Hai sắc thái tình yêu qua
hai tình khúc
Nguyễn Đình Toàn và Trịnh Công Sơn
Sống cùng thời với nhạc sĩ
họ Trịnh, Nguyễn Đình Toàn là một trong những khuôn mặt nổi bật của giới trí
thức văn nghệ sĩ Miền Nam trước 1975.
Ông được biết đến không hẳn
vì có tác phẩm Áo Mơ Phai đã từng đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc bộ
môn truyện năm 1973. Cũng không phải vì những câu thơ êm ái, thanh bình, được
tác giả viết ra từ khi còn rất trẻ:
Khi em về trời xanh và gió
mát
Con đường mòn thơm lá mục quê hương
Vườn cải ngồng dỗ ong bướm về sân
Anh nằm đấy buổi trưa và tiếng nắng...( Khi em về)
Nguyễn Đình Toàn nổi tiếng
phần lớn có lẽ nhờ qua Đài Phát Thanh Sài Gòn: chương trình Nhạc Chủ Đề
do ông thực hiện, được truyền đi mỗi tối thứ năm trong thập niên 60, đã chinh
phục hầu hết trái tim thính giả, từ hậu phương đến tiền tuyến, bằng một cách
hành văn riêng lạ, một giọng đọc tâm sự thầm thì, thanh tao, huyền thoại 1.
Bởi Nguyễn Đình Toàn trước
tiên là nhà thơ, là trực giác, là tình yêu. Có thể nói ông đã khẳng định chỗ
đứng của mình ngay từ khi tác phẩm Tình Khúc Thứ Nhất2, nhạc của Vũ Thành An,
ra đời. Nó tiếp cận tình yêu dưới góc độ duy mỹ mới mẻ, bằng những hình ảnh
và ngôn ngữ thoạt trông có vẻ như sáo mòn nhưng kỳ thật mang nhiều cách tân
hiện đại. Nó đánh dấu một thời kỳ, thâm nhập tâm thức một thế hệ bị rẻ rúng
phụ bạc: càng hoang mang thất vọng trước thực tại, càng khát khao mơ ước những
sắc màu vĩnh cửu.
Vì vậy, nếu Trịnh Công Sơn
- mà ta sẽ trở lại qua bài Tình Nhớ- ca ngợi tình yêu trong mối tương
quan tại thế (immanence) với đầy đủ những mâu thuẫn, dằng co cố hữu,
thì họ Nguyễn lại tẩm liệm tình yêu trong đắng cay, chua xót, để rồi- như một
phản xạ tự giải cứu – tìm ra cho mình liều thuốc qua giấc mơ Tuyệt Đối, bằng
lối thoát siêu nghiệm 3 (transcendance).
Tình yêu như một sự ngụy tạo
hạnh phúc
Mở đầu bài hát, Nguyễn
Đình Toàn tuyên bố:
Tình vui, theo gió mây
trôi, ý sầu mưa xuống đời
Lệ rơi, lấp mấy tuổi tôi, mấy tuổi xa người
Tình vui thật
sao? Nếu có, chỉ là vui gượng gạo để tự dối mình, trong mưa sầu, lệ đắng.
Ở phần lời hai, tác giả có xác định rõ hơn:
Tình vui trong phút giây
thôi, ý sầu nuôi suốt đời
Ngày em đăng quang, giữa
giờ phút tuyệt vời, thì cũng là lúc tôi chỉ thấy son vàng rệu rã, phải trốn
mình trong lớp khói hương để mong tìm ra một ảo giác nào đó, để cầu xin chút
ân huệ gặp gỡ sau cùng:
Ngày thần tiên em bước lên
ngôi, đã nghe son vàng tả tơi
Trầm mình trong hương đốt hơi bay, mong tìm ra phút sum vầy
Phảng phất một cái gì linh
diệu, kỳ bí, xa xôi mà quen thuộc như không khí cúng bái đâu đây, pha lẫn với
đôi chút siêu thực. Trước Nguyễn Đình Toàn, hình như chưa có ai nói thế. Câu
tiếp theo xé toạc cái vỏ kén tự kỷ chủ quan, làm nổ tung một sự thật phũ
phàng:
Có biết đâu niềm vui đã nằm
trong thiên tai
Nói về tình yêu- mà không
chỉ riêng tình yêu-, có lẽ chưa tác giả nào đã xuất thần với một cụm từ sắc gọn
như thế, chạm sát với số phận con người và – trong một chừng mực nào đó- với
cả vận mệnh quê hương: sự ngỡ ngàng bất lực trước đại nạn.
