Bùi Giáng, giải minh người
minh giải
Con người, sống trên đời,
như một thi sĩ
Hoelderlin
BÙI VĂN NAM SƠN, nhà triết học
và là một bà con của nhà thơ Bùi Giáng, có lần, thổ lộ: “Viết đôi lời hay nhiều
lời về Bùi Giáng không bằng đọc Bùi Giáng.
Đọc Bùi Giáng không bằng
giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng sống như Bùi Giáng. Mà
sống như Bùi Giáng thì thật vui mà thật khó” (1). Khó vì muốn sống được như ông,
muốn giao du được với ông, muốn đọc được ông để, cuối cùng, viết được về ông,
dù chỉ một đôi lời, thì phải minh định được ông, tức trả lời câu hỏi: Bùi
Giáng, ông là ai?
Những người cùng thời với
Bùi Giáng, có người từng sống cùng/như Bùi Giáng, đã từng giao du với ông, được
đọc nóng thơ văn ông, thì định danh ông, mỗi người mỗi kiểu, như Bùi
Giáng, kẻ tận hiến (Huy Tưởng), Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khốn (Thanh
Tâm Tuyền), Bùi Giáng, nhà thơ của những ngày tháng ngao du (Cung
Tích Biền), Bùi Giáng, một vùng đất hẹp và một thế giới lớn (Nguyễn
Hoàng Văn), Bùi Giáng, người thi sĩ chối bỏ thi ca (Tạ Tỵ),Bùi Giáng,
người lữ hành cuồng điên và khôn cùng kỷ niệm (Văn Huyền Nguyên), Bùi
Giáng, rong chơi giữ đìu hiu phố thị (Vũ Đức Sao Biển) (2)…
Có lẽ, không hẳn chỉ có bạn
bè Bùi Giáng băn khoăn tìm cách trả lời câu hỏi bản thể luận trên, mà ngay cả
Bùi Giáng cũng luôn tìm cách tự minh định mình(3). Không phải trong trạng thái
của một người điên hoặc người say, mà trong tâm trạng hoài nghi
triết học của một nhà thơ.
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu
đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là
nghi tâm
(“Tặng Mã Giám Sinh”)
Biển xanh trước đây đã xanh
dâu ngày nay. Tên nhà thơ, bởi thế, là chỉ sự biến dịch. Nơi nhà thơ sinh
ra, quê hương đích thực của ông, chỉ là một giấc mộng, giấc mộng đầu tiên, xa
xưa của nhân loại. Một nhân loại cũng luôn luôn biến đổi: nhất (một) sinh nhị,
nhị (hai) sinh tam, tam (ba) sinh vạn vật. Biến đổi đến mức xa rời nhất nguyên.
Cho nên càng cố tình tra hỏi, càng đo (so đo, tính toán)thì lại càng
lộ ra cái nghi tâm (tâm sai biệt, khác với bình thường tâm). Bởi thế,
chỉ cần đếm sự vật tự nhiên nhi nhiên, thì chạm tới cái diệu tưởng.
Với đôi dòng “lý lịch trích ngang” này, Bùi Giáng không chỉ “giễu nhại” Nguyễn
Du (hoặc đùa cho bớt vẻ nghiêm trọng), mà chủ tâm muốn lưu ý người đọc đến bản
chất con người ông, một người hoang sơ mà hiện đại, điên mà tỉnh, ngây thơ mà
thấu thị.
1. Bùi Giáng, từ ngôn ngữ -
ký hiệu đến ngôn ngữ - sự vật
Ngôn ngữ của nhân loại từ khởi
thủy đã gắn liền với sự vật, thậm chí là bản thân sự vật. Ở giai đoạn tư duy ma
thuật này, tên gọi của một sự vật hoặc của một con người chính là sự
vật đó hoặc con người đó. Vì thế mới có ma thuật ngôn từ, như bùa, chú, nguyền,
rủa… Đến thời tư duy khoa học, mà nếu theo Heidegger thì đã có lịch sử tới hơn
2000 năm, kể từ khi các triết gia Hy Lạp hậu Socrates cắt nghĩa sai lầm cái Logos là Lý
trí, trong khi phải hiểu đúng là Lời/ngôn ngữ. Thế cho nên, đến thế kỷ
XIX, khi cái Logos/Lý trí tôn sùng khoa học được đẩy lên kịch điểm, thì ngôn ngữ
càng tách khỏi sự vật, trở thành công cụ phản ánh sự vật. Chủ nghĩa hiện thực
ra đời dựa trên cái nhìn thế giới ấy của cơ học cổ điển Newton, tin vào sự tồn
tại của một thực tại khách quan, độc lập với ý thức người. Từ thế kỷ XX, với sự
xuất hiện thuyết tương đối của Einstein và cơ học lượng tử của Bohr và
Heisenberg, đã dẫn đến sự khủng hoảng thực tại và, như một hệ quả,
của sự biểu đạt thực tại ấy. Người ta bắt đầu nhấn mạnh đến bản
chất ký hiệu của ngôn ngữ. Ngôn ngữ, từ đây, có tính tự trị, phần nào độc
lập với sự vật. Dần dà, ngôn ngữ còn quy định cả cái nhìn thực tại của con người.
Để, cuối cùng, trở thành vật thế vì cho thực tại. Một quan niệm về
ngôn ngữ như vậy đặc biệt ảnh hưởng đến thơ. Bởi lẽ, từ đây ngôn ngữ thơ chỉ sống
cái đời sống ký hiệucủa nó, mà quên mất rằng trước đây nó đã từng có một
cuộc sống khác, quan trọng hơn, là hình dung sự vật. Thơ không nói ý niệm,
ý tưởng về sự vật, mà trình bày trực tiếp sự vật(4). Một cuộc triển
lãm tưng bừng sự vật.
Năm 1945, Bùi Giáng đỗ thành
chung ở vùng kháng chiến thuộc Liên khu V (Nam, Ngãi, Bình, Phú). Sau đó, hình
như ông có đi bộ đội, rồi về lập gia đình và vào núi chăn dê/bò cho đến 1948.
Năm 1950, đỗ tú tài 2 văn chương, ông liền ra Liên khu IV (Thanh, Nghệ, Tĩnh,
Bình) định học đại học kháng chiến. Nhưng đến khi nghe (hoặc được nghe lại) ông
Viện trưởng đọc bài diễn văn khai mạc, Bùi Giáng bỏ ý định theo học và theo đường
Trường Sơn lần về quê quán(5). Rồi vào Sài Gòn, làm thơ, viết sách và dạy học.
Bài diễn văn ấy hẳn phải gây
cho Bùi Giáng một cú sốc mạnh, hoặc dội một gáo nước làm tràn vại. Vốn đã từng
nguyện làm một người chăn bò, một Tô Vũ chăn dê, giữa vùng rừng núi hoang sơ
tây Quảng Nam, tránh giao tiếp với con người, quanh năm suốt tháng chỉ trò chuyện
với cỏ cây hoặc chuồn chuồn châu chấu, Bùi Giáng đã sớm thức nhận được sự phân
ly giữa từ và vật, giữa ngôn ngữ và thế giới. Mà
trước hết là sự phân ly ở nội bộ ngôn ngữ: giữa một bên là diễn ngôn khoa
học luôn cởi mở, đón chờ đối thoại và bên kia là diễn ngôn truyện kể (tự
sự) khép kín và độc thoại.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa với tư cách là chủ nghĩa hiện đại âm bản, vừa tương đồng vừa đối
lập với chủ nghĩa hiện đại hậu kỳ phương Tây dương bản, nhanh chóng thúc đẩy
diễn ngôn truyện kể bành trướng, lấn át diễn ngôn khoa học, để trở thành một siêu/đại
tự sự. Ngôn ngữ, vì thế, trở thành một thứ ngôn ngữ - ký hiệu mang tính tự
thân, một ngôn ngữ bị tha hóa. Tạo ra vực thẳm giữa nó và thế giới, ngôn ngữ
này mang tính quyền uy, tính trang nghiêm giả tạo, xây dựng nên những câu chuyện/
huyền thoại giả để đàn áp và khủng bố thế giới. Mất tiếng nói, thế giới trở nên
câm lặng và mù lòa(6).
Bùi Giáng làm thơ là để khôi
phục lại tiếng nói ấy. Tức biến ngôn ngữ - ký hiệu trở lại thành ngôn ngữ - sự
vật. Thi nhân đã đưa ngôn ngữ quay về thuở hồng hoang với các biểu tượng
nguyên sơ, với nguyên xuân, mùa xuân thứ nhất, của nhân loại, để tẩy trần
và nhận lại nguồn tinh lực uyên nguyên. “Thơ tôi làm…, Bùi Giáng viết, chỉ là một
cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào trung tâm bão động một lúc thì lập tức
xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn
mang trên hai cánh mỏng bay đi […] Tôi ra bờ ruộng nằm ngủ khóc một mình thơ dại
giữa chiêm bao. Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng
lãng đãng chiêm bao”(7). Ứng xử này, có lẽ, là một hằng số trong diễn trình sống
của nhân loại. Con người càng đi xa cội nguồn thì nguyên khí càng hư hao, nên
phải quay về nguồn mẹ, đưa cái Logos nhập vào cái Mythos, để làm
mới lại mình. Ngôn ngữ cũng vậy. Nietzsche gọi đó là sự hồi quy vĩnh cửu.
Truyền thống Việt Nam cũng
như Đông Á, mỗi khi ngôn ngữ bị khô cứng, hết nhựa sống, thì các thi nhân đều
tìm về suối nguồn nguyên thủy. Đó là các huyền thoại, truyền thuyết, những tác
phẩm đã trở nên minh triết của các triết gia cổ đại như Lão Tử, Trang Tử, Đức
Phật… Truyền thống này, trước Bùi Giáng, đã có trường hợp Nguyễn Du và các nhà
nho tài tử cùng thời đại văn hóa với ông. Để chống lại thứ văn chương nói chí tải
đạo Nho giáo, Nguyễn Du, một mặt đã làm một hành hương về nguồn cổ đại, mặt
khác tìm đến với nghệ thuật của đô thị Trung Hoa, như một thứ tư tưởng hiện đại
của thời đại mình. Ông đã học tiếng nói của người trồng dâu trồng gai, tư tưởng
Thiền và Lão Trang, rồi chuyển dịch cuốn tiểu thuyết tài tử - giai nhân của
Thanh Tâm Tài Nhân thànhTruyện Kiều, một tiểu thuyết bằng thơ, với một mã
lục bát mới, có thể gọi là “lục bát Nguyễn Du”, khác hẳn lục bát ca dao và
lục bát truyện nôm.
Còn Tản Đà, ở vào thời suy
tàn của thơ ca Trung đại, của con người cá nhân tập đoàn, tiếng nói cá nhân cá
thể mới mẻ của thi nhân phải ngụ vào tiếng nói luôn ở thì hiện tại của văn nghệ
dân gian. Đồng thời ông cũng đến với tư tưởng hiện đại của thời Khai Sáng Pháp
trong các tác phẩm của Lư Thoa (Rousseau) và Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieur) qua
phong trào Tân thư. Hơn nữa, Tản Đà còn là một trong những người đầu tiên làm
chủ báo, chủ bút, trợ bút và sống hoàn toàn bằng nhuận bút. Ông đã làm mới lại
các thể thơ dân gian, thể thơ truyền thống bằng một bút pháp mới với những rung
động ở vùng “mù mờ tình cảm” (chữ của Xuân Diệu). Bởi thế, đầu óc dù còn vương
vấn tinh thần trung đại, nhưng trái tim thì đã thuộc về thời hiện đại.
Như vậy, nếu tư tưởng tiên
tiến của Nguyễn Du là ý thức cá nhân tập đoàn gắn với văn hóa đô thị phương
Đông trung đại, còn Tản Đà là ý thức cá nhân cá thể gắn với đô thị hiện đại
phương Tây thế kỷ XVIII, thì Bùi Giáng là ý thức cá nhân toàn vẹn gắn với những
trào lưu tư tưởng và triết học hiện đại thế giới của thế kỷ XX. Có thể, một tuổi
thơ gần gũi với thiên nhiên(8), ảo tưởng mười lăm năm Tô Vũ chăn dê(9), cái chết
đau thương của người vợ trẻ, chấn thương chiến tranh, nhất là chấn thương bởi
diễn ngôn bạo lực (những khẩu hiệu, biểu ngữ, mít tinh, tuần hành, đồng phục, đấu
tố, chỉnh huấn chỉnh phong…), khiến Bùi Giáng có cảm giác tha hương ngay trên
chính quê hương, hay lưu đày trên chính quê nhà. Tâm trạng này của thi nhân
tương hợp với tư tưởng của trào lưu hiện sinh trên thế giới và ở đô thị miền
Nam bấy giờ, qua các tác phẩm của J-P.Sartre, A.Camus và các nhà văn hiện sinh
khác. Bản thân Bùi Giáng đã dịch A.Gide, A.Camus, Saint- Exupéry… Từ chủ nghĩa
hiện sinh, thi nhân đến với hiện tượng học hiện sinh của K.Jaspers, J-P.Sartre,
rồi từ đó đến hiện tượng học hữu thể của M. Heidegger, cuối cùng từ Heidegger
trở lui về với Hoelderlin.
Có thể nói, gặp Heidegger với
Bùi Giáng là một hạnh ngộ. Bởi lẽ, hiện tượng học hữu thể, hoặc hiện tượng học
thông diễn, nhất là qua việc Heidegger diễn giải thơ Hoelderlin, người thi sĩ
Việt Nam không chỉ bắt gặp ở triết học Tây phương cái tư tưởng trở về nguồn cội
quen thuộc của minh triết Đông phương, mà, quan trọng hơn là sự về nguồn này
không phải ở bên ngoài sự vật, mà ngay trong chính bản thân sự vật, trong chính
bản thân con người nhận thức sự vật. Tức trở về với bản chất uyên nguyên của vạn
vật. “Đó là tiếng nói Tinh Thể Uyên Nguyên của thơ: Thi sĩ đã bước vào
Vòng Tay Rộng Rãi của Thiên Nhiên, và cuộc tiến nhập đó đã đặt người thi sĩ vào
trong Cõi Nguồn Tinh thể của mình” (Lễ Hội Tháng Ba).
Triết học Tây phương sau
Kant, với sự phát triển tột bậc của khoa học tự nhiên, dần dần nghiêng về nhận
thức luận. Và, một khi khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học, đóng vai trò chủ
đạo trong soi sáng mọi lĩnh vực của thế giới, thì triết học, do hết đất dụng
võ, đành phải quay ra nhận thức mảnh đất còn phủ bóng dưới chân của chính khoa
học tự nhiên. Triết học, vì thế, trở thành nhận thức luận, tức khoa học của các
khoa học và, do đó, xa rời bản thể học. Hay nói như Bùi Giáng, mượn lời
Heidegger, là “lãng quên hữu thể”. Lý tính, do vậy, dần dần cũng bị triết học
công cụ hóa. Sự vật trở thành đồ vật, tồn tại vong thân, trơ ỳ, rắn chắc.
Hiện tượng học bắt đầu với
Husserl còn ít nhiều mang tính nhận thức luận (bởi thế, nó tồn tại vừa như một
lý thuyết vừa như một phương pháp), nhưng đến Heidegger thì đã là một nền hữu
thể học hoàn bị. Thế giới lúc này, trong cái nhìn của hiện tượng học, chỉ là thế
giới khi có một ý thức hướng đến nó, còn ý thức cũng chỉ là ý thức khi có một
thế giới để nó hướng đến. Sự phân chia chủ thể/khách thể, khiến giữa chúng mở
ra một vực thẳm, đã không còn nhiều ý nghĩa. Giờ đây, tất cả đều là chủ thể, vừa
là cái nhìn vừa là cái được/bị nhìn. Và, trong thế tương tác song phương ấy, sự
vật trở lại trạng thái ban đầu, trạng thái lần đầu tiên nó trình hiện. Còn nhà
triết học thì cũng phải thực hiện những phương pháp giảm trừ, như những thao
tác lau rửa. Nhờ thế, sự vật tự phơi mởtrước con người không phải như một
đồ vật, một đối tượng nữa, mà như một hiện tượng.
Hiện tượng học Heidegger trở
lại với hữu thể học nhưng không phải là sự tiếp nối truyền thống hữu thể học cổ
điển từ Platon, mà là hữu thể học hiện đại với việc nhận thức lại, thậm chí
thay đổi, vai trò của chủ thể, tạo ra một hệ hình mới trong lịch sử triết học
và mỹ học. Nền hữu thể học cổ điển, lấy cái bên ngoài làm thước đo, chọn cái
siêu việt để cắt nghĩa tồn tại hữu thể, đã bị lật nhào. Giờ đây, với nền hữu thể
học thời mới, của hệ hình mới, khởi đi từ hiện tượng học, chỉ có chủ thể là
hoàn bị, là nguyên nhân đầu tiên của hiện hữu, là căn nền tồn tại của thế giới.
