Người đã bỏ đường kia ở
lại
Ðể đi vào đối diện hư không
Bờ thánh thót thu sau về vạn đại
Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng.
(Lá Hoa Cồn)
Ðể đi vào đối diện hư không
Bờ thánh thót thu sau về vạn đại
Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng.
(Lá Hoa Cồn)
1. Người thi sĩ ấy đã ra đi.
Cho dù người đã yêu thương thắm thiết trần gian và cuộc tồn sinh này. Nhưng giờ
hẹn đã đến, và người phải rời bỏ cuộc lữ hiện tại để lên đường đi về một biên
giới khác. Cho dù cuộc lữ người vừa rời bỏ có thể vẫn còn lắm chuyện thiết tha,
người đã bỏ con đường kia ở lại. Trước khi đi vào đối diện hư không, giữa lòng
những đêm thâu lục nhạt của cuộc đời, người đã nằm suy nghĩ và mơ ước những gì?
Có phải người mơ được trở lại "một miền quê hẻo lánh, xung quanh có ruộng
đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy dài suốt cả tuổi thơ"(1) .
Người muốn trở về đó để tìm
kiếm lại một màu xanh không còn nữa của những tháng ngày tuổi nhỏ, hay để tìm lại
một ánh trăng châu thổ, một giọt sương tỳ hải, hoặc những cánh châu chấu chuồn
chuồn mà ai đó đã thả đầy trong mấy vạt nắng mong manh sầu úa một chốn quê nhà?
Chốn quê nhà kia, nơi có những bóng tre, một màu rạ, một bờ ruộng, một con đường,
một khúc sông... mà lúc nào người cũng mãi gìn giữ trong chính thịt xương thân
thể mình:
Con đường, bờ ruộng, khúc
sông...
Bóng tre, màu rạ như trong
ruột rà
(Martin Heidegger Và Tư Tưởng
Hiện Ðại II)
Hay là người vẫn còn mãi nhớ
về bờ lúa cũ, nơi người vẫn còn nhìn thấy in đậm một dấu chân em:
Em chết trên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con
Anh qua miền cao nguyên
Nhìn mây trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya trốn gió
Mười năm sau xuống ruộng
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn ruỗng
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay
sang.
(Bờ Lúa, trích nguyên
bài)
Hay là người muốn trở lại những
ngày xưa để lùa bò vào đồi sim trái chín:
Anh lùa bò vào đồi sim trái
chín
Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim
Anh nhìn lên trời xanh đỏ
chín
Anh ngó bốn bề cây lá gió
rung rinh
Cây lá bốn bên song song từng
lứa
Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn
hàng
Hạnh phúc trời với đất mang
mang
Với bò giữa rừng hoang đương
gặm cỏ
Với người ngó ngất ngây
đương nằm đó
Không biết trời đất có ngó
mình không
(Anh Lùa Bò Vào Đồi Sim Trái
Chín)
Hay người muốn tìm lại những
ngày tháng ngao du cũ, những sương bình nguyên, một màu hoa trên ngàn, và những
đêm sâu đầy màu sử lịch của một khúc sa mạc trường ca? Người đã sống điên dại
giữa đời, hay đúng hơn, người đã chọn một cuộc chơi vĩ đại, trầm thống với tất
cả "thân thể máu me và da xương" của chính mình mà mẹ cha cũng như trời
đất đã ban cho. Chẳng mấy kẻ trên đời này đã dám xông vào trận như thế. Người
làm ta nghĩ đến Paul Gauguin, kẻ đã dám từ bỏ thế giới văn minh của con người để
đi tìm một sắc màu thơ mộng mới cho chính cuộc tồn sinh mình. Gauguin, cũng như
người, đã suốt đời lang thang để đi tìm một màu hoa sơ thủy. Người cũng đã làm
ta nghĩ đến Van Gogh, kẻ đã tự ý đánh mất cái khôn ngoan của những con người sống
giữa đời thường, để có thể đi sâu vào trong ánh sáng điên cuồng chói lọi của những starry
nights, của những đêm sao lồng lộng, và nhìn ra ở đó những chính bản của cuộc đời.
Cuộc đời như chúng ta đang sống chỉ là những phó bản với thật lắm điều sai chệch.
Bùi Giáng đã van xin:
"... Hãy để yên
cho tôi điên tôi dại. Ðừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi.
Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là tôi
không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn
dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống..."
Hãy nghe lời kinh Cầu
Nguyện Ca mà người thi sĩ đã viết:
Hãy mang tôi đến giữa đời
Giết tôi chết giữa cõi đời mốc
meo
Hãy mang tôi tới nắng chiều
Giết tôi chết giữa một triều
khe nương
Hãy mang tôi tới dặm trường
Giết tôi chết giữa con đường
bơ vơ
Hãy mang tôi tới bất ngờ
Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ
ngẫu nhiên
Hãy mang tôi tới diện tiền
Giết tôi chết giữa người
thuyền quyên kia....
2. Nhắc đến Bùi Giáng, người ta
hay nói về thơ của ông. Ðó cũng là điều tất nhiên. Ông là một thi sĩ bát ngát,
ngây thơ và cỏ hoa điên đảo. Cỏ hoa điên đảo trong cõi đời cũng như trong những
cõi phi-đời và pha-đời. Còn ngây thơ, bát ngát là ở trong cõi bờ tịch lặng của
triết lý uyên nguyên mà ông vẫn hằng lui tới. Thơ Bùi Giáng tràn đầy thiên
nhiên hoa cỏ của một thế giới sơ đầu vẫn còn giữ mãi một hồn nguyên tiêu ẩn mật.
Thơ ông đựng đầy ẩn ngữ, mật ngữ, nhưng không trì nặng mà vẫn bay lượn phiêu
diêu như những cánh châu chấu chuồn chuồn ở ngoài đồng nội. Ông làm thơ, nhưng
không cần biết thơ là gì:
Bắt chước ông Khổng Tử
Con chim thì ta biết nó bay
Con cá thì ta biết nó lội
Thằng thi sĩ thì ta biết nó
làm thơ
Nhưng thơ là gì
Thì đó là điều
Ta không biết
(Sa Mạc Trường Ca)
Kẻ thi sĩ không biết thơ là
gì, nhưng ông biết rõ tại sao ông lại làm thơ:
"Thơ tôi làm (...) chỉ
là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Ði vào giữa trung tâm bão động một
lúc thì lập tức xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu
chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai
cánh mỏng bay đi. (...) [T]ôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa
chiêm bao. Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng
đãng chiêm bao..."
Có những người đã thử bàn về
thơ của Bùi Giáng. Tôi cũng đã thử có lần "vạch hai lá cỏ ra nhìn" để
rủ một lũ chuồn chuồn châu chấu trở về bay liệng trong thơ ông(2). Tôi yêu cái
hình ảnh của Bùi Giáng trong một màu trăng châu thổ và trong đìu hiu của hoang
vu những Lá Hoa Cồn, hay trong những Bài Ca Quần Đảo; nhưng tôi cũng
rất thích cái nét thơ ngây uyên bác đầy nhiệt tình, nhiệt thú, nhiệt huyết và
nhiệt mộng của ông trên cả hơn một ngàn trang sách trong ba tập Tư Tưởng
Hiện Ðại (in khổ lớn). Ðể thấy được những nét tài hoa và cái đọc, cái biết
phơi phới(3) của Bùi
Giáng về văn học, tư tưởng và triết lý Tây Phương cũng như Ðông Phương, tôi
nghĩ người ta phải tìm vào những trang sách này. Những trang sách mà Bùi Giáng
đã viết trong những năm ngoài ba mươi tuổi của mình, những năm đầu thập niên
sáu mươi. Con người này tài hoa rất mực, chu du trong thế giới tư tưởng và ngôn
ngữ Tây Phương nhưng lúc nào cũng yêu thương thắm thiết một màu hoa trên ngàn của
ngôn ngữ Việt.