Rồi tác giả tiếp tục triển
khai bức tranh bằng những hình ảnh đè nặng, u ám:
Những cánh dơi lẻ loi mù
trong bóng đêm dài
Dơi rất hiếm khi xuất hiện
trong văn học. Nguyễn Đình Toàn gọi đến nó là để báo hiệu một không gian bao
trùm bất hạnh, một kết luận chua chát, ê chề:
Lời nào em không nói em
ơi, tình nào không gian dối
Thế nhưng tác giả cũng tìm
được cách tự trấn tĩnh, trở về với kỷ niệm - trên thực tế đã hóa thành ý niệm-,
để chiêm ngưỡng săm soi như những chuẩn mực rút ra từ trải nghiệm, dù vẫn
chưa hết cơn hờn trách:
Xin yêu nhau như thời gian
làm giông bão mê say
Lá thốt lên lời cây, gió lú đưa đường mây
Có yêu xin những ngày thơ ngây
Lúc mắt chưa nhạt phai
Lúc tóc chưa đổi thay
Lúc môi chưa biết dối cho lời
Du Tử Lê 4, trong một bài
viết về văn chương Nguyễn Đình Toàn cho rằng: «… Ở thời điểm cuối
thập niên (19)50, đầu thập niên (19)60, thì đó là cách nói cực kỳ mới mẻ.
Người ta không thể tìm thấy ý niệm “niềm vui trong thiên tai,” “yêu nhau như
thời gian làm giông bão,” […] trong bất cứ một ca từ nào của nền tân nhạc Việt
Nam, kể từ tiền chiến».
Nguyễn Đình Toàn (Ảnh:
Uyên Nguyên 5)
Không chỉ thế, điều đáng
chú ý ở đây là nỗ lực vượt thoát của họ Nguyễn vào thời điểm đó.
Tác giả dành cả phần lời
hai của tình khúc cho những dự phóng tương lai, không chút hoài nghi do dự.
Bởi nghịch cảnh là sự thử thách độ bền của con tim cho nên, dẫu không có gì
bù đắp lại, tôi vẫn mơ em, mơ một ngày mai yên ấm, vẫn trung thành với ký ức
và tình yêu:
[…] Thì xin giữ lấy niềm
tin, dẫu mộng không đền
Dù Trời đem cay đắng gieo thêm cũng xin đón chờ bình yên
Vì còn đây câu nói yêu em, âm thầm soi lối vui tìm đến.
Thật hồn nhiên và cao thượng! Nhưng tất cả chỉ đơn phương, mộng tưởng, không gì bảo đảm là khả thi hoặc
có thật.
Và Nguyễn Đình Toàn tiếp tục
vượt xa thêm nữa trong phần lời ba của bài, bằng sự kết nối vừa nên thơ vừa
bác học với thần thoại:
Thần tiên gãy cánh đêm
xuân, bước lạc sa xuống trần
Thành tình nhân đứng giữa trời không khóc mộng thiên đường
Ngày về quê xa lắc lê thê trót nghe theo lời u mê
Làm tình yêu nuôi cánh bay đi
Nhưng còn dăm phút vui trần thế
Trong văn chương Việt Nam,
ít khi có được một kịch bản như thế. Để khép lại tình khúc, họ Nguyễn thể
nghiệm một lối mở thênh thang, đa tầng, với một tham vọng nghệ thuật đáng
quý: đặt song song huyền thoại với hiện thực; vừa mượn những hình tượng siêu
nhiên của điển tích và triết học cổ đại để thăng hoa, vừa thể hiện độ lùi sám
hối, phản tỉnh của chính bản thân trước cuộc đời, một cuộc đời lắm trắc trở bất
an, mà sự chấp nhận hiện hữu cũng đồng nghĩa với lòng bao dung và ý muốn hòa
hợp cùng người.