Thế giới chỉ còn là thế giới được chủ thể cấp nghĩa mà thôi.
Cái nhìn mới về con người và
thế giới này đã làm sống lại ngôn ngữ thi ca ngay ở Mưa Nguồn, tập thơ đầu
của Bùi Giáng. Mưa Nguồn là mưa ở phía tây, vùng rừng núi, nơi xuất
phát của những dòng chảy, và của tất cả những gì trôi chảy. Nước đầu nguồn thì
trong sạch, trinh nguyên, nhưng càng về trung du và đồng bằng, nhất là qua những
đô thị, thì càng ngầu đục. Con người, cũng như nước, càng xa nguồn thì lại càng
khát khao về nguồn, để, một lần nữa, được hưởng sự thanh thỏa với một ý thức trọn
vẹn. Mưa Nguồn trong thơ Bùi Giáng, bởi thế, là mộtbiểu tượng gốc (archétype),
là trung tâm của một trường nghĩa. Chữ Nguồn trong Mưa Nguồn, phái sinh một
hệ biểu tượng chỉ những cái nguyên thủy, ban đầu, gốc rễ, những cái tiết trinh
và nguyên lành, là bản chất của thế giới tự nhiên khi chưa bị những quan niệm của
truyền thống cưỡng bức, vấy bẩn.
Trước hết, có thể thấy biểu
tượng này nằm ở chiều kích không gian, như nguyên tuyền, nguyên khê (“Nghe
trời đổ lộn nguyên khê”), cổ độ (“Nước xuôi dòng là cổ độ nhìn theo), rừng,
ngàn (“Lỡ từ lạc bước chân ra/ Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn”), đất
Thượng (“Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mọc/ Xa biệt lắm mưa nguồn trên mái
tóc/ Đã mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa”)… Rồi những ngọn nguồn khác: thời gian vũ
trụ: nguyên xuân (“Thưa rằng: ly biệt mai sau/ Là trùng ngộ giữa
hương màu Nguyên Xuân”), thời gian trong một năm: xuân (“Ngày xuân
xanh sơ ngộ để thiên thâu”), thời gian trong vòng đời một người: tuổi thơ (“Non
hồng chiều vọng chân mây/ Sương chừng lãng đãng rơi đầy tuổi thơ”)… Rồi thời gian
của người, trước hết là người châu Phi như là một ngọn nguồn phát tích của nhân
loại. Mưa Nguồn được viết để “tặng ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ
châu Phi”. Sau đó là đến người Mọi (người rừng/ người ở rừng), cô em Mọi
nhỏ (“Em từ Mọi Nhỏ thanh tân/ Mười hai con mắt thiên thần mở ra”; “Mọi
là Em, Mọi Sơ Xuân/ Ban sơ núi đỏ chào mừng non xanh”). Thậm chí là đươi
ươi, một tiền nhân, dự nhân của con người. Bùi Giáng tự nhận mình là Đười Ươi
Thy Sĩ, nên “Ta về rũ áo đười ươi/ Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau”… Sau
cùng là không - thời - gian - chiêm - bao, tuy là một hỗn độn, nhưng lại
là khởi nguồn của định danh, nên cũng có tên là cố quận: “Hỗn mang về
giữa hiên nhà/ Bấy giờ cố quận tên là chiêm bao”. Thơ Bùi Giáng, bởi vậy, đầy
những chiêm bao, mộng, mộng mị, mộng ban đầu, sơ nguyên mộng…
Nước, cùng với lửa, mang
tính tẩy rửa. Nước mưa càng có giá trị thanh tẩy cao hơn. Mưa, nhất là Mưa
Nguồn, là một hành vi làm sạch mang tính vũ trụ, linh thiêng. Không phải ngẫu
nhiên mà trước ngày lễ, ngày hội thường có những cơn mưa rửa đền, rửa chùa. Sự
vật sau khi sinh ra đều phải lăn lóc chốn hồng trần, nên không thể không lấm bụi
đời. Để trở về với thể tính hoặc tinh thể uyên nguyên của mình, không thể không
lau rửa. Thao tác lau rửa này phần nào giống với các phương pháp giảm trừ hiện
tượng học. Như vậy, không chỉ vật được nhìn mà cả mắt nhìn đều cần được lau rửa
- giảm trừ hiện tượng học. Cả hai quá trình này, một ở đối tượng một ở chủ thể,
gặp gỡ nhau, xoắn luyến vào nhau làm cho sự vật hiện hữu, hoặc tồn tại đích thực,
tức một tồn tại ở trong sự nói về tồn tại là ngôn ngữ. Và, vì thế,
ngôn ngữ được phục sinh ở trạng thái nguyên thủy:
Tiếng nói xưa vang trên đầu
ngọn lúa
Vì ngôn ngữ ngày kia em để
úa
Bỗng lên lời bên mép cỏ như
sương
Cũng xanh như dòng lệ khóc
phai hường.
(“Biểu
tượng nguyên sơ”)
Đọc Mưa Nguồn, bởi
thế, ta như bước vào một thế giới vừa quen thuộc vừa mới lạ. Trong cái nhìn hiện
tượng học, cũng cây cỏ ấy, cũng bờ lúa ấy, cũng những bông hoa ấy, nhưng dường
như chúng xanh hơn, thắm tươi hơn. Giống như một thiên nhiên sau mưa và mặt trời
ló rạng với một ánh sáng khác: “Vũ quá sơn dung sấu/ Thiên quang trúc ảnh trường”
(Nguyễn Trãi). Bởi thế, nhại theo một công án thiền, ta cũng có thể nói, chưa gặp
hiện tượng học thấy núi là núi, sông là sông. Gặp hiện tượng học rồi lại thấy
núi vẫn là núi, sông vẫn là sông; nhưng đã là một thứ núi sông khác, một thiên
nhiên khác. Thiên nhiên ấy tôi cũng từng đã bắt gặp ở Tây Tạng: trong những
thung lũng, sườn núi, hồ nước. Trên cao năm nghìn mét, với một mắt nhìn trong
sáng và một bầu khí trong vắt, thì mọi vật từ màu sắc, hình khối, âm thanh, nhịp
điệu đều trở nên thật hơn và, do đó, cũng huyền diệu hơn.
Thiên nhiên Mưa Nguồn còn
một khác biệt nữa là không bất động mà luôn trôi chảy. Nếu trong Thơ Mới, nhất
là ở Bức Tranh Quê của Anh Thơ, thiên nhiên được miêu tả một cách duy
nhiên (“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng/ Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi”),
thì thiên nhiên thơ Bùi Giáng luôn ở trong thế tràn bờ: sự vật không chỉ là nó
mà còn là không - nó. Tức luôn trong tư thế giao tiếp, đối thoại với mọi vật
khác để mà biến đổi mình, đúng hơn được là mình trong dòng tồn tục. Bởi lẽ,
trong cuộc đối thoại này, mọi vật đều là chủ thể đang tự phơi mở và hướng đến một
chủ thể khác cũng đang tự phơi mở. Trong thế giới thơ Bùi Giáng, mọi vật đều hướng
vềnhau: sự vật hướng đến sự vật, con người hướng đến sự vật, sự vật hướng đến
con người, con người hướng đến con người… Bởi vậy, ở Mưa Nguồn, có rất nhiều
những từ chỉ sự giao tiếp, như ngó (“Thuở xưa kia suối ngọc ngó mây
vàng”), nhìn (“Em ngồi lại nhìn thu lên bóng nước/ Con cò trắng nhớ
nhung trời bữa trước”), nghe (“Nghe trong mình nước mắt chảy lên mi/
Nghe bốn bên thiên hạ ngó em vì”), chờ (“Đồng ruộng đó đương chờ em
bước tới”), rủ tuổi
đang vừa”), níu (“Môi cười trong lệ mù sương/ Níu trong hồng hạnh thu
hường đã phai”, “Giòng sông chảy ai người xin níu lại”)…
Bùi Giáng, nhờ thế, có một
giọng điệu tâm tình đặc biệt. Mỗi bài thơ được viết ra như để tự bộc bạch hoặc
nói với ai đó. Ngôn ngữ thi nhân đầy những từ biểu cảm bày tỏ thái độ người
nói, như thế nên chi (“Cũng lay lắt bởi đời xuân em ạ/ Thế nên chi
anh cũng viết dòng này”), em ồ em (“Mở con mắt một lần lên tiếng thử/
Em ồ em, anh nói một lời này”)… Đặc biệt, có nhiều bài là những đối thoại trực
tiếp theo công thức hỏi rằng, thưa rằng (“Hỏi rằng: người ở quê đâu/
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà”), hoặc đơn giản chỉ hỏi, rằng (“Hỏi
tên, rằng: Biển - Dâu - Ngàn/ Hỏi quê, rằng: Xứ mơ màng, đã quên”). Và, ở trong
trường giao thoại này, các đại từ nhân xưng thơ Bùi Giáng nhiều khi cũng không
còn là nó nữa, tức có sự chuyển ngôi, đổi ngôi, hoặc cùng lúc kiêm nhiệm nhiều
ngôi. Đại từ nhân xưng anh, em là một ví dụ. Anh, em có thể là ngôi
thứ nhất (tự xưng), ngôi thứ hai (người ngôi thứ nhất nóivới) hoặc ngôi thứ ba
(người ngôi thứ nhất nói về) tùy theo ngữ cảnh. Cũng có trường hợp
trong một ngữ cảnh, anh, em có thể đóng cả ba vai. Tức có hiện tượng nhòe ngôi.
Như vậy, nếu nhìn theo chiều ngược lại, thì ngôi thứ ba luôn luôn bị sát nhập
vào ngôi thứ hai. Thế giới không còn tiếng nói độc thoại đã đành, mà không cả
tiếng nói về một đối tượng vắng mặt, chỉ duy nhất vang lên tiếng nói song thoại.
Nghĩa là, quan hệ tôi và nó mang tính độc thoại, trong đó con người bị
nhìn, bị tước đoạt tự do, bị đối tượng hóa, đã được thủ tiêu; chỉ còn lại quan
hệ tôi và anh mang tính đối thoại, con người nhìn nhau, tự do và cá
tính được bảo toàn.
Trở về với sự vật, nhất là
những sự vật trực quan, cụ thể, đồng thời lại đưa sự vật ấy vào các quan hệ
tương tác, đối thoại, thế giới ngôn ngữ Bùi Giáng, vì thế, vừa sáng rõ vừa mơ hồ,
như có nắng trong mưa. Nhưng chính tính lưỡng thê này mới là sự tồn tại đích thực.
Bởi mọi tồn tại đích thực đều là tồn tại trong thế giới, hữu thể - tại -
thế, tức tồn tại trong và bằng quan hệ, tồn tại trong sự trở
thành. Vì thế mà tồn tại nào cũng là trung chuyển. Và trung chuyển nào cũng là
sương mù. Và chính ở trạng thái vừa có ánh sáng của sương, vừa có bóng tối của
mù, mới xuất hiện một vầng sáng năm màu rực rỡ nối liền trời và đất.
2. Bùi Giáng, từ chơi
chữ đến trò chơi ngôn ngữ
Văn chương Việt đầy rẫy những
chơi chữ với nhiều hình thức khác nhau.
Từ chuyển phụ âm đầu (“Thuyền
từ cũng muốn về Tây Trúc/ Trái gió cho nên phải lộn lèo” - Hồ Xuân Hương), dùng
đồng âm dị nghĩa (“Tôi tôi vôi/ Bác bác trứng” - Câu đối; Mồm bò mà không phải
mồm bò mà lại phải mồm bò” - Câu đố dân gian), nói lái Hán - Nôm (“Chi chi dã”
thành “Cha cha đĩ” - Nguyễn Khuyến), chiết tự chữ Hán (“Thiên duyên cũng muốn
nhô đầu dọc/ Phận liễu sao đà nảy nét ngang” - Hồ Xuân Hương), thậm chí bẻ chữ
Tây, tên Tây ra thành từ Việt để chơi (“Chắc tôn ông không bằng lép tôn tôi/
Lep Tônxtôi” - Giai thoại Chế Lan Viên đùa Nguyễn Đình)... Chơi chữ làm
cho câu văn trở nên, một mặt đa tầng, ẩn ý, mặt khác trào lộng, dí dỏm. Đây là
những trường đình, đoản đình, chỗ nghỉ óc cho một hành trình đọc những văn bản
trang nghiêm, đôi khi đến mức thành khô cứng, giả tạo, nơi thông gió trong những
xã hội bị thống ngự bằng thứ diễn ngôn chi hồ giả dã.
Ngôn ngữ nào, đành rằng,
cũng có những chơi chữ. Nhưng, có lẽ, không ở đâu ngôn ngữ lại là mảnh đất màu
mỡ cho những trò chơi chữ nghĩa như ở tiếng Việt. Là ngôn ngữ đơn âm tiết, tức
mỗi từ là một hình vị, tiếng Việt sở hữu vô số, có lẽ chỉ ít hơn tiếng Hán, những
từ đồng âm khác nghĩa, một trong những cơ sở chủ yếu của chơi chữ. Tính đơn âm
tiết này còn mạnh đến mức tạo thành xu hướng đơn âm tiết hóa các từ đa âm tiết
nước ngoài, nhất là các nhân danh và địa danh, thành các từ đơn âm, để nó đủ tư
cách pháp nhân tham dự cuộc chơi. Bởi thế, hẳn chỉ có tiếng Việt mới có những
thể loại văn bản ngôn từ chuyên chơi chữ, như câu đối, câu đố, đố thanh giảng tục/
đố tục giảng thanh, tiếu lâm, truyện cười, giai thoại…
Bùi Giáng, cũng như mọi nhà
thơ Việt Nam tài năng khác, đều đủ giàu có ngôn từ để chơi chữ. Bùi Giáng còn
được gọi là “Tề Thiên ngôn ngữ”, là “bát ngát trời chữ nghĩa”. Kho từ vựng của
ông đủ để nói về tất cả các lĩnh vực ngược và xuôi. Nói xuôi cũng được nói ngược
cũng xong. Bởi thế, ở đây chỉ xin dẫn ra ông chơi cái tên của mình vừa như một
sự tra vấn bản thể luận, vừa như một đùa cợt, bằng cách nói lái đủ kiểu, như
Bùi Bàng Dúi, Bùi Bán Dùi…, nói lái kiểu tiếu lâm nghịch ngợm: Bùi Tồn Lưu, Bùi
Tồn Lê…, ghép chữ: Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ, Brigitte Giáng, Giáng Monroe…
Thậm chí, ở ngay chỗ nghiêm chỉnh nhất là các thuật ngữ triết học hiện tượng luận,
Bùi Giáng cũng làm người ta giật mình bởi lối lái chữ nghịch ngợm như tồn lưu,
lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lý tý ngọ, tồn lập tập trung…. , rồi cồn lau,
cồn lê… “Lọt thềm trận gió đi hoang/ Tồn liên ở lại xin làn dồn ra”…
Tuy vậy, Bùi Giáng không dừng
lâu trước trò chơi chữ. Bởi, chơi chữ là buộc người ta phải thừa nhận rằng mỗi
từ có một nghĩa đen, nghĩa chủ yếu quy chiếu về một thực tại khách quan độc lập,
nên mọi sự chơi chữ, mà thực chất là “chơi nghĩa”, đều chỉ là sự biến điệu xung
quanh cái nghĩa gốc ấy. Các biện pháp chơi chữ, vì vậy, đều rất hữu hạn. Hơn nữa,
đã nói đến trò chơi là nói đến quy tắc, bởi quy tắc tạo ra trò chơi. Người
chơi, bởi vậy, phải tuân thủ quy tắc. Vì thế, xét cho cùng, người chơi cũng chỉ
là một yếu tố của sự chơi. Là một người tự do, không chịu bất cứ một ràng buộc
nào, dẫu là sự ràng buộc của sự chơi, Bùi Giáng nhanh chóng chuyển sang một cuộc
chơi khác là trò chơi ngôn ngữ (10).
Trò chơi ngôn ngữ cũng có
quy tắc. Và, xét riêng ở cạnh khía ngôn ngữ thì quy tắc ở đây chính là ngữ
pháp. Bởi không có ngữ pháp thì không có lời nói, tức không có sự thực hành
ngôn ngữ. Nhờ có các quy tắc và/là ngữ pháp mà ngôn ngữ, một mặt, có thể diễn tả
được sự áp dụng đa dạng, mặt khác là tính hệ thống và, do đó, tính phi thời
gian. Nhưng từ cạnh khía trò chơi, thì ngôn ngữ lại gắn liền với thời gian. Bởi
lẽ, người ta không thể nào ngay cùng một lúc biết hết được toàn bộ những trường
hợp áp dụng của một từ trong thực tiễn. Điều này chỉ có thể dần dần được biết đến
trong thời gian. Hơn nữa, trong trò chơi, bất kỳ một ngẫu nhiên nào, dù nhỏ bé
đến đâu, đều có khả năng tạo ra hiệu ứng cánh bướm, khiến trò chơi đi theo những
hướng bất ngờ nhất, ngoài mọi sự tiên liệu. Như vậy, khi ngôn ngữ bắt đầu được
quan niệm như là hành động, tức trò chơi, thì khái niệm quy tắc ngữ pháp cũng
được thay thế bằng khái niệm luật chơi (quy tắc của trò chơi). Như vậy, từ chơi
chữ đến trò chơi ngôn ngữ thực chất là từ nghĩa đến ý nghĩa, từ từ pháp học đến
ngữ pháp học rồi đến ngữ dụng học.
Trò chơi ngôn ngữ ra đời còn
như là hệ quả của một quan niệm mới về thực tại: ngôn ngữ gắn liền với đời sống,
biến đổi đời sống, thậm chí là bản thân đời sống (“Tôi gọi Cần Thơ là Cần Thở/
Cần Thơ ơi... cần thở đến bao giờ”). Trò chơi ngôn ngữ, bởi vậy, là những thời
đoạn trong tiến trình cuộc sống. Chính nó mang lại cấu trúc, hình thái và
phương hướng cho tiến trình ấy. Các trò chơi ngôn ngữ, vì vậy, tuy cũng được cấu
trúc hóa bằng các nguyên tắc, nhưng là các nguyên tắc theo ý đồ của người hành
động. Vả lại, các quy tắc ấy ra đời trong diễn trình chơi, trong sự tái tạo
liên tục những cấu trúc mới trong thế giới cũng như trong tư duy. Các cấu trúc ấy
không quy định thế giới cũng như tư duy một cách lâu bền, mà chỉ là các
quy tắc ứng với từng trường hợp, có giới hạn. Tức các quy tắc này chỉ tồn tại
trong trò chơi, hết trò chơi là hết quy tắc. Đồng thời, quy tắc ấy cũng chỉ thực
sự sáng tạo trong thực hành các trò chơi. Người nghệ sỹ, do vậy, trước khi tham
dự vào trò chơi ngôn ngữ thì không/chưa có quy tắc nào cả, chỉ khi anh ta viết
thì quy tắc mới dần dần xuất hiện, bởi lẽ anh ta cầm bút chính là để tạo ra quy
tắc. Một thứ quy tắc trước hết của và cho anh ta, do đó, mang đậm cá tính sáng
tạo của anh ta. Quy tắc này, quả thật, không như một hình mẫu để dành cho người
khác.
Thời điểm Bùi Giáng chuyển từ
chơi chữ sang trò chơi ngôn ngữ thì khó mà biết được một cách chính xác, bởi lẽ,
sự đứt đoạn này, có thể, được tạo ra bởi một quá trình. Quá trình đó, có khi bắt
đầu từ khi ông làm “Tô Vũ chăn dê”, hàng ngày lùa bò vào rừng, mang theo những
cuốn sách tiếng Pháp dày cộp, rồi để mặc chúng tự do gặm cỏ, còn mình thì tìm một
nơi thuận tiện ngồi gặm sách. Vào đầu những năm 60, không khí học thuật và tư
tưởng ở thành thị miền Nam còn đang cởi mở và bản thân Bùi Giáng cũng vừa đạt tới
độ chín, thì thi nhân cho xuất bản Mưa Nguồn (1962), tập hợp những bài thơ sáng
tác trước đó, như để chấm dứt một giai đoạn, đồng thời tạo ra một cái vốn/
thương hiệu/ quyền uy, để bày đặt ra cuộc-chơi-thơ-ca mới. Sau đó Bùi Giáng tạm
nghỉ làm thơ và liên tiếp cho ra đời những tập khảo cứu triết học như Tư Tưởng
Hiện Đại (1962), Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại (2 tập) (1963)… Đến đây,
có thể nói, ảnh hưởng của triết học đã làm thay đổi toàn bộ cuộc sống và sáng
tác của nhà thơ. Bởi thế, người ta có thể thấy các thi phẩm in về sau, càng xa
Mưa Nguồn bao nhiêu thì càng khác biệt với Mưa Nguồn bấy nhiêu.
Ở Mưa Nguồn, Bùi Giáng còn
chú trọng nhiều đến việc đưa ngôn ngữ trở về với bản tính nguyên sơ, chân
thực của nó. Và, cũng ở tập thơ này, Bùi Giáng cũng rất quan tâm đến thể tính của
thi ca. Ông tìm nó ở thơ, ở ngôn ngữ thơ và ở cả cái nên thơ. Còn trong những
tác phẩm sau Mưa Nguồn, như Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn, Sa
Mạc Trường Ca, Rong Rêu, Mười Hai Con Mắt, Tuyết Băng Vô Tận Xứ, Mùa Màng Tháng
Tư…, Bùi Giáng đã vượt thoát ngôn ngữ, vượt qua sự đi tìm thể tính thi ca ở những
phạm trù vĩnh cửu là cái đẹp, cái thơ. Bùi Giáng bây giờ không còn cư ngụ ở
ngôn ngữ nữa, không cả ở cái đẹp, cái thơ nữa, mà ở cái siêu tuyệt, cái tổng thể,
để, cuối cùng, lại không ở cái siêu tuyệt, cái tổng thể nữa, mà ở những cái
nhìn, những ứng xử trong mỗi trường hợp sống, mỗi khoảnh khắc, mỗi lát cắt sống,
tức, mỗi trò chơi ngôn ngữ. Bởi vậy, với thi nhân, thơ ở phương diện thể loại
như một vũ trụ dãn nở, không ngừng chuyển dịch về đỏ. Bây giờ, không chỉ tiểu
thuyết mới là thể loại mở, đang hình thành, mà cả thơ. Thơ Bùi Giáng cùng lúc
chứa nhiều thể thơ, thậm chí thể loại. Nghĩa của mỗi câu thơ, của từng bài thơ
càng ngày càng trở nên bất định, hũ nút, thậm chí vô nghĩa. Từ chỗ thay đổi
quan niệm về thơ, Bùi Giáng thay đổi cả quan niệm về sáng tác, kể cả cách sáng
tác.
Làm thơ với Bùi Giáng, từ
đây, không phải là sáng tác nữa mà là ứng tác. Thi nhân viết trong mỗi hoàn cảnh,
mỗi trường hợp cụ thể. Cần thì viết, hầu như không phải đắn đo suy nghĩ gì. Thầy
Thanh Tuệ, Giám đốc Nhà xuất bản An Tiêm, người chuyên in sách Bùi Giáng, kể: “ảnh
lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến
nơi khác, uống rượu say khướt rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả
bữa ăn. Đêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng
thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng thì buổi tối ảnh đã tới ném bịch
xuống cả năm, bảy trăm trang”. Còn đây là cảnh tượng Bùi Giáng làm thơ tại chỗ
dưới con mắt kinh ngạc của Mai Thảo: “Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy,
một chai bia lớn nữa. Ông làm thơ tại chỗ […] Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt,
nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, lâu quá, mà
ngay từ ngọn bút từ đầu ngón tay thôi […] Chai bia còn sủi bọt […] đã xong
hơn hai mươi bài thơ […] bài thơ nào cũng khác lạ, cũng thật hay, cũng đích thực
là từng hạt ngọc của cái thơ Thượng Thừa Bùi Giáng” (11).
Như vậy, làm thơ tại chỗ,
hay ứng tác, Bùi Giáng không nghĩ nhiều đến kết quả cuối cùng của/là từng bài
thơ. Ông chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt, tùy từng hoàn cảnh mà sáng tác, sáng tạo
xong là xong. Thơ ông giai đoạn này, bởi vậy, như hỗn hợp nhiều tư tưởng, phong
cách, thể loại, ngôn từ đối lập nhau. Bởi thế, có người, như Thụy Khuê chẳng hạn,
tiếc cho Bùi Giáng bên cạnh những bài thơ, câu thơ tuyệt tác, lại có nhiều câu
thơ độn, nhiều bài thơ độn, tự lặp lại mình một cách dễ dãi. Thực ra, đọc thơ
Bùi Giáng giai đoạn sau Mưa Nguồn, không nên chỉ chú ý đến từng bài riêng rẽ,
mà chú ý đến quan niệm tổng thể của thơ ông. Bởi lẽ, lúc này thi nhân không còn
đi tìm cái đẹp ở thơ, mà đi tìm cái tổng thể, cái siêu tuyệt, là những cái
không còn nằm ở sự cân đối, hài hòa, thơ mộng, hợp lý nữa, mà nằm ở những gì
phi đối xứng, không hài hòa, lệch chuẩn, thậm chí phi lý, hay đúng hơn cái nằm ở
đằng sau, ở phía bên kia tất cả những thứ đó.
Ở chỗ này, Thanh Tâm Tuyền,
nhà thơ cách tân hàng đầu Việt Nam, nói rất đúng: “Với tôi là từng bài thơ. Nói
đến từng bài thơ Bùi Giáng, bài thơ này bài thơ kia của Bùi Giáng lại là chuyện
tức cười lắm lắm. Bùi Giáng là cái hiện tượng dị thường của một suối thơ ăm ắp
không ngừng. Đọc Bùi Giáng cũng phải đọc như thế. Đứng trên đơn vị từng bài.
Bùi Giáng đặt tựa cho từng bài là ngắt thơ ra, ngắt chơi ra vậy thôi. Nói đến mấy
ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận vô
cùng, là đúng hơn” (12). Lời nhận xét xác đáng của Thanh Tâm Tuyền dành
cho Bùi Giáng, gợi nhớ đến Nietszche với quan niệm về ba biến thể của sáng tạo.
Bùi Giáng đã vượt qua giai đoạn lạc đà, rồi giai đoạn sư tử, thậm chí ở ông dường
như không hề có những giai đoạn ấy, mà chuyển ngay sang giai đoạn đứa trẻ. Ông
đã đạt đến chỗ thượng thừa của sáng tạo kiểu thiên tài khi ông đã sống như
chơi, như anh nhi, như đồng ấu. Đứa trẻ - sáng tạo - chơi trong Lão - Ngoan - Đồng
- Bùi - Giáng đã hiện hữu sống động, nó chơi/sáng tạo trong từng phút, từng
giây tham dự ở đời. Bởi thế, với người chơi Bùi Giáng, nói như Thanh Tâm Tuyền,
chỉ có cái sáng tạo tổng thể, và bài thơ là từng nhát cắt rời của cái tổng thể ấy,
và cả của cái hiểu của những con người bình thường, những kẻ chỉ biết chơi -
thi thoảng.
Không chú ý đến kết quả sáng
tạo, Bùi Giáng chỉ chú trọng đến diễn trình sáng tạo. Tức biến thơ, từ nghệ thuật
không gian thành nghệ thuật thời gian, từ loại hình nghệ thuật định cư thành
nghệ thuật du cư. Tất cả đều lên đường, tất cả đều trên đường: “Xin chào nhau
giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên trường phía sau”. Chỉ ở diễn trình người
ta mới thấy được tính chất trò chơi của nghệ thuật, thi ca, của trò chơi ngôn
ngữ. Diễn trình mang lại niềm vui sáng tạo, bởi người chơi được là chính mình.
Bùi Giáng khi làm thơ thường hay nói đến từ chơi, rỡn, đặc biệt là câu cửa miệng
vui thôi mà! Sự chú trọng đến diễn trình sáng tạo hơn là kết quả sáng tạo ở Bùi
Giáng khiến người ta nghĩ đến nghệ thuật đương đại như nghệ thuật sắp đặt,
trình diễn, nghệ thuật video, nghệ thuật thực địa, nghệ thuật đa phương tiện…
Trước hết là tính tổng hợp của nó, vừa là hội họa, điêu khắc vừa là sân khấu. Sắp
đặt và trình diễn, bởi thế, không chỉ diễn ra trong không gian, mà còn diễn ra
trong thời gian. Và, cuối cùng, tác phẩm sắp đặt và trình diễn sau thời gian
trưng bày là hết, không có tính cách vĩnh cửu như hội họa giá vẽ. Nhìn Bùi
Giáng từ nghệ thuật đương đại, một mặt thấy được quan niệm về sáng tác và tác
phẩm của ông đã đổi khác, vượt qua chủ nghĩa hiện đại để bước vào hậu hiện đại,
mặt khác thấy rõ ở thơ ông trò chơi ngôn ngữ đang dần dần chiếm thế chủ đạo.
3. Bùi Giáng, nhà thơ của
các nhà thơ
Bùi Giáng, cũng như các thi
sĩ thiên tài, đều vượt quá mọi đóng khung. Tuy nhiên, nhà phê bình, vốn là một
động vật thích phân loại, nên, một mặt để thỏa mãn mình, mặt khác để hiểu thi
nhân, ít nhất là trên đại thể, thì có thể tiếp cận ông từ cạnh khía kiểu nhà
thơ. Bùi Giáng, tôi nghĩ là một thi sĩ - triết gia, một nhà thơ đồng thời là một
nhà triết học. Thi sĩ - triết gia, khác với triết gia - thi sĩ, tồn tại trước hết
với tư cách nhà thơ, sau đó mới đến nhà triết học. Kiểu nhà thơ này không phải
đến Bùi Giáng mới có, mà từng tồn tại trong văn đàn thế giới như Goethe,
Hoelderlin, Braudel, Tchutchev…, hay Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Tản Đà… ở Việt
Nam.
Tiếp tục truyền thống thi sĩ
- triết gia này, Bùi Giáng đã nâng tầm vóc của nó, ít nhất trong trường hợp Việt
Nam, lên cao thêm một bước. Việt Nam vốn không phát triển lắm về triết học. Các
tư tưởng triết lý, vì thế, phần lớn có nguồn gốc từ các nền văn hóa lớn bên
ngoài. Việc tiếp nhận chúng thường theo nguyên tắc tương ứng chứ không phải đồng
thời, như trường hợp Tản Đà đầu thế kỷ XX tiếp thu tư tưởng của các nhà triết học
Ánh Sáng thế kỷ XVIII. Các thi sĩ - triết gia của Việt Nam, vì thế, xét trên cạnh
khía thời đại, thường lỗi thời ít nhất một nhịp. Điều này hẳn ít nhiều ảnh hưởng
đến tầm vóc và, do đó, tư thế đối thoại với thế giới.
Bùi Giáng, ngược lại, tiếp
thu chủ nghĩa hiện sinh của J-P.Sartre, A.Camus, K.Jaspers…một cách trực tiếp
và đồng thời, khi nó còn đang sống động và đang phát triển. Rồi từ triết học hiện
sinh đi đến hiện tượng luận, sau đó hiện tượng luận hiện sinh của Heidegger. Có
thể không khí học thuật cởi mở của xã hội miền Nam bấy giờ, có thể các giáo sư
đại học như Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn… hồ
hởi mang triết học hiện sinh từ phương Tây về, đã ít nhiều có ảnh hưởng đến tâm
thế Bùi Giáng. Nhưng, tôi nghĩ, Bùi Giáng, chủ yếu, đi đến với triết học
Heidegger bằng trải nghiệm riêng của mình. Từ cảm nghiệm vong thân đến với tự
do, Bùi Giáng không hiểu triết học như một thầy giáo, mà sống triết học như một
bậc thầy. Bởi thế, ông có đầy đủ tư cách triết gia, để phê phán Sartre trong
Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại, trao đổi thư từ học thuật với chính Heidegger
và nhà thơ René Char. Quả thật, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có
một nhà thơ Việt Nam sống cùng nhịp với các trào lưu tư tưởng lớn của thế giới
đương đại.
Trước đây, trong thời tiền
hiện đại/ hiện đại, vẫn thấy những trường hợp thi sĩ và triết gia tuy có chỗ
trùng, nhưng rốt cục, vẫn là hai con người riêng biệt. Như một sự phân thân.
