Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

Giữa một vùng non nước phong quang

Giữa một vùng non nước phong quang
Chúng tôi về dự Trại viết Văn học Dân tộc và Miền núi do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Trại dành cho các cây bút thơ, văn, lý luận, phê bình đang sống và làm việc ở Tây Nguyên và một số tỉnh phía Nam.
Nhà sáng tác nằm cạnh hồ Đại Lải, không gian rộng và thoáng, nhìn ra dãy núi nhấp nhô xanh nhạt vốn là nguồn cảm hứng vô tận của thi sỹ Tản Đà - tác giả bài thơ Thề non nước danh tiếng. Trong tiếng Việt ta non nước đồng nghĩa với Tổ quốc. Có lẽ không ở đâu ý nghĩa quen thuộc này lại được cảm nhận một cách cụ thể gần như bằng mọi giác quan như ở đây. Cùng với cảnh quan mở ra tầm nhìn khoáng đạt thì còn có một nguyên do khác nữa nâng cao tầm nghĩ của mỗi người: Ấy là bởi cách đây không xa là khu di tích Đền Hùng. Chúng tôi từ Nam ra, trong bao nỗi khát khao ấp ủ, có nỗi khát khao ấy: Trở về cội nguồn dân tộc Việt. Đứng ở vùng đất cách đây hàng nghìn năm, các vua Hùng từng dốc tâm, dốc trí, dốc sức ra dựng nước, lòng chúng tôi, dù là ai, thuộc dân tộc nào, cũng đều trào lên bao nỗi xúc động lớn lao. Chúng tôi đã đi hàng nghìn bậc đá từ đền Hạ lên đền Trung tới đền Thượng và trở về giếng Ngọc. Soi lòng mình vào từng hiện vật thiêng liêng, chúng tôi như có dịp nhận ra chính bản ngã của mình. Những ấn tượng về thời Hùng Vương chắc sẽ theo chúng tôi đi suốt cuộc đời cầm bút của mỗi người. Và đây chính là nền tảng của mọi sáng tạo văn chương chân chính. Vì, như Phạm Văn Đồng - người bạn lớn của văn nghệ sỹ đã từng nói: Văn học nghệ thuật là dân tộc. Nhà văn bao giờ cũng là con đẻ của một dân tộc. Ai quên điều hiển nhiên ấy liệu có còn xứng đáng với danh hiệu nhà văn hay không?
Những ngày ở Nhà sáng tác, công việc chủ yếu của chúng tôi là ngồi vào bàn sửa chữa, nâng cao những trang viết dang dở hoặc thực hiện những dự đồ sáng tác mới mẻ. Có thể không ngần ngại mà cả quyết rằng: chúng tôi đã sống và sáng tạo hết mình trong những ngày ở Đại Lải. Câu thơ của Lương Định đã nói đúng nỗi lòng của mỗi người chúng tôi: Tim ơi cạn máu vì yêu! Cũng từ ý thơ của một cây bút khác, Inrasara - Phú Trạm, tôi muốn nói thêm: hình như trái tim của chúng tôi như lặng câm suốt nhiều năm tháng, giờ như có dịp lên tiếng, và tiếng nói ấy nếu chăm chú lắng nghe thì không thể nói là không da diết, mạnh mẽ. Sự sống đã được kết tinh vào những trang bản thảo thơ, văn, kịch, tiểu luận, phê bình.
Thu hoạch lớn nhất đối với chúng tôi trong những ngày dự trại chính là ý thức trách nhiệm với vùng đất mà mình từng gắn bó, với dân tộc mà mình đã sinh thành. Mâu thuẫn giữa những gì mình ưa viết với những gì mình cần viết luôn tồn tại trong thực tế. Một cây bút có tinh thần công dân cần giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn này. Ngoài những vấn đề chung thuộc dân tộc và thời đại, mỗi vùng đất lại nảy sinh những vấn đề riêng mà những cây bút gắn bó với nó không được phép tránh né nếu không muốn những trang văn của mình rơi vào sự thờ ơ, lãnh đạm của người đọc. Chúng tôi ý thức sâu sắc rằng, mình không làm sẽ không ai làm thay mình cả. Nền văn học đa dân tộc Việt Nam đang cần những đóng góp mang bản sắc riêng biệt đó. Ai khước từ những đòi hỏi da diết của vùng quê mình, của dân tộc mình, người ấy sẽ không xứng đáng với lòng tin và niềm hy vọng mà bạn đọc gửi gắm nơi người cầm bút.
Thu hoạch về nghề nghiệp đáng nói nhất qua những ngày dự trại lại là ở những trang viết. Chúng tôi có dịp soi vào mình và soi vào nhau để ngẫm nghĩ và cùng nhau ngẫm nghĩ. Mới hay, những gì mình làm được chưa đáng là bao. Số lượng là vậy mà chất lượng cũng là vậy. Văn chương mới nghiệt ngã làm sao! Cần tạo ra những tác phẩm hữu ích mà lại có sức ám ảnh người đọc. Và đó là công việc cực nhọc của cả cuộc đời người cầm bút. Thỏa mãn với mình, dầu chỉ trong khoảnh khắc, là tự hại mình. Bởi vậy, câu nói quen thuộc Thời gian là hữu hạn, nghệ thuật là vô cùng chưa bao giờ được chúng tôi thấm thía như những ngày vừa qua.
Thời gian sống và viết ở Đại Lải, ký ức chúng tôi được nối dài bởi chuyến đi du thuyền trên hồ và du ngoạn trên đảo. Tắm mình trong những làn gió mát rượi từ Tam Đảo thổi tới, đằm mình trong vẻ đẹp nguyên sơ của cỏ cây sông nước, chúng tôi như có dịp thấm thía đến tận cùng câu nói của Chủ tịch Hội đồng dân tộc Quốc hội Y Ngông Niếk đăm trong lần gặp gỡ thân mật với Trại viết: Các nhà văn hãy góp sức mình vào sự nghiệp gìn giữ môi trường thiên nhiên khi chưa quá muộn!
Con thuyền rẽ sóng đưa chúng tôi dạo quanh hồ để trở về với bút viết và bàn làm việc. Sóng vỗ dưới mạn thuyền lao xao. Gió thổi hất tung những mái tóc lộ ra những vầng trán đầy ưu tư. Dãy núi xanh đậm phía trước chập chờn hư ảo. Nghệ sỹ Linh Nga tự nhiên cất lên bài ca quen thuộc của Phan Huỳnh Điểu. Chúng tôi cùng hát theo chị. Tiếng hát hòa vào  mênh mang sông nước.
                        Chỉ còn anh và em
                        Là của mùa thu cũ
                        ...
                        Mùa thu ra biển cả
                        Theo dòng nước mênh mông
Có phải nghệ thuật đích thực là vậy chăng? Đó trước hết là nỗi lòng day dứt của riêng ta. Nhưng cũng như nước của sông hồ, văn chương nghệ thuật chỉ trở thành bất tử khi gặp biển lớn của nhân dân, của thời đại...
Đại Lải, 6/1996
Đâu phải là chuyện ngẫu nhiên
Đầu năm nay, khi đọc Danh sách các nhà văn được nhận Giải thưởng Nhà nước Đợt 2, thấy tên nhà thơ dân tộc Tày quen thuộc Y Phương, tôi đã điện chúc mừng anh. Vậy là lại thêm thành tựu của một nhà thơ dân tộc thiểu số chính thức được thừa nhận. Ai quan tâm tới bộ phận văn chương đặc sắc từng có nhiều cống hiến quý giá cho nền văn chương đa dân tộc Việt Nam mà chẳng vui sướng và tự hào. Tôi chợt nhớ tới bài thơ, ngắn thôi, song lại nhiều ý nghĩa của Y Phương: Ai cũng như con tằm/ nhả tơ cho dân tộc mình/ Tổ quốc Việt Nam vàng ươm. Là người từng gắn bó với nhiều dân tộc anh em trên dải đất thân thương hình chữ S của chúng ta, tôi bao giờ cũng xúc động và trân trọng những ý nghĩ đứng đắn như thế. Mặc dầu, trong lĩnh vực văn chương – nghệ thuật đặc thù này, hầu như ai cũng biết, chỉ riêng tư tưởng cao đẹp thôi là chưa đủ, tôi vẫn cứ muốn nghĩ rằng bệ phóng cho mọi khám phá nghệ thuật trước hết vẫn cứ là tư tưởng. Riêng với Y Phương tôi nhận ra mối quan hệ hài hòa này qua việc xác định những nét riêng biệt trong chức năng văn chương. Xin chỉ giới hạn suy nghĩ của tôi chung quanh điều này.
Bấy lâu, nhất là khi công cuộc Đổi mới được khởi động, ta đã quen với ý nghĩ sau: nếu văn chương chỉ làm cái điều mà các lĩnh vực khác cũng làm, thậm chí làm tốt hơn, thì lẽ tồn tại của nó ở đâu? Vai trò của nhà văn đối với xã hội khi ấy tất sẽ bị đặt câu hỏi hoài nghi. Tôi thấy Y Phương trước sau nhất quán một xác tín nghề nghiệp: Cao hơn cơm là nước/ Cao hơn nước là khí trời/ Cao hơn khí trời là em bồ - câu – lơ – mơ – thơ của ta. Đừng ai nghĩ là anh cao giọng để trấn an mình rồi trấn an người. Ta biết trong thực tế còn  phổ biến những cái nhìn lệch lạc, xem nhẹ văn chương, coi thường nhà văn. Như bất cứ người cầm bút sống chết với nghề nào, anh đau lòng lắm chứ. Trái tim người nghệ sỹ như bao con người khác thôi, đâu phải là gỗ đá. Điều này lý giải nỗi xót xa trong phép đối sánh xưa – nay trong bài thơ chất chứa nhiều tâm trạng có tên là Núi. Đây là xưa, cứ như là xứ thần tiên trong cổ tích: Người trần bán thơ/ Mua bánh trăng/ Bánh trăng nhân trứng chim/ Trứng chim nở ra muôn nghìn bài hát. Mua bán, sinh thành toàn những thứ tưởng như vu vơ: những thơ, những trăng, những bài ca… Người ta làm sao có thể chết vì thiếu chúng. Nhưng giá thiếu vắng những giá trị tinh thần quý giá đó trên đời thì người có đích thị còn là người nữa không nhỉ? Con người vẫn tồn tại, chứ sao nữa, nhưng có thể bảo là sống, nhất là sống theo nghĩa CON NGƯỜI viết hoa được không! Bởi khi ấy, chắc không còn cảnh: Người trần chập vào nhau/ Làm thành núi… Mất đi chất keo gắn kết giữ người với người, xã hội vì thế cũng tan biến theo. Nhà thơ của chúng ta thật tinh tường khi thoáng nghĩ về một nơi nào đó vào thời nay: Người trần xa lánh rồi/ Núi đứng núi ngồi/ Nhớ người trần/ Núi cay xè muối ớt. Người thơ như hóa thành núi kia, ngơ ngơ ngẩn ngẩn.
Bài thơ gợi nhiều nỗi bùi ngùi, nhưng chưa làm người ta e ngại. Bài Chơi râu thì khác, buộc nhiều người phải giật mình: Trời bảo:/ Ứ thèm chơi với ta nữa đâu/ Tùy thôi. / Trời bảo:/ Ta là đồ linh tinh, đồ dở hơi/ Tùy thôi./ Trời không chơi thì ta ngồi ta chơi râu ta. Bài thơ ngắn và gọn như thường bắt gặp trong thơ Y Phương. Đó có thể xem là thế mạnh, tạo nên sự chất chứa nén dồn của thơ anh. Tôi biết anh bao giờ cũng kỹ lưỡng chữa đi chữa lại thơ mình, cả trước và sau khi đã công bố. Có khi hay hơn, có khi lại giảm thú vị đi. Cũng là chuyện thường tình. Ai từng vật lộn với câu chữ trên trang bản thảo thì đều cảm thấy sự thật ấy. Riêng trong trường hợp này, thú thật, tôi thích dị bản khác kia. Nó dài hơn. Có điều xem ra nó có lý hơn: Trời xanh bảo:/ Ứ thèm chơi với ta nữa đâu / Đành thôi./ Trời xanh bảo:/ Ta là đồ linh tinh/ Ta là  đồ dở hơi/ Đành thôi./ Trời xanh không chơi thì ta ngồi ta chơi râu ta. Như bạn đọc đã thấy, Y Phương có sửa, chủ yếu là lược bỏ đi. Trước hết là từ xanh.  Chắc với mong muốn làm cho lời thơ cô đúc hơn và ý thơ mạnh mẽ hơn. Tôi lại nghĩ khác: hình như anh đã đi xa hơn cái mình muốn tỏ bày. Cụm từ trời xanh có lẽ diễn tả chính xác hơn điều bài thơ định nói. Xanh kia thăm thẳm tầng trên…Lại được cả nhịp điệu. Nó không cộc lốc như trời bảo. Cũng nên nhắc lại hai lần ta là. Thêm một lần nhấn nhá là thêm một sự chuẩn bị quyết liệt cho sự bùng nổ ở câu kết. Trong lần xuất bản mới đây Y Phương chỉ thay duy nhất đành thôi bằng tùy thôi. Không rõ vì sao tôi nghe sức nín chịu trong cụm từ đành thôi hơn hẳn tùy thôi. Có lẽ do cách nói sau hướng về phía người đối thoại. Trong khi cách nói đầu thì nghiêng hẳn về phía mình. Nó như dồn nén vào bên trong để có cơ bùng nổ ra bên ngoài. Biểu hiện của sự bùng nổ tưởng khơi khơi ta ngồi ta chơi râu ta mà đáng sợ lắm đấy. Tất nhiên là chỉ với những người am hiểu. Mới hay, dài ngắn trong thơ là so với sự biểu hiện của ý tưởng. Không ai, kể cả người đã cho bài thơ sự sống, có thể lộng hành tới mức muốn làm gì thì làm. Riêng về điều này, là một nhà thơ sành nghề, chắc chắn Y Phương  hiểu rõ hơn tôi.
Cố nhiên, đó chỉ là theo thiển ý của tôi. Có thể hợp, cũng có thể không hợp. Tôi thành tâm nghĩ sao nói vậy. Trường hợp sau đây thì chỉ độc một nỗi thán phục. Ấy là bài thơ Hạt trăng, nói về sự chinh phục tự nhiên của văn chương. Hãy xem, Y Phương sắn tay cày xới: Những hạt trăng vương vãi/ Đang ồn ào đi lại. Và, anh gieo trồng: Có một hạt trăng hồn nhiên/ lăn về ta. Rồi anh thu hoạch: Ta uống em/ Trẻ mãi/ Không già. Mãn nguyện, một cảm giác hoàn toàn mãn nguyện trong tôi. Với tư cách người đọc. Cả với tư cách người làm lý luận. Cứ nghĩ kỹ mà xem, văn chương chân chính mọi thời mọi nước đa dạng là vậy, nhưng nếu từ lẽ tồn tại mang tính nghề nghiệp mà xét thì chỉ có hai loại hình chính yếu thôi: một là, loại văn chương trực tiếp vì con người; và hai là, loại văn chương gián tiếp qua chất nghệ thuật để đạt mục đích cao cả đó. Ấy là tôi chỉ muốn nói tới thứ văn chương tích cực vì xã hội, vì con người thôi. Ngoài nó ra, những thứ văn chương hoặc quá chú tâm vào kỹ thuật, kỹ xảo, hoặc chỉ viết khơi khơi cho vui vui thì tính đến làm gì! Hai loại hình trên, tôi đặc biệt ưa thích loại sau. Chỉ bởi, nó hợp với lẽ tự nhiên của văn chương vốn được xem là thứ nghệ thuật ngôn từ linh diệu vào bậc nhất của xã hội. Tuân Tử xưa từng chê trách Mặc Tử bị cái dụng che lấp mà không biết cái văn vẻ…chỉ là cái đạo của những kẻ phục dịch. Về điểm này, Y Phương viết thật thấm thía. Không ai có thể ép buộc ta đến với văn chương cả. Nó là chuyện đồng điệu, tự nguyện và tự giác. Chỉ có những người lơ ngơ đi trên cỏ,  để tâm hồn thơm như cỏ (Xin hiểu cỏ đây là văn chương) mới có thể trẻ mãi, không già. Khi ấy, nỗi xúc động do cái Đẹp mang lại mới đáng kể: anh nằm đọc sách: nước mắt ứa ra; anh ngồi dậy: nước mắt tràn qua; và khi anh đứng lên: nước mắt òa (Hạt bụi). Chớ bảo những giọt nước mắt nhỏ xuống trước nghệ thuật là yếu mềm. Tôi thèm những nỗi xúc động như thế. Mỗi lần được vậy, nói theo Aristote,  tâm hồn ta thêm một lần được thanh lọc hóa, con người sẽ giàu chất người hơn. Sự trẻ trung do nghệ thuật đích thực đem lại mang ý nghĩa ấy: Mùa xuân năm ngoái/ Tôi soi gương/ Giật mình/ Quái! Lão già nào mặc bộ complê của mình thế nhỉ?/... Mùa xuân năm nay/ Tôi soi gương/ Chà chà!/ Chàng trai nào mặc bộ complê của mình đây? Câu kết đến như một sự tất yếu, không hề đường đột: Cảm ơn mùa xuân.
Tôi cứ muốn nghĩ mùa xuân đây là thơ của chính anh đó! Thi ca làm cho anh, cho ta trẻ mãi – cố nhiên là sự trẻ trung của tâm hồn. Cái quý nhất của thi ca, của văn chương, nghệ thuật là ở chỗ đó chăng? Khi được thế, thì: Ước một đời trẻ lại khó gì đâu. Bởi, con người đã có được tâm thế không dễ có: Ấy là khi anh cười rung rung chòm râu. Rất hợp với lời của một bài hát quen thuộc. Văn chương đem lại cho ta nỗi mênh mông, dâng hiến cho ta niềm hân hoan – chẳng một ai chết vì thiếu những thứ đó, chỉ có nghèo nàn, khô héo đi về tâm hồn. Tâm đắc nhất là sự gợi mở này: sống cùng với văn chương để rồi chỉ còn lại mình ta với nỗi nồng nàn muôn thuở. Ý nghĩa đích thực của văn chương rốt cuộc có lẽ là vậy, biến tài sản tinh thần của người viết gửi gắm qua tác phẩm thành nỗi riêng tây có sức lay động tâm trí mỗi người.
Tôi tâm đắc khi chia sẻ những suy nghĩ bằng thơ về sứ mệnh thi ca, sứ mệnh văn chương của Y Phương. Có thể qua đây mà lần tìm những nguyên cớ sâu xa làm nên những thành công của thơ anh, rộng ra là thành đạt của đời anh. Tôi muốn nói, nhân nào quả ấy, chẳng có gì là quá ngẫu nhiên trên đời này cả!
Xin được chúc mừng Y Phương!.
Đà Lạt, 8/2007
Phạm Quang Trung
Theo http://www.pqtrung.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...