Vấn đề là nó có thuyết phục
không, ít nhất là đến đây. Chẳng hạn: nếu Tình Yêu đã thoát xác bay đi, thì
“dăm phút vui trần thế” còn lại là cho nỗi vui nào?
Adam và Eve bị đuổi khỏi Địa Đàng,
một phần bích họa Masaccio (1401~1428) 7
Dẫu sao, không thể phủ nhận rằng ở Tình Khúc Thứ Nhất lấp lánh một vẻ đẹp
lãng mạn, một sự trong sáng trong cách xử lý, ít có so với các tác phẩm thời
đó. Nguyễn Đình Toàn ở đây là một chàng trai say đắm, độ lượng, đầy thiện
chí, sẵn sàng quên đi những lầm lỗi của người yêu. Rõ ràng khi ấy, ông chưa
phải là “Nguyễn Đình Toàn, nhà văn buồn bã và bệnh hoạn” như cách nói ấn tượng
của Tạ Tỵ khi đánh giá văn nghiệp họ Nguyễn8, mặc dù những phê bình của nhà họa
sĩ nổi tiếng - dựa trên các truyện và tiểu thuyết xuất bản - không phải là
hoàn toàn xa lạ đối với nội dung bài hát:
«Tình yêu trong tác
phẩm của Nguyễn Đình Toàn không bao giờ nguyên vẹn. Nó đứng chênh vênh trên bờ
vực hay trơ vơ phơ phất trong từng ý nghĩ mong manh. Nó cuồng nộ một cách giả
tạo. Nó vượt quá xa mức độ một cách giả tạo. Nó vượt quá xa mức độ thực của
nó. Nó chỉ được phác hoạ mà không bao giờ cụ-thể-hoá được giữa cuộc đời. Những
ý nghĩ táo bạo […] cũng chỉ để nói với mình, để lừa dối mình, để chiến thắng
mặc cảm, thứ mặc cảm bất lực về thể chất vũ bão ở nội tâm».
Tình khúc của Nguyễn Đình
Toàn là bóng dáng “lẻ loi mù trong bóng đêm dài” giữa cuộc hành hương tìm về
miền diễm phúc ban đầu. Vì thế, nó phải được ngụy trang với tất cả
sự cẩn trọng và niềm tin, để tránh thoát những mũi đâm nghiệt ngã của phẫn hận,
oán trách, chua cay.
Trong cùng những năm tháng
đó, cũng “chênh vênh trên bờ vực”, cũng miệt mài da diết với tình yêu, Trịnh
Công Sơn lại khác hẳn: tình ca của ông không hề bị vẩn đục bởi bất cứ sự giả
trá, hờn ghen, căm ghét nào - từ cả hai phía- dù vẫn “lên đầy” những cơn đau.
Tình yêu của họ Trịnh - đặc biệt trong Tình Nhớ - không lao đao giữa mịt mùng
độc đạo mà dạt dào triền miên như muôn ngàn đợt sóng, quấn quyện ước mơ và
hơi thở cuộc đời, ôm trọn cả quá khứ và tương lai, chu du qua những bến bờ vô
định, nhởn nhơ như những luyến láy nội tâm giữa nốt sáng tư duy và dấu trầm
vô thức. Rồi cuối cùng xoắn xuýt phủ-định-xóa-nhòa nhau, thanh thoát tan hòa
giữa bao la tạo vật…
Tình yêu như một sự phủ định
của phủ định
Tình Nhớ là một chuỗi những
lời tự thú của trái tim chủ thể bị đắm chìm trong nghịch lý tình yêu. Nó bắt
đầu bằng ý chí muốn chối từ quá khứ yêu đương, nhưng rồi lại bị thực
tế nhanh chóng phủ nhận ngay bởi rõ ràng là lòng lại dối lòng, chỉ gắng gượng
tỏ vẻ làm ngơ:
Tình ngỡ đã quên đi như
lòng cố lạnh lùng
Phủ định tiếp theo thuộc không
gian tâm lý, trên khoảng cách chia xa với người yêu cũ. Một khoảng cách bỗng
chốc bị khỏa lấp bởi tầm vóc vời vợi, nguy nga của kỷ niệm bất chợt tràn về:
Người ngỡ đã xa xăm bỗng νề
quá thênh thang
Mặt trời lặn trên hồ
(1840) của
Joseph Mallord William Turner (1775-1851) 9
Một bức tranh no gió, phần
phật căng tròn dáng dấp người xưa: ngự trị cả bầu trời, chiếm lĩnh cả hoàng
hôn, mênh mông và tráng lệ như trong một tuyệt phẩm của Turner. Nó rộn ràng,
năng động như lực đẩy của con tim về phía những chân trời hạnh phúc. Nó án ngữ
phiền muộn, xua tan cái u hoài của một ngày lịm tắt, theo chu kỳ nhịp sống của
đất trời quê hương:
Lại một phủ định tích cực,
mời gọi niềm vui. Cái đặc sắc và bí quyết của Trịnh có lẽ là ở đó: qua sợi chỉ
đỏ của nội hàm vô ngã, đạt tới sự sâu lắng nghệ thuật từ những xao động muôn
vẻ trên bề mặt cuộc đời. Ngay trong tình yêu, bằng đôi nét chấm phá, ông cũng
gợi ra được mối quan hệ tự nhiên - như cánh cửa thân thiết rộng mở - giữa con
người với tạo vật, giữa nội tâm với ngoại giới, giữa vấn nạn phù du cá thể với
lời giải vạn năng bàng bạc trong gió nội mây ngàn.
Đoạn hai bài hát lập lại
mô-típ chính về ám ảnh tình yêu, một tình yêu càng lúc càng được khẳng định
qua những lời đính chính nồng nàn:
Tình ngỡ đã ρhôi ρha
nhưng tình νẫn còn đầу
Người ngỡ đã đi xa nhưng người νẫn quanh đâу
Vẫn những câu chữ đơn giản
ai cũng hiểu được, ít cách điệu hơn so với nhiều tác phẩm khác, đó là điều dễ
thấy ở Tình Nhớ. Nhưng hình ảnh hiện ra lúc này không còn phải là tà áo tung
bay theo ngọn gió xa, mà là đôi gót sen dịu dàng gợi cảm, thật gần, thật quen
thuộc, đến độ như từ lâu đã nhập làm một với mình:
Những bước chân mềm mại đã
đi νào đời người
Như từng νiên đá cuội rớt νào lòng biển khơi
«Bước chân mềm mại đã đi νào đời người» ngọt ngào như thế, nhưng
đối với Trịnh Công Sơn nó cũng chỉ nằm trong mối tương quan bất tuyệt của
«νiên đá cuội rớt νào lòng biển khơi»: một so sánh hiếm thấy, mang âm
hao thiền tính và hòa điệu nhẹ nhàng tự nhiên với nhân sinh quan của tác giả.
Có điều, nói thì vậy,
nhưng đã là người ai cũng có lúc bị trượt ra ngoài lằn biên an toàn của lý luận,
suy tưởng: khi ấy, chỉ còn chứng thực cơn đau. Đau vật vã, đau trong hy vọng
dù rất mong manh, đau trong mâu thuẫn bởi tình vẫn dâng cao dù chẳng hề được
nhận đáp:
Khi cơn đɑu chưɑ dài thì
tình như chút nắng
Khi cơn đɑu lên đầу thì tình đã mênh mông
Một người νề đỉnh cɑo,
một người νề νực sâu
Để cuộc tình chìm mɑu như bóng chim cuối đèo
Hình như chưa bao giờ, nói về cuộc tình, Trịnh Công Sơn lại để lộ những nét
bi thiết như vậy. Nhưng có lẽ chỉ nhằm đúng một lúc nào đó thôi. Bởi vì ngay
trong đoạn ba liền sau, vẫn dưới dạng cặp đôi phủ định, tác giả lại đưa ra những
phát hiện mới, hoàn toàn trái ngược:
Ƭình ngỡ chết trong nhɑu
nhưng tình νẫn rộn ràng
Người ngỡ đã quên lâu nhưng người νẫn bâng ƙhuâng
Thì ra không chỉ riêng
mình, mà người cũng còn nặng lắm vấn vương! Đến đây, bài hát
bắt đầu để soi cận cảnh những cử chỉ e ấp, ngập ngừng, nhưng không chút mơ hồ
về chủ ý. Những thu nhận thị giác từ xa trong suốt phần đầu tác phẩm bỗng
dưng tan biến, nhường chỗ cho một cảm thái râm ran gần như thuộc về xúc
giác:
Ŋhững ngón tɑу ngại
ngùng đã ru lại tình gần
Như ngoài ƙhơi gió động hết cuộc đời lênh đênh
Trước đây, Huy Cận đã từng mượn từ «ru» để diễn đạt động tác dỗ
dành người thương vào giấc ngủ:
Ru em sẵn tiếng thùy dương
mấy bờ (Ngậm Ngùi)
Nhưng có lẽ Trịnh Công Sơn
là người đầu tiên nói «ru tình» và đã dùng nhiều nhất đến tiếng
«ru» trong tình ca. «Ru lại tình gần» là sự
kiện báo hiệu hồi mở gút đầy hân hoan của Tình Nhớ, bởi vì:
Người ngỡ đã xɑ xưɑ nhưng
người bỗng lại νề
Ƭình ngỡ sóng xɑ đưɑ nhưng còn quá bɑo lɑ
Ôi trái tim ρhiền muộn đã νui lại một giờ
Nguyễn Đình Toàn không có
cái may mắn đó. Cao lắm, ông cũng chỉ tự nói « vui trong phút giây thôi».
Làm gì có chuyện đôi bên «ru lại» tình xưa, lại càng không có cảnh
«vui lại một giờ» như họ Trịnh! Nhìn xa hơn, cách tiếp cận
của Trịnh không phải là đặt song song hiện thực với huyền thoại như Nguyễn,
mà là khai lối cho hiện thực lên đường, rời bỏ khung hẹp của bản thân để nhập
vào hiện thực bát ngát của Vô Cùng:
Đỉnh điểm tối hậu của Tình
Nhớ là đây, là sự hóa giải mọi suy tính, nỗi niềm, qua hình ảnh dung dị, bình
thường- nhưng có sức san bằng vô tận- của bờ nước xa chìm lẫn dưới cơn mưa:
chìa khóa vào cửa Không cho mọi tồn tại, kể cả tình yêu.
Tình Nhớ là một sắp đặt những bức tranh mặn nồng cái khả sắc (le sensible) và
bay bổng cái khả tri (l’intelligible). Mỗi cuối đoạn trong bài đều ánh lên-
như được chiếu qua một tấm gương kỳ ảo- những hình ảnh đặc thù của tạo vật,
đáp lại với từng trang tự sự của cuộc tình : tính đối xứng giữa
tâm tư và ngoại cảnh, giữa cái riêng và cái chung, mỗi lúc đều được thể hiện
thật nhịp nhàng. Hãy thử nhẩm lại đôi câu :
...Ôi áo xưa lồng lộng đã
xô dạt trời chiều/ Như từng con nước ròng xóa một ngàу đìu hiu
... Những bước chân mềm
mại đã đi νào đời người/ Như từng νiên đá cuội rớt νào lòng biển
khơi
Tình Nhớ là một chuyện
tình phi nhân vật. Người yêu của Trịnh được khắc họa qua tà áo, bước chân
hay- gần hơn nữa- những ngón tay ru tình. Nhưng ta tuyệt đối sẽ không biết gì
về khuôn mặt giai nhân : không có vầng trán sáng rỡ trưa xứ Đoài, hay
đôi mắt dịu buồn chiều Tây Phương, như trong chuỵện tình của một Quang Dũng.
Điều đó tất phải do có dụng tâm, bởi cảnh quan Tình Nhớ cũng không chứa một
nhân tố khách quan nào cho khả năng bị « sương khói mờ nhân ảnh
» như trong chuyện tình của một Hàn Mạc Tử ! Phải chăng Trịnh Công Sơn yêu
cái đẹp hơn là người đẹp, hay- nói đúng hơn- không muốn dừng ở riêng một người
đẹp nào? Và nhất là, vượt lên trên cả cái đẹp, phải chăng - từ đáy lòng
một nghệ sĩ sáng tạo- Trịnh Công Sơn bị cuốn hút bởi cái lẽ không cùng của tạo
vật?
Về phần Nguyễn Đình Toàn
thì đã hơn một lần bị cuốn hút bởi nhạc Trịnh: suốt bao năm tháng trước
75, ông đã từng say sưa giới thiệu những ca khúc lần lượt ra mắt công chúng
qua làn sóng điện và nhất là phần lời thoại trong các cuốn băng từ nguyên thủy
của Trịnh; sau này ở Mỹ, ông còn hát tới những 11 bài Trịnh Công Sơn trong một
CD 11 nhằm vinh danh tác giả. Còn gì cho thấy rõ hơn lòng ngưỡng mộ
của Nguyễn đối với Trịnh và sự đồng cảm sâu sắc giữa hai tâm hồn ?
Sự gặp gỡ đó còn được nối
dài trong sáng tác : mỹ học của Nguyễn Đình Toàn, cũng giống như Trịnh
Công Sơn, là mỹ học của chiêm nghiệm. Nhưng nếu Tình Nhớ là khúc hoan ca của
thời khắc tình yêu được tìm lại, thì Tình Khúc Thứ Nhất chỉ là lời nhắn nhủ
chia tay còn đầy vương vấn với một cuộc tình không hạnh phúc.
Nguyễn Đình Toàn có lần
nói rằng những bản nhạc mà ông tâm đắc nhất không phải là những bài hát
khởi nguồn từ biến cố lịch sử, cho dù nó được nổi danh, mà là những bản tình
ca 12. Đó có lẽ là lời tỏ tình cao quý nhất dâng cho Tình Yêu.
Vì Tình Yêu- dẫu vơi, đầy,
sống, chết - là vĩnh cửu.
Vì chỉ có Tình Yêu mới hà
hơi cho «từng viên đá cuội», mới xô dạt bóng cô đơn, nâng
niu che đỡ phận người: trước thiên tai giông bão cuộc đời, có bước
chân nào lại ngại ngần không tìm lối Thiên Thai?
1/ Đào Trường
Phúc, Tình Ca Việt Nam Một Thời Hạnh Phúc - Nhạc Chủ Đề Trên Làn
Sóng Điện,
Phan Xuân Sinh, Nguyễn Đình Toàn, một nhân dáng lớn của sinh hoạt văn nghệ
Sài Gòn.
2/ Mời nghe Lệ
Thu
3/ Về siêu nghiêm trong
nghệ thuật, mời xem thêm ở:
http://www.vanchuongviet.org/
4/ Du Tử Lê, Ưu điểm nào thấy được trong văn chương Nguyễn Đình Toàn? (Phần
2),
5/ Uyên Nguyên (18/11/2011), Dòng thơ, nhạc Nguyễn Đình Toàn: Câu Kinh Sử Cho Tuổi Trẻ Việt
Nam,
6/ http://fr.wikipedia.org/wiki/
7/ http://fr.wikipedia.org/
8/ Tạ Tỵ, Nguyễn Đình Toàn và nỗi buồn trước mặt
9/ http://claudialucia-malibrairie.blogspot.fr/
10/ Hầu hết các phiên
bản lưu hành hiện nay đều viết “như từng cơn nước rộng”, nhưng
theo thiển ý thì đã có sự sai lầm trong các bản in sau 1975, bởi vì:
a/bản thân người viết bài này đã nghe hát trong những năm 1960 “ như từng con nước ròng” (và đó cũng là câu được viết ra, may thay, trong một bài nghiêm túc được đăng lại trên mạng: Thái Công Tụng, Biển và con người); b/ tiếng Việt không nói “cơn nước” (khác với cơn gió, cơn mưa…), cũng không nói “nước rộng” (mà biển rộng, đồng rộng…)
11/ http://www.khampha.vn/
12/ Theo Nguyễn
Mạnh Trinh, Nguyễn Đình Toàn: Viết nhạc như một thi sĩ,
Nguồn: Bản gửi của tác giả.
|
Bùi
Đức Hào
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét