Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

Giở lại trang báo cũ

Giở lại trang báo cũ
Người ta nói rất đúng rằng, báo chí là chứng ngôn của lịch sử. Vào thời gian gần đây, như một sự tình cờ may mắn, tôi có trong tay số báo Tuổi trẻ Chủ nhật ra ngày 24/5/1987. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Số báo ra đời vào những năm tháng đầu tiên của thời Đổi mới ở ta. Rất nhiều điều mới lạ. Trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Lạ nhất là ở cái nhìn mới – cái nhìn có sức soi rọi nhiều điều, lật tung nhiều điều, và làm sáng tỏ nhiều điều. Báo chí chuyển động nhịp nhàng trong sự chuyển động chung của đời sống.
Tâm điểm của số báo là Mục Bạn đọc đặt câu hỏi. Người được hỏi là nhà thơ tài danh Chế Lan Viên. Vẫn bức ảnh thân thuộc: Chế Lan Viên cười thật tươi, và cũng thật cởi mở. Tôi để ý đến mái tóc không được chải chuốt mà có phần tự nhiên, không ít sợi chĩa ra chung quanh. Theo tôi, đây là cứ liệu quan trọng về quan niệm nghệ thuật của Chế Lan Viên  trước khi nhà thơ qua đời. Ông đặt rất nhiều tâm huyết và trí tuệ vào từng câu trả lời. Đặc biệt là trách nhiệm công dân rất cao của người cầm bút. Toà soạn lưu ý bạn đọc tới bức thư ngắn gởi kèm, trong đó có đoạn: Những vấn đề này đều hóc búa… Toà soạn đừng bỏ, thêm, bớt gì. Tôi sẽ vui lòng hoãn để làm thêm, thậm chí nếu vì lý do nào đó Tòa soạn không đăng, cũng không can gì, nhưng nếu đã đăng xin cho y nguyên vậy. Rất đúng phong cách của Chế Lan Viên. Cũng gợi lại không khí công khai, dân chủ buổi đầu. Sau đây là những câu hỏi, những câu trả lời đáng suy nghĩ nhất. Tôi cũng xin được phép lạm bàn về chúng.
1- Hỏi: Động cơ nào đã thúc đẩy ông có một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nguồn cảm hứng trước và sau Cách mạng tháng Tám?
- Trả lời: Tôi cũng như các anh Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh… chuyển hướng vì muốn có ích hơn.
- Nhời bàn: Thật thẳng thắn và trung thực. Cũng rất xác thực. Cứ đọc bất cứ bài thơ nào của thế hệ các nhà Thơ Mới đi theo Cách mạng cũng thấy rõ điều đó. Vậy là, không chỉ đúng với Chế Lan Viên. Câu trả lời có ý nghĩa tiêu biểu.
2– Hỏi : Ông nhận định sao về thơ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám?
- Trả lời: Thơ lãng mạn tiền chiến là đỉnh cao trong di sản dân tộc, sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… nhưng rồi nó bế tắc. Đó là một trong nhiều nguyên nhân đưa các nhà thơ tiền chiến đi theo Cách mạng.
- Nhời bàn: Một cái nhìn Thơ Mới trên tinh thần đồi mới. Giờ thì không mấy ai ngạc nhiên. Vào thời ấy thì khác, đã thật sự khiến nhiều người ngạc nhiên. Không, phải nói là kinh ngạc. Tôi thích từ tiền chiến được Chế Lan Viên sử dụng. Đây là tờ báo của Thành phố Hồ Chí Minh. Ông đã không một chút e dè. Có lẽ vì thế mà khi nói nó bế tắc, sức thuyết phục càng cao hơn chăng?
3- Hỏi: Ông đánh giá sao về thơ sau Cách mạng tháng Tám? Các nhà thơ nổi danh thời tiền chiến bây giờ làm thơ kém đi?
- Trả lời: Nền thơ Cách mạng với tất cả nhược điểm của nó vẫn là lớn nhất trong lịch sử thơ dân tộc… Cùng với Tố Hữu, các nhà thơ tiền chiến đã là chủ lực thơ Cách mạng. Có người viết hay hơn trước, có người viết kém đi. Cho dù tất cả viết sút đi, cũng không can gì, ngoài họ ra còn hàng trăm thi sĩ hậu chiến do Cách mạng đẻ ra nữa.
- Nhời bàn: Biện chứng và sắc sảo. Đáng nói nhất là lập trường trước sau đều vững vàng. Vào thời ấy, rất cần một tiếng nói thành thật, đầy uy lực của một nhà thơ lớn, một nhà hoạt động văn hóa lớn như Chế Lan Viên. Tác dụng thật sâu và rộng.
4- Hỏi: Đời sống của chú hiện nay ra sao?
- Trả lời: Chú và vợ chú hiện vẫn ở trong biên chế, chưa hưu. Nhưng đời sống rất cực… Một năm rưỡi nay ăn giá gạo cao chưa được bù. Nhuận bút càng thảm hại… Tuyển tập Chế Lan Viên 50 năm  chú lãnh 3000 đồng… Trong  khi đó lương công nhân là 4000 đồng… Thôi nói chuyện ấy buồn lắm. Nhưng cháu đừng lo. Cô chú vẫn làm việc…
- Nhời bàn: Câu hỏi đi thẳng vào một trong những vấn đề nhức nhối và nhạy cảm. Câu trả lời cũng rất thẳng, đi ngay vào hiện trạng. Không quên nói lại. Vấn đề được lật đi lật lại, vừa thấu lý vừa đạt tình. Thực tế là cay đắng, ai cũng thấy thế mà không mất lòng tin.
5- Hỏi: Chắc chắn Bác là người đã được tận mắt chứng kiến số phận của những người cùng thời với Bác trong nhóm Nhân văn Giai phẩm… Ta sử dụng nhiều mũ để chụp lên đầu họ chăng? … Nên chăng chúng ta cần có cách định công luận tội đối với họ công bằng hơn, trung thực hơn, nhân đạo hơn?
- Trả lời: Về vấn đề Nhân văn, hồi ấy nhiều anh em đã có ý định xin Đảng cho mình làm một tờ báo để đánh Nhân văn sắp ra… Anh Xuân Diệu thì là kiện tướng có bài liên tục đánh Nhân văn. Thế là rõ. Về số phận anh em Nhân văn… năm 73, đồng chí Lê Đức Thọ đã thay mặt Bộ Chính trị gặp anh em xoá cái án ấy. Nhưng đừng thấy bây giờ có người nói bậy gấp mười Nhân văn vẫn không có tội gì mà bảo hồi ấy Nhân văn không có tội. Đừng xí xoá… Nhưng thành kiến với anh em còn rất nặng. Có anh con đi học, vợ đi nước ngoài còn gặp khó khăn. Theo tôi, nên cho phép và khuyến khích rõ ràng anh em đăng sáng tác của mình, ký tên thật. Những gì viết hay hồi chưa Nhân văn, xem lại, thấy khá thì in lại.
- Nhời bàn: Chuyện Nhân văn Giai phẩm dễ gây đụng chạm. Đến giờ vẫn thế. Nhưng người ta hỏi, tin mình mà hỏi, mình không nên né tránh. Thoái thác càng không nên. Câu trả lời rõ về ý tứ, mềm mỏng trong cách nói. Quan trọng là lộ rõ quan điểm của ông xung quanh một hiện tượng phức tạp vào bậc nhất về chính trị, gắn chặt với văn chương. Lại là một trong những điểm nhạy bén của tư duy thời Đổi mới.
6- Hỏi: Nhà thơ B.Paxternak hiện nay được phục hồi. Tại Việt Nam, với tư cách là nhà thơ ông có suy nghĩ gì? Trong nền văn học cách mạng đương đại có trường hợp nào đáng tiếc tương tự? Nếu có thì được phục hồi không?
- Trả lời: Hoan nghênh việc phục hồi B.Paxternak. Thơ ông ấy hay lắm. Ở ta à? Phải bình tĩnh xem lại đã, đừng thấy anh em làm rồi mình sốt ruột. Tây, Mỹ đang khoét vụ này, mà quên rằng Tây thì truất tượng Aragông, Mỹ đụng cả đến cổ điển. Nhưng ở ta thì có cái chuyện có một thời gian dài các nhà phê bình thích gọi phê bình là con roi mà quất luôn luôn. Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Hà Minh Tuân, Nguyễn Thành Long, Dũng Hiệp, Phạm Tiến Duật … đều bị quất. Thường là đánh không cho cãi lại. Giờ đọc lại các tác giả trên có khi không sai gì, hay sai nhẹ thôi, không đáng ầm ỹ nặng nề thế. Hiện nay dễ chịu hơn nhiều, coi chừng có nơi buông lỏng. Mà cũng cần cảnh giác cái bệnh quất roi kia, dễ di căn, biến chứng, tái phát, phục hồi.
- Nhời bàn: Xem ra, Chế Lan Viên gắng giữ sự cân phân trong quan điểm của mình. Không thiên tả cũng không thiên hữu. Thời gian đã xác minh chỗ đứng của ông là đứng đắn. Tâm đắc nhất là sự chê trách, không, phải nói là phê phán, có phần chế nhạo của ông đối với kiểu phê bình được so sánh với ngọn roi. Gần đây, rất lấy làm lạ là có nhà phê bình còn bám vào cái roi ấy. Trong nhận thức và cả trong hành động. Rõ ràng, lương tri của Chế Lan Viên được thức tỉnh từ rất sớm. Ông cố vượt thoát ra khỏi những ràng buột dai dẳng của thời mình.
7- Hỏi: Cách đây nửa thế kỷ, ông đã nhận định về thơ Hàn Mặc Tử: Mai sau còn một chút gì đáng kể đó là thơ Hàn Mặc Tử. Hiện nay ông đang thực hiện Tuyển tập thơ Hàn Mặc Tử. Xin ông cho biết ý kiến của ông về câu nói đó?
- Trả lời: Câu ấy viết bởi cậu bé 20 tuổi là tôi lúc ấy sai 50%. Làm sao cậu ấy biết tất cả để viết Tất cả những gì của thời kỳ này sẽ biến tan đi. Huống nữa lúc ấy có Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Quách Tấn, Bích Khê và trong bí mật có Tố Hữu. Nhưng câu của cậu ta cũng đúng 50%. Hàn Mặc Tử với tất cả nhược điểm lồ lộ của mình vẫn là một thiên tài của dân tộc, của thế kỷ. Do đó tôi 67 tuổi rồi còn lo tuyển tập cho anh Hàn.
- Nhời bình: Chế Lan Viên thừa nhận sự ấu trĩ không vượt thoát được của thời trẻ. Ông không phủ nhận sạch trơn: 50% là đúng. Rồi ông đưa ra một nhận định bao quát thật xác đáng về Hàn Mặc Tử. Sức thuyết phục nhờ thế mà tăng hơn nhiều.
Đấy là những câu hỏi và những câu trả lời đáng bàn nhất. Ý nghĩa của chúng sẽ tăng thêm nếu đặt tờ báo, số báo vào không khí chung của thời ấy. Cùng xuất hiện trên mặt báo là những bản tin, và những bài viết đáng chú ý sau:
- Ngẫm chuyện thơ ca giữa mùa hè nóng bức của nhà thơ Đỗ Trung Quân, có đoạn: Đôi khi bực bội, buồn nản tôi thoáng tự hỏi: trong thời buổi chật vật, nháo nhào này liệu những nhà thơ có còn cần thiết không? Tất nhiên sẽ không cần thiết chút nào nếu như thơ anh chỉ nói nhăng nói cuội…
- Nhà văn Valentin Raxputin và cuộc đấu tranh bảo vệ môi trường của nhà báo Hồng Lĩnh, có đoạn: Ông (Valentin Raxputin) vốn là một trong những người đấu tranh mạnh mẽ nhất chống lại hiểm hoạ ô nhiễm vùng Xibêria, quê huơng ông, và đặc biệt là hiểm hoạ ô nhiễm hồ Baican, hồ nước ngọt lớn nhất thế giới, một khu thắng cảnh tuyệt đẹp của đất nước Xô Viết.
- Bản tin về kết quả liên hoan phim quốc tế Cannes 1987: Phim “hối hận” (Liên Xô) được tặng thưởng đặc biệt của ban giám khảo. Đây là một tác phẩm điện ảnh gây dư luận nhất tại Liên Xô vào thời gian đó, sau khi nó được giài phóng khỏi kho lưu trữ những phim bị cấm để chiếu rộng rãi.
Đặc biệt, Ban biên tập Tuổi trẻ Chủ nhật chắc có dụng ý khi cho đăng ngay cạnh bài báo trên là hai bài thơ chưa từng được công bố của Chế Lan Viên: Bộ ba và Đôi giày chặt. Kết thúc bài thơ thứ hai là những câu thơ:
Càng lên cao Tháp cao – nhìn xa
Càng không được đi cà nhắc…
Tuổi trẻ Chủ nhật số 20 năm 1987 là một tư liệu văn chương quý giúp bạn đọc có thể hồi hiện lại không khí đã diễn ra trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới văn hoá, văn chương ở ta. Đó chính là giọt nước giúp ta hình dung ra phần nào sự bao la của biển cả.
Bút ký văn học
Dạo này, tôi thường hay đọc lại những trang hồi ký của các nhà văn Việt Nam về nghề nghiệp, về thời cuộc, nhất là các cuốn “Cách mạng, kháng chiến và đời sống văn học”, “Chiến trường, sống và viết”... Rồi Nguyên Hồng, Tô Hoài, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thị... Đó là những tư liệu sống thật sự quý giá. Đọc chúng quả rất bổ ích, ngay cả lúc này, khi mọi chuyện về nghề viết tưởng như khác trước, khác rất nhiều rồi.
Trong chiến tranh, thiếu thốn đủ thứ. Cái ăn, cái mặc còn thiếu, nói gì đến phương tiện để viết. Nhà văn Thanh Giang kể  “Ở chiến trường, sáng tác về đêm. Chỉ dưới ánh đèn hạt đậu bằng chai rượu cồn, chúng tôi viết trang này qua trang khác, viết thâu đêm” (Chiến trường sống và viết). Còn nhà văn Phan Tứ thì nhớ mãi cái “chỗ ngồi viết lý tưởng” của mình vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Đó là kho thóc của B28 (tức Đảng ủy Nam Tam Kỳ) ở trong một cụm rừng ven núi, giữa thôn Tứ Mỹ và nóc ông Bền - một làng người Thượng. Ông cam đoan sẽ tự túc gạo, muối và giữ kho thóc. Tuy ông cũng được ưu tiên hưởng sinh hoạt phí 5 đồng tiền Ngụy, đủ để mua hai lon gạo và một ít muối. Trong Ban Tuyên huấn khu V chỉ có đồng chí Phó Ban và ông là được cấp đến mức này (Chiến trường sống và viết). Sống kham khổ vậy mà nào có được yên để viết. Đỗ Chu, theo hồi ức của Lưu Quang Vũ, khi còn là một chiến sĩ phòng không, “ở trong một chiếc lều vải bạt cùng với các chiến sĩ của khẩu đội. Bàn viết của Chu là một hòm đạn pháo 57. Anh đang chuẩn bị tập “Phù sa” cho Nhà xuất bản Văn học; công việc của anh luôn bị ngắt quãng bởi những hiệu lệnh báo động. Đỗ Chu bỏ bút, chụp lên đầu cái mũ sắt, chạy ra ụ pháo, ngồi vào vị trí pháo thủ số 5 mà anh đã rất thành thạo” (Chiến trường sống và viết).
Có thể đọc nhiều, rất nhiều những dòng, những trang như vậy. Và chợt một câu hỏi lớn nảy ra trong đầu tôi : Vậy tại sao giờ đây, khi điều kiện sống và viết của các nhà văn ta đã được cải thiện về căn bản, hầu như không còn ai sống quá kham khổ, quá chật vật, mà sao vẫn có người chưa dám xả thân vì nghề, chưa thật thiết tha với trang giấy và ngòi bút như cần phải có ? Để phần nào giải đáp câu hỏi lớn nhức nhối này, tôi lại lần dở tiếp những trang sách còn nóng hổi sự sống văn chương kia. Và...
Nguyễn Thi thổ lộ: “Ước mợ của tôi là được sống và chiến đấu cùng với đồng bào Nam bộ. Nghệ thuật của tôi cũng bắt nguồn từ đó. Tsêkhốp đã từng nói: Nghệ thuật sở dĩ đáng quí và thuyết phục được mọi người chính là ở chỗ không cói dối được đó. Tôi phải đi chiến trường mới được” (Chiến trường sống và viết). Nguyễn Thị, một nhà văn - chiến sĩ tiêu biểu nhất đã đổ máu vì những trang viết chân thực như vậy đấy! Ở đời mỗi người tự chọn cho mình một cách chết, và cách chết thể hiện cách sống của mỗi người là theo ý nghĩa này chăng? Con người ấy sẽ làm nên trang viết ấy, nào có khó hiểu gì đâu.
Ý nghĩ của nhà văn Nguyễn Thi có gì thật gần gũi với ý nghĩ của nhà thơ Xuân Diệu trong cuộc kháng chiến chống Pháp khi lần đầu tiên ông tiếp xúc với chất thơ mới mẻ của bài “Cá nước”. “Một chất gì đó đã sinh ra - Xuân Diệu kể lại - cái chất đó có thể sinh ra được do tâm hồn người... Đó là lòng chân thành , chân thành, đó là Tố Hữu, Tố Hữu. Chúng tôi, một số thi sĩ đã viết thơ từ trước Cách mạng tháng Tám, không phải là chúng tôi không biết xào nấu cho thơm điếc mũi lên! Nhưng chúng tôi đứng lặng trước cái chất tình người này: Một thoáng lặng nhìn nhau - Mắt đã tìm hỏi chuyện - Đôi bộ áo quần nâu - Đã âm thầm thương mến, trong tiếp xúc hàng ngày, những con người đã thấu đến cốt lõi của nhau: Tình giai cấp, tình kháng chiến” (Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy). Cách viết của Xuân Diệu là vậy: Đầy cảm xúc và rất phóng khoáng. Nhưng thật, thật lắm! Ta hoàn toàn có thể tin được.
Ở một góc độ khác, Nguyên Ngọc “nhớ lại và suy nghĩ”: “Những năm tháng  đó trên chiến trường, những người viết văn và làm nghệ thuật chúng tôi đều thầm có một mong muốn, còn hơn thế nữa, một khát vọng, một nhu cầu tinh thần bức bách : Khát vọng được sống như những người anh hùng”. (Chiến trường sống và viết). Tôi nghĩ “khát vọng” này đã thật sự truyền sức sống sang “Đất nước đứng lên”, “Đường chúng ta đi”, “Rừng Xà nu”... cùng nhiều tác phẩm say cuốn lòng người khác của anh. Người đọc được soi sáng bởi lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp của nhà văn, để rồi:
Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thủy triều vẫy gọi những vầng trăng
                                     (Thơ Chế Lan Viên)
Những trang sách đi ra từ tầm cao của cuộc đời và góp phần nâng cuộc đời lên những tầm cao mới...
Tôi lại đọc, đọc hồi ức của Nguyên Hồng về những ngày cuối cùng của Nguyễn Huy Tưởng - một nhà văn không chỉ lớn nơi trang sách mà còn lớn, rất lớn trong cuộc đời riêng: “Nguyễn Huy Tưởng mổ xong, nằm thiêm thiếp. Gương mặt anh hốc hác, nhợt nhạt. Người anh đẫy chắc thế mà gầy rám xuống giường. Thấy tôi vào, Nguyễn Huy Tưởng từ từ mở mắt. Anh đưa ngay tay đón bắt tay tôi, cười, giọng thều thào :
- Tơ rai!... Tơ rai!  ... Tơ rai! (Tiếng Anh) nghĩa là: Tin tưởng!) (Sức sống của ngòi bút). Hãy nhớ lại, Nguyễn Huy Tưởng sống trong những năm tháng đầy khó khăn như thế nào ! Mọi chuyện đâu đã được an bài. Xung đột là có thật, cuộc xung đột quyết liệt diễn ra hàng ngày, trong từng văn nghệ sĩ. Vậy mà họ đâu có mất niềm tin và hy vọng vào sự nghiệp này, vào cuộc sống này. Và họ đã tìm cách để vươn dậy, để vượt thoát mọi thách thức, mong giữ cho được lòng tin. Thử tưởng tượng, một người bình thường khi mất lòng tin thì sẽ ra sao? Huống hồ, đây lại là nhà văn. Bạn đọc biết nương tựa vào đâu khi nhà văn - người đại diện cho lương tri của thời đại, lương tâm của dân tộc lại bị nao núng, bị lung lạc. Đừng đánh mất cái quí giá nhất của người cầm bút, đó là lòng tin. Bài học thấm thía rút ra từ cuộc đời cầm bút của Nguyễn Huy Tưởng đâu có nhỏ. Nghĩ tới ông, tôi hay liên tưởng tới Phađêev ở Liên Xô (trước đây), nhà văn gần như sống cùng thời và có hoàn cảnh tương tự như Nguyễn Huy Tưởng. Hoàn cảnh sống càng tăm tối, tấm gương của nhà văn này lại càng tỏa sáng... Đấy là chưa nói thiếu hoặc mất lòng tin, thì nhà văn chưa thể cầm bút để viết được cái gì cho ra hồn cả. “Các tác giả chỉ nhằm trình bày một sự thật mà họ tin hoàn toàn rằng chính đó mới là sự thật. Họ chỉ cốt diễn tả một chân lý mà họ tin đến tuyệt đối rằng chính điều đó mới là chân lý” (Nguyễn Khải - Một bản thu hoạch).
Tôi đọc tiếp những hồi ức của Văn Cao về Thâm Tâm. Khoác ba lô đi theo kháng chiến, từ “chân trời của một người” tới “chân trời của tất cả”, Thâm Tâm viết khá chật vật. Do vậy khi làm xong bài thơ “Chiều mưa đường số 5”, nhà thơ vui sướng lắm, tâm đắc lắm. Ông nói với Văn Cao :
- Đã lâu mình mới làm được một bài đấy!
- Sao anh không làm nhiều vào?
Thâm Tâm cười khẩy:
- Cũng muốn làm nhưng không được.
Vâng, làm thơ, viết văn, một thứ văn thơ đích thực, đâu có dễ dàng như... đi dạ hội, hay như... đi ăn tiệc. Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm (Kiều), ấy là khi cảm hứng dâng đầy, câu chữ cứ như tuôn trào dồn dập, tự nhiên. Không thể dừng, không thể dứt được! Nhưng cảm hứng, nói như văn hào Pautôvxki, sẽ không đến nếu ta bỏ “đói” nó. “Tứ khổ, ngôn cam”, suy nghĩ khổ đắng, nói ra mới ngọt ngào được! Thấy nhiều nhà thơ (thường là loại “bậc trung”), viết nhanh đến phát khiếp đi được... Khi mà tài năng ở người cầm bút chưa đủ lớn, tôi có thói quen đoán định giá trị của tác phẩm qua công sức của người viết. Trở lại câu chuyện trên, Thâm Tâm viết khó khăn là thế mà Văn Cao cũng đã hài lòng với bài thơ ấy đâu: “Tôi không thích bài thơ ấy lắm, mặc dù nội dung của nó đã khác hẳn thơ anh ngày trước. Tôi thấy bài thơ hơi dễ dãi, không mang màu sắc gì riêng của tác giả” (Chiến trường sống và viết).
Ôi, cái nghiệp văn chương mới cay nghiệt làm sao! Nhiều người kinh hãi là phải. Rất dễ đi vào và rồi bước ra tay trắng lại hoàn tay trắng như chơi. Văn chương, nghệ thuật, đâu phải chuyện “lấp trống thời gian... việc giống nhau ngày này qua ngày khác... chuyện kỹ xảo... không phải là cuộc sống dễ dàng” (Pautôvxki).  
                                           Đà Lạt, 3/1998
Phạm Quang Trung
Theo http://www.pqtrung.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...