Có lần ông nói với Trần Tuấn
Kiệt là ông viết về triết học, bàn về tư tưởng hiện đại là để cuối cùng nêu lên
mấy câu về Kiều hay của Huy Cận chơi. Quả thật là có thế. Nhưng không phải chỉ
là như thế. Bùi Giáng nói chơi đấy thôi. Trong những quyển này, ông bàn về một
số những khuôn mặt lớn của tư tưởng hiện đại như Karl Jaspers, Jean-Paul
Sartre, André Malraux, Saint-Exupéry, Gabriel Marcel, Albert Camus, Paul
Claudel, Simone Weil, Martin Heidegger, William Faulkner, Nietzsche,
Kierkegaard... Từ những khuôn mặt này, và đặc biệt là từ Heidegger, Bùi Giáng
đã bàn rộng ra về những vấn đề của triết lý và tư tưởng hiện đại. Ðọc mấy cuốn
này để hiểu Bùi-Giáng-trẻ là như thế nào. Ông vẫn luôn là một nhà thơ, một con
người hết sức thơ mộng. Nhưng ông lại là một con người của lý luận và mang đầy
tính "vượt biên" trong cung cách dắt dìu ngôn ngữ, tư tưởng của mình.
Ông gạt bỏ mọi rào cản trong sự diễn tả và trong mạch lý luận. Ông sẵn sàng đưa
Khổng, Lão, Trang cũng như cả Thúy Kiều, Kim Cương, Phùng Khánh, Brigitte
Bardot, Marilyn Monroe, Dương Quí Phi, Ariane, Diane, Nausicaa, Juliet,
Desdemona... vào trong cuộc thảo luận mà ông bày ra với Heidegger, Nietzsche,
Sartre, cũng như với những nhà tư tưởng lớn khác của thế giới. Bùi Giáng cho rằng
những người con gái đó "Phải trở về bủa rộng chiêm bao để thiết lập mộng
luân lưu giữa thời gian bay múa", và có như thế thì "Cuộc tồn hoạt của
tồn sinh [mới] được tiếp xúc trở lại với hương màu vạn cổ...".
Bùi Giáng không thích Sartre
vì, trong cái nhìn của ông, Sartre đã quá bất công với Camus, không hiểu
Faulkner cũng như kỹ thuật thời gian đồng hiện của nhà văn này trong The
Sound and the Fury (Âm thanh và Cuồng nộ), và không ngay thẳng với Heidegger.
Sartre đã tìm cách giết chết Camus trong việc "giải thích" L'Étranger
(Người xa lạ) một cách không đúng tinh thần mã thượng trong bài Explication
de l'Étranger (Giải nghĩa Người xa lạ) của mình. Và Sartre đã bóp
méo, xuyên tạc, rồi sau đó tấn công Heidegger, tung hỏa mù về tư tưởng của
Heidegger vào thế giới trí thức Tây Phương. Trong quyển đầu, Tư Tưởng Hiện
Ðại, Bùi Giáng còn khá nghiêm túc, tính chất "vượt biên" trong ngôn
ngữ, tư tưởng của ông, phần lớn, còn nằm đằng sau những con chữ, những mặt chữ,
chứ chưa lộ hẳn ra ngoài. Những nhận định của ông về Sartre, trong khi bàn về
Camus, còn sự quý mến và nể trọng. Qua đến quyển hai, Martin Heidegger Và
Tư Tưởng Hiện Ðại I, vì giận Jean Wahl, giáo sư Đại học Sorbonne, qua quyển Vers
la Fin de l'Ontologie của ông này nhằm phê bình quyển Introduction à
la Métaphysique (Siêu hình học nhập môn) của Heidegger, và giận Sartre
trong việc ông cho rằng Sartre đã xuyên tạc triết gia này, có những chỗ Bùi Giáng
đã "mày tao chi tớ" với họ. Ông cho rằng Jean Wahl đã “Bám vào những
chi tiết mấp mô mà bỏ quên nguồn thác chảy. Cái phần sâu thẳm trong chiêm niệm
viễn tượng siêu hình "dư dục vô ngôn" Heidegger gọi là cái phần
Im-pensé [...] hoàn toàn bị Jean Wahl và Sartre hững hờ không dọ tới. Jean Wahl
là hình ảnh biểu trưng trọn vẹn cái sa đọa của duy lý thô thiển mài miệt trong
cái học công truyền đo đếm quanh năm [...] Cái gì gì Jean Wahl cũng nằng nặc
đòi cho được "tout à fait". Ðức Khổng Tử thấy vậy, Ngài bèn lắc
đầu: Nếu đòi hỏi mãi cho được cái "tout à fait" thì than ôi! còn chi
là cái cõi lòng của ta nữa [...] Cái phần vô-suy tư là cái phần quý báu ta trao
gửi êm đềm cho mỗi mỗi Hãy mở tâm thức mình ra mà đón lấy...”.
Bàn về việc Sartre, trong
cái nhìn của Bùi Giáng, bóp méo và xuyên tạc rồi tấn công Heidegger trong khái
niệm "In-der-Welt-sein"của triết gia này trong cuốn l'Être et le
Néant (Hữu Thể Và Hư Vô) của mình, Bùi Giáng viết:
"Ở đây, rõ ràng ý
Sartre muốn triệt để công kích Heidegger cho tả tơi tan tành
trong-hào-ngoài-lũy-bằng cái toán quan quân kỳ dị truy sát đuổi dài. Bởi đâu ta
dám bảo như vậy. Bởi rằng: cái tiếng l'être-au-milieu-du-monde là tiếng
của Heidegger.Vật-thể-trong-đời hay tại-thể-trong-thế-gian chính là In-der-Welt-sein -
một khái niệm cốt yếu trong tư tưởng Heidegger. Và sở dĩ ta bảo rằng đám loạn
quân truy sát của Sartre quả thật là kỳ dị, ấy bởi rằng: Sartre xuyên tạc trước,
rồi tra tấn sau. Sartre bóp méo tư tưởng của người ta rồi lên án người ta.
Cái khái niệm "trong đời"
của Heidegger không có nghĩa ù lì, trơ trơ gỗ mục như Sartre bảo. Tại-thể-trong-đời,
là xuất võng ngoại tồn phát tiết tinh hoa ra ngoài cõi đời để mở-phô-đời-cõi,
thiết lập lại bên dòng cái cuộc đời rời rã cho kết-tụ-tròn-đầy lài liễu soi
gương, khâm phụng lên đường theo thiết tha phóng hoạt - là thiên chức con người
trước tiếng gọi Vô Ngôn.
Sartre đã đẩy Logos Hình Nhi
Thượng của Heidegger cho té xuống bình diện Hình Nhi Hạ. Phusis bị dập hết
hương màu. Thế còn chi là hồng nhan em Thúy? Tha hồ mà đo đếm đuổi xô. Ðem bụi
lầy bết vào thân tiên tử, đem bùn-đen trát vào mình mẩy mềm mại của giai nhân,
rồi la to: - Con đĩ kia ơi! Mày hãy đưa tứ chi cho ông xiềng xích lại, rồi vào
ngục tối mà nằm. Ông là nhân viên kiểm tục.
Duy có điều: Sartre vẫn đáng
được ta mến là ở chỗ: Cái điệu tài-tình-ba-gai của Sartre nghe ra lắm chiều ngộ
nghĩnh. Dường như Sartre thử đùa một cuộc chơi để xem thử thiên hạ sẽ nghĩ như
thế nào. Nếu ta nói chơi, mà đời lại nghe theo làm thật, lại ngây thơ hơn con
trẻ, cứ lượm đá mà ném mãi vào thân thể giai nhân để tự-biến-mình-làm-quỷ thì
cũng là đáng cho cái kiếp các ngươi lắm đó. Giai nhân chết đi, thì rồi các người
sẽ cưới ma-cuồng về mà ôm ấp(...)"(4).
Phong cách diễn tả của Bùi
Giáng cho thấy ông có sở học rộng, mặc dù ông cũng rất chủ quan. Ở đây, ông là
một nhà phê bình; nhưng cái chất nghệ sĩ trong con người ông còn mãnh liệt hơn
cái chất phê bình kia. Và nghệ sĩ nào mà lại không chủ quan. Ông có cái tài hoa
trong ngôn ngữ, cái nhiệt tình trong việc bênh vực cho lẽ phải trong quan điểm
của mình, và cái cao ngạo, "pha" đời của một người coi thường cái học
từ chương, trường ốc, khinh thường cái nhóm "trường trại lao xao". Tự
nói về ngôn ngữ của chính mình, ông bảo: "Lời mông-lung-cỏ-lá là xem thường
hệ-thống-lý-luận-phỉnh-gạt của những phường giá áo túi cơm là cá chậu chim lồng" (Martin
Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Ðại I) và "Ðã là người Việt Nam thì
chẳng lẽ lại viết triết học bằng chữ. Phải viết bằng lời. Mà lời của biển dâu
không thể là lời văn xuôi. Phải là lời thơ "tái tân thanh" tái tạo.
Văn xuôi cũng phải buộc là thơ. Và mở cửa cho thơ rúc vào nằm trongmột vòng
tròn trịa méo mó ôm nhau."(Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Ðại I).
Bởi vậy, cho dù ngoài thơ
ra, Bùi Giáng có dịch một số tác phẩm của văn chương thế giới, có bình luận chú
thích về tư tưởng hiện đại, thật sự, tất cả những gì ông viết ra đều nằm trong
một bài thơ lớn. Một bài thơ lớn theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bài thơ đó
chính là đời sống của ông, là cuộc tồn lưu kỳ thú mà ông đã chọn lựa để sống trọn
vẹn sinh mệnh mình trong cuộc lữ trần gian này:
Tôi đã nguyện yêu trần gian
trọn vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da
xương.
(Mưa Nguồn)
Bùi Giáng viết mấy quyển Tư
Tưởng Hiện Ðại chỉ là để, cuối cùng, nêu lên mấy câu của Tố Như trong Kiều
hay mấy câu thơ của Huy Cận. Thì thực là như thế đó. Nhưng ông cũng viết những
quyển sách ấy để nói lên những vấn đề trầm trọng của Sử Lịch Việt Nam, của con
người Việt Nam giữa mấy trời lửa khói:
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn
hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài
bão dông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng
một giêng
Tạ từ tháng chạp quay
nghiêng
Ầm trang sử lịch thu triền
miên trôi
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng với lời hẹn
hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga
trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một
con
Ầm trang sử lịch. Sử Lịch.
Hình như đây là chữ đặc biệt của Bùi Giáng. Trước ông, hình như chưa có ai dùng
từ sử lịch. Và kể từ Bùi Giáng, mỗi khi viết về ông, hoặc mỗi khi viết
theo thể điệu của ông, người ta thường dùng từ này để nói lên cái tính lịch sử
của đời sống, của con người, của một cuộc lữ, hay của một vòng quay, một dòng vận
động. Có thể nhiều người trong chúng ta thấy từ ấy lạ, đầy nét Bùi Giáng, và đã
tưởng là người thi sĩ cho "nét chữ lên đàng quẩn quanh". Và chúng ta
cũng cho nét chữ của mình quanh quẩn lên đàng đuổi theo nét chữ của người. Ðiều
đó cũng là hợp lý khi đi tìm hay khi nói về phong cách của nhà thơ. Có lẽ ít
người biết rằng, dù là có một phong cách dùng từ độc đáo, trong việc dùng từ
"Sử Lịch" này, Bùi Giáng có quan niệm rõ ràng của ông. Ông sáng tạo
ra từ "Sử Lịch"- hoặc nếu nó đã có trước đó, trong văn mạch của ông
nó đã được dùng theo một nghĩa đặc biệt - để diễn một khái niệm triết lý của
Heidegger. Ở đây không phải chỉ là chuyện "hóa ra nét chữ lên đàng quẩn
quanh" mà thôi. Sử Lịch là Lịch Sử nhuốm đẫm màu thời gian pha phôi thiên
cổ. Ở phần phụ lục cuối sách trong quyển Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện
Ðại II, trong phần chú giải về những ngôn từ cốt yếu của Heidegger (vài chục từ)
mà Bùi Giáng có nhắn gửi với người đọc là: "Nắm lấy chừng này Ngôn Từ, bạn
sẽ có cái Chìa Khóa mở một Cửa Mộng", ông chú giải về từ Geschichte theo
thể điệu Bùi Giáng:
“Geschichte: Sử Lịch, Sử Mệnh,
Sử Kiếp, Hồng Sử, Thanh Sử...
Trên trang sách Heidegger,
tiếng Geschichte có âm vang kỳ bí não nùng như những tiếng Cổ Lục
Sử Xanh của Nguyễn Du. Trong Ðức ngữ cũng có tiếng Historie như History (Anh), Histoire (Pháp).
Theo nghĩa thông dụng thì
trong Ðức ngữ hai tiếng Historie và Geschichte vẫn không
khác gì nhau. Nhưng trong sách Heidegger thì triết gia phân biệt hẳn hai nghĩa. Historie được
dùng theo nghĩa sử là sử ký, sử sự, sử kiện, sử chi li biến cố. Tĩnh tự là historisch.
Còn Geschichte thì có nghĩa man mác mênh mông của Thời Gian hòa vào
Vĩnh Thể trong tâm thức con người là Tại Thể hoài vọng luân lưu. Âm hưởng Sử Lịch
phiêu bồng trong chiều hướng quá vãng theo về bờ cõi mai sau.
Những tiếng Geschichte,
geschichtlich, Geschichtlichkeit đều mang đủ những gì trầm trọng của Sein
und Zeit(5)của Zeitlichkeit chan
gội tồn lưu tố chất... Dịch giả Anh, Pháp đã bối rối rất nhiều trước những tiếng
này. Việt Nam nhờ có Nguyễn Du nên đỡ sợ.
Tạm đưa một vài thí dụ để dễ
nhận nghĩa hơn: khi bàn tới tiếng philosophia củaCổ Hy Lạp, Heidegger
bảo: vì tiếng kia là của Hy Lạp ngàn xưa mênh mông, nên lời của philosophia là
lời của nghĩa Con Ðường, lời của Ðạo. Ðến bây giờ, theo dấu cỏ, ta đi. Bước
trên đường, và ta hiểu đạo philosophia. Nhưng thật ra cái con đường của
yêu thương, cái sophon đã mất nhiều cỏ hoa vì bàn chân ta thô bạo. Ta
bứt trụi lá cây. Và từ đó ta tưởng mình quen biết con đường, nhưng thật ra cũng
hầu như không biết. Biết rất mù mờ, dù có nhớ rõ vanh vách những hòn sỏi, những
cồn lau. Dù có thuộc làu làu những gì trong Cổ Sử: chuyện trước, chuyện sau,
câu đầu, hàng cuối, sử ký, sử ghi, sử sự tràn lan đùn đẩy. Vẫn chưa rõ đạo của
đường. Bởi đâu?
[Bỏ một đoạn trích tiếng Ðức
của Bùi Giáng để làm bật nghĩa historische Kenntnisse.]
Ấy bởi rằng những Sở Tri Sử
Ký chồng chất kia (viele historische Kenntnisse) nó nằm trong trí óc lao xao,
nó xui ta bận trí đếm đo hoài, nên ta không còn tâm linh mà mặc niệm. Ta bỏ lạc
tồn lưu và mất trụi cái cốt thiết của Căn Cơ ẩn kín (innerst Grundzug) của Sử
Lịch là Geschichte nằm trong Sử-tố-chất của Tại Thể - die
Geschichtlichkeit des Daseins.
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà
huy
Lời cổ độ gây rung động dị
thường. Vì Dasein đã nhìn vạn vật trong vẻ kỳ ảo Sơ Khai. U huyền trong cổ độ,
huyền mộng trong tà huy, mộng tình trong thệ thủy, tình tự trong thu phong... Ðứng
rũ vì nhớ nhung, ngồi trơ vì thê thiết. Quán và Cầu là hình ảnh của hoài niệm về
Sơ Thủy không nguôi...
Ðoạn trích dẫn vừa rồi khá
dài. Nhưng, ở đây, tôi chỉ muốn cho người đọc thấy rằng nhiều khi chúng ta cứ
tưởng rằng Bùi Giáng chỉ thích đùa cợt gùn ghè giỡn chơi với chữ nghĩa, nhưng
thật sự thì chẳng phải vậy. Ông đùa giỡn, điên đảo, quẩn quanh hoa cỏ thật,
nhưng ông cũng là một người thật hết lòng nghiêm cẩn với chữ nghĩa của mình. Ta
hãy thử đọc vài ba định nghĩa nữa của ông về mấy từ thiết yếu trong sách của
Heidegger, người mà Bùi Giáng rất mực tâm đắc và yêu mến.
“Sein: Hữu Thể, Tồn Thể,
Vĩnh Thể.
Seiende: Hiện sinh, Hiện Thể,
Vật Thể
Gefrage: Ðiệu hỏi ò e, lao
xao, theo lối trường trại ồn ào, làm tan nát màu hương của chiêm niệm u uyên”.
Hai từ đầu nghiêm cẩn. Từ thứ
ba rất "mông lung cỏ lá", diễn được cái ý xem thường "lối trường
trại" ồn ào của Bùi Giáng.
3. Con người của Bùi Giáng
không chỉ để lộ nét tài hoa trong thơ của mình. Hay trong hằng ngàn trang sách
củaTư Tưởng Hiện Ðại, và trong hằng mấy ngàn trang sách khác nữa của những quyển
khảo luận về văn chương, tư tưởng Việt Nam cũng như về văn chương, tư tưởng thế
giới. Nét tài hoa ẩn mật mở phơi hào hứng của ông còn được thể hiện rất rõ
trong những dịch phẩm mà ông đã để lại cho đời. Tùy vào cái tạng của mỗi người
mà chúng ta có thể cảm hay không cảm, thích hay không thích cái phong cách dìu
ba đào về những chân trời viễn mộng trong những bản dịch của Bùi Giáng. Dù sao,
ai cũng phải công nhận đó là những bản dịch đặc biệt, những bản dịch có một
không hai trong văn dịch của chúng ta.
Có một lần, Bùi Giáng đã thổ
lộ về quan niệm dịch văn của mình trong Lời Tựa quyển Cõi Người
Ta(6)) mà ông
dịch từ Terre des Hommes của Saint-Exupéry như sau:
“(...) Theo dõi giấc mộng
dài của Saint-Exupéry, lại gọi ngôn ngữ Việt Nam về hạ tứ, nhiều phen phải bàng
hoàng: Chúng ta đứng trước mấy lần hiểm họa của màu sắc lục hồng cứ trùng điệp
rủ nhau bay, tung lên phủ xuống (...)
Dịch văn - sao cứ gọi là dịch?
- dịch văn biến thành câu chuyện; vừa bay lên, vừa lặn xuống, vừa lẽo đẽo nối
liền hai bờ ngôn ngữ quá xa nhau. Thật vừa vui, vừa mệt mỏi.
Ngôn ngữ đa âm đòi hỏi lối
phiên dịch như thế nào qua ngôn ngữ đơn âm? Ðó là điều đáng xui chúng ta tư lự
đăm chiêu.
Vì lẽ: tiết điệu đa âm có một
phong thái dồi dào đương yêu cầu được tái hiện. Ðây là trường hợp: ở bên kia từ
ngữ, tiết điệu của ngôn ngữ đương nói rất nhiều.
May sao, Việt ngữ đơn âm lại
giàu sang âm vận. Nhưng không phải ở mọi cơ hội đều giản dị giàu sang. Do đó cần
thêm một chút chuyển hóa thỏa đáng thì lời dịch sẽ tái lập được "cung bậc"
gieo vàng của nguyên ngôn. Mà nguyên ngôn Saint-Exupéry lại chứa chan những thơ
mộng khi u trầm, ngậm ngùi lúc lộng lẫy. Cái điệu nói la cà diệu vợi, vừa chát
chát vừa hắt hiu, lúc nhắc tình bạn hữu, lúc gợi tiếng U già, lúc chuyện trò với
gái trên nhịp cầu hai cõi hoang vu. "Tả nhi nữ tư tình, đãng khí hồi trường.
Tả anh hùng sự tích, nghĩa bạc vân tiêu.” (...).
Trong bản dịch, có mấy chỗ
thêm vài lời, ấy là gắng đưa ngôn ngữ đơn âm đuổi theo tiết điệu ngôn ngữ đa
âm. Thỉnh thoảng lại bớt vài lời, ấy là bởi: Việt ngữ mang nhiều tính chất parataxique trong
khi Pháp ngữ lại triệt để là một ngôn ngữ syntaxique.”
Sau đây, ta hãy thử đọc một
đoạn trong Terre des Hommes của Saint-Exupéry, rồi thử tìm xem cái giọng
điệu lãng đãng thơ mộng ấy của Saint-Exupéry ngân vang bồi hồi trong bản dịch Cõi
Người Ta của Bùi Giáng ra sao:
“J'ai atterri dans la
douceur du soir. Punta Arenas! Je m'adosse contre une fontaine et regarde les
jeunes filles. A deux pas de leur grâce, je sens mieux encore le mystère
humain. Dans un monde où la vie rejoint si bien la vie, où les fleurs dans le
lit même du vent se mêlent aux fleurs, où le cygne connait tous les cygnes, les
hommes seuls bâtissent leur solitude.
Quel espace réserve entre
eux leur part spirituelle! Un songe de jeune fille l'isole de moi, comment l'y
joindre? Que connaitre d'une jeune fille qui rentre chez elle à pas lents, les
yeux baissés et se souriante à elle-même, et déjà pleine d'inventions et de
mensonges adorables? Elle a pu, des pensées, de la voix et des silences d'un
amant, se former un Royaume, et dès lors il n'est plus pour elle, en dehors de
lui, que des barbares. Mieux que dans une autre planète, je la sens enfermée dans
son secret, dans ses coutumes, dans les échos chantants de sa mémoire. Née hier
de volcans, de pelouses ou de la saumure des mers, la voici déjà à demi divine.
Punta Arenas! Je m'adosse
contre une fontaine. Des vieilles viennent y puiser; de leur drame je ne
connaitrait que ce mouvement de servants. Un enfant, la nuque au mur, pleure en
silence; il ne subsistera de lui, dans mon souvenir, qu'un bel enfant à jamais
inconsolable. Je suis un étranger. Je ne sais rien. Je n'entre pas dans leurs
Empires.”(7)
Lời văn của Saint-Exupéry
mang tiết điệu trầm buồn, u hoài, đầy nét vợi xa lãng đãng. Và, từ đó, Bùi
Giáng dịch là:
“Tôi hạ cánh giữa tịch mịch
chiều vàng. Punta Arenas! Hãy nhìn ta tựa lưng vào bờ giếng mà ngó gái giữa
thanh xuân. Cách nhau hai bước, tôi càng cảm thấy rõ cái lẽ huyền nhiệm kiếp
người... Trong một thế giới mà sự sống giao tiếp dễ dàng với sự sống, mà những
cành hoa giữa lòng gió hồn nhiên hôn phối với những cành hoa, một thế giới mà
con thiên nga nào cũng quen biết mọi con thiên nga, trong thế giới đó, chỉ
riêng con người là xây dựng căn lầu mộng cô đơn.
Phần tinh anh còn cách biệt
nhau nghìn trùng. Một giấc mộng "đầu hoa ngang ngửa thắm" của gái
xuân càng chia nường biệt lập tôi, biết làm sao mà tìm cái lối vàotrong nẻo đó ở
trong kia? Làm sao hạnh ngộ, làm sao nghe ra, làm sao ngóng thấy, làm sao biết
rõ những cơn man mác trong nhịp bước gái tơ đi lững thững chiều hôm về căn nhà
cha mẹ, mắt lim dim khép mở hai hàng, hai đôi má núng đồng tiền mở nụ, một mình
mỉm cười với gió ẩy tà xiêm một mình em hay, một mình em biết, một mình rộn lên
những trận viễn du khai phá, những mộng tưởng phát minh, những u hương rập rình
quân nhạc dối nhau xiêu đình đổ quán... Nàng đã tự thiết lập một điện đài ẩn bí
trong một vương quốc rẽ riêng, bằng những gì của riêng ai đem lại, bằng những
gì của gã tình nhân đăm chiêu tơ tưởng? bằng điệu nói của chàng? bằng lặng lẽ của
anh? Từ đó về sau, đối với em, chỉ riêng chàng là hoàng tử chí tôn, ngoài chàng
ra, người người trong thiên hạ thảy thảy là bọn lưu manh man dại côn đồ? Em
khép thân ngà trong một cõi, kín đáo hơn lối vào một viễn cách hành tinh, em
che lấp đời riêng trong những lối đi về kiều diễm, trong những thói nhà băng
tuyết, trong những âm thanh dìu dặt của ký ức não nùng lờ lững phỉ phong. Sinh
ra từ giữa lòng núi lửa, từ giữa lòng thảo hoa, từ chất muối trùng khơi thổi mặn,
mới đó hôm qua, nay em đã hầu thành Tiên Nữ.
Punta Arenas! Tôi tựa lưng
vào bờ giếng. Những đàn bà già nua tới đây lấy nước. Trong tấn bi kịch đời họ,
ngày mai tôi sẽ biết riêng chỉ một cử động tôi đòi ấy thôi. Một bé con ngửa cổ
vào tường, khóc lặng lẽ. Ngày mai trong kỷ niệm của tôi, sẽ chỉ còn ghi riêng
hình ảnh một đứa bé lạc loài, sầu khổ không nguôi. Tôi là kẻ lạ tới đây. Tôi
không biết, không biết gì hết cả. Thế giới họ, tôi không thể bước vào. Làm sao
tôi dám nói”.
Ngày còn trẻ, những năm mười
tám, mười chín, hai mươi, đọc Terre des Hommes, rồi đọc bản dịch Cõi
Người Ta của Bùi Giáng, thú thật, tôi chịu không nổi. Trong những tháng
năm tuổi trẻ ấy, cái gì mình cũng muốn đâu vào đấy, cái gì mình cũng muốn thẳng
lối ngay hàng. Mình thích sự nghiêm cẩn, thích sự gọn gàng chính xác. Câu văn của
Bùi Giáng thêm thắt lòng vòng, ngõ trước vườn sau, mông lung lá cỏ. Làm sao tuổi
hai mươi ngày ấy chấp nhận được. Nhưng rồi thời gian trôi qua lãng đãng. Bây giờ,
đọc lại câu văn dịch của Bùi Giáng, tôi thấy bập bềnh cái hơi thở u hoài của trần
gian thênh thang mà miên man lồng lộng. Trên những câu văn của Bùi Giáng, tôi vẫn
thấy còn sót lại một vạt nắng vàng trong man mác chiều tà. Người con gái đầy ắp
xuân thì, cúi đầu, tự mỉm cười với chính mình, bước đi lững thững về nhà, trong
lòng chất đầy mơ mộng. Những bàgià ra giếng kín nước. Một cậu bé con ngửa cổ
vào tường, khóc lặng lẽ. Câu văn dịch của Bùi Giáng lòng vòng diệu vợi. Thế mà
bây giờ, đọc lại, sao tôi lại thấy nó để lại trong lòng mình những ấn tượng thật
mạnh và buồn(8).
Một bản dịch khác của Bùi
Giáng, cũng là một tác phẩm của Saint-Exupéry, mà tôi rất thích là quyển Le
Petit Prince. Bản dịch của Bùi Giáng là Hoàng Tử Bé(9) . Ðây
là một cuốn sách tuyệt vời. Và bản dịch của Bùi Giáng cũng đạt được độ tuyệt vời
của nguyên tác. Cuốn sách kể lại câu chuyện của một chú hoàng tử bé, sống trên
một tinh cầu xa xăm. Chàng có một đóa hoa và chàng đã ngày ngày tận tâm tưới nước,
chăm sóc cho đóa hoa ấy. Ðó là một đóa hoa đặc biệt của một chủng tử đặc biệt
trên tinh cầu chàng. Ðó là đóa hoa duy nhất của chủng tử nọ, và chính là vì đóa
hoa yêu kiều diễm lệ này mà hoàng tử bé đã lên đường phiêu lưu. Chàng đi qua
nhiều tinh cầu khác nhau và thấy được nhiều sự lạ lùng trong tính chất của
"con người": một ông vua, một người hay khoe khoang, một chàng thích
ăn nhậu, một người làm áp-phe, một người chuyên đi thắp đèn, một nhà địa lý. Tới
trái đất, sau khi gặp một con rắn, sau khi gặp những đóa hoa hồng, hoàng tử bé
kia gặp một con chồn. Và, trong nguyên tác cũng như trong bản dịch của Bùi
Giáng, con chồn này quả là phiêu hốt và thơ mộng đáng yêu quá thể.
Sau khi gặp gỡ, chào hỏi
nhau, hoàng tử bé nói chàng muốn con chồn đến ở chơi với chàng, vì chàng buồn
quá. Con chồn trả lời là nó không thể chơi đùa với chàng được vì nó chưa được
"tuần dưỡng", bởi thế tính khí chưa thuần. Hoàng tử bé hỏi con chồn
"tuần dưỡng" là gì. Nhưng con chồn nói sang chuyện khác. Sau hai, ba
lần như thế, hoàng tử bé vẫn không quên câu hỏi của mình. Chàng lại hỏi con chồn:
Tuần dưỡng có nghĩa là gì?
“- Ðó là một điều bị
quên lãng quá nhiều, con chồn đáp: Đó có nghĩa là "tạo nên những mối liên
lạc..."
- Tạo nên những mối liên lạc?
- Hẳn thế, con chồn nói. Ðối
với tôi, chú hiện giờ chỉ là một đứa trẻ giống y như trăm nghìn đứa trẻ bé
khác. Và ta không cần thiết gì tới chú. Và chú cũng chẳng cần gì tới ta. Ðối với
chú, ta chỉ là một con chồn lũi lang thang như trăm nghìn con chồn lũi phất phơ
phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ thế thôi. Nhưng nếu chú tuần tuần thiện dưỡng
ta, thì chúng ta sẽ cần tới nhau. Chú sẽ trở nên duy nhất trong cõi đời, đối với
ta. Ta sẽ trở nên duy nhất trong cõi đời, đối với chú...
- Ta bắt đầu hiểu rồi đó,
hoàng tử bé nói. Có một đóa hoa... ta tưởng nàng đã tuần dưỡng ta...
Thế rồi con chồn tâm sự:
- Ðời ta tẻ nhạt. Ta đuổi bắt
những con gà mái, loài người đuổi bắt ta. Mọi con gà mái đều giống nhau, và mọi
mọi con người đều giống nhau (dù là người phồn hoa rực rỡ, dù là người phố thị
đìu hiu...). Vậy nên ta có u sầu chán ngán đôi chút. Nhưng nếu chú tuần dưỡng
ta, cuộc sống của ta sẽ sáng sủa ra, kể như có bóng mặt trời chiếu vào vậy
(...). Và này coi kìa! chú thấy ở đằng xa kia kìa những cánh đồng lúa mì đó chớ?
Ta không ăn bánh mì. Lúa mì đối với ta vô dụng. Những cánh đồng lúa mì chả có
nhắc nhở ta cái gì ráo. Và cái điều đó, thật đáng buồn! Nhưng chú có những sợi
tóc màu vàng óng. Vậy nên sự vụ sẽ trở thành huyền diệu, một khi chú đã tuần dưỡng
ta xong! Lúa mì, màu vàng óng, từ đó về sau sẽ nhắc nhở ta nhớ tới chú. Và từ
đó ta sẽ yêu tiếng gió thổi thánh thót trong lúa mì hiu hiu...”.
Rồi con chồn thủ thỉ hẹn hò.
Cho nhu cầu "tuần dưỡng", nó yêu cầu hoàng tử bé đến đúng giờ, mỗi
ngày. Và nó giải thích rõ lý do vì sao chàng phải đúng giờ như thế:
- “Nếu chú đến, chẳng hạn,
vào lúc bốn giờ chiều, thì khởi từ lúc ba giờ chiều, cõi lòng ta đã bắt đầu
sung sướng. Tới bốn giờ chiều thì, ha! ta loay hoay, e ngại, ta ngồi đứng không
an; ta sẽ khám phá được ý nghĩa vô ngần hắt hiu của phù du mênh mông hạnh phúc!
Nhưng nếu chú tới bất kể lúc nào, thì ta sẽ chẳng biết đâu vàođâu mà mò ra cho
đúng cái giờ phải chuẩn bị cho cái trái tim, cái phút phải vận y phục vào cho
cái cõi lòng đón chào tươm tất... Cần phải có những nghi thức thơ mộng, những
điển lễ phôi pha”.
"Tuần dưỡng", từ
này nghe lạ. Bùi Giáng khéo chọn từ, nó làm cho mình nhớ mãi. Trong những dịp
đi lang thang vào các nhà sách bên Âu Châu, năm này năm nọ tôi đã mua được năm
sáu bản dịch khác nhau của tác phẩm này. Vì là sách dành cho trẻ con (!)(10), ấn bản của
ngôn ngữ nào cũng in thật đẹp với những hình vẽ bằng màu nước của chính
Saint-Exupéry. Trở lại với "tuần dưỡng". Ở đây, xin lấy ra vài bản dịch
với những ngôn ngữ thông dụng. Trong nguyên tác, Saint-Ex dùng từ Apprivoiser.
Bản Anh dịch của Katherine Woods, dùng từ Tame. Bản Tây Ban Nha, dịch giả
Bonaficio del Carril dùng Domesticar. Những từ này, nói chung, là những từ
bình thường, quen thuộc, không đặc biệt tạo ra một ấn tượng rõ nét. Từ của Bùi
Giáng dùng, đối với người Việt chúng ta, nghe thấy lạ lẫm. Và nó tạo được ấn tượng
sâu sắc làm cho ta nhớ mãi.
Câu con chồn nói, "Ðối
với chú, ta chỉ là một con chồn lũi lang thang giống như trăm nghìn con chồn
lũi phất phơ phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ thế thôi" là một câu đầy
nét Bùi Giáng. Bản chính chỉ là "Je ne suis pour toi qu'un renard
semblable à cent millle renards." Bản Anh dịch là, "To you, I am
nothing more than a fox like a hundred thousand other foxes”. Bản Tây Ban
Nha, "No soy para ti más que un zorro semejante a cien mil zorros." Cái
sự vụ "lang thang (...) phất phơ phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ" hoàn
toàn là do Bùi Giáng thêm vào. Nhưng sao nó lại làm cho câu văn phiêu bồng phất
phơ thơ mộng làm vậy! Dịch được một câu như thế có lẽ vì chính Bùi Giáng cũng
đã là một con người "lang thang phất phơ phiêu hốt dưới sương trời lỗ đổ"
suốt cả đời mình.
Câu "Cần phải có
những nghi thức thơ mộng, những điển lễ phôi pha", trong chính bản chỉ là,
"Il faut des rites." Bản tiếng Anh, "One must observe the
proper rites..." Bản Tây Ban Nha, "Los ritos son necesarios."
Câu "Mọi con gà
mái đều giống nhau, và mọi mọi con người đều giống nhau (dù là người phồn hoa rực
rỡ, dù là người phố thị đìu hiu...). Vậy nên ta có u sầu chán ngán đôi
chút", trong chính bản là "Toutes les poules se ressemblent, et
tous les hommes se ressemblent. Je m'ennuie donc un peu." Bản Anh, "All
the chickens are just alike, and all the men are just alike. And, in
consequence, I am a little bored." Bản Tây Ban Nha, "Todas
las gallinas se parecen y todos los hombres se parecen. Me aburro, pues, un
poco." Cái phần thêm thắt vào, "dù là người phồn hoa rực rỡ,
dù là người phố thị đìu hiu", của Bùi Giáng, trong cảm nhận của riêng tôi,
thật là "đã". Nó làm cho con chồn lũi ấy phất phơ phiêu hốt hơn những
con chồn trong chính bản và trong các bản dịch kia nhiều. Nó làm cho cuộc đối
thoại của hoàng tử bé và chú chồn ấy "có da có thịt" thêm. Nó làm cho
những "nhân vật" ấy có cá tính hơn nữa.
Như thế, ta thấy rõ là Bùi
Giáng đã làm đúng với quan niệm dịch văn mà ông đã đề ra, "Dịch văn
biến thành câu chuyện; vừa bay lên, vừa lặn xuống, vừa lẽo đẽo nối liền hai bờ
ngôn ngữ quá xa nhau. (...) Trong bản dịch, có mấy chỗ thêm vài lời, ấy là gắng
đưa ngôn ngữ đơn âm đuổi theo tiết điệu ngôn ngữ đa âm. (...)" Bùi
Giáng, trên một số phương diện, quả đã thành công một cách đáng yêu trong những
bản dịch của mình.
4. Tôi nhớ trong tập Mưa
Nguồn, Bùi Giáng có viết:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên
màu ấy không
Ta đi gửi lại đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương
mù.
Bùi Giáng đã ra đi rồi.
Nhưng vầng trăng ông để lại vẫn mãi còn nguyên một màu sơ thủy. Những lá hoa cồn
hay những dòng chữ mà ông để lại cho đời vẫn thấp thoáng mãi trong những bóng
sương mù của thi ca, của hồn nguyên tiêu ngày cũ. Mãi mãi, chúng sẽ còn để ngân
lại trong lòng những người yêu quý ông những tiếng gọi trở về. Trở về bến sơ đầu
của những cơn mưa nguồn ngày cũ, của những bài ca quần đảo hoang vu, của những
lời cố quận mịt mù gang tấc. Hẳn đã nhiều lần trong cuộc tồn sinh của mình, Bùi
Giáng đã nhận thấy rằng quê hương của ông, cố quận của ông, đã không còn như
xưa. Dù quê hương hay cố quận đó có được hiểu như thế nào đi nữa thì ông cũng
đã "chết nhiều lần trong trận sống", và trong cuộc đời này, hình như
nhiều lúc ông đã lạc mất lối về. Bởi thế, để tìm về đường xưa lối cũ của những
Hồn Nguyên Tiêu (Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài/ Cổng xô còn vọng điệu tài tử
qua / Lỡ từ lạc bước bước ra/ Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn), có lẽ người
thi sĩ ấy chỉ còn có thể tìm về và tìm vào trong những cuộc chiêm bao:
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm
bao.
(Rượu Uống)
Một giấc chiêm bao có mang
mang thật nhiều nắng lạ:
Người nằm ngủ thấy gì
Thấy thật nhiều nắng lạ.
(Mưa Nguồn)
Nắng lạ ấy có lẽ là thứ nắng
đã làm cho "trời xanh đỏ chín" trong rừng sim những ngày chăn bò tuổi
trẻ của Bùi Giáng. Và chắc đó cũng là thứ nắng làm cho ông thấy "Cây
lá bốn bên song song từng lứa/ Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn hàng" khi
ông để cho bò tự do gặm cỏ trong rừng sim, còn mình thì nằm ngó ngất ngây trời
đất, nghe"Mùi thoang thoảng lách lau sương đượm/ Mùi gây gây gấy gấy của
hương rừng/ Mùilên men phủ ngập mông lung/ Không biết nữa mà cần chi biết nữa".
Bùi Giáng đã yêu trần gian,
yêu cuộc sống, yêu cuộc chơi mà ông đã dấn thân vào với tất cả hồn xác, với tất
cả "thân thể máu me và da xương" của mình biết bao:
(...) Xin yêu mãi yêu
và yêu nhau mãi
Trần gian ơi! cánh bướm cánh
chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ
dại
Con vi trùng cùng sâu bọ
cũng yêu luôn
Còn ở lại một ngày còn yêu
mãi
Còn một đêm còn thở với
trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên
không ngại
Níu trời xanh tay với kiễng
chân cao.
Ðọc Bùi Giáng, biết về cuộc
sống của ông sau này, thương yêu và quý mến ông làm có những khi tôi tự hỏi rằng
tuổi thơ của ông đã như thế nào, và ông đã sống tuổi trẻ của mình ra sao. Ông
đã nhìn thấy những gì khi ông vừa biết mở rộng cặp mắt để ngó vào đời. Những viễn
tượng nào trong thuở đầu xanh mà ông nhìn thấy đã đẩy ông vào cuộc lữ:
Cũng vô lý như lần kia dưới
lá
Con chim bay bỏ lại nhánh
khô cành
Ðời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu
xanh
Buổi trưa đi vào giữa lòng
lá nhỏ
Tiếng kêu kia còn một chút
mong manh
Dòng nức nở như tia hồng đốm
đỏ
Lạc trời cao kết tụ bóng
không thành
Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đã xanh như tuổi ngọc
đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày
lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại
cho mình
Ðường vất vả vó ngựa chồn lảo
đảo
Cồn sương đi vào sương lạnh
miên man
Bờ bến cũ ngậm ngùi sông nước
dạo
Ðêm tàn canh khắc vợi nguyệt
gương ngàn
Một lần đứng lên mấy lần ngồi
xuống
Ngón trên tay và tóc xõa
trên đầu
Tình đếm lại muôn vàn thôi
đã uổng
Ðể bây giờ em có biết nơi
đâu
Bờ trùng ngộ một phen nầy
phen nữa
Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng
Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp
úa
Nghe một lần vĩnh viễn gặp
hư không.
(Hư Vô Và Vĩnh Viễn, Mưa Nguồn)
Nguyễn Ðức Quỳnh có lần nói
Bùi Giáng giống như là Lão Tử. Ông không dẫn giải gì thêm. Thật sự, so sánh nào
cũng khập khễnh, nhất là khi ta so sánh những đối tượng sống xa nhau cả trong
thời gian lẫn không gian như thế. Nhưng nếu ta chấp nhận tính tương đối của sự
so sánh, hẳn nhiên nhận xét ấy có những điểm đích đáng của nó. Lão Tử chống lại
và mạt sát lễ. Chương 38 sách Lão Tử (Ðạo Ðức Kinh) chép: "Thất
Đạo nhi hậu Đức, thất Đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi
hậu lễ. Phù lễ giả, trung tín chi bạc nhi loạn chi thủ", có nghĩa là "Ðạo
mất rồi sau mới có Ðức, Ðức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có
nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện sự suy vi của trung tín
(trung hậu, thành tín), là đầu mối của sự hỗn loạn"(11).
Bùi Giáng cũng không
thích lễ nghi phiền toái. Ông rất ghét cái thói "lễ nghĩa" của những
kẻ từ chương, trường ốc mà ông gọi là "bọn trường trại lao xao". Ông
không thích cái giọng mà ông gọi là "bo-bo-lễ-nhượng-hương-nguyện-lưa-thưa"
của họ. Ông cũng rất ghét những màn thủ tục lễ nghi rườm rà. Thậm chí, theo Mai
Thảo, có những lần Bùi Giáng ra đứng tắm ở cái máy nước trước tòa soạn báo Văn cũ
ở đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn, thản nhiên trước bao nhiêu người qua kẻ lại, quần
áo lướt thướt đi qua đường, một đám con nít tròn mắt đi theo. Ông mặc quần áo
thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải trên vai, lại thêm một cây gậy chống
nữa. Ông lang thang đây đó, ngủ bất cứ ở đâu, dưới trời sao, dưới một gầm cầu,
hay dưới một mái hiên. Có những lúc lại thấy ông đeo một xâu chuỗi toàn giày
dép và quần áo phụ nữ quanh cổ. Trẻ con và người lớn đều xem ông là một người
điên. Bùi Giáng điên vì đời. Nhưng, ở một mặt nào đó, ông lại là một người rất
sáng suốt. Lão Tử giấu mình, ẩn danh. Bùi Giáng sống với đời, thiết tha với cuộc
chơi mà ông đã chọn với tất cả "thân thể máu me và da xương" của
mình. Tôi nghĩ, trong nhiều khía cạnh, có lẽ Bùi Giáng giống Trang Tử hơn.
Trang Tử chọn lối sống tiêu dao, lại thích lý luận, tranh cãi hào hứng với mọi
người, đặc biệt với bạn thân là Huệ Tử. Một cá tính nữa của Trang là vui sống,
thiết tha với cuộc sống(12). Tất cả
những điều này ta đều thấy thể hiện nơi con người Bùi Giáng. Ông là con người của
tiêu dao, lang thang phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ, không chấp nhận bất cứ một
hình thức gò bó nào. Và ông chấp nhận trả giá cho cuộc chơi, cho cuộc tồn sinh
của mình.
Nói mà chơi chứ Bùi Giáng chẳng
phải Trang mà cũng chẳng phải Lão. Ông là một con người Việt Nam, yêuTruyện Kiều,
yêu Nguyễn Du, Huy Cận, và yêu luôn ca dao chuồn chuồn châu chấu. Ông yêu ngôn
ngữ quê hương, và ông đã cả đời ăn nằm, chơi nghịch nghiêm trang với nó. Bùi
Giáng là một người đã đi lang thang trong chốn tư tưởng của nhân loại, trong
cõi thi ca của thế giới, nhưng lúc nào ông cũng chỉ muốn cuộn mình "tròn
trịa méo mó" để nằm trong vòng nôi của ngôn ngữ dân tộc. Hôm nay, ông đã bỏ
đi. Bỏ đi để tìm lại một màu hoa cũ. Một màu hoa trên ngàn. Một hồn nguyên
tiêu. Một giấc mộng ban đầu đã bao năm khuất bóng. (Hỏi tên? Rằng biển
xanh dâu / Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa). Xin chúc ông lên đường phơi
phới. Xin chúc ông tìm lại được một bầy nắng lạ. Và nguyên sơ một vầng trăng
cũ. Một vầng trăng châu thổ. Cùng những sắc màu thiên thu cổ độ. Và xin bẻ tặng
ông một nhành mai ngày cũ.
Những nhành mai sớm sương
bên lá
Những nhành liễu chiều gió
bên cây
Cũng lay lắt bởi đời xuân em
ạ
Thế nên chi anh cũng viết
dòng này
Hồng vàng tụ bữa kia em có
thấy
Nước xuôi dòng là cổ độ nhìn
theo
Tuổi mười sáu bây giờ lên gấp
gảy
Mộng miên man là mây phủ
lưng đèo
Buồn phố thị cũng xa bay như
gió
Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng
như hươu
Bờ cõi dựng xuân xanh em còn
đó
Bến đào nguyên anh khoác áo
khinh cừu
Tìm theo dấu chân người xưa
tư lự
Ở bên đường ngóng dõi khánh
vân bay
Mờ con mắt một lần lên tiếng
thử
Em ồ em, anh nói một lời
này.
(Những Nhành Mai,
trích nguyên bài trong Mưa Nguồn)
trích nguyên bài trong Mưa Nguồn)
Bùi Giáng, có lẽ đã đến lúc
ông lên đường trở về Cố Quận. Chúng ta phải chia tay. Lần cuối, xin tiễn ông một
bài thơ cũ. Một bài thơ năm nào. Tôi vẫn tin rằng, một ngày nào đó, một cách
nào đó, ông sẽ trở về. Và, ở đây, tôi xin phép được không nói lời vĩnh biệt.
Người đã bỏ đường kia ở lại
Ðể đi vào đối diện hư không
Bờ thánh thót thu sau về vạn
đại
Lời chào kia nức nở lạnh vân
mồng
Bóng trắng như sương vàng
bay pha hạc
Quanh Trường Thành bờ cõi đất
in rêu
Dòng trở lại ngậm ngùi khe bến
cát
Gió mông lung vì mây nổi
lưng đèo
Xuân đi đến đi về nằm ở giữa
Hẹn một kỳ bấn loạn mấy mùa
đông
Màu tuyết bạch mơ màng trang
lệ ứa
Rớt chung quanh là đú đởn cầu
vồng
Từ vĩnh biệt một lần đi từ
đó
Lòng lây lất bên trời phương
hướng nọ
Mắt ngu ngơ nhìn bọt nước sa
bèo
(Từ Thức, trích nguyên
bài trong tập Lá Hoa Cồn)
Irvine, California, 1998
Irvine, California, 1998
Bùi Vĩnh Phúc: Nhà văn, nhà
nghiên cứu tâm lý, văn chương, sinh năm 1953 tại Hà Nội, lớn lên ở Sài Gòn, hiện
sống tại Hoa Kỳ.
(1) Trong Ngày
Tháng Ngao Du, Bùi Giáng thổ lộ: "(...) Hồi nhỏ, tôi đã được sanh ra
và lớn lên trong miền quê hẻo lánh, xung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp,
những đám cỏ chạy suốt cả tuổi thơ (làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc. Cỏ mọc từ
trong làng ra ngoài ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau,
tôi tìm kiếm mãi một màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn thiêu
nướng khổng lồ...."
(2) Xem
Bùi Vĩnh Phúc, Vấn đề thẩm thức một tác phẩm nghệ thuật, Văn Học số
10 (tháng 11, 1986). Ðăng lại trong Hai mươi năm văn học Việt Nam hải ngoại,
1975-1995 (California: Ðại Nam, 1995) và Lý luận và phê bình/
Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước, 1975-1995 (California: Văn Nghệ,
1996).
(3) Ðọc
sách có nhiều cách đọc, và cách đọc của Bùi Giáng (và ngay cả cách dịch của
ông) mang rất đậm tính phơi phới, phóng khoáng và thơ mộng. Dù là trong thi ca,
trong dịch thuật, hay trong việc phê bình tư tưởng hiện đại, cách làm của Bùi
Giáng mang cái cung cách của một thi sĩ. Với tự do của chính hắn ta. Ðiều đó có
thể rất trái chống với tinh thần làm việc một cách khoa học, phân minh và
nghiêm túc. Nói như vậy để đặt trở lại tất cả tác phẩm của Bùi Giáng trong một
mắt nhìn nào đó mà tôi nghĩ tôi muốn có khi tiếp cận những gì ông viết. Dĩ
nhiên, một con người như Bùi Giáng có thể được tiếp cận từ nhiều giác độ khác
nhau. Và chính những sự khác biệt trong mắt nhìn của người đời ấy tạo nên vóc
dáng của Bùi Giáng.
(4) Trong Martin
Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Ðại II (Saigon: Bờ Cửu Long Nam Việt),
1963. [Ðề tên nhà xuất bản như thế, nhưng tôi nghĩ đây là nhà xuất bản An
Tiêm của thày Thanh Tuệ]. Ở đây, phê bình Sartre, nhưng Bùi Giáng phần nào
vẫn còn lòng quý mến Sartre; bởi thế, ông áp dụng chiến thuật vừa đánh Sartre lại
vừa đỡ đòn cho triết gia này. Tôi nghĩ, dù sao đi nữa, Bùi Giáng vẫn còn lòng
quý mến Sartre, đặc biệt qua vở kịch Les Mouches (Ruồi).
(6) A.
de Saint-Exupéry, Terre des Hommes. Bản dịch Cõi Người Ta của
Bùi Giáng. Sài Gòn: Quế Sơn Võ Tánh, 1960, trang 77-79.
(7) A. de Saint-Exupéry, Terre
des Hommes. Paris: Gallimard, 1963 (trang 71-72) (theo bản in năm 1939)
(8) Ðể thấy rõ phong cách dịch
văn của Bùi Giáng, tác giả bài viết có
trích dẫn phần dịch Anh văn của cùng một đoạn văn trên trong bản dịch Terre
des Hommes của Lewis Galantière dưới tựa đề Wind, Sand and Stars(San
Diego, New York, London: Harcourt Brace Jovanovich, Publishers, 1967); những
người biên soạn tập sách xin lược bỏ đoạn này.
(9) A. de Saint-Exupéry, Le
Petit Prince. Bản dịch Hoàng Tử Bé của Bùi Giáng. Paris, California:
An Tiêm (in lần ba), 1990.
(10) Quyển Le
Petit Prince của Saint-Exupéry đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Bùi Giáng có lẽ rất thích thú khi nó được coi là sách của trẻ con. Tôi nghĩ khi
dịch quyển này, Bùi Giáng cũng có được cái hạnh phúc rất là con trẻ như Saint-
Exupéry khi viết nó vậy. Cuốn sách thật thích hợp với con người Bùi Giáng. Nó
là sách kể chuyện cho trẻ con, nhưng người lớn xem vào lại còn thích thú hơn là
con trẻ nữa. Cái tuyệt vời và đáng yêu của Saint-Exupéry là ở đây. Viết truyện
trẻ con để nêu ra mấy câu hỏi triết lý vừa trầm trọng vừa thơ ngây về con người,
về đời sống chơi! Trẻ con tha hồ đọc mà không hề hấn gì. Người lớn cũng tha hồ
đọc để sung sướng tìm lại một đứa bé con trong tâm hồn mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét