”. Câu chuyện đầu đuôi như sau, xin thong thả để tôi tường tận:
Ngày 17-12-1960, Tổng thống Diệm đón tiếp một ông thượng khách Tàu từ Trung Hoa hải đảo trẩy sang. Hai người vốn quen biết nhau từ buổi ông Ngô xách va li lưu vong thiên địa không nhà. Nay vị thượng khách của ông từ ngàn dặm bay qua đất Sài Gòn để mục kích tận mắt cảnh người vong khách không đất cắm dùi nay bỗng nhiên “bì với vua tuy chưa dám xưa “trẫm”, và cả hai đều rạng mặt.
Ông Tổng nhà tôi, bụng phệ, ôm cái thùng nước lèo “hoài bão quốc gia”.
Ông thượng khách, trái hẳn, mình gầy vóc khô, nhưng thanh tân mỹ mạo.
Cắc cớ thay con Tạo, là hai người bất đồng ngôn ngữ, và cây cầu nối tiếp đôi bên là một tuỳ giá quan cao lớn đẫy đà, mỗi lần chủ khách có dịp trao đổi ý kiến, ông nhà tôi nói tiếng Pháp, ông khách sử dụng rặt giọng Bắc Kinh, và cây cầu “thông dịch” phải nghe tiếng Tây, dịch lại tiếng Tàu, giọng Quan thoại, như vậy chủ và khách mới hiểu được nhau, tôi ở giữa bắt buộc làm nhân chứng bất đắc dĩ, và phải nhìn nhận thuở giờ tôi chưa gặp một ông Ba Tàu nào dùng tiếng Pháp đúng giọng Ba-ri-diên (Parisien) và đúng văn phạm như vị tướng quân thòn-xán (Dường sơn) nầy. (Không biết có phải đó là ông Hồ Liên, sau làm đại sứ bên này chăng?).
Còn ai không biết tính ông Diệm, hễ có dịp thì phô trương thanh thế đến tột cùng, cốt cách thượng thơ cũ triều đình Huế, chưa gột sạch: thôi thì tiền hô hậu ủng, nhà có bao nhiêu sai nha nô dịch, ông dắt hết ra đường: đằng đằng sát khí, đứa chó lửa giật lưng, đứa súng sáu treo đùi, mô tô phạch phạch chạy trước, ô tô bóng loáng theo sau, nghe đồn xe nầy ngồi trong không sợ bị ám sát vì kính che gió đạn bắn không lủng, và bánh lốp ổ ong, dẫu nổ không xẹp v.v...
Hôm ấy ông Diệm đưa ông khách đến viếng thảo cầm viên là một nơi thắng cảnh ông ưng ý nhứt trên đất Sài Gòn nầy. Nực cười tuy ông ưng ý, mà có nhiều người không biết ý ông, nên đã làm cho ông nhiều lần bực tức. Nguyên trước cửa vườn thảo cầm, ngay sân tiền của Viện bảo tàng, từ xưa để lại có trồng hai hàng cây “dái ngựa”, tên gọi chướng tai làm vây vì tới mùa trổ trái, trái vẫn tròn tròn mốc mốc y như hai viên hạ đạn của ngựa không khác.

Một hôm ông vào vườn chơi, hỏi tên, ông quản thủ thảo cầm viên tình thật nói ngay, ông đỏ mặt quở rân “tên không thanh” chút nào. Ông quản thủ sợ quá, hội nhân viên chuyên môn và đề nghị đổi lên mới là cây “nhạc ngựa” (nay còn bảng treo), nhưng quên rằng đã xỏ ông Tổng nhà tôi rất nặng, vì bao giờ nhạc ngựa lại treo lủng lẳng dưới đì? Cũng như trong vườn, hoa thơm thú là không thiếu, có cả chim hạc, chim séo biết nhảy múa theo nhạc điệu du dương, nhưng bộ hạ ông đã xỏ ông nữa, khi dâng lên ông một con “bạch tượng” báo điềm lành, mà con tượng bạch nầy da mốc mốc như đau ghẻ lác chớ không bạch chút nào. Và cũng như ở tận mút vườn, gần sở Ba Son, ông ngoại giao khéo lắm mới đổi được với Phi châu hai con giả nhơn, vóc lớn bằng trẻ lên mười, nhưng cớ chi mỗi lần ông mon men đến gần chuồng để viếng thì vẫn làm trò khỉ tục tĩu trước mặt. Nhưng nói sao hết, ông có tánh bẽn lẽn như gái muốn chồng, từ ngày ông ngự trị Miền Nam, ông nghe đầy lỗ tai những danh từ không thanh tỷ dụ như “dây thúi địt” và cây “cặc chó”, v.v. Ông cố tâm đổi ra cho thanh: Blao làm Bảo Lộc, Djiring làm Dĩ Linh, nhưng bộ hạ ông từng đổi “dây thúi địt” làm “dây mơ tam thể” (vì lá nó xanh tím nhiều màu), nhưng đến danh từ “cây cặc chó”, nhân viên đặc trách ăn đã hao mòn mấy quỹ ngân sách tìm chưa ra danh từ thay thế, thì ông đã hồn quy dị lộ.
Nhắc lại, hôm 17-12-1960, ông bổn thân đưa khách quý dạo chơi viện thảo cầm, hai người dạo khắp đó đây mà trời còn sớm quá chưa tới giờ về dinh ngự thiện, ông bỗng nảy ý cùng với khách đến xem một lần cho biết Viện bảo tàng Sài Gòn, mà ông chưa đặt chân đến lần nào. Khổ nỗi ông không cho tôi hay trước mới chết cha một cửa tứ! Thú thật tôi không phải là một nhân viên gương mẫu, và sở trường của tôi, cũng như của bao công chức khác đồng thời là vô làm trễ, đi về sớm, miễn công việc trôi chạy, để bù trừ những lúc làm thêm giờ bất chấp sớm trưa. Cũng may cho tôi bữa đó, dường như linh ứng mách bảo nên vào giờ ấy, hơn mười một giờ rồi, mà tôi vẫn chưa ra về. Như mọi ngày, tôi ăn mặc rất xoàng xĩnh, một bộ xá-xẩu cụt tay bốn túi, và đang cắm cúi viết viết trong văn phòng. Bỗng cửa phòng mở toát nghe một cái rốt. Ông tổng giám đốc cảnh sát, ông Nguyễn Văn Là bằng xương bằng thịt, đứng tần ngần trước mặt, dõng dạc hô to như giữa trận tiền: “Có Tổng thống viếng Viện bảo tàng! Mời giám đốc theo tôi ra rước!”
Thoạt nghe mấy tiếng, tôi quăng viết, ba chân bốn cẳng, vội chạy một hơi bám sát gót ông Là, hồn vía cũng chạy theo. Vả lại Viện bảo tàng vốn rộng thênh thang như nhà lồng chợ, hai tôi bắt từ văn phòng chạy một mạch đến chỗ ông Tổng thống và các quan khách đứng chờ thì đã gần hụt hơi. Lúc ấy đồng hồ điểm mười một giờ rưỡi trưa. Phái đoàn hiện đã qua khỏi cửa đại môn, lướt qua khỏi phòng mỹ thuật Chàm, và đang đứng ngắm nghía chuyện trò nơi phòng mỹ thuật Cơ-me. Ông Diệm vốn có tánh khó, cấm gọi ông bằng Cụ bằng ông, và chỉ ưng gọi ông trống trơ “Tổng thống”. Nhớ được điều đó, tôi đứng thẳng người, ngó ngay mặt ông, cung kính thưa một hơi không kịp thở:
- Kính thưa Tổng thống, Tổng thống đến quá đỗi thình lình, và vì không hay trước nên tôi không kịp mặc đúng lễ, và đã không kịp ra nghinh tiếp Tổng thống tận cửa viện như lòng mong muốn, xin Tổng thống lượng xét cho.
Nói xong câu ấy, biết rằng mình dối lòng mình vì câu nói gượng ép không tự nhiên, tôi đứng trân nín thở, không khác anh binh nhì đứng trước ông tướng ba bốn ngôi sao. Ông Diệm day mặt lại, nhìn tôi từ đầu chí gót, lấy cây ba-ton nhịp nhịp vào sân gạch, tôi lúc ấy cũng trộm nhìn ông, thấy mặt ông tươi rói, hồng hào như bao nhiêu gương mặt kẻ đắc thời ăn no ngủ kỹ, bỗng ông sầm nét mặt lại... Cặp mắt ông dường như muốn xẹt lửa, cặp chân mày đen đậm lông dài và dày khít, bỗng nhíu lại như báo tin một cuộc sấm sét bất ngờ, rồi bỗng tan ra như mây bị gió tạt. Ông day lại ngó vị tân khách, ông nghĩ ngợi về câu tôi tự bào chữa, ông không gật đầu cũng không bắt tay. Ông ngó lại tôi một lần nữa, phen nầy từ gót chi tóc... Tôi đứng thẳng lưng chờ đổ trận lôi đình. Ông không thốt lời nào, thì xin cho tôi suy nghĩ trộm: ông không chào, tôi không lấy làm lạ. Trong bụng tôi xét, giữa ông và tôi, vả chăng giai cấp và quan niệm rất cách biệt. Ông làm Tổng thống, ông nhờ. Tôi sở dĩ vô làm đây là vì vấn đề cơm áo thê nhi, cũng không phải ăn mày của ai mà phải khúm núm. Giữa ông và tôi, xa cách đến quăng mười lăm bã trầu chưa tới, tôi đâu có đèo bòng cái bắt tay chào. Nó có ích lợi no béo gì cho tôi, rủi gặp tay nhớt, tay mồ hôi bịnh phong thấp lại càng thêm gớm. Thà đừng ngoài mặt làm bộ xã giao mơn trớn, rồi lát nữa ông lên mặt chủ, là đủ tôi cám ơn ông nhiều. Tôi đoán chừng ông nhìn thấy tôi ăn mặc quá lèn xèn, ông lấy đó mắc cỡ hộ với ông khách thượng lân: “Nước Việt Nam tiếng rằng giàu có, có một thằng quản thủ Viện bảo tàng quá nghèo hèn!” Hay là đã có người “tâu” lên với ông, lên tôi là thế thế, lỡ Tàu lỡ Việt, rồi không khinh thầm? Ông có tiếng là người thuần tuý, chuộng thích những danh từ cho thật êm tai, những tên ngọt lịm: Chánh Thành hoặc Đình Thuần? Trung Dung? Nhưng Dung lỡ Dung, Thành chẳng Thành, ông giận đứng trước một người có tên xấu xí. Câu tôi vừa thốt là thành thực tạ lỗi, giọng thiết tha thẳng thắn, ông bắt tôi đợi một giây lâu. Sau rốt, cơn chuyển mưa vừa vần vũ kế gió đánh mây bay mất, ông khệ nệ ban cho hai chữ “Thôi được!” rồi ông lê cây gậy cù nèo và nơ cái bụng nước lèo bước tới, hai hàng chân vịt xàng xê, họ Tạ trong tuồng San Hậu! Trong lúc ông xê dịch, sau trước có tiền hô hậu ủng: nào cảnh sát chìm cảnh sát nổi, thám tử, mật quân, chúng bao vây ông chật phòng; trong lúc ấy tôi là quản thủ Viện bảo tàng, đã có mấy ông Phật Miên bằng đá chở che. Nhờ Trời Phật câu nói của tôi ban nãy làm tan cơn sấm sét. Tôi vẫn thấy và phục ông là con người khá, nhơn chi sơ tánh bản thiện; tự nhiên tôi có thiện cảm, càng thương ông sau nầy bị nịnh xỏ mũi mà hư cơ đồ, đến nỗi luỵ thân, (nhưng sau nầy khi đọc công văn thấy anh em ông ẵm bao vàng trên năm chục ký mà ngao ngán bất cứ ai, lòng tham không đáy).
Nhắc lại, hai tiếng ông ban ra “Thôi được!” đã làm cho tôi hoàn hồn, nhưng cũng vì đó, cái tánh châm biếm cũng lót tót trở lại: chứng nào tật nấy! Tôi vừa nối gót theo chân ông, bụng vừa suy nghĩ: “Có đời nào tôi được như hôm nay, đi đứng gần ông chỉ cách không hơn một thước! Mẽ! Lạ nầy? Cớ sao tóc ông để quá dài, không hớt? Ô, tội nghiệp quá, vì ông làm việc quá nhiều, đến không có thì giờ ngồi cho thợ con nó tỉa bớt để tóc tai bùm sùm như đám hippy già. Ủa? Mà ông tuy ăn sung mặc sướng, mà đã có vài sợi tóc bạc mọc dưới gáy đâm lún phún như râu chú giám? Ông đáng thương thật! Thân không vợ không con, sống không đủ thì giờ hớt tóc. Làm Tổng thống coi vậy mà cực quá, có sướng ích gì? Uý nè? Trời hỡi trời? Ông bôn ba hải ngoại mấy năm trời, mà làm sao ai giữ được cho ông, bộ tussor ông mặc, may kiểu áo bốn nút cổ lỗ sĩ, nhưng hàng nầy đúng là tussor đất Nam Định nổi danh. Trời ơi, bộ đồ tussor nầy đã trỗ vàng vì đã quá lâu năm. Cổ vai đã xùi, đúng ông là một người độc thân không ưa đàn bà, thêm thằng đầy tớ quá lập công, không dám giặt thường sợ áo mau mục rách và vì quá o bế, ủi đi ủi lại mãi, ủi thét đến hàng dợn sóng, ủi như vầy giáp sắt cũng tơi sợi bông chỉ, nói gì tussor. Nếu ông hà tiện quá làm vầy, tiền của dư ông làm gì cho hết? Nhưng nói thật, sẽ chết cha hết thảy, chớ bọn công chức chúng tôi làm gì lên lương được với một Tổng thống quá rít róng như ông làm vầy? Tôi mãi theo sau lưng, suy nghĩ lung tung, bỗng ông dừng bước, ngó ngay mặt tôi và chăm bằm nói trống:
- Hãy nói liếng Việt Tôi sẽ dịch lại. Không được dùng ngay tiếng Pháp. Nhớ chứ?
Ông dặn bấy nhiêu lời, tôi dạ một liếng cụt ngủn, nhưng nhỏ nhẹ lễ phép. Trong lòng, tôi mừng còn hơn trúng số độc đắc. Vô tình, ông đưa cán dao cho tôi nắm để ông cầm dao phần lưỡi. Ông giành nghề thông ngôn với tôi, rồi sẽ biết. Thông dịch tiếng Pháp thông thường đã là khó, nay ông sính tài muốn thông dịch danh từ chuyên môn về khoa khảo cổ, tôi sẽ làm cho đổ lửa cho xem. Ông đã khoe tài, tôi chờ dịp trác. Ông là Tổng thống, tôi chẳng qua một thơ ký quèn, ăn lương công nhựt. Ngoài mặt tôi làm tuồng cung cung kính kính, trong thâm tâm tôi trúng tủ, giữ phần ăn chắc như đánh bài cào, ông chín nút, tôi chộ ba Tây? Làm nơi Viện bảo tàng suốt mười mấy năm nay, tôi đã quá cháo chan thông thuộc và biết éo le từng món cổ vật như đồ chơi để trong túi.
Ông Tổng thống đi đến giữa phòng Cổ Cao Miên, đứng lại lấy gậy nhịp nhịp vào một khối đá vuông và to, đầu tròn, đặt ngay trung tâm phòng nầy và hỏi trống:
- Cái chi đây?
- Thưa Tổng thống, viên đá nầy, chữ Phạn gọi linga, tiếng Việt dịch sợ khó nghe.
- Cho phép nói.
- Dạ thưa, đó là cái ngọc hành, đạo Bà-la-môn thờ dương vật làm thần tạo hoá, sanh sanh biến biến, vũ trụ cũng là đó. Phạn tự gọi linga, Pháp giữ y cũng gọi linga, không đổi.
Tôi vừa nói câu nầy, bỗng thấy Tổng thống đỏ mặt nhưng thản nhiên dịch lẹ:
- Đây là hòn đá thiêng của đạo Bà-la-môn, gọi linga, các người biết chứ? (Cesl une pierre sacrée du culte brahmanique, le linga, vous le savez bien?). Rồi ông lật đật xách gậy, lẹ làng bước qua chỗ khác. Tôi chạy theo định giới thiệu ông đứng lại xem một tượng Phật đá ngồi buông thòng hai chân xuống đất theo điệu ngồi Tây phương, không như các tượng Phật khác, ngồi xếp bằng theo điệu tham thiền thường thấy, nhưng ông chưa hết đỏ mặt, giả chước không nghe và vẫn bước tới trước, tự tìm những cổ vật lạ để ngắm xem lấy mình. Tôi thầm phục ông là người có bản lĩnh, không phải bất cứ ai muốn dẫn dắt, “xỏ mũi” ông thế nào ông cũng nghe, đến đây tôi giựt mình, tự xét tốt hơn là phải biết an phận, ông hỏi gì sẽ liệu mà ứng đối, không nên láu táu mà bỏ mạng sa tràng với ông. Nãy giờ tôi mới hiểu thâm ý của Tổng thống, sở dĩ ông bắt buộc tôi nói tiếng Việt cho ông dịch lại tiếng Pháp là đề phòng sợ tôi nói ngay Pháp ngữ rủi có sơ hở lỡ lời, lấy lại không kịp, và như vây là ông cố ý muốn duyệt lại những gì tôi trình bày, liệu cái gì chính đáng ông sẽ dịch, cái gì thừa thãi có hại, ông sẽ bỏ bớt, như vậy ông sẽ làm chủ câu chuyện và giữ được bí mật, quả ông cao thâm lắm và vì tôi còn thấp trí nên khinh thường. Tổng thống thông qua chuyện linga là nhẫn nhịn lắm, xong rồi nu na đi tới trước. Tôi lại có dịp so sánh và cân nhắc các nhân vật hiện diện bữa ấy. Tôi thấy ông khách Tàu, ăn mặc tiêm tất trong một bộ quốc phục vừa sang trọng vừa đúng đắn, mặt mày ông vừa phương phi vừa nghiêm trang, quả ông là một nhân vật phi phàm. Nhưng tôi để ý nhứt là ông tuỳ giá quan, ông nầy mới là một nhân vật đặc biệt. Ông mặc quân phục cấp tướng, rất vừa vặn đúng thời trang, và có lẽ ông ở đất Pháp và học Pháp văn lâu năm lắm cho nên ăn nói văn hoa bóng bảy giọng đúng giọng kinh thành Paris lắm; Còn ông Tổng thống chúng tôi, thật ra tôi không dám khinh thị ông, nhưng nghe ngóng và dò xét buổi tiếp kiến nầy, thì ông sử dụng tiếng Tây cũng không chi đặc sắc, bất quá là bá quốc, ông nói tiếng Pháp y một kiểu với bọn xơ-krê-téc quét bu-rô như tôi, chớ gẫm lại không hơn, và về giọng nói thì Ơ-nam Huế rặt. Hai nhà ngoại giao, kẻ Hoa người Việt, đàm luận cùng nhau coi bộ tương đắc lắm, mà phải cần dùng đến ba cây cầu, cầu Tàu giọng Bắc Kinh, cầu Nam giọng Sài Gòn, (còn chi hân hạnh bằng) và cầu Tây do một ông Huê kiều nối cho liên lạc quả là một buổi tao phùng “ngàn năm một thuở”, và càng nghĩ càng nực cười cho con Tạo khéo trớ trêu. Tôi đang thầm nghĩ tới đó, bỗng ông Tổng thống đứng lại ngay một viên đá dài kê bên vách, hất hàm hỏi:
- Cái gì đây?
- Thưa Tổng thống đó là đặc điểm của tinh thần đạo Phật phái Cổ Cao Miên. Hình đá nầy chạm tích vị thần Indra biến thân hoá làm con voi lớn có ba đầu, hai đầu tả hữu dùng vòi nắm chặt đầu rắn dữ Mãng xà vương, chạm đuôi rắn quấn chắc hai bên đông tây đại hải, rồi dùng phép thần căng thẳng thân con rắn Khổng Lồ ấy hoá ra sợi dây thần thông dài thiên lý, dùng đó toan tát cạn nước biển để tìm cho được vị thuốc trường sanh bất lão, sẽ làm cho con người trắng da dài tóc sống mãi đời đời thiên thu bất diệt. Thưa Tổng thống, Tổng thống để ý xem như viên đá nầy chạm khấc từ thế kỷ thứ X thứ XI, thế mà linh động vô song, và người thợ đá chế tạo, quả tài tình có một. Dưới nét chạm chỗ nầy, thưa đó là mấy con chim ăn bám, bình sanh theo sát người mà đớp bóng bắt mồi, chim no lòng khỏi tốn công tìm bắt, và đây, thưa Tổng thống, đây là thợ đá tạc hình những người còn mê sa vật chất nên phải chết đuối, thân còn lặn hụp giữa khổ ải trầm luân. Như vậy bức đá chạm tuyệt tác nầy tượng trưng xã hội chúng ta, luôn luôn vẫn có bọn ăn bám ở nhờ, luôn luôn có người đắm đuối trong ba đào biển khổ.
Câu viết tuy dài, nhưng lúc nói, tôi nói chậm và rõ ràng từ tiếng, nói tới đâu tôi trộm thấy mặt ông Tổng thống sáng lên, như bao nhiêu bực dọc nãy giờ đã tiêu tan, tôi thấy ông cười cười dường như vui lên, khiến cho tôi thao thao bất tuyệt rán diễn sát nghĩa và giữ đúng tinh thần của người thợ cổ để lại trong phiến đá câm. Sự thật lúc ấy tôi cố đem sở trường học hỏi bấy lâu cố thuyết phục vị tân khách Tàu và ông Tổng thống công giáo nầy rằng đạo giáo miền Nam từ nhiều đời vẫn có truyền thống riêng và vẫn có chứa ẩn nhiều diệu thuật mà những người theo đạo nước khác chưa khám phá được tường tận. Vừa nói tôi vừa nhìn kỹ nét mặt Tổng thống. Tuy lúc ấy ông đang giữa thời kỳ cực thịnh, nhưng mặc dầu tôi không phải nhà tướng gia, nhưng đầu mày cuối mắt, tôi quá thấy dường như có một cái gì đen tối sắp phát hiện. Một, hay là ông đau gan đau thận? Hai, hay là thời vàng son đã xuống dốc lần lần đây? Tôi tự cười thầm không phải thầy coi tướng tại sao vơ vẩn tìm hiểu chuyện đâu đâu. Nhưng tánh tọc mạch khiến tôi nhìn kỹ quả dưới mắt Tổng thống có một nốt ruồi “yểm luỵ” quả trong đời ông luôn luôn có sự lo buồn, nhưng hà cớ mỗi lần chào cờ trong rạp chớp bóng, bác phó nhòm nào đã quá nịnh, nên đã tẩy mất vết ruồi xúi quảy báo điềm nầy.
Tổng thống vui vẻ bước qua phòng Đế Thiên Đế Thích, nhưng đến đây ông khách thân mật lấy tay chỉ một pho tượng Phật bằng gỗ cao trên ba thước dựng sát vách và lấy mắt hỏi Tổng thống.
Ông Tổng thống lấy cây gậy nhịp nhịp dưới sàn gạch hoa, tôi biết ý bước lại gần, ông hất hàm hỏi:
- Phật nầy bằng gỗ gì, làm đời nào?
- Thưa Tổng thống, vị Phật nầy, trước năm đảo chánh 1945 nhà học giả Malleret đem về từ ruộng sâu làng Phong Mỹ ở Đồng Tháp Mười. Phật làm bằng gỗ mù u và có lẽ đã có từ đời Tiền Đế Thiên Tiền Đế Thích, tức đã lâu đời lắm. Gỗ mù u, danh từ chuyên môn La tinh gọi gỗ “Calophyllum inophyllum”.
- Gỗ chi? - Tổng thống cắt ngang lời tôi nói, vì có lẽ ông không biết nên dịch ra làm sao danh từ lạ tai “Calophyllum inophyllum” nầy.
- Dạ thưa, gỗ mù u. - Và để ông dễ hiểu, tôi lật đật nói trớ lại - Thứ gỗ nầy, ở miền Nam mọc nhiều, quả nó tròn làm gáo múc dầu, mủ nó xức ghẻ mau lành lắm.
- Đây là Phật bằng gỗ, - Tổng thống nương lời tôi nói mà dịch lại - Phật bằng gỗ tìm gặp ở Đồng Tháp Mười, xưa gần ngàn năm làm bằng gỗ mù u, thứ gỗ nầy mủ nó dùng trị ghẻ chốc. (Voici un bouddha en bois, trouvé au Tháp Mười, de près de mille ans d âge, fait dans un bois qui s appelle “mù-u”, et dont la résine sert à guérir la gale, là?)
Tổng thống dịch và đưa mắt liếc tôi, tựa hồ nói: “Ta dịch sao, mi không cần biết”.
Thú thật tôi đâu dám bất kính tìm hiểu Tổng thống dịch sát nghĩa hay dịch không sát nghĩa. Tôi cần ông đừng la lối rầy rà tôi là quý, và tôi nói thầm trong bụng: “Ai nói sao, theo mình “ông già nầy” quả là người khá xài được, có thiện chí, nói phải biết nghe, hiềm vì lũ nịnh sàm ngôn quá nhiều nên hư việc”.
Tổng thống và vị tân khách bước qua phòng mỹ thuật Trung Hoa, đến đây tôi mừng được thoát nạn như kẻ tắm sông sắp lội vào bờ, vì đối với một ông Tàu và một ông cựu quan Thượng triều đình Huế, trước mỹ thuật Trung Hoa, tôi nào dám “Ban môn lộng phủ”. Qua tới phòng mỹ thuật Việt Nam, hai ông dừng lại trước một tủ kính, trong có chưng một bức bình phong Pháp lam (cloisonné) xinh xinh, đế làm bằng gỗ trắc quý trổ ra hình chữ “Vương” có vân mây bao trùm, xem khéo lắm.
- Cái ni là cái chi? - Tổng thống hỏi.
- Dạ thưa, đây là bức bình phong Pháp lam của vua Minh Mạng, có bài thi ngự chế.
Ông chống gậy cúi xuống xem, hai người cùng đọc bài thi chữ Hán. Bỗng ông Tổng thống dõng dạc nói:
- Mấy người biết chứ! Các vị tiên vương nước Đại Nam đều là thi sĩ. Đây là một bài ngự chế của ngài Minh Mạng đó. (Vous savez que les anciens Empereurs du Đại Nam étaient tous des poètes. Voici une poésie écrite de la min de lempereur Minh Mạng.Voi là).
Cắt nghĩa xong, Tổng thống đưa khách qua phòng mỹ thuật Ốc Eo, không ngó vật nào, và ông bước đi thoăn thoắt, không cần biết đến ai, tay xách gậy ngoe nguẩy bước ra Đại môn, bọn tuỳ tùng ráp lại tiền hô hậu ủng và tôi thoát nạn. Vị tân khách Tàu nán lại day qua tôi, nói một tràng tiếng Quan thoại, trong xâu dài dọc tôi chỉ hiểu được hai tiếng “tố chè” (đa tạ). Ông tướng quân to lớn xiết tay từ giã, niềm nở như bạn quen từ thuở nào.
Tôi tiễn ra cửa, đứng nhìn, khỏe trong lòng như có uống sâm nhung. Phái đoàn lên xe đi mất dạng, tôi còn tần ngần đứng đó suy nghĩ viễn vông. Nhớ lại lúc chín giờ ban mai, có lão Ngô Quang Huy lại kéo đi ăn hủ tíu cá khu Canh Nông, nếu ăn rồi ăn quen như mọi ngày, cút về nhà luôn, không trở vô sớ để tiếp Tổng thống thì ắt là mất chức. Thiệt là phước ông phước cha để lại? Ủa? Mà sao ông Tổng thống ra về, không bắt tay mà cũng không một liếc mắt chào? Á! Mà thôi! Hơi nào phiền trách. Tội nghiệp bây giờ ông đã chết, nhớ ông, vừa có người hù, ông đã bỏ ngôi chạy mất. Chớ chi lão kia sớm biết thân như ông, thì đỡ khổ cho dân biết mấy?
Trở vô lấy xe đạp, đạp về nhà, kim đồng hồ chỉ đúng mười hai giờ rưỡi.
Vừa đạp xe, vừa suy nghĩ: “Cũng chưa phải là thần thánh gì. Vậy mà có đứa vào chầu, khi trở ra, đi thụt lùi làm chi đến bể chậu quý? Lại có thằng nào đó, nịnh thôi là nịnh, bỏ cả cha mẹ ông bà, để xin rửa tội nhập đạo Thiên chúa, rốt cuộc rồi cũng bị cho ra rìa. Còn mình, biết chừng nào được thảnh thơi, khỏi kiếp làm công chức tạm, khỏi chào cờ, khỏi chầu hầu phiền phức? Lại khỏi mỗi thứ hai hát bài “suy tôn”. Ông không nắm tay tôi, mà ông tự làm thông ngôn cho tôi. Còn khoái gì bằng, rán nhớ để viết bài trước khi đậy nắp quan”.
Cuối tháng chạp, y như lệ, xin điện thoại lên phủ Tổng thống, muốn biết quý danh hai vị tân khách viếng Viện bảo tàng để làm tờ phúc trình hằng tháng, trên phủ trả lời “khỏi hài tên làm gì”.
25: Ông Diệm lựa mua đồ sứ cổ
Ngày 15-1-1963 (ngày thứ ba 15 tháng giêng dương lịch, là ngày 20 tháng chạp Nhâm Dần). Vào lúc tám giờ sáng, tôi đang ngồi làm việc trong văn phòng Viện bảo tàng thì có chuông điện thoại reo. Nơi đầu dây, ông Giá, chủ sự phòng vật liệu phủ Tống thống gọi tôi và mời lên trên đó để giảo nghiệm một mớ đồ sứ cổ.
Khi tôi giáp mặt thì ông nói Tổng thống muốn biết ý kiến của tôi về những cổ vật do Tổng thống đã lựa nơi phòng triển lãm báo chí đô thành và do hai nhà buôn Chánh và Trọng trưng bày từ 16-12-1962 đến 12-1-1963 và hiện đã đem về để tạm nơi tầng dưới trong phủ. Ông Giá liền đó đưa tôi vào phòng xem, khi về sở là hết trọn buổi sáng.
Qua buổi chiều, đồng hồ chỉ mười lăm giờ thì có tiếng điện thoại gọi nữa. Chuyến nầy, tôi lên phủ tổng thống là lần thứ hai trong một ngày, gặp lại ông Giá, ông đưa tôi giới thiệu với chánh văn phòng là ông Võ Văn Hải. Tôi được hai người dắt tôi lên phòng tiếp khách rằng hãy chờ khi nào Tổng thống rảnh việc, sẽ cho vào yết kiến. Phòng nầy rất rộng, nguyên là phòng họp của hội đồng tư vấn (conseil privé) của trào Pháp cũ, và với tôi không lạ vì trước kia tôi từng làm việc nơi toà lâu đài nầy, thuở ông Rivoal làm thống đốc Nam Kỳ. Tôi ngồi chưa nóng ghế: thì thấy một người sĩ quan bưng ra để trước mặt tôi một mâm gỗ, trên mâm có bày một hộp thuốc lá 555 vừa khui (vừa mở), chưa dùng điếu nào, kế bên có để sẵn một hộp diêm quẹt cũng mới, thêm có một tách trà thơm khói bốc ngát và một tách cà phê sữa xem ngon mắt lắm.Vị sĩ quan ấy cúi đầu mời tôi “Xin cứ tự tiện” rồi lui ra bỏ tôi lại bơ vơ với bao nhiêu món cám dỗ ấy. Tôi làm cao không động rớ món nào, ngực thì nhảy thình thịch, mắt vẫn liếc, nhìn từ cái bàn cái ghế sang trọng đến màu sơn trên vách, quả không thấy thay đổi nhiều sau cuộc đảo chánh vừa rồi năm 1945. Quả thật không có chi nặng lòng bằng sự chờ đợi. Tôi khó chịu vì ngồi đã lâu mà không ai nói đến mình, trong khi ấy tôi cố nhìn những vật trước mắt đã biến thành cố tri, từ cây đinh cũ nơi chưn bàn, và thấy tiếc tiếc cho tách cà phê, cho tách trà, ở nhà mình không có để uống, mà ở đây đành để cho nguội không người dùng, thiệt là phí phạm. Đôi giày vẹc-ni đen mới; tôi lấy ra “khai trương” bữa nay nhơn dịp ra mắt ông Tổng thống đã bắt đầu làm tê tê mấy đầu ngón chân, nay khởi sự ngứa rần rần mà ở đây là chốn tôn nghiêm làm sao dám cởi giày ra để gãi cho sướng! Chờ mãi đến mười tám giờ, ngồi nhớ tiếc cái cảnh làm việc ở Viện bảo tàng, tuy ăn lương ít, nhưng cũng “làm vua một cõi” và cũng vì ham chút bã vinh hoa ấy mà nay bị hành phạt như vầy.
Bỗng ông Giá mở cửa phòng bước vô nói năm điều bảy chuyện, cho hay Tổng thống quá bận khách có lẽ không liếp được, thôi thì hãy về nhà và dặn kỹ đêm nay đừng đĩ đâu hãy túc trực sẵn, phòng hờ Tổng thống rảnh sẽ cho xe đến rước! Nghe mà chết được trong lòng, không lẽ kêu mình ban đêm để ngủ chung? Huống hồ gì, đêm nay lại được lần thứ nhứt, vợ mua vé tặng xem cải lương gánh Năm Châu, diễn tại rạp Thống Nhứt tuồng “Tây Thi gái nước Việt” mà mình ao ước muốn xem diễn lại. Thôi thì trối kệ, cứ đi xem hát cái đã, rủi mất chức thì cũng đành, chớ không lý bỏ vé vợ mua sẵn để bận đồ lớn ngồi nhà chờ xe Tổng thống. Tuy vậy, ngồi xem diễn tuồng mà lòng đã thất hứng, lát lát liếc ngó chừng phía cửa rạp, chỉ sơ có lịnh đòi.
Nhớ buổi chiều tài xế trên phủ lái xe đưa về, nay thấy ai bước vào bận áo bâu cứng cao cổ cũng tưởng đó là bác tài xế Hiệp. Vãn hát về không ngủ được vì vẫn hồi hộp.
Ngày 16-1-1963 - Buổi sáng đi làm, vô sự. Buổi chiều vững bụng, nên ăn quen vẫn mặc bộ đồ “xườn xám” cho gọn. Dè đâu vừa vô sở, thì điện thoại gọi.., lật đật đạp xe về nhà (lúc ấy nhà ở Vườn Dâu bộ Canh nông, đường Hồng Thập Tự) hối hả thay bộ đồ lớn, trở lại Viện bảo tàng thì vừa kịp có xe lại rước đưa lên phủ.
Phen nầy, trong lúc ngồi chờ, ông Giá đưa một xấp giấy trắng và mời viết vào đó những ý kiến của mình đối với từng món cổ vật bày trong phòng mật viện cũ. Viết thẳng thét trong hai tiếng đồng hồ, được bảy trang chữ bút atomic xanh. Thấy thấm mệt, nên tự thưởng một tách cà phê sữa ngon lành và nốc luôn một tách nước trà. Không làm kiêu nữa, và dại gì của sẵn không dùng? Đúng mười tám giờ, có xe đưa về, không quên dặn đừng ra cửa, e có lịnh đòi, nhưng trọn đêm vô sự, ngủ bằng an.
Ngày 17-1-1963 Nghe theo lời ông Giá dặn hôm qua, nên sáng nầy vận đại phục vô sở, ngồi chờ tới trưa không việc gì. Buổi chiều có giờ dạy nơi Đại Học văn khoa, vừa dạy từ mười bốn giờ rưỡi, đang ngon trớn, kế có lịnh đòi. Lật đật từ giã sinh viên xách cặp bước mau qua phủ, cũng may ở gần cùng một khu. Chưa đi bươn bả theo ngõ tắt, lính kêu mặc lính, vừa đến kịp gặp ông Giá, ông đưa qua phủ, đến ngay phủ nơi phòng có trưng bày cổ vật, chưa kịp mở cửa vào phòng thì có điện thoại gọi giựt dội từ trên lầu ra chỉ thị xuống, dạy ông Giá phải đưa tôi thẳng lên từng thượng, để yết kiến ông Tổng thống, vì ông vừa rảnh tay và hiện chờ tôi tại văn phòng của người. Xin nhắc lại dinh Gia Long, nay Tổng thống lấy đó làm phủ từ ngày ở “điện Toàn quyền cũ” về đây, nguyên là dinh cũ Phó Soái Nam Kỳ và từ năm 1935 đến 1942, tôi từng làm việc ở đây, nên vốn không xa lạ đối với tôi. Chân tôi bước theo bén gót ông Giá, mỗi lần gót giày nện mạnh lên thang gỗ lòng thấy nao nao nhớ lại buổi thanh xuân còn ghi dấu đâu đây. Lên đến từng lầu trên, thì phong cảnh dấu vết cũ không thay đổi chi nhiều, nền gạch bông vẫn bóng láng như xưa, duy trên vách gạch, tấm tranh sơn dầu “cảnh vẽ cột cờ thủ ngữ và cầu tàu tán dóc” (Pháp gọi “poinle des blagueurs”) vì có tánh cách thực dân, nên đã bôi mất dấu, cũng như cảnh vẽ “vườn cao su” nơi sau chỗ ngồi của hai ông Rivoal và Weber độ nào, nay cũng bị tẩy đi cho sạch vết tích chế độ Pháp cũ. Bức vách nầy, như các bức vách khác, nay sơn dầu một màu vàng trứng gà, xem vừa sạch vừa nhã và trang trọng tinh khiết hơn xưa. Tôi bước tới trước cửa văn phòng, dòm vô trong thấy ông Ngô Đình Diệm, mặc bộ u-oe túc xo, ngồi chễm chệ trong một chiếc ghế bành bọc da thật lớn và mới toanh, hai tay ông đặt ngay thẳng trên chỗ dựa y như một tượng gỗ, còn hai mắt ông thì ngó thẳng vào cửa chỗ tôi đang đứng. Tôi thủ lễ, đứng thẳng người, đầu cúi miệng thưa lễ phép “Kính chào Tổng thống”. Ông gật đầu, xem bộ hiền lành, tôi nghe ông thốt hai tiếng “Mời ngồi” mà không nghe rõ mời ai, cụ, ông hay là mấy. Tôi lúc ấy vẫn cứ đứng, y như điệu chàng rể tiếp xúc lần đầu tiên với nhà gái. Kế tôi nghe ông ban thêm ba tiếng “Ngồi đi mà!” nghe êm ái hơn hai tiếng “mời ngồi” ban nãy. Rồi tôi bước tới, đặt bàn toạ vào ghế, nhưng chỉ ngồi ghé nơi bìa cạnh, y một kiểu với cách mấy chục năm xưa tôi ra mắt nhạc gia tôi khi đi xem mất vợ. Cái ghế của tôi ngồi, vẫn đặt mé bên tả của ghế ông và vẫn giống y cái ghế đặt bên hữu, hai ghế nầy thấy đều cũ kỹ, đã “xập kỷ nình” (cũ thập dư niên); vì tôi ngồi ghé nên thấy dường như ngồi trên khúc củi, vừa ê vừa thốn, thật không êm ái đỡ mỏi chút nào. Tôi vừa an toạ, kế có điện thoại reo. Tổng thống với tay chụp ống nghe, và trong khi ông bận lo trả lời, tôi thừa dịp lấy mắt quan sát kỹ vuông phòng nầy mà những năm xưa kia, vào dịp đầu xuân hay khánh hạ, tôi đã từng ra vào, tôi thấy trong phòng, những đồ tư khí cũ thời Pháp, hoặc dã di chuyển một nơi khác, hoặc đã biến mất từ năm đảo chánh 1945, hoặc vì ngày nay không vừa ý nên đã dời chỗ nào tôi chưa biết, tức là không mất.
Tóm lại những lời đã nghe có sự mất mát nơi nầy, chỉ là lời đồn đãi thất thiệt. Tôi chú ý nhứt là chiếc ghế bành của ông Tổng thống ngồi, bọc da màu vàng, xám nâu (beige) xem bề thế và rất mềm, rất êm ái. Đây là chỗ ông ngồi làm việc thường ngày, vừa khỏe lưng trong lúc tỷ như duyệt khán công văn, và cũng tiện lợi vì có thể nằm nghỉ lưng đỡ mỏi trong chốc lát. Kế bên chiếc ghế bành nầy, nơi mé tay mặt, có đặt một hộp lớn làm bằng gỗ trắng đánh vẹt-ni, trong chứa đựng cả xấp hồ sơ và công văn đang nghiên cứu hay còn xem xét. Hộp gỗ nầy có gắn một hàng nút điện sành trắng và nhỏ bằng cỡ đầu ngón tay út khi Tổng thống bấm vào là để gọi từng bộ hạ cộng tác, khi gọi ông chánh văn phòng hay chánh võ phòng, hoặc bí thơ hay tuỳ giá quan,.., khỏi nhọc công sai người đi mời. Trước mặt ghế ông ngồi và đôi bên tả hữu của chiếc ghế nầy, như đã có nói rồi, là hai chiếc ghế dạ đỏ đã phai màu, góc cạnh đã sù sì vì đã quá thâm niên, quá tuổi lưu dụng.
Một chiếc tôi đang ngồi, và vì không dám ngồi ngay giữa ghế nên không rõ bộ lò-xo có còn êm ái không, duy chiếc để trước mặt tôi, vốn là một cặp với chiếc kia, không nữa cũng đồng niên đồng tuế năm mua năm sẩm, hai chiếc ghế dành cho khách ngồi nầy, tại sao quá khác biệt với chiếc của Tổng thống ngồi, chiếc ghế của chủ thì vừa đẹp vừa êm, thêm vừa mới, còn hai chiếc nọ lại cũ kỹ và hư tệ đến thế. Xem ghế biết tánh chủ nhà, cực chẳng đã ông mới dám sài chớ bình sanh để làm theo ý ông, thì ông là người hà tiện nhứt trên đời, vì tiếng còn để lại, gia đình ông thuở ông Khả còn sanh tiền, thì đất Huế còn nhắc danh nhà nầy lấy tôn chỉ là “tề gia chi bổn thượng sách”. Có một chiếc ghế khác, kiểu xích đu loại Rocking chair hiệu Thonet thứ thiệt, thì chắc là không mấy năng đùng, nên tôi thấy trên mặt ghế chồng chất một đống hồ sơ cao nghệu, thấy mà ngán. Xem kỹ lại đâu đâu cũng thấy toàn là hồ sơ cái bìa xanh cái lại bìa đỏ, trước mặt Tổng thống, hai bên Tổng thống, bên vách tả cũng có một hàng dài dài trừ bên vách hữu, thấy một dãy ba chiếc tủ gỗ to tướng, choán gần trọn mặt vách trên sáu thước chiều dài, những tủ nầy do trào Pháp còn sót lại, mặt gỗ liền màu đỏ kiến gián làm bằng gỗ danh mộc đắt tiền. Trong tủ không biết có chứa đựng giấy má hồ sơ tối mật chi không, nhưng độ chừng ông Tổng thống là một thầy tu lỡ mùa, thuở nay quen sống độc thân, cho nên y phục tế nhuyễn vật cần thiết của người, người đều dồn hết vào đây, là một văn phòng mà cũng một tư phòng bất khả xâm phạm, và bấy lâu vì thiếu bàn tay bà nội tướng, nên tha hồ người để bừa bãi, thậm chí tôi liếc thấy chiếc gậy tuỳ thân ông thường cầm trên tay mỗi khi đi kinh lý “làng chiến lược” và chiếc nón nỉ lịch sử ông thường đội đầu, nay cũng ngự chễm chệ, nón thì đặt trên một hồ sơ một nơi nầy, gậy thì dựng nơi kẹt một góc nọ, mãi xa mút sau chót ba chiếc tủ gỗ kia. Trong khi Tổng thống mãi bận trả lời trong điện thoại, tôi chợt đưa mắt lên đầu chiếc tủ giữa bỗng thấy một khuôn hình lớn vẽ dầu màu, hoạ chân dung cụ cố Ngô Đình Khả, mình mặc sắc phục võ tướng, hai tay giụm lại đứng chống gươm xem rất oai nghi, nhưng cớ sao trong mắt tôi lúc ấy lại thấy dường như bơ vơ trơ trọi trên đầu loại tủ đựng áo quen mặt bằng gỗ liền nầy. Trong bụng tôi suy nghĩ bâng quơ: Hỡi trời? Đã tột bực đỉnh chung, lên ngồi trên cả thiên hạ, thế mà tìm không được một chỗ thờ cha cho xứng đáng. Hãy chừa cho bọn thơ ký nghèo như chúng tôi thờ cách ấy! Nếu ông là người công giáo thuần tuý không nhìn nhận sự thờ phượng ông bà, không muốn bắt chước bọn bên lương lập bàn thờ thờ cúng tổ tiên, thì cứ việc “làm theo Tây u”, tốn một cây đính đóng lên vách như treo hình đức Chúa hay hình ký kiểu La Joconde chẳng hạn, bằng không nữa thì thà đừng thờ và chỉ “tâm thờ”, thờ trong lòng, trong tư tâm cũng được đi, chứ thờ làm chi trên đầu tủ bọn tiểu công chức nhà như ổ chuột, trong nhà chỉ có cái tủ áo là cao, cũng không đành thờ cha mẹ ông bà như thế. Đang trí còn nghĩ ngợi viển vông, thoạt nghe Tổng thống đặt máy nói vào móc tôi vừa day lại thì nghe ông nói chậm rãi nửa thân nửa chí tình: “Cách nay mấy mươi năm, tôi cũng từng làm một nghề tương tợ như nghề ông (tiếng ông gọi tôi lần thứ nhứt), nhưng vẫn không phải nơi chốn nầy đâu!”.
- Dạ thưa Tổng thống, - tôi thầm phục và thầm khen ông khéo lựa mấy lời quá êm cởi mở - Dạ thưa Tổng thống, tôi đã từng đọc bài nghiên cứu của Tổng thống viết về chiếc nghiên mực “Tức mặc hầu” đăng năm xưa trong tập san Đô thành hiếu cổ.
- Ờ! Phải đấy. Bài ấy tôi viết đã lâu lắm rồi. Có đọc hỉ!
Nói đến đó rồi ông chăm chỉ lật lật xấp bản thảo tôi đã viết, vừa đọc vừa hỏi trống lỗng:
- Chữ ai viết mấy trang nầy vậy?
- Dạ, chữ cụ Sển viết! - Ông Giá khoanh tay đứng gần tôi trả lời.
- Già mà chữ viết còn hay hỉ! - Tổng thống ngó tôi mà khen.
Tôi cúi đầu nói nhỏ câu “Tôi không dám!” nhưng trong bụng, tật cũ không chừa, vẫn cãi:
- Trong Nam, chúng tôi nói chữ viết “cứng”? Viết hay là khác!
Rồi lại nghe Tổng thống hỏi tiếp:
- Hiệu “Ngoạn Ngọc” dùng được chớ hỉ?
- Dạ thưa, Ngoạn Ngọc là quý, là cổ lắm vậy.
- Ờ, ờ! Xưa tại nhà, có khá nhiều đồ hiệu Ngoạn Ngọc.
- Dạ thưa, - Tôi bất trớn nói tiếp - Đồ cổ đề hiệu Ngoạn Ngọc là nên dùng lắm. Người châu Âu, châu Mỹ, rất chuộng, và gọi theo Pháp là “Bibelot de jade”. Dạ, nhưng nó chưa quý bằng đồ cổ kiểu ký hiệu chữ “Nhựt”.
- Vì sao vậy? Tổng thống hỏi.
- Dạ, theo tôi hiểu, thưa Tổng thống. Hiệu “nhựt” là đồ sứ “Quân dụng”, chế tạo riêng cho quân vương dùng, khác với Ngoạn Ngọc là hiệu thường, ký trên đồ sành sứ từ nhà quan quyền đến nhà lê thứ đều dùng được cả, tức cũng như đồ thông thường, “quan đụng”, “dân dụng”.
Nói đến đây, tôi nhìn trộm, thấy mặt Tổng thống vui lên, cười cười rồi với tay bấm một nút chi nhỏ nhỏ gắn nơi hộp gỗ đã tả, tức thì hiện ra một tuỳ giá quan mặc một bộ quân phục bén ngót, vừa mở cửa vào, vừa chào và đứng thẳng mình.
- Cho ở dưới lầu hay tôi xuống xem các vật vừa sắm đó.

Ông Tổng thống đứng dậy, tôi cũng lật đật đứng theo. Tôi bước trái qua một bên, nhường chỗ cho ông bước ra khỏi ghế, rồi chờ ông bước được vài bước, tôi khi ấy mới nối gót theo sau. Bỗng cửa phòng mở toác, tôi giựt mình khi thấy ngoài cửa có hai ông cao cấp quen mặt, tay ôm hồ sơ chực sẵn từ lúc nào, đầu cúi ngó mũi giày, áo gài nút kín, mỗi ông đứng một bên cửa, không khác ông Thiện và ông Ác vẽ trên cửa chùa, nói làm vậy chớ vẫn mong hai ông đều hiền và không có ông nào xứng danh là ông Ác. Một ông, bấy lâu tôi nghe tiếng đồn là thanh liêm “tuy gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, nhưng nay thấy tận mắt vì ông có xương sống gắn bản lề khá dẻo cho nên người ta mới còn dùng đến nay, trong bụng thầm tiếc một người có Đức như ông, nấm nuối làm chi chốn nầy, ham quyền chức e có ngày vướng bùn mất chữ thanh cao, hay là cũng vì ông đã trót lựa chữ lót là “Tòng”.
Ông kia tôi gặp một lần trong một buổi đi nghe diễn thuyết nay cũng không nhớ tên, khi tôi đi ngang chỗ ông đứng, tôi ễnh ngực, nện mạnh gót giày, ý chừng muốn cho ông thấy tên ăn lương công nhựt nầy, cũng có lúc đi gần chủ của ông để được ông cúi chào, sướng quá. Buổi ấy, Tổng thống dẫn đầu đi trước, thứ đến là tôi kế nữa là một cận vệ quan, và sau rốt là ông Giá, chức coi về từ khí thập vật trong phủ, Pháp gọi “garde-meuble du palais”, tạm dịch nội phu quan chớ không lý dùng chữ “nội dịch” nghe tệ quá
Xuống đến phòng tạm chứa đồ sứ, một phòng rộng lớn thênh thênh thuộc mé hữu của toà lâu đài nầy, tôi thấy các cổ vát, cổ ngoạn đã được dọn bày sẵn làm ba hàng dài: chóe sành, bầu hồ lô tô kiểu, bình phong nạm ngọc, vân vân, đủ thứ, nhưng thứ thật tốt, đẹp và cổ thì ít, thứ xoàng xoàng không xưa không nay thì nhiều, theo ý riêng tôi, sở dĩ họ đem đến đây, cốt bán cho được nhiều tiền, kiếm đồng lãi và không sợ sự bình luận mai sau. Gẫm lại nguy hiểm thay cho cái nghề “chuyên viên khảo về cổ vật” như mình, có tiếng mà không có miếng, nay được đòi đến đây để giảo nghiệm, nhưng xét ra từ ông Tổng thống cho đến mình, còn cách xa biết bao nhiêu độ, mấy lời mình trực ngôn còn bị nhiều ý kiến tay ngang của các “cục cưng giỏi sàm tấu” xuyên lạc, không khéo “chơi dao có ngày đứt tay”, mình nói trắng, họ thay đen, mình nói “nay” họ đổi ra xưa”, - mình sẽ bị “bán đứng” bị lợi dụng, bị mang tai tiếng, từ đó đi đến sự “ủ-tờ” cũng chưa biết chừng. Ôi! Cái nghề làm quản thủ Viện bảo tàng ăn lương công nhựt!
Trong buổi ấy, tôi theo sát bên lưng Tổng thống. Ông xem xét từng món, ông hỏi tôi về món nào, tôi cố đem hết sức bình sanh tìm lời giải thích cặn kẽ về gốc tích, điển cố nào tôi biết được. Đi xem được giây lát, định chừng ông hài lòng về mấy lời tôi cắt nghĩa, nên ông “nói chuyện”quên thôi, và lần lần nói giọng rất thân mật, và cố nhiên bầu không khí trong phòng trở nên nhẹ nhàng dễ chịu. Ông Giá lấy mắt nháy lén tôi, hình như muốn nói: “Được lắm! Tiếp như vậy hoài đi”! Mỗi lần tôi cố ý nói giặm nói chêm một đôi chỗ cho thêm vui câu chuyện, tôi lén nhìn thấy hai môi Tổng thống như muốn cười nhưng còn giữ bộ nghiêm. Và khỏi nói khi thấy được cởi mở, mấy ông tuỳ giá lúc ấy cũng tiếp sức tôi vài câu đúng lúc cho không khí được “dễ thở” thêm. Tỷ dụ khi đứng trước một cái tô có đề thi nôm, tôi quên lưng hiện mình đang giỡn với lửa và tôi bỗng đọc đủ giong phù trầm.
- Bộ biết chữ Nho khá lắm hả? - Tổng thống cắt ngang và hỏi tôi như vậy.
- Dạ thưa Tổng thống, đó là tôi thuộc lòng vì quá quen mặt với tô nầy, chớ về chữ Nho, tôi vẫn dốt, vì cha tôi không cho tôi học chữ ấy từ lúc nhỏ.
Qua khỏi truông vấn nạn nầy, tôi lại tiếp tục nối gót theo ông Tổng thống. Bỗng đi đến trước một bộ chén trà cổ. Ông với cầm lên một cái chén “quân” và nói: “Đây chữ gì? Tôi không đọc được?”. Nghe vậy tôi tiếp cầm cái chén, vụt đọc lớn: “Tuyên Hoá”.
Ông Tổng thống chận tôi lại, cười và nói: “Đó! đọc được chữ Nho đó!”
Hồn bất phụ thể, tôi vội nói chữa lời: “Dạ! Cái chén nầy, thưa Tổng thống, nó là chén giả hiệu. Vì chữ viết nhòe nên Tổng thống không đọc được. Tôi quá quen và đã từng thấy nhiều bộ cổ hơn và chánh hiệu, nên mấy chữ nầy dễ nhìn, dễ đọc ra. Vả lại vua đời Minh có hiệu Tuyên Đức và hiệu Thành Hoá mà thôi. Nay chén nầy xưng “Tuyên Hoá” không có trong niên hiệu nhà Minh, cho nên tôi gọi là giả hiệu. Họ lấy chữ Tuyên trong Tuyên Đức và chữ Hoá trong Thành Hoá, hai chữ đều dễ đọc. Tổng thống gật đầu bước qua dãy khác, và tôi thoát nạn. Hú hồn!
Đi được giáp phòng một vòng tròn, đại khái đi đến đâu tôi đều trả lời suôn sẻ, độ chừng nãy giờ Tổng thống bằng lòng lắm. Kế đó bắt qua xem mấy bức bình phong sơn mài có nạm ngọc quý, treo trên vách. Đến đây tôi có dịp dò xét ý ông. Quả ông là người có bản lĩnh, đừng khinh ông mà lầm. Ông là người tự làm lấy mình, tự xem xét và tự quyết định lấy mình, vốn ít nghe lời ai mà cũng không muốn nghe lời ai khuyến biểu. Sở dĩ sau nầy việc đa đoan và bọn gian thần sanh ra quá nhiều và thời đã hết nên phải hư việc. Như hôm nay, ông đang đứng trước một bức bình phong có nạm ngọc nầy. Đó là một bộ tranh sáu bức, dài và hẹp, cỡ 2m x 0,50, cả thảy sáu tấm ráp lại bằng nhiều bản lề, nền tranh là gỗ thông sơn mài màu đen, trên nền sơn, cẩn đủ thứ ngọc quý giá, từ ngọc vân thạch, đến nhiều thứ quý hơn nữa...
- Tranh ngọc nầy, - Tổng thống nói - tại sao lặp đi lặp lại có một kiểu, trông nhàm quá.
- Thưa, tuy vậy mà nay không làm được nữa - Ông Hải nói tiếp - Nếu nhà Thành Lễ làm như vầy được, không biết sẽ tính đến giá nào!
Câu nói là câu có ý tán thành, ý định muốn giúp cho tấm bình phong được Tổng thống chấm mua, không dè đã làm Tổng thống nổi cơn thịnh nộ bất ngờ, như trời không kéo mây bỗng vụt mưa ồ. Ông day lại, nói rất lẹ:
- Mà ai mua làm chi của nhà Thành Lễ. So sánh làm chi vật xưa với vật nầy. Bức tranh nầy, vừa nói ông vừa lấy gậy chỉ, giá sáu chục nghìn (60.000$) kia mà!
- Dạ, hai trăm sáu chục nghìn chứ (260.000$). - Ông bí thư Hải cải chính.
- Ôi cha! Tôi không mua với giá đất đó đâu!
Ông Tổng thống đáp và bước te te đi một nước, làm cho chúng tôi phải bước lẹ mới theo kịp. Rồi liền đó, ông hạ giọng, day lại tôi và chậm rãi nói:
- Với những giá biên ra đây, tôi định sẽ giảm bớt đồng đều hoặc 25 hoặc 30 phần trăm. Nghĩ sao? Nếu họ không bằng lòng bán thì không mua.
- Dạ thưa Tổng thống, nếu cho phép tôi đưa ý kiến. Tôi chuyên xem kỹ về vấn đề tốt hay xấu, giả hay thật, cổ hay không cổ còn về giá cả, tưởng tôi không quyền định đoạt.
- Thôi được! ông Tổng thống nói - Rồi ông bắt qua chuyện khác. Kế ông lại hỏi:
- Đây họ đề “ambre”. Mà “ambre” là gì?
- Dạ thưa Tổng thống, “ambre” là hổ phách.
- Ủa! Lạ nầy! Tổng thống nói. Ambre, không phải là chất nọ tiết ra bởi loài cá ở biển kia sao?
- Thưa Tổng thống, tôi đáp. Nếu “ambre gris” thì đó là chất vôi hay là tinh của loại cá “cachalot”, thường thấy trôi cả giề lên mặt biển và người đánh cá vớt lên đem phơi khô, cân bán với giá rất mắc, gọi là “long diên hương”. Dạ, còn “ambre” nầy là ngọc hổ phách, vốn là mủ, nhựa cây thông bên Tàu, được trên ngàn tuổi, biến thành. Dạ thưa, mủ thông, ta gọi “tòng hương”, Pháp gọi “résine de conịfères”. Tòng hương, ta dùng thoa dây kéo đàn, cũng giống như colophane của Pháp. Và khi nào “tòng hương” để lâu được trăm năm, sẽ biến thành “phục linh”, một vị thuốc Bắc và nếu “tòng hương” ở dưới đất trên ngàn năm, sẽ biến thành hổ phách, như vầy đây. Đó là tôi đọc theo sách Tàu dịch ra, chớ đúng không thì tôi không rõ.
Buổi đặc biệt tôi được tiếp xúc với ông Ngô Đình Diệm, đến đây là chấm dứt. Và đây là lần thứ nhì ông cho tôi yết kiến. Tên tôi viết theo Tàu có lẽ ông không ưa, vì bình sanh ông chỉ thích những người có tên tốt. Cũng vì tên không tốt, nghe không thanh và quá “chệc”, nên ông hành tội bắt chầu hầu suốt mấy hôm liền mới cho ra mắt. Ông đã hiểu lầm và có lẽ hôm nay ông biết rõ tôi hơn chăng?
Nhắc lại, sau khi tôi trả lời đầy đủ như học trò trả bài cho thầy, ông Tổng thống gật đầu, quay lưng lại, và vừa đi vừa nói: “Thôi được? Mời ông lên lầu dùng trà”.
- Đội ơn Tổng thống, tôi đáp. Nhưng tôi không dám làm mất thì giờ quý báu của Tổng thống. Xin cho tôi về.
Ông gật đầu, bước thẳng lên thang. Tôi vừa mừng thoát nạn, bỗng ông chánh văn phòng Võ Văn Hải đến gần khều tôi và nói nhỏ:
- Sao cụ không nhận lời ông Tổng thống mời, ngàn năm một thuở mà?
- Thưa ông, - Tôi đáp lẹ - Cũng biết vậy đó chút, nhưng ông nghĩ lại: phàm một tên học trò đi thi, một khi ứng đáp được trôi chảy, kể chắc có hy vọng thi đậu, là đủ mừng. Há tham làm tàng và đèo bòng, chạy theo chủ khảo, ông chất vấn thêm, rủi bí là bao nhiêu công khó cũng trôi dòng nước, chằng là uổng công tu luyện hay sao?
Ông Hải cười và nói:
- Cụ là người cao kiến.
Giờ tôi bước vào phủ Tổng thống, nhớ lại là mười lăm giờ chiều. Nay bước chân ra khỏi phủ, là đồng hồ đã điểm mười bảy giờ bốn mươi phút. Thế là tôi được hầu ông Tổng thống ngót hai giờ bốn mươi phút. Khi bước vô, lòng nặng như núi đè. Nay bước ra, lòng nhẹ như được đầu thai kiếp mới.
Vài hôm sau, tôi nhận được một bức công văn, xin chép y, để làm kỷ niệm:
Việt Nam Cộng Hoà
Tổng thống phủ
Văn phòng
Số 62-TTP/ĐL
Sài Gòn, ngày 18 tháng 1 năm 1963
Đổng lý Văn Phòng Phủ Tổng thống
Kính gửi ông Bộ trướng Quốc gia Giáo Dục Sài Gòn.
Thưa ông Bộ trướng,
Văn phòng tôi trân trọng kính chuyển quý Bộ, chỉ thị sau đây của Tổng thống. “Có nhiều đồ cổ cần mua cho Viện bảo tàng, xin ngân khoản mà mua thì có khó khăn, cho nên cho phép ông Quán thủ Viện bảo tàng là người rành rỏi và biên khá về đồ cổ, khi nào có gặp đồ cổ thì ông ấy có thể trình gấp, vì theo thú tục giấy tờ mất ngày giờ, trễ ké khác đã mua rồi.
Nếu thiếu ngân sách, thì trình lên Thượng cấp để xin ngân khoản đặc biệt.
Nay kính, Ký tên
Quách Tòng Đức
Dưới bức công văn chánh, do phủ Tổng thống gởi, còn mấy hàng phụ như sau:
Bộ Quốc Gia Giáo Dục
Số 2044 - GD/KTNS/2
Sao y kính gửi.
Ông Giám đốc Viện Khảo cổ, Sài Gòn.
Quản thủ Viện bảo tàng, Sài Gòn.
“để thi hành”.
Sài Gòn ngày 9 tháng 2 năm 1963.
K. T. Tông thơ ký, Phó Tổng Thơ ký
Ký tên: Đỗ Bá Khê
Do công văn chép lại như trên thì từ đây, tôi đã được lọt mắt xanh. Người khác, nếu được như vầy, ắt mừng lắm vì tương lai hy vọng tràn trề.
Nhưng đối với tôi, vốn sẵn tánh bi quan từ thuở nào, tôi chỉ thấy kể từ đây thiếu gì nguy hiểm khó phòng ngừa được: mỗi lần trên Phủ muốn mua đồ cổ, sẵn tôi đang được tin dùng, thiếu chi người, từ bọn buôn đồ cổ, bọn đứng trung gian đến kẻ hám lợi chưa biết được, họ có thể sẽ bán đứng tôi có ngày. Tỷ dụ tôi không thấy món đồ, mà họ hô “tôi xem rồi”, hoặc tôi đã bảo biết là đồ quý.
Nhưng cũng may, cái sợ của tôi chỉ là trong tưởng tượng.
Cách đó không bao lâu, Tổng thống Diệm đột ngột lìa đời, còn tôi cũng bị cho ra rìa, lìa khỏi Viện bảo tàng, trở về kiếp sống “hưu trí non”, và mười mấy năm làm thêm nơi viện nầy, không được kể vào tuổi thâm niên hưu trí, vì trong khế ước, tôi là nhân viên công nhựt.
Nay xin có mấy hàng hồi ký, không phải tiếc ông Diệm, sự thật chỉ ngậm ngùi cho thân. Từng đọc bài thi Lão ky qui y của ông Tôn Thọ Tường, càng thấm thía thấy thân sao giống hệt. Đối với riêng tôi, ông Diệm không có làm điều gì có hại cho cá nhân tôi.
Một phút gặp gỡ cũng là tình, dẫu không phải một bức tình chung, nhưng cũng đủ hư thân trọn đời. Tôi viết mấy trang nầy, chẳng qua để nhắc việc cũ, dẫu có người trách tôi còn tưởng niệm ông, thân nầy có thể ví với gái hư, nay đã già, cho nên thà ở goá ngồi ngoài lần chuỗi cho qua ngày tháng.
Gia Định 15-7-1968 chép lại 20-4-1975.
26: Tôi nhớ Huế
THUẬT LẠI MỘT CHUYẾN ĐI SĂN ĐỒ CỔ Ở HUẾ. ĐI TÌM TÔ TẾ KHÍ ĐẶNG HUY TRỨ, CHẾ TẠO NĂM MẬU THÌN ĐỜI TỰ ĐỨC (1868)
A. Mấy lời biện minh trước khi vào đề.
1. Đồ cổ xứ Huế, tôi mua khá nhiều và mua hoài vẫn còn. Thuật chuyện lại không bao giờ hết. Nay xin đơn cử một cổ vật tôi mua để chấm dứt tật ghiền đồ cổ: các bạn lấy đó làm gương cũng đủ. Không chơi thì miễn luận, chớ bước vào nghề chơi đồ sứ cổ, không khác ôm bịnh ghiền nha phiến: không hút thì khó chịu bứt rứt; tôi cũng vậy, không mua đồ cổ cũng bứt rứt khó chịu y như ghiền chị phù dung. Tôi đã suy nghĩ nhiều trước khi mua cái tô nầy, gọi tô Đặng Huy Trứ.
2. Bình sinh tôi mê thích đồ xưa còn hơn khách hào hoa mê gái, hơn xa người đánh bạc mê bài. Mua được một món lạ, tôi đắc ý gặp ai đến nhà cũng lấy ra khoe, quên rằng ép người ta nghe mình nói chuyện Tam Hoàng Quốc Chí, người ta mau chán ngán.
Chỉ riêng tôi, với món đồ mới sắm, tôi có thể mân mê suốt ngày, không ăn cũng đủ no. Nói không sợ ai cười, tôi có thể trở nên một thằng điên khúc khích mình cười chuyện một mình, rồi tôi sung sướng khoan khoái trong lòng, khi ấy tự mình thấy trẻ trung, nhỏ xuống mấy tuổi, vì lẽ ấy không trách vì sao tôi cứ mua đồ xưa. Vả chăng quan niệm “sống” là gì? Mỗi người hiểu mỗi khác. Chung qui phải có vui mới đáng sống. Có kẻ muốn được sống nhẹ nhàng lành mạnh, phải cần đánh bạc đến thua sạch túi, cần mua rượu về uống cho thật say, còn những người cần cho gái nhiều tiền, tôi sợ nên không dám nói. Vì suy nghĩ làm vậy, nên tôi đành cứ việc mua đồ cổ.
3. Tiền mua đồ cổ, dẫu tốn bao nhiêu, tôi không sợ. Tìm cho ra manh mối một nước men đồ sứ cổ, tìm cho được một lời đáp đúng của một bài toán khó, sửa một chiếc xe nằm vạ làm cho xe chạy bon bon, đem thằng con sa ngã vào đường ngay, một tỷ dụ nầy tôi không dám nhấn mạnh, nhưng cứ nói ra đây còn bàng quan phán đoán, mở nẻo cho một gái ăn sương bỏ nghề, cứu vớt một món đồ cổ ra khỏi chốn vô danh, mấy cái khoái ấy như nhau, khác nào ông tướng xuất binh, giờ chót mới hô thắng trận, nỗi mừng càng lớn.
Ở đời thấy nên mà ra hư, và đã thấy hư bỗng lại hoá nên. Có con làm tá, làm ông quận nầy quan kia, là con nên. Đùng một cái, tá đi cải tạo, quan đi học tập, quận đi hốt phân, nhà cửa bị tịch, cái hư từ ngoài cổng hư vô. Tôi nói “đa thọ tất đa nhục”, bạn tôi, ông Vi Huyền Đắc, ra Bắc chết năm ngoái, cãi lại là “đa nghiệp” chớ chưa phải đa nhục. Tôi nói: “Đa nam tất đa ưu”, ông không trả lời và hẹn sẽ gặp nhau dưới ấy. Trở lại cái tô xưa, tôi đã trút cạn nỗi lòng là để cầu người tri kỷ ban cho một tiếng: “Ừ! Anh nói cái đó, tôi nghe được, có lý lẽ vững”. Nghe được bao nhiêu đó sá chi kẻ ngoài cuộc cười chê là gàn. Tóm lại, sở dĩ tôi cạn bày ý nghĩ vụng về là muốn được người có mắt xanh chú ý đến ba cái đồ cổ đang lạc loài nó đang bị nạn như mình, nếu không lo cứu vớt tự bây giờ thì một ngày kia hối tiếc e không kịp.
4. Đời đang chuyển mình, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng như hiện nay, những chuyện phiếm đáng nên gác bỏ. Nhưng đây là một sự tìm tòi đánh dấu một bước đi chập chững, chậm lụt của khoa nghiên cứu đồ sứ men lam xứ Huế, tôi không hư và chỉ muốn nên. Tài liệu có trước mắt, thiết tưởng nên xuất ra một số tiền để mua cái tô rồi sẽ hay. Phải khai thác nó khi còn bốc hơi còn nóng chờ đến mai, rủi có sự gì xảy đến, cái tô nát đi hay thất lạc rồi, khi ấy có bao nhiêu tiền cũng vô ích, có bao nhiêu nhơn tài và thiện chí cũng trễ mất, người ta làm lớn lo việc đại sự, mình ở trong kẹt ra công lượm mót đồ xưa để bảo tồn cái gì đáng gọi là quốc tuý quốc hồn, nên hay hư, xin hỏi.
B. Kể lại sự tích một chuyên di săn một cái tô xưa
Dùng để chấm dứt một thiên khảo cứu hay nói một cách khách tự mình kể nỗi gàn ương của mình, của một nhà chơi cồ ngoạn “già kén chẹn hom”.
Từ năm 1965 đến năm 1967, mỗi năm tôi đều có dịp ra Huế bốn kỳ, mỗi kỳ tôi ở lại Huế đô suốt tuần có khi đến mươi bữa, tiếng rằng đi dạy học, kỳ trung tôi thừa dịp nầy để thoả thích tánh ham đi săn cổ ngoạn. Tiền tôi lãnh được bao nhiêu ở Đại học Văn khoa, tôi đều cúng trum vào đó. Có khi không đủ còn lén châm thêm liền nhà. Đừng nói lớn, vợ con nghe, nhưng tôi không tiếc. Mua được thì mừng vui, không mua được thì bứt rứt xốn xang, nên thà mua như ai kia mua sâm nhung, hoặc thuốc an thần. Tôi có thể kể ra đây, đóng thành tập sách dày những món quý đã mua được trong mấy kỳ ra Huế, nhưng trong buổi nầy ai còn đầu óc rảnh rang để nghe mình thuật chuyện trồng xoài, vậy để tôi lựa nhón và đơn cử ra một thí dụ nhỏ, đó là chuyện cái tô chế tạo năm Mậu Thìn (1868) đời vua Tự Đức, cũng gọi tô Đặng Huy Trứ.
Thứ ba 5 tháng 10 năm 1965 Ra Huế, ghé nhà ông Khoá Ổi trong Thành Nội. Gặp cái tô nầy lần thứ nhứt. Mãi đến 31 tháng 3 dương lịch 1968, tức trên hai năm trường tôi mới mua tô được.
Mà sự mua chác nầy, theo tôi là do một tiền định, một duyên kiếp, một phần may rất lớn, tuỳ người ngoài hơn là tuỳ ở nơi tôi.
Khoá Ổi lấy cái tô ra cho tôi xem. Ông ra giá sáu ngàn đồng (6000S00). Tôi chê mắc, nhưng không nói, và tôi chê thầm nước men còn mới quá. Lại nữa, mấy lúc gần đây, tôi xét lại tôi mua đã nhiều, nên tốp bớt và nên dành tiền dùng khi bóng xế về chiều không lột da sống đời và cũng không chắc sống thêm bao lâu nữa hòng tham lam chất chứa của nợ. Con gà ăn no thì bươi; người chơi đồ cổ đã nhiều thì hay kén chọn. Tôi trả bốn ngàn. Khoá Ổi bao giờ chịu bán... Tôi ra về, mà lòng nửa tiếc, nửa làm gan: cắn răng thi đua, xem ông bán trước hay tôi mua trước.
Thứ bảy 16 tháng 10 năm I965 - Về Sài Gòn nhớ tới cái tô, khó chịu. Viết thơ cho một bạn lão thành cố tri là ông ấm Tư, cậy bạn hỏi thăm dò xét về cái tô, điều tra lý lịch... Trong thơ tôi nhấn mạnh: “Tô đẹp thì có đẹp, nhưng tựa hồ còn mới, ấm huynh là người cao kiến, xin xem lại kỹ giùm”.
Thứ năm 4 tháng 11 năm 1965 - Được thơ cụ Ấm trả lời.
Từ bữa được thơ không ngày nào tôi không nhớ cái tô, nhớ và bứt rứt, giận lấy mình sao không mua quách, từ đó tôi trở nên quạu quọ trong nhà không ai chịu nổi. Tôi vừa ăn năn vừa hối tiếc nhưng làm gan cố lỳ, cố lỳ rồi quạu. Sở dĩ tôi không mua với giá 6000 đồng, vì theo tôi: 1) Giá 4000 là vừa; 2) Nếu mua cao hơn không khác nào bắc cầu cho lão Ổi, sau nầy vịn theo đó và leo thang mãi thì ai chịu được; 3) Lại nữa nếu mua giá 6000, lại e cụ Ấm khi hay tin nầy sẽ phiền chăng. Rồi sau nầy, nếu ra Huế, còậii làm bạn với mình trong những buổi đi săn cổ vật. Còn đang phân vân bất nhứt, đấu trí với một người bán đồ cổ bản lĩnh cao, trong cuộc thi đua, tôi cũng cố lý, cho nên mấy tháng sau, nhiều dịp ra Huế, tôi đều đến chào Khoá Ổi, không khác chàng rể ra mắt ông bô mà chưa nhứt định rước “bô-tê” kia đem về. Không thấy Khoá Ổi bớt giá, tôi cứng đầu cũng không ưng trả thêm, cũng vì một chút ỷ y, nhấm không ai biết nhà Khoá Ổi, có tô cổ quý mà đến mua giành. Bỗng một kỳ nọ ra Huế, nghe tin sét đánh: bác sĩ Hà, bạn thân của cụ Ấm và của tôi, mách rằng có con cháu gái Khoá Ổi đến khám bịnh, cho hay cái tô, dường như đã bán về tay một người Pháp chơi đồ cổ, làm chức đại diện (délégué ) gì đó, ông nầy từ Đà Nẵng được một người dẫn mối đến mua và Khoá Ổi đã bán rồi. Giá sáu ngàn đồng không bớt một xu. Nghe tin nầy rồi, đầu xây bồ bồ, choáng váng mặt mày y như lúc bị chúng giựt mất vợ đẹp. Không dám lại nhà Khoá Ổi nữa, trong bụng tức giận mà không biết giận ai. Trông mau về Sài Gòn để gởi thơ cho cụ Ấm nhờ dò lại đích xác xem có quả Khoá Ổi đã bán cái tô thật hay không, hay đây là một tin bịa để thúc hối mình sớm mua. Vài ngày sau quả tôi nuôi hy vọng trở lại, vì thơ trả lời cụ Ấm nói “Khoá Ổi trả lời với cụ, rằng lô kia còn đó chưa bán cho ai”. Được tin như vậy, mừng khấp khởi, tôi vui lại như cũ và rất trông mau mau tới kỳ ra Huế để xem cho hản sự tình.
Thứ ba 4 tháng giêng năm 1966 - Tôi ra Huế dạy được hai ngày.
Bữa nay náo nức trong lòng không thể chịu được, trưa ăn cơm hối hả, bỏ giấc ngủ ngày, gọi xe kéo tuốt lại nhà Khoá Ổi để mau nhìn mặt cái tô Nhưng khi đến nơi, lão Ổi tỉnh bơ, không đả động gì đến chuyện cái tô, lại còn mở tủ bí mật lôi ra hết món nầy đến món khác, làm tuồng như dỗ trẻ con, hãy quên cái tô đi, đây nầy thiếu gì đồ chơi, không thiếu gì đồ cổ quý và đẹp bằng mười bằng trăm cái tô kia vậy. Thật lão già nầy cầm mình không hơn đứa bé lên ba, hễ khóc thì lấy bánh ra nhem là nín. Kỳ trung cái tô không còn trong nhà nầy nữa, nếu còn thì lão đã lấy ra rồi. Mà nói cho ngay, sự cám dỗ nầy ghê gớm thật. Đồ xưa tại nhà lão, món nào cũng hấp dẫn, vừa thấy là mê ngay. Mỗi lần lão đưa ra một món, là lòng tôi rung lên, mí mắt chớp lia, nhưng tôi cố dằn, một một hai hai đòi thấy cho được cái tô nọ. Sau rốt biết mình bị gạt mớp, không dằn được nữa, tôi xổ hết nư giận, nói thẳngg vài lời từ giã, cho lão Khoá Ổi biết: tô đã bán mà còn đong đưa không nói thật, như vậy là thiếu chữ tín, ăn ở không thật tình, và tự hậu đừng trông mong tôi trở lại cũng không còn muốn mua chác giao thiệp gì với ông. Giận rồi. Tuy sức trói gà không chặt mà nư giận cũng lớn khá. Giận đến muốn chừa, bỏ tật mua đồ cổ cho khỏe thân, và xem có chết ai. Trong tập nhựt ký, nay lấy ra đọc lại, thấy ghi: Tháng giêng 1966, một thất vọng chua chát là mua hụt tô nhà Khoá Ổi có chữ đề “Đông mạch tụ cô tùng”. Nghe đâu tô đã lọt về tay một người Pháp ở Đà Nẵng, y mua với giá 6000 đồng của Khoá Ổi đã đành. Tuy biết mua hụt thì tức và uổng, nhưng đã trễ rồi. Khác nào bị giựt vợ!
Tháng 8 dương lịch 1966, hay tin buồn. Khoá Ổi đã đi bán đồ xưa dưới địa phủ, không ép được tôi mua cái tô theo giá ông định, ngã lòng và thất bại, ông ra đi không trống không kèn, bỏ tôi lại đây bơ vơ mà nào có vui, vì bị chúng hớt tay trên một món thích, vì tánh chần chờ nên lỡ mất cơ hội tốt. Tôi không còn hờn giận ông nữa và xét cho kỹ, lại có chỗ thương tình. Đã buồn sẵn nay lại buồn thêm, nhớ tiếc cái tô hơn lúc nào cả, vì con cá sẩy là con cá lớn. Nhớ giọng Khoá Ổi ngâm câu “Đông mạch tụ cô tùng”, lây cho mình chứng bịnh tiếc nhớ hão. Tự trách hà tiện làm chi năm sáu ngàn bạc, để nay phải khổ tâm sầu nát. Chưa dứt được tánh phàm, lòng dục vọng làm khổ con người không nhỏ. Dứt khoát được sớm chừng nào, là rảnh nợ đời và khỏi đi tu chùa. Lý luận cho đã rồi nai lưng kệch chạy đi tìm tông tích cái tô hòng mua vớt lại như vậy mới phải là cái thú chơi cổ ngoạn. Nghe tin một người Pháp ở Đà Nẵng mua được cái tô, không nhịn được, hèn viết thơ ngay ra Đà Nẵng, gởi khống nguyền cho ông đại diện lãnh sự Lang-sa vì căn cứ theo lời người mách, chữ delegué rộng nghĩa quá, biết đó là ông đại diện, nhưng đại diện cho ai, cho ông nào, cơ quan hay quốc gia nào? Trong thơ tôi viết gởi đi, cố nhiên là bằng Pháp ngữ, tôi chọn lời khiêm tốn, hết sức yêu cầu, nếu quả có mua, xin bằng lòng nhượng tô ấy lại cho tôi, tôi dùng làm vật nghiên cứu. Xin délégué đến tệ xá, lựa món cổ vật nào vừa ý, thì chúng ta đổi chác với nhau, và trong thâm tâm, sự nhẫn nhượng hy sinh nầy đã là tột bực. Qua ngày 5 tháng 9, quả tôi có nhận của ông lãnh sự Pháp ở Đà Nẵng, một bức thư khá nhã nhặn, nhưng than ôi, ông cho biết ông không bao giờ có mua một cái tô xưa nào ở xứ Huế.
Câu chuyện đi săn mù một cái tô mua hụt, đến đây kể như kết thúc, bài tôi viết hôm nay chỉ làm thất công người đọc, riêng tôi thì hoàn toàn thất vọng, tật buông mồi bắt bóng là tật hư; cũng tại mình, trách ai?
Không khác chuyện một cô gái tân, hồi nó còn ở nhà cha mẹ thì không chịu bỏ trầu cau, mảng chần chờ để nó bị người khác cưới khi ấy nằng nặc xin chuộc, mặc dầu cái tân đã không còn. Quả tôi hư hay không, tôi không cần nói.
Chúa nhựt 24 tháng chạp tây 1967 - Bác sĩ H. từ Huế bay vô Sài Gòn. Ông ghé nhà báo tin mừng đã tìm ra manh mối lão Tây mua cái tô. Có hy vọng nài được duy giá phải cao. Tôi trả lời giá nào bây giờ tôi cũng ưng, miễn đừng lên tới mười hai ngàn đồng, gấp hai giá cũ, thì tôi chịu thua, không với tới.
Tháng hai dương lịch 1968 - Đầu xuân Mậu Thân, thành Huế bị nạn chiến chinh, ngót hai chục ngày, đôi bên đánh nhau, ngày rút lui, thành trì chỗ hư, chỗ đổ nát, cung điện, nóc điện bị bắn bị bom. Rất đỗi thành vua còn bị vạ lây, có ai có lòng dạ nào nhớ đến cái tô quèn. Xin đừng nhắc tới nữa, đau lòng.
Ngày 31 tháng 3 dương lịch 1968 - Buổi chiều, thỉnh lình có bác sĩ H. đến. Ông từ Huế vào, vì máy bay giao thông trở lại. Anh em tay bắt mặt mừng, cả hai nói chuyện không thôi. Bỗng ông rút trong cặp da, cái tô “Đông mạch tụ cô tùng”, ông giao tô cho tôi, nhận đủ mười ngàn bạc, ông ra về, tôi cho giá nầy rẻ hơn giá bán ra của lão Khoá Ổi.
Được tô mừng không chỗ nói; ngâm nho nhỏ đủ nghe: “Rõ ràng trước mắt còn ngờ chiêm bao”! Cầm cái tô trên tay, vì trong trí đã từng gặp nạn như vầy nhiều phen, khiến tuy chưa làm thân chủ dưỡng trí viện Biên Hoà, nhưng trong trí óc phân vân tự ví cái tô kia không khác con người là mấy. Nếu con người nầy là trai trẻ, là đứa con dại đứa con hoang bỏ nhà đi biệt tích biệt tăm suốt mấy năm nay, nay trở về đó, lòng tôi bỗng quên hết chuyện cũ, để vui câu đoàn tụ, huynh đệ cha con sum họp; hơn nữa, hoặc giả người ấy là phận gái một đứa gái hư, một con vợ hỏng, đi biệt mấy năm mất tin mất dạng, nay tần ngần chường mặt ra đó, mình đã không ngầy ngà lại còn chứa chấp, không dám nặng nhẹ nửa lời tỷ dụ “Há” bó đi đâu khiến người ta thương thương nhớ nhớ. Nay về đó, lại còn nhõng nhẽo làm eo làm xách”. Lòng tưởng vậy, tay rút sổ vừa rung rung vừa ghi số mục lục cái tô là số 891. Cả đêm, mừng không ngủ.
Ông Khoá Ổi - Nhơn nói chuyện cái tô tái ngộ, xin có đôi hàng giới thiệu người chủ trước của nó là một nhân vật lạ lùng đất Huế.
Người mà tôi có can đảm đến viếng và được nhắc hôm nay, vì ông không có thi cử khoa nào, nhưng ông đã mua được chức “khoá” và ông tên Ổi, cho nên tôi gọi ông và viết tắt tên ông là K.O hoặc K. Ô. Nhắc lại, cụ Ấm là con nhà quan. Cụ nghè, cậu khoá, tuy không còn thi cử theo lối xưa, nhưng ai cấm cản mình tự.phong hay mua phứt nếu triều đình bán: để xưng hô mà. Vì vậy mà tại Huế, trong thành nội, có ông Khoá Ổi, cũng như đường Hàng Bè có cụ Nghè Hưng, cả hai đều mua bán đồ sứ cổ. Trước đây, ông Cố Trầu, hễ ai muốn dâng lễ lộc, hễ Cố nghe món ấy vật ấy từ nhà cụ Nghè có chân bước ra, là Cố cười hì hì, hai tay thâu nhận, cũng như sau lưng nhà cụ nghè, trên đường Phan Bội Châu, ở trong một hẻm cùng ở sát bờ thành, có đến hai nhà chuyên bán đồ cổ, hai nhà đâu mặt nhau: người anh mập mạp, tên Nai, thì đã dời sự nghiệp về Sài Gòn, còn người em gái, vẫn còn nhà y chỗ cũ; trước đây, chồng chuyên đi lùng mua từ xóm quê nhưng chưa vội trả tiền, kẻ bán gánh gánh hàng đến nhà người vợ thì bị chê mắc, chê xấu, lỡ đem đến đây không lẽ gánh ngược trở về, thôi thì chịu ép hạ giá, vợ chồng toa rập như thế mà làm giàu rất mau. Nơi đường Võ Tánh (Minh Mạng cũ), mé hữu đầu cầu Đông Ba, từ phía chợ bước qua, có một nhà chuyên bán từ chiếc mề đay cũ bằng đồng, bằng bạc của thời các vua xưa nhà Nguyễn, đến bạc nén bạc thoi, hoặc cổ tiền đủ niên hiệu từ Cảnh Hưng đến Bảo Đại, ở đây thỉnh thoảng còn gặp bán vài món cổ vật có giá trị.
Nhưng đi lên một đỗi nữa, cũng còn trên đường Võ Tánh nhưng mé tả, số nhà 53 có một cụ già, theo tôi, lúc đó tại đất Thần kỉnh, cụ Ấm Tư, mới thật là một tay sành sỏi biết chơi cổ ngoạn. Một nhân vật hiếm có, sót lại của thời đại cũ. Lúc sinh tiền, cụ thường dặn tôi rằng: “Ở đời phải biết đờn cho thật tươi, nhưng nên đờn khi hứng cho mình đủ nghe, và nhứt là không nên làm nghề đờn cho đào nó hát lấy tiền; cũng như nên tập chơi đồ cổ cho thật tinh, nhưng chơi đồ cổ để di dưỡng tỉnh thần, mà không nên và tránh đừng trở nên một con buôn đồ sứ phớm phỉnh”. Nhà cụ rất thanh bạch, nhưng tánh cụ rất hào phóng. Khi cụ thích ai, mến được tánh ý, cụ chơi hết mình: ấm gan gà, ấm Thế Đức, bầu sành be sứ, cụ tặng không, không tiếc, một hai không nhận tiền, ép nài cách mấy, không là không. Giữa nhà, nhà lợp tranh nhưng rất tỉnh khiết, thấy treo một biển son đề ba chữ vàng: “Thừa Thiên Sủng” và hai câu liễn cũng chữ vàng:
Long chương nhựt tuấn tam quân lịnh.
Hổ trướng nhân khâm bát diện tài
Hỏi ra ông thân của cụ trước là võ quan hai đời Thiệu Trị và Tự Đức, tức là thống chế, vốn một tay thiện xạ từng theo vua lên núi nhiều phen đuổi thú, săn hổ, săn nai, nên biển và liễn kia không xấc. Cụ Ấm thường đóng cửa ở nhà không giao thiệp với ai, và tôi nhờ cụ Hường Trung Nguyên Hữu Tiến giới thiệu, nên cụ xem là bạn vong niên, nhưng tôi phải học đi bộ cho giỏi, thì mời theo kíp bước chân của cụ, mỗi lần không biết lướt mấy cây số ngàn mà kể. Người quắc thước, lúc tôi đến nhà là xuýt xoát tám mươi, nhưng trông cụ còn khỏe người lấm. Ngờ đâu cách vài năm sau, bỗng nghe cụ Ấm đã mất, vì bị giết trong một đêm mưa dai. Ô hô! tám mươi chưa khoe mình lành. Khoá Ổi tôn cụ Ấm làm hàng thầy, và thường đến nhà vấn kế.
Còn vài nhà nữa, rải rác trong một thành phố nhỏ, cũ kỹ, chung quanh là núi lấp thấp và một con sông rất làm biếng Sông Hương lờ đờ. Muốn tìm các nhà ấy không khó, nhà trong lỗ miệng. Toàn là các tay tập chơi và học bán, chưa phải lành khoa cổ ngạn, và cả thảy đều thua xa ông Khoá Ổi. Ông khoá biết chữ Nho nhiều để đáng mặt thầy khoá. Nhờ ông sưu tập lâu năm và có học thức khác nên nhà ông có chứa chấp nhiều món cồ vật độc đáo. Khác hơn những hạng kia, Khoá Ổi bán với một giá cắt cổ, người nào không ưng mua. Ông không ép, nhưng dám mua, khi đem về nhà, xem lại thì quả không chỗ chê, và rất đáng tiền. Chính nơi đây, tôi đã đào ra một cái đĩa mà nhiều tay mơ cho rằng không đáng mặt làm nắp hũ dưa chua”! Vì cái đĩa ế độ nên chờ lọt tay tôi. Khi tôi có đĩa rồi tôi cậy người hay chữ đọc hai câu thơ đề trên đĩa, thì tôi mừng như ai cho vàng. Thơ đề:

Mó rận luận chơi thời sự
Ngã lừa, mừng tuổi thái bình
Một cái đĩa thứ hai cũng gặp nơi này, trong một kỳ khác đọc là:
Vắt chân nằm ệch ngáy o o,
Ngẫm xem chẳng khác Đường, Ngu thói thuần
Hai đĩa nầy, với cách trình bày đơn sơ, mộc mạc, ẩn một mỹ thuật kín đáo, mới mẻ, theo tôi, quả là hai vật quý của triều Tây Sơn, người chơi đồ cổ có bản lĩnh, dẫu có duyên phần cách mấy, cũng không chắc gặp lại hai lần. Vàng ròng không đổi. Nhưng tôi đã sa đà, quá trớn.
Trở lại Khoá Ổi, trong khi các tay mơ tập bán đồ xưa, chưng bày đầy nhà để câu khách, trái lại Khoá Ổi, cao tay ấn và theo một phương pháp khác hẳn, đồ cổ của ông, ông giấu ém trong hai cái tủ gỗ kê sát bộ ván gõ là chỗ ông nằm khi trưa cũng như lúc tối, còn món nào xét ra quý hơn nữa, thì ông để trong tủ sắt kiên cố cũng kê khít đó. Khi nào có khách sộp đến nhà, ông chưa vội đem ra bán đâu, ông nói chuyện vòng vo Tam quốc, ông lấy ấm quý trà ngon ra bày, ông pha trà thật ngon, thật khéo để đãi khách, cách ông chuyên trà là cả một nghệ thuật khó bắt chước, thảm một nỗi là người ông khô đét và ông ho sù sụ, người khách phát ngán, vì xã giao, bưng chén trà lên ngửi rồi để xuống, nhưng ông không thèm để ý, vì ông mắc lo lấy từng món lạ ra cho xem, và ngã giá. Khách thích đĩa xưa, thì ông có đến mấy chục bộ khác nhau, và cái nào cũng có điển tích hay và lạ, món nào đĩa nào khách cũng ham muốn. Nhược bằng khách thích tô có thơ nôm, hoặc các món khác hằng cổ ngọc, món chi ông cũng đều có và rất khác, không giống những vật chưng bày nơi mấy nhà kia. Người khách nào ngã giá xong và đang sắp sửa gói đồ ra về, khi ấy, ông thu xếp những vật khách không để mắt xanh, ông cất tiền kỹ càng, ông chờ khách nói câu từ giã, ông mới nói một câu thòng mời khách nán lại đôi giây, rồi ông lôi từ tủ kín lôi ra, ông khoe một món chưa cho xem và ông bán nữa. Khách nào như tôi, không dằn lòng ham muốn được khi ở nhà Khoá Ổi ra về, tuy nặng ba ga, mà túi nhẹ không hay. Còn gì tiền mai nầy mua mè xửng, mua nằm Huế về lo lót má bầy trẻ? Nhà Khoá Ổi ở số 12o đường Nguyễn Thành, trong Thành Nội ngõ Đông Ba đi vô một đỗi. Không biết bây giờ cảnh ấy còn như lúc tôi được biết hay chăng
26 (tt): B. Hình dáng cái tô.
Cái tô nầy tròn và khá rộng lòng tô cạn trẹt trẹt, kiểu chuyên môn quen gọi là kiểu “lòng chảo”. Tô nầy đo:
- Bề ngang trên miệng kinh tâm, đo 215 ly Tây (215 mm);
- Bề cao, từ đáy đo lên miệng: 80 ly Tây (80mm);
- Kinh tâm dưới khu tô: 85 ly Tây (85mm);
- Số vô bộ mục lục: 891.
- Ngày mua: 31-3-1968.
- Giá mua 10.000 bạc năm 1968.
Trong lòng tô, trắng buốt còn bên ngoài, vẽ năm con nai da lốm đốm như bông mai điểm trên mặt đất, chuyên môn gọi kiểu “điểm mai hoa lộc”, năm con lộc nầy đứng dưới gốc một cây cổ tùng, và cảnh trí xơ rơ hiểu ngầm là vào mùa thu, mùa đông lạnh lẽo. Kế bức vẽ, có đề một hàng chữ Hán, đọc là “Đông mạch tụ cô tùng”. Đặc biệt của cái tô nầy là ở dưới đáy, có đề mười sáu chữ vẽ trong một vòng tròn và đọc là: “Tự Đức Mậu thìn trung thu Đặng quý từ đường tế khí đông mạch cô tùng”.
Tôi xin dịch tùng chữ là
- Tự Đức: đời vua Tự Đức (1847-1883);
- Mậu Thìn: năm Mậu Thìn đời Tư Đức là năm 1868 dương lịch;
- Trung thu: tức ngày rằm tháng tám âm lịch;
- Đặng: họ Đặng;
- Quý: nhỏ, bực thứ;
- Từ đường: nhà thờ tổ tiên, phủ thờ của một họ;
- Tế khí: đồ dùng trong việc cúng tế tổ tiên, hoặc thần Phật;
- Đông: mùa đông;
- Mạch: đường huyết chạy trong thân thể;
- Cô: một mình;
- Tùng: cây thông, cây nầy lá được luôn luôn xanh, biểu hiện người quân tử, gặp cảnh ngộ nào cũng không đổi tánh, vẫn giữ y như cũ.
Mười sáu chữ ấy gộp lại có nghĩa chung là: “Làm vào ngày Trung thu năm Mậu Thìn đời vua Tự Đức (1868), vật dùng làm đồ thờ để tại nhà từ đường của họ Đặng, dòng út”. Riêng bốn chữ “đông mạch cô tùng”, viết luôn thêm chữ “tụ” cho đúng câu thi ngũ ngôn “Đông mạch tụ cô tùng” mới xem dường khiêm tốn, nhưng xấc ngầm, ý hiểu: thân tôi khác thể gốc tùng già, trơ trọi lá tuy vào mùa đông, nhưng nhờ đất có phong thuỷ tụ, chứng cớ là có năm con nai (ngũ lộc) tựu hội nằm dưới gốc.
Dựa theo hai chữ “tế khí” thì định chắc tô nầy đặt làm để dùng chứa nước tinh khiết dâng trên bàn thờ, gọi tất là “tô thờ, tô cúng”. Đúng ra phải đủ cặp, vì tục dạy thờ đủ cặp, để kèm hai bên chiếc lư đồng, hai đầu có hai chưa đèn lớn. Vả lại, vì là tế khí, nên lệ đặt làm có một đôi, hoặc làm hai đôi nếu nhà có hai bàn thờ tả hữu, và như vậy không bao giờ đặt làm nhiều hơn, như các vật dụng chén đĩa từ khí khác. Hiểu như vậy rồi, trong trí tôi nảy ra câu hỏi: “Vậy thì còn một cái tô nữa cho đủ cặp, hiện nay ở đâu?”.

a) Nếu có tại nhà họ Đặng, thì cố nhiên người đi tìm mua (có lẽ là ông Khoá Ổi) không dại gì bỏ sót lại, vì bán đủ cặp được tiền hơn bán lẻ, và đã rinh luôn một lượt và đã như cái tô nầy, hiện nay lọt về tay tôi rồi.
b) Theo ý riêng tôi, thì tôi định cái tô thứ hai, nếu có, thì lúc ông Khoá Ổi gặp, đã không còn nữa, hoặc đã bể hoác đã mất, chớ không lý, tôi xin lặp lại, không lý ông Khoá Ổi là người lão luyện trong nghề, lại thiếu tâm lý rứt tô đủ cặp ra bán từng cái một cho mất giá, và tô trở nên vô dụng vì không ai thờ tô lẻ loi trên bàn thờ. Về tục lệ đồ hương hoả, nếu có chia chác, lúc phân chia gia tài, thì đồ tế khí thuộc về người con trưởng thừa hường để tiếp tục việc phụng tự tổ tiên và vẫn được lãnh đủ cặp đủ đôi mới dùng được Như thế thì tô thứ hai kia đã không còn, và cái tô hiện tôi có đây là tô duy nhứt, nói theo chữ là tô “độc nhất vô nhị”. Chính ông Khoá Ổi không nghĩ đến chi tiết nầy, nếu ông biết ắt ông không bán với giá 6.000 đồng mà còn bán mắc nhiều hơn nữa. Đối với gia đình thờ phụng ông bà thì cần dùng tô đủ cặp, còn đối với người chơi đồ cổ như tôi, thì càng hiếm lại càng quý, và tôi có cần dùng làm chi tô đủ cặp, tô lẻ còn một cái một, mới là quý cho chớ!
Mà cũng không phải vì nó có một cái duy nhứt, nên tôi gọi rằng quý, và vì vậy mà tôi tìm mua cho kỳ được. Sở dĩ tôi mua mắc là tôi hiện cần dùng những cổ vật để chứng minh về nước men các đồ sứ gọi bleu de Huế (đồ sứ men lam chế tạo cho Huế), (tôi nhấn mạnh “đồ sứ chế tạo cho Huế”, làm riêng cho Huế dùng, chớ không phải đồ chế tạo tại đất Huế, làm và sản xuất tại Huế. Danh từ Pháp “bleu de Huế” nầy đã làm cho nhiều người chơi đồ cổ hiểu lầm về chi tiết nầy, nay xin đính chính).
Hiện thời, trong nhà tôỉ cũng như suốt một đời tôi, tôi đã hi sinh, nhịn ăn nhịn mặc, nhịn đi ciné, thà để vợ con rách rưới, là vì tôi mê đồ cổ: có bao nhiêu tiền tôi đều cúng cho đĩa sứ men lam.
Kể ra, tôi sưu tập khá nhiều và đã có nhiều món đủ chứng minh những vật chế tạo vào những năm có phái đoàn nước ta đi sứ sang Trung Quốc, tỉ như:
1) Bộ chén trà năm Giáp Tý (1804), tức bộ chén nầy làm để kỷ niệm năm vua Gia Long nhân sắc phong của thanh đế. Đúng ra vua tức vị năm Nhâm Tuất (1802) đã lập đàn lễ cáo trời đất, thiết triều cho các quan lạy mừng, và đặt niên hiệu “Gia Long nguyên niên” vào tháng năm năm Tuất ấy, nhưng thật ra đến năm Giáp Tý (1804), Thanh triều mới sai án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang Hà Nội tuyên phong, và đến năm Bính Dần (1806), vua mới làm lễ xưng đế hiệu tại điện Thái Hoà (Bao nhiêu chi tiết vặt vãnh nầy đủ chứng minh mấy năm đầu niên hiệu Gia Long, trong nước vẫn chưa đại định).
2) Một bộ chén khác, vẽ tích “ngũ liễu”, làm vào nam đi sứ triều vua Tự Đức, chén trà ngũ liễu có rất nhiều, nhưng đây là bộ chén chế tạo vào năm đi sứ năm Đinh Tỵ (1857), ngụ ý mượn hai chữ “ngũ liễu”, cũng đọc trại trại “ngũ lão” để cầu viện binh, lấy cớ năm ông lão đời cổ rất là thân thiện với nhau. Hai năm sau, năm 1859, thì xảy ra trận giặc Việt đánh với giặc Pháp và I-pha-nho hiệp sức cấu xé nước ta và đoạt đất Nam Kỳ (giặc năm Kỷ Mùi 1859);
3) Tô vẽ tứ thời, để niên hiệu đi sứ năm Gia Long Mậu Thìn (1808);
4) Tô vẽ tích “anh hùng độc lập”, vẽ một con gấu đúng dưới gốc cổ thụ, và một con ó dữ đậu trên cao, kiểu nầy vì vậy cũng gọi kiểu “ngấu ó”. Niên hiệu đề “Canh Thìn” (1820), đây là năm đi sứ triều Minh Mạng sang Trung Quốc cầu tấn phong. Xét theo nước men, bộ chén nầy cổ hơn men bộ “ngũ liễu năm 1857” thì đã đành, nhưng phải cẩn thận và không nên đưa bộ chén lên một con giáp nữa, tức năm đi sứ 1760, Cảnh Hưng năm 21, sứ bộ do ông Lê Quý Đôn cầm đầu. Bộ chén nầy, nước men tuy già dặn, nhưng định năm 1820 là đúng, chớ định năm 1760 là quá hớp.
Phàm chơi đồ cổ có chân tâm, phải dè dặt, phải cẩn thận, thà định tuổi thấp, cho người thức giả kéo lên là vừa, chớ định cho cao để sau nầy có người bác bỏ thì còn gì uy tín;
5) Lại có một bình tích sứ thật to còn đời nắp vòi, vẽ tứ linh và mỗi con long lân qui phụng, đều có kèm một bài thơ kế bên. Hiệu đề “Thạnh tường thuỵ chế”. Bình tích nầy, do vóc thật to, làm cho tôi suy nghĩ, trong Nội phủ, thuở xưa đã chế tạo vật nầy để dùng chung trong phủ, trong nhóm cung nữ phi tần, khác với ấm con dùng riêng vua chúa. Ban đầu, tôi định vật nầy làm để dâng cho chúa Trịnh Sâm (1767- 1782). Vì Tĩnh Đô Vương, lấy hiệu là thánh Tổ Thạnh Vương. Nhưng xét một lẽ khác thì bình tích nầy khéo quá, độc đáo quá, nên sắp vào hạng “quân diêu” (kuan-yao) mới vừa. Phải cũ kỹ hơn men Kiền Long (1736-1796) là vua đồng thời chúa Sâm. Nhưng năm Canh Tý (1780), chúa ăn lộc tứ tuần; qua năm 1782 (Nhâm Dần) chúa mất (chúa sanh năm 1739, Kỷ Mùi): còn nước men nầy già giặn hơn nhiều, thì phái làm sao Vì lẽ ấy sau tôi định lại, rằng bình tích nầy chế tạo vào đời vua Khang Hy (1662-1722), và vì xét theo bốn chừ “Thạnh tường thuỵ chế”, tôi định chục lại là làm vào năm ăn mừng Khang Hy trị vì đúng mười con giáp (sáu chục năm), như ấy là năm Nhâm Dần 1722. Thuyết nầy thêm vững, vì sau nầy tôi cậy người dịch kỹ những bài thi trên bình thì đều ca tụng một buổi thạnh triều thạnh trị, ám đời chỉ Khang Hy mới đúng, việc nầy tôi có nói rõ trong tập số 9 bộ Hiếu cổ đặc san, nên ở đây tôi không lặp lại. Còn cái thuyết trước định chế tạo cho chúa Sâm, tôi xin nói, vẫn chưa sai, vì bình nầy gặp tại Huế, tức trên đất Việt Nam và có lẽ do một sứ bộ Việt thỉnh về từ trước, để dâng chúa Sâm vào dịp lễ tứ tuần: rồi sau đó, bình theo gót lưu vong, lạc loài mãi, vô Huế, sau rốt lọt về tay lão Vương già. Việc tuần hườn trời đất nói không cùng: riêng về khoa giảo nghiệm đồ sứ cổ phải cho phép bàn đi cãi lại, và không nên quyết đoán lắm, e sai với thực tế, còn hấp tấp quá, vội vàng quá, cũng không xong. Sức bực các nhà thông thái giỏi hơn bá bội còn lầm; duy có người chê đè, ghét triều Nguyễn, rồi ghét luôn đồ sứ Nguyễn, thì cho tôi can. Mẹ cú đẻ con tiên; thằng an ninh, thằng công an, ghét đã đành, nhưng con nó có tội tình gì, thêm thật đẹp, thì mới làm sao? Tôi đã quá tuổi tôi không dám thêm thắt lời nào, duy sẵn tánh khoan dung, nếu không ai thâu nạp thì tôi sẵn lòng chấp chứa, dẫu có tội cũng chịu.
Tóm lại, tôi có đủ dùng để nghiên cứu, duy thiếu một vài món để chứng minh giai đoạn gần đây, khoảng một trăm năm làm hạn.
Ban sơ tôi gặp được cái tô Đặng Huy Trứ nầy, để rõ làm vào năm Mậu Thìn đời Tự Đức (1868), tức được một trăm năm, đáng lẽ tôi mua liền đó, nhưng tôi đã dại dột bỏ mất cơ hội nào chê men mới, nào chê giá mục, đến khi giựt mình hồi tâm, biết rõ “nó mới”, chính vì nó chỉ có một trăm tuổi (1868- 1968), và nước men đồ sứ làm năm 1868 là dường thế, cái tô nầy đã có niên hiệu Mậu Thìn (1868) làm chứng, mà tại sao lúc gặp tôi còn chần chừ?
Trở lại thiên khảo luận của tôi, “Tìm hiểu men lam xứ Huế” thì được cái tô nầy, không khác ai cho một trang kết luận lý lẽ xác đáng, tôi không mừng sao được. Một điều nên tha thứ và thông cảm cho nhau, là trên đời không ai dám khoe trọn lành và lành nghề. Dẫu kinh nghiệm có thừa mà trong túi anh Hai đi vắng thì người đó cũng hoá dở, vì mảng do dự làm mất cơ hội như tôi là thường thấy. Nếu phải được chánh phủ viện trợ, tài trợ, tiếp tay chút ít, thì đâu có xảy ra việc lôi thôi, nhưng nếu được cung cấp dồi dào quá, nhiều khi cũng không hay, vì bạ đâu cũng mua, gặp đâu cũng gọi là quý, cho nên tôi nói: thiếu hay thừa đều có sở trường sở đoản. Dám khuyên ai muốn bước chân vào nghề hãy có đủ can đảm chịu nghèo, thà mua lầm, nhưng cũng cần xem đi xem lại, cho kỹ trước khi mua một món đồ, miễn đừng quá chần chờ như tôi, không khéo sẽ bỏ qua nhiều dịp tốt.
b) Để hiểu biết thêm về chuyện cái tô, tôi xin trích ra đây hai tài liệu về tiểu sử ông Đặng Huy Trứ, là người đã đặt lò sứ bên Trung Quốc làm cái tô và vốn là người chủ trước nhứt của cái tô nây:
1) Tài liệu dựa theo bản dịch ra quốc ngữ của bộ Văn hoá Sài Gòn:
Lúc ấy có lời ca dao rằng:
Thế gian Đặng Trứ là đầu,
Chiếc thuyền thương mại sang Tầu, sang Tây.
2) Và sau đây là tài liệu theo bản dịch của NXB Văn hoá, Hà Nội, sao lục từ Paris gởi về:
511 - Đặng Huy Trứ (thế kỷ XIX):
Đặng Huy Trứ, tên tự là Hoàng Trung, người tỉnh Thừa Thiên.
Không rõ ông sinh và mất năm nào. Thuở nhỏ, ông nổi tiếng thần đồng. Niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843), ông đậu cử nhân, rồi thi hội trúng cách, nhưng bị phạm trường quy, thành ra hỏng tuột.
Niên hiệu Thiệu Trị thứ 7 (1847), ông thi lại đậu thủ khoa. Niên hiệu Tự Đức (1848-1883), ông làm tri huyện, thường dâng sớ điều trần về những điều ích nước lợi dân. Tự Đức cho làm Bình chuẩn sứ, trông nom việc buôn bán ở các cửa biển và tàu thuyền xuất nhập.
Tác phẩm có:
- Hoàng Trung thi sao (thơ), VHV. 83, VHV.294;
- Tứ thư văn tuyển (văn), VHV. 341;
- Tân niên Thanh Khang Hy ngự đề canh chức đồ phó bản (nghệ thuật) VHV. 823;
Nhị vị toàn tập (văn), VHV. 942;
- Việt sử thánh huấn diễn nôm (sử, văn);
- Nhị Hoàng di ái tập (văn);
- Bách duyệt tập (văn);
- Tòng chính di quy (văn);
- Sách học vấn tân (giáo dục);
- Đông nam tân mỹ lục (văn);
- Tứ thập bát hiệu ký sự (sử, văn)
Ngoài ra ông còn san khắc nhiều sách, như Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái.

(Lược truyện các tác giả Việt nam (tập 1): tác giả các sách Hán, Nôm. Trần Văn Giáp chủ biên. Tạ phong Châu, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Tường Phượng, Đỗ Thiện, trang 408-409), căn cứ theo tài liệu xuất bán ở Hà Nội, thì Đặng Huy Trứ thi đậu thủ khoa năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Còn xem lại tài liệu Sài Gòn thì ông đậu giải nguyên năm Tự Đức thứ 7 (1854). Không biết bên nào nói đúng? Muốn tra cứu bộ Đại Nam chính biên liệt truyện, thì bộ nầy chưa dịch ra quốc ngữ, đành chịu thôi.
Khi tôi ra Huế, về tiểu sử Đặng Huy Trứ, tôi nghe thuạt lại ông có một tiểu thơ gả cho một người Pháp, sanh được hai trai đều làm giáo sư, một ông dạy ở Huế, một ông dạy ở Sài Gòn, đều tên có chữ C. đứng đầu, tin nầy xin cho hậu cứu.
Năm 1955, ở Viện bảo tàng Khải Định (Huế), tôi có chụp được ảnh một đĩa cổ, tuy đĩa đã nứt làm đôi, nhưng nếu tàng trữ tại viện thì rõ là đĩa hiếm lạ: đĩa nầy vẽ hình cá lội giữa đám rong, và sau đáy có đề một vòng tròn Hán tự, đọc là: Tự Đức Mậu Thìn, Trung thu, Đụng quý từ đường tê khí ngư tạo” cả thảy mười bốn chữ, và xin đọc kỹ “ngư” là cá, đừng lầm “ngự tạo” là đồ ngự chế cho vua dùng.
Ngoài ra, cũng đồ từ khí tìm được tại nhà thờ họ Đặng, nhưng thuộc dòng cả, tôi may mắn gặp lại hai cái tô chấm san thuỷ giống nhau và da rạn, đáy ký hiệu chữ “nhựt” (đời Tự Đức). Nơi đáy có chạm thêm rất sâu, bốn chữ đọc là “Đặng bá từ khí”. Như vậy đây quả là tô chứa nước cúng trên bàn thờ nhà họ Đặng và thuộc dòng lớn. Nhưng đây không phải là tô đặt làm riêng, vì ký hiệu “Nhựt” chớ không phải hiệu “Đặng quý tế khí” v.v... Sau nầy, tôi từng gặp lại nhiều tô ký hiệu Nhựt và cũng chấm san thuỷ y như tô nầy, khi ấy tôi khám phá ra tô san thuỷ Nhựt cũng là tô do Nam triều đời vua Tự Đức phái cho ông Đặng Huy Trứ, chức dinh điền sứ đặt lò Trung Quốc làm, và có lẽ ông Trứ, nhơn thấy kiểu tô khéo, nên có lấy lên vài cái chạm thêm bốn chữ “Đặng bá từ khí” và dùng làm tô cúng nước nơi nhà riêng chăng, và đây cũng là lập luận phóng ước của tôi mà thôi. Như đã nói, tôi gặp lô kiểu “san thuý hiệu đề chữ Nhựt” nầy nhiều lắm, gặp trong Nội phủ và rải rác gặp nơi các hiệu buôn đồ cổ Huế và ở Sài Gòn đâu có, nhưng tôi dám quả quyết đây là loại tô đặt riêng cho triều đình Huế dùng, một là vì có bài thi nôm hai là nét chấm phá nùi non đều đặc biệt là núi non vùng Huế. Nội cái bài thơ chữ Nôm nầy, cũng đủ gọi tô quý. Trong giới chuyên môn chơi đồ cổ, thường đặt nhiều danh từ chuyên môn riêng để dùng, tỉ dụ những đồ đặt chế tạo trong năm đi sứ thì gọi “đô sứ”, hoặc giả đó là đồ vẽ theo ý thức riêng của mình thì gọi “đồ ký kiểu”, và cặp tô nhà họ Đặng nói đây, đều thuộc hai loại nầy. Bài thi nôm là bài ngũ ngôn bát cú nhưng không viết làm tám hàng:
Một thức nước in trời,
Đò ai chiếc lá khơi (hay là “lửng lơ khơi “)
Non xanh xem vọi vọi,
Dòng biếc thấy vơi vơi,
Mắng khúc Thương Lang khảy
(có người đọc: “Hò khúc Thương Lang gởi”)
Ưa tình lữ khách chơi;
Mong chờ yên sóng gió
Qua lại mặc người đời.
Chớ chi người chế tạo cái tô nầy, ưng viết bài thi nôm ra tám câu như trên đây thì không có chuyện. Đằng nầy, nhơn khúc san thuỷ choán gần hết chỗ là một lẽ, còn một lẽ khác là người Trung Quốc họ thích trớ trêu đấu trí, cho nên bài ngũ ngôn bát cú nầy, họ ghi trên tô làm sáu hàng, mối hàng bảy chữ y như sau đây:
Một thức nước in trời đò ai
Lửng lơ khơi non xanh xem vọi
Vọi dòng biếc thấy vơi vơi mắng
Khúc Thương Lang khảy ưa tình lữ
Khách chơi mong chờ yên sóng gió
Qua lại mặc người đời CẨN BÁI
Đã là thơ ngũ ngôn bái cú có bốn chục chữ, mà không viết làm tám hàng theo cổ lệ, mà nhè viết làm sáu hàng bảy chữ, vị chi là bốn mươi hai chữ, thiếu đi hai chữ, ông thợ Tàu ta bèn thêm đại hai chữ “cẩn bái” vào, khiến nhà văn Tàu “lạc ông Bổn”, và nhà nho Việt cũng lạc lối, không ai đọc cho ra nghĩa, thiệt là rắc rối và thú vị. Vả chăng chữ nôm đã là mắc mỏ, thêm người viết không thành thạo lối chữ nầy, khiến cho nhiều chữ hoặc thiếu nét hoặc dư nét, và sắp đặt bay bướm theo kiểu “Ba Tàu” nầy, thì quả là một bài toán đố hay một lối phát toa kiểu Cống Quỳnh? Cái thú bất ngờ của khoa chơi cổ ngoạn là vậy.
Việc đâu còn đó, nay dựa theo câu “Mong chờ yên sóng gió, Qua lại mặc người đời”, nhắc lại năm tôi còn làm nơi Viện bảo tàng Sài Gòn, tôi có viết đăng báo Việt và báo Pháp, trong bài tôi đưa ra lập luận định chừng:
1) Tô làm vào những năm đại loạn sau khi vua Dục Tôn (Tự Đức) thăng hà (1883),
2) hoặc làm vào năm vua Hàm Nghi mông trần (1885);
3) Hoặc giả làm lúc vua Tự Đức còn tại vị (1847-1883).
Tôi đã nói từng gặp tô nầy ngót mấy trăm cái, chứa nơi kho của Viện bảo tàng trong Nội ở Huế, vả chăng đức Dục Tôn, tên huý là Nguyễn Phước Thời, (chữ Thời, cung đọc Thì, thuộc bộ Nhựt), cho nên ngài lựa chữ “Nhựt” làm hiệu đồ sứ. Có lẽ tô nầy đặt làm cả lố bên Trung Quốc khi đem về tới Huế thì rủi vua băng, chưa kịp phân phát trong hoàng thân hoàng tộc, cho nên còn rất nhiều như tôi đã thấy.
4) Một thuyết khác nữa, và chỉ định chừng, không bằng cớ nào chứng minh, là tô nầy cũng có thể do một ông hoàng nào đó ra kiểu. Ông hoàng nầy có lẽ được triều đình rước lên ngôi báu thay vua Dực Tôn, nhưng ông hoàng ấy ngao ngán thế sự thấy toàn những gương không tốt đẹp, Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phước, đều bất đắc kỳ tử, làm vua chưa nóng ngôi tôn, nên ngài nhượng bộ cho ông khác, và thổ lộ can tràng trong bài thi có nhiều ý nghĩa nầy, thà làm ông hoàng nghèo mà sạch, thà làm ông thi sĩ được danh lưu hậu thế, còn sướng hơn làm vua trong ba hồi trống giục.
Ông hoàng phi-lô-sốp nầy là ai, cũng như trong bốn thuyết, thuyết nào là đúng? Tôi nêu câu hỏi đã nhiều năm mà chưa thấy trả lời. Kỳ tháng chín năm 1967, tôi ra dạy ở Huế là kỳ chót, tự tôi xin rút lui, vì linh tính bảo không nên kéo nhây ra ngoài ấy mãi.
Kỳ đó, tôi ngỏ ý muốn đến tận nhà cụ Đặng Huy Trứ để xem cho hản. Nhưng tất cả anh em đều khuyên tôi bỏ ý định lãng mạn ấy vì vùng Bao Vinh lúc đó kém an ninh. Vả lại nhà ấy đã bán đến đồ tế khí, thì liệu nầy còn giữ được chi nữa mà hòng đi.
Xét lại theo câu vè và câu ca dao để lại, và tin đồn “con ông lấy chồng Tây”.
Trong bài thơ, câu nhì có “thuở nào”, xuống câu năm có “thuở trước”, chữ trong bản Lê Quang Chiểu làm sao, tôi chép ra làm vậy, cũng như câu tám “liều khuây” hay “liền khuây”, tôi không dám động tới và xin chừa các nhà sành điệu dạy cho. Sau đây, xin ghi lại một giai thoại: Có một đôi thơ cũ là “Vi thuý đầu can nhựt, Kỳ sơn nhập mộng thần”. Hai câu nầy ghi trên một món đồ cổ, ông Trứ đã đổi lại làm hai câu thất ngôn như vầy: “Trước anh Vị thuỷ đầu can nhựt, Đại thánh Kỳ Sơn nhập mộng thần”. Một ông đồ nho đọc giùm tôi hai câu nầy và chép cho tôi “Trước anh vị thuỷ”, nhưng mặc dầu tôi dốt chữ, nhưng tôi tò mò mãi và khám phá ra, nên đọc “Trứ anh Vi thuý đầu can nhựt”, đọc “Trứ” chớ không phải “Trước”, và “Trứ anh” tức là “Anh Trứ”, tức Bố Đặng Huy Trứ chớ không ai dám làm như vầy. Ông đặt làm bình vôi có ghi câu Trứ Anh, ông bán bình vôi được nhiều tiền, ông sửa câu thi cũ, ông là người dám ăn dám làm, cho nên việc gả con cho Tây, tôi tin rằng có. Sanh tiền ông quá quắt không vừa: đạp đổ nề nếp xưa nên gả con cho dị quốc, giao thiệp rộng, nghe thấy xa, đi Tàu, đi Tây, những việc ấy, đã có người bàn nhiều, tôi không dự, duy tôi xin đồng bào ngày nay nhìn nhận: dừng về phương diện mỹ thuật và văn hoá, phải ghi công lớn cho ông, như vậy mới công bằng. Chính nhà vua rất hiểu, nên tuy “làm hao hụt công quỹ”, nhưng vua không làm tội nặng, chỉ giáng chức. Những tác phẩm ông để lại, nay còn giữ được chăng. Có phải vì mắc tội không đáng, nên ông soạn bộ “Nhị độ mai” mà không đề tên tác giả, và mượn nhân vật trong truyện, kể nỗi oan của mình?
Kết luận. Về cái tô “Đông mạch tụ cô tùng “, chuyện có ông Tây nào đó mua cái tô rồi nhượng lại mắc tiền, theo tôi, ắt là chuyện bịa của một người tập buôn đồ cổ, tôi không muốn nói nhiều, e mếch lòng một người bạn đất Thần kinh, dầu chi nay thảy đều là nạn nhơn của thời cuộc. Duy cho phép tôi nói, tôi chơi đồ cổ đã gần suốt một đời dài, mà chưa thấy nên thân chút nào. Nay đã gần xuống lỗ, tôi lại muốn chỉ cái “hư” đáng trách cho hết thảy mọi người thấy hòng lánh xa, vậy những lời tôi nói đây, đều thiết yếu và chân thật. Tôi dám khuyên các bạn, nếu còn đủ sức, nếu có phương thế, cũng nên tập chơi đồ cổ, mặc dầu đất đứng một ngày mỗi eo hẹp, nhưng theo tôi, cũng vì vậy, mà nên chơi để giết thì giờ. Lúc trước, có người giỡn tiền, vãi bạc cho gái, hết triệu nầy qua triệu kia, lại sao? Nếu lúc nhỏ, tôi học nghề thợ bạc theo gương ông bà, thì nay đã sạt nghiệp, treo giò. Nếu tôi bỏ nghề cạo giấy, xin môn bài buôn cổ vật, thì nay đã không còn mà chớ, thêm con cháu ắt đi vùng kinh tế mới (viết câu nầy năm 1978). Có dè đâu, đeo đuổi nghiên cứu ba cái lọ cổ ba cái đĩa xưa mà được an thân? Đố ai biết trước mà đi con đường đúng?
Trở lại nghề chơi đồ cổ, tôi xin nhắc không phải đụng giống gì cũng mua, mua của bá láp, đã tốn tiền thêm chật nhà, con cháu rủa cũng phải. Mua lếu mau sạt nghiệp, thêm không sắm được món gì bổ ích. Đó là phí công đi quét lá rừng, lá còn mãi, biết bao giờ rừng sạch? Phải lập chí và tìm bộ môn nào hạp với ý mình, như vậy mới thấy thích thú. Sơ lược tôi có mấy tỷ dụ nầy, mặc ý chọn lựa:
a) Đồ sứ có thơ nôm - Sắm nó, vừa có món lạ, vừa học nhom nhem chữ nôm chơi. Đây là môn tôi ưa thích, và khi tôi chỉ cho bạn, vô tình tôi kiếm thêm cho tôi nhiều địch thủ lợi hại, vì có nhiều tiền, nhưng vì là môn sở trường nên tôi không sợ. Đã là người Việt thì phải lo cứu vớt đồ sứ nôm, kẻo kíp chầy, đồ sứ nôm, tuy không chân, nhưng biết chạy.
b) Đồ sứ ký niên hiệu những năm đi sứ: Giáp Tý (1804) v.v... Phần nhiều, đây là những bộ chén trà độc đáo, của ông Tiên Điền, của ông Nghè Chu Mạnh Trinh, nói tỷ dụ, vân vân vừa chơi đồ đi sứ đem về, vừa chơi đồ của các nhà văn thời cổ? Bộ chén trà Mai Hạc (năm Quý Dậu 1813, có lẽ năm nầy cụ Tiên Điền đem về bộ sách Hán đẻ ra bộ nôm Kiều), một bộ nữa không đề thơ nôm, nhưng vẽ tích “tỵ dực điểu “, dưới đáy ký một niên hiệu đi sứ, trên mặt vẽ tích chim liền cánh, cây liền cành, đúng là của ông cha ta ký kiểu cho thợ Trung Hoa vẽ. Một bộ chén khác vẽ tích Trương Lương lượm dép cho Hoàng Thạch Công, sau trở nên thầy của vua, có thi câu: “Vĩ kiều trích ly trương, Trương Hoàng chuyển đạo thông”, ký hiệu “nhã ngoạn lưu phương” nhưng rõ là đồ đi sứ mua về, nhưng bộ nầy làm sao bì một bộ khác cũng vẽ một tích lượm giày, nhưng câu thi vẫn đổi ít chữ: “Trích lý yên hà ngoại, ân cần cố quốc tâm”. Câu nầy tôi hiểu nghĩa mập mờ thì đã thích thú rồi, nhưng một hôm, có một bạn đưa tôi đi tìm thăm chị Phù Dung trên một động cao, dưới thang ông bạn bắt tôi tuột đôi giày Ba ta, và khi leo lên lầu, tôi gặp yên hà đủ mặt, chợt nhớ câu thi, tôi tỉnh giấc, rõ ràng “trích lý” và “ân cần cố quốc tâm” của tôi là như vậy,
c) Đồ đá, đồ đàn, chén trà, đĩa trà, tô uống nước trà Huế... Đừng chê đó là vật xấu xí, vì vật khinh hình trọng. Đồ da đá, đồ đàn là vật dụng của bình dân, của người củi lụt tay làm hàm nhai. Nếu có một bộ gồm chén bát đĩa tô của người khám phá khai khẩn ruộng vùng Hậu Giang, của đời Tây Sơn, của đời Lê Văn Khôi, Mai Xuân Thưởng, thì hay biết mấy. Trong khi có nhiều nhà quý phái sưu tập đồ ngự đồ quan, mình có đồ bình dân, mới là lạ mắt. Sách kể năm làm cách mạng bên Pháp, có một anh trốn trên gác sàn với một đồng chí phái đẹp, giặc lụt soát dưới nhà nhột quát chị nín không được, gởi bầu tâm sự vào cái mũ của anh chàng cùng trốn, ấy đừng chê dơ bỏ uổng, sau bọn ăng lê đầu sói nài cái nón làm cò-lét-xông, đội trên đầu tóc biết mọc ra?
d) Đồ gốm Bát Tràng là đồ da sành, sản xuất riêng biệt của làng Bát Tràng, nhưng đồ nầy, mình mua không lại anh em ngoài Bắc và trong Nam, đã có đồ gốm Lái Thiêu (Thủ Dầu Một) chơi tạm đỡ, và cả hai đều là đồ nội hoá quý.
e) Đồ sứ ngự chế - Toàn là của quý, gọi ngoạn hảo, của vua chúa khi xưa dùng. Có một món, vẽ trong lòng, còn chữ thì đề dưới đáy, làm như vậy cho bức tranh vẽ thêm lộng lạc. Và để phá một dị đoan, đĩa làm vào một ngày mười bốn âm lịch là ngày hộ, nên đề dưới đáy thế cho hiệu ký: “Trung thu tiền nhứt nhựt”, (làm trước trung thu một ngày, tức tránh được ngày mười bốn?), (hiện tôi có đĩa mà không có chén, ai có xin cho tôi biết).
f) Đồ gốm Thanh Hoá - (xin đừng lầm với đồ Thành Hoá là đồ bên Tàu).
Có thứ Tiền Tống, có thứ Hậu Đường, có thứ đời Nguyên (1279-1368). Đồ đời Đường, xưng Đường Ngọc, gốm đời Tống tặng là Tông Ngọc, mỗi món giá bằng một gia tài lớn, trên triệu, nhiều triệu. Đồ gốm đời Nguyên, cũng gọi Quan, đã là rất khó kiếm trên nước ta. Trên đồng bào Thượng thỉnh thoảng lại có, và đó là những chóe rượu cần đời Cố Hỷ lưu lai lại đến nay. Họ quý trọng lẩm, không bán đâu. Tôi dặn riêng coi chừng giả hiệu, vì bán được giá, nên con buôn thường giả mạo. Phải lão luyện sành sỏi lấm mới nên chơi các vật nầy. Nếu mua lầm, tốn nhiều tiền, rồi mau thất vọng, bỏ nghề chơi. Ngày xưa, khi làm đường xe hoả xuyên Đông Dương, phu đào đất gặp một vùng cổ mộ đời Tống tại Thanh Hoá, moi ra vô số đồ gốm cổ. Buổi sáng mỗi món thằng Passignat, chuyên bán đồ cổ ở Hà Nội, nó đến đây mua mỗi món một cắc bạc, tức một hào-chỉ (0$10). Đến buổi chiều, vẫn còn đem lại nườm nượp. Tây làm eo, trả năm xu mỗi món lành, có nứt một chút cũng không được. Ngày nay, những món sót lại, giá trên bạc triệu. Nhưng thủ lợi không phải là phu khai thông đường xuyên Đông Dương,
g) Đồ xưa da kiểu, đời Minh Thanh - Bộ môn nầy rộng lớn vô cùng, nếu bắt từ Đại Minh vua Hồng Võ, khởi sự năm 1368, đến vua chót Sùng Trinh (1643), nối qua đời Thanh từ Thuận Trị lập quốc (1644), đến Tây Thái Hậu Từ Hy (1911), giàu địch chánh phủ cũng chưa chắc đủ tiền để mua đủ bộ và đủ hiệu. Biết như vậy rồi, thì nên sắm chơi vừa phải, mua món nào thích, để cho có với người là được rồi. Nhưng bụng tham không đáy, và người chơi cổ ngoạn như bợm say rượu, như gái sai con, hứa với hẹn và thực hành, khó đi đôi. Người nầy vẫn đẻ, người kia vẫn say, còn tên chơi cổ ngoạn vẫn bòn rút vợ con để mua để sắm.
h) Đồ men lam xứ Huế - Tôi còn nhớ năm xưa, tôi viết làm vầy, nhưng có một anh ngồi ty kiểm duyệt, làm tài khôn, cho tôi viết sai, và sửa lại: “Đồ men làm ở xứ Huế”? Rõ ra anh chưa biết men lam là gì. Nay nói bleu de Huế, thì bị bắt lỗi là còn nói tiếng Tây? Tuy gọi làm vậy, nhưng vẫn là đồ Tàu, nguyên đồ các chú đem qua. Ngoại quốc mua tại đây, đem ra gần hết. Khi mua phải dè dặt. Mua vật ăn cắp chỉ nối giáo cho giặc. Bọn trộm biết bán có người mua, bắt bén ăn quen càng trộm già, và bán theo kiểu bán chạy: tiền trao cháo múc, nó bán được rồi rút lui, mình mua lầm, ráng chịu. Vả chăng mua lén đồ gian, tỷ như gặp đồ gốc của viện Huế bỉ mất cắp, những vật ấy đã có đánh số vô bộ kỹ càng, vốn là của công, sau truy ra, đã mất tiền mất của, lại thêm lôi thôi khổ thân bị đòi hỏi, đi chầu chực lòng thòng, nên đừng mua là hay hơn. Một điều dặn riêng, nói chung về mua đồ cổ, là cũng không nên quá nhát, không dám mua thì làm sao có của quý. Luận cho xác đáng, đồ gì lâu đời làm gì cũng đổi chủ, cho nên miễn mua chánh thức lại nhà buôn có môn bài thì khỏi lo, và chẳng nên mua vật nào của trẻ vị thành niên của bọn tôi tớ đánh cắp, của bọn bán dạo vô căn cứ, của bọn mua bán ve chai, những người ấy tình nghi là buôn đồ lậu, không nên rớ đến. Đại phàm, đồ xưa không khác tờ giấy bạc nhà băng, vốn là vật lưu động, hễ vào tay ai là người đó làm chủ. Đã có câu chữ Pháp “povsesion vaut titre” làm thông lệ rồi. Sở dĩ tôi dám khuyên mua sắm thêm, là vì tôi ước ao những người dư ăn dư để, nên tìm cách nâng cao mỹ thuật bằng cách tìm mua cổ vật, trước bày chơi cho vui cửa vui nhà, sau nữa hiểu biết thêm về cổ tích và lịch sử. Cũng là một lối vừa chơi vừa trau giồi văn hoá. Có người có tánh gian và chỉ muốn một mình mình có của lạ, nên xúi quân gian trộm của người khác bán lại cho mình. Đó là một mánh khóe của giới chơi cổ ngoạn, nên tránh. Bài nầy vì tôi muốn dẫn nhiều chi tiết nện đã quá rườm rà, đến lẩn thẩn. Về khoa chơi đồ cổ, không biết nói làm sao cho tường tận. Trở lại đất Huế, tuy vua chúa đã không còn, nhưng cổ tục nếp xưa vẫn còn. Nhơn vật ngoài ấy, quả rất nhiều tự ái. Không nên sớn sác khi ra ngoài nớ, rồi làm như còn ở đất Sài Gòn, xông đại vào nhà lạ rồi xin coi hoặc hỏi mua đồ cổ. Bị mắng cho biết chừng và mang xấu. Trừ những nhà buôn tôi không kể, các nhà khác đều còn giữ vật kỷ niệm, vật lưu lại của ông bà dòng họ để lại. Những nhà nầy, khi nào họ muốn bán ra, thì thường họ nhắn một người quen, làm môi giới, cho biết trước, rồi thương lượng với nhau. Giấy rách giữ lề mà. Nhứt là nhà mấy ông lớn, mặc dầu túng tiền, nhưng thể diện họ vẫn rất lo. Đừng hỏi đến, chạm lòng... Khi cần dùng tiền, các cụ sai tôi tớ ruột thịt đem ra mãi mại giùm. “Mi làm cho ta cái nầy một nghìn!” Đứa ở dạ một tiếng ba làng cũng nghe, ôm món ấy ra, bán được hai nghìn, đem về cho chủ đúng một ghim, và cả hai đều bằng lòng. Nếu bán cho người lạ mặt, sẽ được nhiều hơn gấp mấy, nhưng các cụ sẽ đỏ mặt, chửi đổng: “Quân bây vô lễ? Sao dám nhè nhà ta như vầy mà hỏi? Hói cái gì hừ? Đi ra!” Lật đật ngơ ngác rút lui, ấy là chưa hiểu tâm địa của người đất Huế.
(Viết ngày 1-7-1968)
27: Nghiên mực Tức Mặc Hầu của Dực Đức Tôn hoàng đế
Dẫn - Bài nghiên cứu nầy trước đây dã đăng trong Bách Khoa thời đại, số 290 -291 ngày 12 và 15-2 năm 1969 (xuân Kỷ Dậu).
Kế đó, tôi viết lại trong tập số 9 bộ Hiếu cổ đặc san, đề tựa ngày 17-6- 1973. Nhưng tập nầy xấu số, chết ngợp, cho đến nay vẫn nằm trong tủ và không xuất bản được.
Hôm nay, tôi soạn lại bài nầy là chép vào bộ Hơn nửa đời hư. Nếu có xảy ra việc gì chẳng lành: sách vở trong Nam bị đốt bỏ, bị tịch thu hay bị nấu làm giấy mới, tôi cầu xin trong ba bài của tôi còn lại một, là đủ cho tôi bằng lòng.
Nghiên mực Tứ mặc hầu là quốc bảo. Nay còn lưu lạc... Mấy trang nầy còn lại, ít nữa người nào đời sẽ biết giá trị của nó mà phăn lần, hoạ may tìm ra mà đem nó trả về Viện bảo tàng nhà nước. Khi ấy dẫu nằm dưới đất, tôi cũng yên tâm.
Vua Tự Đức trị vì từ năm 1847 đến năm 1883. Ông có tiếng là một ông vua hay chữ nhứt trong dòng Nguyễn Phước. Chính Thân Trọng Huề, năm xưa đã từng viết bài ca tụng tài học của vua, trội hơn cả, tài học lỗi lạc của các quan, tuy khoa giáp xuất thân, trôi đã có dịp thấy tận mắt tài ba của ngài, tiếc thay, như vịt nghe sấm, thằng đui ngắm tranh, vì tôi là thằng dốt. Năm 1958, nhơn một dịp ra Huế, lần đầu, tôi được ông chủ quản thủ Viện bảo tàng ngoài ấy, lấy châu bản ra cho xem. Châu bản là bản sớ tấu, tờ điều trần viết mực đen, chữ đen, của các quan dâng lên vua, và vua phê chữ son vào, nên gọi châu bản. Châu là chu, là son, là sắc đỏ. Châu bản triều Gia Long, chữ son phê rất ít, đôi hàng ngăn ngắn, viết thật đều. Châu bản hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị cũng na ná như thế, khi ít, khi khá hơn, không chừng độ. Duy qua triều vua Tự Đức châu bản mới thật là một rừng chữ son, chữ dày mịt, nhi nhít khít rịt và thẳng thớm, có khi trên nhiều tờ, còn nhiều chữ hơn phần sớ tấu của các quan gởi lên, tiếc vì tôi không đọc được. Đến châu bản đời Khải Định, còn thấy phê son bằng chữ Hán tự, duy đến đời ông Bảo Đại, quả là đại, ông nầy chỉ phê bằng quốc ngữ, có khi vấn tắt vỏn vẹn còn hai chữ ký tắt B.Đ, nhưng chữ thật to thật mạnh. Tôi thấy sao thì nói vậy, không biết tâng, mà còn gì nữa mà tâng. Bảo Đại học theo Tây, chơi thể thao Tây nhiều hơn cầm bút ngọc, chữ Nho, vả lại chữ Hán ông Tản Đà đã đem hết cả lên bán ở Chợ Trời.
Vua Tự Đức là ông vua hay chữ, nên những gì thuộc văn phòng tứ bảo, ông hết sức tâng tiu. Ông có một nghiên mực làm bằng đá Đoan Khê, ông rất ưng ý đến nỗi phong nghiên mực chức là Tức Mặc Hầu. Nghiễm nhiên ông đã nhân cách hoá (personnifier) một vật vô tri, một cục đá mài mực, phong quan tước hầu, vì biết dâng mực cho ông cặp kỳ, theo ý ông muốn.
Ngày nay ta đã mất tin dị đoan, mất hết ý vị thơ và thần, hết sợ ma, không còn mơ đến sự huyền bí tin tưởng phép tiên, phép tà thuật, cho nên tuy nghe vậy nhưng vẫn xem nghiên mực nầy cũng là vật tầm thường, như bao nhiêu vật và nghiên mực khác. Chớ vào cuối thế kỷ XIX, đời ông Tự Đức, khoa học chưa để chân vào nước ta còn thắp đèn dầu mù u, sang lắm là dầu phộng hoặc đèn sáp trắng - vào đời ấy có một cục đá mài mực khô ngoeo, cầm không dơ tay, thế mà khi cấp bách, muốn có mực kịp lúc, chỉ cần thổi một hơi thổi vào mặt nghiên, lức thì mực tươm ra đủ dùng. Quả là “nghiên mực tiên “, còn đòi hỏi gì nữa, và chưa lạ lùng quá sức tưởng tượng hay sao?
Ông Tự Đức vốn là ông vua hay chữ, bình sinh ông có tánh giản dị, ít sai cất ai. Ông đã nằm yên dưới lăng, nào cần tôi binh vực, và tôi chỉ muốn nói về nghiên mực Tức Mặc Hầu. Vua Tự Đức làm việc bằng cây bút thật nhiều, mỗi khi viết gặp gấp rút, không sẵn mực dưới tay, nếu đợi cung phi lấy nghiên lấy nước, mài mực thì lâu hoắc, ý nghĩ đâu có chờ mài mực và sẽ bay mất đi còn gì, những khi muốn viết vội vài chữ, hoặc ghi một câu thi hay vừa nảy trong trí, ngài chỉ hà hơi vào nghiên tức thì mớ mực cũ còn lại, lại ướt lên và tươm ra óng mướt, ôi quý hoá thay nghiên mực nầy.
Tôi tả vụng về thế ấy, làm sao có người chịu tin là sự thật nó như vậy? Nhưng tôi xin cam đoan, tôi đã từng cầm nghiên mực ấy trên tay, và đã từng tự làm thí nghiệm, và đã thấy y như đã nói.
Kỳ tôi ra Huế năm 1958, một buổi sáng tốt trời, tôi vào viếng Viện bảo tàng và được cố quản thủ, cụ Tôn Thất Đào, tiếp tôi một cách hết sức niềm nở, không biết tại mớ tóc bạc, hay vì ông là người tôn thất, có tên Đào, nên cử chỉ thật là trang nhã. Bỗng, cụ lấy nghiên mực ra khoe với tôi: “Viện Sài Gòn có cái ni không?”.

Tức Mặc Hầu (ảnh đã mất một ảnh giao Bách Khoa năm xưa cũng lạc luôn). Tức Mặc Hầu vóc lớn và nặng, cỡ hai phần ba miếng gạch Tàu, nhớ độ chừng, lối ba tấc Tây bề dài, hai tấc bề ngang, và dầy cỡ ba phân. Bởi là loài đá tỷ như đá bùn đá nổi, nên tôi so sánh sức nặng và vóc dạc như miếng gạch Tàu, thứ lát sân, lát nhà, tôi là người tục nên so sánh cũng tục. Về cách chạm trổ, thì tuyệt khéo. Nét chạm tinh vi, đá đã trơn bén sẵn, bây giờ thời gian lại ký tên vào đá bằng một màu cổ kính, Pháp gọi “patiné par le temps”, có mấy chữ mà toi cơm không dịch nổi: nếu đá ngoài trời, thì tạm gọi rêu mờ phong sương, ngặt vì đây là đá quý phái thường nằm trên đài son các tía, có lẽ phong trần từng nếm, nên dịch đỡ “lạc tinh” mấy độ với thời gian. Tôi cầm nghiên mực mà suy nghĩ mông lung, ban đầu tôi lật bề trái xem trước, và đây cũng là méo mó vì nghề nghiệp, thuở nay nghề chơi đĩa xưa dạy hễ gặp thứ gì hay thì “lật đít” xem trước, đọc ký hiệu nếu là đồ cổ, hoặc tìm gì gì nếu đó là thiên kim giai nhân? Dưới đáy nghiên là một bài văn “ngự chế” của đức Dực Tôn, đề cao đặc tính của nghiên Tức Mặc Hầu. Chữ khắc nổi, mạ vàng lên mặt chữ, sắc sảo không thể tả, tiếc vì tôi chỉ biết mò bằng tay và khen tấm tắc, chớ không biết khen bằng mắt vì mắt không đọc được chữ nào. Lúc đó tuy có thâu vào máy ảnh, nhưng chữ tế vi quá, không đọc được, vả lại ngày nay ảnh cũng mất, nên khen cũng như không.
Sau khi xem đáy, tôi xem qua hộp đựng, thì đây là một cái hộp rất mỹ thuật, làm bằng đồi mồi Hà Tiên, loại thật đẹp, thật quý, trong trẻo và vàng hực, khiến cho bài thi ngự chế nổi bật: một bài khắc trên nắp hộp và một bài nữa khấc trên mặt dưới của cái hộp, khiến tôi khen thầm, nội cái hộp nầy không cũng đủ là một mỹ thuật phẩm tuyệt tác. Như đã biết, đó là vật ngự dụng, đồ của vua dùng, thảo nào! Xem xong cả hai mặt của cái hộp, xem thêm một loạt toàn thể cái hộp chứa, khi ấy tôi mới đặt cái hộp lên mặt bàn, và lật ngửa cái nghiên xem qua bề mặt. Khúc trên đầu của cái nghiên thì chạm nổi, hình một cổ tùng, gốc ngoằn ngoèo trông thật già, già không biết đến mất trăm năm như vậy mới xứng với ý nghĩa ba chữ “thiên niên thọ”, một nghĩa khác gợi khí tiết người quân tử, hoặc một ẩn ý không tỏ ra của sự bất di dịch của triết lý Khổng Mạnh: mặc dù biến thiên, bây mặc bây, ta vẫn mặc ta!
Kế bên gốc tùng, chạm một cổ đình, cổ đình nầy vừa là một tiên động tuyệt khéo, trên nóc trổ từng miếng ngói đều đặn y như vẽ hằng máy chớ không phải vẽ bằng tay, gốc tùng và cổ đình vẫn nửa tỏ nửa che khuất trong lùm cây, mây đây mà rõ lại không phải mây, đó là lớp “yên hà” ráng đỏ khói lam, của một cảnh tiên rất khác với cõi trần tục.
Phần dưới cái nghiên, sát chưa cảnh từng đình, là một bể con, khoét sâu trong mặt nghiên, biến thành một vũng xinh xinh dùng để chứa nước cần dùng trong việc mài mực. Giữa cái bể tí hon ấy có một cù lao đủ sức lớn để chứa chỗ đứng cho tám vị tiên ông đang chùm chùm nhau lại và hình như đang chăm chú ngẩm nghía thưởng thức một bức tranh cổ, mà mỗi ông tiên tranh nhau nấm một chéo nhỏ, xem tuồng tranh nầy quý giá lắm, nên phải thận trọng từng ly từng tý trong khi chiêm ngưỡng làm vầy. Còn chung quanh cái nghiên, vẫn có chạy một đường hồi văn kiểu “chân muỗi “, đây là mượn danh từ chuyên môn của Pháp mượn lại trong danh từ Trung Hoa, Pháp gọi “en pattes de mouche”, tuy gọi làm vậy, theo tôi chỉ tàm tạm được, vì tôi thấy chân muỗi chân ruồi vẫn chưa mịn và sớ to hơn những nét chạm li ti nầy. Cả hồi văn và bức chạm “tiên ông ngắm tranh” nói nãy giờ, dành làm khuôn viên cho một khoảnh chạm khuyết, đó là mặt chính của nghiên mực, phẳng lỳ và trơn tru, chiếm trọn phần nào còn lại của mặt nghiên. Khi mới xem, nhứt là khi không để ý, thì chẳng thấy gì là đặc sắc. Nhưng khi tôi định thần và nhìn kỹ lại, khi ấy tôi mới khám phá ra, tuy chỗ mài mực nầy xem dường bằng thẳng, nhưng vẫn có bảy tám chỗ u lên cao, xem lạ lạ: y như nốt mắt cá, mắt cây trên mặt gỗ, trộng cỡ đầu chiếc đũa, sắc lại dợt, bạch hơn màu đá ở chung quanh, nói nghe tục y như mụn có cồi nổi trên da mặt mấy chàng thanh niên đòi vợ và của mấy cô “mống chuồng”. Nhờ hỏi thăm và tra cứu lâu hoắc, sau nầy tôi mới rõ đó là những túi nước (poche d eau) huyền bí của nghiên Tức Mặc Hầu, theo sách Trung Hoa gọi đó là “cù dục nhãn”, nôm na là mắt chim cù dục. Tôi tra khắp tự điển, chỉ có bộ Gustave Huế ghi “cù dục là một loại hoạ mi” (grive), nhưng ở ngoài anh em, cãi lại đó là chim cút. Bây giờ tôi cầm nghiên mực, nắm chặt cả hai tay vì sợ rủi ro, tôi xem trước xem sau, xem trên xem dưới, xem cùng khắp, nhưng mắt phàm tài dốt, tôi không thấy có đặc điểm nào khác lạ với những nghiên mực đá mà tôi từng thấy bấy lâu bất quá nghiên nầy khéo hơn, nét chạm tinh vi hơn, chỉ có thế thôi.
Tôi vừa định hoàn lại ông Đào, nhưng ông biết ý, nói nho nhỏ vào tai tôi: “Đâu, cụ thổi mạnh một hơi vào, coi nào”! Tôi vâng lời, nâng nghiên mực lên gần sát mặt, và thổi một hơi dài lên chỗ mài mực. Thổi rồi, tôi giựt mình, hết sức ngạc nhiên, vì dưới ánh sáng mặt trời rọi vào chỗ tôi đứng, tôi thấy hơi thở trên nghiên mực đã biến thành một lằn mống ngũ sắc, đang từ từ chạy lên chạy xuống trên mặt nghiên, rồi vụt biến mất, sau khi rà sát vào mặt nghiên.
Ông Đào cười, rồi bảo tôi lấy ngón tay quệt thứ trên nghiên, quả đầu ngón tay tôi ướt đẫm những mực, không khác tôi đã nhúng vào mực do ai mài sẵn hồi nào không hay. Mà chớ chi nghiên đá nầy “nông nước”, ẩm ướt tỷ như đá mài dao, đá bùn, thì đâu có chi là lạ. Đàng nầy, trước khi tôi hà hơi vào, thì rõ ràng cục đá vẫn khô ráo cho nên tôi cầm nó mà không bẩn tay, thế mà tại sao khi có chút hơi “cầm thực” thổi vào để mượn sức, thì tức khắc bảy tám chỗ “cù dục nhãn” kia, bèn thi hành phận sự, và nương đà hơi thở của tôi mà tiết ra đủ số nước cần thiết để làm cho có mực, ít nào cũng đủ cho một người hối hả, xoe tròn ngọn bút, vét tém đủ mực để lão lạo vài hàng, nguệch ngoạc một chữ ký hay thảo lược một câu thi vừa mới nghĩ ra. Ô, sướng quá, thần bí quá, và quý hoá quá! Trong thời buổi chưa chế tạo ra cây bút chì, cây viết bi “atomic” chưa sanh, các loại bút máy chưa ra đời, Waterman, Parker, Sheaffers chưa có, người nào có dưới tay một nghiên mực có phép lạ như vầy, lại không lấy nó làm quý và tự mình hãnh diện làm sao? Phong Tức Mặc Hầu, thật đáng. Nhớ đâu năm xưa nghiên mực nầy được trị giá nhiều triệu bạc, gẫm không lạ.
Năm nay, nếu đánh giá lại, thì biết mấy chục mấy trăm triệu mà nói Nhưng Tức Mặc Hầu đâu còn? Hay là chưa thấy yên, nên chưa trổ mặt? Vàng lá hiệu trải núi, mấy chục xấp, nào có nghĩa gì. Kiếm vàng còn dễ, nghiên mực nầy mới thật khó tìm. Trong mấy năm chụp giựt trước khi nhào đổ, một nhà xuất bản tiểu thuyết đầu độc, loại Kim Dung làm giàu bằng cách thuê máy bay đón mua bản thảo mỗi tuần, và mỗi tháng y có hoa lợi đủ xây một từng lầu cho cao ốc của y nay bị của thiên trả địa. Một tên thợ giặt đồ dơ, đừng vội chê làm nghề hèn hạ, anh hốt bạc xây buynh-đinh như thợ mã phất giấy đồ minh khí, cả hai người lo làm giàu, cũng không ai trách duy không ai nhớ mà tìm lại nghiên mực Tức Mặc Hầu, vậy tiền của dư, để làm gì Dầu sao, nghiên mực nầy, thì ông Diệm chầu diêm vương, nghiên mực thất lạc cho đến nay, thật là chúng ta đã quá hờ hững với một vật báu ta quá xem thường.
Một bảo vật, thế gian hy hữu, một trân ngoạn thế thượng vô song, mà để mất, thì quả người Việt ta không biết chơi cổ ngoạn. Nếu tôi có mê nghiên mực Tức Mặc Hầu, thì khang khác trăm ngàn người trẻ ham xem ciné, trai trẻ mê hình dung các cô đào trên màn ảnh, thì tôi mê đồ cổ. Giá thử bây giờ ai tìm gặp đem cho tôi nghiên mực Tức Mặc Hầu để tôi đem về nhà làm của riêng, thì tôi cũng lạy dài mà từ chối vì số tôi bạc phước, đâu có đủ sức cầm nổi nó, làm chủ một vật quý như nó.

Ấy thế mà có người mê cái nghiên nầy còn hơn tôi, nhưng đó là viêc tôi sẽ giãi bày nơi sau, và đây xin cho tôi tả cái nghiên nầy trước đã.
Tuần báo Nhân Loại, số Xuân năm Kỷ Hợi (1959), có đăng bài cúa cố giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu khảo về nghiên nầy, tôi xin phép đăng lại nguyên văn:
SỰ TÍCH MỘT CÁI NGHIÊN XƯA.
Ở Viện bảo tàng tại đế đô (Huế) có một cái nghiên. Ông coi viện lấy làm vinh hạnh, khi có một người lạ đến thăm viện, để cho ông được dịp chỉ cho xem một cái nghiên xưa, mà ta thường gọi là nghiên của vua Tự Đức.
Tôi đã có nhiều dịp vào Huế để nhìn cái nghiên nầy.
Đã biết bao báu phẩm của ta bị mất.
Còn lại cái nghiên nầy
Tra trong sử, ta thấy một sứ liệu về cái nghiên cứu lịch sử nầy.
Tôi xin sao sử liệu ấy ra đây:
Năm Nhâm Dần (năm thứ hai triều vua Thiệu Trị, năm 1842) tháng mười có người dâng cái nghiên xưa.
Dài bảy tấc bốn phân, rộng bốn tấc bảy phân, dày năm phân.
Chất bền mà láng bóng, kiểu xưa mà đơn sơ.
Rõ ràng một phiến “ngói âm dương” mà người xưa đã nhân hình dạng, đục ra chỗ chứa nước, chỗ mài mực.
Đầu nghiên có khắc bài minh rằng:
1. Kỳ sắc ôn nhuận
2. Kỳ chế cổ pháp
3. Hà dĩ trí chi.
4. Thạch cừ bí các,
5. Cải phong tức mặc,
6. Lan đài liệt tước.
7. Vĩnh nghi bửu chi,
8. Thơ hương thí thác.
Bài thơ bằng chữ Hán đó khó dịch lắm. Có những chữ không có thể dịch được. Đại khái nghĩa bài thơ như sau nầy:
1 Sắc nghiên ôn nhuận.
2. Kiểu nghiên cổ phác
3. Nên đặt chỗ nào?
4. Thạch cừ bí các,
5. Tức mặc đối phong,
6. Lan đài dự tước,
7. Quý báu đời đời,
8. Thơ hương phú thác.
Bài minh bằng chữ Hán đã được các quan bộ Học dịch như trên.
Có một điển tích, ấy là đi xưa phong cai nghiên là Tức Mặc Hầu. Tức Mặc là tên đất, mà nghĩa là chánh, tức là tới, mạc là mực.
Vậy nên đời xưa, nhân tên đất mà phong hầu cho ai nghiên, lại có ý riêng là ai đựng mực. Lan đài là nơi làm sách. Nơi ấy phải cần nghiên bút.
Nghiên là Tức Mặc Hầu.
Bút là Quản Thành Tử.
Nhhiên là bút đều dự tước trong lan đài cả.
Sau bài minh đã dẫn nói trên, ông Tô Thức xưa khắc hai cái ấn.
Một cái khắc hai chữ “Kỳ trân”, nghĩa là quý lạ.
Một cái khắc hai chữ “Tàng bửu” nghĩa là báu kín.
Ông Tô Thức là một vị hay chữ đời Tống.
Sau lưng nghiên có khắc bốn chữ “Thạch cừ các ngoã”, nghĩa là ngói ở Các Thạch cừ.
Dưới lạc khoản mấy chữ rằng: “Nghiên nầy chế tại tháng tám, năm thứ ba, hiệu “Nguyên phù”.
Ngài truyền đem nghiên ấy dâng vào sở Kinh diên.
Rồi ngài truyền Nội các như sau nầy: (Ta đừng quên rằng ngài Thiệu Trị rất hay chữ): “Nghiên nầy là nghiên Các Thạch Cừ” xưa.
Nguyên Các ấy từ Tiêu Hà lập ra đế chứa đồ tịch. Đến năm thứ ba, hiệu Cam Lộ, vua Tuyên đế nhà Hán, hội các nho thần giảng kinh tại đó.
Từ năm thứ ba hiệu Cam Lộ đến năm thứ ba hiệu Nguyên Phù đời Triết tôn nhà Tống, Tô Thức mới được phiến ngói ấy, làm thành nghiên, cả thảy một ngàn một trăm bốn mười chín năm (1149).
Từ khi ấy đến nay, lại được hơn bảy trăm bốn mươi năm nữa (740). Thời nghiên nầy gốc tích là đời Hán, làm thành đời Tống, mà xuất hiện ra đời nay, thiệt là một vật báu về việc hàn mặc.
Bây giờ cách sau Hán Tống đến hơn hai ngàn năm mà văn minh thịnh hội cũng như Hán Tông trước, há chằng phơi là vật quý báu Trời Đất đẻ dành, đợi thời mới bày to ra hay sao?
Trong đạo chuộng văn, khác thời thế, mà chumg một vật báu đời nay cùng đời Hán Tống xưa, chừng có cơ duyên khế hiệp với nhau chăng?
Âu Dương Tu đời Tống xưa có câu rằng: “Ai ưng vật gì thời vật ấy ấy thượng tụ hội tới”. Nghĩa là vậy đó!
Trên đây tôi sao nguyên văn một sử liệu trong bộ Chánh biên.
Một câu hỏi đặt ra: “Ai đã dâng nghiên xưa nầy lên ngài Thiệu Trị?”.
Phải chăng là một người Tàu? Người nầy đã biết giá trị của cái nghiên và đã biết đem dâng cái nghiên ấy lên nhà vua.
Vua Tự Đức đã thường dùng cúi nghiên đó.
Thực là một quốc bảo, còn giữ được đền bây giờ, đúng là một sự lạ vì chưa ai ăn cắp hay đập vỡ.
Nguyễn Thiệu Lâu
Lời bàn của tôi - Ông bạn quá cố Nguyễn Thiệu Lâu, quả có một lối hành văn mới mẻ. Xuất thân cử nhân văn chương Pháp trường Đại học Sorbonne ông nhiễm nặng và học viết như Tây, bỏ hết những gì lược bược, còn lại toàn đại ý, cũng không cần nối kết, hà tiện lời nói, theo tôi đây là một lối văn “viết điện tín”, hay là để nhại ông chơi, một lối bắt chước cây kềm đục nút khoét đục khuy áo, văn của cây kềm chuyên bấm lỗ vé xe lửa (à l emporte-pièce) như vậy có thành văn chăng, tôi không dám trả lời. Như trên đây, ông dịch bài Hán văn về nghiên mực trong bộ Chánh biên, nhưng ông không cho biết ý kiến của ông. Đó cũng là một điều đáng tiếc, vì đám hậu sanh không thấy lời phê bình của một người từng đi ăn học tận gốc bên Pháp hấp thụ văn Pháp đào luyện tại Sorbonne, từng viết bài cho tạp san trường Viễn Đông Bác cổ Hà Nội và như lời ông nói, từng thấy nhiều lần, nghiên mực nầy khi còn nằm trong tủ quý của Viện bảo tàng Huế.
Mấy năm trước đây mỗi sáng sớm có dịp ngồi xe buýt trên đường Hồng Bàng, khi xe chạy ngang hoa viên trước Thánh đường Ngã Sáu, khu cư xá Minh Mạng, tôi thường thấy một ông đầu sói, ngồi nơi ghế xi măng, hai tay chống đầu gậy tre, đăm chiêu nhìn xuống đất, y như con chim thằng bè, vừa móc hết bọc cá nuôi bầy học trò đói chữ, nay ngồi đây thu hết tàn lực của một người chiến bại, van xin chút hé mặt trời sưởi ấm buổi tàn niên. Có một lần, tôi định bụng nhảy xuống xe đón chào người bạn cũ, nhưng lại đổi ý, hẹn một dịp khác, mảng chần chờ bỗng được tin buồn: giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu đã từ trần. Một chút nầy đủ thấy tôi hư hay nên! Trong bài mấy chữ chót: chưa ai ăn cắp hay đập vỡ. Tại sao ông có ý nghĩ như vậy, tiên tri chăng?
Nay tôi mạo muội cho biết ý kiến của tôi, giáo sư Lâu đã không còn, bớt được qua cửa một nhà sấm, mà dám khua trống:
Việc nghiên cứu để hiểu đích xác về xuất xứ, cũng như về niên kỷ, thời đại, của một cổ vật đã mất hết chứng tích, tỷ dụ nghiên mực Tức Mặc Hầu đang nói đây, theo tôi, quả là một vấn đề nan giải.
1) Nghiên không có ký niên hiệu nào để dò theo đó mà định tuổi. Tỷ dụ, một hình cổ, đề Khang Hy niên chế, thì ít nữa tra niên biểu, ta biết được hình ấy làm vào khoảng những năm vua nầy trị vì, tức từ năm Nhâm Dần 1662 đến năm Nhâm Dần 1722 dương lịch (vua nầy ở ngôi đúng một con giáp, tức sáu chục năm). Biết như vậy là biết tạm, còn việc bình ấy là giả hay thiệt, là một việc khác nữa, ở đây tôi xin miễn bàn. Riêng về nghiên mực, thấy ghì “Có mấy câu thi” và có ghi bốn chữ “kỳ trân” “tàng bửu”, thêm nữa có con dấu của Tô Thức, bao nhiêu chi tiết ấy không đủ đảm bảo và không thể tin được hòng đoán chắc, vì bất kỳ ai hoặc đời sau, đều có thể khắc chạm trên, và lấy đâu làm bằng.
2) Bài thi và bốn chữ kia không đủ làm kiểu thức (style), nên không thể định tuổi nghiên được. Trái lại, nếu nghiên không bao giờ tách rời khỏi viện Huế, thì nội bằng chứng “còn ở y chỗ cũ ấy” đủ giúp ta tin được rằng nghiên đã có bao nhiêu tuổi (tính từ khi nạp cho vua Thiệu Trị), mà cũng không thể nói tuổi chánh của nghiên “sanh từ năm nào”. Có ba tuổi của nghiên 

1) Tuổi của cục đá làm ra nghiên. 
2) Tuổi của năm chế ra nghiên. 
3) Tuổi của năm dâng nạp lên vua.
Định tuổi cái nghiên nầy, chò tôi nói tục, không khác biệt niên canh của một kim chi ngọc diệp không bao giờ xuất cung, và niên canh của một nhành vàng lá ngọc sa chân trái bước lạc loài. (Dẫu rằng có trình thẻ căn cước, cũng không đủ đảm bảo). Và vì vậy, mua đồ cổ là cứ mua, định tuổi món đồ ấy là việc khác, và chắc hơn hết là lấy món đồ đem so sánh với một món y hệt nằm tại các Viện bảo tàng công cộng và lấy nghiệm xét nầy làm mấu chốt để định đoạt.
3) Chất liệu của nghiên là một miếng ngói (ngoã) từ đời Hán. Nếu khảo nghiệm theo phương pháp chắc chắn nhứt là thử theo carbone 14, nhưng phương pháp nầy không áp dụng cho nghiên được, vì phái huỷ cái nghiên mới thử được, và vì nó là món duy nhứt, thì không thể huỷ (Theo tôi hiểu, thử với carbone 14, là khi nào ta có nhiều món đồng một thứ và có thể huỷ một món để thí nghiệm). Đã biết nghiên mực là một miếng ngói, thì sao có chỗ lại nói là làm bằng đá núi Đoan Khê (Đoan Khê Thạch) thiệt là rắc rối. (Tôi lại có thấy một nghiên mực rất nặng, bằng đá trơn lu bóng ngời, mà người chủ nói nghiên làm bằng một miếng ngói cung Vỉ Ương, tôi không trả lời, tôi không trả lời, để cho người chủ mừng mình có một vật báu, chớ nếu tôi nói “miếng ngói nầy làm sập nắp cung, và nghiên của anh, tôi không tín là ngói mà là đá”, thì tôi mất một người bạn, có ích gì cho tôi?
Về carbone 14, chính tôi cũng chưa biết đó là gì, chớ đừng nói người tay mơ như phần nhiều độc giả làm sao biết được. Tôi đọc trong sách, thấy nói người Mỹ họ chiu thí nghiệm, là đối với một cổ vật công cộng, của một viện hảo tàng, và cuộc thí nghiệm nghe nói mắc tiền lắm, là để giúp sự hiểu biết chung và sự hữu ích chung, chớ thí nghiệm cho tư nhân thì họ chưa hề. Lại nữa, phải thí đi một món ấy, nên cũng không nên đòi hỏi lắm. Còn một điều nữa là sự cách biệt xa đến vài trăm năm, tỷ dụ thử một cổ vật bằng đồng đời Hán, có 2000 tuổi, nay ta trừ đi sự sai biệt 200 tuổi, thì còn 1800 tuổi, cũng còn miễn cưỡng; chớ như nếu món ấy làm vào đời Kiền Long (1736-1795), đem làm vật thí nghiệm, rồi trừ đi 200 năm, thì có còn lại giống gì nữa đâu? Trái lại, nếu theo phương pháp Á Đông, thử bằng mắt nhìn, bằng kinh nghiệm, thì đã thi vị hơn nhiều, lại không tốn kém. Ta có câu: “lấy mắt xanh biết vật”, “thần nhãn” v.v...
Cái thú chơi cổ ngoạn là có mắt hơn người, chớ nếu dùng máy đo và dùng mãi khoa học carbone 14, thì chết mất thú chơi cổ ngoạn. Đó chỉ là một cách giỡn tiền hoặc khoe của của các nhà trọc phú.
4) Nhắc lại một lần nữa, nếu nghiên Tức Mặc Hầu không lưu lạc, tỷ như lúc còn ở tại viện Huế trước 1959 nó đã được ghi vào sổ bộ, thì vẻ tôn nghiêm vẫn còn, nó sẽ dùng làm vật mẫu để so sánh. Nhưng từ ngày nó lạc loài, như mất căn cước, một ngày nào gặp lại nó, cần phải điều tra, thí nghiệm lung tung, trước khi trả căn cước cho Tức Mặc Hầu, buổi tái ngộ trùng phùng.
Trong Từ nguyên từ điển, thì “Thạnh cừ bí các” là một phòng, một viện, một các, do ông Tiêu Hà đời Tiền Hán (năm 206 trước Tây lịch), lập ra để chứa sổ sách cũ của nhà Tần, bị vua Hán Cao tổ Lưu Bang chiếm đoạt.
Xét về ngày chế tạo nghiên mực, thì tháng 8 năm thứ 3 của niên hiệu Nguyên Phù đời vua Triết Tôn nhà Tống (1099) bên Trung Quốc, thì đồng thời với vua Nhân Tông đời Lý nước ta.
Xét về nhân vật, tên Tô Thức, ký dưới bài minh, thì đó là ông Tô Đông Pha, không ai không biết. Ông sinh sống vào đời Tống Triết Tông. Bài thi do ông đề và những khuông dấu “Kỳ trân”, “Tàng bửu”, “Thạch cừ các ngoã” cho ta biết một đôi phần, và chỉ một đôi phần thôi về giá trị lịch sử của cái nghiên, nếu nghiên nầy đúng là nghiên chánh hiệu. (tức không phải nghiên giả).

Trung Hoa là đất văn hiến. Trong sách sử còn ghi lại danh tánh nhiều nghiên mực cổ quý giá, như “Đoan Khê”, “Thương Bích”, “Đế Hồng”... Lại có một thứ nghiên danh là “Đồng ngoã”, tức nghiên chế bằng những tấm ngói cổ của đài Đồng tước của Tào Tháo, đầu thế kỷ thứ 3 dương lịch. Xin đừng nói theo câu ca dao Việt: “Đền bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu”, rồi tưởng rằng ngói cũ còn nhiều lấm. Xin thưa: đời hết loạn ly nầy đến loan ly khác, thân ngói không còn lại bao nhiêu, và những nghiên làm bằng ngói và những ngói cổ dành làm nghiên, dưới mắt tôi đều là giả. Có một nghiên thật, đó là nghiên Tức Mặc hầu của Việt Nam, một quốc báo, thì nó đang xa chạy cao bay.
Nay cho tôi bàn thêm về nghiên mực làm bằng ngói cổ: Một tấm ngói âm dương đời Tiền Hán, tuổi trên hai ngàn năm, lấy nó làm nghiên mực, thì ai dám phủ nhận giá trị lịch sử của nó.
Huống chỉ nó được điểm xuyết thêm, nào bài minh của chính tay của Tô Đông Pha để lại, nào con dấu khắc từ đời Tống Triết tông (1099), với chữ “Kỳ trân”, “Tàng bửu”, “, “Thạch cừ các ngoã” mỗi chữ đáng ngàn vàng ấy, một ngoã nghiên quý giá như thế, sản xuất nơi một nước tồn cổ có đến ngót một tỷ dân, thế mà có một lúc lọt về nước Nam, thì đã là một may mắn hiếm có cho nước mình, đến phiên ta giữ, thì ta làm mất, và không lo tìm, hỏi ta có đắc tội với hậu thế hay không?
Đến đây tôi còn phân vân, biết đâu chừng, và phải chăng, vào đời ông Tô Đông Pha là lúc văn chương Hán học đang trong thời kỳ cực thịnh, thì cái nghiên nầy và cây bút là những vật cần thiết cho nhà nho, như vậy và cố nhiên người ta chế tạo không phải vài cái nghiên mà khá nhiều nghiên, với những ngói cũ, ngói Thạch Cừ các, lúc đó cũng có thể tìm được, không nhiều thì ít. Cho nên tôi nói, vào đời Tống, đã có tạo nhiều nghiên “Thạch cừ các ngoã” rồi. Và phải chăng dưới một đời nào đó, sau đời Tống, với một tấm ngói cổ tìm gặp trong một ngôi đền cổ chùa cổ nào đó, rồi một nhà điêu khấc kiêm thi sĩ khéo tay, sẵn tánh hiếu cổ, bèn ra công chế tạo thành nghiên mực, rồi khắc niên hiệu Tống, chạm thêm bài minh của Tô Đông Pha vào, nói thẳng ra, đã làm cóp-pi (copie) nghiên cổ, để đến nay, thêm mấy trăm năm lạc linh (patiné) thì làm sao biết được nghiên thật, nghiên giả?
Pháp mượn của Anh ngữ, từ “pedigree” để nói về lý lịch của con chó rặt dòng. Xin cho phép tôi nói tỷ dụ, khi một món đồ cổ còn trong Nội phủ nhà vua là món ấy còn pedigree, còn rặt dòng, và tin được. Nó quý phái và ta sẽ dùng nó làm mẫu để so sánh và định tuổi các món cùng loại gặp lạc loài ngoài phố, trong hiệu buôn hoặc nơi hẻo lánh nào đó. Khéo truy nguyên và một người quen mắt sẵn, sẽ định tuổi món đồ lưu lạc không khó. Nhưng một món thế phiệt mà tách khỏi chỗ nó ở, thì mất pedigree và giá trị đã suy giảm đi nhiều. Mánh lới và thú chơi cổ ngoạn gồm bao nhiêu đó. Say mê và bị vợ con rầy rà cũng bao nhiêu đó.
Trở lại nghiên mục, dẫu nay có một nghiên nghiên “Thạch cừ các ngoã” tự tay Tô Đông Pha sáng chế, quý báu thật nhưng không thể đổi với Tức Mặc Hầu đã mất, vì nghiên Tức Mặc Hầu là của Dực Tông hoàng đế (Tự Đức) truyền lại ta, nó có tánh cách lịch sử Việt. Cho nên một lần nữa, tôi xin người nào làm về văn hoá bây giờ, phải xem là một trách nhiệm lớn, việc tìm cho ra manh mối nghiên Tức Mặc Hầu. Phải đem nghiên về cho nằm ở Viện bảo tàng vườn bách thảo vì nó là của chung của dân Việt.
Đến đây tôi trở lại chuyện một người mê cái nghiên Tức Mặc Hầu hơn tôi bá bội. Mê đến bất chấp lương tâm. Người đó khi đã chết, người ta lập biên bản thống kê tài sản, mới biết y muốn lưu di năm chục ký lô vàng. (theo công báo của chánh phủ Sài Gòn trước). Ấy là thuở sanh tiền, ông có tiếng là thanh liêm số dách (số một). Đã ham hai chữ thanh liêm, lại ham chi cái nghiên Tức Mặc Hầu vì đó là một nghiên đá lọ lem, mặt dính đầy những mực. Người đó đã đem nghiên mực về Sài Gòn, làm chủ riêng một mình. Thấy gương nầy, tôi ngụ ý trên đời, không nên sớm khoe mình trong sạch, quá mức thì hết thanh liêm. Nhớ lại chuyện ông huyện tuổi tý, bởi thanh liêm nên nghèo. Sau đó ông biết được chầu xưa dân đi lễ cho ông một con chuột đặc bằng bạc nén, cho nên ông mới kéo dài tuổi hứa cho đến buổi thắt ngặt nầy. Chẳng lành mà chớ, ông than một tiếng làm bay mất hai chữ thanh liêm, vì ông trách vợ năm xưa, sao không nói với dân mình tuổi sửu, cho món lễ lớn bằng con trâu, những là sướng hơn; Về ông tôi nói chuyện đây, cho đến ngày ông chết, tôi thấy ông đi đâu, cũng na một món nỉ cũ trên đầu và một gậy mây cầm tay. (Gậy và nón nầy nay về tay ai?). Trọn đời, ông làm như không màng đến của cải (nội b hạ ông vơ vét cũng đủ chết cha dân), thế mà ông đam mê chi cái nghiên mực đá, nghĩ cũng lạ thật. Sau tôi nghiệm ra, đó là nghiệp chướng. Tôi không cần hài tên ông, nhưng ai còn giữ bộ tạp san Đô thành hiếu cổ Huế, sẽ thấy tập năm 1917 có một bài Pháp vãn khảo về nghiên mực của vua Tự Đức. Lúc nhỏ, ông học trường Hậu bổ ở Huế, và để cho người biết danh, ông viết bài văn đây nầy, ông dịch lại kỹ càng những bài thi chạm trên hộp đựng và trên nghiên mực, và kê khai rành rọt những loại đá quý mà người Trung Hoa dùng để làm nghiên mài mực, trong các loại đá ấy, có một thứ lấy từ trong núi Đoan Khê là tốt nhứt. Nhưng nào phải mỗi viên đều quý. Trong số vạn ức triệu nghiên Đoan Khê thạch, thỉnh thoảng mới gặp một nghiên mầu nhiệm như nghiên Tức Mặc Hầu, và cái nghiên nào có cù đục nhãn, thì gì là ngọc chớ không kể là đá nữa. Đối với ai có tánh hiếu kỳ, muốn biết thêm về nghiên mực lạ nầy tôi xin khuyên nên tìm đọc bài khảo cứu công phu của ông và của một tác giả Pháp tên E.Gras, đều in trong tạp san san Đô thành hiếu cổ Huế (bulletin des Amis du Vieux Huế) năm 1917. Khi ông lên tột phẩm nấc thang danh vọng, thì có người ở Huế biết chỗ nhược của ông và để củng cố địa vị cho mình, bèn ôm nghiên mực vào Sài Gòn tấn công. Tôi biết chắc việc ấy vì từ năm 1959 đến năm 1962, mấy lần ra Huế, tôi hỏi thăm thì ngoài ấy nói với tôi Tức Mặc Hầu đã vào Nam. Và ngày nay ý muốn của tôi là muốn sao nếu nghiên mực nầy hết duyên nợ với Viện bảo tàng Huế, thì nó phải được thu hồi cho về ở Viện bảo tàng trong nầy mới là xứng nơi xứng chỗ. Phải nói tôi theo dõi viên ngọc Tức Mặc Hầu, và theo bén gót như bóng với hình. Sau khi dinh Gia Long bị công phá, ông bỏ chạy kế bị giết vào hôm sau. Nghiên mực cũng mất tích luôn từ đó. Tôi cứ phăng dò mãi tuy vẫn tìm chưa ra manh mối đích xác. Sau ngày đảo chánh, ai nấy lo mất nước mất nhà, tôi lại lo mất nghiên mực. Tôi hỏi khéo ông quản gia có phận sự gìn giữ đồ vật của dinh Gia Long, ông nầy trả lời ông chẳng bao giờ nghe thấy điện có nghiên mực nầy.
Tôi không ngã lòng, day qua mượn ông nhạc gia của quản gia hỏi chắc chú rể, ông cũng đinh ninh một hai ông không biết. Hỏi mãi có người đưa ra thuyết hay là nghiên mực có cánh, đã bay tuốt qua La Mã, qua Paris, hoặc mụ em dâu ác ôn đã ôm bán quách cho nước ngoài rồi. Kịp đến tháng 9 năm 1964, tôi cũng bị cho ra rìa, thôi làm quản thủ công nhựt Viện bảo tàng nơi vườn bách thảo.
Nhưng tôi không thôi theo dấu nghiên mực quý đã bị ai lấy mất từ trong dinh Gia Long. Trước năm 1975, có một người trẻ, xưng là học trò cũ của tôi, nói nửa úp nửa mở, rằng nghiên mực Tức Mặc Hầu chưa ra ngoại quốc, vẫn còn ở lẩn quẩn đâu đây hoặc vùng Sài Gòn, hoặc còn trong nước không xa, và ở thẳng tay một người nọ: và nghèo lắm túng lắm, chức vị nhỏ lắm, nhưng va không khứng lìa ngọc Tức Mặc Hầu. Tôi đã ráng hết sức, hỏi thêm gì người ấy cũng không nói nữa, nên hôm nay đành nói tách bạch ra đây, những ai có lòng với văn hoá, biết bảo tồn quốc tuý, hãy cứu vớt nghiên mực khỏi bước lạc loài.
28: Chuyện bảy cây ngọc Như Ý thấy tại Đài Bắc, năm 1963
Cái sẩy nẩy cái ung. Nói chuyện viên ngọc Tức Mặc Hầu, ngứa miệng nói luôn chuyện bảy khối ngọc trước kia vốn cũng của nước Nam, nay Trung Quốc chế thành bảy cây Như Ý ngọc để tại Viện bảo tàng Đài Loan, năm 1963, tôi còn thấy.
Chuyện nghiên Tức Mặc lầu là chuyện gần đây; chuyện một người ham có ngọc, mà còn ham làm chính trị chánh trị luỵ thân - thân đã tan nát mà ngọc cũng mất theo, làm chánh trị dở, báo hại nước nhà mang hoạ lây. Đến như bảy cây ngọc chế thành bảy cây Như Ý, rõ lại công khéo tạo thành là công khéo sáng chế của người ngoại bang, còn ngọc nguyên khối, bảy cây to tát biến thành bảy món đồ chơi trân ngoạn, rõ là gốc của Việt Nam, do một vua bất tài, Lê Chiêu Thống, ôm chạy sang Tàu, khóc lóc xin binh về đánh với Tây Sơn, đánh không lại, bỏ xác tha hương, tội hối lộ ngọc tốt đổi binh bất tài luôn, binh Tàu đại bại, nhưng ngọc hối lộ cho Kiền Long, nay tôi được cầm trên tay nhớ chuyện xưa, bất nhẫn vì trên đầu trên cổ thuở nay đều là quân ăn hại báo đời, nước Việt vốn không lớn, vì sao có ngọc để chúng đoạt quá nhiều; và ngọc là quý, quý chỗ nào, mà vẫn bị quân gian ăn cắp.
Mảng nói dông dài mà chưa vào đề hư hay không xin hỏi?
Tôi viết bài nầy, không có ý khoe; khoe chỗ nào? Gần suốt một đời, ngu và hư hơn người thì có và động động biết được một chút gì là vội nói ra cho hết thảy cùng biết, người có trí đâu có làm như vậy.
Trước đây, có người công du dễ dàng, xuất ngoại như mình an cơm bữa mình nửa năm chưa vô thăm mì Chợ Lớn một lần, mà họ tuần nầy sang Mỹ, mua cái bốp đầm cho mụ xã, tháng sau bay qua Pháp ôm kẹo về và xì líp lậu cho nhà đoan nó bắt nó la tùm lum, hỏi họ thấy nhiều hiểu xa, sao không thuật lại cho những người nằm nhà cũng nghe với? Tại họ khôn và ích kỷ.
Chuyến đi Đài Bắc năm 1963 của tôi kể cũng là một dịp may khó gặp hai lần trong một đời người. Nói có vong linh ông Trần Thành làm chứng. Lúc đó, ông là Phó Tổng thống nước Trung Hoa Dân quốc ông đã mất từ lâu.
Đầu năm 1963, ông qua viếng trả lễ nước Việt mình, và một bữa sáng nọ ông và đoàn tuỳ tùng ghé viếng Viện bảo tàng sau khi dạo chơi vườn bách thảo. Không biết cái gì khiến, ông vui miệng, mời tôi hãy qua cho biết Đài Bắc và Đài Loan. Tuy nghe mời mọc, cũng vui tai, nhưng tôi cám ơn ông chiếu lệ, cũng không mừng gì mấy, vì từ cái mời đến cái thực hành còn xa, nghĩ mình phận mỏng, bấy lâu thất vọng đã nhiều chừng nào việc tới sẽ hay. Vài tháng sau, hãng máy bay cứ thúc giục mãi, và cho hay vé khứ hồi đã sẵn, phái kíp dùng kẻo quá hạn. Mà cơ khổ, sự lên đường nào phải tự tôi định được. Một thứ “thầy thông” trước làm cho Tây nay lỡ độ đường, vô làm kiếm cơm, quyền quản thủ công nhựt Viện bảo tàng nầy, mà sức mấy. Tuy vậy, chiều ý hãng máy bay và để tránh bất cập, tôi cũng đến toà đài sứ Trung Hoa, lúc đó còn ở chỗ cũ nơi đường Pasteur hỏi cho biết nếu được đi, chẳng hay có được lãnh chút ít tiền trợ cấp chi chăng, tỷ như liền lộ phí, tiền ăn, tiền ở là bao, xin vui lòng cho biết, để cụ bị thêm. Ông tuỳ viên văn hoá tiếp tôi niềm nở, nghe tôi hỏi, nhoẻn miệng cười, và đáp tỉnh khô: “Thưa, nước chúng tôi không có thông lệ đó Chúng tôi không cấp phát số tiền nào hết, “tiên sinh” là khách quý của ông Phó Tổng thống của chúng tôi nên chúng tôi “bao” hết. Ông ăn mì chúng tôi trả tiền mì. Ông đi coi hát chúng tôi trả tiền coi hát. Vậy thôi! Cái gì chúng tôi cũng đài thọ hết. Ông nên đi chơi một chuyến đi! Đi! Đi mà! Xin đừng có sợ!
Xin đừng có sợ! Câu khuyến khích thiệt là gọn ghẻ, rặt Ba Tàu, và thiết thực không chỗ chê. Tôi còn nán lại nêu vài việc khó, vốn tịt mù tiếng Ăng lê còn như tiếng Tàu, chữ Hán, tiếng phổ thông, tiếng Quan thoại, tiếng Quảng Đông, hầm bà làng, tôi đều Uất Trì Cung. Bấy lâu nếu có viết lách, nghiên cứu, diễn thuyết, đều qua chứ Pháp, tiếng Pháp, ọ e vậy mà?
Ông tuỳ viên văn hoá, người phốp pháp vững như bê tông, an ủi tôi bằng một nụ cười ngoại giao và ân cần dặn đi dặn lại: “Đừng có sợ! Bên Đài Bắc, thiếu gì sinh viên của quý quốc”, chúng nó sẽ mừng mà làm thông dịch viên không mất tiền.
Thế rồi lời hứa biến thành sự thật, cuộc công du mười lăm ngày qua Đài Loan, Nhật Bản (từ 11-9-1963 đến 26-9-1963), tôi đã thưởng thức, cũng như ai. Những điều nghe thấy, tôi sẽ thuật trong một phần khác, trong phần nầy, tôi xin kể sơ các thủ tục của chánh phủ thời đó, không tốn tiền nhưng vẫn cho máy chạy như thường lệ, muốn hiểu rằng khó hay không, cũng tuỳ, nhưng nay nghĩ lại thấy tiếc, vì khó như vậy vẫn còn dễ chịu. Và hôm nay chỉ dành cho ngọc:
Ngày thứ hai 9 tháng 9 năm 1963 - Bữa nay chạy chân không bén đất. Được giấy chánh phủ cấp cho nghỉ mười lãm ngày để viếng Đài Loan và Nhật Bản. 8 giờ sáng lên bộ Ngoại giao lãnh giấy thông hành. 9 giờ đến xin chữ ký chiếu hộ của toà đại sứ Trung Hoa. 10 giờ ghé toà đại sứ Nhựt xin phê thông hành qua viếng đất hoa anh đào trong chuyến hay trở về. 10 giờ 30 phút đến viện hối đoái xin đổi tiền nhưng chưa được vì trong hồ sơ còn thiếu vé máy bay. Chạy lại hãng Air France, thì vé còn nằm tại hãng C.A.T. Mất hết một buổi sáng. Chiều 2 giờ 30 phút đến C.A.T, thì tuy vé cho đi Đài Bắc, thủ tục đâ làm xong, nhưng ở đây hẹn ngày mai sẽ trở lại nhận và có luôn vé Đài Bắc qua Tokyo về Sài Gòn. 15 giờ xuống viện hối đoái, ở đây nhận lá đơn và hẹn mai 15 giờ sẽ cho phép đóng tiền đổi bạc.
Thứ ba 10 tháng 9 năm 1963 - Đúng 15 giờ xuống viện hối đoái đóng tiền. Xin chuyển được: 280$ S giá 74,90, là 20.580$ + 412$VN.
Cho chuyển thêm: 40 US với giá 75,50, là 29450 = 80$ VN.
(Như vậy trong đơn tôi xin chuyển 300$ US, nay bớt đi 20$ US).
Thế cũng tạm được, vững bụng vì ãn mì đã có chánh phủ Trung Hoa bao!
Duy nhớ lại khi qua tới đất Nhựt, trong túi vỏn vẹn có 320 đô la Mỹ, mời làm sao phỉ tình ao ước ở chơi một tuần, mà trong bụng thì thèm muốn đủ thứ, không chừa trận mưa rào gái Phù tang đối với lòng như đất hạn khô của đứa trai hư lỡ mùa xứ Việt: Chánh phủ lúc ấy thường dặn, trên đài phát thanh cũng như trên các báo mỗi lần xuất ngoại thần dân con cháu Rồng Tiên phải giữ thể thống và phải cư xử cho đường hoàng. Muốn đường hoàng tưởng nên cấp tiền bỏ lúc cho khá khá, để giữ thể diện, miễn đừng chợ đen chợ đỏ, là đường hoàng lẩm rồi. Khắt khe làm chi với những kẻ giàu thiện chí tội nghiệp: Tôi chỉ mê đồ xưa chớ có mê gì khác nữa đâu?
Thú tư 11 tháng 9 năm 1963 - Bữa nay là ngày lên đường, mà lúc 8 giờ còn phải xuống hãng C.A.T. lấy vé máy bay. Vừa ký xong, thấy còn chút giờ dư bèn trở lại Viện bảo tàng ký tên giấy tờ làm tròn phận sự giờ nào hay giờ nấy. 10 giờ về nhà, không dám ăn cơm no để lát nữa nhẹ bụng dễ bay, leo lên xe ca đưa lên Tân sơn Nhứt, dọc đường trời xán một đám mưa khá lớn, như gội cho thật sạch lớp bụi trần, trước khi viếng đất thiêng có nhiều chùa chiền mà mình chỉ nghe biết tiếng. 14 giờ 35 phút, máy bay cất cánh, bay một hơi thẳng thét đến phi trường Hương Cảng, thì kim đồng hồ chỉ đúng 16 giờ 50. Xuống sân bay thì may quá đã có bạn hẹn trước nên đón sẵn, chờ thủ tục khám hành lý xong rồi lên xe của nhà hàng Golden Gale đưa thẳng về khách sạn cùng một tên Golden Gale, thì nơi đây có dành sẵn một phòng thênh thang số 302, nếu phải xuất tiền túi, thì ắt không dám ở phòng nầy vì sang trọng quá có cửa sổ dòm ra đường cái, nhưng chỗ ăn chỗ ở đều do hãng Air - France đài thọ. Và muốn hư cho hư luôn, còn gì sang bằng tối hôm ấy, định xuất tiền túi đi dùng cơm tối với một bạn Pháp có nhà ở Hương Cảng, ông dắt tôi đi thưởng thức một bữa cơm Nga có hai người Nga chính cống đứng hầu bàn, cơm rồi vừa móc ví té ra ông bạn đè tay giành trả tiền, cái số “ăn cơm bá tánh” của lá tử vi là vậy!
Hôm nay nhớ và nhắc bữa cơm Nga, xuýt quên vấn đề ngọc. Kể về ngọc tôi đã thấy từ Âu sang Â, để đi đến bảy cây ngọc Như Ý của Bác vật quán Đài Bắc, thiết tương nên để cho tôi hư luôn và kể lê thê theo tánh cũ, ngọc mắt thấy từ Paris qua Istanbul, cựu đô xứ Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng rằng kể viển vông là nói cho vui, kỳ thật, muốn nói về ngọc phải nói dông dài, bàn qua bàn lại nhiều lần, nhiều thứ mới xứng với giá tiền đã xuất ra do các công tử hay vương khách từ ngàn xưa để mua lòng các hoa khôi hoặc mỹ nhân, thường chê cơm chê cá và chỉ sống bằng những cục đá gì ước nặng không bằng một cắc bạc chì mà kể về giá trị, lúc trả tiền mới thấy nặng, nặng gấp mấy trăm lần tờ giấy một ghim của nước cộng hoà hồi đó. Kể về ngọc, bà công tước Pháp A. de Noailles hạ có ba chữ “Inutiles mais irremplacbles”, muốn dịch cho sát ý đủ nghĩa, e đầu phải nổ, cái gì mà đại chi vô ích (inutiles), mais (nhưng mà) thiết yếu vô song (irremplacables), dịch mãi không trôi đành để đó, về ngọc, người nào dư ăn dư để, trước đây, đều có. Duy ngọc hữu danh, được tiếng nhắc đời, mới đáng gọi là ngọc. Ngọc của mỹ nhân đeo tay đeo cổ, khi không muốn đeo, bán ra tiền, bất quá gánh một gánh bạc Việt Nam ngày nay đổi được một hột lớn bằng vóc một đậu xanh, đã gọi là đáng giá. Nhưng nên kể là ngọc giá liên thành, xưa ngọc Biện Hoà, do Lạn Tương Như tranh đấu với Tần Thuỷ Hoàng, đem về trả vua Triệu, mới đáng gọi là ngọc.

Tức Mặc Hầu, là ngọc, tuy vẫn là một nghiên mực. Bảy cây Như Ý Đài Bắc là ngọc. Duy trên hoàn cầu, nhiều nước giàu hơn Pháp, nhưng không nước nào có nhiều ngọc có danh tiếng trong lịch sử, bằng Pháp. Nhưng nước Pháp là mất nước nhiều mâu thuẫn, và kỹ càng quá đến thành mất vẻ thật, hay là quá dè dặt, sợ quân gian nó cuỗm, hay đó là một cách tuyên truyền khéo mà tôi chưa nghĩ tới, tỷ như tại Viện bảo tàng Le Louvre, mà tôi đã viếng nhiều lần (năm 1963) ngoái một số cẩm thạch, ngọc thạch, vân thạch, miêu nhãn thạch, đó đều là ngọc thiệt, còn tại sao về các ngọc kim cương, như viên xoàn “le Régent” (Nhỉếp chánh vương), viên kim cương trước gần trên mão đế Nã phá luân, viên ngọc xoàn nạm trên chuôi kiếm đế Charles X, các ngọc ấy, tôi rõ lại, những danh ngọc thật đều nằm êm dưới hầm kiên cố của một ngân hàng dấu tên trong một hầm sâu bất khả xâm phạm, vùi dưới mấy chục thước đất (thuở binh Hitler qua không lấy được), còn những kim cương những hột xoàn chưng bày trong tủ kệ ni hành lang gọi Galerie dapollon của viện Louvre, tuy nơi bảng đề: Le Régent. La Coưronne de Napoléon, Lépée de Charles X: những quốc gia chi bảo ấy, sau tôi biết được, đều toàn là ngọc giả nhái y ngọc thật, vì Pháp sợ bày ngọc thật bị mất cấp nên đề phòng giấu thật sâu, xứng với câu Tàu: “Nhược thâm trân tàng”.
Năm 1963, trọn tháng sáu và tháng bảy, tôi ở Paris để nghiên cứu đồ cổ. Hễ ngày nào tôi không đi viếng lâu đài cổ tích vùng sông Loire, thì tôi đều có mặt tại viện Louvre, vì tôi có vẻ vào cửa khỏi tiền. Một hôm tôi được dự một cuộc triển lãm bảo ngọc của hoàng triều nước Thuỵ Điển (les pierres précieuses de la Couronne de Suède). Vua nước ấy ý muốn trưng bày bảo ngọc thận, nhưng chánh phủ Pháp và ban quản trị viện Louvre lại đề nghị tối hơn nên chưng những ngọc nhái kiểu (reproduction) và những nữ trang ký kiểu là đủ rồi, vì như vậy rủi mất cắp cũng không sao, vì theo ý viện, trong hàng quan khách đến xem triển lãm, có số muôn số vạn, nếu có quân gian hạng quốc tế trà trộn và đánh cắp thì tai hại biết mấy. Nhưng quốc vương Thuỵ Điển không đồng ý kiến ấy và sau rốt, chánh phủ Pháp phải chiều lòng, cho chưng bày bảo ngọc thận, nhưng viện Louvre phải xuất tiền đóng bảo hiểm rất cao.
Mỗi gian phòng trưng bày, phải tăng gia canh gác. Các tủ kính đều có phòng bị, kiếng bắn đạn súng lục không thủng v.v... Rốt cuộc, tôi thấy họ làm như vậy cũng một cách quảng cáo khéo cho cuộc triển lãm, chớ từ bữa khai mạc đến ngày bế mạc, không mất trộm món nào, hoặc bọn cướp quốc tế tưởng là đồ giả như mọi khi, hoặc họ chê nên không lấy. Chỉ tốn tiền bảo hiểm, và sau nầy thuế dân thêm nặng. Ai không biết đề phòng là tốt, nhưng cũng phải biết tuỳ thời tuỳ địa thế, bằng không thì sự cẩn thận kia chỉ làm thêm tốn kém cho công quỹ. Nói việc trong nước, một anh chuyên làm những mẻ to nơi đô hội có khác nhiều bọn đá cá lăn dưa chợ Cầu ông Lãnh, chợ Bà Hom: Chuyện cũ xin nhắc lại đây để suy gẫm việc đời. Tại Viện bảo tàng trong vườn bách thảo lúc tôi còn coi sóc, trong viện có nhận lãnh, do Pháp quốc giao trả, một bộ môn ngọc báu, trân châu và nữ trang thượng cổ, gọi báu vật Ốc-eo (le trésor d Oc-eo). Dưới mắt chuyên gia châu Âu đó là những vật đại quý, ngày xưa tìm được tại nơi gò Ốc-eo, thuộc vùng núi Ba Thê, tỉnh Rạch Giá, năm có giặc kỳ đệ nhị chiến tranh bên Pháp, chánh phủ Pháp chở bộ môn Ốc-eo về cất giữ bên ấy, và sau đó giặc yên rồi, chánh phủ Pháp phái cô Jeannine Auboyer, chức là nữ quản thủ Viện bảo tàng Guimet, hộ tống bộ môn Ốc-eo sang đây trả cho Viện bảo tàng Sài Gòn, có lẽ nay còn cất kỹ lưỡng tủ sắt của viện, vì không đủ phương tiện chưng bày ra ngoài. Nội vấn đề trình bày bộ môn nầy, lúc tôi còn làm ở viện, cũng là nan giải. Khi trường Viễn Đông Bác cổ còn ở Hà nội, ông Malleret viện trưởng, đề nghị và ra lịnh cho Viện bảo tàng Sài Gòn phải xin chánh phủ Nam phần chế tạo một tủ kính đủ đảm bảo, tủ bằng sắt và kính phải thật chắc thật dày, súng bắn không thủng, như vậy mới nên trưng bày, bằng không phải giấu trong tủ sắt như hiện hữu, khi nào có khách quan trọng sẽ lấy ra cho xem.
Nhưng một cái tủ như vậy, lúc ấy không ai giải quyết xong. Xin Mỹ, Mỹ không trả lời. Hỏi Pháp, Pháp cù cưa rồi nín. Bóng đổ thầy, thầy đổ bóng, không ai chịu tốn tiền cho chánh phủ Miền Nam. Theo tôi, một phần cũng tại ông Malleret quá quan trọng hoá vấn đề và nhát cho chúng tôi sợ việc không thể có, tại xứ nầy.
Về báu vật Ốc-eo, người Âu Mỹ xem là quý báu, có một không hai, chớ theo tôi, hầu hết quân ăn trộm đất Sài Gòn nầy, đều chê và không màng đến đâu vì đối với họ, những vàng vụn và đá hột “lục cục lòn hòn” ấy giá trị còn thua xa các nữ trang lòe loẹt chứa nơi các tủ tiệm bán vàng Sài Gòn - Chợ Lớn nhiều. Vả lại, các vật nầy, ăn cắp ra được, biết có ai biểu biết về giá trị chăng, thêm bị bất bớ khó lòng. Ấy tâm lý của bọn giang hồ bản xứ vẫn mộc mạc như vậy, hiểu theo ông viện trường trường Bác cổ là quá đề cao bọn trộm lôcanh mà vàng bày nơi các hiệu kim hoàn Hóc Môn, Bà Điểm lại hấp dẫn hơn, mà cho đến nay họ còn chưa đánh cắp thay. Nghiên cứu kỹ lại, thì những viên ngọc Ốc-eo, thuở xưa lối thế kỷ thứ nhứt sau Gia-tô, khi tìm được thế nào thì để y như vậy mà nhận vào mặt cà rá, mặt nhẫn v.v, vẫn chưa chịu và cũng chưa biết cách trau chuốt, như giồi cạnh cho thêm chớp sáng, mài mặt tỷ như kiểu kinh đô Amsterdam (Hoà Lan) cho thêm đẹp thêm nhiều hào quang, nói tóm lại, những hột kim cương không trau giồi, những hột mã não kệch cợm Ốc-eo không có chút hấp dẫn nào đối với dân quê ta mà hòng sợ họ làm như bọn cướp quốc tế làm bên Âu, bên Mỹ. Hột sa-phia (saphir) tân thời, hột xoàn tân chế rẻ tiền, đói với Tây phương là vật bỏ đi, thế mà họ lại thích hơn.
Nhắc lại tại viện Le Louvre năm đó, tôi đã được xem mãn nhãn nào gương soi báu, chế tạo vào thế kỷ XVI, chung quanh gương có nạm những châu báu như: quart hyalin violet (tử phương tinh), améthyste violet (tử thạch anh), toàn là ngọc lạ của đời ấy. Tôi cũng thấy nơi nầy, một đấu để uống rượu làm bằng cẩm thạch, dáng lớn bằng trái dưa hấu bực trung, bổ hai ra và móc ruột sạch, ngoài chạm gân nổi, trong chạm ruột dưa còn sói lại, màu hồng hồng như dưa thiệt, thêm có gân xanh xanh của ngọc khi ẩn khi hiện ở ngoài, nghe nói cái đấu nầy là của dòng Capet truyền tử lưu tôn đã nhiều đời, xuống đến vua Louis XVI, bị cách mạng lôi lên chém đầu trên đoạn đầu đài năm 1793 mà đấu ngọc không mất. Chiếc đấu ngọc vô giá còn được an toàn cho đến nay, và buổi tôi thấy năm 1963, còn khoe sắc đẹp óng ánh màu ngọc trong tủ quý của Galerie d apollon nầy, ai dám nói vật cũng như người, há lại không có hồn và có số kiếp như nhau. Đền đài thuở ấy bị đốt phá, của cải trong cung điện bị phát mãi, ông hoàng bà chúa bị giết, cách mạng năm 1789 bên Pháp trả giá bằng bao nhiêu xương máu, thế mà đấu ngọc còn tồn tại. Ngày nay người Pháp đã tỉnh ngộ, thì bao nhiêu quốc bảo đều chạy sang nước hiếu cổ là Anh quốc, nay tiếc đã muộn, nhưng gương ấy sao ta vẫn hờ hững xem thường? Tức Mặc Hầu là Bảy cây ngọc Như Ý, đã vuột khỏi tay ta, thật uổng. Nội cái hành lang Galerie d apollon nầy cũng đủ là một kỳ quan, các nước khác không đâu có: Giàu như nước Mỹ, sang như nước Anh, cũng không có một pho kiến trúc cân xứng và tuyệt mỹ như hành lang nầy. Khảo theo sách, thấy nói phòng đo được 60,39 mét bề dọc, 9,40 mét bề ngang và cao đến 11 mét, mạ vàng lộng lẫy trong phòng thênh thang trống rộng, không có một cây cột nào làm vướng mắt, muôn vàn ánh sáng chiếu vào, thiệt là vừa khéo vừa sang vô cùng. Sách nói phòng nầy dựng lên từ đời vua Henri IV, đến năm 1661 bị hoả hoạn cháy hư, qua trào vua Louis XIV, giao cho kiến trúc sư Lebrun kiến thiết lại như cũ.
Năm ấy tôi xem hết gần đủ các châu ngọc của các cựu hoàng nước Pháp, rồi ngày 18-6-1963 đáp tàu hoả sang viếng Viện bảo tàng Le Cinquanlenaire ở kinh đô nước Bỉ là Bruxelles, ngày 27-6 đáp tàu bay qua viếng xứ Thổ Nhĩ Kỳ nơi thành Constantinople nay đổi tên mới là Istanbul Đây là nơi phát tích văn minh Byzance, có từ năm 330 sau Tây lịch đến năm 1461 thì ngã đổ, phế hưng mấy độ, suy vong nhưng chưa tàn. Thành Istanbul ngày nay còn nhiều toà kiến trúc đẹp và sang không đâu có, vách cung điện toàn bằng đá hoa (marbre) khéo như gấm dệt, mỗi lần phiến đá đậu bông giống nhau như tranh vẽ, và vẫn làu làu thi đua cùng tuế nguyệt trêu gan. Cung điện Huế tuy vẫn khéo, nhưng bằng gỗ, tuổi có hạn, sáu bảy trăm năm là mục nái nát không biết bảo tồn, duy cung điện như Istanbul nầy, toàn bằng đá, thật là thiên niên trường cửu. Về ngọc tôi thấy nơi đây phần nhiều là những ống bằng hổ phách (ambre) dài đến cả gang tay. Nước bóng ngời vàng sậm và trong vứt, những ống ấy là chuôi ống điếu theo kiểu chuối đót hút thuốc lào bên ta, và đó là chuôi điếu của các hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ đời trước sưu tập lại. Thuở nay, sách Trung Hoa dạy rằng mủ nhựa cây tùng chữ gọi “bạch tông chỉ”, khi mủ ở thân cây tiết ra, còn mới, thì trị được những bệnh đường tiểu (bạch trượt, lậu mủ), hoặc dùng thoa vào cung đàn nhị đàn vĩ cầm cho rít cho kêu, mủ nhựa ấy khi nào tích tụ dưới đất được một trăm năm thì hoá ra phục linh là một vị thuốc đắt tiền và khó kiếm và khi mủ được một ngàn năm thì ra ngọc hổ phách. Hổ phách vào lửa, lâu cháy, cứng nhưng giòn, nước ta có hổ phách nhưng nhỏ chột, chỉ làm bông tai, núi áo và chuỗi hạt là cùng, đời đàng cựu có nhiều và nay đã biến mất duy xứ Thổ Nhĩ Kỳ còn khá nhiều, nhất là những hổ phách cổ của vua chúa thì lớn và đẹp không đâu bì. Thổ Nhĩ Kỳ là nước sản xuất cây thầu làm ra á phiện, và nội cái cách họ hút thuốc cũng khác hơn nhiều giống dân trên trái đất. Narguilc hay Narghileh là một thứ ống điếu của dân nầy bày ra, dưới có một bầu chứa nước thơm để lọc khói thuốc cho bớt chất nhựa, bầu thường lấy bầu bằng sứ Tàu quý để tạo cho thêm sang, và bầu có một cái cần co giãn được hình như một con rắn co ngón tay cái, nơi chót cần có tháp cái chuôi ngọc để kéo hơi thuốc cho thêm sang. Nhắm cho thuở cựu trào bên xứ ta, có mấy cụ thượng, mấy quan huyện quan phủ, khi hút thuốc có thằng điếu đảy châm thuốc, mồi thuốc, têm trầu và dâng cái ống nhổ cho quan phóng phẹt nhổ nước miếng dơ vào, như vậy tưởng cũng đủ sang “cái sang khiến mất nước”, nhưng cái sang lỗi thời ấy chỉ được năm phần, chớ mấy ông vua cổ thời xứ Thổ Nhĩ Kỳ, xét theo di tích để lại mới là sang gấp mười, có cung phi mỹ nữ đấm bóp, khi xơi thuốc, có quan cận thần châm lửa, và vua Thổ chỉ nằm dài trên sập ngự rộng thênh thang, hút narguilé trầm ngâm, thiệt là “ngoạ triều”? Tại Istanbul, trong một buổi thần tiên ấy, tôi được viếng cố cung của các vua Hồi giáo nầy, thấy tận mắt chiếc võng ngự Thổ chúa, không phái bằng dây tơ điều buộc chỉ ngũ sắc, như bên ta, nhưng đó là một chiếc nôi toàn vàng đỏ hực, lớn bằng hai cái ghế bành tượng “Thái sử y” của Tàu, trong có lót nệm êm ái và hai bên, mặt trong như mặt ngoài, đều nạm cả mấy ngàn hột ngọc nhỏ quý giá, đủ màu sắc. Chiếc võng ấy treo trên một cái giá vững chắc, cũng bằng kim khí và hai sợi lòi tói treo võng cũng bằng vàng nốt, ước sức cân ắt nặng trên trăm kílô (ngày nay võng ấy có còn chăng?). Nhưng lạ mất nhứt, là thâm cung, chỗ các phi tần ở cung nầy, nền lót toàn vân thạch (marbre) trong, trên mặt đá chạm hình mây nổi tản vân, nhưng lạ thay, ngày nay nền đá cứng ấy, chỗ mòn chỗ khuyết, có chỗ lỳ lệt đến trôi mất các lần chạm sâu cả năm sáu ly Tây, bây giờ mặt bằng phẳng trơn láng như mặt ván gõ bên ta, nhứt là nơi bệ cửa bước ra bước vào, thì thật là mòn lẵng mòn lì, không còn thấy một nét chạm nào nữa, hỏi người dẫn đạo thì mới rõ đó là tại cung phi từ đời nầy qua đời nọ, gót kim liên bộ bộ, mà dẫu cho đá cứng cũng phái mòn. Bàn chân của Từ Đạm được nhắc đời bằng câu “khen cho đá cũng bền gan thật”, nhưng gót sen của cung phi nước Thổ Nhĩ Kỳ đời trước, nào có thua, mà mấy có thơ. Chưn cẳng đàn bà độc địa đến thế, thiệt là: “Khuynh thành nhất tiếu môi son, kim liên bộ bộ ăn mòn đá xanh”. Nhưng mục đích của tôi không phải đến đây để xem chân em cẳng gái Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi đến đây, quyết thâu thập vào tầm mắt những bóng vang châu ngọc, những dư ánh của bảo vật xứ đàn bà che mắt một “ngàn lẻ một đêm”.
Tại Viện bảo tàng vang danh khắp hoàn cầu là nơi chứa đồ céladon (gốm men ngọc), Pháp gọi Museé du Topkapi (vốn là nhà trù, bếp của vua Thổ đời trước) nay vẫn giữ y như cũ, vách gạch để trần, không phong tô, tuy vậy mà em rất mỹ thuật, vì viên gạch vuông phương, lằn chỉ hồ ngay ngắn, chỗ nào cũng đều đều như nhau, cũng chữ “công” như nhau, trông rất ngộ nghĩnh. Trên đỉnh cao chót vót, ngay trung tâm, có chừa một lỗ trống, xưa cho khói bay ra, nay để vậy cho thêm ánh sáng, thấy trống phọc một lỗ tròn và lớn, kinh tâm độ có mấy thước bề rộng mà vì sao hôm tôi ở đó, trời mưa thật lớn, mà không có một hột mưa nào lọt vào trong, nghĩ mãi không ra. Viện Topkapi chứa gốm men ngọc nhiều đến số muôn, gốm đời Tống, đời Nguyên, đời Minh có đủ, luôn cả đồ sứ đời Thanh đến Kiền Long, nhưng cách trình bày đáng cải cách lại, vì gốm nhiều quá và họ không khứng loại ra bớt, treo tất cả lên trên vách, lên đến tận chót vót trên cao, khiến cho khi xem, mảng ngước mất xem mãi giờ nầy qua giờ kia, khách đến chơi, vừa mỏi cổ vừa chán ngán, ra về người nào cũng vướng một bệnh chung là chóng mặt nhức đầu, đi xem Viện bảo tàng mà như vậy thì còn thú chỗ nào?
Nói về ngọc ngà châu báu của vua Thổ xưa, thì ở đây nhiều đến ngợp thở. Trong tủ sấp hàng dài, ngọc thôi là ngọc: ngọc bản xứ như hổ phách saphir, ngọc xứ lạ cống sứ vào đây, bạch ngọc, bích ngọc, hồng ngọc, đủ màu đủ thức quả là đúng câu “kim ngọc mãn đường”.
Tôi không dám kéo dài câu chuyện Tây du và xin tóm tắt là tôi đã xem đầy mắt những cổ ngọc và báu vật các nước bên trời trây, rồi cách mấy tháng sau tôi được qua viếng Đài Bắc theo đường Hương Cảng, để rồi kế đó viếng thăm châu ngọc đất Phù Tang.
Trong các xứ đã trải qua, phải nhìn nhận “cảng thơm” (Kongkong) mới thật là thị trường quốc tế về ngọc thạch và cẩm thạch. Tôi nói bắt quàng làm vậy, không phải lạc đề đâu. Quả tại chợ bán ngọc ở Hồng kông, trong đêm 11-9-1963, tôi viếng nhiều hiệu buôn ngọc, có nhà treo bảng Trung Hoa dân quốc bán ngọc, kể về số lượng thì nhiều thật, nhưng kể về giá trị, thì rất tầm thường, nhưng ngang nhà nầy, cùng một con đường, có một hàng lớn, chủ nhân là người đạo Hồi, bán giá phải chăng và suốt một dãy phố dài, nhà nào cũng chưng dọn rất sang, nhưng ngọc họ bày đều tầm thường, loại ngọc mới, duy nơi một hiệu lớn có treo cờ đỏ sao vàng thì ngọc ở đây có phần dễ chịu hơn ngọc đã thấy ở các nhà con cháu ông Tưởng.
Hương Cảng là một đô hội quốc tế nên không lạ gì, cùng một con đường hai dãy phố mà hai nhà đối diện treo hai cây cờ khác nhau, một quốc gia, một hồng kỳ có đủ sao vàng và lưỡi liềm cây búa. Nhà treo cờ đỏ mới thật là nhà buôn ngọc danh bất hư truyền.
Tôi đứng trong nhà nầy mà khiến tần ngần nghĩ ngợi xa gần. Tôi nhớ lại năm trước đây, hồi ông Ngô đang lên như diều gặp gió, một hôm trên dinh kêu dây nói lại Viện bảo tàng đòi tôi gập, lên giảo nghiệm ngọc của bà cố vấn mua từ Hương Cảng nầy đem về. Có tám con ngựa bằng ngọc thạch xinh tốt, có ly rượu bằng ngọc lưu ly trong vắt, có sư tử bằng hổ phách đỏ bầm có đấu rượu bằng hồng mã não, các món nầy đã quá quen với tôi, khi tôi nhìn qua một loạt thì đã biết rồi, nhưng tôi giả bộ lừng khừng và thối lạc rằng tôi chỉ chuyên về đồ sành cũ và đồ sứ men lam Huế, không dám xen qua nghề biết ngọc. Cũng vì bộ tịch tôi hôm ẩy khó thương, cho nên có trục trặc khi có giấy Toà đại sứ Trung Hoa đề nghị cho tôi công du Đài Bắc, có người sau đó trách tôi quả là ngu dại nên không biết hôm ấy cầu thân với bà cố, nhưng ít ngày sau, khi dinh bị hoả tiễn đốt cháy một góc, các ngọc kia một mớ cũng cháy theo và chảy ra thành hai cục, nó là ngọc giả, khi ấy trên dính mới cho rằng tôi là thiệt thà, có học mà ít nói, và nhờ có người nhắc khéo việc ấy, mà cuộc sang viếng Đài Bắc được trơn tru. Nay chủ nhân nhà nầy, đứng trước tôi đây, là người theo chủ nghĩa vô sản, nhưng tại sao lại lựa nghề buôn ngọc, ngày thường chỉ giao thiệp với hạng có tiền và thuộc hữu sản. Nhưng trước khi bước vào nhà, ông bạn của tôi đã giới thiệu tôi đi viếng Nhật Bản và không nói tôi qua đất Tưởng thống chế. Chủ nhân niềm nở lấy ngọc trong tủ ra cho tôi xem, ngọc nào tôi cũng ưng ý và cũng ham. Sau khi ở đây ra về, ông bạn tôi cắt nghĩa lý lịch của ngọc nhà ấy, thì toàn là ngọc cổ hoặc của cung viện Mãn Thanh cũ, hoặc của các phú hộ trên lục địa Trung Quốc, khi đổi chủ nghĩa, thì ôm hết về Cảng Thơm và bán lại nhà nầy. Hèn chi ngọc không cổ hơn và tinh luyện hơn ngọc nhà bên kia, vì ngọc tiệm Cộng Hoà Dân Quốc bên kia đường là ngọc tân, do các nhà chuyên môn ở Hương Cảng mua cẩm thạch nguyên khối ở Tân Cương, Miến Điện đem về chế tạo ra mới nên chưa lạc tinh, còn ngọc nhà bên nầy như đã nói, hiệu cờ đỏ, là ngọc xưa, ngọc cổ nên quý và lạc tinh (patiné) đã nhiều. (Nhưng cũng nhiều tiền, mắc giá hơn).
Trong lúc tôi lựa chọn, tôi để ý thấy chủ nhân cố đứng áng không cho tôi xem vài món ngọc còn để trong tủ sâu. Tôi lại càng tò mò và đòi xem các món kia. Chủ nhân cười xã giao và nói tỉnh bơ: “Thấy tiên sinh thành thạo nên không muốn cho xem. Nó là cổ ngọc, và tôi cần bán những ngọc nầy trước”. Té ra chủ nhân cũng còn giữ tánh của buôn hữu sản; bán ngọc non tuổi cho người mới biết chơi ngọc, và chừa ngọc tốt để chờ người mắt xanh và mài dao bén để thiến ví tiền của bọn si mê cổ ngọc. Một số lớn ngọc thạch bày nơi đây đều cổ, và món nào cũng đề giá rất cao, mắc gấp mười, ngọc nơi nhà bên kia đường, tỷ dụ một con tước nhỏ, bên kia đề giá 200 đô la, thì nhà nầy ghi giá đến 2.000 đô la, nhớ lại trong túi vỏn vẹn có 320 đô la cho nên tôi nào dám rớ, hỏi giá cho biết vậy thôi. Khi từ giã bước ra cửa, tôi có quan niệm tốt, rằng ngọc đẹp ngọc xinh ngọc thật, vẫn còn khá nhiều, nhưng nếu muốn mua thì phải có mắt và có tiền khá rộng. Đánh một vòng gần khắp các hiệu buôn châu báu ở Đài Bắc, quan niệm ấy còn mạnh thêm lên, vì trong nhiều hiệu tôi viếng ở đất ông Tưởng sau nầy, nhà nào cũng chứa lũ khú gần đầy tủ kính có nhiều ngăn kéo, ngọc đủ màu và đủ cỡ. Tôi định chừng lúc có lịnh rời lục địa chạy qua đây, vàng lá, nữ trang và ngọc thạch là những món dễ đem theo nhứt, và họ đã vét gần sạch sành sanh của báu nơi Trung Hoa đất liền kia rồi.
Đến đây, độc giả đã có một cảm tưởng về ngọc vậy tôi xin nói qua bảy cây ngọc Như Ý của Bác vật quán Đài Bắc. Khi tôi qua tới Đài Bấc, thì tôi mới thấy thấm đòn thấm mệt, cũng vì tánh ham nghe ham thấy thật nhiều, quên rằng sức người có hạn, lúc ở Hương Cảng, chỉ có hai ngày mà tôi làm việc ví bằng một người siêng ở đó làm cả tuần hay mươi bữa, thêm khi qua tới kinh đô cù lao Đài Loan thì tôi bắt lay làm việc không ngừng cũng không kịp thở, đêm ít ngủ vì còn ghi chép không thôi, một điều khác nữa làm cho mau nhừ, là qua đây việc ẩm thực “ăn theo kiểu mấy kính xàng, dầu mỡ nhiều quá” tôi không đau ốm đã là quá may.
Để bù trừ, con mắt tôi quả chứa đầy bóng dáng những báu vật của nước Trung Hoa đã mấy ngàn năm tích trữ từ đời Thương đời châu đến các vua đời Thanh, và một việc may hy hữu, là lúc bại binh chạy được về đây lại khiến châu ngọc đã không còn ở Bắc Kinh. Khi đạo binh ông Tưởng tách rời lục địa, thì ngọc không có “ở nhà” và đã ra khỏi xứ, nhờ vậy nên không mất ấy cũng là một mảy may hy hữu. Số là mấy chục năm về trước Trung Hoa cần dùng tiền và muốn hỏi vay Anh quốc, nên lúc ấy, các báu vật của Thanh đế để lại, được đưa qua nước Hồng mao vừa định làm vật thế chưn đảm bảo số tiền vay, vừa triển lãm cho dân chúng Tây phương thưởng thức châu ngọc và báu vật nước Tàu. Không ngờ, sau đó việc vay tiền bất thành, nước Anh khi ấy mới đề nghị và hộ tống báu vật Tàu đưa sang Mỹ quốc. Giữa lúc ấy thì Tưởng bại binh chạy ra Đài Loan. Nhờ đi vòng do Anh Mỹ làm vậy, tôi cho là trời khiến, cho nên khi mất nước thì ngọc chạy vuột nên không mất. Sau đó, Mỹ trả ngọc về cho Đài Loan. Ngày nay thì ngọc được trưng bày cho công chúng xem tại Đài Bắc, chớ năm 1963, khi tôi qua đó, thì ngọc hãy còn trốn kín trong bụng núi ở Đài Trung. Lúc ông Diệm qua bên đó, theo lời ở đây nói lại, thì ông chỉ được xem những món báu bày trong tủ ké của toà Bác vật quán Đài Bắc mà thôi. Duy tôi hân hạnh và được biệt đãi theo hàng chuyên gia, vì tôi là khách riêng của ông Phó Tổng thống Trần Thành. Nhờ vậy mà khi tôi đến Đài Loan, một hôm tôi được đưa đến Đài Trung bằng tàu hoả, và được mở kho đặc biệt trữ ngọc trong hang núi, lấy ra cho tôi xem từng món một, tuỳ nơi tôi yêu cầu từ ngọc cổ đời Thương - Châu - Tần - Hán, đến đồ gốm men ngọc (céladon) đời Tống, có chạm thi ngự chế dưới đáy, ngự bút vua Kiền Long đời Thanh, khiến tôi suốt mấy ngày ngoạn du đất Đài Loan, bóng ngọc lảng vảng trang trí và trong con mắt chưa quên, không biết mình hưởng một giấc mơ thần tiên, hay sống thật, ngày nay nghĩ lại, còn luyến tiếc và mừng cho duyên may một thuở. Chuyến về vừa ghé Bác vật quán, chưa kịp tẩy trần, ông quán trường là ông Bao Tôn Bành (nay đã ra người thiên cổ), ông cầm tôi nán lạỉ để ông cho xem riêng, bảy cây ngọc lạ. Và không biết ông định thử sức mình hay sao, nên ông lấy ngọc cho xem mà trước khi, không cho xem thẻ lý lịch. Ông chờ cho nhơn viên ra về hết khi ấy ông mới lấy trong tủ sắt lớn ra bảy cây Như Ý, sấp đầy một mặt bàn. Mỗi cây ngọc đều đựng trong một hộp gỗ chạm khéo. Khi mở nắp hộp ra, tôi thấy choa mắt và tim bỗng đập mạnh, vì tôi chưa hao giờ thấy một số ngọc nhiều, to lớn và quý đến bực nầy. Môi cây đều có một vẻ sang riêng biệt không khác tôi đứng trước mắt bảy nàng hoa khôi bảy nước, mà nàng nào cũng thiên kiều bá mị không thua kém một ai.
Ngọc thứ nhứt là một cây Như Ý nguyên khối, toàn một màu trắng ngà, danh từ chuyên môn gọi tuồng như mỡ trừu, Pháp viết Jou- I jade, graisse de mouton, có lẽ dịch ngay trong từ ngữ Hoa: “Như Ý bạch ngọc dương ch”, nhưng “dương” Pháp gọi là “mouton” tức con cừu, sao mình dịch là dê, cũng lạ thật. Cán cây Như Ý nầy để nguyên vóc ngọc, cong cong queo queo, không sửa lại ngay, vì sửa ngay, mất nhiều ngọc quý, duy nét chạm thật tinh vi, chỗ khác chỉ cạo gọt sơ mà chỉ tô điểm thêm chút ít, tuỳ hòn ngọc lồi lõm, ngọc muốn trổ hình thì giữ y như vậy, nhưng lạ thay cho nét thần của Tạo hoá, rõ ràng như hình tiên đứng trên mây tản vân, thật là trời khéo chiều ý người, vừa thiên tạo, cũng vừa nhơn tạo, đôi bên tương trợ và giúp ý nhau, nhưng phải nói, nhờ người thợ khéo tay, nên đã không mất chất ngọc mà món đồ thêm tôn thêm xứng đáng. Cái câu “ngọc bất trác, bất thành khí”, đến đây tôi mới hiểu là gì. Và không biết xưa ông tiên ông thánh hay ông vua nào được cầm ngọc Như Ý nầy trên tay, sướng quá!
Cây ngọc thứ hai, đẹp trội hơn nữa vì nhiều màu hơn, và đây là ngọc mã não bám khói đèn, (agate fumée), tôi không biết danh từ chuyên môn Trung Hoa gọi làm sao, vì chưa thấy tả trong sách. Cây Như Ý nầy gồm một khúc toàn trắng và trong khe, màu như bánh xu-xoa, và có chỗ có vân đều đều, y như có bàn tay thợ khéo nào lấy thước kẻ từ nhiều đường song hành thẳng bon và rất đậm nét, rất sắc sảo, còn chỗ khác lại nạm đen y như có khói đèn bám vào, làm cho ngọc thêm có vẻ kỳ diệu lạ lùng, khi mới thấy tôi có cảm tưởng đó không phải là ngọc, mà là bột bán làm xuxoa pha da lợn, trong Nam gọi bánh da lợn, của người thợ thức khuya nên làm bánh vấy khói đèn. Xét ra tuy mã não (agate) vẫn quý, vẫn thuộc loại ngọc, nhưng không quý bằng cẩm thạch (jade). Dịch jade là cẩm thạch là lầm, tưởng nên dịch ngọc thạch, đúng hơn: và chừa danh từ “cẩm thạch” để dịch chữ “marbre”, vì cẩm là gấm. Marbre có vân như gấm, còn jade mới là ngọc thạch (đá ngọc).
- Cây ngọc Như Ý thứ ba, thì màu hường xen màu đỏ huyết (quarlz rose avec traces couleur de sang), cây nầy cổ quái không thể tả. Theo Pháp - Việt từ điển Đào Duy Anh, thì quartz chia ra nhiều màu và có tên vẫn khác, tỷ như:
- quartz: thạch anh (khoáng);
- quartz blanc: khuê thạch;
- quartz hyalin: phương tinh;
- quartz hyalin violet: tử phương tinh: (tử là tía) v.v...
Quartz thuộc loại ngọc, vẫn quý; nhưng đối với người Hoa người Việt, chúng ta không trọng bằng ngọc thạch (jade), vì jade, trong khe tuyệt đẹp, làm nữ trang, thêm sang trọng, còn quartz, thì thường lợn cợn, màu sắc đẹp, để nguyên khối tạc tượng thì xinh, nhưng lấy quartz làm nữ trang thì hỏng, vì cưa chạm quartz thì nó tách rời, mất giá trị. Quartz rose, ở Sài Gòn, trước đây, vẫn có bày bán, vì từ Hương Cảng đem về. Giá nơi hơn ngọc thạch.
Cây ngọc Như Ý thử tư, là ngọc thạch màu bí đao (joui jade blanc de melon) loại nầy trắng pha thanh lục, cũng một loại với ngọc thạch mỡ trừu, nhưng giá kém hơn; nhưng có người lại thích, vì màu trong suối, tinh anh, khả ái.
- Cây ngọc Như Ý thứ năm, màu vàng đục, trổ lốm đốm đen đen. Nhìn kỹ, đây là mã não, chớ không phải ngọc thạch. Người Pháp khi gọi agate, khi gọi comaline. Mã não trắng, thì tầm thường. Mã não đỏ là hồng mã não có giá trị hơn.
Cây Như Ý thứ sáu và cây Như Ý thứ bảy, hình cong queo, không giống năm cây Như Ý trước, nhưng vẻ xinh không kém.
Tôi chăm chú định nhãn, nhìn thật kỹ, thấy mỗi cây, làm bằng ba khúc ngọc ráp lại coi như liền, nhưng có mộng khéo và có lỗ mộng nơi đầu kia vừa vặn, ba khúc ráp lại nhau, người nào không để ý tưởng là ngọc liền, hai cây Như Ý nầy tỏ ra người thợ nào chế tác ra nó, mới quả là một xảo công kỳ thú, có mắt biết xem ngọc và lợi dụng khai thác từng tiểu tiết của ngọc, cây Như Ý thứ bảy, có một khúc cong, quá đỗi cong, nếu để y như vậy thì xem không đẹp, người thợ khi xưa bèn tách ra làm thành một miếng “hồi văn liên hoàn” dính tòn ten vào cây Như Ý bằng một sợi dây xích cung do ngọc ấy làm ra, y như miếng lèo dải treo, thiệt là xảo thủ và có con mắt tinh đời.
Qua lúc khớp sợ buổi ban sơ mới tiếp xúc với ngọc lạ lần đầu, sau đó tôi hoàn hồn tỉnh táo lại, tôi định thần và nhìn kỹ, trong khi ấy tôi tiếp lục mân mê bảy cây Như Ý liền tay, vì biết rằng vật nầy gặp đây và cầm trên tay đây, cho đến chết không gặp lại nữa, tôi nhìn kỹ từng cây Như Ý khi ấy tôi mới rõ, có cây thì liền lạc nguyên khối, mà cũng có cây hoặc hai khúc hoặc ba khúc ráp nối lại nhau, nhờ mộng ghép thật khéo, lỗ mộng và chốt mộng vừa vặn khít khao, không hở một sợi tóc, người xưa đục mộng rồi thả vô nước, nếu nước chui vô lọt bên trong, thì chưa lành nghề, nếu không nghe dặn trước và không để ý, thì không biết đó là ngọc ráp nối, tôi càng nhìn càng thầm phục tài trác ngọc của thợ Trung Hoa, quả không bỏ sót một tánh ngọc nhỏ nào mà không khai thác tận lực tận mỹ. Từ sáu khúc ngọc vô dụng vì bời rời, người thợ nầy đã biến được hai cây ngọc, cũng đồng một cỡ với năm cây ngọc liền kia, cỡ ba tấc ba tấc ngoài bề dài (lúc ấy bất cặp tôi quên đo), và chính nhờ hai cây ngọc Như Ý ráp nầy, mà tôi truy nguyên ra manh mối bảy cây ngọc của Bác vật quán Đài Bắc. Nói chí đáng cũng nhờ vịn theo lời nói của cố tiên sinh Bao Tôn Bành và nhờ lanh trí một phần nào, chớ học trong sách không có.
Tôi đang mân mê một cây Như Ý, bỗng vị quán trưởng Bác vật quán Đài Bấc mở hơi:
- Ngọc nầy phải của quý quốc không, vương tiên sinh ạ. Đố ông biết ngọc thuộc đời nào và do xứ nào chế tạo! Và xuất xứ của ngọc nầy, từ đâu đem đến?
Câu hỏi dồn dập, ông Bao Tôn Bành (Ignatus Pao) là quán trưởng Bác vật quán Đài Bắc, hỏi một cách khoan thai, và cũng hiền lành như ông là người tôi mới quen chưa được một tuần mà đã tri kỷ như người tam sanh hữu hạnh mới gặp như vầy. Ông Bao Tôn Bành, nay đã mất, nhưng hôm đó ông có dè đâu câu hỏi thật thà của ông có thể làm cho tôi chết trước ông, tức thì lúc đó. Trả lời làm sao. Nếu câu đáp sai trật, không đúng, thì chi cho khỏi ông Bao cười nhạo, ông không cười, người khác biết được thì cũng còn chi tên tuổi của mình, dầu chi cũng là quản thủ một Viện bảo tàng của một lân bang có văn hiến lâu đời, thêm bấy lâu mình vẫn mang tiếng là tay chơi đồ cổ khá lành nghề về ngọc và đồ sứ men lam.
Trong lúc thình lình bị vấn nạn làm vây, tôi mới rõ giá trị câu “danh chánh ngôn thuận” và tôi muốn chôn phứt cái danh hão bất xứng, có tiếng mà không có miếng “Quản thủ Viện bảo tàng Sài Gòn”, cũng không nhận cái chức “Bác luật quản trưởng” mà một đôi khi đã có bạn ở đây mến tặng một cách trịnh trọng. Nếu phải cho mình tự do chọn lựa và tự do xưng tên thì xưa “một tên bán quán” cũng đủ như vậy mà ít nhục, tuy vẫn biết thuở nay mình chưa là nghiệp chủ một quán nào (cái quán hủ tíu mang tên bà xã trong Chợ Lớn thật là oan, vì y làm công đứng bán và nay cũng đã ra rìa).
Tôi không vội trả lời gấp, vẫn ung dung lấy ngọc xem thật kỹ từ cây số 1 đến cây số 7 xem rồi chậm rãi trả lời:
- Thưa Bao tiên sinh, ngọc nầy bên tệ quốc ngày xưa chưa có thợ khéo làm nổi như vầy được.
Câu giục hoãn cầu mưu của tôi không dè hiệu nghiệm như thần vừa làm mũi họ Bao thở phồng, vì được khen gián tiếp thợ Tàu giỏi, vừa làm bật mí chuyện tôi muốn biết. Tôi nói tiếp:
- Thưa Bao tiên sinh, tôi định cho các bảo vật nầy, phải có tay xảo thủ bên quý quốc, tôi định cho bảo vật khéo như vầy, ắt làm dưới triều đức Kiền Long nhà Mãn Thanh, mới được toàn hảo như vậy.
Tôi vừa nói chưa hết lời, ông Bao nhe răng cười, đôi mắt hí lại, và thú thật:
- Quả Vương tiên sinh có con mắt ngọc: trong thẻ lý lịch, bảy cây Như Ý nầy chế tạo vào đời Thanh Cao Tôn (Kiền Long). Trúng một phần rồi đó, tiên sinh nói tiếp nữa đi.
Tôi lần lượt lấy ngọc ra nhìn, qua cây thứ sáu và cây thứ bảy, tôi thấy màu trắng vân đỏ vân hường, khúc trong khúc đục xen nhau, tôi bỗng mừng như bắt được vàng, tôi mạnh dạn nói tiếp:
- Về căn nguyên gốc tích bảy cây ngọc nầy, quan trọng lắm, xin Bao tiên sinh nhớ giùm, khi tôi về nước, tiên sinh chụp ảnh cho tôi xin một bộ ảnh bảy cây ngọc nầy, làm kỷ niệm đánh dấu buổi Đông du nầy.
Ông Bao gật đầu ưng chịu (và sau quả giữ y như lời). Tôi nói tiếp:
- Ngọc nầy tôi chắc gốc gác ở biển Nam. Như hai cây nầy quả là san hô. Cũng thì san hô, nhưng vẫn có nhiều thứ. Các biển phần nhiều đều có, nhưng xấu tối khác nhau. Có loại san hô tầm thường, thì chỉ là chất vôi đá của loài sinh vật nhỏ tụ hội lại và kết lại thành giề, đóng vào gành đá, hoặc biến thành cù lao lố rạn, thuyền bè đi biển, rấn vào là nguy hiểm vô cùng. Nhưng Bao tiên sinh xem đây, hai cây nầy màu đỏ xen màu trắng, san hô trắng vả chăng khó kiếm lắm, được cỡ lớn và đẹp như vầy, nước tôi ngày nay cũng tìm không ra, và ngọc nầy, không phải đá đâu, tôi nhấn mạnh một lần nữa, ngọc nầy, cũng như năm cây kia là bảy cây Như Ý cả thảy, tôi định chắc xưa của nước Chiêm Thành, đã mấy chục đời tìm tòi và góp nhóp lâu lắm mới được toàn xinh tốt như vầy, rồi đem cống sứ cho vua chúng tôi.., sau đó, dưới đời Đức Kiền Long, có một ông vua bất tài là Lê Chiêu Thống đánh không lại vua nhà Tây Sơn, bèn chạy trốn qua bên quý quốc, lại dùng bảo vật của nước, còn nguyên khối, lấy đó làm lễ vật, dâng đức Kiền Long, xin bỉnh viện trợ, trống mái quyết tử chiến với Tây Sơn, nhưng kế bất thành, thân luỵ bên quý quốc. Thanh Cao Tôn có sáng kiến, sai thợ khéo chế ra bảy cây ngọc Như Ý nầy. Như Ý là gì? Sách Pháp, quá vật chất, dạy rằng đó là cây xưa dùng để gãi khều sau lưng, khi tay người với không tới. Sau đó biến thể ra vật tượng trưng cho hiệu lịnh, như cây gậy lịnh của Thống chế võ tướng. Nhưng người Á Đông do Trung Hoa khởi đầu, nghĩ ra lấy nấm linh chi là linh vật của Tiên Phật, ăn linh chi sẽ được trường sinh bất tử, và lấy hình nấm linh chi là hình cây Như Ý, cho nên cong queo không nệ, để tượng trưng sự thiêng liêng, sự thần thông quảng đại của Phật, của Lão tử, của ông Thọ lão, và biến thể mãi hoá ra cây Như Ý của nhà tu hành và cây hốt của quan lại lớp xưa, bên quý quốc cũng như bên tệ quốc. Ấy chết! Tôi đã Ban môn lộng phủ, dám nói điển Trung Hoa với Bao tiên sinh, xin tha thứ. Như vậy, tóm lại, ngọc là ngọc nước Nam, nhưng công chế tạo là kỳ công của người quý quốc Bao tiên sỉnh có ý kiến thế nào?
Đến đây, ông Bao Tôn Bành không trả lời, cười mỉm chi dáng rất bằng lòng, thong thả thu xếp bảy cây ngọc vào tủ, viện cớ đã trễ giờ và mời tôi cùng đi với ông đi nhập tiệc. Đây cũng là một buổi áp chót, thấy mặt ông bạn tốt xứ Đài Loan. Ông người phốp pháp rất chắc người, thêm tuổi trẻ, vừa hơn năm chục, dè đâu không thọ. Có gặp nhau nữa chăng, hoạ là trong giấc chiêm bao.
Tôi về xứ, gãp biến cuộc, ông Diệm bị lật đổ, tướng Khánh lên, rồi vài tháng sau tôi cũng ra ma. Một nghiên Tức Mặc Hầu, còn lưu vong, đã quá lâu rồi, cũng bặt tin khó tìm lại được. Bảy cây ngọc Như Ý nay đã về tay khác, chuyện vu vơ không đủ bằng cớ, biết lươn thuở nào lại bất đàng đuôi?
(Viết ngày 10-3-1973, chép lại đây ngày 10-6-1978)
29: Nhất ẩm, nhất trác” từ Âu sang Á
Si-yeou-ki
(Saigon – Paris – Bruxelles - Rome - Istanbul - Saigon)
(29 avril – 3 juillet 1963)
Tây du ký (29-4 đến 3-7-1963).
Hôm nay 12-6-1978, ngồi đánh máy mấy trang truyện cũ nầy, và lật hồ sơ buổi Tây Du ký năm trước xem lại, bồi hồi và bàng hoàng như vừa tỉnh một giấc chiêm bao êm đẹp; mười lăm năm đã trôi qua, 1963-1978, mau quá.
29-4-1963 - Chuyến máy bay Air France kỳ 30 avril không có, nên dời cho mình lên đường hôm nay. Lòng nôn nao đã mấy bữa khó ăn khó ngủ, vừa 8 giờ tối đã gọi taxi cùng với Bảo và mẹ Bảo, với một xách tay lớn, đưa nhau lên hãng máy bay tại nhà hàng Caravelle, đường Tự Do. 9 giờ có xe ca lớn chở năm ba bộ hành lèo tèo lên sân bay Tân Sơn Nhứt thì đã chực sẵn để đưa lên đường, ông Phạm Biểu Tâm, bác sĩ, có thực tâm và giúp mình nhiều việc nhưng cho đến nay mình chưa báo đáp được chút gì, và bác sĩ Nguyễn Ngọc Nhuận, bạn học cũ trường Chasseloup, đến đưa để nhờ mua thuốc vì Sài Gòn không có. Từ giã lẹ vợ con. 10g50 máy bay cất cánh, 12 giờ khuya đến Bangkok, hãng buộc hành khách xuống sân để phi cơ tiếp nhận xăng, nực cười con mắt nhắm con mắt mở, đứng giữa sân bỗng nghe tiếng ai kêu tên mình thật lớn; “Sển! “. Mừng quá tưởng đâu tha hương ngộ cố tri, té ra đó là anh khổ lực Tiều Châu đẩy xe chở hàng cho hãng gọi thằng từng Tiều Châu khác trùng tên với mình, Sển ở Sài Gòn số ít, Sển ở Thái Lan, nhiều như tôm ươn ế ẩm buổi chợ chiều. Cu-li đẩy xe ở đây cũng Sển nầy Sển nọ. Và cũng nực cười cho nhân vị một tên dân Việt xuất xứ. Một đàng căn dặn ở trên nói xuống, một hai khi ra nước ngoài, hãy giữ thể thống, hãy trọng nhân vị. Nhân vị gì khi xuất ngoại, tuy có tiền mà không mua được đô la theo yêu cầu để đủ xây xài.
Tại ga sân bay Bangkok, việc đầu tiên là nếm mùi ngó khách lạ uống rượu và cà phê mà mình ngó miệng đủ no. 1 giờ khuya hành khách lên tàu, bay thống thét, 4 giờ sáng tới Karachỉ, nghỉ đây một giờ; mình không xuống ga, ở lại trên tàu mặc cho lao công quét dọn; kế bay qua Téhéran, thì trời vừa rạng sáng. Cà phê ở đây ngon đặc biệt, nhưng khen phò mã tết áo là thừa, đâu phải cà phê xứ mình nữa. Kế bay qua Rome, nghỉ cánh một giờ, rồi bay thẳng tới Orly là 12 giờ 30. Buổi cơm dọn trên tàu, đã không ngon thêm phá bụng.
Thứ ba 30-4 - Tàu tới ga, hành khách xuống, có một nhân viên còn trẻ, râu cá chốt, xưng đại diện toà lãnh sự Việt, đến liếc mất làm tình rồi biến mất, phận sự của anh đối với tôi, chân ướt chân ráo xứ lạ, chỉ có bao nhiêu ấy, anh cho là đủ rồi; vì đã có sở ngoại giao Pháp phái một nữ nhân viên, bà Brotel, lấy xe của bộ, đến sân bay Orly, nhận giùm xách tay, làm thủ tục đoan, và đưa mình về Paris, mình xuống nhà bác sĩ Harter 160 đường Bronlel, là bạn quen cũ biết và mến nhau từ Sài Gòn; buổi chiều bà Brotel đem xe lại rước mình đến bộ ngoại giao nhận số liền trợ cấp để chi dụng trên đất Pháp. Một bà mạng phụ tiếp tử tế, giao 1.500 NF rằng hãy tạm nhận bao nhiêu đây, qua tháng sau sẽ đến nhận nết một số tương đương như vậy nữa (1.500 NF), bà không trao hết một lần, vì sợ rủi ro mất mát. Còn về sự chi tiêu, chánh phủ pháp không dòm ngó chi cá, để mặc cho mình, biết khôn thì nhờ, bằng muốn ăn xài cho thoả không học hành chi, thì cũng mặc; đó là vì tôn trọng tự do của ông đó. Thưa bà, tôi nào có nói chi. Qua đây dốc lòng “ăn” và “học”. Học đã sẵn viện báo tàng Guimel làm nơi làm việc, và các viện khác sẽ viếng khớp, cho đúng câu bồi bổ tỉnh thần; rồi sau đó, về vấn đề “ăn”, thì sẽ rán tận lực ăn, ăn cho biết món ngon mẫu quốc, nhứt là cái kia, cũng muốn sẵn dịp trả thù cho biết. Dầu bà không hỏi, sẵn đây gọi là phúc trình muộn. Tôi đã viếng được các nơi sau đây:

- Viếng toà lãnh sự Việt, 45 đại lộ Villiers, chào ông Phạm Khắc Hy, ngày 2/5;
- Viếng vùng Louveciennes, ngủ đêm ở đây, nhà phụ mẫu bác sĩ Harter, ngày 3/5;
- Chào bà Dupont, quả phu quản thủ viện bảo tàng Sài Gòn, và viếng mộ bà Christine Bruel, ân nhân trước cho mượn tiền xây dựng nhà tại Gia Định, 5-5;
- Viếng cung điện Versailles, ngày 9/5. Ngày 12/5, trở lại xem một lần nữa, nhưng vẫn không mãn nhãn; Viếng lò làm đồ gốm Sèvres, hoa viên Saint- Cloud, và musée Cernuschi, 12/5;
- Viếng đại học đường Collège de France, chào bác sĩ Filliozat, vì nay trường Viễn đông Bác cổ Hà Nội tạm đặt trụ sở nơi trường nầy, ngày 15/5;
- Chào ông G. Coedès, cựu Viện trưởng Trường Bác cổ và cô Auboyer~ nữ quản thủ viện bảo tàng Guimet, nói chuyện với ông Elisseeff ngày 15/5;
- Viếng trở lại Musée National de Céramique ở Sèvres, chiều dùng cơm với Lafont, nhân viên Trường Bác cổ tại quán cơrn đường Sorbonne, ngày 16/5;
- Viếng điện Panthéon, ăn cơm Việt quán cơm Viện đường Monge ngày 18/5.
- Viếng cung điện Fontainebleau, dùng bữa tại quán xưa Napoléon từng đến, 19/5;
- Viếng Paris, điện Louvre, nhà thờ Notre Dam, cửa khải hoàn Arc de Triomphe, tháp Eiffel, ngày 20/5;
- Viếng lăng hoàng đế Napoléon tại Hôtel des Invalides, mộ tướng Foch, đi một vòng xem địa thế vùng Montmartre, xem nhà hát lớn Opéra, ngày 21/5;
- Viếng dưỡng đường Saint Louis, dùng bữa với các bác sĩ nơi Garderie Saint Louis, thấy nhiều tục lạ, các bác sĩ chào nhau bằng đi một vòng bàn ăn, lấy ngón tay chấm vào lưng bạn, chớ không bắt tay, và sinh viên học thuốc nơi đây vẽ hình tục tĩu đầy vách, bêu riếu giáo sư nhiều là thương nhiều, 22/5;
- Viếng cung điện cũ ở Blois của vua Francois 1er, điện Chambord, rồi qua điện Cheverny, xem mộ vua Louis XI và nghe một mục sư diễn và chỉ sọ vua Louis XI cho công chúng xem. Khi sống thì oai, khi chết chúng chỉ sọ trọng phơi bày trước mất công chúng, oai quyền còn đâu, ngày 23/5; Viếng hoa viên Olivet, xem điện Beaugency, xem nhà thờ Orléans, ngày 26/5;
- Viếng tỷ mỹ hành lang Galerie d apollon lại điện Louvre, thấy đủ thứ ngọc đã tả nơi bài số 27 trong tập; Bijoux de la Couronne, châu báu từ vua Francios 1er đến vua Louis XVI, viên kim cương le Régent, nặng 138 ca-ra. 27/5;
- Viếng cuộc triển lãm gốm mỹ thuật tại Sèvres, biết được ở Pháp, gốm tân chế giá mắc không thua gốm cổ bên mình, tuỳ người chế tạo Picasso, Le Corbusier, Cocteau, miễn là nhà tài tử hữu danh, là mắc tiền. Ngày 28/5;
- Sáng nầy nhơn đến viện Louvre xem phòng Hy Lạp, La Mã về nữ trang cổ, bà kiểm vé cửa, thấy đề trên thiếp mình là Quản thủ viện bảo tàng Sài Gòn, bà giới thiệu và đưa mình vào xem triển lãm châu báu hoàng triều Thuỵ Điển, gồm kiều khấu yên ngựa cổ dát vàng, gươm báu bịt vàng, và còi đi săn có nhận kim cương của vua Charles VIII, thật lạ mắt; 30- 5- 63.
- Viếng khám Conciergerie đời Cách Mạng Pháp năm 1789, nhốt bà hoàng hậu Marie - Antionette, và lưới gươm chém đầu vua Louis XVI; 31-5-63;
- Viếng lò sứ và lâu đài cổ ở Gien, đi xe ca du lịch nên rẻ tiền; 2-6-63;
- Viếng vùng Champagne, nơi trồng nho và chế rượu sâm banh, xuống hầm dài 48 km là chỗ để rượu dịu lại (xem một đoạn), được thưởng rượu ngon, tha hồ uống không lấy tiền; Champagne là cựu chiến trường; viếng nhà thờ Reims; 3-6-63;
- Viếng viện bảo tàng thuộc địa gọi Musée de la France d Outre-Men, và ghé Hôtel Drouot là nhà bán đấu giá, cũng y như nhà tầm tầm Sài Gòn buổi xưa nếu kể về sự dơ bẩn. Nhưng Hotel Drouot vĩ đại, và chia ra nhiều phòng có hộ giá viên riêng đều là chuyên gia; gốm, sứ, bội tinh, sách cổ; ngày 5/6;
- Đi Lisieux ngày 8/6 bằng xe hoả tốc hành, thăm cố ân sư dạy sử ở Chasseloup là B. Bourotte, đêm ngủ tại đây và đàm đạo đến khuya, rạng ngày 10/6 về Paris, dè đâu là lần chót, vĩnh biệt hay sẽ gặp lại ông bà Bourotte ở huỳnh tuyền. Hôm nay tận lực giúp viện Guimet và nữ chuyên gia Daisy Lion -Goldschmidt sắp lại bộ môn đồ sứ của ông Grandidier đi tặng viện và để trên gác vì không người khảo cứu rành. Bà Goldschmidt tặng sách và hứa sẽ mời trở qua tiếp tục xếp lại bộ môn nầy, nhưng từ ấy bặt vô âm tín, tôi thì không vận động xin xỏ nên chuyện xếp đặt đồ xưa thành bánh vẽ. Ngày 13/6/1963;
- Xem diễn kịch ở rạp Théâtre du Vieux Colombier, tệ xấu, chỉ có danh (15/6).
- Viếng viện Pasteur Paris với viện trưởng là bác sĩ Girard, quen trước, xong rồi bác sĩ đưa về nhà ở Garches đãi cơm. 15 giờ ông lái xe đưa về Paris, nhưng đã trễ chuyến đi viếng hầm chôn xác và nơi tụ hợp Cách mạng les Catacombes. Bèn xin để mình xuống lựa sách đường Monsieur le Prince, bắt tay lần chót và không gặp ông lại nữa. Ngày 15/6.
- Trở lại viếng tháp Eiffel và Nhân chủng viện (Musée de l’ Homme) 16/6;
- Sáng 18/6, lên tàu hoả lốc hành đi Bruxelles, kinh đô nước Bỉ (Belgique) 7 giờ 33 xe chạy, 10 giờ 27 xe đến nơi; một lần đầu đi xe train - express, thật là khoái trá. Đến đây thất vọng lớn, vì bà Houyoux, viết thơ xin hẹn trước bà không trả lời, nay đến tìm thì bà đã về hưu; muốn xem cho được đồ cổ, lên taxi, xe đến chỗ, kim đồng hồ chỉ 49 F., móc ví trả 60 F., mà bác tài chưa chịu, kèo nài thêm 5F, nữa mới vừa lòng, nếu vậy thì bác tài Sài Gòn còn phải đến học nghề nơi kinh đô nước Bỉ. Nhưng có chỗ an ủi, vì viện Bỉ Musée du Cinquantenaire, phong phú gấp mươi lần viện Guimet, kể về đồ gốm men ngọc Thanh Hoá, có trống đồng, có cốt momie (xác ướp khô, ngót ngàn năm còn nguyên vẹn); có đồ cổ đồng xưa không kém các viện nào, duy đồ sứ men lam Huế, ở đây không có một mống nào, vì thuộc địa của Bỉ là xứ da đen không có đồ sành bleu de Huế. Trái lại đồ gốm men ngọc ở đây thật là nhiều và rất cổ, vì nghe đâu có một nhân viên trường Bác cổ, đề nghị bán bộ môn sưu tập của va cho viện Guimet, rồi giận vì trả giá không đúng, nên ôm hết qua Bỉ bán hết vào viện nầy, một cơn giận nhỏ làm hư hại cho nước Pháp không ít. Ở viện nầy ra về, còn tìm đến le Pavillon chinois ở Laeken, xem tiếp bộ môn chén trà Trung Hoa và một trà đình bằng gỗ rất nên thơ, nhưng xem lại những chén trà nầy toàn loại ngũ sắc, còn mới độ vào đời Đạo Quang đến Quang Tự và Tây Thái hậu đây thôi và như vậy còn kém bộ môn của mình xa. Ở Laeken về Bruxelles, học được khôn, đi xe buýt rẻ tiền và không đưa cổ cho taxi cắt như buổi sáng nữa. Đêm nay trọ phòng ở kinh đô Bỉ, sạch và thoả mái, nhứt là ở Bỉ, bánh mì ăn tan trong miệng, ước sức ở xứ mình có bán, sáng điểm tâm bằng bánh, khỏi giặm hột gà om-lết, cũng đủ ngon. Cố ân sư một hai căn dặn tới Bỉ, nên nếm bánh mì ổ và bánh mì chiếc đũa (baguette), đến đây thí nghiệm quả lời thầy Bourotte, không sai. Buổi chiều thả bách bộ cho biết chợ Bruxelles, thấy bán hánh mì lạp xường, mua ăn đỡ buổi cơm, nhưng không khoái khẩu, vì lạp xường họ chiên trong mỡ chớ không nướng lửa than như bên mình, ăn vô ở cổ và nặng bụng, thao thức không ngủ. Sáng sớm đi xe điện trở lại Laeken, tốn có 5 F., thay vì mấy chục quan hôm rồi. Xem lại ngôi trà đình bằng gỗ, thấy mà tội nghiệp cho gỗ thuộc địa, qua xứ lạnh như người vong hương, coi bộ không đứng vững được lâu. Thiếu hơi nóng mặt trời và qua mùa tuyết, nóc lãnh đủ lớp tuyết dày, ắt sập. Đến trưa từ giã hai người quản thủ Belge, đón xe tramway (xe điện) đưa đến ga tàu hoả, vé 5 F., vừa đến bến, xe về Paris sắp sửa lăn bánh, nhảy càn lên toa hạng thường bất chấp vé mua hạng nhứt, miễn về sớm tới Paris là thích chí, và còn sướng hơn đeo xe buýt Sài Gòn ngày nay bá bội. Khởi hành 10 giờ 50, xe đến gare du Nord là 14 giờ 50, vì không phải chuyến tốc hành. Còn lại bánh Bỉ hai bánh mua 8,70 Fr hồi sáng, ăn trừ cơm, còn ngon hơn bánh croissant Paris (19-6-63).
Hôm nay, trời Paris mưa buồn tối, rán đi Musée de l Homme, vẫn còn hấp dẫn, cũng có đủ xác ướp khô, hình nộm về nhân chủng học đủ các sắc dân hoàn cầu, có một hình nộm một hoa khôi Hottentole loã thể, xem đã nhiều lần, mà mỗi lần tới đây, bắt đứng tần ngần nghĩ nghị xa gần, không biết đàn bà xứ gì quái gở đến bực nầy, mà tại sao xấu tệ mà hấp dẫn ghê hay cặp nhãn mình đã bại hoại rồi (ngày 20~6); lối nay cô J. Auboyer lái xe đưa về nhà, ghé mua món ăn sẵn, cơm xoàng nhưng thân, nhà trên nồng cao, vách bằng thuỷ tinh, thấy Paris về đêm như cảnh tiên. Cô bé mặc y phục Việt ngồi bên tôi, nay đa bao lớn?
- Viếng Château de Vincennes với bác sĩ Harter để từ giã luôn trước khi lên đường rời Paris, dắt nhau trở lại Salle de garde de l’ hôpital Saint Louis, ở đây vừa cơm ngon, vừa không tốn tiền vì Harter đài thọ, vừa nói chuyện vui vì các bác sĩ ở đây rất cởi mở, không phân biệt màu da. (Ngày 21-6);
Bữa nay là ngày áp chót (25-6-1963) còn không mấy giờ nữa là từ giã Paris. Paris quyến rũ thật, ban đầu lạ sau quen, vừa biết mê là đã hết hạn kỳ. Lòng vẫn nao nao trông mau về nhà mau thấy mặt vợ con, vì sức đã thấm mệt, tiền túi đã nhót, sự tận lực trong ngót hai tháng nơi xứ lạnh, khi mưa khi gió bất thường, chúng bạn quen người Việt đều sổ mũi nhức đầu, mình cũng như ai, làm sao tránh mãi việc phong vân bất trắc. Sáng để bụng đói, xuống xe ngầm mé tro đi một hơi đến viên-lâm Bois de Vincennes, đến vườn bách thú (jardin zoologique), khéo gấp mấy lần vườn thú bên la, thêm có nhiều thú vật lạ; gấu trắng Nga, lạc đà Mông Cổ, voi Phi châu, tượng Á châu, ngựa rằn, bò bướu, con lê ngưu đủ hai loại, loại có một sừng và loại đủ hai sừng; sư tử Phi châu và cọp Tây tạng, nhứt là loại tạp chủng, đúc tréo (croisé ); tên mới đặt là tigron hoặc tiglon, cha là sư tử, nên đầu bồm xồm cổ xù, và mẹ là cọp, nên mình vằn vện. Giống nầy không sanh đẻ, muốn có, phải đúc lại (hỗn huyết; hybride). Có con hươu cao cổ (girafe), nhưng tôi vẫn thích và trở lại xem con tê ngưu một sừng, của Á châu, hình thù dị kỳ như người giáp sĩ thượng cổ mình mặc giáp sắt, trong rừng nó ăn gai, càng cất miệng càng đã thèm, và uống nước khuấy cho đục ngầu mới uống, chẳng qua biết mình không đẹp nên không muốn thấy bóng soi dưới nước, nhưng chẳng qua tê ngưu tự tìm cái khổ, hạnh phúc kề bên mà không biết tận hưởng, và đời có cần gì đẹp, sức mạnh vô biên của tê ngưu đực là đủ tê ngưu cái mê rồi. Kế bên anh chàng vô phúc ấy, có con bạn đồng loại, sanh tại Phi châu, nhỏ con hơn, nhưng dầu có đến hai sừng? Ăn điểm tâm tại vườn, uống cốc bière, ở chơi đến mười một giờ, thả lần lại đường La Huchette, nhà Đào Khiết, rua ba cuốn sách xuất bản tại Hà Nội, rồi đến nhà bà Dupont đường Boursault, bà đãi một bùa cơm từ giã, đến tối thay y phục đến dự cơm khách nhà bà Bensusan, trước có qua Sài Gòn, ham chơi đồ cổ, tiệc tám người, chuyển về theo mé tro, tới phòng là 12g, 1-4.
- Trọn ngày 26/6, thức dậy sớm, xếp đặt hành lý, đi đến đâu cũng là một cử chỉ kể như lần chót; uống cốc cà-phê góc đường Monge, từ giã bác sĩ Nguyễn Trần Huân, vợ chồng Lý Công Trinh, để trong tập lưu bút họ Lý; đêm vui rồi cũng dứt, hai tháng Paris có bao nhiêu? Tình một xứ, tình biết nhau từ thuở nhỏ, tình tha hương niềm nở như vầy rồi cũng phải chia tay. Tạm biệt hay là vĩnh biệt, rồi cũng gặp nhau có ngày. Đêm chót ở Paris, 26-6-1963.
27-6-1963 - Mấy hàng nầy viết tại nước Ý, nơi thành La Mã, trong một ký túc xá gọi Pensione LE PALME, số 160 đường Flaminica thuộc chung một cao ốc Salvia, đến đây hồi 11 giờ 30 trưa, nhớ sáng sớm còn ở Paris, métro và các thứ xe công cộng đều đình công, may thời có phước tinh là bà Roux lái xe mượn của người quen, giải vây, chạy như bay đến Orly vừa kịp lên tàu bay thì kim đồng hồ chỉ 8 giờ 30, qua 8 giờ 55, máy bay cất cánh. Lúc ở ga chờ làm thủ tục cân hành lý và kiểm vé, bà Roux tỉ tê tâm sự, rằng tiếc vì lúc mình ở Paris, nhà bà có khách tá túc nên không mời mình đến ở cho đỡ tốn (sau về xứ rõ được lão khách nói đây là Nguyễn Đình Thuần). Máy bay bay cao trên ngàn thước.
10 giờ 55 đáp xuống sân bay La Mã, thì đã có sẵn ông Corsini, trước là đệ nhứt thơ ký toà lãnh sự Ý tại Sài Gòn, nay về nghỉ phép ở quê hương, cũng bạn chơi đồ cổ, và có thạnh tình làm hướng đạo cho mình trong mấy ngày dừng chơi nước Ý. Ông Corsini khiêm tốn và khả ái thật, nhưng mình không dám lợi dụng lòng tốt của ông nhiều, lúc ra sân bay rước mình, tự ông xách giùm hành lý lên taxi, và giành trả tiền xe, thêm cho mình mượn mười ngàn đồng lire (tiền nước Ý) để xoay xở nơi nước lạ đường xa nầy, ơn ấy tôi không bao giờ dám quên nhưng buổi ấy liếc thấy ông cùng đi với một cô gái đẹp người Đức, thầm nghĩ có lẽ đây là vị hôn thê của ông chăng, nên tự thoái thác đi đường riệt, xin miễn dự buổi tiệc ông mời về nhà, để dùng thì giờ mua vài tấm thiếp gởi anh em và viết mấy trang ký sự. Bao việc xảy đến cho mình đều như tiền định. Cám ơn nước Pháp cho mình một dịp may đi “ăn và học”. Về học, nhớ lại khi kể lể mấy trang trên đến phát chán, thì chẳng là mình học rất nhiều, duy thồn đọng kiểu bồ câu ra ràng ngốn mồi của mẹ đút, nuốt không kịp thở biết sau nầy có còn nhớ được chút nào chăng. Nhưng than ôi, học khá nhiều, nhưng vô sở dụng, về tới nhà không bao lâu thì lão Khánh cho ra rìa, đành ôm mớ hiểu biết làm của riêng như con nhện già ôm bọc trứng. Duy kể về “ăn”, đây là đặc quyền sở hữu của riêng, không chánh phủ nào kiểm tra và dạy phải phúc trình, cái tuổi quá sáu mươi còn gì là lạc thú, trong bốn thú trời dành, đứng đau há chẳng là “ăn”? Ở Bỉ nếm bánh mì ba-ghết (baguette) ở nước Pháp suốt hai tháng, nào pho-mát, nào thịt chiên, thịt nướng, nào trái cây tươi, nào lòng bò nấu theo kiểu tỉnh Caen (tripes à la mòde de Caen) bên xứ mình vẫn nấu được nhưng vì thiếu cải-lach (moutarde) nên mất vị. Nhứt là những buổi tiệc tại gia, mỗi nhà ở kinh đô và ở vùng sông Loire, nhớ tới rượu vang mỗi khi xe ca du lịch tổ chức viếng lâu đài cổ, trải qua vùng nào đều mời thường thức rượu đầu mùa hay rượu để lâu năm kiểu Champagne quảng cáo uống líp theo tửu lượng và khỏi trả tiền, nhớ hơn nữa là tấm thạnh tình chân thật của cô Jeannine Auboyer, Quản thủ viện bảo tàng Guimet, nhà cô đơn chiếc, gái độc thân, thế mà cũng mời đãi mình bữa nọ, nhớ cô ghé xe mua trong phố món ăn là in sẵn nhưng nhớ đến vuông nhà toàn bằng kính thuỷ tinh trong sáng như vậy mà ăn ở mãn đời trong nhà “kiếng” ấy mà không chói mắt sao? Nếu bên xứ mình thì không khác sống trong lò quay nhưng nhờ khí độ Paris, lạnh nhiều hơn nóng và vẫn thiếu ánh sáng mật trời, cho nên đêm ấy, ngồi trong lồng kính ngấm muôn sao trên vòm trời và muôn ngàn đốm sáng từ vùng kinh đô ánh sáng chiếu lên, thì quả là cảnh Thiên thai trên địa thế. Nhà cô Auboyer hôm ấy chỉ có sáu người nhà, cô là bà bạn “chủ nhà chung”, bốn trẻ ba trai một gái, cô nầy hôm ấy vận quốc phục Việt Nam để tiếp đãi tôi thêm long trọng, với tôi nữa là bảy người nhập tiệc, cô Auboyer là một học giả uyên thâm về ngành khảo cổ, nhưng cách cô tiếp đãi, nó nhã nhặn và thật tình làm sao. Mình là gì, mà được trọng đãi như vầy, nghĩ mà hổ, và không khỏi đổ thừa cho bớt thẹn là “giai cho tiền định”.
Nay tới xứ của lão Marco Po lo (1254 - 1323) là tay hầu cận vua Hốt Tất Liệt đời Nguyên. Lão ăn cắp thuật làm mì của Trung Hoa, chừng nào mình được nếm? Thối thác không dự tiệc của ông C. là cố ý, muốn ăn theo bình dân ở quán trọ cho biết thú phong lưu nếm cho đủ mùi đời. Quả nhiên nhà tôi tá túc đây, là ký túc xá khách ngồi bàn có đủ sức, một Nhật Bản, một người da đen, hai người kỹ sư một Đài Loan, một Trung Hoa lục địa, và tôi, ông Corsini khi chọn chỗ nầy cho tôi là khéo trí hết sức, phòng nầy vừa ở gần nhà của ông đi bộ cũng tới khỏi cần xe, thêm được yên tịnh, sạch sẽ và không mắc tiền. Mỗi buổi sáng điểm tâm bánh mì, khi là baguette, khi là bánh nute, (dài và vóc nhỏ như ống sáo, ít ruột, da vàng lườm và bột ngon không thua bánh nước Bỉ làm ở Bruxelles), cà-phê pha một tô đầy, nêm sữa thật nhiều, thêm đĩa bơ lạt, ổ đĩa bơ lạt, nhớ tới thèm rỏ dãi. Ý còn là xứ lạnh, La Mã mát mẻ dễ chịu, nên bơ ở đây họ không để nguyên cục và họ nạo bằng dụng cụ gì mà mỗi miếng bơ khéo như vỏ sò, giống cái ngao nho nhỏ xinh xinh, vừa lấy mũi dao khều và phết vào bánh mì, thì bơ ríu ríu dính theo dao, và thau trong miệng vừa thơm thêm ngon ngọt. Tôi ở đây mấy ngày, mà tiền ăn tiền phòng: tính lại không bằng một bữa cơm xoàng xĩnh của tửu lâu Caravelle độ nọ. Hôm 27-6, khi đến La Mã, tôi dùng bữa cơm nhẹ lại ký túc xá, nằm nghỉ lưng và tắm nước mát thấy phục hồi sức lực lại. 15 giờ tôi thay y phục đến nhà Corsini, mới rõ đây là nhà một hầu tước Corsini cha trước là giáo sư trường luật có danh, nay đã khuất, bà mạng phụ trông còn khỏe và nhã nhặn đài các lắm. Bạn Corsini của tôi còn một em gái xinh đẹp đúng là con nhà gia lễ, nói chuyện tiếng Pháp rất bặt thiệp, và rất có duyên; không như cô gái Đức, cũng là tân khách nhà nầy như tôi, quả là vị hôn thê của ông chủ con, nên nội nhà đều lăng xăng niềm nở với cô lắm, chính Corsini cũng quýnh quít với cô nhưng tôi không hạp nhãn và có linh tánh cô nầy quá lạnh lùng và xa vời, làm tình vài bữa thì hay, làm bạn trăm năm thì lâu ngày ắt trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Duy được một cái là gái Đức xưng hô cũng “dạ” như mình.
Chào thân mẫu và em gái chủ nhà xong, Corsini và cô Đức và tôi đồng xuống lầu cùng lên tai dạo một vòng cho biết thành La Mã; Basilique de Saint-pierre (đại giáo đường thánh Pierre), Colisée (cổ đấu trường trứ danh), Catacombes (hầm chôn cốt dưới đất sâu và cũng chỗ tụ hội xưa của dân La Mã), và một Basilique (giáo đường) ở ngoại ô, nhỏ thôi nhưng xinh xắn, lúc ấy đang kinh chiều, tiếng ngân nga trong vất từ trong giáo đường vọng ra, thiêng liêng huyền bí, xứ nầy là xứ của đạo Giatô và của Marconi ( 1874-1937) thuỷ tổ của máy vi âm tinh tế.
- Thứ sáu 28-6-/963 - Hôm nay là ngày thứ nhì ở La Mã. Gia đình Corsini mời mình 1 giờ trưa đến dùng cơm. Buổi sáng ăn tại ký túc xá rồi thả bộ dạo xem đường sá La Mã, khang trang sạch sẽ thật, nhưng khách ngoài đường vắng hoe, hay là giờ mình dạo phố là giờ họ đến thánh đường nghe lễ. Mỗi ngã tư đại lộ, tôi đều thấy hồ nước cổ, có bể cạn và vòi nước bằng đá vừa cổ vừa mỹ thuật; ngày xưa một bể cạn có nước cho dân dùng như vầy là có ích vô ngần, nhưng ngày nay là thời buổi xe cộ chạy như mắc củi, e bể cạn là chướng ngại vật bề bộn hơn là hữu dụng, cũng may thành phố La Mã không đông người đông xe như Paris, vả lại người Ý đa số là hiếu cổ, nên bao giờ họ dẹp bể cạn cho đành. La Mã là thành xưa, liệt vào cổ tích, nhưng chu vi không lớn, mình đến sở bưu điện gởi mấy tấm thiếp cho anh em, chứng tỏ hôm nay mình có để chan nơi chốn nầy kế đến giờ lại nhà C. Bữa tiệc hôm nay là tiệc đãi miễn cưỡng, không lựa ngày khác được, vì mai nầy tôi cất bước đi Istanbul, chớ ngày thứ sáu, ở đây họ đều cữ thịt, nhưng rất may cho tôi, là có dịp thấy cái khéo của mụ bếp già, dọn toàn là pâte, bột mì nhồi trong nhựa (ruột bánh) đều là hoa quả mụ nghe khách là Việt Nam, mụ lên đứng mời từng món một, khoe món nầy nhồi cách nào, món nọ là đặc biệt của vùng nào, mụ tưởng người Việt ốm và nhỏ con, nên cố ép ăn, không ngờ tôi là con cháu Hạ Hầu Đôn, bao nhiêu món dọn ra, mời chủ xong, còn lại bao nhiêu, tôi đều nịch hết. Không biết trong bếp, mụ có chừa chút nào không, hay lát nữa mụ nhịn đói, nhưng thấy mặt mụ tươi chong, tôi ra về mừng thầm vì trời cho tôi có một dạ dày mạnh chở. Cái rủi của tôi là du lịch La Mã vào dịp lễ thánh Pierre nên điện Vatican đóng cửa để chưng dọn, tôi chỉ leo lên được nóc điện, những tượng bằng đồng trên nầy y cao lớn dị thường, lưỡi cưa của một vị thánh cầm trên tay, đứng dưới đất tưởng lưỡi ấy mỏng như lưỡi cưa thường, nhưng lên đến gần xem lại lưỡi dày trót phân tây mà ở dưới lúc nãy xem mỏng dính. Một cái quê “chú Mán ra chợ” của tôi là khi đứng trong thang máy chờ lên nóc Vatican, tôi không thấy thang động địa nhúc nhích khi tới nơi còn chưa hay nên lúc thang đặt xuống tôi để ý nhìn nhờ bóng sáng thay đổi mà biết thang chạy tốt, chẳng qua loại thang điện (ascenseur) cũng như loại máy vi âm thâu âm hay phát âm sản xuất ở Ý đều là hạng nhứt (xứ của Malconi mà lỵ! Và nay người Nhựt có sản xuất hơn không?)
Céladon, gốm men ngọc, mi là giống chi mà đày đoạ ta đến thế? Muốn xem mặt mi ở Istanbul mà phải đổ đường ngàn dặm, lặn lội những chốn xa lạ nầy cũng vì mi! Hôm qua đã tắm. Hôm nay, về đến phòng, thấy tốt trời, bèn xin nước tắm nữa. Lúc ở Paris, một bạn cũ từng nói ở đó một năm tắm vài lần là đủ, vì chỗ tắm khó kiếm, mất tiền, tốn kém. Nhưng mai nầy là lên đường trẩy bước sang xứ ấm Thổ Nhĩ Kỳ, âu là tắm nước lạnh cho sạch cái phong trần trời âu, tắm lần chót để tẩy trần, chấm dứt bước Tây du hai tháng. Vì hai tháng nên chưa thành chánh quả.
Thứ bảy 29-6-1963 - Cô Đức đã bay về xứ ăn thịt đồi un khói, xứ xúc-xích và rượu bia đen. Hôm nay cũng là ngày chót của tôi trên đất Ý, nên anh bạn C. của tôi cống hiến trọn ngày cho tôi, để thoả tình người đồng điệu si mê đồ sứ cổ. Anh dặn tôi ăn điểm tâm nhẹ nhẹ, để anh sắp cho tôi thường thức một cái mừng bất ngờ.
Rủi cho tôi ngày nay là ngày lễ thánh Pierre, các hiệu buôn, các nhà sách, tiệm bán đồ xưa, đều đóng cửa. Hai tôi la cà từ quán nước đá chanh qua quán cà-phê, thả bộ gần rã giò mà 14 giờ 35 là phải có mặt ở sân bay, nên chi tuy còn sớm chán, mới 12 giờ Corsini đưa tôi lại một khách lầu ở một ngã tư đường thị tứ nay tôi đã quên tên, ông gọi chủ nhà ra và giới thiệu tôi mà dặn rằng; “ông làm cho bạn thân tôi là ông Sển, một đĩa pâte có trộn fromage và một trái dưa melon”. Tôi không biết đĩa ở đây bao lớn nên dè dặt xin “nửa đĩa thôi “, nhưng ông chủ nhà hàng cũng là đầu bếp ngự thiện, xoa tay liếc bạn tôi mà nói một câu tiếng Pháp giọng Parisien: “Thưa ông khách quý, hôm nay trước mặt bạn của chúng ta là C, đây tôi hiến ông một đĩa lớn bánh bột rắc pho mát do tự tay tôi chế biến. Nếu ông dùng không hết đĩa, thì tôi không nhận tiền và xin ông đừng gọi tôi là ngự thiện số một của thành La Mã nầy”.
Mà quả thật không biết bao tử của tôi hôm đó là bao lớn, mà đĩa bột đi trước, đĩa dưa gang đi sau, cả hai đều chung tót vào hồi nào tôi không hay, ngon quá, khoái quá, ăn quên thôi, và khi bước ra đường tôi không thấy nặng bụng chút nào vẫn đi đứng như thường như chưa xức phàn. Tiếc một điều là hôm nay là ngày chót, muốn ăn lại nữa có hoạ may là chờ kiếp sau. Corsini đãi tôi và chỉ ăn sơ một chén gelée, và tôi cũng làm một chén gelée (thịt đông) và vẫn ngon như thường.
Vạn sự Corsini bao hết, luôn cả lát nữa tiền taxi và tiền vào sân bay là 1.500 lires, chung qui vừa tiền mượn bỏ túi vừa tiền trước tiền sau, tôi nhớ mắc nợ bạn tôi là 12.000 lires, tức là lối 120 NF hoặc tính theo liền Việt Nam hồi đó là 1.848 đồng hay là tiền chẵn 2.000 đồng cho gọn, ấy là ăn xài thả cửa ba ngày ở La Mã năm 1963, của thằng hư nầy.
Sau bữa cơm, C. gọi taxi đưa tôi về phòng, lấy va ly tự tay ông xách, tôi giành lại ông không cho, khi tới nhà gare trời nóng bức như bên ta vào mùa hạn, hai đứa ngồi chờ đến 14 giờ 35, C. đứng dậy bắt tay từ giã, C, nhìn tôi cất bước lên xe đưa ra sân bay, nối gót phiêu lưu. Không biết một tiếng Turc (Thổ Nhĩ Kỳ), xứ ấy quen dùng tiếng Anh, thì mình cũng không biết luôn, biết quẹt quẹt ba tiếng Tây y thì xứ Thổ Nhĩ Kỳ không xài, thế mà vẫn mạnh dạn lên máy bay đi cho biết. Tôi ngó lại, vẫy tay cám ơn người bạn tốt, Corsini anh ôi, phải tam sanh hữu hạnh mới tái ngộ nhau phen nữa. Biết đến chừng nào tôi gặp một bạn như anh? Bây giờ anh ở đâu, hay là công danh đắc lộ, anh nay là đại sứ? Tiền túi không cho có ngoài số đã định, đô la thì quá lớn, cho thì tiếc, mỗi lần sang nước khác, tiền lặt vặt xe cộ không đủ chi dụng, vì vậy mà tôi phải nhờ C. trả tiền, thiệt là thốn bên đít. Đi xa mất thú.
Từ phút nầy không nói là 14 giờ 55 (giờ Ý) mà đổi lại 8 giờ 55 (giờ Thổ Nhĩ Kỳ. Xe đò đưa từ gare Rome qua chỗ hãng Air France chở ra phi cảng, giá vé là 3 T.L (lire turc). Tiền còn trong túi là 180 NF đổi được 327,60 T.L. Xe đến chỗ, bác tài người Turc chìa tay đòi răn rắt là 5 T.L mặc dầu giá định là 3 T.L. ăn cướp từ đây. Thổ Nhĩ Kỳ là xứ trồng cây thẩu làm ra á phiện. Thồ Nhĩ Kỳ là xứ đàn bà che mặt (nay đã bỏ), và đó cũng là xứ đẻ ra danh từ bakchich; pourboire, hối lộ, ăn cướp từ đây! Máy bay đến Istanbul, đến phòng dặn trước té ra họ nhốt mình trong một căn chật hẹp và nhỏ như hộp quẹt, thêm ở tuốt dưới hầm sâu, không có cửa sổ, vậy mà chưa nói tiền cho chác lì xì, tiền service, tiền phòng tính mỗi ngày 3 đô la (3 dollars), ăn cướp cũng từ đây!
- Chủ nhựt 30-6-1963 - Hay là: “Đây cách người Thổ Nhĩ Kỳ ăn pà uống”.
Sáng thức dậy, ngày đầu tại Istanbul, phải làm cách nào cho thấy đủ điều với thiên hạ, với một số tiền có hạn định (180 NF hay 327,60 T.L, trong số nầy, còn chừa lại tiền vặt trả tiền xe pháo khi tới Tân Sơn Nhứt). Từ phòng ngủ ra phòng khách của khách sạn Plaza nầy, phải nói là lên, vì phòng ở dưới hầm sâu. Tuy trời còn sớm lắm, nhưng đến phòng khách tôi đã thấy tề tựu bốn năm anh tài xế đủ sắc dân, đến đây kiếm mối. Tôi dùng Pháp ngữ và nói cần dùng một bác thạo tiếng Pháp. Có một anh da trắng, mặt mày xem cởi mở, đứng dậy bắt tay tôi vừa cười vừa xưng tên là Marko. Lão vừa là chủ xe vừa lái taxi. Nhưng tôi đến xứ bakchich lần đầu, phải biết già tay ấn với bọn nầy. Tôi hư tôi chịu thua đồng bào cùng một dòng máu và cùng một xứ với tôi, nhưng với bọn nầy, tôi không cho lột da nữa. Tôi thương thuyết với Marko chịu mướn xe y hai ngày, giao xem đủ hết các kỳ quan phong cảnh đất Bosphore, nhứt là những danh thắng tại lstanbul, lấy sách chỉ nam của tôi cầm tay làm bằng là cuốn Istanbul et ses evirons loại Guide bleu illustré của nhà Hachette, thông pháp. Ngã ngũ một trăm quan Pháp nặng (100 NF) chở tôi đi chơi hai ngày xăng nhớt của va, Marko chịu, và liền đó, va lần lượt đưa tôi đi xem khắp các nơi nầy và làm hướng đạo viên luôn, mỗi chỗ. Marko lại còn châm tiếng Pháp và dặn trước tôi mọi điều để tránh nạn quỷ sứ ăn đàng sóng nói đàng gió, đòi hối lộ và bakchich. Nhưng nơi tôi được xem là: (xin để nguyên Pháp văn, vì dịch lạ thì lòng thòng);
1) La Mosquée bleue (chùa Thổ Nhĩ Kỳ cẩn bằng gốm men màu lam) (ở đây có tục khách xem phải cởi giày mới được bước vào chùa, vì sợ dơ tấm thảm bằng lông thú quý. Nhưng Marko dạy tôi cho 0,50 lira, tức thì tên gác cửa trao ra một đôi babouche (giày hạ không gót), tự tay tên gác dang quỳ gối tròng babouche trùm hết giày tôi kín mít, và tôi vô chùa khỏi cởi giày; nhờ hối lộ. Khi tôi ra cửa, tên gác dang quỳ gối một lần nữa, lột babouche và cám ơn khúm núm, bao nhiêu ấy chỉ tốn có nửa đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ (0,5 lira turc).
2) La Sainte Sophie, một ngôi chùa vĩ đại, đã có từ năm 325 Tây lịch;
3) Le Musée des mosaiques, xưa chặt đầu người ở chỗ nầy;
4) La Fonlaine d ahmel III;
5) Le panorama de la ville, xem toàn thể phong cảnh vùng Bosphore hùng vĩ, nước biển trong vắt ngó trước mặt là bờ cõi Nga, hay rún trái đất là đây?
6) Le musée archéologique (viện bảo tàng cổ tích học (nơi đây có quan tài bằng đá của Alexandre và xác khô (momie) của vua xứ Sicon, tóc còn, và cái sọ thì chẻ ngay đỉnh đầu là một cổ tục chẻ sọ như vậy y khi còn sống, nếu người đó không chết mới là linh thiêng.
7) Les 1001 colonnes de Binbirdirek (đó là hồ chứa nước dưới đất có nhiều cột chống đỡ và khi đứng xem, hơi nước mát lạnh khiến phải rùng mình);
8) La Mosquée de Suleiman (một chùa cổ đặt tên theo vua nầy);
Xem đến đây, đã trưa trật, thêm kiện cắn bụng, không biết sao tiền túi ngày một nhẹ mà từ khi Tây du, bụng đói liền liền, để bắt bồ với lão Marko cho thêm thân thiện, tôi mời lão dùng với tôi một bữa cơm Thổ, tự ý và đưa đường miễn ngon và bình dân là quý. Lão cười, lái xe đánh một vòng thật lớn cắt nghĩa và cho tôi xem tổng quát chung quanh Bosphore, thiệt là núi non trùng điệp, dưới nước là một màu xanh biếc trong khe, đúng với câu nước non muôn trùng, nếu nhà ở gần, sớm chiều đến ngắm cảnh nầy, ắt là lu chết.
Không biết lão có tính cuốc xe nầy trong số liền giao kết với mình buổi sáng chăng, nhưng sau đó lão ghé xe vào một cái quán nhỏ lèo hèo, lão gọi dọn mỗi người một đĩa cơm và thịt trừu, gọi Doner kebabi avec pilaf (mouton au riz) vì lạ miệng, tôi ăn thật ngon, ăn rồi uống một ly nước suối, khi trả tiền, tôi tặng Marko một gói thuốc lá, vị chi hết thảy là mười một lira turc, rẻ quá. Marko đưa tôi về nhà hàng Plaza thì đã một giờ trưa. Tôi thay y phục, nằm nghỉ lưng đánh một giấc đến ba giờ chiều, thức dậy tắm nước lạnh, vì tiết nóng như bên mình, 28 độ. Tôi lên thang ra sân khách sạn, gọi một taxi mà tài xế là người Ba Lan, cao lớn con nhưng dáng hiền lành, lão nầy lái xe đưa tôi một vòng Bosphore khác hơn đường của Marko buổi sáng, chuyến về đi vòng ngả núi, phong cảnh chỗ còn tịch mịch nhưng chỗ khác quang đãng lắm, thỉnh thoảng có suối chảy róc rách và mấy chỗ ấy dân ở đây đều có đặt đồ dùng cho khách lỡ bước tạm dùng nước ấy giải khất, nếu bên ta thì ất có lập miếu thắp nhang. Tín ngưỡng ở đâu cũng có, duy phong tục có khác. Như buổi sáng tôi dùng bữa rồi tuy không có đũa nhưng lệ quen tôi chắp tay xá, có tên Thổ ngồi trước mặt, nở một nụ cười khinh rẻ, tôi cứ để cho nó cười. Về đến khách sạn Plaza, bác tài Ba Lan xin ba mươi lăm lira, giá nầy rẻ hơn giá Marko 20%, nhưng lỡ đã giao kết với thằng da trắng biết nói tiếng Pháp đó rồi. Bận về ghé nhà đại khách sạn quốc tế Hôtel Hilton để xem chưng bày đồ gốm men ngọc céladon. Lúc ở Sài Gòn, bác sĩ Caubet khoe nhà nầy bán giá hời, nhưng chiều nầy là chủ nhựt, nhà hàng đóng cửa, đi lốn tiền xe vô ích. Và khi đi sứ lạ không có sách chỉ nam, chỉ mất thì giờ và tốn tiền lảng như vầy. Kêu tai trở về Plaza, giá xe là năm lira, thì đâu có mắc, và lầm lão Marko rồi.
Đêm nay bụng đói, biết nhà hàng Plaza có bán khuya, nhưng không dám lên, vì sợ không đủ tiền và đường về nhà còn xa thăm thẳm. Người ta xuất dương, không nghe nói trông về. Còn tôi, giấy phép cho đi hai tháng, mà xem dài như thiên thu, ý là đi du lịch có ngày về, nếu đi vĩnh viễn như ai thì chịu sao cho thấu nỗi nhớ nhà. Đêm nay là đêm áp chót trước khi lên máy bay trở về nước, sao lại thấy thương Việt Nam cố quốc của mình quá.
Thứ hai ngày 1-7-1963 (11 tháng 5 âm lịch năm Quý Mão), đêm chót ớ Istanbul.
Sáng nầy thức dậy sớm ngồi tính sổ, hơi ngán và giựt mình e không đủ tiền dùng. Đếm tiền trong túi và ví, còn cả thảy là 100 NF và 5 đô la, với 178 lira turc, sợ cho không đủ tiền phòng, tiền ăn bữa nay và nội tiền lão Marko đã 100 NF rồi. Nhưng khi gặp Marko, thì lão thản nhiên khuyên mình không nên để tâm chuyện ấy vì theo lão, có thể bớt tiền phòng với nhà Plaza, và hãy để mặc lão chế biến và thương lượng, bây giờ nên đi chơi cho thích chí, không thiếu đủ bao nhiêu đâu mà sợ dữ vậy. Tuy nghe vậy, cũng bớt lo, nhưng vì có lánh dè dặt, phải “liệu cơm gắp mắm” trước, nên sáng nầy nhịn cà phê, ghé quán mua hai bánh croissant (bánh sừng trâu) là 0,30 lira turc. Vừa leo lên xe ngồi nhời bánh, Marko huýt gió miệng và triết lý: “Tôi xem bộ ông có tánh làm khổ cho mình. Làm tới đâu hay tới đó, ông không biết hưởng hạnh phúc. Chuyện tiền phòng, ông quá lo, còn việc trước mắt, ông quên mất. Bây giờ đầu tiên, để tôi đưa ông lại hãng Air France dàn chỗ ngày mai đi Tel Aviv là xong. Rồi cho phép tôi đãi ông một bữa điểm tâm gọi từ giã và chúc ông còn trở lại Istanbul nầy một phen nữa và xin nhớ lão Marko biết nói tiếng Tây nầy!”. Rồi Marko làm y như lời, tôi trách móc lão bao nhiêu, bây giờ lại hổ thầm với lão bấy nhiêu. Marko lái xe lại hãng máy bay, chỗ dặn đàng hoàng rồi đưa tôi lại nhà hàng đãi tôi một đĩa bánh íromage ngon lành, tôi uống một chai nhỏ nước suối thay vì cà phê, rồi đưa tôi lại viện bảo tàng le Grand Sérail (cố cung của các vua Thổ Nhĩ Kỳ), mua hai vé vô cửa hết 2,50 T.L. Lúc ấy là mười giờ sáng, vả chăng chỗ nầy chứa đồ gốm men ngọc (céladon) nhiều nhứt thế giới, tôi đổ đường ngàn dặm là dốc xem có bao nhiêu nầy, và sự hiện diện của Marko đã hết cần thiết, vì đây là sở trường chuyên môn của tôi, nên tôi dặn Marko hãy lái xe đi kiếm mối thêm, và nhớ chiều 16 giờ, giờ đóng cửa viện, sẽ lại đây rước tôi và đưa tôi xem vài chỗ như lời giao đã định.
Nhà triết gia thầy đời Marko chưa nghe tôi nói dứt lời, mừng quá vụt siết tay tôi và phóng xe mất dạng. Tôi một mình ở lại đây, trong cái viện rộng lớn và vĩ đại mấy lần hơn Đại Nội Huế, tuy mới đặt chân chưa được mấy phút đồng hồ, mà hồn mơ mộng như cảnh cũ đã quen từ thuở. Tôi mừng như cá kia gặp nước, cái ước ao suốt một đời nay mới thấy hiện ra trước mất. Quả Grand Sérail danh bất hư truyền, nhưng biết làm sao tả xiết cho độc giả không phải ai ai cũng si mê đồ cổ như mình. Từ 10 giờ đến 16 giờ, tôi xem đồ gốm céladon và đồ men lam Đại Minh thật là mãn nhãn, rồi tôi bước qua cung kế bên, xem tiếp les Trésors des Sultans (kho tàng các vua chúa Thổ Nhĩ Kỳ), xem không biết chán, rồi tôi xem viện bảo tàng hàng lụa (le musée de lissus), và viện bảo tàng binh khí cổ (le musée d armes), chỗ nào cũng có ngăn có nắp, xem thôi thoải mái và không gặp nạn trặc cổ trặc hầu như xem viện Topkapi đã tả trong chương trước. Tôi đi một vòng trong Sérail rồi tôi trở lại Topkapi xem gốm và phòng châu báu, nhân viên đã quen mặt và không thâu tiền vô cửa nữa. Tôi than phiền khát nước, họ chạy kiếm đem lại tôi, tôi xin trả tiền, họ cười mà rằng ông uống thêm nữa thì tôi đi lấy, tiền với bạc làm gì, nghe đâu ông cũng là bạn đồng nghiệp mà.
Ô hay, xứ bakchich, mà sao chỗ nầy vô nhiễm ảnh hưởng của céladon trừ bá bịnh hay mình vốn là thằng hư, vu khống cho người ta?
Nhưng chuyện vui nào cũng đến lụn tàn. Trời mưa xối xả, tôi nhìn lỗ trống trên chót vót Topkapi thấy mưa bay đi, không rớt giọt nào xuống viện, tôi đợi phút nhân viên không để ý, tôi lâm râm cám ơn đứng thiêng liêng đã giúp tôi mãn nguyện, một đời tôi mới thấy hé một chút vui làm vầy, tôi đang thả hồn thơ luyến tiếc đâu đâu, thì ngoài cửa có bóng lão Marko lù lù đi lại. 16 giờ đã gõ, Marko lái xe đưa tôi xem la Citerne du Buillique là hồ chứa nước của đại giáo đường hồ rộng bao la, nhìn chỗ nào cũng cột đá chống nền giáo đường và nước ở đâu nhiều thế, hỏi thì Marko nói nước ấy như nước suối, rịn tươm từ đâu chớ không ai gánh nước đổ đầy!
Marko nghe tôi nói hôm qua đi chơi với tài xế Ba Lan, và nổi ghen, đưa tôi trở lại vòng Bosphore, chạy đến một vùng núi non chập chồng, và chỉ cho tôi xem một cảnh lạ lùng, đó là vách thành xưa lơ lửng gần đụng mây xanh, cong queo uốn khúc uyển chuyển như mình con mãng xà, khủng long chạy từ chóp núi nầy qua triền núi nọ. Vạn lý trường thành thì m¾t tôi chưa thấy, nhưng sánh với vách thành Huế, thì vách nầy kiên cố hơn nhiều. Mấy anh Thổ NhÜ Kỳ nầy có danh là đầu cứng như đá và vẫn cứng đầu hơn bất cứ ai (tête comme un Turc), xét ra không phải là ngoa, vì họ là cháu chắt chít chút của Hốt Tất Liệt. Đòng Khả Hãn anh hùng, họ quen cỡi ngựa, và để chống chân ngựa không gì hơn vách thành thật cao thật kiên cố.
Marko cay đắng; “Ông ở có hai bữa làm sao xem hết danh lam thắng cảnh của Istanbul bao la nầy. Tối ông rảnh không. Gái bây giờ không che mắt nữa. Lát nữa đây, tôi đưa ông xem đền cổ, chỗ nào cửa sổ đóng mành mành mắt cáo, chỗ ấy xưa nhốt mỹ nhân che mặt, và cũng lát nữa, xe chạy ngang nghĩa địa, mộ nào có cây cột gãy ngang nửa chừng, mộ ấy của đàn ông chúng ta, chúng ta chết tự nhiên, đàn bà họ bị khuynh thiên đảo địa, mất cây cột chống trời, thì tự nhiên trời nghiêng đất méo! Thưa độc giả, câu nầy Marko vẫn nói tiếng Pháp, duy tôi dịch cho dễ hiểu, và xin đừng lái lại.
Sau rốt, Marko đưa tôi viếng le Grand Bazar là Chợ Trời, đã có từ đời ông Nhạc ỉa cứt su. Le Grand Bazar lớn lắm, và ồn ào như ong vỡ tổ, từ sáng đến tối. Tôi thấy bày nhiều đồ cổ xứ nầy, cây đèn La Mã bằng đất nung, đồ chai pha ly cổ (verrerie ancienne), ý tôi định mua, nhưng sợ Marko bắt tẩy, vì buổi sáng mình than hết tiền. Tôi vớ một xâu chuỗi hổ phách, anh bán bazar giả đạo đức, dạy rằng hổ phách nầy giả tạo, nhưng tôi vẫn mua và trả lời ba trăm năm nữa nó sẽ thành đồ xưa.
Tôi xin Marko đưa tôi đến nhà Hachelte, nơi đây tồi mua một cuốn chỉ nam bằng Pháp ngữ khảo về Istanbul, giá 15 lira turc, sau đó ghé Hôtel Hilton hôm qua chúa nhựt đóng cửa, tôi hỏi giá một đĩa lớn có vẻ cổ, nhưng chế tạo vào đời Minh (1368- 1643) đây thôi, họ đòi 3000 lira hay là 1.500 NF, thế thì vẫn mắc hơn giá ở Paris và mắc hơn giá Sài Gòn rất nhiều, và bác sĩ Caubet nói “3 fois moins cher qu’a Saigon” là khác xa sự thật rồi! Trời nhá đèn đã từ lâu. Marko đưa tôi đi ăn thịt trừu nướng gấp ăn với cơm và tomates, hai đứa ăn hai đĩa, uống nước suối (cũng may vì Marko cữ rượu), tôi trả 9 lira. Marko đưa tôi về phòng, tôi cho Marko rảnh đến sáng mai, sẽ rước tôi ra ga. Đêm nay nằm thao thức trông mau sáng, đặng lên đường về xứ, chưa sáu giờ tôi đã dậy, đi tắm đi cầu, rồi trở vô sắp hành lý, soạn các món xếp vào va ly và cặp xách tay. Xem lại đồng hồ còn quá sớm, định bụng muốn dùng một buổi điểm tâm ai cho thịnh soạn, để từ giã xứ nầy, không chắc còn ngày trở lại đây nữa, nhưng ngại hụt tiền, thôi thì sẵn còn một cái bánh sừng trâu mua từ sáng hôm qua, bèn ngồi nhơi bánh ngon lành chờ sáng.
Hạnh phúc là đó mà tôi nào dè. Mảng chạy tìm hạnh phúc một đời, mà chỉ tìm được cái hư. Hạnh phúc ở kề bên lưng mà không biết ôm biết nựng, ăn được ngủ được, trưa tối thấy đói hoài, sao không ăn cho phỉ? Có liền bo bo, nay có dùng được không? Lời Marko nói trên xe, là phải; Tôi chỉ làm khổ cho tôi và tôi không biết với tay bồng hạnh phúc. Tôi ham chơi đồ cổ mà không biết thực hành. Ấy là hư;
- Ngày chót ở Istanbul, 2-7-1963 - Vừa bảy giờ rưới, tôi đã nê va ly khá nặng, tay xách cặp da, leo lên khách phòng và bây giờ mới biết phòng mình ở ném về từng dưới, và nhà hàng Plaza cất trên triền nổng nghiêng triền nên khách phòng thuộc về từng lầu trên chỗ mình nằm, lên tới đó thì lầu nầy chưa mở cửa, nhưng mình ở trong nhà nên thông thương dễ dàng. Cũng may là vừa lúc ấy, Marko và thơ ký của khách sạn cũng vừa bước vô, và Marko thị sự cho mình trả tiền phòng. Nếu cứ tính theo giá đã định, thì ở ba đêm (29-6, 30-6 và 1-7) là 3 đô la x 3 = 9 đô la cả thảy. Nhưng mình không có đồng quan Mỹ (dollar), nên xin trả bằng lira (bạc bản xứ) là 103 lira turc kể luôn tiền lì xì là 110 lira. Nhưng đến đây, Marko can thiệp, đưa ra lý lẽ phòng không cửa sổ, thiếu vệ sinh, không tính giá 3 đô la được, viên thơ ký nhà hàng đuối lý, phải chịu bớt. Xách hành lý ra xe, mừng chưa kịp no, định bụng trá Marko hai ngày là 100 NF, nhưng đến đây mới thấy thủ đoạn cao cường của tên da trắng nói tiếng Pháp nầy? Marko kèo nài, bây giờ nói thẳng tay chớ không lễ phép gì nữa, không úp mở gì nữa: “Ông phải cho tôi thêm 35 lira, vì tiền phòng ông trả nhẹ là nhờ công tôi, vả lại bạc turc ông đem về xứ cũng xài không được, vậy thì cho tôi còn có nghĩa hơn”. Nhưng chưa đủ. Giây lát, Marko xin thêm 5 lira nữa rằng phải biết điều với viên thơ ký phòng ngủ. “Ông có thể bớt tiền phòng của tên chủ nhà hàng, chớ không thể không lì xì cho tên thơ ký, nó chỉ nhờ có bao nhiêu hoa lợi đó”. Marko lái xe đưa tôi tới khách sạn Hilton là trụ sở của hãng máy bay ELLA (Compagnie aérienne turque), tôi vừa xách va ly vô hãng, thì ngoài nầy Marko vụt xe biến mất, không thèm ô-rơ-voa. Tôi đã nói xứ bakchich, chỉ có mộ danh từ để gọi: “ăn cướp “! Đến giờ nầy, Marko ló đuôi! Hay nói cách khác: “hồ ly hiện nguyên hình”. Nếu không có chuyện nầy, sao gọi: “Tây du”. Tôi ngồi trơ trọi nơi phòng rộng của hãng máy bay, đếm từng con kiến và từng đầu đinh trên cánh cửa và từng bao nhiêu đinh ốc gắn bản lề cửa. Đếm mãi không thấy xe đưa mình ra sân bay, nhớ lại không biết căn hay quả, mà hôm nay ngồi tại Istanbul nầy, mới ngày nào (13-6-1963) đến hãng Air France ở Place des Invalides, và chỉ nhờ có hai hạt ốc oan ương mua 40 bạc ở trước Chợ Mới Sài Gòn mà đổi được vé máy bay, thay vì Paris về thẳng Sài Gòn, đổi vé lại, được ghé Rome hai ngày (27 đến sáng 29 juin), ghé Istanbul ba ngày (29 juin đến 2 juillet) rồi từ Istanbul đi Tel Aviv để đón máy bay đường về xứ, mọi việc cũng tại mình có vay có trả, nay tiền hết đường xa, sợ về không tới nhà, ngán quá chớ không chơi. Tôi ngồi sật sừ nửa tỉnh nửa mê, ôn lại chuyện cũ, may quá có xe lại rước ra sân bay, kim đồng hồ chỉ 10 giờ nhưng vẫn chưa hết nạn. Đường chạy theo triền núi, xe xả hết tốc lực, thế mà bác tài xế Turc biểu diễn nghệ thuật buông tay lái đứng dậy gác chơi lên ghế ngồi, chống nạnh ngó hành khách rồi ngó cái đĩa nhỏ đặt trên nấp thùng máy gần ghế va ngồi, ý muốn nói “dâng bakchich” đi rồi ta sẽ cho các ngươi đi tới chỗ”. Thiệt là quân ăn cướp, một thằng ở ga Rome, một thằng ở lstanbul nầy, có lẽ đều là quân tiểu yêu đường đi thỉnh kinh lại sanh kiếp nầy. Còn bao nhiêu lira trong túi quần, tôi trút hết vào đĩa, cúng đạo lộ đường sá, bác tài nhoẻn miệng cười duyên, ngồi xuống lái xe chững chạc hơn ban nãy. Lòng tôi lâng lâng như trút được bao nhiêu lân khổ và hoạn nạn vào đĩa tiền, trái tim khỏi sút tuột lồng ngực, vị chi cũng nhờ thế lực ba đồng lira xứ bakchich. Tôi khổ nơi đoạn đường nầy, vì tuy lấy vé máy hay là của Air France, nhưng hành khách không đủ số, hãng tiết kiệm và tôi bị giật nợ, Aìr France mượn Air Turc chở giùm đoạn đường Istanbul - Tel Aviv, cái khổ của tôi là vì vậy. Xe ca tới sân bay nước Do Thái Israel là 15 giờ, bụng muốn viếng xứ nầy cho biết, nhưng nhân viên sân bay dặn đừng đi xa vì máy bay sắp đến. Ngồi nhìn phố Tel Aviv chỗ chung quanh sân bay, thấy lèo hèo mấy dãy lều lúp xúp mái tôle, thợ lui cui gắn dây điện chưa xong, thảy đều râu quai nón bó hàm, và mấy mục sư juif đồng bào của tướng độc nhãn Do Thái, có tiếng là ra trận không ai thông nổi, nhưng thấy tận mắt đây sao lượt bướt yếu xìu và ở đời không nên xét theo tướng mạo kẻo lầm. Lóng nhóng buồn thiu, mãi đến 18 giờ, chiếc máy bay khổng lồ Air France Boeing Interconlinental mới đến. Trình vé xách cặp da leo lên tìm được chỗ ngồi, thế là thoái nạn, khỏe thân, chỉ còn chờ đến nơi là xuống, khỏi lo đường xa xứ lạ hụi tiền. Từ giã mi, xứ bakchich đi rồi liếc tiếc. Tại Tel Aviv khám giấy thông hành nhưng không xét kiểm hành lý, thêm chúc câu “lên đường bình an”, cái nước mới tạo lập có mấy chục năm, mà lịch sự quá. Bây giờ đến lượt tôi ló đuôi hư, trong ví còn giấu 80 NF, mà than với Marko hết liền. Mua tại sân bay một chai whisky 3 đô la vì miễn thuế. Cất cánh 18 giờ, 21 giờ đến Bénarès, có loa gọi hành khách xuống phi cơ lên xe đưa ra ga, độ một giờ sau lại rước trở về phi cơ, làm như vậy vì mỗi khi máy thu dầu mỡ sợ nạn hút thuốc và đề phòng hoả hoạn. Bénarès là đất ấn, sông Hằng ở đó mà không thấy mặt mày. Rồi máy bay ghé New Delhi là kinh đô Ấn Độ, cũng không được viếng, tham quá không được.. Rồi đến Bangkok, bay thét bay cao trên mười một ngàn thước, bay ngang Biển Hồ (Tonlé Sạp) ngang thành phố Phnôm-Pênh, kim đồng hồ chỉ 13 giờ 35 là đáp xuống Tân Sơn Nhứt. Lo khai đoan, trình giấy thông hành, không khí nhẹ tâng trời Tây đã dứt, xếp tiếng lang sa cất kỹ vì bớt xài từ bước chân khỏi nấc thang tàu bay. Không khí Sài Gòn oi ả từ đó cho đến bây giờ, càng ngày càng nặng.
Ghé musée lãnh lương hai tháng Năm và Sáu, trong túi xọc xạch có tiền trên hai chục ngàn đồng, mà sướng hơn ngày nay, đổi tiền một triệu cũ hoá ra hai ngàn, giấy mới. Quên mừng con và vợ hiền đứng đợi từ lâu.
(Viết theo hồ sơ cũ, ngày đổi liền 14-6-1978)
29 (tt)
Tong Yeou-ki
(Saigon - Taipei - Tokyo)
(28 Aout - 12 Septembre 1963)
Đông du ký (Sài Gòn - Đài Bắc - Đông Kinh (28-8 đến 12-9-1963)
Đây người Tàu ăn.
Tháng 9 năm 1963, tôi lại được chánh phủ Trung Hoa Cộng Hoà, do lời mời của phó tổng thống nay đã mất là ông Trần Thành, cho tôi sang viếng Đài Loan để bổ túc sự học hỏi về đồ gốm và đồ sứ cổ Tống Nguyên Minh Thanh, lúc ấy còn chôn dấu trong bụng núi ở Đài Trung. Luôn tiện tôi xin xuất tiền túi, sang viếng trong bảy ngày xứ Nhật Bản, để hiểu biết thêm về đồ đất nung của cựu kinh đô Tây Kinh (Kyodo) và viếng một làng nhỏ nhưng hết sức quan trọng đối với tôi là làng Imbé, chuyên chế tạo đồ đất nung theo phương pháp cổ truyền học được từ đời Tống Kể ra, về khoa khảo cổ thì tôi sút kém hơn nhiều người duy nếu nói đến cái ăn cái uống, thì ai đi tới đâu tôi đi tới đó, và nhờ trời cho, bấy lâu há dễ chịu thua ai. Tôi đã nếm cơm Tây từ sang đến hèn, từng thưởng thức món thịt trừu nướng theo kiểu Hồi ăn với cà chua (tô mát), duy chừng bước chân lên cù lao Đài Loan, là quê hương của Trình Thành Công, vì được ăn họ theo vua Minh, quốc tính, nên Pháp và hoàn cầu gọi Koxinga (Quốc tính gia), Đài Loan cũng là thuộc địa cũ của Nhựt, đến đây vì ăn khía nhiều ngày thịt và mỡ dầu của đầu bếp Tàu, thú thật khi ấy tôi mới sáng mắt học được chút gì về khoa ẩm thực và ý nghĩa cuộc sống của Đông Phương. Ở Đài Loan, ăn toàn thịt mỡ, xì dầu, ngày nào như ngày nấy, khiến bắt nhớ nước mắm hòn Phú Quốc và nhớ mấy bữa đạm bạc cơm đỏ, và rau của nước nhà quá xá. Có ai dè, trót sanh ở xứ mắm bò hóc xứ Xoài Cả Nả (Sốc Trăng), nên làm gì thì làm, cái gốc khó quên, và dẫu đi đến đâu, ăn được nếm được thức gì ngon cách mấy, tôi vẫn không quên tô bún nước lèo đất mẹ, nhứt là khó quên cọng bông súng Phụng Hiệp (Cần Thơ), khi thèm không có súng chỉ, dẫu bông súng trâu lớn cọng và cứng, thậm chí bây giờ ở xa Phụng Hiệp, hôm trước tạm dùng bông súng kiểng, đồng bào hụt tiền, cắt bông súng trồng làm cảnh, đem ra chợ Gia Định bán, bà xã mua về, tôi lùa một hơi bốn chén cơm gạo lức và hai tô súng óc nhóc, ngon lành, có cần gì bông súng chỉ. Kể về món mắm và rau, vừa cỏ lá hẹ, rau đắng, bông súng, bắp chuối hột xắt ghém, một điều kiện cần nhứt là phải có rau dừa mới đúng là ăn mầm và rau. Thứ rau gì quái gở vầng ăn thì thèm, nhưng khi dọn lên bàn, thấy ngán ngán. Có thứ rau dừa trơn tru sạch sẽ, lại có thứ, ác nghiệt thay ông trời, là rau dừa nầy mỗi bẹ, mỗi kẹt nách lá, đều kèm chêm một thứ bông trắng trắng xốp xốp, mỗi lần ăn, tuy vẫn rửa thật sạch, có khử thuốc tím, nhưng khi lùa vào miệng bắt nhớ chừng và tưởng tượng, nhớ mấy cục bông gòn đã dùng rồi và thường thấy trôi lều bều cạnh khu Dưỡng lão viện ruộng cỏ hoang, ruộng rau muống vùng Thị Nghè, ngồi xe buýt đi ngang thấy họ vẫn hái và mình vẫn ăn, mà chưa thấy ai chết vì nhiễm vi trùng rau dừa có kèm cục bông gòn trắng trắng, của trời xanh. Biết ăn, nếu thiếu món rau dừa, nách lá có kẹp cái gì lốp đốp trăng trắng ấy, thì bữa cơm mắm và rau dẫu ngon cách nào, tôi cũng cho là vô vị và còn thiếu.
Ngày thứ nhứt trên đường đi Đài Bắc, 11-9-1963
- Buổi đầu, trước khi lên đường, không thấy gì là hứng thú. Trước một ngày, vào chiều tốt trời, hai anh bạn học cũ trường Chasseloup đãi một bữa cơm Cầu Bang Ky, ăn chạo tôm, ngon mà phá bụng. Thứ tư 11 tháng chín, tám giờ sáng, xuống hãng CAT lấy vé máy bay, ghé cám ơn ông Nguyễn Hữu Nhứt ở Air France đã chu đáo lo lắng giùm mọi việc. Trưa về nhà ăn cơm dằn bụng trước khi bay, có gỏi cháo gà ngon đến, mà không dám gắp săn đũa, sợ nó lỏng bỏng bất tiện. Đúng 11 giờ, sau một trận mưa lớn, mẹ con nó đưa xuống nhà hàng Caravelle rồi chia tay từ giã, mình ăn xách hành lý theo xe ca của hãng lên sân bay Tân Sơn Nhứt. 13 giờ 35, máy bay cất cánh, bay thẳng thét đến Hương Cảng là 16 giờ 50, xuống sân, chờ thủ tục khám hành lý xong, lên xe về khách sạn Golden Gate, tôi đã nói rồi trong bài trước, duy phải nhắc bữa cơm Nga hôm ấy. Tôi ăn hai món, một món canh Nga và một thứ bánh nướng có phó mát rắc trên mặt, đã lạ miệng thêm nhẹ bụng. Khi tôi lồng khẩu một hớp Vodka, mặt vừa hứng, nhớ buổi xưa ông Tào thường trăng trước trận Xích Bích và râu chưa cháy, dòm trước nhìn sau, hai anh bồi bàn không cần biết đỏ hay trắng, duy thấy áo ủi thẳng thơm, cổ gài nút tới cằm, đứng thẳng lưng hầu hạ lễ phép, cách phụng sự tới bực nầy chớ không hơn nghĩ cho Ô Nam Dành (người Việt Nam) như mình làm vầy, nay được người Nga chính cống đứng dọn ăn, không hãnh diện ra mắt, nhưng tự khoái trong lòng, ai thấy.
Bữa thứ nhì trên đường xuất ngoại Đông Du, 12-9-1963
- Kể từ ngày biết viễn du, khi ở Pháp, khi ở Thổ Nhĩ Kỳ, không bước nào khổ tâm bằng khúc đường Hương Cảng đi Đài Bắc- Con đường chỉ cách có 1 giờ 15 bằng phản lực cơ, thế mà chờ chờ đợi đợi, mất gần trọn một ngày ở sân bay Cảng Thơm, lóng nhóng như chực cơm khách. Sáng sớm ở Golden Gate, vừa điểm tâm xong thì xe ca lại rước ra sân bay rồi bỏ trơ lại đó. Theo chương trình 11 giờ là máy bay cất cánh, như ai khác giàu tiền, thì cứ đi dạo cho đã, rồi đúng giờ đi xe có trả tiền ra ga còn kịp chán. Sau mới biết vì có bão nên chưa cất cánh được. Trong bụng thầm lo không biết một tiếng Anh lót đường, cũng không sẵn một tiếng Tàu chỗ vốn, cuộc hành trình xa diệu vợi, thời tiết lại xấu, thì giờ của mình vả chăng có hạn định, mà bắt đầu phí phạm kiểu nầy, thì uổng tiếc quá 12 giờ 30, có loa mời hành khách đi Đài Bắc qua phòng kế bên dùng bữa trưa, tuy không ngon nhưng phải nuốt phòng hờ. Cơm rồi có loa gọi hành khách hãng CAT đi Đài Bắc, hãy túc trực ra sân chực lên phi cơ. Đến phiên mình trình vé ra cửa, một cô chiêu đãi con cháu ông Tưởng, đầu đội mũ lệch, trâm một hơi tiếng Quan hoả xập xí xập ngầu, sau có người dịch lại mới hiểu cô bảo mình nán chờ phiên sau, rõ sướng chưa? Có mấy cha dòng Jésuite (dòng Tên), vừa quen trong bữa cơm ban nãy, đi được chuyến nầy, lấy mắt ngó mình và cười, duy lão I Pha Nho (Tây Ban Nha) ngồi chung bàn, đã lên được tàu bay, khi không thấy dạng mình, thì lật đật xuống thang trở lại tìm, hỏi han và an ủi hết lòng, khiến mình cảm động và có dịp so sánh, trên bước khách địa tha hương, kẻ tu hành lại không giàu lòng bác ái bằng một phàm phu lạ hoắc. Mãi đến 15 giờ chiều, mới đến lượt mình lên chuyến CAT-74, nhưng máy nổ nghe lớn và bay rì rì quá chậm, dòm ra ngoài cửa kính, mây bay vun vút, hột mưa đều đều, bụng càng thêm ngao ngán 17 giờ 15, đến sân bay Đài Bắc, mưa còn ướt sân. Có chư huynh đệ ở đây, Bác vật sử quán và Khuê viện chực từ lâu, rước về khách sạn đã dặn sẵn, dọc đường thấy cảnh ngập lụt nóc nhà tróc ngói, tường sập, cây đổ, thì quả phen nầy mình không biết lựa ngày phiếm du. Đến khách sạn thì gặp cảnh thành phố không có điện, dây đèn đứt, trong nhà đốt đèn cầy (nến) leo lét như có tang. Lát sau dọn cơm tối, bữa tiệc khá sang, nhưng chỉ bốn món; một tô canh giò heo chưa chuốt Bắc (thú), một đĩa nấm Đông cô (thảo), một đĩa gà luộc (điểu), một đĩa cá chiên (ngư), rất vừa miệng, nhưng món nào như món nấy, nêm toàn xì dầu có khoả một lớp dầu mè nặc mùi Trung Quốc. Lạ miệng, bụng đói, ăn ngon, xức đến bốn chén, nhưng nhớ lại ngại cho lá gan và bao tử. Đất chưa quen, đường chưa rõ, ngày mai và ngày mốt ra sao, chưa biết. Đương ăn đèn bỗng tắt, đốt đèn cầy trong, như bữa cơm ma. Tiệc xong, định từ giã để lên lầu nghỉ một giấc lấy sức, nhưng nào có được. Một ông xưng đại diện cho bộ Quốc gia giáo dục, mời ra xe chờ sẵn, dạo phố một vòng. Mình thối thác vì đã thấm mệt, vả lại trời đã về khuya, mười giờ gõ rồi, để sáng mai phải điệu hơn. Nhưng ông mặt mày buồn xo, thú thật một phen được ăn tiệc ngon, ông được chỉ định dùng ô tô chánh phủ đưa mình đi chơi và ông tháp tùng cùng đi cho sướng, nay mình từ chối, hoá ra ông thiệt thòi mất bữa được ngồi ô tô. Thôi thì vị bụng, lên ngồi cho ông vui, xe chạy vù vù, ông thì thích thú, tôi thì ngủ gục!

Bữa thứ ba trên đường Đông du
- Dè đâu theo lịch bữa nay là ngày đại kỵ vendredi 13, nhưng trái lại đi đến đâu cũng thành công mỹ mãn, buổi sáng làm gan tắm nước lạnh, mà không sổ mũi. Thay y phục rồi lên lầu có bán đủ món điểm tâm Tây, Tàu, Mỹ, kêu một tách trà và một đĩa nho tươi và bánh mì nướng thoa bơ, xong rồi chưa thấy ai lại rước, bèn xuống phố thả bách bộ trước nhà hàng. Thấy bày bán, nào thịt bò khoả hủ tiếu, mỡ rán, tào hũ chiên, y như trong Chợ Lớn không khác, đặc biệt là có thứ đậu hũ mùi rất hăng, đánh hắc vào mùi khi đi ngang hỏi ra đây là đậu hũ để lâu (đến có giòi), nghe nói biết ăn thì khoái khẩu lắm, định bụng muốn ngồi xề lại làm thử cho biết, nhưng ngấm trước xem sau, không chi đến đây kể như phương diện quốc gia, làm như vậy coi sao đặng? Ôi, cũng là sĩ diện hão, mình chưa biết hưởng hạnh phúc. Nếu trời cho có dịp, phen khác mấy sẽ biết tao! Trong chương trình, bữa nay phải viếng Bộ giáo dục, Bộ ngoại giao, Bác học viện, Á châu đồng minh hội. Sử quán Việt Nam. Khoa học quán, Khổng học hội, Trung ương thơ viện, cũng may: đến đâu đáp ứng không vấp váp. Trưa cùng anh em đồng nghiệp Quốc sử quán và Bác vật quán cùng dự tiệc; cũng gà hấp, nấm xào, canh dê, cá chiên, cũng dầu mè nổi trên mặt xì dầu. Tối lại, tiệc long trọng hơn, có tám người và tôi, đãi tại Bộ ngoại giao gồm; 1) Bao Tôn Bành (Ignatius Pao), giáo sư kiêm Bác vật quán quán trưởng (mất); 2) Vương Du Thanh, Quốc sử bác vật quán chủ sự (sau thế cho ông Bao); 3) Trang Phục Tổng (Choang Fu Trung), Trung ương đồ thư quán quán trưởng; 4) Cheng Cheng, tác giả một tiểu thuyết Pháp văn “La mère" (ông nói trùng tên với tôi, và ông xưa là "Sển Thành"); 5) Một quan viên cao cấp Bộ ngoại giao, khuyết danh; 6) Trương Long Đình (Loan Chang), giáo sư nhân viên của hội Unesco; 7) Trần Chí Hoàng (Chen Chinh Hoang), Đài Loan tỉnh lập Bác vật quán quán trường; 8) Diệp Hải Minh, sinh viên đại học canh nông, đã đậu kỹ sư, người Đà Nẵng, thạo Quan hoả, giỏi tiếng Anh và nói được tiếng Phước Kiến, làm thông dịch cho tôi suốt buổi Đông du (ông Minh bây giờ ở đâu?); 9) Và kẻ hư nầy.
Tiệc dự chín người, dọn chín món vĩ vèo; bốn món ăn chơi, chả cá, cá chiên, bí đao hầm, cơm rau, chè ngọt, rồi trở lại món mặn, hột vịt chiên dùng với bánh bao to tổ nái và đặc ruột, ăn một bánh đủ no trọn ngày, hơi lên tới cổ.
Bữa thứ tư trên đường Đông du
- Ngày nay kể ra là ngày thứ hai ở Đài Bắc. Lại thành công một phen nữa. Sáng 9 giờ 30, có công xa đến rước tại Viện Hành chánh ra mắt phó Tổng thống, Vương Vân Ngũ tiên sinh. Ông thay thế cho phó Tổng thống Trần Thành tiên sinh, mặc dầu sức khỏe không tốt nhưng Trần đại nhân cố gương đi chẩn bần và vấn an dân chúng các nới bị lụt, tôi vô phúc không chào và cám ơn người được, nay người đã tạ thế. Vương phó Tổng thống, người quắc thước, trông giống Clémenceau trong tương vẽ với cặp chân mày bạc trắng, chuyện trò niềm nở. Đến trưa Trần Chí Hoàng mùi dùng bữa riêng. Vì ông là người Quảng Đông, nên tôi gặp lại heo quay, xá xíu, vịt quay và nhiều món khác y hệt bữa cơm tàu trong Chợ Lớn.
Cơm rồi là 2 giờ chiều, về phòng nằm chưa nóng lưng, 3 giờ có xe rước đi Dương Minh Sơn, ra mắt cụ Trương Kỳ Quân, trước là Bộ trưởng giáo dục, nay là Chủ tịch viện quốc phòng, trên có Tưởng Tổng thống rồi kế là ông. Tiên sinh bổn thân đưa tôi đi xem khấp Viện Quốc phòng, đưa lên lầu ngắm cảnh Dương Mình Sơn. Một mùi khẳn khăn khai khai bỗng bay lại, khiến tôi bất kính, ngầm tưởng đó là mùi đặc biệt Ba Tàu, ở đâu cũng có. Sau rõ lại là tôi lầm to, có tư tưởng không tốt. Dưới Dương Minh Sun có mỏ diêm sanh, lưu hoàng. Vì ban nãy có mưa nên hơi diêm bốc lên, nên có mùi đặc biệt thum thủm. Tôi là thằng hư, nghĩ bậy. Chỗ nầy, sơn thanh thuỷ tú, có suối nước nóng trị được các bịnh ngoài da nhứt là ghẻ chốc. Một danh thắng, ngày lễ và chúa nhựt, trai thanh gái lịch dập dìu, mấy ông Mẽo đến đây tắm ghẻ. Buổi tối, Trương tiên sinh thết tiệc, đãi bảy người, gồm chủ nhân là ông Trương Kỳ Quân, ông hiệu trưởng Hành chánh, ông Bao Tôn Bành, ông Diêu Cốc Lương, thông dịch viên Diệp Hải Minh, một người bạn riêng của Trương chủ nhân, xưa ở Hải Phòng, mẹ là người Hà Nội, thế là ông lai Tàu, và tôi Tàu lai. Tự Trương đại nhân đứng vẻ cá, gắp từ món ăn, để vào chén riêng rồi trao cho hiệu trưởng Hành chánh kiêm bí thư, trịnh trọng dâng tận tay tôi. Thật là quá ư trọng thể, làm tôi ngượng nghịu, những thẹn thuồng, nghĩ cho mình đâu có xứng đáng được một học giả kể đồng hàng với Hồ Thích, biệt đãi như vầy. Nhưng họ đã vẽ viên như vậy, mình biết làm sao? Bữa cơm không có rượu. Lạ một điều là ăn năm món mặn xong, kế dọn một món ngọt, thịt quay nấu đường, mình tưởng là chè, lúc nhỏ ở Bãi Xàu, đã từng nếm và biết đó là món "ngào bà", ăn ngà bà rồi, mình mừng tơn, cũng vừa đủ no, ngờ đâu chủ nhân sai dẹp đĩa chén cũ và bày đĩa chén mới và bày thêm năm món mặn khác nữa, trong số có một đĩa mì to tướng và một đĩa có bảy cái bánh bao đặc ruột lớn bằng trái bưởi Tân Triều (Biên Hoà), thứ trộng. Khách đứng dậy lễ phép hỏi ăn ngọt rồi sao trở lại ăn mặn, chủ nhân cả cười, trả lời rằng nửa tiệc trước là ông thay mặt Trần Tổng Thống đãi người khách Miền Nam, còn nửa tiệc sau là của ông chào người bạn mới, Trần Tổng Thống là người phương Nam nên ban nãy dọn thức ăn phương Nam, nay ông là người phương Bắc, xin khách hạ cố nếm cho biết hương vị của món ăn tệ phương. Cha mẹ ôi! Tôi đâu có được hai cái bao tử như loài nhơi là bò hay lạc đà. Nay chủ nhân đã quá yêu, dâng tận tay một cái bánh bao nguyên làm vầy, và tôi đã cúc cung nhận lãnh, tôi phải ăn dộng làm sao cho hết cái bánh thì làm, cha chết mẹ chết rồi, nay có tử mạng sa tràng thì cũng phải ráng chịu. Có người đã căn dặn trước, phong tục xưa tại xứ nầy không cho phép từ chối và không cho phép bỏ mứa, bỏ mứa và từ chối là vô lễ không vô lễ nào bằng. Hèn chi, bây giờ nhớ lại tôi mới hiểu, năm ngoái có một ông bạn thân (ông Phan Thế Hi), ông từng sang đây trước tôi, ông ăn có mấy bữa cơm Tàu như vầy, rồi chuyến về, nhớ đâu ông vô nhà thương Grall, nằm mấy tháng gì đó rồi đi nằm luôn nơi Bắc Kỳ nghĩa trang, không chờ dậy. Ông có thổ lộ với tôi, đang giữa tiệc mặn, ông cũng tưởng biết chữ Hán; ông bút đàm, lấy viết viết mấy chữ, tưởng xin một tô mì chay, nào dè đọc rồi, thấy dọn ra nguyên một cỗ tiệc khác toàn là rau nấm, xối toàn dầu phộng dầu mè. Rồi cũng vì rán thủ lễ, ông nhậm trọn bữa tiệc nầy rồi cớ sự như đã biết. Phan cố nhân đã cho tôi một bài học, gương bánh xe trước gãy, xe sau nhớ hoài. Mãn tiệc, Trương đại nhân sang thư viện lấy một cuốn của ông soạn, nói về địa dư và phong tục Việt Nam, đề tặng tôi ông hứa chừng nào bộ biển khảo về Gia Cát Vũ hầu ông viết xong, sẽ gởi qua làm kỷ niệm, độ chừng bốn chục tập, nay chỉ rồi nửa bộ. Ơn người quân tử, đến nay chờ chực nào thấy tin. Chúc ông bình an vô vạn. Tiệc mãn rồi, ông sai người nhà chụp vài bức ảnh, rồi tự đưa tôi ra cửa, mở cửa xe cho lên, thiệt là quá trân trọng. Đến nay áy náy chưa quên.
- Bữa thứ năm trên đường Đông du Đài Bắc
- Bữa nay chương trình chừa cho vài giờ thong thả, nên thừa dịp, điểm tâm xong, tôi cùng ông bạn nhỏ Diệp Hải Minh, mua sắm vài món và dặn làm cho một bộ bài mã tước để về kỷ niệm. Cám ơn tân kỹ sư Diệp, có lòng tốt, tận tình phiên dịch và giúp đỡ trên bước đường xa lạ, ông bạn thanh niên lớp mới thú thật được cùng dạo chơi mấy bữa và bước chân vào những nơi thuở nay chưa được vào mấy ngày yến tiệc linh đình đã là toại kỳ sở vọng, ơn và nghĩa sau nấy có dịp tái ngộ sẽ hay. Từ ấy bặt tăm nhang cá, cuộc phong ba sau đó có vướng bận chân em chăng? Còn qua thì như trái chính Cũng bữa nay, gặp bảy cây ngọc Như Ý, đã nói rồi.
Trưa dự tiệc tại Trung ương thư viện, mình mặc bộ nhung y duy nhất đã phai màu, nhuốm bụi phong trần từ mấy tháng Tây du, dòm lại chung quanh, mười một vị tân khách, áo rộng thùng thình là cựu học giả lớp xưa, bộ đại phục thiệt kẻng là tân nhân vật đào tạo từ Mỹ hay Đức mới về, ông cầm quại lông, kính gọng đồi mồi là chuyên gia thâu thanh được đủ giọng loại chim biết hát, thảy đều học giả thứ thiệt, chạy từ lục địa qua đất Đài Loan nối chí Trịnh Thành Công, duy mình là gì, một con gà đem ra đấu trường, không nên khoe vảy khoe lông, chờ xáp trận sẽ biết. Cũng may, cha mẹ cho một gia tài chưa sút ai về nhứt ẩm nhứt trách. Mãn tiệc về phòng chưa thấy khỏe, đúng 15 giờ có công xa rước đi Đài Trung xem cổ ngọc, nhưng xe ô tô không thể chạy suốt và phải sang một đoạn đường qua tàu hoả, vì cầu kỳ bị trận bão vừa rồi đã hư sụp nhiều nơi. Thảm nỗi chưa có xe lửa nên phải chờ, mất thì giờ đáng tiếc. Lóng nhóng ở Tân Trúc đợi xe, thả một vòng chợ, thấy có một ngôi chùa cổ y hệt kiểu chùa ở Chợ Lớn hay chùa ông nơi ngay chợ Gò Vấp, Hóc Môn, có một quán đó, là lều phải hơn, che bòng bong vải Hoa Kỳ, hai chị má trái đào bán dưa, có trái xẻ hai, ruột đỏ lòm thấy bắt thèm. Ông bạn dẫn đường, nghị sĩ Diêu Cốc Lương mời thưởng thức một tô mì Tân Trúc. Nuốt chưa qua khỏi nóc giọng đã thấy kém mì Cây Nhãn Đa Kao và mì Cầu Hang Gò Vấp. Xét ra thuở nay mình quen nếm mì của người Quảng Đông, nay gặp mì Tân Trúc là một xóm quê của cù lao Đài Loan, chịu ảnh hưởng nhiều của tỉnh Phúc Kiến, xưa tụi lính Đài Loan theo gót binh Nhựt qua bên ta là Nhựt lô canh, chính là dân ăn mì dở nầy; muốn cho lịch duyệt phải nếm đủ mùi, từ mì Quảng Đông, mì sợi (mì sụa) Phúc Kiến, và qua xứ Tiều (Triều Châu) thì phải nếm tô hủ tíu cá gà có đủ giò heo phá lầu và chả cá dai với chả tôm cắn giòn trong miệng. Người Tiều cũng chuyên môn làm cọng bún dai, ta quen gọi bún Tàu, nhưng người Bắc đã giựt nghề với tô thang có nêm cà cuống và chút mắm tôm, quốc vị. Mảng bàn tán thầm một mình mà không đủ giết thì giờ dư, mãi đến 8 giờ 30 tối, mới có tàu hoả đến rước và chạy suốt một hơi đến 1 giờ khuya mới đến ga Đài Trung. Anh em đưa về hội quán dành cho các giáo sư Đại học đến đây nghỉ hè. Tôi nhận thấy chánh phủ lưu vong Đài Loan rất sáng suốt, không phung phí tiền viện trợ Mỹ, nếu có hà lạm thì tôi chưa biết, duy đáng khen là họ không tham lam ích kỷ bỏ túi riêng, và biết cùng nhau cộng hưởng phần nước, lộc trời dành, tỷ như mời mọc nhau mỗi khi có quan khách xứ lạ đến đây, hoặc chia cắt phận sự cho các chức viên cao cấp, nghị viên đưa dắt dẫn đường quan khách xứ lạc để có dịp ngồi công xa, dự yến tiệc, cùng "nếm của chùa" và vì nước Pháp không có chùa và vì xưa có bà hoàng là ăn to xài lớn, nên Pháp có thành ngữ tương đương với phí phạm của bố thí nhà chùa là "aux frais de la princesse". Ham nói dài quá gần lạc đề, tôi muốn khen đây là chánh phủ Đài Loan biết xây cất nhà nghỉ mát cho nhân viên và cái cao lâu tôi tạm nằm trong vuông phòng khang trang mát mẻ nầy, lấy kiểu cung điện cổ nhà Minh Thanh, mái cong cội đỏ ngói xanh, rất đặc biệt Tàu, không như cái gọi là dinh Tổng thống cũ của ta, nói mà tủi, như cái bánh pa-tê bị mắc mưa, không giống Mỹ, không giống Tây, quên mất kiểu cung điện ngoài Huế, và chỉ văn minh ở nơi cầu xí tối tân, đã có người lầm rửa rau muống trong ấy, vì nó có vòi nước nóng vòi nước lạnh. Và "ối giời ơi", sao mà nước nó trong khe mát thế! Đánh một giấc tới sáng, trừ bữa cơm tối.
- Bữa thứ sáu trên đường Đông du, tại Đài Trung
- Xin cho phép nhấn mạnh hôm nay là 16-9-1963, ngày thứ sáu trên đường Đông du, nhưng đúng là ngày thứ tuổi trên đất Đài Loan, và cũng là ngày đặc biệt nhứt trong đời tôi, riêng trong việc khảo cứu cổ ngoạn, vì chính tôi được mắt thấy và tay rờ rẫm những gì ngày xưa các vua nhứt là Kiền Long, từng chạm thơ ngự chế, hoặc "ngự dụng", "ngự lãm"; viên ngọc ấn của Thanh Kiền Long, nói là năm viên quốc tỷ phải hơn, vì là một chùm năm hòn ấn ngũ sắc, cái màu ngọc bích, cái màu "dương chi", mỗi ấn khắc chữ khác nhau, và năm ấn liên lạc nhau bằng một sợi dây ngọc trong suốt như thuỷ tinh, năm ấn nầy quả là một món báu thế gian duy hữu nhứt. Ngoài ra, và tôi thích nhứt, là đồ gốm men ngọc (céladon) lưu truyền từ gốm Bắc Tống (960- 1127), trong, nặng, tiếng thanh như ngọc, gốc Nam Tống (1127 - 1279) quí báu không kém, thêm nhuộm mùi thiền, gia vị mùi chán đời (vì thua trận) của đạo Lão Trang, những báu vật nầy tôi đã nói rồi, duy cần nói thêm bữa ấy tôi được ngắm nhiều viên ngọc từ trước cho đến ngày ấy khách nước ngoài chưa được xem, và ắt ngày nay đã đem về triển lãm nơi bảo viện Tôn Dật Tiên ở Đài Bắc, thay vì cất giấu nơi Đài Trung nữa.
Vì dùng mãi dầu mỡ quá suốt mấy ngày ròng rã ngán quá, nên trưa hôm nay, tôi ngỏ ý xin cho tôi một bữa cơm đạm bạc đậu hũ dầm trong nước mắm Tàu và ớt, nếu thơm thảo thêm gà luộc cải bẹ xanh, hay vịt khía hay xông khói tuỳ ý chủ. Diêu Cốc Lương đại diện chánh phủ, gật đầu hứa chắc đàng hoàng, nhưng bữa trưa như buổi tối, vẫn y cựu lệ, gà dê heo vịt, con quay tươm mỡ, con nướng vàng lườm, tôi hỏi sao không thấy đậu hũ, Diêu tiên sinh nhe răng cưới và thối thác đậu hũ Đài loan không ngon nên không dám lấy ra đãi khách của Trần Phó tổng thống và dặn tôi ráng chờ khi nào về lục địa, sẽ mời tôi qua đền bù đậu hũ canh gà Tự Do.
12 giờ trưa, lật đật từ giã hai ông học giả giữ kho tàng giấu trong bụng núi hối hả ra chợ dùng một bữa xoàng hấp tấp, cho kịp lên xe về Đài Bắc. Rất may là chuyến về không trục trặc, cầu kỳ sửa xong, chạy một mạch 16 giờ 30 là xe tới chỗ. Bảy giờ rưỡi tối thay đồ lớn đi dự cơm khách nơi Bộ ngoại giao với mười một nhân vật danh tánh nghe như trong tiểu thuyết. Cũng y một thực đơn như mấy bữa trước, duy cách trình bày có khác. Nhưng cũng một kiểu với cao lâu sang Chợ Lớn; một bàn tròn rộng, mười hai người vây chung quanh. Bàn có hai từng, một từng sái với khách ngồi thì bày chén muỗng trên nấp trắng tinh, trung tâm có một từng cao hơn từng kia độ một tấc Tây và có trục xoay tròn như bàn thợ nắn đồ gốm Khi dọn tô canh hay đĩa cá, nếu chủ muốn mời khách hay khách muốn đáp lễ mời chủ, thì chỉ cần xây bàn giữa cho tô canh đĩa cá chực đúng ngay chỗ người được mời, khỏi cúc cung đứng thỉnh cầu theo lối xưa. Định cho cái bao tử hổm rày đã tập quen sực chứa, nên năm món mặn, cộng một chén chè ngọt xả hơi, thêm vào đó năm món mặn khác, là mười một món cả thảy mà chưa thấy ứ?
Bữa thứ bảy trên đường Đông du cũng là ngày chót trên đất Đài Loan.
Bữa nay rất rộn rịp, chạy xe từ giã các nơi. Trưa ăn cơm Tây nơi sứ quán Việt nam do ông Nguyễn Công Viên mời, và gặp lại cụ Trương Kỳ Quân.
Mãn tiệc 15 gỉờ, để luôn đại phục sang “Hội quán bác vật lịch sử quán”, ứng khẩu diễn thuyết bằng Pháp ngữ, thuật lại cái hay của đồ sứ men lam Huế (les porcelaỉnes anclennes decorées en bleu, surnomnées “bleus de Huế”). Không biết thính giả có hiểu hết chăng, và nghĩ cũng ngược đời; người Việt nói chuyện với người Trung Hoa bằng tiếng Tây? Nhưng cũng là một lần khỏi chuyển qua sự thông dịch của ông bạn nhỏ ở hết lòng Diệp Hải Minh. Tôi có đem theo và trình bày vài món sứ đặc sắc, họ chuyền tay nhìn, nhưng cũng trái cựa thay, đó là người Trung Hoa thế kỷ "Hai mươi" nhìn ngấm đồ sứ của nhà Mãn Thanh họ ghét, làm cho các hoàng đế nhà Nguyễn ở xứ Huế.
Sau buổi mạn đàm, ông Bao Tôn Bành trao tận tay bằng sắc Hán văn, tôi được mời làm cố vấn cho Bác vật quán Đài Bắc, thẹn và cười thầm thằng dốt lãnh vai quân sư! Tiếng Anh không thông, tiếng Hoa không biết, chữ nghĩa mù tịt rồi làm sao nói chuyện mí nhau? Nhưng ở đời chưa phải đó là một chuyện tréo cẳng ngỗng. Nhỏ như xứ mình mà lớn lối, xưng nào Bảo tàng viện, Tối cao pháp viện, cái nhà bé tí tẹo mà treo bảng "Nhà văn hoá”,người ngoại quốc giao trả một viện nghiên cứu về mấy con vi trùng sanh ra bịnh, từ ông bác sĩ đến cô giám đốc, bấn xúc xích, không biết dịch làm sao cho ổn, Institut National de microbiologie là "quốc gia tối trùng hay Vi trùng quốc gia?" Ôi cũng đều sâu dân mọt nước.
Trong khi ấy, xứ nầy, chỗ nào cũng xài một chữ "quán"; Bác luật quán quán trưởng, Lịch sứ quán quán trưởng, thiệt là bể đầu. Khoa bảng xuất thân làm gì, gặp việc bỏ chạy có cờ. Một ông khác nếu còn ở đây, đã rắp ranh toan xưa "Thống chế" ôm vàng cả tàu bay chở không nổi, bây giờ ông ở đâu? Bắt tay từ giã và cám ơn mọi người, rồi mượn xe Bao quán trưởng, ra phố lựa mua năm ba pho truyện Tàu vài cục ngọc cổ, ống tiêu ống sáo và không quên bộ bài con chim. Quên nói ở đâu cũng có lính mật. Tôi mua được một chiếc nhẫn ngọc bạch bích kiểu cá rá "Chiêu Quân quá quan". Tối dự tiệc ông ngoại giao đã biết vì bác tài học lại. May thời, sau khi ông nói ngọc cho phép mua mà không cho phép đem ra khỏi nước, tôi hốt hoảng ông cười xin lượn chim nhẫn đeo chơi, và sáng bữa sau ông giả đò tiễn đưa trễ chờ khi máy bay gần rút thang, ông chạy vụt qua mặt nhà đoan và leo lên thang bắt tay từ giã tôi, lòng tay ông trả lại chim cà rá ngọc.
Tối dự bữa tiệc tiễn hành, thết tại Bộ giáo dục, bữa nay hội gần đủ mặt những người từng quen buổi Đông du nầy. Vì là việc chót, nên thật là cởi mở, riêng tôi rất mừng vì ngày mai là thoát nạn, khỏi lo cho cái dạ dày làm khó dễ hay lá gan chúng chứng, nhất là nhớ mai nầy sẽ sang xứ có mấy cô gái khẩy tỳ bà tóc giắt hoa anh đào. Bởi thích chí quá nên uống không thôi và ăn không ngừng đũa, cười cười dóc dóc rất là tự do. Mỗi lần nói được một câu ý vị là có một người đứng lên mời "can pei" (tức là cạn bôi). Theo lệ bắt buộc, khách và chủ đều đứng lên, uống cho cạn chén. Tiệc gần mãn, tôi chờ các quan viên đà khá khẳm, tôi bèn ứng khẩu tạ ơn và mời ngược mỗi ông đều cùng cạn bôi; hẹn một ngày tái ngộ, hoặc ở đây, hay ở lục đỉa hoặc ở Sài Gòn. Bao quán trưởng đáp từ, trong câu tiễn biệt ông cắt nghĩa sở dĩ đãi tôi liên tiếp heo dê gà vịt, cơm bánh, mì và mì v.v... Ông tiếc tôi ở đây có năm ngày mà Trung Hoa có đến mười tám tỉnh, chớ chi tôi nán và ở đủ mười tám ngày thì hoạ may tôi có thể thưởng thức đủ mười tám cách nấu và dọn của người Trung Quốc, cháu con Phàn Khoái, Hạ Hầu Đôn. Bao quán trưởng, mặt hừng hừng, hỏi vì sao không thấy tôi say và vì sao mời bao nhiêu tôi cũng nuốt vô hoài! Tôi khiêm tốn đỡ lời, không phải tại tửu lương mà chính nhờ rượu Đài Loan rất hiền chén ngọc ở đây cũng đinh và bé, và bí quyết bí mật của tôi là "thủ lễ", khác nào đi xứ la như gái về nhà chồng, phải tấl kính tất giới. Như chư huynh đệ vẫn thấy: gấp sẵn vào chén thì tôi lua chứ tôi chẳng bao giờ dám xúc com lia, nhất là mềm đũa. Từ ngày lìa khỏi nhà luôn luôn nhớ đường về còn xa, không nên khinh thường như lúc tại gia, lại nữa , ra đi đến xứ có người cao học hơn mình, thì nghe ngóng học hỏi chớ trai gì "Ban Môn lộng phủ". Cũng là tiệc chót, tôi đánh bạo khen rằng quý quốc vì nhiều lạnh hơn ấm, nên thích chiên xào thêm mỡ thêm nóng cho máu huyết. Nước Nam ôn đới, nên người dân quen lê hoắc, thậm chí bộ lòng con lợn, con gà con vịt, đều luộc chớ ít rán mỡ. Quý quốc là nước lễ, nên đứng gấp từng món ăn và nâng chén đưa đến tay người khác, khiến nhớ tích ngang mày Mạnh thị, làm sao đáp lễ cho vừa. Xứ tôi cởi mở thật tình, và bao tử nhà ai như của nấy? Tôi lại khoe con vịt sen ở miền Nam đất Việc. Nhờ ăn lúa non và tép mòng dưới ruộng, vịt sen mập và nhiều mỡ quá, nếu chiên hay quay đều hỏng, mỡ tươm ra ăn ngán, nên phải ăn vịt sen luộc, chấm với nước mắm gừng mới là người lịch duyệt, biết thưởng thức con vịt có tiếng là thịt mềm.
Tôi bắt tay từ giã, khách và chủ dường như bận bịu, lần chót tôi nói chữ, cũng là câu sáo: "Nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền định".
(16-6-1978)
30
Đây, người Nhật ăn, hay là "Bữa tiệc chín con tép quèn bên nước Nhật". Mỗi khi thấy một người nào cũng như mình, mà tốt phước được toại nguyện sướng hơn mình, để an ủi, ta thường dỗ êm thân phận, bằng câu: "Thằng hề được làm vua!" Trước khi đạt chân lên phần thế giới ông Tưởng cai trị, lòng vẫn ái ngại nỗi ngôn ngữ bất đồng, đã vậy một phần lo khác nữa là thuở nay mình dối đặc cán mai, chữ và tiếng ăng lê không từng học may phước làm sao chánh phủ Đài Loan đã sắp đặt trước, lo giùm mọi việc; ẩm thực khỏi bận tâm, mỗi khi phát biểu ý kiến, cứ nói tiếng mẹ đẻ đã có người mẫn tiệp thông dịch lại, lột ý mình lựa lời hay đổi lại sang tiếng bản xứ, thiệt là trăm phần chu đáo, hèn chi lúc ở Sài Gòn, toà lãnh sự Trung Hoa trấn an; "Ăn mì có mì, muốn cái gì, cũng "bao" hết!".
Ở trên đất Cộng hoà Đài Loan, tuy vậy bề nào cái sợ cũng có chừng mực, vì từ nhỏ đã biết; "chìa pừng" (tiếng Tiều). "xực phàn" (tiếng Quảng Đông), có hai tiếng ấy bỏ túi, qua bên Tàu khỏi lo chết đói, vì dịch ra Hán tự, là "thực phạn": ăn cơm.
Khổ một nỗi, nay đặt chân lên đất Nhật, lúc ra đi quên hỏi thăm trước vấn đề “tứ khoái “, may thay khi qua đến sân bay Đông Kinh tay xách va ly, mắt láo liên, lòng thon thót vì lạ nước lạ non, tiền túi vẫn nhẹ, đang khi bối rối, thần hộ mạng, hai bạn Pháp hiện ra trước mặt; giáo sư thạc sĩ Pezeu, trước có dạy Đại học Sài Gòn, nay có gia đình bên nầy, vốn là bạn thân cũ, được thơ tôi nên ra đón, cùng đi với Merken, ông nầy là nhân viên hãng bay ở Paris, sang đây vài ngày viếng đất Phù tang, và cùng với P, là bạn đồng song cũ.
Nhờ vậy, từ 19-9-1963 cho đến 26-9-1963, tôi tha hồ xài tiếng Pháp, khỏi lo tiếng Tây y bị bỏ mốc meo. Và khỏi ngợ miệng "nai kà, nai tơ, dô tô nài", và mặc sức; "búa lê ba"; pourquoi pas?, "Ba xi tú"; Pas du tout!
Quả ông trời còn độ và sanh ra một tên già mũi xệp xứ Ba Thắc (Sốc Trăng) có duyên kiếp trước, nay ý hợp tám đầu với hai anh mũi nhọn mắt xanh xứ Pha lang sa; vui cùng vui, cười cùng cười, khi nằm nghỉ lưng phòng trọ, cùng tiếu lâm hài hước, tiếng cười dội vang gần bể phòng. Từ cái bồn tắm, anh Merken thân lớn như con trâu nước hippopotame, vừa đặt cái lưng vào bồn bao nhiêu nước Nhật sợ hơi Tây, lật đật từ trong bồn, tràn ra, biến làm trận lụt hồng thuỷ, chảy đầy sàn gác, chảy xuống sa lông tầng dưới, báo hại chị thơ ký khách sạn la chói lói, chúng tôi tạ lỗi nhe răng cùng cười. Đến cái áo kimono màu sặc sỡ, mỗi phòng trọ đều có treo sẵn cho khách mượn, Merken và tôi chưa quen, vừa xỏ tay vào, tấm thân bồ tượng áo che không khuất, trống trước trống sau, đứa “lù coi", đứa “lắc cọ”, áo nhột nhột, cảnh thật buồn cười. Tôi vốn có tánh kỹ lưỡng từ lúc nhỏ, và hay lo chuyện bao đồng. Nếu sáng hôm sau có việc lên đường đi xa, thì trọn đêm trằn trọc không ngủ được, sợ trễ giờ hụt chuyến tàu, hụt chuyến máy bay. Vì vậy mà với hoài, không với tới hạnh phúc; Trái lại, anh Merken vốn sanh trưởng xứ lạnh nên quen tật ngủ súp lê măng (supplément). Còn khỏi nói anh "voi cầm bầy" Pezeu, anh không khi nào biết vội vã gấp gáp là gì, tỷ dụ chuyến ba đứa đi viếng cựu kinh Kyoto, ở xa mút tí tè, cách tân kinh Tokyo cả ngàn cây số tàu hoả thì rục rịch tách bến, bánh xe đã lăn, thế mà vào phút chót, anh Pezeu, còn nhảy xuống xe chạy lại quán trong ga mua bao diêm và gói thuốc lá, con tàu thoát chạy vùn vụt, anh Merken và tôi, hai đứa ngó nhau thốn thốn trong lòng, chỉ sợ thiếu con voi cầm bầy thì cuộc phiếm du mất hứng Merken và tôi chẳng qua là đứa câm dắt thằng mù? Hai đứa tôi chưa nói lời nào, bỗng Pezeu lù lù từ sau toa xe chót huýt sáo đi tới, tôi ỷ y tuổi già được nể, tôi cằn nhằn sao anh suýt làm sút trái tim của già, nhưng Pezeu cười chua chát: "Có việc chi mà vội! Bị vậy anh mãn đời lao tâm mệt óc, lo bao đồng thì còn gì là hạnh phúc. Sao không nhớ; việc đâu còn đó, con người ta chỉ chết có một lần. Có bề gì, tôi cũng leo máy bay hay chuyển qua chuyến tàu khác, theo kịp hai anh, rồi cũng gặp nhau, chớ tôi có bỏ hai anh đâu mà hòng sợ!".
Nghĩ cho hai anh nầy tốt phúc, sinh và sống trên đất Tự Do từ nhỏ đến bạc đầu, nhờ vậy mà tánh tình cởi mở vui đời. Tủi cho mình sanh đất ba đào xoay chuyển, từ bé cha mẹ muốn đánh không nói duyên cớ, rầy oan rồi cũng bỏ chìm xuồng, lớn lên ông ở trên, lịnh ra bất nhứt, tha giết không chừng đổi, thằng đi trước lãnh được tiền, thằng đi sau bị đuổi về, vì không có Tự Do từ lâu đời, nên tánh hai sợ lảng, dái thường thót trên cổ. Ấy đó, kể về tánh tình ba đứa tôi vẫn khác nhau, Đông là Đông, Tây vẫn là Tây, thế mà khi ráp nhau làm bộ ba, lại rất Pháp Việt đề huề “, buổi phiếm du ở Nhật vắn vỏi như buổi chiêm bao toàn hường, nay nhắc lại đây tiếc tiếc sao đã chia tay nhau quá sớm.
Từ phi trường, xe taxi Nhật chạy hèn lâu mới tới Đông Kinh (Tokyo) Pezeu chọn sẵn cho tôi trú tại Hilltop Hôtel. Vừa đặt lưng nằm một chút kế Merken đến, kéo nhau xuống quán tầng dưới, ngồi uống khai vị Martel-Perrier, vừa rẻ vừa ngon, vì đã lâu ngày vắng rượu. Bữa cơm vừa rồi, Pezeu đã đến, đưa hai chúng tôi về nhà chào ra mắt Pezeu phu nhân. Lần đầu tôi gặp một hoa anh đào biết nói. Thằng Pezeu khéo lựa: Lúc ở Sài Gòn Pezeu có thương một nữ sinh Việt. Cha mẹ không khứng gả; Pezeu tuy có cảm tình nhiều với nước tôi, Pezeu đành ôm mối tương tư qua đổi lấy cô nầy. Sinh viên đại học tân tiến, nói trôi chảy tiếng Pháp, mắt thu lóng lánh, người hơi cao dong dảy, sánh với lai giống tiên rồng e vượt lướt bề lực cũng như bề cao, nhưng ráp với dòng gô-loa thì quả xứng đôi vừa lứa, Pezeu phu nhân mỏng mảnh như cành liễu đang độ hơ hớ thanh xuân, thêm hai hàm răng hàm tiếu trong trắng như ngọc giũa sấp đều đều trong đôi môi đỏ không cần son, duyên dáng. Đêm hôm nay, Pezeu mời chúng tôi chào đêm đầu trên nước Nhật, và để thêm danh dự cho bạn Việt là tôi, phu nhân vận bộ quốc phục đại lễ, trông xinh như mỹ nhân trong tranh vẽ. Khi ba đứa đàn ông chúng tôi thả bách bộ trên hè phốp vì phong tục vợ không sánh đôi cặp kè ngoài đường với chồng, vì một lẽ khác gái Nhật có chồng ngoại kiều, ra đường đi chung, traỉ Nhật thường xí xô xí xao phê bình, nên không phải cố ý phu nhân lóc cóc chạy theo vừa kịp ba thằng lực lưỡng bước những bước ông chằng ông kẹ quên phứt có người đàn bà yếu đuối theo sau gót, tội nghiệp phu nhân, tiếng guốc gỗ nện thật nhanh trên nền đá nghe cốc cốc vui vui và chiếc áo dài quốc phục bó gối, khi bê bên nầy, khi đảo bên kia, uốn nắn theo vóc mình liễu mướt thảo nào thằng giáo sư đa tình là Pezeu có địa vị cao, bô trai bô gột (beau gosse), đã quên mất các cô mắt đục bờ sông Seine, cũng quên luôn tiểu thơ xứ Huế, đã chết mê chết mệt vì tiếng sét ái tình của cô Phù Tang thơ mộng nầy, hai đứa đụng nhau nghe cái rộp, thành vợ thành chồng, và đến ngày nay nghe đâu Pezeu đã vào quốc tịch của phu nhân, vì tục người đảo Mặt Trời, có vợ người nước ngoài thì ép theo đúng như gái bản xứ, và có chồng xứ lạ, trước sau cũng phải chọn Nhựt tịch mới được trọng đãi đồng hàng.
Hôm ấy Pezeu có nhã ý mời Merken và tôi cùng đi với vợ chồng Pezeu đến thưởng thức một bữa tiệc đặc biệt “tép chiên rán trong chảo mỡ sôi", món ăn nầy do một ngự thiện của Nhật hoàng, nay xuất cung lập nhà hàng chiêu khách.
Nhà nầy nay ở vào nơi nào cũng không nhớ rõ, duy nhớ muốn đến đó phải năm ngăn bảy nấp, len lỏi quanh co rất xa trong xóm hẻo lánh, hai bên đường lót toàn đá lớn miếng và leo dốc ngoằn ngoèo, có rào trúc xinh xinh lá giao nhành đòng đưa, mỗi nhà đều có một tiểu hoa viên trước ngõ, có mạch nước chảy ro rẻ, có giếng đá róc rách cách nhau xa xa mỗi tiếng mỗi khác kiểu nhưng luôn luôn nhà nào có giếng đều kèm bên một cái gáo bằng tre đơn sơ, có tra cán rất dài, không biết đây là cảnh Thiên Thai, nếu không phải thì ắt cũng là xóm các trà sư nối dõi nghề "trà đạo” huyền bí và thanh cao có tiếng. Trước mỗi nhà có hàng rào tre xinh xắn, cột dây mây luôn luôn thay mới, không cần hàng rào sắt thô kệch, và mỗi nhà có cách riêng thắt dây rất mỹ thuật nên dùng chữ "nghệ thuật", tưởng đúng hơn. Merken và tôi, đến đây phải coi chừng, gìn giữ lời ăn tiếng nói, kẻo hơi tục làm bẩn chốn thần tiên uổng lắm. Bất chợt, nhớ lại mấy câu hát xưa;

"Giỏ lá vai mang nhe nhẹ.
Đường ba chơn bước khoan khoan, (đường hoa...)
Hơi, gió đưa người trở lại Cam đàng (Cam đường)
Mây theo gió, trông chừng Hồ động”
Hát nam;
"Hồ động phăn phăn lối cũ~
Như là: Việc nhãn tiền tán tụ chòm mây.
Bớ kỳ nhi? Ngộ làm ri tê!
La phù giấc ngủ hây hây, (La phù lanh cũ hay hay)
Gió khêu bóng nguyệt mùi gây hương sầu (Bóng tiêu thu nguyệt,
mùi gây xuân sầu)
Ủa nầy! Thuyền đâu trăng nước đâu đâu
Màu lam thoát đã vẽ sầu thần tiên (... rẽ cầu Tịch dương)
Không biết tác giả có đến chốn nầy chăng, mà tả cảnh nghe như hệt. Người hát câu nầy, nay đã là bạn trăm năm, ăn ở với nhau đã bạc hai cái đầu, học mãi hát không nên một câu khỏi gãy.
Âu là "chỉnh y quan...", mới hát nho nhỏ đến đó, cũng vừa bước đến cổng, một người thiếu phụ chực sẵn, vừa thấy chúng tôi, nàng khúm núm cúi chào, chúng tôi đáp lễ, chưa kịp chi đã thấy nàng vái móp, đầu cúi gần sát đất. Chúng tôi vừa vào tới sân bên trong, có bốn cô gái tóc còn chừa bánh bèo ra quỳ rước, tay nâng từng chiếc giày mở dây, và trao ngay chân voi chân tượng mỗi người một đôi thảo hài hoa, vừa nhẹ vừa lâng lâng, đủ làm cho tôi có cảm giác gần như thoát tục. Rượu khai vị uống từ ban nãy, bây giờ hơi rượu đã bay đâu mất, tôi hoàn hồn nhớ lại lúc nào ở nhà vẫn quen tiết kiệm đi vớ rách, đôi giày hả miệng, nếu hôm nay trên đất lạ, làm vị khách Việt viễn du mà giữ thói quen xài đôi bít tất có cửa sổ, thì còn gì thể diện mặt mày. Cũng may sao là biết thân nên đề phòng trước, chớ không thì đã lòi cái cùi cẳng (cẳng cùi) xấu hổ.
 Chân bước đến phòng tiệc thì dội lại. Duy có một cái bàn duy nhứt, mà đã có khách choán rồi. Chúng tôi được đưa sang phòng trà ngồi đợi. Chúng tôi gọi rượu, trả lời rượu không có vì đây là phòng trà. Vậy xin khách hãy tạm dùng trà để đợi đến phiên. Tôi đã chếnh choáng hơi men, nói giọng hơi cao, không ai nói gì, nhưng ngờ ngợ vì mắt chị Pezeu như tha thứ. Khổ một nỗi đôi giày đã bị lột, không quen ngồi chém bẹp "u mê trên chiếu, thêm bộ âu phục bó sát mà an toạ thế nầy, cái mông sát sàn gỗ, cái bụng tuy chưa phải trứng gà thuộc địa (oeuf colonial), nhưng cũng thấy thốn thốn đến khó thở, nó tăn tăn tức tức lấy làm khó chịu. Còn trời ơi! Cặp giò già đãy (chim marabout) kềnh càng không biết thu xếp vào đâu cho gọn, nếu nhét nó dưới chiếc bàn lùn e nó làm sập hay ngã bàn, bằng thu nó, xếp vào dưới bụng, ngồi theo kiểu tham thiền, thì khốn nạn thay, cái quần bó sát cứng đơ, vẫn đòi bung cặp giò tới trước. Đương cơn bực bội ngã lòng, cũng khiến bên kia khách vừa mãn tiệc, hiện bà chủ gia sang phòng mình, đang quỳ móp thỉnh vợ chồng Pezeu, lão M. và tôi qua bên ấy dùng món ngự thiện kẻo bỏ qua dịp tốt. Đây là món Pezeu khen lấy khen để, bào chuốt còn hơn Sơn Đông bán thuốc dán, rằng xưa đặt trên bàn Nhựt hoàng, nay bình dân hoá hiến cho khách ngoại bang như bốn đứa tôi mặc tình thưởng thức. Nó cực văn minh ngon không chỗ chê, thanh không thể tả, lạ hết cỡ, đồ Tây đầy tô còn thua nhiều nhiều. Cái phòng tiệc trông đà lạ mắt, khoảng giữa rộng mênh mông, vỏn vẹn mới vào chỉ thấy một đại lực sĩ đang quỳ dưới đất, cái bụng to bằng cái trống chầu đưa tới trước, y vận đài phục bạch y bạch mạo, xem trắng lốp như cục bột, đầu thì trọc lóc trọc lơ.
 Trước mặt y là một cái chảo mỡ đang sôi sục sục, chảo đen mun vì dùng lâu đời, khói củi khói mỡ đóng dày nhưng rất sạch, chảo lớn lạ thường to cỡ cái bồ lúa bên ta thứ nhốt tràm giạ, chung quanh chảo, chừa chỗ lão quỳ, ba bề kia có một cái bàn bằng gỗ hẹp lùn, bọc gọn tròn theo kiểu móng ngựa, vành trong cái móng ôm sát cái chảo, vành ngoài có thả chiếu hoa tròn làm chỗ khách ngồi, như những bồ đoàn của pháp sư tham thiền. Bốn đứa tôi, Pezeu, Pezeu phu nhân, Merken và tôi, ngồi xếp bằng, vây giáp vòng cái bàn lùn ấy, đâu mặt với lão đại lực sĩ đang quỳ gối trước chảo mỡ sôi hực. Mỗi đạo sĩ cưỡng bách là chúng tôi, an toạ trên bồ đoàn là manh chiếu tròn êm mịn, chỉ êm cho bàn toạ nhưng làm khổ cho cái bụng gần ngày của tôi to như cái trống, khổ nhứt là cặp giò seo, đến đất Nhựt vào chỗ nầy, trở nên kềnh càng, và lúc ngồi thưởng thức món ăn lạ nầy, không biết cất giấu vào đâu cho khỏi cản trở. Nhớ năm trước từng gặp một chiến binh Mỹ mất cặp giò, nếu anh xin về an dưỡng nước Nhựt thì hay biết mấy. An toạ vừa xong, thì có mấy cô thiếu nữ má trái đào, ra quỳ dọn đĩa chén và đũa. Nói đến đôi đũa bình dân Nhựt, của các quán cơm công cộng, phải chấm một dấu son phục cái tài chế biến của người tự xưng là tân tiến nhứt trong giống da vàng. Đũa tre, đũa mun, đũa quán phở, nhứt là đũa ngà không dám cho gặp nước, đều thua xa hai chiếc đũa gỗ thông thô sơ của Nhựt, rẻ tiền là gọn vô cùng. Đũa do cái máy cưa nào đó cắt ra nguyên lố, muôn thiên vạn ức, không cần bào chuốt chi cho tốn kém, cứ đế máy cưa cưa đồng một cỡ, duy giữ kỹ lằn cưa không cho đứt rời, làm sao cũng giữ đầu trên hai chiếc đũa còn một thẻo gỗ dính lại, phòng khi quan khách cần dùng thì chỉ tách rời ra làm đôi là gắp món ăn được ngay, và khi nào dùng bữa cơm xong, cứ quăng đũa đi là hết chuyện, khỏi rửa khỏi phơi khỏi cất, sau nầy có khách mới dọn tiệc mới thì lấy đũa cũng mới, chiếu lệ đũa còn dính cặp là đũa chưa dùng, đũa nào tách rời là đũa xài rồi, đã hạp vệ sinh thêm giản tiện, khen ai sáng chế loại đũa rẻ tiền tránh được lây bịnh và gớm chờm. Duy cái bàn lùn kiểu móng ngựa của nhà nầy, người nào nghĩ ra nó, không biết có kỳ thị dân bụng phệ và dân nước ngoài không quen ngồi xếp bằng hay chăng, hay đây chỉ là óc giàu tưởng tượng của một tên già ưa suy nghĩ lếu. Một điều nên công nhận, là với cái bàn móng ngựa nầy, khách tối đa là tám người, kiểu bát tiên là cùng, chớ không lẽ ngồi giáp vòng và ngồi sau lưng lão chiên tép thì sao ra lễ?
 Cũng may hôm ấy chúng tôi chỉ có bốn người, nên khỏi lo ngôi thứ. Tuy vậy vẫn theo lễ, tôi được ngồi bên hữu của phu nhân, chỗ danh dự nhờ cao niên, còn Merken thì ngồi bên hữu của Pezeu là đúng phép lịch sự. Đã không trái phong tục Đông Tây, vừa gọn thêm vừa khéo. Chủ và khách bái chào vừa xong, thì lão lực sĩ đầu bếp bắt đầu thi tài khéo léo. Lão sử dụng hai chiếc đũa tre thật dài, mới tinh và trắng toát, tưởng chừng lão sẽ gắp đầu bốn người ngồi trước mặt cho vào chảo, nhưng không, lão ngó chúng tôi gật đầu cười, rồi nhón kẹp bốn con tép bạc, mỏng như lá lúa nhỏ bằng ngón tay út, lão thả bốn con tép bé tí teo ấy vào chảo mỡ khổng lồ, lão lật qua lập lại vài lần là bốn con tép vàng lườm đến đỏ tươi. Thế rồi lão dùng đũa dài gắp từ con ra, con thứ nhứt lão đặt vào đĩa ngay mặt tôi vì ngồi chỗ danh dự, con thứ nhì lão dâng cho phu nhân, con thứ ba dâng cho Merken, con thứ tư cho Pezeu là chủ bữa tiệc được dâng sau rốt, rồi lão bắt qua chiên lớp tép khác. Con tép bé tý teo ấy, vừa đặt xong vào lòng đĩa trắng, thì lẹ như chớp tôi đã thủ tiêu mất xác, mặc dầu tép đang nóng hổi vì vừa gấp từ trong chảo mỡ sôi lấy ra. Trời thì lạnh buốt, con tép lại quá nhỏ, nên sức nóng không đủ làm phỏng môi lưỡi, vị chi tép vào miệng lỏng lẻo, như cọp ăn bù mắt, làm sao phỉ sức những bợm láu ăn như thằng hạm nầy. Giá thử “thực tại gia” thì ít nữa mỗi lần tôi lùm ba bốn con một lượt mới là phỉ tình.
Thế mà nay phải ăn cầm thực, mỗi lần một con tép bạc làm vầy, trời đất ôi, chịu sao thấu? Để an ủi, tôi đánh trốc một hớp rượu sa kê "nhấp tận bôi" (campei) và gắp kèm một miếng gừng chua cho vào mồm, vừa đưa cay chén rượu, vừa đỡ cơn đói, vừa chờ lão lực sĩ ngự thiện bố thí cho mình con tép khác. Bạn chúng tôi với tư cách là chủ tiệc, hỏi Merken và tôi: "Chỗ tép chiên điệu hoàng gia Nhựt, món ngự thiện nầy, có vừa miệng chăng?”. Tôi không trả lời, vì Merken đã văng ra một tiếng thề, muốn hiểu sao cũng được Merken!

 Rượu sa kê không nồng nhưng rất dễ say. Tôi gật gù, bắt chuyện vần quay xay lúa, rằng bên nước Việt: "nam thực như hổ, nữ thực như miêu". Nhưng đến đây xứ của samourai (hiệp sĩ, võ sĩ) và anh hùng kami-kaze (cảm tử quân), đành nhập gia tuỳ tục, và đỡ dạ bằng con tép bạc chiên trong chảo lớn. Tôi không nói dối, tôi nói tiếp, thú lắm và ngon lắm. Không thú không ngon sao được, vì như tôi đây, sau một ngày hành trình vất vả đổ đường ngàn dặm, hay từ Đài Bắc sang đây, đường xa thiên lý, trong dạ dày từ sáng sớm chưa có một hột cơm lót bụng, (bữa trưa ăn bánh mì), nay trọn bữa tiệc, tưởng được dằn đầy bao tử mau lấy sức, nhưng không, đất nầy là đất triết lý, đất nầy là đất “cần kiệm lề gia chi bản”, chín con tép cũng đã là nhiều?. Để đánh lừa cơn đói, tôi phải "thồn" bất cứ bao nhiêu đồ bổi bày trước mặt; gừng non xắt mỏng ngâm trong giấm chua, dưa leo cũng ngâm giấm, dưa chuột cũng ngâm giấm, rồi nào củ hành Tây, nào cọng hành Tàu, nào ớt đỏ lớn trái nhưng lấy hột ra sạch, thảy đều ngâm giấm, giấm son giấm thanh giấm chua, thảy đều là giấm. Tôi trở lại gắp gừng chua, dưa chua, hành chua, ớt chua, tuần tự thồn đồ chua, để chờ con tép mằn mặn chén rượu sa kê lạt lạt rượu gì còn thua nước cơm rượu xứ mình!
Thế mà tôi đã say và no tự hồi nào, tôi không hay?
Tôi để ý trọn bữa tiệc, Pezeu phu nhân không ngớt rót rượu đãi khách thay cho chồng không quên trâm tiếng Nhựt hối lấy thêm đồ gia vị, nào lấy thêm rượu, nào thêm gừng chua, vừa phục vụ đức lang quân một cách chu đáo, vừa lo lắng cho khách không để thiết sót vật gì, thật là cung cung kính kính, gái tân thời mà được vậy không hổ chút nào với câu xưa: "ngang mày Mạnh thị khôn nâng chén".
Tôi lại để ý phu nhân có nhiều cử chỉ rất đẹp, con tép đặt vào đĩa, phu nhân gắp rất khéo, có nhai nó không và nhai nó tự hồi nào, duy thấy tép mất tức đã bị ăn, một điều khác nữa là người phụ nữ Nhựt không bao giờ tự rót rượu vào chén mình, và rượu của đàn bà uống phải do đức ông chồng ban cấp.
Mãn tiệc, trời đã khuya. Vả lại tiền nong đã trả xong và có lẽ trả hậu lắm nên lão lực sĩ đứng dậy, nơ cái bụng trống chầu ra tiễn khách. Tại sân và trước cổng, đủ vợ đủ chồng luôn cả gia nô binh tướng đều quỳ gối cúi đầu tống tiễn. Tuy bụng còn đói, nhưng tôi rất vừa lòng, nội cái cử chỉ dân Phù tang cúc cung khấu đầu lễ bái, nổi cái cách thấy họ khép nép lúm khúm trước mặt mình, cũng đủ hả hê khoái sảng. Ai dám nói "lạy là nhục", và giữa Việt và Nhựt, người xứ Mặt Trời đâu phải là dân hèn?
Về đến khách sạn, nằm trên nệm ấm, đồng hồ đã gõ mười hai tiếng, mới nhớ hôm nay trọn ngày vất vả, chỉ nuốt có chín con tép long bong, thế mà thấy khỏe nhiều, phải chăng chẳng cần ăn thật no, miễn dùng thức ăn thật giàu sinh tố, gừng chua bên mình xem rẻ, qua xứ người mới biết.
Gẫm lại nước Nhựt, nằm trên vô số cù lao giữa biển, quả là một nước ăn cần ở kiệm, lấy con tép con cá làm gốc, làm món ăn căn bản. Nước, đất không rộng, mấy ngàn hải đảo không đủ cỏ mọc cho thú nhà ăn, bốn bề sóng bủa giăng, chỉ có cá là dễ kiếm và dư dả tha hồ, cho nên từ vua đến quan từ tướng tá đến dân đen lam lũ, đều dùng cá rau làm thức ăn để sống. Tiết kiệm vi tiên. Trọn bảy ngày trên đất hoa anh đào, tôi ăn cơm bữa nào cũng thấy cá và đậu hủ kho chung với cá, cá chiên, cá nướng, cá gỏi, cá sống, vân vân...
Nghĩ cho mình, từng nếm trên đất Nhựt, miếng thịt bò nướng rượu cồn, thì đây cũng là một cách bít tết Châteaubriand chế cho khỏi nói ăn cắp kiểu. Miếng thịt mềm lắm, nhưng quả là món ăn của người phương Bắc có đồng cỏ rộng lớn nuôi được bò nhiều, qua đất Nhựt đây là món xa xỉ phẩm dành cho người tư bản. Tôi cũng từng ăn cá sống cặp với rau thơm, nhưng thú thật, tôi chưa biết ăn và cũng chưa dám ăn như người Nhựt là món cá biển để sống, thái nguyên thẻo dài dài như thịt xá xíu, sau khi thái xong, họ lấy vải sạch vuốt cho khô máu, rồi họ cầm thẻo cá sống họ cắn ăn ngon lành, xem còn ngon hơn trẻ nút cà rèm cây, hoặc như mấy chị thèm chua nhai xoài sống.
Buổi chợ đông, con cá hồng, anh chê lạt.
Tan chợ rồi, con tép bạc, anh khen ngon.
 Câu hát nguyên là câu hát cũ của dân Việt, khen ai khéo đặt, giá thử đem qua hát cho dân Nhựt nghe, thì là ăn khớp nhứt! Ăn cá rất bổ, mau tiêu hoá, ít ốm đau và đỡ tốn tiền. Hèn chi người nước họ, bắp thịt cứng, gân guốc. Trước kia họ lùn, nhưng nay người họ cao lớn cân xứng. Nghe như họ không bao giờ xa xỉ. Tỷ như anh lính tay trơn, tỷ lệ mỗi bữa ăn là một con cá mèn. Lên chức cai chức đội, thì có quyền ăn hai con cá, nhưng đến một con số nào đó thì dừng lại, chớ không lý cứ cái đà nhứt biến tam, nhì biến tứ, rồi lên đến tướng, ăn nguyên một biển cá lận sao?
Trông người rồi gẫm đến ta, nước mình tại sao huỷ hoại và xa xỉ quá?
 Vô cớ phá diệt, không tiếc của chung. Cứ xem nội cái mẻ cá kho của người nghèo. Cá trứng đầy bụng, cá chưa kịp đẻ, xúc về kho đầy một đĩa cá rồng rồng. Ngon thật, nhưng nếu đếm thử, mỗi nhà nghèo đều làm như vậy, vô tình đã sát sanh bao nhiêu cá. Kẻ đến sau còn có gì ăn? Trên mâm nhà giàu, muốn được khoái khẩu, ăn cá cháy trứng, ăn mắm trứng cá, ăn cá mùa đẻ mập béo, v.v.., huỷ hoại biết bao nhiêu thực phẩm đủ nuôi cả làng cả nước. Nhưng tội chưa nặng bằng dùng lựu đạn quăng xuống nước, ăn một con mà giết từ trứng mèn, tiệt cá trọn một khúc sông hồ.
- Thứ năm 19-9-1963 (ngày thứ 9 trên đường Đông du, thứ nhứt ở Tokyo)
- Hôm qua 18 Tây, buổi sáng còn ở Đài Bắc, buổi cơm tôi ăn chín con tép ở Đông Kinh, xưa kia Tiên Phật muốn được như mình, phải trai giới kinh kệ cực khổ lắm, còn nay có ba đồng tiền mua tiên cũng được, nói chi việc ngồi máy bay dễ ợt. Nhưng được đàng nầy, thua đàng kia, hồi đời Tiên Phật hoá phép thần thông, nghe nói khi lầm lỗi bị đoạ thì Tiên Phật xuống trần lại có dịp ngã mặn và biết đàn bà, sướng quá. Thuở trước chưa có dấu vết văn minh thế kỷ hai mươi; nhẹ thì học tập, nặng thì cải tạo. Sau bữa cơm chín con tép, bắt tay giã bạn, về tới phòng trọ là 12 giờ khuya, rượu sa kê uống ít say nhiều, nằm trằn trọc, bắt suy nghĩ viển vông, trót hẹn với Pezeu, dặn 10 giờ sáng hãy đến, nên sáng nầy tôi ngủ nướng! Cái số cực, mãn đời vẫn cực. Ai kia quen ngủ nán ngủ thêm, tôi thì có tật tối trốn khách vô chuồng còn sớm hơn gà, để năm giờ sáng thức dậy lau chùi đồ cổ, không biết còn mấy năm nữa và làm mọi cho ai; tại số cực. Nhớ bạn cũ là bác sĩ Trần Vạn Kim, lúc hai đứa tôi hàn vi, tá túc ăn cơm tháng nhà anh hai Bùi Văn Khá đường Hàng Dừa (Lacote cũ), bảy giờ sáng đã gõ, anh Kim còn dật dựa trên ghế bố, chờ cho chủ nhà nhảy xuống giường thì bác sĩ ta nhảy lên thế, hưởng thêm ít phút trên nệm ấm. Nhưng sau đó chủ nhà mua một con chó lai cho Nhựt đem về tập, hễ chủ bỏ giường trống thì nó choán, để tránh gồi dính nước miếng ke. Hai anh đều bỏ đi chầu trời, tôi ở lại, từ ấy bỏ biệt thú ấp chăn ấp nệm ngủ nướng. Faire la grasse matinee, phải dịch làm sáo cho ổn và bắt suy nghĩ phải chăng ngủ thêm vào giấc sáng, mỡ trong châu thân tụ tập lại làm cho con người mập thêm, nên mới có câu thành ngữ oái ăm như vậy. À, ở đất Nhựt, tiếng là nằm giường, nhưng giường đâu chẳng thấy. Nệm trắng tinh, giải ngay trên sàn gỗ, sao gọi rằng giường? Mình có tánh sợ nhứt khi ngủ chỗ lạ, là ngủ trong mùng có mùi dầu dừa xức tóc cả tháng không tắm. Ngủ đất Nhựt không có nạn ấy, vì ngủ trần, màn cũng không mà mùng cũng "nơ ba ". Ở Pháp, ở Đài Loan, cũng không dùng màn. Cũng như tôi khen xứ Pháp không có muỗi và không có trộm. Thầy cũ, ông Bourotte cãi; tại mấy chưa vô xa, nên chưa thấy, và tại cái máy nhiếp ảnh của mầy, chúng chê bán không có giá nên chừa.
Kìa Pezeu đã đến.
Mét với Pezeu rằng lúc nãy, gọi cà phê đen, bơ và bánh mì; Khi dọn, bánh thêm có nhân mứt. Pezeu cười mà rằng; nên tha thứ! ở Sài Gòn thợ sắp chữ không làm theo lời dặn. Qua bên nầy, nói ngọt nó không làm, nói nặng nó càng bỏ bê hư việc. Bây giờ tiếc thợ Việt thì đã muộn màng. Không nên trách vì ngôn ngữ bất đồng, chẳng qua vì đời tiến bộ và mình theo không kịp.
Mảng lo nói chuyện, xe taxi tới viện bảo tàng, cũng vừa mở cửa. Viện ở đây, cách trình bày khéo lắm. Tỷ dụ một gian phòng rộng thinh thang tròm trèm phòng Khơ me ở bên ta, viện ta bày trên trăm món, ở đây tôi đếm tám ngự bào Thanh đế (Trung Hoa), tám bức đại tự bút tích các vua Mãn trị vì đất Hoa (Khang Hy, Kiền Long), và tám món sứ cổ thật quý, đúng là quý tại tinh bất quý tại đa. Nhưng đặc biệt là tủ kính bên nầy rộng như căn phòng, vì gác dan di lòn trong ấy được để lấy tranh ra khi xảy ra hoả hoạn. Nhưng khen nữa là khen phò mã tốt áo, cũng bằng thừa.
Khi 12 giờ gõ, Pezeu từ giã về nhà vì một chút việc cần.. Tôi leo lên taxi, đưa cho bác tài xem một cái hộp quẹt diêm có đề địa chỉ khách lầu Hilltop - Hôtel, tôi không cần biết tiếng Nhựt mà khỏi lộn nhà, đây là một sáng kiến tốt bên ta nên bắt chước, giúp khách ngoại bang dễ tìm đường, và hộp quẹt quảng cáo cũng không tốn mấy.
Về đến phòng thì Merken đợi tôi sẵn, hai đứa kéo xuống tầng dưới dùng bữa trưa qua loa rồi gọi taxi đưa ra ga, lên tàu hoả đi Kamakura. Ông Phật ở đây bằng đồng, cao mười ba thước, ngồi tham thiền giữa trời, theo sách chỉ nam, đã trên bảy trăm năm. Nhìn nét mặt thấy Phật tha thứ, không như lúc nãy đi ngang một chùa xưa thờ thần hổ, xứ lạnh không nhang, dân Nhựt đã mất tự tin, hổ lấy gì no? Xem thêm một viện bảo tàng lập trong một điện cũ của một vị tướng quân thời phong kiến (shogun). Xem xong ra đón xe buýt đưa tới ga mua vé về Đông Kinh, tính tiền xài chung là 1.500 yên, phần tôi là 750 yên, trao lại Merken, thế là sòng phẳng. Tối nay, 8 giờ rưỡi, đi dùng cơm. Bữa nay ăn cá thu sống, thịt đỏ lòm, nhưng cũng lạ miệng và cá không tanh. Đĩa thứ nhì, và chót, là cơm trạng ăn với lươn nướng rút xương. Tôi uống sa kê, hai anh kia uống bia, cơm rồi kéo nhau về Hilltop uống trà tán dóc đến 11 giờ 30, Pezeu và Merken mới chịu ra về.
Vendredi 20-9-1963
(ngày thứ 10 trên đường Đông du, thứ hai tại Đông Kinh).
Sáng thức sớm dọn dẹp cho sẵn để mai lên đường đi viếng cựu đô Kyoto. Điểm tâm xong, ra phòng khách chờ 9 giờ rưỡi, Pezeu đến, cùng nhau lên taxi đi đến phòng của Merken, rồi bộ ba đi viếng khắp các nơi có bán cổ ngoạn do thổ công ở đây là Pezeu dắt đường. Đến hơn 12 giờ, lựa mua được một tranh người mặt đỏ thủ siêu đao, định chắc đó là đức Quan đế do thợ Nhựt hoạ; giá 4.500 yên, có trao thêm hai cục sành đỏ và nặng, mới biết vật ấy dùng treo dưới tranh cho gió đừng bay. Thấy bốn viên ngọc rất vừa ý, hỏi giá 25.000 yên, trả lại, vì không đủ tiền.
Đến 15 giờ (ba giờ chiều) mới ăn cơm. Phòng là một nơi hẹp té, có nước chảy róc rách dưới chưn, đây là mạch suối có từ khi có động đất ở vùng nầy. Người Nhựt là dân hiếu kỳ, cảnh thiên tạo họ không tu bổ, để y vậy, chỉ bắc một cây cầu con con qua rãnh nứt, rải thêm một lớp đá cuội thay vì gạch hoa, là đủ hốt tiền. Ghế bàn thô sơ cho đúng với cảnh thạch thất bị động đất, nói thô sơ chớ kỳ thật là nghiên cứu chu đáo; gỗ để nguyên không sơn không thoa vẹc ni nhưng bóng sẵn và có vân rất đẹp. Kiểu thức thì ở xa ba cây số cũng nhìn biệt là made in Japan. Buổi tối đi ăn cơm xoàng, uống khai vị ngon, rồi kéo lại nhà ông De Berval trước ở Sài Gòn làm chủ bút tờ tạp san chữ Tây "Pháp - Á-tế-á" (France - Asie) mình từng cộng tác. Đến đây ông li dị được với chị phù dung nhưng tóc pha sương thêm nhiều. 12 giờ khuya bắt tay từ giã, để mai thức sớm đi Kyoto.
- Thứ Bảy 21-9-1963 (ngày thứ 11 trên đường Đông du, thứ ba tại Nhựt).
Tôi đã nói số tôi cực vì tật lo việc không đáng lo, hạnh phúc kề bên mà không chịu ôm, để nay đã già thì đã muộn. Đêm nay ngủ không thẳng giấc, vì mệt mỏi cũng có, vì lo sáng phải thức cho kịp trước 6 giờ rưỡi để kịp đi Kyoto cũng có, lúc ở nhà de Berval ra về, ngồi viết ký ức kẻo quên, hai ba thứ rượu uống trong ngày bây giờ hành, muốn những việc cấm, mơ màng nhớ hoa anh đào thứ bằng xương bằng thịt, vừa ba giờ đã thức, sợ cái đồng hồ quả quít quên vặn lò so, bốn giờ thức nữa, và 5 giờ rưỡi là ngồi dậy, đi toa-lết, thay đồ, dọn hành lý một lần chót, lựa cái gì cần dùng cho vào tay xách đem theo, gởi lại Hilltop một va ly xộn xên, một mớ sách, y phục giày guốc. Trời còn sớm quá, chưa sáu giờ sáng. 6 giờ 15 phút có Merken đến, và đúng 6 giờ rưỡi thì "thản nhiên vô sự tiên sinh" là Pezeu đến. Tưởng nên gọi va là ông thần "Hạnh Phúc" mới phải. Đồng hồ ra ga, lên xe... 7 giờ xe chạy, 7 giờ 30 điểm tâm trên xe, 11 giờ 40 ăn cơm trên tàu. 14 giờ đúng, xe tới Kyoto. Liền khi ấy, mướn được phòng và chia nhau ra ở; Pezeu và Merken là hai thanh niên sồn sồn, nên chia nhau ở chung một phòng lớn; còn lại tôi, tụi nó ngáng phải ở riêng một phòng nhỏ, được tự do hơn, nhưng phòng không chỗ rửa tay, không chỗ tiểu tiện, nhưng tôi không than phiền, vì có điện thoại đủ gọi cô phụ nữ Nhật tẩm quách, và suốt mấy ngày ở đây, cứ về giờ ngơi, tôi “khai trương” bộ y phục vải trắng má bù trẻ may tặng trước khi Đông du, và mỗi đêm Pezeu mỗi cười trên đất Nhựt thấy ông già Việt. Ba đứa tôi hối hả bỏ hành lý lại phòng để đi xem bốn chỗ; hoa viên cổ tự Ryoanji (le Jardin du Temple Ryoanji), chỉ trơ trọi có năm hòn đá dị hình ở giữa một biển đá cuội tượng trưng cho trầm luân khổ ải, biển đá nầy mỗi ngày mỗi cào đá cho luôn luôn thấy sóng dợn, và nhờ chúng tôi ở nán xem đạo sĩ cào đá, mới rõ đá không dấu cllơn người, vì đạo sĩ sắp hàng ngang dùng bồ cào cào đá và vì họ đi ngược, bồ cào theo sau nên không có dấu chân. Nước Nhựt là nước tôn trọng đạo Thiền (Zen), người Nhựt rất giàu tưởng tượng, năm cục đá nầy họ xem trọng không thua bức tranh la Joconde hay một danh lam cổ tích Tây phương nào khác. Đây là họ nhiễm thú chơi cổ thạch kỳ bi của Trung Hoa mà danh sĩ Tô Đông Pha là người dẫn đầu. Không kể tích “Mễ Phí bái thạch”.
Cựu đô Kyoto, sùng thịnh từ năm 794 đến năm 1868. Chùa Phật, am thiền, điện xưa của các lãnh chúa, ngự hoa viên, trong một ngày vội vã, chúng tôi đều có bước chân đến viếng, duy tiếc nhứt là chúng tôi không được cung chiêm cựu hoàng cung, vì muốn viếng chốn thiêng liêng nầy phải xin phép trước và có giấy phép mới vào cửa được, thiệt là một điều đại ân hận nhứt là cho tôi, đến chết không có dịp trở lại đây nữa. Các nơi danh thắng khác chúng tôi đã viếng là:
b) Le sanctuaire de Heian, tôi dịch là Bình an giáo đường. Xây cất năm 1895, như vậy thì chưa cổ lắm, nhưng đặc biệt là trong vườn trồng toàn một giống anh đào, lúc chúng tôi đến là lúc hoa đang trỗ rực. Các toà nhà và lầu các nơi đây đều toàn bằng gỗ sơn một màu son đỏ và đã lạc tinh, tôi chỉ cho Pezeu và Merken lớp laque rạn đủ kiểu chân muỗi, vảy cá, da cá nhám, v.v.., và lấy làm lạ vì sao trẻ nít Nhựt đến đây không làm trầy một chút xíu những lớp sơn nầy, không phải như ở Huế, đá Thanh Hoá ở Ngọ Môn mang đầy vết đạn bắn, vết khắc tên đôi tình nhân hoặc khắc những câu tục tĩu của mấy anh lính Sài Gòn ra thú ở đó mấy năm tao loạn, thậm chí con rùa đội bia chùa Thiên Mụ cũng bị đục nơi đầu, một câu chữ quốc ngữ ghi ngày tháng và tên họ của một thằng và một con Thị Mẹt vô giáo dục đã đến đây làm chuyện không tốt khiến cho đá mang tủi nhục đời đời như vậy.
c) Les Temples de Higashi ét Nishì Honganji, (Đông Tây Bổn an tự) là hai toà kiến trúc thuần Nhựt Bản, thờ Thần đạo;
d) Le Pavillon d argent, ngân điện tên gọi Ginkakuji (Ngân các tự) trước cửa một đốc quân lãnh chúa. Nơi đây thấy đủ bao trùm cảnh Kyoto cổ kính; khiến nhớ câu: "lâng lâng chẳng bợn chút trần ai", và bất giác buồn buồn vì không mấy ngày nữa phải trở về cõi tục.
e) Le Pavillon d or, xin cho tôi dịch "Kim phụng điện” vì rõ ràng có hình dáng chim phụng thếp vàng trên chót vót vách cao. Theo sách chỉ nam, điện nầy bị cháy và tu bổ lại từ năm 1955 gần đây và trước kia cũng của một tướng quân shogun, thống lãnh một vùng.
f) Sanjusangendo, chùa thờ Phật của thế kỷ 18 còn lại, làu làu nguyên vẹn, nhờ người Nhựt biết sùng bái báo tàng và giàu tánh hiếu cổ.
g) Le château de Nijo, là một lầu các kiên cố như một thành trì, tên gọi lấy theo tên ông chúa cũ Nijo. Cũng vậy, nơi đây có một sân gác cao, đứng đó nhìn được cảnh thần tiên Kyoto (Kinh đô) dưới mắt.
h) Chùa Dai sen (Đại Thiền) tôi muốn dịch Đại Tiên quá. Nơi đây tôi mua được một chén trà bằng đất nung, giá 150 yên, và một tập giấy bản Nhựt, có đóng dấu đỏ kỷ niệm ngày để dấu chân chốn nầy.
i) Chùa Daitokeyi, tôi dịch chùa Đại tổ? Cũng đá cũng hình sư tổ nhốt trong động nhỏ, và chỗ nào như chỗ nấy, huyền bí và khó hiểu, đi xem hối hả như chúng tôi, nhờ đều là tay si mê cổ tích và có chút vốn bảo tồn mới tạm tạm nhớ và biết được, thưởng thức được đôi chút.
Hai thằng trai Pháp chúng nó phá tôi hôm ấy, báo hại chạy theo chúng muốn rã cặp giò. Thi đua như vậy còn chưa phỉ sức, đến chiều chúng tôi bỏ bữa cơm, mua gấp rút mỗi đứa hai cái bánh dồn thịt kiểu bánh sanwich, thi đua mua vé chun vô kịp rạp hát Musi hall, ngồi nhai bánh xem không nháy mắt, cảnh gái Nhựt thoát y vũ. Rạp nầy rộng khá, nhưng chật nứt khách ham chuyện xác thịt, và dòm đi dòm lại trong rạp còn nhiều lão già trời đánh chớ không phải duy có riêng một lão Nguỵ Vương già nầy! Sân khấu là một cái móng ngựa bằng gỗ thật dài, từ trong buồng lú ra chạy vòng đến nửa phần rạp và mọc sát mặt khán giả. Hát ở đây là hát bẹt-ma-năng, ai giỏi kiếm chỗ, chờ người nào xem mỏi ra về thì xê xít lần lần, xít thét bộ ba chúng tôi đều lên được khít sân khấu, các cô vũ nữ, lột lần áo.., sú-cheng.., quăng tưới xuống đầu cổ khán giả, một cô dạn hơn hết trong đám khi đi ngang Merken, ngồi khòm xuống sân khấu, lấy chân ếch khều má Pezeu và vừa cười mím chi vừa rót một chén sa kề đưa tận môi Nguỵ Vương, tôi nuốt cạn bôi và muốn cắn luôn ngón tay út của cô, nữ độc giả nào đọc đến đây xin tha thứ vì tôi đâu phải là thánh! 11 giờ khuya mới ra về, Pezeu dắt đi ăn cơm, tôi nuốt không vô, vì đã ngán món cá kho tào hủ Nhựt. 12 giờ khuya mới về tới phòng.
- Chủ Nhựt, 22-9-1963 (ngày thứ 12 trên đường Đông du, bữa thứ 4 tại Nhựt).
Sáng uể oải đến 7 giờ mới thức, vì thi đua hôm qua nay thấm mệt. 8 giờ rưởi thay y phục qua phòng Pezeu và Merken đưa nhau đi dùng điểm tâm, rồi đến ga mua vé xe lửa đi Nara, độ một giờ sau là xe tới chỗ.
Nara là cựu kinh đô nước Nhựt trong thế kỷ thứ VIII. Buổi cực thịnh, nơi đây là thành Trường An của mỹ thuật và văn chương. Dấu vết xưa còn lại tuy dấu xưa xe ngựa đã biến theo hồn thu thảo, nhưng ngõ cũ lâu dài, đi đến đâu thấy ràng ràng. Chúng tôi có dự kiến một cảnh moi đấl tìm ra chưn cột nền đá và dấu tích đô thành xưa Nara, nhưng chúng tôi đành rời ra đi, vì chúng tôi không có thì giờ khảo cổ. Chúng tôi đến:
1) Le parc de Nara (Nại lương) công viên. Nơi đây, có mấy chục con “mai hoa lộc” rất dạn, lại cọ sát tay du khách để xin, khi hột đậu phộng khi miếng kẹo gói trong giấy, khi một miếng đường cục. Giống nai nầy nhỏ con quá, và tiên đời xưa ắt cũng nhỏ con thôi, nên mới ngồi trên lưng mai hoa lộc được. Hoặc vì nhậm toàn hoa quả cho nên thân mình nhẹ?
2) Le Sanctuaire de Kasuga, lâu các toàn sơn màu đỏ, trên nóc có treo nhiều lục lạc đồng, gió thổi khua vui tai, và nhiều đèn cũng bằng đồng và rất xưa.
3) Le Temple de Horyuji, là một "đại ẩn am" xưa và theo sách chỉ nam, cổ nhứt trên thế giới, kể về kiến trúc bằng gỗ. Đây là một kho tàng vô giá về đồ cổ đồ xưa của nước Nhựt. Tôi đứng ngắm mà bùi ngùi nhớ cung điện Huế của đất nước ông bà chúng.
4) Sau rốt, chúng tôi dừng chân lại nơi "le Temple de Todaiji (Đông đại tự) là một kiểng chùa Phật nhưng sao trong chỉ nam lại viết "temple"? Phật bà nơi đây là hình Phật đứng, thân bằng đồng, ngón tay của bà bề ngang bằng bề ngang vóc hình tôi, tuy tôi không phải là oải tử. Phật bà đo mười sáu thước Tây bề cao, đầu gần đụng nóc chùa, đúc từ đời Đường (618-907). Nghệ thuật đúc tượng đồng thời đó đã điêu luyện tới bực nầy, nhưng sách không nói do thợ Nhựt hay thầy Tàu chế tạo. Tượng ông Thánh đồng đen của Hà Nội không đem so sánh được. Sự tín ngưỡng đời trước đã giúp cho nghệ thuật thành công một cách thiêng liêng, quá sức tưởng tượng.
Những cột gỗ chùa nầy đều lựa toàn bằng cây thông già, mỗi cây cột ba người choàng tay ôm không giáp, cao nghều nghêu, cao lối hai chục thước, như vậy Phật bà mới khỏi đụng đầu. Có ruột gốc cột trước bàn Phật, nơi sát nền, có một lỗ trống, bên nầy thấu qua bên kia cột. Mấy ông sãi chun lòn vào cột thì bớt được nợ trần. Bộ ba chúng tôi đứng xem phụ nữ Nhựt chun, khi ấy tôi khám phá ra mấy thằng sãi chùa là đồ mắc dịch, vì khi chun như vậy cái đầu chưa ra được bên kia còn bên nầy, cái gì cũng đòi "lù coi" là hẳn. Đi tu mà không trót, bày cảnh tục tĩu. Vì sao đã mấy thế kỷ rồi mà không dẹp bỏ cảnh xấu xa nhơ mắt nầy? Pezeu và Merken nghe tôi càu nhàu, kéo tôi ra khỏi chùa, tôi tiếp xem lần chót, mấy cây cột gỗ thông, vì già đời quá, nên mòn lớp thịt mềm và lòi ra mớ sớ gân đỏ lòm, thịt thông trắng sậm, lòng thục đức tin đến đây cũng muốn tu.
Tối nay được ăn cơm đãi, Pezeu thết một tình nhân cũ, chúng tôi khỏi trả tiền. Đã thấy mê tín trong chùa, thêm thấy vắng vợ, đàn ông ở đâu cũng hư như nhau. Tôi bèn cho hư luôn, và đêm nay nhắn thơ ký khách sạn gọi cho một thiếu nữ tẩm quách cho khá đẹp, giây lát một cô “đấm bóp” choàng áo blouse như nữ bác sĩ: tay xách túi da đựng đồ nghề, đến làm phận sự. Muốn đấm lưng và vai tả, cô ngồi mé hữu và lật sấp tôi, mặt day bên chỗ không có cô ngồi. Đấm rồi cô trở bộ, qua bên kia, day tôi trớ mặt cũng ngó qua chỗ không có cô ngồi. Cho đến nay xin ai đừng hỏi nhiều, và thú thật tôi có hứng thú tẩm quách nhưng vẫn không biết đàn bà Nhựt!
- Thứ hai 23-9-1963 (ngày thứ mười ba trên đường Đông du, bữa thứ năm trên đất Nhựt).
Sáng nầy 6 giờ thức, 8 giờ rưỡi xuống lầu ăn điểm tâm, 9 giờ đi nhà băng đổi 80 đô la lãnh 28.900 Yen, nhà băng còn tặng một hộp quẹt khổng lồ một ngàn cây diêm làm quảng cáo, tôi giao cho giáo sư Pezeu và trả 10.000 yen làm tiễn đưa trước cho sự chi phí chung mấy ngày du lịch. Chúng tôi đến sở cho giấy phép viếng hoàng cung (le palais impérial), nhưng họ trả lời phải xin trước ba ngày mới có trả lời. Từ giã nơi đây, chúng tôi xem lại toà ngân điện (Le pavillon d argent), rồi xem qua thuỷ tâm viện.
Đến 12 giờ, ghé quán nếm mì Nhựt Bản, không khác nào ăn cơm nếp mắc mưa, nó dở như hạch, nhưng vào quán lỡ rồi, miễn no và không nên khó tánh. Muốn khó hãy đợi về nhà. 13 giờ rưỡi, ba đứa tôi y hẹn, đến nhờ một thiếu phụ Nhựt quen với Pezeu đưa đến một am thanh, xem diễn “trà đạo”. Vì có nhiều sách tả rồi, tôi nay không tả lại.
Buổi chiều tái diễn ăn sandwich để kịp mua vé xem geisha, vũ nữ và ca kỹ Nhựt trình diễn nghệ thuật.
9 giờ rưỡi về phòng sớm, định diễn lấy mình. Đòi cho được cô đấm bóp hôm qua, nhưng cũng bổn cũ soạn lại, cô đứng đắn quá, cô ra dấu khứa khứa cái cổ, hiểu rằng anh kia ghen lắm. Thôi! Đấm bóp rồi về đi. Tôi ngủ!
- Thứ ba 24-9-1963 (ngày thứ 14 trên đường Đông du, bữa thứ 6 trên đất Nhựt)
Sáng nầy dậy sớm ra ga mua vé, lên xe cùng đi với Pezeu và Merken, xe đến Yokoyama, xuống sang qua xe buýt chạy về làng Imbé là một làng nhỏ vô danh đối với khách du lịch khác, nhưng tối quan trọng đối với tôi, vì đây là làng chuyên làm đồ đất nung, theo phương pháp cổ truyền học được do thợ gốm đời Tống truyền nghề lại. 11 giờ xe buýt tới Imbé, đặc biệt xe buýt xứ Nhựt hoàn toàn dưới quyền cô bán vé ra lịnh, bác tài tuân theo răm rấp, trở đầu xe cũng do cô bán vé xuống đứng huýt còi ra dấu, xem oải quá, và vé xe có thứ tự, chỗ ngồi có số hẳn hoi, không có cảnh ép cá mòi, ngửi nách hôi, lên xe sợ rận đeo xuống e sợ chí nhảy qua tóc như bên mình. Imbé có một con đường duy nhứt, thẳng như ruột ngựa, hai bên là phố bán và phía sau phố là lò làm đồ gốm của mỗi gia đình chủ từ căn phố nhỏ. Tôi đã tả đầy đủ trong tập khảo về đồ gốm của bộ Hiệu cổ đặc san, nơi đây xin cho tôi lược bỏ phần chuyên môn, để nói riêng về vấn đề ăn và uống không mà thôi. Nhưng cũng phải cho tôi nói, vì tôi là giống già hàm, tôi nói tại sao nước ta không lấy làng Nhựt nhỏ nầy làm gương. Một con đường non một cây số (1.000 thước chiều dài), hai bên phố làm gốm mà không có cạnh tranh giành giựt mối hàng, vì mỗi nhà chỉ bán gốm riêng biệt, anh thì bán đĩa, tôi ở kế bên anh nhưng tôi chỉ bán chén, muốn mua tô phải tìm căn phố chuyên sản xuất tô, và người khách nào không muốn viếng riêng từng nhà, thì cứ việc vào căn “hợp tác xã" ở mỗi hai đầu phố, nơi đây có bày đủ thứ hàng (đĩa chén tô, lục bình, v.v...) của mỗi nhà kia và bất cứ ở đâu đều một giá nhứt định không lên không xuống. Như vậy cho nên tôi thấy mỗi chủ gia đều trầm tĩnh, kẻ xem báo, người biên chép sổ sách, khách hàng đến họ nghinh tiếp tử tế nhưng không lăng xăng líu quít như chủ nhà thổ những đêm cuối tháng. Cứ thỉnh thoảng cách năm ba căn phố, chúng tôi xin chủ nhà biểu diễn nghệ thuật, họ không bao giờ từ nan, lễ phép đưa chúng tôi ra sau nhà, chỗ có trại làm đồ gốm, rồi họ nhồi đất nắn nặn món gốm nào mình muốn xem họ làm, dưới tay họ, cục đất sét chạy vo vo trên bàn, biến ra hình cái vò, cái chậu, cái bình, mau như chớp mắt, xem mãn nhãn rồi, khi hết muốn xem, họ thôi biểu diễn và họ không quên đập quặp món đồ trước khi đưa khách ra về. Lò của họ đều nhỏ thôi, nhưng đặc biệt, lò nầy chụm củi gỗ thông, nóng bao nhiêu độ, lò kia chụm gỗ trực, gỗ danh mộc tuỳ theo sức nóng họ muốn có để hầm món đồ. Đó là nghệ thuật đời Tống, lưu truyền lại, không cần máy đo sức lửa, và vì vậy nên có danh từ chuyên môn "thần nhân", "ngọc nhãn", "thanh nhãn", thay cho thermomètre, compteur v.v.., "hoả biến" (món đồ đổi màu vì lửa, Pháp gọi "accident de four", v.v.
Trưa chúng tôi xức cơm với tàu hủ kho chung với cá đuối (nuốt vào nó muốn nhơn ra vì lanh quá, nhưng hai thằng mũi lò nuốt được thì tên Nguỵ Vương già cũng rán nuốt theo, cũng may kỳ nầy nó vô luôn. Vì ăn cơm lường mỗi bữa cơm ăn bốn chén nên chuyến nầy tôi hơn hai bạn tôi, chỉ chuyên phá mồi, ăn đồ ăn nhiều hơn cơm, và vì cá tanh quá, nên tôi không giành. Buổi tôi chúng tôi ních sandwich tại ga, để lời thì giờ, vì trọn ngày, chúng tôi thả rong từ lò nầy qua lò nọ, gần quên hết thời gian tính. Merken trầm trồ khen mãi, rằng đem qua Paris thì nghề riêng ăn đứt mấy ông nghệ sĩ trời âu, chỉ có danh, tính tiền thật mắc, nhưng kể về nghệ thuật thì thợ gốm Nhựt, nay đã hết lùn vì lai nhiều, hơn xa! Merken mua khá nhiều đồ. Pezeu lựa được ba món rất có duyên. Duy có tôi, ngu và hư hơn tất cả, ban đầu tuyên bố rằng nhứt định không mua, nhưng khi lên xe hoả trở về thì đếm món của tôi nhiều hơn cả.
Lò số 1 - Mua một cái nậm rượu grès, chủ lò tặng một nhạo nứt đít bỏ ngoài sân, tôi cố nài, chủ lò đổ nước nước không chảy, chủ lò biếu không tính tiền, tôi chỉ cho xem lằn nứt hình cong chữ S là chữ hoa tên tôi, ba người kia, chủ lò, Pezeu và Merken, đều chưng hửng. Nhạo nầy vẫn còn. Nậm 1.000 Yen.
- Lò số2 - Lựa mua một bộ đồ trà, đếm năm chén quân (mua dư đề phòng bể), một ấm, một chén tống cả thảy hình thù méo mớ, đựng trong một hộp gỗ, 2.000 Yen.
Lò số 3 - Nơi đây ban đầu lựa mua một ngỗng (nhạo dài cổ), sau chủ lò đem ra bốn cái khác, tôi đều mua cả. Đây là loại gốm chế tạo sau trận dội bom ở Hiroshima, Pháp gọi piè ces scatologiques, hình dáng giống cục phân (cứt), người chế ra đầu tiên là một anh thợ may tỷ phú Nhựt, chọn nghề tài tử (violon d Ingres) và thỉnh thoảng nghỉ may ngồi nắn ấm chén, cho vào lò và chuyên sản xuất loại hình cục phân. Và nói đĩa tròn, bình tròn, con nít và đàn bà đều làm được, vì đặt lên bàn quây là nó tròn. Duy đồ scatologique là đồ thiên tạo đồ “hoả biến”, làm không khi nào giống nhau nên quý. Bộ đồ trà nói trên, cũng thuộc loại nầy, cả thảy ngụ ý sự tích chiếc giày Hoàng Thạch Công, nhờ Trương Lương không gớm, lượm giày ba phen mà sau làm thầy Hán Cao Tổ và học được nghề tiên. Nếu đừng gớm thì ở lại nhậu trong chiếc bình xấu xí nầy, nhược bằng phạm tục sợ dơ thì hãy để ta yên. Bình còn ngụ ý ngầm nước Nhựt vì trái bom nguyên tử mà hư hại như cục phân, cục cứt. Anh thợ may tỷ phú bày ra làm gốm xấu xí để rủa những ai bày ra nạn chiến tranh và bom dữ giết người, tôi có dư tiền vẫn mua gốm ấy để chiều sở thích. Anh chủ lò nể, nên tính năm món 700 Yen.
- Lò số 4 và chót - Lựa mua một "ngọc hành" làm bằng đất chưa nung, còn phơi nấng ngoài sân. Hỏi mua chủ lò không ưng bán vì chưa nung, cố nài mãi, chủ lò định giá 500 Yen và căn dặn phải “nướng” kịp trước hạn kỳ, không thì hỏng. Đây không phải vật tục tĩu đúng ra là cái cúp (chén) dùng cúng lễ của đạo kín, tôi mua vì tánh cầu kỳ, mà cũng xuýt mất chức vì chén nầy, vì khi tới sân bay Tân Sơn Nhứt, có người khám hành lý, tôi đã hỡi ôi, may sao giờ phút chót khỏi bị xét, vì có người quen đến kíp giải nguy. Nếu không có cứu tinh, cái dương vật bằng đất lòi ra, thì chức quản thủ viện bảo tàng, thứ quản thủ ăn lương công nhựt, đã bay mất từ lâu, thêm xấu hổ biết bao nhiêu.
Có lẽ món ấy, đúng là xúi quảy. Merken từ giã chia tay, mai nầy và còn du lịch thêm mấy ngày trên đất Phù tang nên va ở lại. Pezeu và tôi trễ chuyến xe trực chỉ về Kyoto, phải đi xe chuyến từ 8 giờ cho đến 11 giờ, thì xe hoả nghỉ chạy phải tạm mướn phòng nghỉ một đêm nửa đường. Nằm chung một phòng với Pezeu, va lấy tiểu thuyết ra đọc tỉnh bơ, còn tôi trằn trọc, phí 3.300 Yen tiền phòng và 2.500 Yen chi tiêu lặt vặt mới về tới nơi, thiệt là lãng phí. Trong hai người, ai là có hạnh phúc, tôi xin nhường cho độc giả đoán giùm.
- Thứ tư 25-9-1963 (ngày thứ 15 trên đường Đông du, bữa thứ bảy trên đất Nhựt)
Cũng là ngày chót trên đất Phù tang - Tuy mệt mỏi, nhưng ở Kyoto được cái may là có nước nóng pha ấm ấm để tắm, buổi tối 11 giờ đêm tôi tắm rồi mới đi nghỉ, sáng lại 6 giờ tôi tắm nước nóng nữa, cho nên người thấy khỏe khoắn. Không phải tôi gượng, kỳ thật tôi vui vì chẳng mai thì mốt, mình cũng có mặt ở Sài Gòn. Vì chiều ý Pezeu nên 8 giờ sáng hai tôi mới thức, trả liền phòng rồi ra xe luôn, ăn điểm tâm sáng và dùng cơm trưa trên xe. Xe Nhựt không thua xe Âu châu, chạy đúng giờ khắc, thêm có trà uống khỏi tiền. 14 giờ 30, xe tới Tokyo, ghé tạt Hilltop Hơtel, để hành lý, mướn phòng số 303 xong rồi lên tai đưa Pezeu về nhà và cho xe chạy luôn lại De Berval. Ở lóng nhóng tại đó cho lới 4 giờ 30, nhưng đêm nay không có hát Nô (hát Nhựt theo lối tối cổ, cũng hò hét như hát bội ta). Bụng muốn đơn thân đi xem thoát y vũ cho đã thèm, nhưng trót hẹn lo với Pezeu ăn cơm tiễn hành tám giờ nầy nên đành bỏ chuyện muốn hư.
Chờ vợ chồng Pezeu cho đến 20 giờ 40 vợ chồng y mới lại. Vì trời mưa tầm tã nhắm đi đâu cũng bất tiện, tính gọn ăn tại Hilltop-Hôtel cho giản tiện, không ngờ tổ trác một vố khá nặng, mình đòi ăn Châteaubriand, tiệc rồi toa ghi 7.634 Yen, không đủ tiền, phải xin Pezeu 2.000 yên mới đủ trả. Vì còn để dành 1.400 Yen, ngày mai trả taxi ra sân bay.
- Thứ năm 26-9-1963 (ngày thứ 16 trên đường Đông du, bữa chót, ngày hồi hương...)
Sáng 6 giờ thức dậy, tắm nước nóng rồi trở lại nệm nằm chờ... 8 giờ thay y phục, mang hành lý xuống lầu, chị bồi phòng một hai giành xách va ly tồng tềnh, mình một phen nịnh đần, chị châm một hơi tiếng Nhựt, mình nào hiểu ất giáp gì, chị ta xuống lầu, trả tiền lì xì, chị xem hơi giận, anh thơ ký cất nghĩa tiền súp-lê-măng đã có kể trong hoá đơn. Thiệt khó làm cho vừa lòng mỏi chỗ; bên Pháp mỗi mỗi phải có pourboire, bên Nhựt trả lì xì, họ cho rằng nhục.

Đến 8 giờ 55 có ông Pezeu đến tiễn lên đường. Pezeu phu nhân xin miễn lễ vì trời còn sớm quá, không dậy nổi. Pezeu đứng bên xe bắt tay giã biệt lần chót, dặn taxi đưa mình đến phi trường Tokyo, xuống xe trả 800 Yen. Ban đầu bợ ngợ vì dốt tiếng Nhựt và không biết một tiếng Anh. Cứu tinh hiện ra nữa là một ông Mỹ thạo tiếng Pháp, làm thông ngôn hộ, nên giấy tờ dễ dàng qua khỏi cửa phi trường vô phòng khách ngồi chờ giờ cất cánh. Rờ trong túi còn 600 Yen Nhựt, bèn mua bốn gói Camel hút phì phà đỡ buồn miệng. Lên máy bay Air France, chiếc Château de Compiègne, lớn khổng lồ, loại JET hoàn cầu biết tiếng. Phỗng lỗ mũi hồi nào không hay!
11 giờ 15 cất cánh, đến Hương Cảng là 15 giờ 30 thật là nhấp nháy. Móc ví ngăn kín tiền má bù trẻ giấu, mua miễn thuế một transitor 10 NATIONAL hai bandes, giá 39,50 U.S, dollars. Ngồi ăn chung bữa cơm chót dọn trong phòng sang trọng và rộng lớn, người khách kia là Đại tướng Lê Văn Tỵ, ông đi Mỹ trị bịnh nay trở về. Đại uý Bùi Công Minh tuỳ viên quân sự, đứng hầu. Ăn cơm uống toàn sâm banh. Đại tướng không uống được. Một mình uống, sướng quá, té ra về cách chẳng bao lâu bị tướng Khánh cho ra rìa.
Viết theo notes cũ, ngày 20-6-1978
Bài kết luận: Hơn nửa đời hư, tôi viết không có plan, vì plan ở trong đầu.
Cũng không có giáp, vì tôi có lật, viết giáp, ưa sửa, không khi nào bằng lòng câu mình viết ra, và phải viết bằng máy đánh chữ, sợ tốn sợ hao, cho nên câu nào đánh máy lỡ, tạm tạm ưng ưag, miễn nghe được hiểu được thì được rồi, tôi nào có ý định làm văn? Thú thật, giáp ở trong đầu. Đã sống một đời dài, nay thuật lại, thì chỉ cần có hồ sơ sắp đặt trước theo thứ tự, rồi ngồi vào máy gõ lóc cóc cho đỡ sầu, mặc cho nó tuôn... Cũng có lúc gò lại cho nó dễ nghe, thì khi ấy cũng cần có giáp, nhưng như đã nói, viết kẹt cánh gà, viết trên tiệm hút từ lúc nhỏ, nay giấy má còn, đẽo gọi sửa lại sơ sơ là được rồi. Vì vậy, tôi rất quý trọng hồ sơ xếp có ngăn nắp và rất sợ xét nhà. Xin cô bác thương tình. Có nhiều đoạn, lại là câu chuyện kể rồi trong Bách Khoa thời đại, Tin Sớm, Chọn lọc nó đã cũ xì, thì tôi o lại cho mới mới đôi chút, vậy thôi. Hơn nửa đời hư, thai nghén từ những năm thi rớt, những năm vợ bỏ, tôi lại hiểu lầm thi chưa đậu là tại văn mình kém, nên hoá ra chua chát. Âu cũng là một "thiên bạc mệnh", nếu có "não nhân" thì cũng là ngoài ý muốn.
Kết luận nầy tạm, vì còn chờ đậy nắp quan, nó mới là thiệt thọ. Chừng ấy ai đọc điếu văn sẽ viết dùm.
Có bạn, thương, hỏi tôi sao không viết luôn đến năm nay 1978?
Xin thưa, một vì buồn chán, hai vì từ ngày hết nợ, thôi làm mọi nhà nước, tôi tưởng, hết lên voi xuống chó, ngày nào như ngày nấy, chờ cơm, đưa võng, viết ai mà hòng coi. Nên không viết và tốp nơi năm Mậu Thân 1968. Tốp năm 1968, tạm gọi “Hơn nửa đời hư" thì được. Viết nữa, “Hư trọn đời” hay sao? Đọc hết tập “Hơn nửa đời hư” nầy, các bạn sẽ thấy đời của tôi, bé mọn mặc dầu, cũng có lúc quay tít như con vụ ó.
Ai từng chơi vụ ó, mới hiểu câu nầy, tôi muốn nói gì.
Lựa cho mình được một nhánh duỗi khá trộng, cắt một khúc, đẽo con vụ ó. Phải gỗ duối mới được. Gỗ khác, nhẹ thì vụ mau nứt mau hư, gỗ nặng thì cứng khó làm, vụ quay chậm, kêu nhỏ. Thân nó lớn bằng trái măng cụt. Phải dày công khoét một lỗ tròn nơi bông vụ, cỡ đầu ngón tay út, rồi lòn đồ nghề theo miệng lỗ, móc ruột cho khá khá, ruột bộng càng lớn chứa gió nhiều vụ kêu càng to Xong rồi tra dưới chưn vụ một khúc đinh sắt chột cỡ tám ly, đóng lút một đầu đinh vô con vụ, phải khéo tay lấy dùi sắt xoi lỗ trước rồi mới tra đinh vào thật vững chắc, coi chừng từ chút, đóng quá sâu phạm tới ruột thì công phu lỡ làng. Xong con vụ rồi để đó, lo đánh bằng tim đèn, một sợi dây dài cỡ một thước ngoài, dây nhợ cũng tạm được nhưng chơi không bền, sẵn dây sẵn vụ còn phái bọc quấn dây, ngoèo một đầu vào thân vụ rồi vấn dây chung quanh nó, không biết ngoèo thì dây vướng, vấn lỏng thì dây tuột, vấn quá chặt thì vụ vấp, trục trặc; học được thành nghề quấn vụ rồi còn học cách phóng con vụ cho thật mạnh, thật đều tay gần y như thợ chải thả lưới, đâu đó thuần thục rồi tay mặt nấm một đầu dây, dang không cánh tay vụt một cái thật khoan thai, con vụ bỗng nhiên tuôn tròn thoát khỏi sợi dây, nhảy xuống đất quay tít mù. Khi ấy hơi gió lọt vào lỗ gây ra một luồng không khí mạnh, phát ra một tiếng "O" đổi lần nghe “Ó”, rồi vụ đứng một chỗ cứ tuần tự kêu "O! O" thật là khoái nhĩ! Biết đánh thì vụ kêu ngon lành, không biết đánh, thì vụ văng vào ống nhổ thì bị đòn to. Gặp cục sạn thì vụ mất thăng bằng, gặp lỗ sâu thì sụp, gặp chỗ lồi thì đảo, phải sân gạch thật sạch, thật láng bóng như nền nhà cũ của Ba tôi thuở trước, thì vụ mới quay êm và phát ra tiếng "Ó" êm ái, đến khó tánh như Ba tôi cũng phải chịu.
Ôi! Biết đời nào mới trả lại thú chơi vụ ó!
Và tôi đã tiêu đầu lạc ngạch, cháy đầu bể trán, vì số tôi là số con vụ ó!
Không cho tôi làm vụ ó thì có lẽ kiếp trước của tôi là kiếp trâu. Con trâu về già không cày nổi nữa, gọi trâu lao canh, chủ cho ra rìa, không đưa ra lò sát sanh, đã là tốt phước Trâu vô tích sự, đứng trên bờ mẫu ăn cỏ xanh lại còn ăn lén lúa vàng, bỗng bầy chuột tai hại xoi ngạch khoét lỗ, bờ mẫu Diệm đổ, trâu đứng ngu ngơ, tiếc không còn gì để cụng để mài sừng.
"Trong bụng lem nhem ba lá sách,
Ngoài cằm lém đem một chòm râu.
Thơ là thơ cổ tả con trâu, nhưng giá thử ngày sau tạc bìa để mộ chí cho lão Vương già, lão nằm dưới đó, cũng không cằn nhằn, vì đúng là chân dung lão.
Bốn vách hư, gọi tứ đổ tường, tôi đều có va đầu vào, nhưng may sao chưa bể;
Tửu, nay không còn whisky chánh hiệu ăng-lê nên không uống nữa. Cũng như không tìm đâu ra chuốt số 79, nên bỏ thú ngậm điếu cối. Chớ trước kia, vốn là con sâu rượu, nhưng uống đủ hai công-xom-ma-ti-ông, thì ngừng; tuy chừa thuốc hút, nhưng để dành ống điếu làm sưu tập phẩm.
Sắc, đã bị họ cạo đầu khô không biết mấy lần, chỉ được một cái là từ ngày biết, xét mình vô tài cán, tự rút lui không cho cạo nữa.
Tài cũng đánh chơi ít ván, khi nào ngộ trận có mỹ nhân. Thín cẩu biết thua; bài con chim, biết chung tiền. Qua môn tứ sắc, họ mời cũng chịu miệng vậy, ba tay hội đủ còn chờ mình, nhưng năm đồng một lên, là năm đồng xu chớ không phải năm đồng bạc (năm 1960, đã là lớn), các cô chê đánh như vậy đau lưng, nên đãi cháo gà rồi tha cho về.
Khí, là khai đăng, nằm nói chuyện với chị Phù Dung. Nói oan cho chị, tôi làm nhân tình với chị đã nhiều năm, nhưng vì trót hứa cùng Ba tôi, mà không giữ vẹn lời hứa, như vậy mới hư, tôi kéo hai điếu là chạy tét, chị làm sao bất tôi ghiền được. Năm khi mười hoạ, vài tháng sau, tôi lại kéo hai điếu nữa. Nhân tình như tôi không khăng khít cũng không lơ là. Như vậy mà bền. Bây giờ tôi còn giữ tật tắm sớm và tắm khi đi chơi đêm về. Đó là để phi tang tôi đã nằm với chị. Tôi có câu nầy làm căn bản;
"Nhớ ai như nhớ ả phiên,
Thuốc ngon hai điếu, muốn ghiền còn lâu .
Chị làm sao bắt tôi được!
Trong đời của tôi, hễ cái gì tạm bợ thì được, thì bền; đi thi để kiếm cơm độ nhựt thì được, làm quản thủ "lại ăn lương công nhựt thì bền; ngót mười bảy năm ở viện bảo tàng chớ phải chơi, từ 1947 đến 1964. Thi lên ngạch cao, có đồng lương khá, thì bảy lần rớt đủ bảy; không học được thi phép đức thánh Trần. Cưới vợ làm hôn thú, thất công linh, tốn tiền cha mẹ không ít, hao nước mắt thầm không kể. Chín tháng ly dị người đầu. Mười chín năm cùng người nhì đồng hè xin ly dị. Giận quyết trả thù hết thảy đàn bà. Đụng người thứ ba, không lập hôn thú nữa. Hai người kia làm khổ cho mình mà mình chớ hề dám động, nay họ vẫn sống phê phê trong nhung lụa. Người thứ ba, đã khóc với mình bao nhiêu nước mắt. Tại mình muốn làm đau làm khổ trở lại cho đàn bà phen nầy phải chịu; có vay có trả. Xét ra, không nên nói chuyện trả thù với đàn bà, không lý tiểu tâm như họ. Năm ôi, anh là con chim bị đạn, không muốn nhập bầy. Em cũng nên xét mà bỏ qua cho anh. Đừng làm khổ nhau nữa, hãy quên đi cho nó bớt. Đời của tôi, cái gì cũng cũ xì, vá víu, tạm bợ; chằm có, vá có, khíu cũng có: nhà, mua xác nhà cũ, sửa chữa lại, ở đến nay, ấy là chằm. Vợ thì chắp nối, mà ăn đời ở kiếp, ai ai cũng biết. Vá víu đó chớ gì? Còn về sách và đồ cổ, gẫm lại hoá tức cười; khíu bìa sách, vá đĩa xưa. Một khi nói, phải cho tôi nói hết. Đồ cổ xem lại, hết sức chung tình với tôi. Gặp cái nào biết là giả, tôi có quyền đập bỏ. Một lần đập một lần học khôn. Mua tháng nầy một cái đĩa mồ côi. Vài ba tháng sau, năm khi mười hoạ, gặp mua cái chén lẻ bộ, lần hồi bỗng hoá ra đủ bộ; dầm, bàn, tông, tột. Dầm; đĩa nhỏ; bàn; đĩa lớn; tống; chén lớn để dầm trà, lốt hay quân; chén để uống là, duyên may không hẹn, nghệ thuật chơi đồ cổ là nghệ thuật vá víu, đó anh Lộc Đình. Chầy ngày chầy tháng đồ cổ đồ xưa tụ tập đầy nhà. Từ một nhà lương thiện, sợ ở tù như đàn bà sợ mắc thằng Bố, bỗng hoá ra nhà oa trứ số dách, từ Nam chí Bắc ai cũng biết danh. Cũng may, cho đến nay, không ai làm khó dễ. Thật tình mà nói, vật cổ lâu năm, làm sao có hoá đơn. Có nhiều món, xưa từ đời ông Nhạc ỉa cứt su, hỏi giấy tờ là kiếm chuyện. Cho đến nay, đồ cổ vẫn xem là vật lưu động, như tờ giấy bạc không khác. Trừ phi bạc cấp của gian, chớ thuở nay có lệ đồ cổ về tay ai thì người ấy làm chủ. Pháp có câu "Possession vaut titre" (Vật về ai, nấy làm chủ) - đến lượt sách, chuyến nầy tôi giận thiệt. Những cuốn nào ưng bụng, toàn là sách sưu tập đắt tiền, cưng như cưng trứng, hứng nhượng hoa, đùng một cái, sách bị liệt vào loại giữ trong nhà có tội. Thôi thì gạt nước mắt, ký cô thác tử, còn có nước đem gởi nó cho người ta cất giữ, mấy lúc canh khuya nhớ sách muốn có để đọc chơi vài trang, thì sách nó ở xa mấy cây số ngàn, cầm bằng "liều con như trong tháng đứt nôi”. Còn lại mấy cuốn hợp lệ cho phép để “trong nhà", xem đi xem lại, đó là sách toán, sách dạy nấu ăn, thôi thì hãy theo Chệc ve chai, ở đây chi chướng mắt.
Còn lại những cuốn kia: ôm về từ Paris từ năm 1963; cắp ca cắp cùm giấu kỹ. Toàn là sách in ở Hà Nội, xuất bản do nhà Khoa học, Sử học, Văn hoá ngoài ấy. Xưa chúng là quý, là hiếm có, là quốc cấm. Giữ được mới là tài. Nay chúng bây thuộc loại hợp lệ, ai ai cũng có, tao giữ bây làm chi? Một ngày nào túng tiền, tao sẽ gả chúng bây cho Chệc ve chai, rồi tao sẽ khóc, vì không có sách làm sao tao sống? Đã nói, tao là thằng không làm hôn thú với người vợ chung tình, và từ lúc nếm nhiều tân khổ, tao ghét những gì hợp lệ.
Để tạm kết luận, số của tôi là số, vợ không hôn thú, sách trữ là sách gian mua từ chợ trời, và đồ cổ đồ xưa của tôi chơi là đồ oa trữ giậu. Và tôi chỉ biết làm tội cho cha mẹ. Bây giờ nhớ lại hồi tâm thương ông nhạc gia ở Lịch Trà. Tội nghiệp vì ông làm hương hào có phận sự rao án toà và án ly dị với vợ đầu tiên, có khi nào cha rao án con bị người ta xé hôn thú mà cha vui lòng. Con đã làm khổ, một ngày cũng nghĩa, xin Ba thứ lỗi, ngày nay Ba đã mất, con chỉ xin lỗi nới mấy trang nầy.
Câu văn của tôi cũng vá víu, nhưng mình khái tệ mình không hay, tôi xin nhường độc giả phê phán lấy. Cặp trạng bài cổ thi con trâu", tôi mượn để tả chân dung của tôi cũng như hai câu thơ cổ nầy, nói về cây vông tôi cũng mượn nốt để hỏi lấy tôi;
Uổng sanh trong thế mấy thu đông,
Cao lớn làm chi vông hỡi vông"
Ấy tâm sự và sở trường của tôi: tôi cũng không giấu. Tôi là thằng giỏi mượn.
Nếu hỏi về thuật trường sinh, tại sao sống dai, thì đây là mấy câu góp sách cũ, đã in trong tập "Chuyện cười cổ nhân", chương 19, nay chép lại;
Chuyện Ký Viên dạy rằng; có ba ông cố lão gặp nhau truyền rằng;
- Ông thứ nhất "Thật nội cơ thô xú" (trong nhà vợ thô xấu);
- Ông thứ hai "Vãn phạn giảm sổ khẩu" (cơm chiều bới và miếng);
- Ông thứ ba "Dạ ngoã bất phúc thú" (đêm nằm không úp đầu). Ông Ký Viên nối ba câu lại mà rằng: "Chỉ tai tam tẩu ngôn, Sở dĩ thọ trường cứu". (Ý chỉ thay lời ba già, chỗ do sống lâu xa).
Chính tại người đời nay chụp giựt và đọc quá mau, chớ đọc kỹ sẽ thấy muốn hưởng tuổi xa, chỉ cần tiết ẩm thực, diệt sắc dục, là hai lời khuyên nầy rất hợp với lời Tiền Kiên ca rằng;
"Thượng sĩ dị phòng" (Ké thượng sĩ riêng phòng
"Trung sĩ dị bị" (Ké trung sĩ riêng mền)
"Phục dược bách loã" (Uống thuốc trăm viên)
"Bất như độc ngoạ” (Chẳng bằng nằm riêng).
Tối nằm không úp mặt, và tối nằm riêng phòng, bí quyết trường sinh là đó.
Tôi có một tật lớn là muốn việc gì thì muốn lấy được, tỉ dụ như thi huyện, một vài lần rớt thì thôi, nhưng tôi lại cố thi mãi và muốn đậu rồi sẽ bỏ. Ngờ đâu số tiền định, phải cho tôi tin có số mạng, nếu tôi thi đỗ thì ngày nay rất khác, tôi đâu có được như vầy, nhưng lúc đó tôi đang trong giấc mê đồ, trong ý muốn đậu cho vợ mình không chê, chỉ có vậy thôi, mà mất biết bao nhiêu năm. Ở các chương trên, tôi còn nhắc lại tích Diệp Sinh trong Liêu trai (bản dịch Nguyễn Khắc Hiếu, Tân Dân Hà Nội xuất bản, trang 62). Diệp Sinh, nửa đời luân lạc, thi mãi không đậu, sau vâng lời một ông quan đỡ đầu, theo ông nầy về dinh, kềm dạy cho con ông ấy thi đậu và thành tài, khi ấy Diệp Sinh cũng đậu cùng một khoa với học trò mình, và nhơn đi phó nhậm, con ông quan đưa Diệp Sinh trở về cố trang thì vợ Diệp Sinh khóc lạy rằng vì nghèo nên quan cữu của chồng chưa chôn, nay xin hồn ma đừng về khuấy phá. Nghe đến đó bỗng thấy Diệp Sinh sụm xuống, chỉ còn áo mão một đống còn người đâu không thấy. Bây giờ mới rõ lại, lúc ông quan sai người mời Diệp Sinh theo về kinh thì Diệp Sinh đang đau nặng, và chỉ cái hồn xuất ra theo người mới, còn cái xác trơ bỏ lại cho vợ gói ghém tẩn liệm. Cho hay cái tinh anh của một người bất đắc chí nó mạnh dường thế. Không phải tôi ham chi chức huyện, vợ tôi sẵn tiền, tôi lại ghét làm lớn, phải chiều ý quan thầy làm nhiều điều dở, nhưng chuyện Diệp Sinh, tôi lúc ấy tin như có thật, và tưởng chừng mình là Diệp Sinh tái sanh.
Quả tôi là một thằng hư, mải than trời trách đất, và không biết an phận tuỳ duyên cũng không biết tuỳ thời. Tôi là thằng không biết điều. Đích thị là thằng hư.
Xin hỏi trong mấy chục anh thi đậu năm xưa, nay có anh nào được như mình chăng? Sức bực một ông lên như diều, làm tới phó Tổng thống, mà nay sự nghiệp để lại còn gì? Chẳng những hư, tôi quả là đui.
Nhưng sự đời nói không hết, hãy chờ hối sau phân giải.
Nực cười, khi bé, ước mong đủ chuyện, thì có câu "vãn lộ tao phùng".
Lên lão, thì có câu "Sấu địa sanh hoa vãn"
Số tôi có chữ "sấu" và có chữ "vãn", cũng là của trời cho.
Ồ, toàn là câu sáo, nhớ giỏi, ghép lại thành câu và làm tàng.
Dạ, đúng là đời tôi vậy.
Vân Đường phủ, ngày Ngọ tháng Ngọ năm Ngọ 20 tháng 5 âm lịch (25-6-1978).

Vương Hồng Sển (77 tuổi).
(Xem lại tháng 5 năm 1992).
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Theo http://4phuong.net/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...