Còn ở Bùi Giáng thì cuộc đời, thơ ca và triết học là một, là một thứ tam diện
nhất thể, đúng hơn tam vị nhất thể. Như con khỉ Mỹ Hầu Vương trở thành Tôn Ngộ
Không sau khi ra khỏi lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân, Bùi Giáng trở thành
Bùi Giáng, một thi sĩ - triết gia, sau khi đã chưng cất được một hợp chất từ ba
yếu tố cuộc đời - thi ca - triết học trong “nồi hầm”(13) văn hóa thời đại
có nhiệt độ cao và áp suất lớn. Hơn nữa, ở thời hậu hiện đại, thi sỹ và/là triết
gia cùng đưa ra những diễn ngôn mới, đúng hơn, diễn ngôn về diễn ngôn, không hề
chịu một quy định trước nào, cũng không có tham vọng trở thành phổ quát, chỉ
khát khao tỏ lộ cá tính riêng thuộc của mình. Hay, nói khác đi, cuộc đời của
Bùi Giáng thi sĩ và tư tưởng gia, tuy là nhiều, nhưng đều dẫn đến một đích nhắm
là tìm gặp cái Uyên Nguyên, cái Bản Nguyên trong thế giới vạn vật. Heidegger
thường tụng ca thi gia và tư tưởng gia, những kẻ canh giữ ngàn đời cho ngôi nhà
của tồn tại như/là/qua/bằng/bởi ngôn ngữ. Thế nên, Bùi Giáng, xuất nhập cả
trong thân phận thi gia lẫn tư tưởng gia, chẳng qua cũng chỉ là những cách thế
tuy khác nhau, nhưng đều dẫn trở về ngôi nhà của tồn tại.
Hợp chất của cái “nồi hầm”
siêu tổng cộng các yếu tố văn hóa thời đại đó chính là cái mà Bùi Giáng gọi là
tư tưởng hiện đại. Tư tưởng hiện đại, theo Bùi Giáng, trước hết là tư tưởng
đương đại, mà trong thời đại của ông là hiện tượng học hiện sinh và, sau đó, là
toàn bộ những điểm khả thủ của tư tưởng nhân loại không phân biệt đông tây kim
cổ được nhìn từ tư tưởng đương đại. Bùi Giáng gọi động thái này là “trùng phục
thu hồi”, một kiểu tiếp thu sáng tạo như ngày nay thường nói. Tư tưởng hiện đại,
bởi thế, luôn là sự giao thoa giữa cái đương đại và cái đã qua, đưa cái đã qua
trở thành đương đại. Nội dung của tư tưởng hiện đại của mỗi thời có thể mỗi
khác, tùy theo sự thông diễn của người đương thời, nhưng cái gọi là tư tưởng hiện
đại thì như một hằng số thời nào cũng có. Đó chính là sự “thiết lập Vĩnh Thể
trên dòng Tồn Lưu” của Bùi Giáng.
Tư tưởng hiện đại của thời đại
Bùi Giáng chính là hiện tượng học thông diễn mà thi nhân gọi là giải minh hay
minh giải học. Sống, làm nghệ thuật cũng như làm học thuật, trước hết là phải
thông (thông diễn, thông giao, tương thông, liên thông) đã, tức thâm nhập vào đối
tượng, trở thành đối tượng, biến đối tượng thành một chủ thể, sau đó phải diễn
(diễn giải, diễn dịch, diễn giảng, quảng diễn), tức trình bày cái thông của
mình cho người khác. Thông diễn, như vậy, là một quá trình tham dự của một chủ
thể vào một đối tượng để biến đối tượng đó thành một chủ thể mới, không chỉ với
người khác mà cả với chính chủ thể trước. Thông diễn học, vì thế, là một khoa học
chủ quan, hay nói khác vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Nó có khả
năng biến một sự kiện (khách quan) thành một chân lý (chủ quan), bởi như
Kierkegaar nói: chân lý là chủ quan. Với tư cách là trí tuệ cảm xúc, thông diễn
học là phương thức nhận thức chủ yếu, phù hợp với cái nhìn thực tại mới của con
người trong xã hội hậu công nghiệp, tin học và công nghệ cao.
Thơ Bùi Giáng thể hiện một
cái nhìn thông diễn học rất rõ. Sự vật và con người trong thơ ông không bao giờ
là tự thân, tự đầy đủ, mà luôn trong trạng thái đương - là, không hoàn kết,
luôn ở thế tương giao, đối thoại với người đọc. Điều này đã được đề cập đến ở
phần trước, khi nói về trò chơi ngôn ngữ, và còn đặc biệt rõ hơn trong các công
trình nghiên cứu của Bùi Giáng, như Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại, Con Đường
Ngã Ba, Thi Ca Tư Tưởng, Đường Đi Trong Rừng… đầy những trích dẫn, vận dụng rất
nhiều tri thức đông tây kim cổ từ các triết gia Hy Lạp cổ đại đến Khổng Tử, Lão
Tử, Trang Tử, Đức Phật, các nhà văn, các nhân vật tiểu thuyết, thậm chí đến người
thật như Kim Cương, Monroe, Phùng Khánh… Điều này cũng thể hiện rất rõ trong
các tác phẩm biên dịch như Lời Cố Quận, Lễ Hội Tháng Ba của Heidegger, Mùi
Hương Xuân Sắc dịch Heidegger, Nerval và Camus… Bùi Giáng sử dụng lối dịch -
thông diễn. Kể cả khi dịch một tác phẩm văn chương, ông cũng dịch với một tinh
thần đồng điệu, chứ không dịch câu chữ. Nhờ sự trái thói này, mà chúng ta có được
những tuyệt phẩm dịch thuật như Hoàng Tử Bé và Cõi Người Ta. Tuy vậy, cách làm
phá cách, không chịu tuân theo lề lối, đúng hơn là theo một thứ lề - lối - phi
- lề - lối của tương lai, đã làm nhiều người không chịu nổi, nhất là những nhà
nghiên cứu trường trại, hoặc những người có đầu óc chuồng trại.
Một trong những cách sống thể
hiện sự nhất quán của thi cách và nhân cách Bùi Giáng đó là bệnh điên của thi
nhân. Đành rằng xưa nay thiên tài và điên là chị em ruột. Nhưng cái điên của
Van Gogh, của Dostoievski thì ai cũng nhận ra đó là bệnh. Chỉ có trường hợp Bùi
Giáng thì mới có chuyện một điên mười ngờ. Bởi thế, tôi tạm gọi đó là điên -
Bùi - Giáng. Người ta đã, và hẳn còn sẽ, tốn nhiều giấy mực để bàn về chuyện
Bùi Giáng có điên thật hay không. Tạm gác sang bên vấn đề bất khả giải này, hay
có giải được cũng có thể chẳng chứng tỏ được nhiều điều, thì có thể thấy, Bùi
Giáng trước hết là người ngộ chữ, thậm chí còn ngộ chữ có nòi (14). Khác với
những kẻ mọt sách thường là nô lệ cho chữ có sẵn, người ngộ chữ tuy cũng đam mê
chữ thái quá, nhưng lại thích đùa nghịch chữ, làm mới chữ. Sự thái quá là không
bình thường, bị coi như một thứ bệnh, bệnh điên. Mà sáng tạo, nhất là sáng tạo
văn chương nghệ thuật, thì bao giờ cũng thái quá, cũng không bình thường, cũng
điên rồ. Điên - Bùi - Giáng, bởi thế, có thể xếp vào loại điên - nghệ - sĩ, một
thứ điên mà không điên, không điên mà điên.
Bùi Giáng, trước hết, rất ý
thức về cái điên của mình. Đây là một điều mà ở người điên thuần bệnh lý không
bao giờ có. Kể cả với người lúc tỉnh lúc điên, vì khi ở trạng thái này thì anh
ta lại quên hẳn trạng thái kia. Người điên, vì thế, không biết là mình điên, tức
hoàn toàn bị vô thức điều khiển, và sẽ khăng khăng phủ nhận nếu có ai đó bảo
mình điên. Bùi Giáng, ngược lại, làm rất nhiều thơ về sự điên của mình, như
“Người Điên Uống Rượu”, “Ông Điên”, “Thơ Điên”, “Quá Khứ Của Anh”… Thậm chí Bùi
Giáng còn sáng tạo ra cả thứ ngôn ngữ của người điên, mà, theo ông, ngôn ngữ
què quặt của người tỉnh khó mà hiểu được nó, nhất là ngôn ngữ của người điên có
nghề nghiệp:
Người điên ngôn ngữ điệp
trùng
Giở chừng như mộng giở chừng
như mê
Thưa em ngôn ngữ quặt què
Làm sao nói được nghiệp nghề
người điên
(“Người Điên”)
Không những xác định cái
điên của mình, mà Bùi Giáng còn dấn thân quyết liệt vào nghề nghiệp điên. Bởi lẽ,
thi nhân tìm thấy ở điên niềm hạnh phúc. “Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời”. Hạnh
phúc là khi mình đồng nhất với mình. Điên là trạng thái trùng khít hoàn toàn giữa
con người và bản thân hắn ta. Một sự trùng khít ở cấp độ bản năng, thực vật.
Điên Bùi Giáng thì không hẳn là vậy. Ông vẫn nhận ra sự nghiêng lệch giữa mình
và thế giới, và vì thế mà muốn co vào cái điên của mình như một vỏ bọc, để mình
được là mình. Điên của Bùi Giáng, bởi vậy, chính là một thái độ sống, một cách
tồn tại ở đời.
Như vậy, Bùi Giáng, ý thức
hoặc vô thức, đón gặp sự điên của mình, để, một mặt vượt thoát khỏi mọi can thiệp
của cái xã hội, vốn quyền uy và thực dụng, vào lối sống riêng của mình; mặt
khác, bằng hành động điên rồ gửi sự minh triết đến cho mọi người, nhất là những
con người bình thường. Hình ảnh Bùi Giáng ăn mặc lôi thôi lếch thếch, cổ đeo đầy
ống bơ, giày dép, đứng ở ngã tư đường phố Sài Gòn, chỉ lối cho con người và xe
cộ qua lại, gợi nhớ đến các nhà tiên tri cổ đại. Hoặc Bùi Giáng “nuôi” rất nhiều
lợn đất, gà nhựa ở nhà và đi đâu ông cũng nhớ về cho chúng ăn. Và mỗi khi cho rằng
loại gà lợn này đi chơi đâu xa, Bùi Giáng thường rải gạo dọc đường để cho chúng
nhớ lối mà về nhà. Những cảnh tượng ấy, quả thực, cũng giống như một cuộc trưng
bày nghệ thuật trình diễn hoặc sắp đặt giàu ý tưởng. Hay, đúng hơn, Bùi Giáng
đang làm thơ. Một bài thơ bằng các vật liệu phi ngôn từ của loại thơ cụ thể.
Người điên cũng như người chứng
ngộ đều cùng chung một cõi vô trí. Nhưng người điên thì ở bề dưới của trạng
thái đó, còn kẻ chứng ngộ thì ở vùng trên. Di chuyển giữa hai đường biên đó,
Bùi Giáng không bao giờ điên thật và cũng không bao giờ chứng ngộ, cảnh giới của
thực tướng là vô tướng, chân ngã là vô ngã. Ông vẫn còn đặt một chân ở cuộc đời,
vẫn đau khổ vì cuộc đời: “Anh đã định suốt thiên thu vạn kỷ/ Làm thằng điên rồ
dại suốt thiên thâu/ Nhưng em ạ, dường như anh vô lý/ Lúc đoạn trường anh đứt
ruột khổ đau”. Vì còn đau khổ nên ông vẫn cần ngôn ngữ, vẫn tin vào lời, dù lời
của ông đã gần với không - lời, tư duy của ông đã gần với không - tư duy. Có lẽ,
nhờ thế mà chúng ta có được một Bùi - Giáng - Tuyệt - Tự - Thi, một thứ thơ tuyệt
vời ngôn ngữ (tự) và một nhà thơ không thể có người thứ hai nói dõi. Ông như một
Bồ Tát không bước hẳn vào cõi vô ngôn, vô trí mà vẫn ở lại với Lời để cứu Lời.
Cuối cùng, như để lại một mật
ngữ, trong Lời tựa cho cuốn Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại, Bùi Giáng viết
về F.Nietzsche như là để nối cái điên của mình vào cái “đại điên” của những vĩ
nhân trong lịch sử: “Cái dịu dàng như hươu non đành chực bóp chết lòng mình để
rống to như thú dữ. Nhưng lập tức lời nguyền rủa bốn phía vang lên. Và
Nietzsche đã điên. Trước Nietzsche mấy chục năm, Hoederlin cũng đã điên. Cùng với
bao kẻ khác đã điên. Để ngày nay… Để ngày nay chúng ta tụ hội về đây xôn xao
nêu câu hỏi: Cớ sao mà điên? Nêu một cái rất ngây thơ tròn trĩnh”.
Như vậy, với việc đưa ngôn
ngữ trở về với sự vật, rồi lại coi sự vật, trật tự sự vật, tức cuộc đời, tức thực
tại chỉ là các trò chơi ngôn ngữ, tức thống nhất vào ngôn ngữ cả sự biểu đạt thực
tại lẫn thực tại được biểu đạt, Bùi Giáng đã vượt qua chủ nghĩa hiện đại, mở một
cánh cửa vào hậu hiện đại, để hôm nay, càng lúc càng đông nhà thơ trẻ (15),
với những kích thước tài năng và tầm vóc tư tưởng khác nhau, chen chân qua
khung cửa hẹp ấy (16). Nếu trước đây, Nguyễn Du mở ra thời kỳ trung đại cổ
điển trong văn học Việt Nam, nâng nó lên ngang tầm khu vực Đông Á, còn Tản Đà
vào những thập niên đầu thế kỷ XX đã mở đầu cho thời hiện đại, đưa văn học Việt
Nam vào quỹ đạo thế giới, tuy có sự lệch thời gian, thì Bùi Giáng ở những mười
năm cuối của cùng thế kỷ ấy đã đi đầu trong việc mở ra một thời đại mới cho văn
học Việt Nam, văn học hậu hiện đại. Có điều lần này, ít nhất với trường hợp Bùi
Giáng, sự phát triển của văn học Việt Nam so với thế giới không còn là sự phát
triển tương ứng nữa mà là đồng thời, tức nhịp bước cùng thế giới. Và quan trọng
là sau ông đã rậm rịch những chân bước khác. Bởi thế, theo cái cách mà
Heidegger gọi Hoederlin, tôi cũng muốn vinh danh Bùi Giáng, cũng như Nguyễn Du
và Tản Đà trước đây, những thi nhân làm thay đổi hệ hình tư duy nghệ thuật thời
đại, không phải là “nhà thơ giữa các nhà thơ, mà là nhà thơ của các nhà thơ” (17).
------------------------
(10). Trò chơi ngôn ngữ
(Sprachspiel) là khái niệm do triết gia Áo Ludwig Wittgenstein (1889 – 1951) đề
xướng, sau đó được nhiều triết gia khác sử dụng, đặc biệt là triết gia hậu hiện
đại Pháp Jean – Francois Lyotard (1924 – 1998) trong cuốn sách thời danh của
ông Hoàn cảnh hậu hiện đại (Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới
thiệu, Tri thức, 2007).
(11). Mai Thảo, “Một vài kỷ
niệm với Bùi Giáng” trong Bùi Giáng trong cõi người ta, sđd, tr.240.
(12). Mai Thảo, bđd, tr.236.
(13). “Nồi hầm” là một từ
người ta nói về văn hóa Mỹ, một văn hóa đa sắc tộc, đa bản sắc ở tầng nền trải
qua sự chưng cất của một thứ “nồi hầm” nào đó đã tạo ra sự thuần nhất của cái gọi
là “văn hóa Mỹ” ở tầng trên. Văn hóa Việt Nam, thật tiếc, chưa có cái nồi hầm
như vậy, mà chỉ có cái gọi là hầm bà làng.
(14). Bùi Thuyên, thân sinh
nhà thơ Bùi Giáng, cũng nổi tiếng xuất khẩu thành thơ và thích chim gái.
(15). Khái niệm trẻ trong
văn học trẻ, văn trẻ, thơ trẻ thường dùng hiện nay chỉ tuổi tác một phần, nhưng
chủ yếu chỉ những sáng tác xuất hiện vào thời hậu – Đổi mới, có nhiều điểm khác
biệt với văn học chính thống, nhưng không hẳn là phi chính thống, vì thế mà nó
vẫn được chính thống thừa nhận (hẳn vì mong một ngày nào đó nó sẽ già!).
(16). Khung cửa hẹp tiểu
thuyết của A.Gide do Bùi Giáng dịch.
(17). Xem Alain Boutot, Heidegger,
PUF, Paris, 1989 (in lần 2 có sửa chữa).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét