Thứ Hai, 30 tháng 5, 2016

Hơn nửa đời hư 2

Hơn nửa đời hư 2
10: Một công chức đời tây
Mỗi thế hệ đều sanh ra lớp người của thế hệ ấy, xấu có tốt có không nên quơ đũa cá nắm. Công chức đời Tây, không phái là hoàn toàn hư tệ, lại tôi là người chi mà dám phê bình người đồng một thế hệ với tôi?
Duy kể về bức bối, tôi thấy ông nầy có lẽ làm điển hình được.
Ông là người duy nhứt ở toà bố Sa Đéc nói trọ trẹ khó nghe, người ta thấy ông hút thuốc lào nặng, nên nói ông ở Huế vào đây, nhưng tôi không rõ cho lắm, duy biết trước kia ông có đi lính cho Pháp, có sang Pháp làm thông dịch viên cho đạo binh lính thợ không chuyên môn, Pháp gọi ouvriers non spécialisés, viết tắt O N.S, là vì lính nầy đội cát-két giống mồng chim chào mào, nên được tặng là lính chào mào nổi danh là vô kỷ luật, giỏi tài ăn quịt nói phét, mỗi mỗi bắt chước lính Tây: giựt tiền của gái làng chơi, mà không có cái gì xấu mà họ chừa, vì ỷ mình có sự ủng hộ ngầm của quan thầy Tây mà họ là tôi trung thành từng giúp một tay làm việc nặng nề như khiêng vác trong trận giặc đệ nhứt thế chiến bên Âu châu (1914-1918), khi đám giặc nầy tàn, họ vỗ ngực xưng đã từng chống giặc Đức giúp Pháp giữ an bờ cõi.
Để thưởng công, ông nầy được cho nhập ngạch thơ ký soái phủ Nam Kỳ (secrétaires du gouvernement de la Cochinchine) và bổ nhiệm ông về toà bố Sa Đéc, lối năm 1932. Ông người cao ốm, trạc tứ tuần, có vợ là người rừng Nam, bà nấy nhan sắc tầm thường nhưng có vốn liếng khá, chuyên nghề cho vay đặt nợ, khi đến Sa Đéc vợ chồng mướn phố ông thầy thuỷ Ngỡi, nơi đường Vĩnh Phước, gần chợ Tân Phú Đông.
Ông ưa hoang hoác khoe từng nếm cơm đủ ba xứ Nam Trung Bắc, gặm bánh mì sơn đá, và có công trả thù mẫu quốc ngủ với đầm, làm cha Tây! Mấy bữa tiệc đám rượu vào, ông khoe gái đầm không khó, có tiền cho là được, chúng cả gan mạo hiểm, mấy ngày lính nghỉ lễ, chúng đi xe đạp ôm chăn nệm ra hành nghề rước khách đủ màu da, bụi cây xó hóc nhà sụp đổ gì cũng trối kệ miễn thù lao sòng phẳng, một bao thuốc lá hay một khúc bánh mì nguội cũng xong! Và có lệ, hằng đôi ba tháng để giữ vệ sinh cho quân lính, thầy đội Tây đưa tính lừng ê kíp vài chục đứa, cho phép đi thám hiểm gái bọt đền (bordel), nơi đây tồi tàn lắm, xem người như súc vật hay như cái máy, bất ngồi xếp hàng hai ngoài cửa, tới phiên có súp lê (sifflet) là kéo vào, nhảy lên bàn có gái nằm chờ, một tiếng súp lê khác là nhảy xuống, như chưa xổ nục kịp và nếu sẵn tiền, thì ra ngoài lo lót mua phiên của thằng túng tiền để vào nhảy kỳ nhì, nhưng việc ti tiện ấy ông cũng đã trải và kể ra không ngượng miệng.
Ngày thường ông ít giao thiệp với anh em trong sở, nên chúng tôi cũng ít biết hành tung của ông ta. Thân chủ của ông là các tay bắt mồi, mấy hương chức xấu nết, chuyên đục khoét giữa đám dân trôi nổi cần có một bài thuế thân hợp lệ để khỏi bị lính tráng làm khó, số tiền lo lót họ không kể là hối lộ và xem là tiền mua bổn mạng như tiền cúng tà ma quỷ sứ.
Đổi về Sa Đéc được năm sáu tháng, một buổi chiều ông ta mới tôi về nhà lấy cớ bà phán vốn người đồng hương quê ở Sốc Trăng như tôi. Tôi vị bụng theo ông về nhà, trà nước tử tế, bà phán ra nói năm ba câu chuyện bâng quơ, việc nhìn bà con xem như bất thành, tôi từ giã ra về. Dè đâu cách ba tháng sau, một bữa đầu tháng tôi đang ngồi gần kết bạc phát lương cho các giáo chức tụ hội rất đông, bỗng thấy bà phán tay xách dù, xâm xâm bước vào phòng bút toán, không chào không hỏi, nói xán xả: “Thầy hỏi tiền tôi mà đã hai tháng không trả xu nào. Bữa nay nếu thầy không trải tôi sẽ đi thưa ông chánh!”.
Trời đất ôi! Tôi mượn tiền hồi nào? Tôi chưa biết ất giáp gì, bỗng ông phán Q., từ văn phòng phó tham biện chạy ra, lôi tay bà phán ra ngoài, nói gì với nhau nho nhỏ, bà ta ra về. Ông trở vô năn nỉ tôi rằng “việc không có gì quan trọng, xin tôi bỏ qua cho. Việc gia đạo của ông, để cho ông xử!”.
Trong lúc tức giận vì mất mặt tôi lớn tiếng phân bua, nhưng ông chịu tội hết, phần tôi mấy lo phát lương nên cũng tạm gác chuyện đó qua một bên. Sau rõ lại, bữa đưa tôi về nhà là ông lập kế dối vợ rằng tôi là người đi hỏi bạc góp, cần vay hai trăm sẽ trả làm mười tháng mỗi tháng hai mươi bốn đồng, chỗ nầy chắc ăn vì thầy làm thơ ký phát lương, có chạy đi đâu mà sợ, mà thầy là người hay mắc cỡ, nên không nói; như mình có tiền hãy đưa tôi trao lại cho thầy, rỗi mỗi tháng tôi chịu khó nhận tiền nơi thầy đem về cho mình, trong mười tháng là thu đủ vốn và lời răn rắt hai trăm bốn chục đồng, sướng quá?
Bà phán nghe bùi tai lòi tiền, ông phán ta đem đổ sông đổ biển đâu không biết, tháng đầu ông trao bà hai mươi bốn đồng y hẹn, qua hai tháng sau không thấy nữa nên bà xách dù đi tìm tôi là vì vậy. Mánh lới ấy không biết ngày nay các cán bộ tân thời có biết dùng chăng, chớ trước đây công chức đời Pháp thuộc thỉnh thoảng vẫn mượn để qua cơn túng ngặt, bất chấp đã phạm hai lỗi nặng; gạt vợ để có tiền, gạt bạn và bán đứng bạn, không kể gì chữ tín.
Chuyện ông mượn tôi kê nề để có tiền xài rồi cũng bỏ qua. Duy cái cách ông bắt vợ lớn cưới vợ bé cho Ông mới là xuất quỷ nhập thần:
Ông có quen với một cô nhỏ học trò lớp nhứt trường tỉnh, hai người đã khăng khít nhau lắm. Ông muốn đem về cho thêm gần gũi và đỡ tốn, nhưng còn sợ oai bà xã. Một hôm chúa nhựt, ăn cơm rồi ông ngồi ghế xích đu đọc nhựt trình, bà ngồi ván ngựa dang soạn áo quần để vá. Bỗng ông nói tỉnh bơ: “Ở Chợ Cồn mới có một ông thầy bói ở đâu lại, thiên hạ đua nhau tranh tới nhờ ông coi quẻ, tiếng nổi như cồn. Như mình muốn biết tài, tôi đưa mình đi xem, nhưng riêng tôi, tôi cho mình biết trước là tôi không bao giờ tin lời thầy bói”.
Bà phán nghe nửa úp nửa mở, sẵn tánh mê tín, giục ông đưa bà đến nhà. Mấy người chờ xem đều nhường cho hai ông bà coi trước.
Lão ta nói cái gì đều trúng cái nấy, nhà bà có gì kín ông đều biết, vách nứt trong buồng, cột nhà bếp có mấy cái mắt gỗ, ông nói trúng phong phục, bà phục lăn, không biết đó là do một sự cò máy, đức phu quân đã mách trước lão bốc sư. Hết việc bói rồi day qua việc coi chỉ tay. Ông phán đòi về, vì hiện còn nhiều người chờ tới phiên, nhưng bà đã mê trận và xin nán lại coi giùm chỉ tay và gia đạo. Bốc sư chụp tay ông coi trước, khen ông có ngươi vợ nhu thuận và riêng ông có số đào hoa nhưng sự nghiệp của ông đều do bà xây dựng, tuy vậy không có ông thì sự nghiệp ấy cũng khó cầm vì ông có tay giữ của? Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn, nhưng dầu ông làm phật ý bà phải rán nhịn nhục thì tai qua nạn khỏi không sao. Xem cho ông xong rồi day qua xem cho bà.
Bốc sư khen bà tướng tốt phúc đức song toàn, bỗng ông chắt lưỡi nói chỉ tiếc lằn sanh đạo của bà đức đoạn, thêm lằn hào phu thê của ông cũng đứt, hai chỗ nầy phù hợp, năm nay tháng bảy là hung nhiều kiết ít, e bà qua không khỏi. Và tháng nầy là tháng năm, bà khá đề phòng. Nói đến đó rồi bốc sư xếp tay bà lại chắt lưỡi than dài. Bà nghe sợ hỏi phăng bốc sư có cách nào giải nguy.
Bốc sư bàn hay là số bà như vậy, nên dùng cách thế tử, cho ông phán cưới vợ bé, lựa tuổi mười bảy tuổi thân ở hướng đông nam, con ấy vô tới tháng đó sẽ chết thay cho bà và bà sẽ bình yên vô sự vui hưởng đến già.
Bà day qua dò ý kiến chồng, nhưng ông phán giấy nẩy, rầy sơ bốc sư rằng không biết ý bà phán hay ghen, ép ông có vợ bé chi cho khỏi hư hại gia cáng, một vợ ông cân chịu không nổi, bày chi vợ bé vợ mọn, sống chết có mạng, hơi đâu lo xa, bói ra ma quét nhà ra rác?
Ra về bà phải năn nỉ ông suốt mấy hôm, thúc giục ông lắm ông mới siêu lòng sau khi đưa điều kiện bất buộc bà không được ghen và ông để mặc bà trầu cau cậy mai mối cưới con nhỏ tuổi thân mà ông đã quen từ trước, hết tháng bảy qua tháng tám, rồi tết đến, rồi sang xuân, con nhỏ có bụng., không thấy ai chết cả, bà kêu trời mà không dám kêu lớn, lúc ấy tôi đã đổi về Sốc Trăng, nơi quê cha mẹ, mục kích một ông phán khác cũng đi Tây về, chắp nối với bà quan năm Tây mà ông từng làm thông ngôn nhà ông có treo một cây roi mây, mỗi lần bà đánh, ông vẫn la “chết mấy chưa” và lỗi xóm đều khen ông phán H, rất dữ dám đánh bà trị bà, mỗi khi bà có lỗi.
Công chức lớp xưa không phải đều như hai ông nầy nhưng điển hình tôi biết hai ông đó.
11: Năm 1930
 Nhớ ông Cai tổng Lê Đình Quảng - Mò ốc gạo sông Tiền Giang và bữa rượu cô-nhắc Robin tại nhà ông Cai Quảng.
Với chức công táp toà bố, tôi coi về phát lương bổng cho công chức trong tỉnh, nếu tôi có tiền sẵn, nghề nầy cho vay đặt nợ là tuyệt vì mỗi đầu tháng chân lương khi phát, không ai khất hay giựt của mình được xu nào. Nhưng lúc ấy có bao nhiêu tiền tôi mua đồ cổ hết, và tuy tôi không ưa giữ bạc sợ thất thoát, sợ bị ám ảnh lấy tiền tủ là có ngày vào tù, nhưng cũng nhờ nghề nầy tôi biết nhiều về nhân vật và địa dư tỉnh Sa Đéc đáng yêu nầy. Tôi kiêm nhiệm luôn chức đi thâu thuế và đóng dấu cân lường trong tỉnh, mỗi năm mỗi thay con dấu, tỉ dụ năm 1929 con dấu khắc chữ L thì năm 1939 là chữ M, cứ thế chuyển đến hết chữ thì trở lại chữ A v.v...; sau khi đóng dấu rồi thì giao cho cò bót đi xét và phạt nhưng nhà buôn mà cân hay lít chưa có đóng dấu chịu thuế.
Trước khi thừa hành phận sự, theo luật tôi phải xuống toà án Vĩnh Long tuyên thệ vì Sa Đéc lúc đó chưa có toà, nhưng toà đã giản dị hoá cho phép tôi gởi lời thề viết, thay vì hiện diện đi hầu, và sau khi nhận giấy toà án nhìn nhận tôi trở nên chánh thức thay mặt luật đi xét cân lường và được tịch thâu nhưng lít non, cân thiếu, giúp đỡ cho người dân quê khỏi bị gian thương bóc lột lường thăng, tráo đấu, đong giạ nhỏ dùng cân non.
Kể ra mỗi khi đi như vậy, tốn công linh và mất nhiều thì giờ, công việc trong sở bị bê trễ; nhưng bù lại mấy khi được ngao du làng nầy qua làng nọ, lục lạo tìm món đồ xưa trong giờ làm việc khỏi bị quở trách?
Đường gần, như tổng Châu Thành thì gởi trát cho cai tổng chi thị các nhà buôn trong tổng nạp cân, giạ, lít tựu tại công sở sở tại cho chúng tôi đến đó kiểm xét, đóng dấu chứng nhận và thâu thuế. Mấy lúc ấy chúng tôi làm việc không hở tay vì sợ con mắt tọc mạch của cò bót dòm ngó và tâu lại chủ tỉnh. Gặp đường xa như lên Cao Lãnh hay qua Lai Vung thì phải dùng xe hơi hoặc tàu máy, khi lấy xe sở công chánh chạy cà rịch cà tang khi nào ông chánh vui lòng cho mượn xe tàu của chủ tỉnh thì đi mau về lẹ và khỏi sợ ăn banh dọc đường.
Thuế cân lường thâu vô không có là bao, mỗi lít thâu một cắc mốt (0$11) mỗi cây cân tạ cân lúa gọi cân bùn còn miễn cưỡng thâu hai đồng ngoài bạc, vị chi mỗi làng thâu độ hai chục đến hai trăm bạc thuế, nhưng có lẽ phải ép nhà buôn đóng dấu cân lường để tránh nạn cân thiếu lít non và tệ đoan làm giạ nhỏ không đủ ni tấc để gạt dân quê trong việc mua bán lúa, kỳ thật tiền thâu vô trừ ra tiền xăng nhớt và tiền vãng phản của chúng tôi, gọi tiền xúp (supplément) thì không còn lại bao nhiêu. Về cơm nước dọc đường, khi thì chúng tôi bốn người: một anh cai phu thuyền, anh đội Lê Kim Đơn trước học trường máy, tài công tàu, thầy ký Lê Văn Tốt và tôi, hùn nhau lại mua thức ăn, khi gà rô-ti khi vịt quay, xá xíu, rượu chát trà ngon, đánh chén dưới tàu trên sông cái dưới bóng mát cây bần, cây ngừa, những lúc ấy mới thấy đời công chức lớp đó có nhiều thú vị, nên nay bị chỉ trích cũng vừa, và cũng đáng. Nhưng phần nhiều, dọc đường vẫn có tay nghĩa hiệp, thầy cai tổng hay thầy bang biện đưa chúng tôi về nhà thết đãi, tôi riêng không chú trọng việc ăn nhưng có ý đi tìm đồ cổ và tìm hiểu phong tục mỗi nơi nên ít chối từ. Lúc ấy ông chánh Esquivillon vừa bị công táp ở Cần Thơ thụt két rồi tự vận, khiến ông bị vạ lây nay đổi về Sa Đéc thấy tôi có bộ ngay thẳng nên có cảm tình, ông duyệt sổ xăng nhớt thấy tốn kém quá vì đường gần mà trưa nào chúng tôi cũng đều về nhà ăn cơm nước rồi mới ra đi nữa, bởi thế muốn cho đỡ tốn và đo nhọc, ông ra chỉ thị dạy tôi khi đi xa đường cứ neo xe hay tàu lại đó chờ chiều xong việc hãy về cho đỡ tốn xăng, được lịnh ấy không khác nào ông cho phép chúng tôi cứng hư và bắt đầu cho chúng tôi lợi dụng dùng tàu đi chơi tuỳ thích lại được tiếng là biết tiết kiệm của công nho!
Năm 1930 chúng tôi dùng trọn tháng năm đi xét cân lường, mỗi ngày đi vài ba làng, như hôm 22-5-1930 chúng tôi xét làng Mỹ An Bình, đến trưa ở lại dùng cơm nhà ông xã trưởng vì ông mời mọc quá, nay quên mất tên ông để mà tưởng niệm, âu cũng là một phần sơ sót. Chiều xét cân làng Mỹ Trà cho đến năm giờ xuống tàu ra về, tới giữa sông lấy cơm nguội và mắm sống ra tự tay xé mắm và bốc cơm ăn, bất giác tự hỏi cái kiểu ăn cơm “xi đay” nầy của ông bà ta truyền lại hay hễ ăn mắm sống thì phải dùng cơm nguội mới thấy ngon và phải bốc tay mới thấy thú, và cái mốt nầy thịnh hành nhứt là ở Cao Miên, Thái Lan và Ấn Độ, tức một văn minh “ăn bốc” khác hẳn với văn minh Trung Hoa, Việt Nam và Nhựt Bản là văn minh “ăn đũa”.
Bữa sau là 23-5- 1930, tiếp tục dùng canot quan chánh cho mượn đi xét cân lường ở Mỹ Xương. Chúng tôi khởi hành thật sớm, mua theo bánh mì nóng và xá xíu mới ra lò, tàu vừa chạy chúng tôi lấy ra dùng điểm tâm, uống cà phê phin, cười giỡn dưới làn gió mát sông cái quên hết nỗi cực nhọc hằng ngày, rõ lại cái hạnh phúc thường theo bén bên mình chỉ tại mình không đủ thông minh để mà tận hưởng. Ở Mỹ Xương chợ búa lèo tèo, nên xét rất mau, có một mụ xẩm trình một cây cân và mười mấy trái cân, có một cái không đúng cân lượng, tôi đã có ý định tịch thâu, nhưng mụ nói một câu ngây thơ với cô gái xinh xinh đi theo: “Tại thằng cha mày, động chút cũng lấy “trứng dái cân” làm búa, đóng đinh cũng nó, đóng guốc cũng nó, báo hại cục chì văng mất, kiếm không ra nay ông nầy đòi xiết cái trứng dái nầy đi, về nhà tao làm sao có mà dùng?”. Tôi không nhịn cười được và không đành tịch thu “của quí” của bà, nên nhờ anh em thay cục chì, cân xét lại kỹ càng đóng dấu chứng nhận và trả trái cân lại cho mụ, xem mụ bằng lòng lắm, chỉ nhìn cặp mắt long lanh của cô gái tuỳ tùng cũng đủ biết hai mẹ con mừng rỡ đến bực nào, và cái làm phúc làm đoan không phải duy cho tiền nhiều là được. Vừa chín giờ sáng, công việc đã xong xuôi, chúng tôi xuống tàu trực chỉ ra sông cái, mười giờ chúng tôi đậu tàu lại giữa sông nơi đuôi cồn, chỉ giữ mỗi người một y phục ngắn gọn để tầm và mò ốc gạo. Đây là một cuộc vui khó tả, biết bao giờ trở lại?
Trong đời tôi đã mục kích mấy lần “cồn hoá vực, vực hoá cồn”. Tại chợ Cồn, năm 1930 còn lộ đá và cầu tàu, năm 1974 cầu tàu đã rơi xuống sông và nước đã khoét con lộ lở mất không dùng được nữa, cũng như mới đây (1974) báo chí đăng tin chợ Kế Sách trọn một dãy phố rớt tõm xuống sông không còn thấy vết tích viên gạch nào. Hôm ấy (23-5-1930) tại nơi nầy, tôi lại thấy cảnh “cồn nổi”, tức là cảnh “thương hải biến vi tang điền” như đã đọc trong sách truyện diễn tả. Năm ấy (1930) thuộc địa phận tỉnh Sa Đéc, vừa mọc thêm ngoài sông cái Tiền Giang, hai hòn cù lao nhỏ đứng ra là hai đuôi cồn có tên nhìn nhận là Cồn Cát và Cồn Chà. Mỗi lần có cù lao nổi như vậy, khi nước vừa lấp xấp lội với bụng tới rún (độ sáu bảy tấc bề sâu), đến khi nước ròng giựt uống còn lội tới nửa ống chân, có chỗ tới mắt cá (độ hai, ba tấc sâu) có chỗ khác thấy được đất lé đẻ lên mặt nước, tuy cù lao vừa nổi làm vậy thế mà đã có người đến xin khẩn nơi toà bố rồi, họ là những người có thế lực, hoặc là hội đồng quản hạt hay là tay giàu gộc trong xứ, nghe gia nhơn đi làm ruộng về hay đi thuyền đánh lưới nơi sông cái về đồn có cồn nổi, tức thì họ làm đơn vô quan chánh xin khẩn trước tiên. Cũng có khi chính những người sở tại biết chuyện, giỏi lo lót cùng làng tổng xin được giấy chứng lận đem lên trình quận và quan đầu tỉnh rằng họ là người khai thác từ nhiều năm những cuộc đất mới nầy. Khi ấy tỉnh bộ trát về quận hỏi lại cho có lệ rồi cấp phát một biên lai tạm thế vì bằng khoán để tránh sự tranh giành của kẻ khác. Sau nầy hoặc vài chục năm hoặc lâu hơn nữa cù lao nổi cao thành ruộng tốt, khi ấy sẽ có cuộc phát mãi mà chủ tạm được quyền ưu tiên mua với giá đấu cao nhứt và làm chủ vĩnh viễn. Trong khi lo chạy giấy lờ hợp lệ, thì người chủ tạm lo bồi bổ cuộc đất và giúp một tay với thợ trời bằng cách cấm ranh cho phân biệt “đất cũ đất mới” và trồng cây dừa nước cho đất phù sa có chỗ mau kết tụ thành đất bồi. Những dừa nước nầy họ mua thật rẻ của các thợ làm rừng, bọn nầy ra công đi vớt trái dừa đã mọc mộng trong rừng lá rồi đem về bán lại cho chủ đất, lúc ấy mỗi cây dừa còn nhỏ chỉ độ một xu hai xu một cây là cùng. 
Với những trái dừa nước mọc được đôi ba lá ấy, người khẩn đất cù lao mua đem về cấy lưa thưa nơi đất cồn, và độ chừng vài ba năm những cây ấy đã bắt rễ trổ đọt, mọc khỏi mặt nước cao nghêu. Những chỗ đất còn trống, sau đó họ cấy thêm lác và khi lác bén rễ mọc nhiều thì họ cắt lá phơi khô dệt chiếu, tức đã có một hoa lợi nho nhỏ ăn cầm canh chờ vài chục năm sau đất có chưa đứng rồi trở nên ruộng tốt, thêm ít chục năm nữa là trồng cây ăn trái lập vườn dựng nhà trở nên khá giả giàu có được rồi. Tính ra từ cồn nổi đến thành điền, cũng phải một đời người hoặc hai ba đời chớ không chơi. Nhưng người dân lấy củi lục làm ăn, theo luật “trời sanh trời dưỡng” đâu có sợ chuyện thời gian lâu dài, chỉ biết sống vui vui niềm hy vọng có đất tự tay mình đào tạo. Tôi đã nói trong bài về “bò giá tréo”, về bến tàu Chợ Cồn bị nước ăn dưới chưn lo đứt một khúc lộ quan dài hơn ba cây số ngàn, ngày nay con lộ còn lại bị nước khoét dưới chưn trống bộng, xe cộ đều không dám qua lại trên lộ nầy vì sợ rủi ro, còn nhà cửa phố xá hai bên lộ nầy đều không còn cái nào, lớp bị sụp xuống nước, lớp tự chủ nhà dỡ dọn đi xây dựng nơi khác, Chợ Cồn nay cảnh tiêu sơ coi buồn không chỗ nói, trong khi ấy nơi đối diện cù lao ngang Chợ Cồn lại đất bồi ngày càng thêm lớn rộng và dân ta cứ theo câu tục ngữ xưa “đất bồi thì ở, đất lở thì đi”, và câu khác “lúa tới đâu bồ câu tới đó” dân ta nay qua cù lao ở ngày càng đông là vậy.
Nhắc lại ngày 23-5-1930, sau khi làm phận sự xét cân lường tại làng Mỹ Xương xong cả, khi ấy trời còn sớm quá, độ mười giờ sáng, nên chưa tính chuyện cơm nước dằn bụng gì được, vả lại ông cai sở tại có lời dặn trước, nên hôm nay đã cho người thân quyến đón chúng tôi và lên canot của tỉnh dẫn đường đưa chúng tôi chạy trở ra sông cái, đến một nơi gọi là Đuôi Cồn, nhưng đến nay khi thuật lại đây, việc lâu đời quá nên không biết rõ đây là cồn nào; người nầy phát cho mỗi người chúng tôi một cái thùng thiếc cũ và dạy cách vừa tắm sông vừa mò ốc gạo. Y phục chúng tôi cởi trụi và gởi hết lên chiếc tàu neo kề bên, vì người đâu của đó xin chớ quên chúng tôi còn số bạc trót ngàn tiền xét cân Mỹ Xương buổi sớm. Chúng tôi mỗi đứa chỉ còn một mảnh vải che thân, đều nhảy xuống sông cái lặn hụp và tắm mát ngày ấy trên dòng nước Cửu Long giang. Ngày nay ốc gạo ta mua về luộc hay ăn ngoài phố do các người mang trong rổ đi bán dạo, phần nhiều đều là loại ốc gạo nuôi trong hồ đầm, không được mập béo và không ngon bằng ốc gạo thiên nhiên sanh và lớn tại sông cái, nhứt là ở vùng Sa Đéc, Vĩnh Long nầy. Ngày xưa đó là một món ăn lạ, được dâng lên vua ngự thiện và được các quan hộ tống chở ra tận Huế dưới danh từ “cống phẩm của Nam kỳ lục tinh”. Năm tôi còn học tại trường Chasseloup tôi còn giữ được một bài thi xưa về ốc gạo, xin sao lục ra đây, nhưng không biết rõ tác giả là ai, vì bài thi nầy do anh em cho mượn tập thi lục, sao đi chép lại vần công, mà không đề rõ danh tánh người trước tác:
Bãi hạc cồn nhàn thả rạng danh,
Cháu con gò đống nhóm nên thành;
Xa cừ đồng tánh tôn như chú,
Thô mễ trùng danh cứng bẵng anh;
Tây chẳng phải thời nam phải tiết,
Xuân sang vừa nghén hạ vừa sanh;
Hàm rồng ngon ngọt bao là đáng,
Tuy cũng đồng loài khí chẳng tanh.
Khuyết Danh (trước năm 1919)
Năm nay 1930, chính mình là một tên học trò không quen lặn lội thế mà được dự một cuộc bắt ốc giữa sông cái thiện là một chuyện bất ngờ. Tôi chỉ biết vui đùa vô tư lự. Gió thổi vù vù bên tai, mình trần trụi dầm nước mà không thấy lạnh, ngày thường vẫn tắm nước nóng và động động là ho hen sổ mũi nhức đầu. Trời nắng chang chang không thấy nóng, nước xăm xắp tới rún, và cẩn thận không biết lội nên không dại gì ra sâu để chết chìm, chúng tôi chùm nhúm một chỗ, đẩy thùng thiếc tới trước, dùng chân rà rà dưới bùn, khi nào đụng vật gì lạ lạ dưới chân thì cúi xuống thò tay mò và thế nào cũng lượm lên nhưng con ốc no tròn nhưng mình mẩy dính đầy bùn vì chúng sinh sống trong chất ấy. Tuy vậy, ốc nầy không nhiễm vi trùng vì sống giữa sông sâu nước chảy, và sợ nhứt là loại ốc nuôi trong chỗ thiếu vệ sinh, ăn vào thường lây bịnh hiểm nghèo như bịnh thương hàn, trong Nam gọi bịnh ban cua lưới trắng. Theo thủ tục, ốc mồng năm tháng năm là đúng lứa, vừa mập và không có con trong bụng, tức khi ăn không nhai gặp vỏ ốc nhỏ mất ngon. Ăn sái mùa hoặc gặp ốc còn ốm hoặc gặp ốc có con, mất thú, nhứt là gặp ốc chết thì bữa cơm ấy kể như bị phạt.
Vỏ ốc gạo khi được nhiều, ngày xưa đốt lấy vôi dùng têm trầu thì là tuyệt, vừa sang và miếng trầu thêm ngon. Ngày nay tục ăn trầu đã bớt nhiều, vỏ ốc chỉ còn dùng lót đường hoặc để mục làm phân bón cho gốc kiểng. Chúng tôi hôm ấy là tay ngang thế mà mò được khá nhiều, đến trưa gom góp lại cũng được trót nửa thùng thiếc, và người gia nhân ông cai tổng cắt nghĩa là vì sở đất đuôi cồn nầy có chủ, người mò ốc lén không dám lại đây bắt nên ốc có nhiều. Chúng tôi mừng rỡ đem về nhưng ông cai tổng nào cho ăn ốc mới mò được nầy, dạy rằng ốc mới còn ngậm bùn trong miệng, phải ngâm nó một ngày một đêm trong nước sạch cho nó nhả hết chất bùn ra thì ăn mới thú vị. Nói như vậy rồi ông cai lấy ốc cũ ra luộc và bày một tiệc vĩ vèo đãi khách. Ăn uống được nửa chừng, day qua bày cuộc thi uống rượu gọi là đánh tửu. Chủ gia đứng dậy thủ lễ phân trần cùng cử toạ, yêu cầu chúng tôi là người yếu rượu nên bước qua bàn kế, tiếp tục dùng bữa và nhìn xem các tay tửu lượng cao thi nhau đánh tửu. Nói đến đây, dòm lại tiệc giữa, tôi thấy chỉ còn ngồi sáu ông hương chức có tuổi, kể luôn ông chủ nhà là bảy người. Nhưng trong nhóm chúng tôi đại diện cho toà bố, có anh Ký Tốt, vỗ ngực xưng mình biết uống rượu “cũng như ai”, và không chịu lách rời bàn giữa. Chủ gia ân cần nhắc lại một lần nữa rằng bảy người nầy là tay thiện chiến đã quen biết nhau từ lâu nên hôm nay muốn biểu diễn một trận đánh tửu chơi, và thầy ký là khách mời, tốt hơn nên chứng kiến như giám khảo hơn là nhập trận rủi sơ thất thì e “tửu luật bất vị thân”. Nhưng một hai thầy ký không chịu rời chỗ ngồi và quả quyết “các ông đi tới đâu, tôi theo tới đó!” Sau hai lần khuyên và giác đát không nghe, bảy người kia nhập tiệc với thầy ký là tám, đủ bát liên quần tửu. Thế là sau khi an toạ xong, chủ gia đứng dậy giao kết một lần nữa rằng cuộc vui chơi không ai ép buộc ai, nhưng nay tám người nầy đã nhận là mình biết thưởng thức rượu ngon, thế thì phải giữ lời, thứ nhứt là mỗi người phải dĩ hà nhứt thể, uống bằng nhau cạn bôi, thứ nhì là không đặng nửa chừng bỏ cuộc, nếu vi lịnh sẽ chiếu tửu luật trừng phạt không tha. Nói đến đây, chủ gia tươi cười nhắc lại rằng lúc nầy còn dư thì giờ để suy liệu, nếu người nào biết mình bất kham theo dõi thì nên sớm tách ra khỏi bàn nầy để các tiên tử đánh chén. Nhưng sáu vị kia luôn anh ký nhà ta là bảy, không ai chịu mình là yếu rượu. Và cuộc đấu tửu bắt đầu. Trước tiên chủ gia sai triệt hết những ly rượu thừa, chỉ giữ lại một ly độc chiến, loại có chưn, nhưng ông đã cẩn thận bẻ gãy cái chưn bỏ đi, làm cho chỉ còn một cách cầm ly trên tay róc rượu uống và chuyền cho người khác làm y theo mình mà không thể nào đặt cái ly uống bàn được, vì chưn nó đã không còn nữa, đoạn ông mở tủ lấy ra tám chai rượu mới toàn nhãn hiệu “cognac Robin” là thứ đương thời được trọng dụng và thảy đều công nhận rằng ngon. Ông khui chai rượu thứ nhứt, một tay cầm chai một tay cầm ly, tự rót cho mình một ly đầy, kê miệng đánh tróc một cái, hà hơi nghe một tiếng khà sành điệu, gắp một con ốc chấm nước mắm bỏ vào mồm nhai ngon lành, rồi trao chai rượu và ly cho người kế tiếp cũng diễn hành lễ nhấm tửu y như ông ban nãy. Rồi đến lượt người thứ ba, thứ tư, khi đến người thứ tám thì đến phiên ông bắt đầu làm lại luân phiên nữa, và khi chai nầy hết thì khui chai khác tuần tự không cho thiếu rượu cũng không bỏ sót phiên của một người nào. Cuộc thi đua uống rượu tiếp tục vui vẻ và cứ thứ chuyển đệ vừa nói vừa cười, tám người nầy uống rượu cô-nhác cho chúng tôi xem không khác ta uống nước trà. Nhưng đến chai thứ sáu, tức mỗi người đã có hơn nửa phần chai lít rượu mạnh trong dạ dày, tôi ngồi ngoài nhìn kỹ thì người nào như người nấy thảy đều biến sắc, có kẻ mặt xanh như tàu lá, kẻ khác mặt đỏ phừng phừng, duy một ông chủ nhà cười nói hiên ngang đúng là một người tửu lượng phi thường. Bỗng anh ký toà bố nhà ta tuyên bố anh không uống nữa và mặc kệ ai, bỏ đó đi nằm dài trên một bộ ván. Còn lại bảy người kia, họ nào có chịu nghĩ cho. Họ vẫn để Tốt nằm yên trên ván ngựa, nhưng hễ họ uống đủ bảy người và tới lượt của Tốt thì họ kéo nhau lại cạy răng chú chàng và đổ trút ly rượu đầy vào mồm. Tốt không nuối cũng không được vì nếu Tối ngậm miệng khít lại đã có cái phễu thiếc lấy từ nhà bếp, thứ dùng dồn lạp xưởng, họ cạy răng nhét phễu và róc rượu như ta sang nước mắm từ tín nầy qua tín khác.
Uống được năm sáu tuần như vậy, bỗng Tốt vùng ngồi dậy, đỏ mặt như lên đồng, vì đã say quá độ và hết biết nhân sự, Tốt vịn ghế vịn bàn lết lại chỗ ngồi, và nói lớn: “Mấy người chơi không sướng! Tốt đã chịu thua, mà mấy người không dung tha. Nay Tốt làm như vầy đây, xem mấy người có bắt chước được không?”
Vừa nói tới đó, Tốt giựt cái ly không chưn, cắn nghe cái rốp, cái ly bể ra một miếng lớn, Tốt nhai miếng ly như ta nhai bánh tráng nướng, rồi Tốt chụp chai rượu tu một hơi như rồng lấy nước? Cả mấy bàn tiệc đều sợ hoảng xúm nhau kéo tay không cho Tối uống nữa, nhưng Tốt đã nuốt miếng ly vô bụng hồi nào mất đi rồi! Bữa tiệc hào hứng bao nhiêu nay buồn tẻ bấy nhiêu. Đến đây bữa tiệc trở thành một bi hài kịch nửa cười nửa mếu và tự tan rã. Chúng tôi xin nước rửa mặt, chủ nhà lo lấy dầu nóng đánh lưng bắt gió cho Tốt phở lở. Tuy vậy đến mười lăm giờ chiều, qua làng Mỹ Long, Tốt vẫn đóng dấu cân lường y như không có việc gì xảy ra. Đến mười sáu giờ, phận sự chúng tôi làm xong, còn kéo qua nhà ông Xã Chỉnh (không biết nay còn hay mất?) ngồi đánh cắt-tê trâu cho đến mười tám giờ mới chia tay ông xã, xuống tàu trực chỉ Sa Đéc Xuống tàu vẫn chưa thôi, lại lấy ốc gạo của ông Cai biếu, rồi hết chai nầy qua chai khác, chúng tôi sáu người uống thêm hai chai la-ve Larue, một chai rượu chát Médoc, một chai vin du Bourdon... Đến hai mươi mốt giờ tàu cặp bến ngay nhà ông Tư Hanh gần toà bố, thì cả thảy đều say mèm, nương nhau về nhà.
May thời tôi không quên chiếc cạc-táp tiền và khi đến nhà tôi để y bộ y phục bèo nhèo, ngả lên giường đánh một giấc đến sáng, bất chấp tiếng đon ren của ai kia khiển trách bên tai.
Bữa sau tôi vẫn ngây ngất chưa tỉnh, và qua ngày kế vẫn còn lừ đừ hai bữa liên tiếp tôi rán đi làm cho có mặt nhưng cố tránh không dám đem giấy tờ cho quan chánh ký tên, sợ biết mình là bợm say thì không trông gì lên chức!
Từ đó tôi lĩnh hội được một bài học khôn: đấu tửu là giỡn với cái chết. Không tự sát thì cũng tự huỷ hoại sức khỏe của bản thân.
Vừa rồi (năm 1974) tôi đến nhà một ông bạn thân, nghe ông tự khoe lúc thiếu niên, khi còn dạy học tại Tây Ninh, ông đã từng ăn liên tiếp sáu lô mì nước và uống xen kẽ sáu trái dừa Xiêm. Nay ông vẫn còn mạnh, nhưng ông cũng như tôi, sống nhờ thuốc men và sống nhờ có bác sĩ tận tình, ông nghĩ sao tôi không biết, chớ riêng tôi, tôi rất tiếc đã phí phạm lúc nhỏ sức khỏe một cách thật là ngu dại. Chính ngày nay khi tôi thấy chúng bạn tranh nhau cạn ly nầy đến ly khác, và một khi chai rượu đã mở nút thì quyết cho cạn đến giọt cuối cùng, thiệt là một cảnh chẳng đặng đừng đáng tiếc. Nhưng mấy ai khuyên giải được đệ tử của Lý Bạch, Lưu Linh? Rượu uống vừa phải còn thảy ngon, uống quá hớp chỉ làm thân chủ cho bác sĩ và trại hòm.
Riêng anh bạn Tốt, đến nay vẫn mạnh và vẫn ở Sa Đéc, không nghe nói đau bao tử hay rách ruột non ruột già. Một bằng chứng ai ham giảng mo-ranh là bậy.
Cữ cũng chết, kiêng cũng vô hòm, hay là ta ăn uống vừa vừa và nhớ không nên nói thật với bác sĩ!
Tái bút. Ông cai tổng An Tịnh, cố nhân Lê Đình Quảng, sau thăng huyện hàm, ngày 7-4-1932, khi tôi từ giã đổi về Sốc Trăng, có biếu tôi một bình vôi sứ có quai, mục lục số 51, tôi có nói trong tập số 8 “Khảo về đô sứ men lam Huế” tập hạ, chương nói về bình vôi.
Tốt, sau nầy tôi có gặp trên Sài Gòn. Nhắc lại chuyện mò ốc gạo năm xưa, chàng ta cười, thè lưỡi cho xem và khoe không bị miếng chai cắt. Hỏi đã học được phép gì, Tối cười thêm lớn và nói đó là phép say. Hỏi không rách ruột sao? Tốt ngó tôi và nói: “Nếu rách thì nay sao Tốt còn đứng đây. Và bao giờ tiên Lưu Linh vẫn phù hộ bọn đệ tử trung thành như Tốt!”.

12: Cánh buồm bể hoạn
Thức khuya mới biết đêm dài. Sống đến hôm nay 12-1-1975, bảy mươi ba tuổi, còn hơn một tháng nữa tới tết Ất Mão, là đã bảy mươi tư. Kiếp già, sống thừa, sao chưa chết để tránh thấy những bài dám chê ông Trương Vĩnh Ký. Đọc Bách Khoa III XVII “Trương Vĩnh Ký trong quỹ đạo xâm lăng văn hoá Pháp”. Rồi đọc Bách Khoa R. IV-XVIII “Trương Vĩnh Ký, bài học cho kẻ hợp tác".
Đọc suốt hai bài, lấy làm tội nghiệp cho nhà học giả tiền bối miền Nam. Cũng may nhớ lại để an ủi, vừa đọc nơi chương 46, trong quyển quý giá "Tiếng hát sông Hương" của cụ Ung Bình Thúc Giạ Thị, do bà Tôn Nữ Hỷ Chương xuất bản năm 1972, nay mới gởi biếu. Đọc thấy hai bài như vầy:

1) Văn hào Trương Vĩnh Ký:
"Đạo đức văn chương là ông Trương Vĩnh Ký
Có tân thơ, có báo chí, có tự vị rõ ràng.
Thanh danh rạng giữa dinh hoàn.
Học xưa biết trước chỉ đàng cho hậu sinh"
2) Thi gia Tôn Thọ Tường:
"Nhả ngọc phun châu, có nhiều câu kiệt tác,
Hào đoan lỗi lạc, có nhiều đoạn danh ngôn.
Một tay thi sĩ tiếng đồn,
Cuối đời vua Tự Đức là ông Tôn Thọ Tường".
Thì ra kẻ khen người chê đều có, và gẫm lại không lý cụ Ưng Bình là con dòng cháu giống, học lực uyên thâm, cụ thấy xa hiểu rộng hơn nhiều và kể về thuật xét đời cụ há đi thua nhà hậu sanh dám đại ngôn kia? Lại cười cho mình đứng giữa hai thế kẹt: kẹt giữa thế hệ trên như cụ Ưng Bình uyên bác một lòng kính trọng người xưa, kẹt giữa thế hệ dưới ngựa con háu đá, té ra chê khen là quyền thiên hạ, chỉ nực cười cho mình là thế hệ hèn, sợ mãi: lúc nhỏ sợ cha mẹ, sợ thầy, trông về già được hết sợ, nay tuổi gần xuống lỗ, cái sợ cũng chưa tha: sợ đám trực chửi thầy. Hai ông Trương Vĩnh Ký và Tôn Thọ Tường mà có người đòi hạ bệ, thì mình là cái thá gì? Nhưng xét lại trong đời cạo giấy của mình đã trải., tôi chưa đánh đĩ kiếp người tuy trót đã làm tôi mọi ăn cơm chánh phủ Tây ngót hai chục năm dư, - nên tôi thẳng thắn tiếp tục chép ra đây khoảng đời tôi, nạp tài liệu sẵn cho người kia, muốn chửi tôi thì chửi.
Nhắc lại khi còn thuộc Pháp, kể về công chức cao cấp làm việc ở Toà Bố (nay đổi gọi toà hành chánh, và công chức đổi gọi cán bộ, chung qui danh từ tuy đổi chớ cũng một kiếp người cạo giấy kiếm cơm), lúc ấy cũng như bao nhiêu người đi trước và bao nhiêu kẻ đồng thời, tôi nào phân biệt thế nào là thương nước, và tự xét chánh phủ nào trên mảnh đất nầy, cũng vẫn cai trị và mình vẫn phải phục tùng, vẫn cho mình cơm ăn áo mặc. Duy mấy cậu sanh sau khỏi kiếp đô hộ, không thương bọn già nặng lời chỉ trích, chứ thuở ấy muốn làm Di Tề thấy hơi khó, bất thọ phạn Châu, nhưng rau Vi lại cũng mọc trên đất nhà Châu chớ mấy thứ? Thuở ấy trong hàng bồi Tây, mỗi thư ký chánh ngạch đều nuôi hy vọng trở thành huyện phủ, mỗi lính quèn đều ấp ủ trong túi cây gậy lính nhà đại tướng (chaque soldal loe danh sa giberne le bâton de maréchai). Ai đâu tôi không rõ, nuôi ác tâm thi đậu làm quan lớn, dễ hách dịch bóc lột, "làm dân chi phụ mẫu", nhưng đối với tôi, nói ra nay chẳng hổ lòng, tôi chỉ mong lên ngạch cao ăn lương lớn, dễ bề ăn xài, nhứt là mua sắm đồ xưa cho phỉ chí. Những năm khoảng trước 1925, trường cao đẳng dạy luật và hành chánh ở Hà Nội (école supcrieure de droỉt ét d administration) chưa đào tạo và cung cấp đủ người dùng, thì chức huyện cũng được tuyển chọn trong hàng thơ ký soái phủ lâu năng, nhưng bắt buộc những người nầy phải qua hai kỳ thi đổ lửa:
a) Khoa nhứt gọi "examen de culture générale", khảo về học lực phổ thông, tương đối dễ mà khó, vì phải có thực tài, viết và nói tiếng Pháp thật cứng mới mong trói lọt. Tuy vậy vì là khoa khảo khí thường (examen), nên không nghe nói cần đánh phép. Khoa nầy năm 1927, tôi thi có một keo, may thời được chấm đậu đầu. Không biết nên gọi may hay là rủi, vì ngựa mơ háu đá, tôi ỷ tài phách lối, sau vì tiếc đeo đuổi theo hoài, quả tôi chưa từng thấy biển nên lội trong rạch ngòi mà tưởng mình là thợ giỏi,
b) Khoa kế, gọi "concours professionnel", (khảo về chuyên nghiệp và khả năng) khoa nầy thật gắt mấu, số thí sinh càng ngày càng nhiều, số lấy đỗ càng ngày càng sụt, vì vậy từ năm 1929 về sau, có nạn đánh phép, nay gọi phải nhờ đức Thánh Trần hộ mạng, thì mới mong thoát khỏi búa rìu giám khảo được, làm ngư vượt võ môn, cá chép biến thành rồng. Nói chí đáng không nên quơ đũa cả nắm phao cho hết thảy đều vậy, và cũng có nhiều bạn công phu nhiều, học tận tuỵ và thi với thực tài, vẫn đậu tự nhiên, nhưng số nầy rất ít. Nay việc cũ đã qua, bàn lại vô ích nhưng thiết tưởng đời nào cũng thế, vả lại tôi có chủ tâm muốn vạch những lỗi cũ của mình, dầu có người chửi, tôi cũng xin cúi đầu nhận tội và sám hối, nghĩ như vậy nên tôi vẫn phép ra đây, cho đúng câu: “Hơn nửa đời hư". Tại sao tôi mù quáng, không bỏ cuộc tìm con đường khác xuất thân. Rõ là hư, còn chối cãi gì nữa được. Nhưng trong thâm tâm, lúc ấy tương lai vận mạng nước nhà còn mịt mù, việc lấy lại độc lập như nay chưa thành vấn đề, đường công danh các bạn đồng bối và tôi đều nghĩ như nhau, làm việc kiếm cơm độ thê nhi, với nghề cạo giấy, thì chánh phủ nào cũng vậy, cũng đều một thế.
Trước năm 1926, người đậu khoa phổ thông thuộc số ít, nên ai đậu khoa nầy thì kể như chắc nắm chức huyện trong tay. Ngờ đâu, đến lượt tôi, đậu rồi năm 1927, bị bắt chờ đến năm 1929, đúng bốn năm trong chức vụ mới được thi và cũng từ năm 1929, gặp nạn kinh tế khủng hoảng mà chớ, thêm sĩ tử có bằng tú tài được thi chung với bọn tôi gốc thư ký và xui xẻo nhất là số tuyển chọn hạn chế có bốn người. Quả tôi đã quá ngây thơ và ngu muội, mãi tin nơi sự công bằng của giới quan trường thời đó. Kỳ thi tuyển khả năng từ 1929, tiếng rằng thi để chọn người rành việc hành chánh, kỳ trung đó là cửa mở rộng cho sự hối lộ, quan trên ăn theo đàng quan, bóp cổ bọn cò ke lục chốt lấy lại phần nào, và quan dưới tức thơ ký và tú tài, muốn đậu được bổ huyện hạng ba thì phải có lễ mễ, mặc sức vơ vét và tom góp lại sau. Những con gà không của và đá đòn trơn như tôi, sức mấy mà thi đỗ, tức ăn độ bao giờ?
Năm 1929, bài tôi là ai khá lắm, nếu tôi làm như người ta, nghĩa là nếu tôi chịu tốn một số tiền như người ta đòi hỏi nói sau đây, thì có lẽ tôi có hy vọng được chấm đậu cũng chưa biết chừng. Nguyên lai số điểm đậu, theo nguyên tắc, ít nhứt là phải trên số 412 điểm. Thế thì số điểm của tôi, lên đến 460 điểm tức dư chưng đậu. Nhưng vì số tuyển hạn chế chỉ lấy chỉ cỏ bốn người, phần kỳ thi nầy như đã nói là thi con cua (concours), nên mấy anh Tô Văn Qua, Trần Văn Chi, Thái Ngươi Xàng và tôi có tên trong bảng vi bằng năm 1929, hiện tôi còn giữ được. Nói thiết tỷ, nếu một trong bốn đứa chúng tôi, có dư tiền đánh phép cho thật đúng chỗ, thì cũng dám "soán ngôi" của anh số 4 Ngô Văn Hoá nào đây, được lắm chớ chẳng không. Nhưng nói mà chơi vậy thôi, chớ tài nào cải số, với ban giám khảo lang-sa năm ấy (1929) mà chánh chủ khảo là tham biện Bussière tỉnh Thủ Dầu Một.
Tôi còn nhớ rõ, năm đó, sau khi thi xong các bài viết, buổi chiều tôi đưa vợ tôi lúc đó là Tuyết, đến ăn cơm Tây nhà hàng Yeng-Yeng, cơm rồi đưa nhau về phòng trọ ở khách sạn Tân Hoà đường Bonard (nay là Lê Lợi). Vừa nhắm mắt dưỡng sức, vì mai nầy còn chịu một trận thử lửa hạch miệng, bỗng nghe có tiếng gõ cửa. Đó là bác Năm Mỹ, người ân nhân năm xưa cho tôi ở trọ ăn cơm tháng, nay đến thăm hỏi han vụ thi cử... Bỗng bác bảo tôi hãy đưa cho bác bốn ngàn đồng (4.000$00), thì sẽ đậu. Ông đốc phủ chủ quận Bến Cát (N.X.H) - bác Năm nói - ổng thấy danh sách có thể chấm đậu (admissible) có tên mầy, nay tao lãnh lịnh đi kiếm mầy, mầy đưa bốn ngàn cho ổng thì ổng nói một tiếng với chủ khảo là quan thầy của ổng, tức mầy được đậu tức thì.
Lúc ấy, tôi còn trẻ, sẵn tánh bộc trực và háo thắng, tôi khinh bỉ cười mà đáp rằng: “Thưa bác, bốn ngàn không dễ gì kiếm. Nếu tôi có, tôi sẽ mua một chiếc xe Citroen ba đầu nặng (ba chỗ ngồi), tôi và vợ tôi chiều chiều hóng gió chẳng là khoái hơn. Tôi không lo lót, vì hối lộ rồi ăn lại nhà nghèo, xấu hổ và thẹn với lương tâm.
Bác Năm khuyên tôi không được nên giận bỏ ra về, nhưng chưa đầy một giờ sau thì quay lại, dịu giọng cất nghĩa cho tôi nghe dịp may ngàn năm một thuở, phen nầy ông đốc phủ vì thua bài quá (ông đánh me), chịu bớt còn hai ngàn thôi, và cam đoan khi nào tôi thấy có tên trong bảng hổ, sẽ chi tiền. "Đ.m, như vậy là tốt quá bực, anh Năm hãy nói với nó, thuở nay các bác đàn anh đều dùng cây cầu ấy, khuyên nó đừng tưởng giỏi dùng cách khác, uổng công!". Đó là mấy lời nói nặng của ông N.X.H, nói với bác Năm và bảo bác nói nhắn lại cho tôi nghe. Nhưng nói và khuyên cách mấy cũng không đặng, nên bác bỏ ra về và không đến thăm tôi cho đến ngày thi rồi tôi trở về Sa Đéc.

Sáng bữa sau tôi vào phòng thi hạch miệng, tôi có cảm giác không khí ngột ngạt nặng nề. Tôi đang ngồi chùm nhúm với các bạn sĩ tử, thuật lại câu chuyện xảy ra đêm rồi, anh em bàn ra tán vào đứa thì không tin, đứa thì khen nhẹ giá sao tôi không y theo cho an phận, bỗng đến phiên ông chủ khảo bất tay làm việc và trước tiên ông gọi tên tôi lên cho dự thi. Nhưng thay vì hạch hỏi trong phạm vi khả năng, ông mời tôi trình giấy thuế thân cho ông khám. Đó là một việc bất thường và ngoại lệ, vì sĩ tử chỉ có hai mươi ba người, và thảy đều biết mặt nhau, đâu có sự trồng tréo giả mạo gì được. Chủ khảo đọc trên tờ thuế thân (như tờ căn cước ngày nay), thấy tôi sanh năm 1904, vào năm 1929 đúng hai mươi lăm tuổi, ông bầu môi nhưng không nói gì, trả lại giấy thuế và mời tôi bắt thăm chọn đề tài. Tôi quên nói kỳ thi nầy rất quan trọng, sĩ tử có 23 người nên đề tài câu hỏi được viết sẵn trên giấy rời, cuốn tròn lại và đặt trong lòng ruột chiếc đỉnh đồng, lá thăm nào bóc rồi là loại luôn, không dùng lại nữa, để lãnh sự trùng điệp. Đề tài tôi chọn được là "Le budget régional" (sổ công nho địa hạt). Tôi đang đứng diễn giải nghe giòn giã, bỗng ông chủ khảo ngắt ngang và hỏi tôi một cách bất ngờ: "Xin vui lòng cho biết thầy giữ chức việc gì tại toà bố và ở tỉnh nào?". Tôi thành thật thưa: "Dạ, tôi hiện làm việc ở toà bố tỉnh Sa Đéc và có phận sự trông nom về công nho địa hạt”. Ông vụt vỗ bàn cười lớn và phân bua: "Hèn chi anh nói nghe suôn sẻ và rành mạch quá! Như vậy là trúng tủ anh rồi. Nhưng đây là kỳ thi về khả năng công chức cao cấp và Uỷ ban chúng tôi có trách nhiệm tuyển chọn người xứng đáng, nhứt là tránh sự may rủi. Vậy thì anh hãy nói qua "công nho tài chính nhượng địa Quảng Châu Loan” để xem thực tài của anh ra thế nào, như anh nói được tôi sẽ cho điểm cao”.
Và tức nhiên vì tôi khinh thường không nghiên cứu vấn đề “Le budget du Kouang-tchéou-wan” và không trả lời ổn thoả. (Mà tôi dám chắc trong đám sĩ tử kỳ thi đó cũng đều bí lối như tôi). Và kết quả là tôi thi rớt.
Năm ấy thi rồi về tỉnh Sa Đéc, trong tai tôi còn văng vẳng câu khuyên nhiều ý nghĩa của vị chủ khảo là tham biện Thủ Dầu Một Bussière: "Thầy còn trẻ quá, mới hai mươi lăm tuổi đầu, còn đủ thì giờ để già dặn thêm. Đường công danh thầy còn dài, và tương lai hy vọng thầy còn tràn trề. Thầy nên nhẫn nại... Hãy xem mấy bạn đồng khoa với thầy ngồi dưới kia, người nào cũng đầu hai thứ tóc, mà còn lận đận nơi trường ốc. Kẻ trước tới người sau cũng tới, lo gì? Theo tôi, thầy nên nhường chỗ cho họ, qua sang năm tôi sẽ nhớ đến thầy nếu tôi còn được cử làm chủ khảo như năm nay. Hề hề! Phàm trái cây, phải đợi chín muồi mới là trái ngon?"
Như vậy, thử hỏi nếu đêm rồi tôi ưng thuận chịu lo hối lộ cho chim mồi là ông Phủ Bến Cát, thì bữa nay tôi có hy vọng gì khỏi bị tham biện Thủ Dầu Một Bussière hỏi câu hóc búa và cứu độ cho tôi đậu không?
Tại sao tôi không sớm tỉnh ngộ và chịu hiểu câu nói đầy ý nghĩa của chủ khảo, nửa đùa nửa thật, nửa khuyên tôi nên biết điều, nửa dạy tôi ẩn nhẫn đợi thời. Nhưng nay việc rồi tôi xét lại, chẳng qua đó là luật nhơn quả, đó là then chốt. Không có vậy, làm sao có chuyện viết thành sách "Hơn nửa đời hư".
Đại phàm rượu phải uống cho đến cặn, và tôi xin thuật lại đây tường tận nỗi mờ ám của tôi xin chớ trách tôi dài dòng và như vậy mới thấy những hư hèn của tôi, và ai là khách đã qua cầu mới biết.
Suốt mười bốn năm bất tận, tôi ngu muội đeo đuổi theo nghiệp khoa cử hư danh, từ năm 1929 đến năm 1942, mà chưa tỉnh mộng, cứ tin thi mãi có ngày đậu. Ngờ đâu ngày nay nghiệm ra và giác ngộ đã trễ, thi concours professionnel, tiếng rằng thi chọn người có khả năng chức nghiệp, kỳ trung là thi mánh khóe, ai giỏi chạy chọt là có phần may "tới nơi tới chốn", chớ dễ gì lấy tài "trơn" ra ứng cử, khác nào con gà đá độ không cựa mà dám so tài với gà "cựa chuối bén ngót như dao", mình thi tài mà họ thi tiền thì mình thua là cái chắc.
Tại sao lúc đó tôi không bỏ nghề cạo giấy, sang qua nghề khác ít cạnh tranh như nghề làm báo hay viết lách chẳng là hơn. Nhưng như đã nói, tôi ngu tối, vẫn ngây thơ hiểu rằng nghề làm thơ ký cho chánh phủ vẫn là nghề trong sạch như muôn nghề khác, miễn mình ở giữa đám bùn lầy mà không nhiễm tật xấu, hối lộ ăn của đút, thì lương tâm vững vàng.
- Kỳ thi thứ 2: mở ngày 1-12-1931. Sĩ từ 27 người. Chủ khảo là ông Estèbe, tham biện chủ tỉnh Tân An, phụ tá chủ khảo là ông Bunou, đầu Phòng Nhứt dinh Thượng Thơ (Nội vụ) và giám thị kỳ thi viết là ông Đốc phủ Ngô Văn Chiêu, người đầu tiên từ Hà tiên đem về Sài Gòn thuyết xây ghế cầu cơ, tức nguồn gốc của đạo Cao Đài sau nầy. Kết quả có năm người đậu.
Năm nay tôi thi rớt là đáng kiếp vì suốt năm 1931, tôi mảng lo việc gia tài cho Tư là người vợ nay đã ly dị. Năm nầy có một sĩ tử gặp dịp may hiếm có là bài viết kỳ 3, thảo lại bức thư trả lời một vấn đề nào đó, thì ông T, gặp bản giáp (minute de lettre) bỏ quên sót lại trong hồ sơ, ông đánh liều chép y rồi thủ tiêu bản giáp, bài được chấm nhứt hạng. Mãi lâu sau ông Võ Văn Nhiều mới thuật lại.
Kỳ thi thứ 3: Mở ngày 1-3- 1933 - Số sĩ tử quên ghi. Có ba người đậu.
Năm nầy, thi rồi hồ sơ đều niêm lại không cho ai biết, kết quả tuyên bố rất trễ. Có một người chỉ có công dò giấy số cho bà thống đốc Krautheimer mà nên công danh. Riêng tôi, công đăng hoả mấy tháng trời, học đến xếp ve mà vẫn phủi tay không, tuy chủ khảo là tham biện Le Strat trước nhậm ở Sa Đéc, có biết học lực và tánh tình tôi, nhưng không giúp ích được gì.
Kỳ thi thứ 4: Mở ngày 16-12-1935 - Chủ khảo, gặp Bussière lại nữa, và kỳ nầy ông cũng xét giấy thuế thân tôi mà không xét người nào khác: tại sao?
Phụ khảo: Ông Nay de Touris, sở kho bạc và ông Monvoisin, dinh Thượng Thơ.
Giám thị kỳ thi viết: Ông đốc phủ Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung).
Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều như đánh bài thua. Nhưng mình vẫn nhứt quyết không "liều như đánh bài", chỉ tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói.
Kỳ thi thứ 5 - Mở ngày 24-8- 1937 - Chủ khảo: Ông Roger.
Phụ tá giám khảo: Ông Nadal đầu phòng Ba và ông Josa đầu phòng Tư, dinh Thượng Thơ.
Cử tử có hai mươi tám người, mình rớt số 28 vì tội dám cãi lý với giám khảo. Số lấy đậu là bốn người, cũng quên biên danh tỉnh để lại, vì buồn tủi. Từ năm nầy, vẫn thi đi cho lấy có, nhưng đã thất niềm tin và tự chủ. Lại nữa, bề thế đã đổi thay, gia tư khá hơn.trước, nhờ ăn gia tài của Bà Phủ An Sốc Trăng là nội tổ người bạn nay đã ly dị. Tình thế nay đổi đời, nhưng không dám quên tri ân người đã khuất. Cũng từ đây, say mê đồ cổ, mỗi lần thi rớt là an ủi mua về một cổ ngoạn đáng giá, bất ngờ nay trở nên một thành công lớn, còn lớn hơn buổi xưa thớt đậu. Ô hô! Thời da? Mệnh da? Chẳng qua vì vận thời, không nên trách cứ vào số mạng và nên tự tin vào sức của mình tự tạo là hơn.
Kỳ thi thứ 6 - Mở liền năm sau, ngày 1-6-1938, nên các cử từ đều không dự bị kịp. Ông Larivière, tham biện tỉnh Bạc Liêu làm chủ khảo. Phụ tá giám khảo gồm ông Nadal đầu phòng Ba và ông Kresser, đầu phòng Tư, dinh Thượng Thơ. Kỳ nầy đăng cáo thị lấy sáu người đậu, nhưng ông Larivère do có cảm tình và từng thấy cách tôi làm việc tại toà bố Cần Thơ, nên sau khi thi, ông không tuyên bố kết quả mà lập biên bản đề nghị lên quan thống đốc xin tuyển thêm ba người đậu số 7 là tôi, số 8 là Trang và số 9 là ông Hải, viện cớ cả ba đều có số điểm trên trung bình và đáng được chấm đậu. Rủi cho tôi, lúc đó lại có thơ rơi tố cáo tôi: a) Lo lót tiền bạc (năm trăm đồng) cho một cò-mi làm việc tại phòng nhơn ty và biết đầu đề bài thi viết, b) Tôi có hạnh kiểm xấu, bỏ vợ nghèo cưới vợ giàu, c) Đã mua chuộc tham biện Le Strat kỳ thi năm 1933 v.v...
Vì vậy, ông Larivière nổi giận, thay tờ vi bằng khác, lại bỏ tôi ra và chấm đậu tám người. Đây là một bài học đau thương, vì tôi giàu có nên có người ganh ghét ám hại, khi tôi kêu oan thì sự đã trễ, nên xử chìm xuống, hứa lại kỳ sau.
Kỳ thứ 7: Mở ngày 19-2-1941. Kỳ nầy có đến hai ban giám khảo: a) Ban giám thị gồm ba ông: Kerjean, Le Pellisier và Trịnh Đình Quý, coi thi, b) Ban giám khảo thi và chấm bài, gồm ba ông: Goutcs, tranh biện Chợ Lớn; Rolland, ngạch điền thổ và Mialin, đầu phòng Nhứt, dinh Thượng Thơ.
Kỳ thi nầy có một cải cách là cho thi ứng đáp trước khi thi ám tả. Cử tử cả thảy là hai mươi người nhưng qua kỳ hạch miệng chỉ còn lại có tám người, trong số ấy có tôi. Nhưng khi thi xong ba bài viết đến chiều ngày 22-2-1941, ông Rebouillat, chủ sự phòng Nhơn ty, đã quen với tôi lúc ở Cần Thơ, nay ông cho hay tôi rớt nữa, và các số điểm của tôi là:
Kỳ ứng đáp, nôm na gọi thi hạch miệng.
Hành chánh (d aministralion générale) 10
Tài chính (régime financier) 15
Luật (d roit) 16
Sử địa (géographie) 18
Hành chánh địa phương
(administration provinciale) 12
71
Thi viết Bài thứ nhứt, số điểm và hệ số 11 x 5 = 55
Bài thứ hai 11 x 3 = 33
Bài thứ ba 8 x 5 = 40
Bài thứ tư 11 x 5 = 55
Bài thứ năm 11 x 3 = 33
216
Cộng: 287
Theo nguyên tắc phải có 312 điểm là bực trung mới đậu, và tôi thiêu 25 điểm, trong số đó có ba người đậu.
Hôm biết được kết quả, tôi phải gọi xe kéo đưa về nhà vì quá buồn. Hôm sau không còn lòng nào làm việc, định xin thôi về nhà vui thú điền viên nhưng ông Rebouillat cho hay lúc nầy tình hình nghiêm trọng, chánh phủ không chấp nhận cho tôi đâu mà hòng làm đơn vô ích. Ông lại cho hay trong một bài viết tôi có dùng một câu chữ la-tinh mà ban giám khảo nghi là "không tự nhiên ắt có tá tha nhơn làm bải giùm" nên cho điểm nhỏ (8 x 5), vì vậy mà rớt.
- Kỳ thi thứ 8 và kỳ chót - Mở hội thi ngày 21-7-1942. Ban giám khảo gồm có: Wolf, tham biện chủ tỉnh Thủ Dầu Một, chánh chủ khảo và Freyssenge và Bealvais, đầu phòng nơi dinh Thượng Thơ, giáp ất phó chủ khảo.
Cử tử 24 người gồm bốn tú tài và 20 thơ ký đã đậu khoa phổ thông (culture générale), trong số có các bạn quen cũ là Nguyễn Đình Hào, Dương Văn Hưng, Hồ Văn Mạnh, Nguyễn Văn Vạng, Dương Văn Ký, Trần Văn Hưng, v.v...
Năm nay tôi rớt đau nhứt và nhục nhã nhứt vì bị loại vòng đầu trong kỳ hạch miệng. Và kỳ thi chấm đậu có ba người cũng quen biết và không nhớ rõ là ai, nhưng trong số đó có anh Dương Văn Ký. Một anh nữa là Nguyễn Văn Giáo nhưng sau cuộc đảo chính dưới trào thủ tướng Nguyễn Văn Thinh, anh được bổ nhiệm làm huyện và lần lên đốc phủ đó là việc khác.
Riêng tôi, thất bại về thi cử, kể bảy lần trước thì lòng có buồn tức thật vì có thể đậu nhưng bị ganh tị hoặc bị nghi ngờ việc nầy việc nọ mà rớt. Duy đến kỳ thứ tám nầy, rớt rồi lòng không buồn ức nữa mà chỉ chán chê cho cử nghiệp lao đao lận đận, khi biết mình luôn luôn bị dìm, bị đè đầu xuống thì mong gì đâu? Việc làm đầu tiên là ngày 25-7-1942 ôm mớ sách học thi cả thảy tám cuốn, đem lại hiệu Tín Mỹ đường La Grandière bán được hai mươi bảy đồng, chiều lại đem tiêu vèo trong một bữa cơm Chợ Lớn, tống khứ cái giấc mê đồ ham làm huyện làm phủ, trong khi tài không có mà miệng thế gièm pha thì nhiều. Cái nghề làm huyện để cai tri dân, đâu phải để dành cho những kẻ dại dột như tôi muốn trong sạch và không chịu đi theo con đường vạch sẵn, là phải lo lót để thi đậu rồi vơ vét mót máy gỡ vốn lại sau. Tôi nói đây không có ý quơ đũa cả nắm và xin chừa những anh có thực tài, đi thi và đậu do sức riêng, tức không cậy thần cậy thế. Lúc đó tôi rất tự tin nơi tuổi trẻ và nơi công lao ăn học, tưởng rằng “có công mài sắt có ngày nên kim", nhưng nói mãi nhàm tai, tôi xin chịu tội lúc nhỏ duy có một chữ xứng đáng đánh dấu cuộc đời “phân nứa kiếp” của tôi, đó là chữ "Hư" to tướng.
Và cuốn sách nầy, lấy nhan là "Hơn nửa đời hư" là vì vậy.
Viết đến đây, miệng đắng lưới khô, lỡ khóc lỡ cười, vừa nhớ vừa thấm thía câu bất hủ trong Cung Oán:
Cánh buồm bể hoạn mênh mang,
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh!
Còn nhiều câu nữa đều hay và dạy đời, nhưng mình không nên ngâm, vì dẫu cho giọng tốt cũng nên câm miệng lại, vì rõ là "thằng Hư!".
Cám ơn đã được thi rớt!
13: Hạnh phúc, mi trốn nơi nào?
Hạnh phúc là cái gì? Hỏi thì dễ mà trả lời không sao cho trôi.
Người bịnh ăn được nửa chén cháo, là thấy hạnh phúc nhóe lên trước mất, kẻ tù nhớ thuốc hút, vớ được đớp được một hơi hít là có thể quên hết nỗi dày vò xác thịt. Và đại phàm hạnh phúc qua rồi mới ước lượng được chân giá trị. Khi ấy thì đã muộn...
Như tôi, giá thử tôi không có dục vọng nhiều lúc bé, và chớ chi tôi sớm biết an phận tuỳ duyên, thì tôi đã thảnh thơi biết mấy? Vợ có vợ đẹp cha mẹ sẵn cưng chiều, tiền của có dư, đến có thừa để mua sắm đồ cổ, đồng lương thơ ký khoảng năm 1930 cho đến 1945, tôi lãnh mỗi tháng có trên một trăm năm chục bạc; thêm vào đó tôi lại có tiền lúa ruộng bên vợ trước, chia mỗi mùa, đổ đồng phần gia tài ruộng Hoà Tú hai ngàn công (200 ha), hoa lợi năm thất cũng như năm trúng, bù qua chế lại, lúa bán ra tiền mặt có trên năm sáu ngàn đồng bạc trắng, khỏi nặng nhọc dan nắng dầm mưa đi góp lúa ruộng, vì đã cô các anh vợ gánh vác việc nầy.
Thế mà lúc ấy tôi lại dại dột chạy theo bả vinh hoa để gặp nhiều nỗi đắng cay, thi rớt lên rớt xuống, càng rớt tôi lại càng say máu ngà định thi mãi cho đến chừng nào đậu cho chúng biết mặt, họ thi mánh lới mình thi “tay không” mà đậu được thì mới khoai. Có ngờ đâu tôi bị lâm trong giấc mê đồ, lúc hăng say tranh đua với chúng bạn thì đều đui mù như nhau cả, nay tỉnh ngộ mới rõ lại cây cầu đã qua nó gồ ghề tức xóc làm sao? Nhưng cũng may!
Tuổi trẻ là tuổi mau quên. Mặc dầu thi rớt, tức là lòng không toại nguyện, nhưng ngủ một đêm sáng ngày thức dậy, vung vai là quên hết sự đời, tôi lúc nhỏ ngây thơ tự ví và thấy mình như một tấm gương còn mới, chưa lắm bụi nhiều. Khi gặp một hoạn nạn ví như tấm gương bị hà hơi, bất quá hoen ố một đôi phút, hơi hà bay đi, tức khắc gương trở lại tỏ rạng như cũ, không hề hấn chút nào.
Chuyện cũ đã qua rồi từ lâu, nay nghiệm ra mới thấy... Những ngày chưa nhiễm bụi của tuổi xuân, đó là nguồn hạnh phúc tràn trề tiếc thay lúc ấy tôi không biết tận hường. Đến nay đã gần đất xa trời, nói theo ngôn ngữ Pháp, “đã có một chân thòng vào huyệt mộ”, đến từng buổi nầy còn nai lưng kệch ngồi đánh máy lóc cóc để ghi chép lại chuyện xưa, khi ấy mới thấm thía hối tiếc xâu chuỗi ngày xanh vô tư lự. Nhưng sự đã rồi và xuân thì luôn luôn là “bất tái lai”. Tỉ như những chuyện xảy ra sau đấy, vốn lẹ như chớp, tuy vậy lần tay tính lại, đã hơn mấy chục năm dài đằng đẵng.
CHUYỆN SỐ 1 - ĐI DU LỊCH TRÊN ĐẤT NAM VANG, TỪ 31-12-1938 ĐẾN 2-1-1939 ĂN XÀI HUY HOẮC TRONG BA NGÀY, TỔNG CỘNG HAI MƯƠI BẢY ĐỒNG BẠC (270$00):
Nhắc lại lúc ấy tôi làm việc tại toà bố Cần Thơ với phận sự là “đứng bàn ông chánh”, tức làm bí thư và thông ngôn cho quan chủ tỉnh (ông Colas). Đây là một chỗ “thét ra lửa, mửa ra khói”, nếu có lòng tham nhũng thì tha hồ làm mưa làm gió, vơ vét của phi ngãi với chuyện không nói có chuyện có nói không. Nhưng ông Colas, phải nhìn nhận là thanh liêm, và riêng tôi, lại sẵn tánh ỷ giậu và muốn được trong sạch, nên thầy trò tôi rất xứng; ông ngay thẳng tuy tánh nóng; tôi thì trực ngôn và mau quạu, nhưng trong tỉnh nói chí đáng đều có cảm tình tốt, quan yêu dân chuộng, anh em bạn kính vì. Trong số anh em đồng liêu, có anh Huỳnh Văn Diêu, làm việc bên sở Tạo tác, là tương đắc lắm. Thứ năm 29 tháng chạp Tây, tôi thảo bức thơ cho chủ tỉnh ký tên gởi đi các quận và ty sở, cho hay dịp Tết dương lịch năm nay, tham biện Colas miễn tiếp tân như hằng năm. Đây là một lệ mới để tránh việc đội mâm và lánh nạn chầu hầu nịnh hót.
Trưa thứ bảy 31-12, dùng cơm vừa xong, có anh Diêu lại rủ vợ chồng tôi cùng đi với anh lên Nam Vang xem hội chợ nhơn dịp lễ tâng tốc Miên, tức là lễ đưa nước về biển sau khi làm mùa đã xong (như lễ kỳ yên bên ta) và để đầu mùa mưa sau sẽ dâng lễ óc bốc là lễ rước nước từ nguồn chảy xuống để khai điền (như phong tục ta đã có), vào dịp đầu năm mở mửa canh tác. Chiếc xe Xi-tô (Citroen) bảy chỗ mà chở đến tám người: hai vợ chồng anh Diêu, bà quản thủ điền địa Guétet và cô ái nữ ngồi đàng trước, phía sau bốn người gồm ba phụ nữ: bà đốc công Bính, cô Hai Cái Răng, và vợ chồng tôi chen nhau ngồi tuy chật nhưng khi xe chạy lại thấy dễ chịu hơn đi xe đò. Lúc ấy giá xăng chỉ có hai cắc ngoài một lít, còn về nhơn vật miễn có giấy căn cước bìa vải đen năm cắc mỗi tấm (titre d identité cho toàn Đông Dương) là tha hồ chạy bon bon trên đường tráng nhựa, dẫu lên tới biên giới gần Tàu gần Thái Lan cũng không một ai ngăn trở. Ban đầu hai tôi từ chối, nhưng nói cách mấy cả đoàn không nghe, túng thét hai đứa xách một tay xách nhỏ y phục gọn rồi lên xe chạy thẳng. Xe qua đò Néach Luông rồi tới Nam Vang, thì không còn một phòng trống nơi các khách sạn, quen gọi nhà hàng Tây, buộc lòng phải ở tạm nơi một khách điếm Tàu, chen nhau nằm một giường và một bộ ván ọp ẹp, chung nhau chịu cho muỗi thiêu rệp đối suốt mấy giờ không dám cục cựa, vì ngoài vợ nhàn sát da là hơi thở của bạn vợ, bà đốc công, bà quản thủ, và một cô gái ngây thơ. Nửa đêm, mượn cớ đi đổi gió, anh Diêu và tôi để cho các bà ngon giấc, chúng tôi thay y phục lấy xe chạy qua phòng một cô gái Miên nơi khách sạn Pháp, tưởng rằng gặp của lạ, ít nữa là “con mái hạng sang” trong hoàng gia “nhảy dù”, suốt đêm cô trâm tiếng Miên nghe giòn tai, tiếng được tiếng mất đến sáng ngày trả tiền sòng phẳng, chia tay nhau cô mới thú thật là người Sài Gòn đổ bộ lên Nam Vang kiếm mồi, gọi là “thả cầm thơ, giang hồ lưu lạc cho biết mùi phong lưu”.
MỒNG MỘT THÁNG GIÊNG TÂY (1-1-1939) TRÊN KIM BIÊN THÀNH

Vừa lang tảng sáng, chúng tôi lội về chỗ trọ, đánh thức các bà, được tiếng khen hào hiệp nhường giường cho ngủ, mà không biết chúng tôi đi ăn vụng lội lỗi tày trời.
Bảy giờ có người trả phòng, chúng tôi dọn qua và yên trí yên nơi yên chỗ. Trọn buổi sáng, chúng tôi thả xích phê vô tích sự tấp các nơi danh lam thắng cảnh trên Nam Vang từ thành vua ở đến các xóm Việt Nam kiều bào, từ Chợ Mới xây chia ra bốn hình như một ngôi sao bốn kiềng, đến các phố khách buôn bán tấp nập, đường Bon (vì ngay cây cầu “pont”) đến vùng tân lập, xáng vét bùn thổi cát lấp một bãi lầy và tạo lập Xóm Mới Chruoy Chângva (Chui Chần Hoa) đối diện với kinh thàh cũ xứ Miên thơ mộng. Thuở ấy là thuở đại thái bình, huynh đệ nhứt gia, người Tàu là “chênh” (Thanh nhơn) được ban cho mỹ hiệu là “check” (các chú) và Việt kiều ta là “bòn” là “bon” (người anh cả, “đại huynh”, người trên trước, trường thượng).
Để lấy lòng chủ xe, bất đầu sau buổi ăn sáng “hủ tiếu Nam Vang” xóm đường Bon, và “lạp xường” (lạp xưởng, lạp trường nói trại), chúng tôi đến nhà thờ xem lễ, vì anh Diêu và bà Guéret là người ngoan đạo, còn tôi mặc dầu là ngoại đạo, nhưng chỗ nào cũng vụ tất, kính Chúa như kính Phật, kính Lão-trang. Xem lễ xong, chúng tôi thả vô thành vua xem hội chợ (kermesse). Nơi đãy tôi mua được một hũ nhỏ loại đựng ngải, men ngọc céladon Tống, giá một đồng rưỡi (1$50) (Hũ nầy ghi số mục lục 87), sau tôi bán cho anh bạn Nguyễn Văn Minh ngày 29-8-1973 không biết nay anh còn giữ chăng?
2 THÁNG GIÊNG TÂY 1939
Sáng trở vô thành vua, viếng chùa Bạc chùa Vàng. Gọi làm vậy vì nền chùa lát bằng bạc nguyên chất, lấy mỗi nén mười lượng, cán mỏng đánh vuông lót nền. Mỗi lần rửa ráy, chỉ dùng toàn nước dừa tươi cho được tinh khiết; tuy vậy khi bước chân lên đó, tiếng nghe lộp xộp y như tiếng chân đi trên mái thiếc, vì bạc không dày và cũng không dính khẳn chắc chắn như gạch đất nung gắn bằng xi măng trên nền đất bằng phẳng.
Nơi chánh điện có thờ một ông Phật đứng, kim thân bằng vàng ròng nguyên chất, bề cao lối một thước, một thước mốt Tây (bằng cỡ một trẻ mười tuổi). (Không biết ngày nay có còn tồn tại?).
Thuở binh Nhựt đổ bộ lên Nam Vang (khoảng năm 1942-1943, trước đảo chánh 1945) không biết Phật ra thế nào? Lúc tôi thấy, thì trên mình Phật có gắn sáu hột kim cương lớn cỡ đầu ngón tay trỏ chói loà đổ hào quang, một hột ngay trán, hai hột nơi linh nhãn, một hột mỗi bàn tay xòe tới trước và một hột lớn nơi ngực chỗ tim. Không kể sáu hột xoàn nầy giá trị ngày nay ước trên bạc tỷ, nếu ta đánh giá thử chơi số vàng một trăm hai chục ký lô tức tính theo lượng (37gr25) là 3221,47 lượng, nếu giá ngày nay mỗi lượng là 170.000 bạc, thì kim thân Phật, (không kể kim cương), trị giá theo hiện tại 5.476.499 đồng (bạc Việt Nam năm 1975).
Các món bảo vật khác trưng bày trong chùa là một ông Phật bằng ngọc thạch ngự trên toà sen đặt trên cao gần tới nóc. Đức Phật nầy, thân bằng ngọc bích màu xanh biếc chói sáng trên đỉnh cao, nhưng nghe nói không quý bằng một cổ Phật khác cũng bằng ngọc bích cao độ sáu bảy tấc và trước kia đã bị Xiêm binh tịch thu làm chiến lợi phẩm và mang về nước họ sau một trận giao binh mà thất bại về phần Cam-pu-chia quốc vào một thời xa xăm không nhớ được. Nghe nói vì mất Phật nầy mà nước Miên suy bại...
Cũng trong chùa còn tàng trữ một báu kiếm đã có từ đời Đế Thiên Đế Thích (nay còn chăng?). Kiếm nầy tượng trưng chợp ngôi báu vĩnh cửu của Miên Hoàng dòng Norodom (ta quen gọi là ông Hoàng Lân). Ngoài ra còn vô số báu vật khác toàn bằng vàng chế tạo ra chén bát, tô mâm, đếm không xiết vì chất chồng lên nhau và bày la liệt trong một tủ gỗ quý rất lớn, mỗi món đều nhuộm “màu vông” là màu ưa thích của dân tộc Miên, tức màu đỏ bầm của hoa vông. Vả chăng người Miên theo cổ tục vẫn ăn bốc bằng tay, cách dùng đũa chén là tiêm nhiễm theo tục Hoa-Việt, người dân thì ăn thúng mủng vùa, chén đất, người sang, vua chúa thì xa xỉ quá lẽ, dùng chén vàng chén bạc, mà mỗi lần có chiến tranh những báu vật ấy đều bị nấu ra kim khí đổi lấy tiền mua sắm khí cụ nuôi binh, mua ngựa, nên đồ từ khí cổ ngày nay không còn lại mấy.
Trên Nam Vang, nơi hoàng cung lúc tôi đi viếng, vẫn bày la liệt đồ vàng đồ bạc mà không sợ mất cắp vì người dân trong nước vẫn xem các món ấy là báu vật chung trong nước, họ không bao giờ có ý nghĩ đánh cắp hay chiếm đoạt làm của riêng. Ngoài ra các Miên vương vẫn rất xa xỉ và để phô trương sự giàu có, các vua nầy thường gắn hay nạm kim cương và châu báu trên các đồ ngự dụng.
Trong chùa còn trưng bày ấy chiếc mũ dạ đen của đức Norodom có gắn một viên kim cương to tướng, thậm chí những vật dùng hằng ngày của đức vua nầy từ cái ống phóng cũng bằng vàng, cây gậy cầm tay cũng bằng đồi mồi gắn hột xoàn chói lọi. Về cà-rá đeo tay, vòng tay, vòng cổ và kiềng cẳng của các bà Miên hậu để lại cũng bằng vàng hoặc ít nữa bằng đồng thoà tức vàng có pha bạc và pha đồng. Đồng thoà vả chăng là một kim khí được người Miên trọng dụng nhiều hơn vàng là khác. Nơi Viện bảo tàng lúc đó còn gọi là Musée Albert Sarraut, tên một toàn quyền Pháp chầu xưa cũng thấy trưng bày các vật dụng như cộ vua, ngự xa, kiệu rước quốc vương, đều chế tạo bằng gỗ quý, kiêu sa không chỗ tả, ví các con lon con tiện trên những vật dụng nầy đều làm bằng ngà, hoặc bằng sừng lên nước vàng lườm hoặc đen mun bóng lộn.
Chúng tôi viếng lần chót các viện nầy thì đồng hồ đã chỉ tám giờ sáng. Chúng tôi lên đường trực chỉ về Cần Thơ, nhưng phen nầy đi ngả Kampot (Cần vọt) để biết thêm một mớ địa danh khác, nhứt là để biết con đường mới khai phóng nối liền Hà Tiên qua Rạch Giá. Dọc đường ghé bãi Kép lắm biển, rồi dùng cơm nằm dưới triền núi, thức ăn đã cụ bị sẵn khi còn ở chợ Nam Vang. Đến Hà Tiên, chúng tôi còn ghé viếng núi Tô Châu, xem Thạch Động, rồi thả vô chợ phố viếng nhà nuôi đồi mồi sống, đoạn chạy một mạch trên đường Hà Tiên-Rạch Giá, vừa ăn lễ khánh thành cách chẳng bao lâu. Đường thẳng như dây thép kéo, cảnh hoang vu không một bóng người và nhà cửa, một bên và con kinh xáng mới múc, khai thông một khu rừng có tiếng là cô quạnh sình lầy vô dụng, một bên là cây cối giăng giăng bất tận, toàn là cây tràm cây giá và cây đước cây vẹt, khu lâm sản vốn ít ai khai phá và vẫn còn đầy huyền bí dưới danh từ “rừng già” đầy muỗi mòng, thú dữ như cọp voi và chim cao lớn như bồ nông thằng bè. Khi ở Rạch Giá chúng tôi còn đủ thì giờ viếng chợ và toà bố tỉnh lỵ, nơi ngày xưa danh nhân Nguyễn Trung Trực thọ hình. Chúng tôi ghé miếu thờ cá ông, mua tại chợ mớ nhấm tỏi ngâm giấm Hạ Châu và khô cá gộc về làm quà biếu bà con, rồi chạy thẳng thét tới Cần Thơ, ai về nhà nấy, thì đồng hồ chưa gõ chín giờ tối.
Ba ngày vui say với xứ lạ, ăn xài không kể, mà khi tính sổ, phần vợ chồng tôi như đã nói nơi đoạn đầu, chỉ tốn có hai mươi bảy đống bạc (27$00), so sánh lại với ngày nay, mới thấy thời buổi ấy, sống như trên thiên đàng mà nào biết đó là chín hạnh phúc.
Nhưng lạc cực sanh ai. Về nhà, tắm rửa thay y phục lên giường nằm, nghe lói lói bên hông, biết đã muộn vì mê ăn nhiều lạp xường và thức ăn nhiều dầu mỡ của xứ Chùa Tháp có nhiều bùa ngải. Kết quả phải nằm nhà thương Cần Thơ nửa tháng (bác sĩ điều trị là Dr. Piloz và ông bạn Nguyễn Duy Chi).
Ngày 20 tháng giêng, thầy thuốc cho ra nhà thương và biên giấy cho nghỉ dương bịnh mười lăm ngày Lúc nằm tại đường đường, cân chỉ còn 48 kí-lô, phương pháp điều trị bịnh gan bằng mười mũi emétine (thổ căn tinh) và ba mũi thuốc 914, làm sụt mất cỡ gần mười ký.
Ngày 21, Ba tôi ở Sốc Trăng lên, cùng đi với vợ chồng tôi ra Cấp đổi gió. Ngày 29, trong mình đã hồi phục, đi xe một ngựa với Ba, một vòng chín núi Gành Rái xem phong cảnh và địa thế Vũng Tàu. Ngày 30, Ba mua thịt quay và bánh mì đem ra bãi vừa ăn vừa xem đánh cá. Ngày 31 là ngày chót, cha con đoàn tụ nơi vùng mát mẻ thảnh thơi nầy. Ngày 1 tháng hai, lên xe đò hãng Pháp gọi Compagnie de tramway, trực chỉ Sài Gòn, đi ngang chợ Biên Hoà ghé mua ba chục bưởi Thanh Trà giá có hai đồng bảy cắc (Năm 1975, khi chép bài nầy, trái bưởi xứ anh Bình Nguyên Lộc đã lên giá trên hai trăm đồng một trái). Có lẽ mắc hơn thì hẳn, nhưng làm sao ngon ngọt bằng thuở thanh xuân, lúc Ba tôi còn sanh tiền. Xe đến bến Sài Gòn là 9 giờ ngày 1 tháng 4. Ba lên xe về luôn Sốc Trăng.
Ngày 2, chúng tôi còn nán lại Sài Gòn để ngày mồng ba dương lịch, tức rằm tháng chạp năm Kỷ Mão, khách trú Trần Tứ, nhà ở số 107 hẻm số 15 đường Chaigneau (nay là đường Tôn Thất Đạm) nài bán một xâu chuỗi ngọc thạch ba chục hội màu xanh biếc trong trẻo không một chút tỳ, giá sáu chục bạc (60$00) xâu chuỗi nầy, giá thử nay còn, giá bán không dưới năm trăm ngàn đồng (500.000$00), khi kể lại làm vầy không phải tôi lẩn thẩn mà tình thiệt muốn đánh dấu sự sai biệt của đồng bạc thời bình ngày xưa và thời bấp bênh hiện tại. Ngày 6 tháng hai, trở vô làm việc lại vì đã mãn phép, con bò kéo xe chưa hết kiếp, biết sao? (Tiền xài ở Cấp từ ngày 21-1 đến mồng một tháng hai thêm tiền xài ở Sốc Trăng từ 1 đến 5 tháng hai, chỉ có 195$00). Thiệt là rẻ mạt!
13 (tt): Hạnh phúc, mi trốn nơi nào?
CHUYỆN SỐ 2: THÁNG HAI DƯƠNG LỊCH 1940 (NĂM TÂN TỴ) ĐI VỚI BA TÔI LÊN VIẾNG CẢNH ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH, TIỀN XE TIỀN CƠM VÀ TIỀN PHÒNG TÍNH CHUNG, HẢI NGƯƠI TỔN PHÍ LÀ NĂM MƯƠI HAI ĐỒNG (NHẰM HAI MƯƠI SÁU ĐỒNG MỖI NGƯỜI)
Trước khi đọc bài nầy, nên tìm xem lại trong tập “Hồi ký năm mươi năm mê hát”, trang 124 tôi kể về đêm 6-1-1940 đi xem diễn tuồng cải lương “Tơ vương đến thác”, tức tuồng La Dame aux camélias của Pháp và xem luôn trương 139, khi tôi nhắc chuyện ngày chúa nhựt 5-5-1963 tại Paris, tôi viếng mộ người ân nhân trước giúp tiền cho tôi dựng nhà, nhưng hôm ấy không gặp mộ bà lại gặp mộ nàng Kiều của Pháp là nàng Alphonsine Plessis, tức Marie Duplessis, tức Trà hoa nữ “La Dame aux camélias”, mỹ nhân bạc mạng trong Tơ vương đến thác).
Ngày 7-2-1940 đúng là ngày 30 Tết năm Canh Thìn. Ba tôi phá cổ lệ không ở nhà giỗ quải ông bà vì đã giao việc nầy cho em trai tôi ở nhà coi sóc. Ba tội từ Sốc Trăng lên Sài Gòn trước một ngày và khuya rạng ngày 7-2 cùng với tôi ngồi xe kéo chạy lên hẻm Cây Điệp đường Phan Đình Phùng, lúc đó còn gọi là đường Richaud, đến nhà anh bạn quá cố là giáo sư Nguyễn Văn Hanh, biệt hiệu là Đức Lang, để gia nhập phái đoàn du lịch Đế Thiên do anh tổ chức và đài thọ cả tiền ăn tiền phòng và tiền xe phiếm du, cả thảy bốn ngày đi và về mà anh chỉ lấy mỗi người có hai mươi sáu đồng, vị chi Ba tôi và tôi chỉ tốn có năm mươi hai đồng mà biết được xứ Chùa Tháp và cảnh thần tiên Đế Thiên Đế Thích của xứ Căm-pu-chia thơ mộng. Lúc đó nào có vấn đề thiết quân luật du khách và người trong bán đảo Đông Dương muốn xê dịch xứ nầy qua xứ kia chỉ tuỳ thân một thẻ căn cước của tổng nha cảnh sát là đủ và thường lấy đêm làm ngày, xe đò chạy ban đêm cho mát mẻ, đỡ tốn nhiên liệu, rủi ro xe chết máy cũng không sợ nạn cướp đường và “ma cỏ” nhát hù. Tuy có giao hẹn chắc chắn là bốn giờ khuya xe phát chạy cho lợi thì giờ, vì đường Sài Gòn lên đến Xiêm Rệp (Siemréap) là xa không thua Sài Gòn đi Huế, tuy hẹn làm vậy nhưng bộ hành tề tựu đủ mặt mà mãi chờ xe đến đồng hồ nhà thờ Đức Bà đổ năm tiếng, chuông kiểng reo điếc tai mà chiếc xe đò do anh Hanh mướn vẫn chưa thấy dạng. Mãi hơn sáu giờ sáng mới thấy xe ló mũi ở đầu đường, không đợi mời, hành khách tuôn ào lên xe mặc ai nấy tìm chỗ ngồi và xe bắt đầu lăn bánh. Trong số du khách là ba chục người, theo tôi biết nay chỉ còn sót lại không hơn năm ba người, như anh Như Cảnh nhà báo, ông Đỗ Phong Thuần biệt hiệu Long Giang và tôi đây, còn bao nhiêu người khác đã ra người thiên cổ như tiên nghiêm, cố bác sĩ Trần Văn Minh trước có làm chủ một gánh hát cải lương ở Sốc Trăng, Giáo Dùng, Hoá nhiếp ảnh viên ở Đất Hộ, một sinh viên tên là Nhẫn, cô Bảy Quang ở gần ga xe lửa Đất Hộ, không kể bà chủ xe đò và gia đình anh Hanh và mấy cô gái ngây thơ nay đã trở nên mạng phụ con cháu đầy sân.
Xe chạy dọc đàng gặp đủ thứ trở ngại: quẹt vè với xe buýt, gẫy nhíp, bị cò phạt, tuy vậy vẫn cà rịch cà tang chạy không ngừng mỗi khi sửa chữa xong. Xe đến chợ Nam Vang, tuy bụng đói mà không dám khuyên xe đậu lại ăn cơm vì quyết tranh thủ với kim đồng hồ và muốn lên cho kịp đến nơi đến chốn hơn là nằm đường nơi cảnh lạ quê người.
Sáng ngày 8-2, đến bốn giờ rưới sáng thì xe mới lết tới Siem Réap. Mặc dầu khuya khoắt, anh Hanh chạy đi kiếm khách sạn đã dặn chỗ trước, và chia ra bốn người chiếm một phòng. Ba tôi và tôi được sắp ở chung một căn phòng với ông bác sĩ Minh và một người Bắc tên là ông Bùi. Dọn cơm ăn hối hả ngon quá vì nhịn đói trọn ngày, vừa buông đũa là nằm một phút sải tay chân vì ngồi một ngày thẳng thét gần đứt xương sống.
Tuy vậy, không ai nhắm mắt, vì bữa nay là ngày mồng một Tết và ai ai cũng nóng lòng viếng cảnh ước ao hơn là nằm ngủ dưỡng sức... Đồng hồ vừa gõ bảy giờ là anh Hanh đã gõ cửa đánh thức mọi người, mời thay y phục gọn và xuống lầu dùng điểm tâm để còn viếng cho kịp Angkor-thom, tức đền Đế Thiên. Xem xong điện nầy là lật đật chạy xe đến Angkor-wat tức điện Đế Thích, (“wat” có nghĩa là chùa). Đến nơi đây gặp vừa đúng ngọ, sẵn cây cao bóng mát, bèn tổ chức một bữa cơm trại. Bánh mì thịt nguội đã mua sẵn ở Câu lạc bộ, tránh được khỏi mất thì giờ chạy về chợ ăn cơm tiện cao lâu xứ nghèo và quê, bán giá cắt cổ, chỉ đặc biệt không tính tiền mớ ruồi xanh đông vô số kể. Đến ngày nay còn nhớ bữa cơm ngon miệng ngày ấy giữa cảnh rừng già hoang vu và đồ sộ các tượng đá vách đá rêu phong ngàn năm cổ kính. Cơm xong ngả lưng nhìn trời và vòm lá xanh tươi, lòng lâng lâng tưởng chừng như thoát tục, nhưng nhớ lại hết ba ngày viễn du nầy thì kiếp con bò kéo xe, cạo giấy làm mọi Tây vân còn dài dặc. Nhưng tuổi trẻ không nghĩ xa, vui đâu chúc đó, hãy tận hưởng những giờ phút hạnh phúc không tốn tiền nhiều nầy rồi sẽ hay. Tổ chức khá chu đáo mà chi tiết nhỏ lại quên, ra đi trọn ngày mà không nhớ cụ bị nước uống, cả quan khách đều khát và thèm một giọt nước mưa thắm giọng, nhưng đành nhịn uống nước địa phương. Tứ bề vắng teo toàn là rừng xanh với mấy cây dây leo dị tướng thân lớn bằng cột nhà uốn khúc bám sát vào vách đá rêu phong như những con khủng long hay mãng xà trong các truyện truyền kỳ quái lục. Đây là một loại dây rừng, ban đầu là một hột nhỏ lách tử một trái bé đã khô, hột nhỏ chứa trong trái có cánh, bay khắp rừng, thoạt xé bung ra muôn vạn hột nhỏ văng xẹt tứ tung, hột nào rơi rớt nào không trung vô định thì không kể, hội nào tốt phước rơi và o kẹt đá, hố vách thì ở lại đó, hoặc vì nắng cháy sẽ hư đi, hoặc tốt phước hơn nữa rơi trúng địa thế thuận có một chút nước đủ ướt để mọc mộng rồi cái mộng lớn dần, thoại đâm rễ trổ lá, thế là thành công, sẽ đoạt quyền tạo hoá, sẽ thắng những tảng đá khổng lồ do tay thợ lành nghề các đời đế Suryavarman xây dựng, và triền miên bồi đập trong nhiều thế kỷ liên tiếp từ thế kỷ thứ IX đến XII. Hột nhỏ loại cây da cây dừa, cây fromager, cây vông Khơme nếu ta tìm hiểu trong loại sách Mác-xít, Freud, Sartre) là loài cây phá hoại, đã xô ngã đền đài Đế Thiên Đế Thích, báo hiệu cho chế độ tân tiến, những gì tưỏng là lâu bền của thời kỳ đế quốc phong kiến đều không tồn tại với “hột cây bé nhỏ” nhưng có chí kiên gan đoàn kết của nhân lực đợt sống mới ngày nay. Chung qui cũng nhờ nhẫn nại và hơi nước sương mưa nhiều đời tiếp lực.
Nhưng triết lý ở đây là thừa. Chúng tôi la cà dạo chơi ngấm nghía cho đến bốn giờ chiều là lên xe cho chay vòng vòng thường tận cảnh mặt trời vừa mọc, cảnh trời đứng bóng, cảnh hoàng hôn trời sập tối, cảnh trời vần vũ mưa, quá nhiên phong cảnh những đá lál meo mốc nầy đều thay đổi biến hình mồi giờ mỗi phút như chiếc áo thần muôn màu nghìn sắc và thiên biến vạn hoá. Chúng tôi rất tiếc không mục kích được cảnh Đế Thiên Đế Thích viếng giữa đêm khuya có trăng sáng, hoặc khi đốt đuốc dạo chơi dưới mái điện âm u có bầy dơi quạ bay sát vào mặt sè cánh, vuốt tóc người lữ khách hiếu kỳ như những bàn tay ma của các cung nữ, các vũ nữ có hình chạm trổ trên vách đá. Theo văn hào Pháp Pierre Loti đã tả những khoảnh khắc ấy mới là thần kỳ thoát tục và khêu gợi vô song. Vả chăng nền điện đều bị cạy xeo để tìm châu báu, nay chỉ còn nền đất dưới lớp cứt dơi dày cả tấc, hôi hám nực nồng mùi nước đái quỷ “ammoniaque” nhiều đời tích tụ. Mặc dầu đến đây mến cảnh, mến cổ thời, nhưng anh giáo Hanh dạy chúng tôi thực tế là hơn và để đỡ tốn tiền xăng nhớt, đã hối chúng tôi kíp về phòng trọ, nghỉ ngơi dưỡng sức để ngày mai sẽ hay. Chiều nầy ăn cơm sống và đêm ngủ lạnh rét da, nhưng không ai phàn nàn.
Qua bữa sau 9-2 (mồng hai Tết) theo chương trình là đi xem Angkor Wat (Đế Thích) và xem hai vòng lớn nhỏ cảnh vòng thành hoang tàn, Pháp gọi Grand circuit ét Petit circuit, nhưng xe hư sửa đến trưa mà không chạy. Mất thì giờ vô ích, các du khách cực lực phản đối, bà chủ xe nóng ruột xuất tiền mướn một cỗ xe camiông của người Thổ, chở đi một vòng lớn nhưng không ai còn hứng thú.
Đây cũng vì ít tiền và tổ chức không chu đáo. Nhưng biết trách làm sao, khi anh giáo Hanh phải sống, phải hạn chế để có lời? Buổi trưa nhờ biết tiên liệu nên cụ bị đem theo một con gà rô-ti và mấy ổ bánh mì, chẳng những khỏi vất vả, lại ngon miệng và thêm được xã giao với bạn bè mới quen, nhứt là cô Bảy Quang không bao giờ từ chối. Ít mệt mỏi như ngày hôm qua... Đêm nay về phòng, bàn bạc riêng và tổ chức sáng mai một cuộc thăm đến Banteat Srev với bốn bạn mới kết giao; Cô Bảy, giáo Dùng, anh Như Cảnh, sinh viên Nhẫn, sẽ cùng đi với Ba và mình. Tiền mướn xe mỗi phần không hơn mười đồng bạc, và được ngồi xe Cïtroën bảy chỗ ngồi sướng chán. Thêm được biết một cảnh trí không có ghi trong chương trình tổ chức.
Mông ba Tết (10-2-1940). Vừa bốn giờ sáng, xe đến, vội vã ăn lót lòng hấp tấp rồi lên xe trực chỉ Banteai Srev. Đây là một cổ điện do đức Phật vương trong sử Miên tôn lên hàng guru royal, mỹ hiệu là Yajnavaraha truyền xây dựng từ năm 967 Tây lịch, tính đến nay đã hơn một ngàn năm. Không biết với nạn chiến tranh hiện thời, cổ điện nầy có còn lồn tại hay đã mất mát tang thương nhiều thì đáng tiếc thật, vì Banteai Srey so sánh với Angkor như viên ngọc quý so với đá thường, nói cạch khác Banteai Srey khéo như một món nữ trang đặc chế do người kiến trúc thượng hảo hạng đặt tay vào, còn Angkor mặc dầu là một pho kiến trúc kiệt tác nhưng vẫn do nhiều thợ hiệp công xây dựng, chỗ khéo chỗ vụng không đều, có thể ví Banteai Srey là đồ đặt đối với Angkor là đồ hàng, Banteai Srey là mỹ phẩm ngự chế, Angkor là phẩm vật tầm thường dân dụng và loại đồ đặt đối với đồ ngang đồ đàn, khác biệt rất xa. Tôi không tiếc lời khen ngợi điện Banteai Srey, vì năm tôi viếng 1940, điện còn gần như nguyên vẹn, đứng sừng sững giữa rừng hoang nhưng làu làu như một nàng tiên bất nhiễm hiện hình giữa chốn phàm trần nhưng không vấy chút cái bụi trần ai. Banteai Srey, theo ông Louis Cheminai trong quyển Le Cambodge (Xứ Campuchia, xuất bản ở Sài Gòn năm 1960), được tìm thấy năm 1914 do một thiếu uý Pháp làm cho sở địa dư và nhà khảo cổ Marchai đã bền công tu tạo đúng theo lối anastylose, (tức giữ đúng cổ truyền không được tân tạo chế biến chỗ nào, tỉ dụ cây cột bị mối ăn, có thể đổ xi măng vào cho thêm chắc chắn mà không được thay thế bằng cây cột mới, nhờ vậy mà năm 1940 tôi gặp còn làu làu gần toàn vẹn, mà nhờ kiến trúc bằng đá đỏ lâu ngày xuống sắc đen đen giống như đồng vỏ cua lạc tinh lâu năm không khác.

Tôi còn nhớ bữa đi viếng năm 1940, tuy đã trên ba mươi năm ngoài mà rành rành như ngày hôm qua, điện ở xa trong rừng mai đang trổ, rõ ràng trước mắt cảnh “chim cúng trái”, chỉ vùng náy khô khốc còn thiếu cảnh suối chảy “cá nghe kinh”, xe đang bon bon chạy, thoạt có một bà Ăng lê tóc trắng xoá như thúng bông, thiệt là tiên phong hạc cốt, đang chống gậy đi thoang thoáng nơi đàng xa, rõ lại đây là khách ngoại quốc từ Thái Lan sang viếng đền theo ngả Battambang, nhưng trong trí tôi hôm ấy đinh ninh đó là nữ tiên hiện thân của nàng công chúa Banteai xuất hiện giữa cảnh trời tưng bừng sáng, không một chút bụi trấn (Srey có nghĩa là nàng con gái). Chúng tôi tiếc bữa ấy thì giờ cấp bách quá, không được cung chiêm kỹ lưỡng pho kiến trúc kiệt tác nầy, trong thâm tâm lấy làm lạ, và cho đến nay chưa nhà khảo cổ nào khám phá ra, - là vì sao đền nầy khéo léo thì vô song, nhưng nếu kể về kích thước thì chỗ nào cũng nhỏ bé, cửa thấp vào phải cúi đầu, kho sách thì chật hẹp, duy các pho tượng, thần đầu chim, đầu rồng, giữ hai bên mỗi cung điện đều tạc hình hùng vĩ khéo hơn các tượng từng thấy nơi những cổ điện Angkor và Phnom Bakheng, Kulen chẳng hạn. Vì kích thước hạn chế khiến có nhiều người suy luận phải chăng Banteat Srey là đền thờ hơn là điện ở. Nhưng không một ai cho đến nay dám quyết đoán vấn đề nầy.
Chúng tôi chạy xe xem hối hả không khác người đói nuốt trộng thức ăn cho đầy bao tử, tự nguyện sau nầy sẽ lừa dịp trở lại cung chiêm cho mãn nhãn, nhưng than ôi, tình thế nầy mà với tuổi nầy, ắt đành để câu nguyện kìa bất thành. Xem xong đền Banleai Srey, chúng tôi còn đủ thì giờ cho xe chạy giáp vòng những nơi hôm qua vì xe hư nên bỏ dở, như:
- Vòng nhỏ (petit circuit) gồm Angkor Wat, Phnom Bakheng Baksei - Chamkrong, và nguyên vùng Angkor Thom từ trong đền ra tới thành ngoại.
- Vòng lớn (grand circult) gồm Prah Khan, Neak Pan, Mé hon oreital. Pré Rup, Ta Prhom, Banteai Kdei, Takeo và vùng cận tỉnh Sieam Réap.
Còn một vùng lớn ngoại ô, gồm trừ Banteai Srey ra, còn có Bantéai Samré, Roluos, Ba ray Occỉdental và Phnom Khom, chính bác tài xế vì ham chút lì xì, đề nghị lăng xăng, nhưng chúng tôi tạm cho là mãn nguyện, vì phải trở về trước ngọ, giờ phát hành trở lại Sài Gòn, chớ đi mãi làm vầy chẳng qua là nuốt trộng thức ăn e sẽ trúng thực, chẳng qua là ngắm xem thật nhiều: phong cảnh thiên nhiên đất Nam Vang huyền bí, nào rừng với núi, gió với mây, hang với đèo, lạch với suối, cảnh sạn đạo đường rừng quanh co uốn khúc, nhưng sở du lịch thuở ấy đã cắm sẵn hai bên đường những bảng chỉ lộ hoặc bảng tròn hoặc bảng tam giác báo hiệu chỗ rẽ hiểm trở, nẻo tắt nên dùng để lợi thì giờ, vân vân, và làm sao xem cho hết được. Trên chuyến xe chạy về phòng, chúng tôi để ý đến những guồng tát nước, đem nước sông lên ruộng có vô số gàu nhỏ bằng tre nứa kết thành vòng tròn thật lớn chuyển động bằng sức nước dựng suốt theo bờ sông Xiêm Réap vừa đơn giản vừa tiện lợi và tiết kiệm, thêm rất nên thơ và đẹp mắt, không gàn trở làm hư cảnh thiên nhiên chúi nào. Đến những nhà sàn của thổ dân ở đây cũng rất thơ mộng, cao ráo, sạch sẽ, hạp vệ sinh, mát mẻ, con người ở đây sống như vầy ắt ít bịnh và sống thọ cũng phải. Thêm đất xứ nầy nghiệm ra có nhiều chất vôi, nên thổ nhân người nào răng cũng tết trong và thân người to và cao lớn, xem mạnh mẽ vô cùng.
Chuyến về buồn tẻ, vì người nào cũng mệt mỏi, lên xe ngủ gà ngủ gật quên chuyện trò. Xe tới bến lật đật mạnh ai nấy về, duy kỷ niệm riêng buổi đồng hành, mỗi người lại nhớ một cách khác.
Ba tôi còn ở lại với chúng tôi chơi cho đến ngày 13 tháng hai Tây, mới lên xe đò về Sốc Trăng, cùng đi với em tôi là Vương Minh Cảnh.
Ba ngày tròn ở Đế Thiên Đế Thích, hít thở không khí trong lành của cung điện vĩ đại của các quân vương tài hoa Cao Miên, thêm được vui trong lòng vì đã đưa người sanh thành ra mình viếng một cảnh người hằng ao ước bấy lâu, bao nhiêu hạnh phúc ấy mà hai cha con tốn không hơn một trăm bạc. Cuộc hành trình nầy, nếu ngày nay muốn thực hành, cũng phải cần nhiều trăm ngày bạc mà không dễ gì xong, ôi hạnh phúc, giá trị của mi là bao, đố ai biết được.
14: Chuyện cũ "hai vua mất ngôi"
Dẫn - Tôi còn nhớ có một ông quan thời đàng cựu, nhờ sống dai nên con có bảy đứa và đã phò ba triều vua bốn triều chúa, nên làm thi, hạ câu đầu là "Ba vua bốn chúa, bảy thằng con". Tôi không làm quan cũng không nói đâu xa, chỉ sống tại Sài Gòn và ở lẩn quẩn dưới gốc dây da to ngang dinh Gia Long ngày nay, nhưng đã thấy "phế hưng mấy lớp", "Hữu đi Diệm đi” (lúc ấy có một câu đồng dao do một bà đầm thuật “Hũ bể - (Hữu), Vịm tan (Diệm), mần ăn mới khá”. Nhưng sau khi hũ bể Hữu đi, vịm tan Diệm chết, cuộc làm ăn của dân chúng miền Nam có mòi còn vất vả hơn buổi xưa. Kể về vua cận kim, trong buổi sống thừa, tôi thấy đủ mặt: Ông lưu vong trở về ngang tàng hống hách là ông Thành Thái, ông im lìm chờ chết là ông Khải Định, còn hai ông vua nhỏ kế vị, thảy còn sống và lịch sử chưa chấm dứt tôi sẽ nói sau:
Ông thứ nhứt, khi vào Sài Gòn là đã mất quyền vương vị. Đó là ông Thành Thái (Bửu Lân), ông là bóng vang một thời của Sài Gòn còn quê, chưa có đèn điện và chưa có nhà chọc trời. Ông rượt đánh sơn đá như đập chó điên, thét rồi Tây chịu không nổi, dời ông ra vũng Tàu rồi đày ông ra viễn đảo Réunion (13-5-1916).
Thoạt đi một thời gian, sau trận đệ nhị thế chiến, ông được trở về, đã trên bảy mươi tuổi, chỉ còn biết làm thơ và chửi bướng. Dân Sài Gòn thờ ơ, nhắc về ông nhiều huyền thoại. Tôi lúc ấy lại dại dột, nghe lời một bạn khuyên tôi không nên lại gần ông, "vì gần ông xui xẻo lắm, không chết cũng rủi ro, cháy nhà, mất chức hay tàn mạt". Tôi vẫn biết con người chỉ chết có một lần, và tôi đã thôi quan còn gì mất chức, không nhà sợ gì cháy, và nếu có đi sớm lại càng hay, còn tàn mạt thì khi bỏ xứ bỏ nhà chạy lên đây, chẳng tàn mạt là gì nữa? Sở dĩ tôi không gặp ông là tại tôi quá vất vả chạy gạo không đủ ăn, lấy thì giờ đâu đi yết kiến một ông vua phế đế? Bỗng nghe tin ông mất tại Sài Gòn (20-3-1954) quan tài chở về chôn tại Huế, thì đã muộn, còn gì thấy mặt "long nhan"? Tôi xin ghi lại những gì đã nghe:
Một tin cho rằng khi vô đây, ông có đem theo nhiều trân ngoạn và đã cho chác những bà chung quanh như Cô Ba Ngoạn (chủ gánh hái bội), bà Tám Đội (chủ một gánh hát bội khác) v.v..., sau tôi hỏi thăm lại thì những của ấy cũng không đáng gì là báu và đã quy tụ về nhà một bà sưu tập danh tiếng là bà Đốc phủ Hà Minh Phải.
Một tin nữa đồn rằng khi ông viếng lăng Tả Quân trong Gia Định, ông có nói: “Nó lạy ta chớ ta không lạy nó? . Đó là ông còn nhớ cảnh vua tôi và cũng là nói gượng. Lạy lục lễ bái không đáng kể, danh còn tồn tại với thời gian mới đáng kể hơn. Nhưng có phải ông đã thốt ra lời nói gàn kia không? Việc chưa chắc không nên vội phê bình.
Một tin đồn cũng vô căn cứ hay là bịa đặt? Rằng có một phu xe kéo, ngày nọ gặp tại trận phế đế đang vạch cu đái bên lề. Anh phu lật đật tìm bọn huyện đề đưa một số tiền “anh biên cho tôi đánh con rồng”. Quả đề xổ rồng và anh trúng lớn. Hỏi duyên do, anh nói: "Thấy đầu rồng hay đầu con c. mấy thứ!” Tôi nghe mà đâm sợ ngay cho những sự nghiệp xây trên huyền hoặc, dị đoan.
Một tin nữa, cũng cần điều tra lại. Đồn rằng lúc ông trớ về ẩn cư tại đất Ô Cấp Vũng Tàu, lối sau năm đảo chánh 1945 và trước năm 1954 ông Diệm về, thuở ấy tại Cấp có một tên cai mã tà dựa hơi Tây rất hống hách, húng hiếp đồng bào như cơm bữa. Việc đến tai, ông quở: “Nó chết có ngày?". Quở chưa bao lâu, quả một sáng nọ thấy thi thể tên cai nằm sóng sượt, trên đầu có mấy lỗ đạn rỉ máu. Không cần biết lời vua linh ứng, chỉ nên hiểu gieo gió gặt bão, ác lai ác báo, ở chẳng ai thương thì đoản mạng đáng kiếp. “Nó chết có ngày!". Câu nói như lời thầy bói, rất rộng. Cái chết không ai tránh khỏi, duy sớm hay muộn, đáng tiếc hay đáng khinh. Nhưng cũng vì cái chết bất đắc kỳ tử nầy mà ông bạn nọ khuyên tôi lánh mặt ông và quên rằng nếu không làm gì lỗi thì sẽ là tự nhìn nhận mình không trong sạch.
Có một bài thơ sau đây tôi chép từ lúc còn học trường Chasseloup, không rõ của ông làm hay của người thế gian gán cho ông để thêm oai, cũng xin chép lại làm dấu tích.
Thơ đức Thành Thái ngự du Sài Gòn, khi tàu cặp bến:
Tiếng xa nghe lội tiếng đồn loang,
Tàu ghé gieo neo rổn rổn ran
Trẻ lật rật mang xương vũ trụ,
Già bôn chôn quảy gánh giang san.
Rần rần lên xuống đô vương bá,
Nườm nượp đi về lũ hổ mang.
Còn đó nhộn nhàng dân sáu tỉnh,
Lui rồi sóng lặng cõi bờ an.
(Bài thơ không chỉ là đặc sắc, thêm lộ liễu quá, không lý của ông).
Một ông vua thứ hai tôi được mắt thấy là ông Khái Định. Ông nầy băng hà tại Huế ngày 6-11-1925. Trước đồ ông có vào Sài Gòn để chờ xuống tàu qua Marseille vì lúc ấy muốn sang Pháp, phải dùng đường biển, tàu chạy từ hai mươi bốn đến hai mươi tám ngày mới tới nơi, tuỳ tàu tốc hành hay tàu chở chuyên hàng hoá, gọi tàu chở gạo. Đất Nam Kỳ lúc đó, người Tây có quan niệm là nhượng địa đã cắt đứt cho Pháp, việc ông đật chân lên Sài Gòn là vì quá cấp bách cho kịp chuyến tàu sang Pháp, chớ chuyến về ông sang tàu ngoài Cấp rồi dùng đường biển ra luôn Đà Nẵng, ý người Pháp không muốn cho dân Nam nắm nuối ông vua nầy e động lòng nhớ quê cha đất Tổ mà vùng dậy sanh dị tâm. Khi tôi đứng dưới gốc da ngang cửa lớn dinh Gia Long ngày nay, bữa ông đón chào ra mắt thống đốc Nam kỳ, tôi không dè đã mục kích một buổi yết kiến lịch sử. Khi chiếc xe hơi mui trần, hiệu Delage sáu máy, mang số hiệu C.20 là xe sang nhứt của Phó Soái Nam kỳ thuở ấy, chở ông đến trước đại môn, xe vừa ngừng, thì nhạc nghi lễ trối giọng: bản quốc thiều Pháp, la Marseillaise xổ trước, rồi bản quốc thiều triều đình Huế tấu sau. Kế đó một bác tài xế phụ mặc sức phục tùng kính cẩn xuống mở cửa xe. Tôi thấy bước xuống một ông trạc tứ tuần bước chậm rãi khoan thai, tôi vừa vội khen "tướng rồng" chợt tôi nhìn cách ăn mặc, tiếng khen tắt ngủm! Ông đầu đội nón lông kết ngù bằng vàng thiệt, áo thêu rồng cũng màu vàng, bó sát vóc rồng ốm nhom, quần kiểu quần Tây trắng bó gọn trong đôi hia “ghết” da đen cao tới gối lưng nịt ngọc đái và đeo gươm cán vàng có nạm kim cương, trên ngự bào lóng lánh chói chói rất nhiều hạt kim cương cỡ năm sáu ly, ông đứng vịn cán gượơ một tay đưa lên trán chào theo kiểu nhà binh, mươi ngón tay, trừ hai ngón cái đã đeo tám ngón tám chiếc cà rá nhận hột xoàn thật lớn. Ông người dong dảy dễ coi, muốn khen là bô, duy gương mặt, nếu gọi đó là "long nhan", tại sao lại một màu với áo và cán gươm vàng khè thấy dễ sợ? Mũi cao mắt sáng, bao nhiêu thông minh của dòng Nguyễn Phước đều đổ dồn vào cặp nhãn nầy, một ông muốn tỏ mình chuộng võ lực, muốn làm "cô-lô-nên" (colonel) nhưng chỉ có hình thù một ông quan ma-tà choàng ngự bào, mặt khác ông muốn khoe sự giàu sang "phú hữu tứ hải", nhưng xoàn và vàng chỉ làm ra ông một người bán nam bán nữ, ham nữ trang và diện như con đàn bà bóng xế về chiều. Ông hết còn gì là thiên tử", và lúc ấy tôi thấy chỉ là một con bịnh cầu mong gặp phước chủ may thầy sang Pháp kỳ đó trông gặp Biển Thước, Hoa Đà cứu khỏi bỉnh nan y lao trong cốt tuỷ, nhưng ông chỉ làm trò cười cho dân Paris sẵn tính kiêu ngạo. Nghe nói đốc lý thành phố dâng sổ vàng xin chữ ký, ông cầm bút đứng trên một khắc đồng hồ nghĩ ngợi, sau rốt vỏn vẹn ký hai chữ tên vua. Cái gì của vua cũng đều hoà hoãn! Mấy con đầm nịnh ông lại gần dâng hoa ton hót. Ông ngắt hột xoàn trôn áo đáp lễ, cho như vậy thật là phí phạm và không biết cách ban ân. Hèn chi cụ Phan Châu Trinh chê ông mà không ai bào chữa được. Bữa tôi núp gốc đa xem ông, có mấy chú Tây chà và xầm xì "Vua nước Nam như vậy hay sao?" tôi không biết là lời khen hay chê, mong ngày ông ngự giá hồi loan, ông đem về một tin mừng nào cho nước nhà, bất ngờ tàu ông chạy thẳng ra Đà Nẵng rồi ông lên bộ trực chỉ Huế đô, dân Sài Gòn không thấy mặt ông lại nữa.
Nãy giờ tôi nói dông dài mà chưa đề cập đến chuyện cũ hai vua mất ngôi. Và việc còn mới quá, tôi xin tạm giấu tên để khỏi đụng chạm. Người Pháp khi lập đô hộ, đã biệt đãi hai nước khác nhau bên trọng bên khinh gần thấy rõ. Với nước nầy, tạm gọi Tần Quốc, họ không trả lương và đầu độc mỗi tháng bằng mười kí lô thuốc phiện chia trong giới hoàng thân muốn hút thì ghiền gập hay không cũng mặc, không hút thì bán chác lấy lãi nuôi sống (là việc riêng trong hoàng tộc, họ không cần biết đến). Một nguồn hoa lợi khác nữa là người trong dòng họ vua được phép chứa bài lấy liền hồ. Đem tay bài về sát phạt trong hoàng cung. thì không bị bắt bớ. Đầu độc bằng thuốc phiện và bằng cuộc vui đổ bác, khỏi xuất ngân quỹ, còn mưu nào ác độc hơn? Khi ông vua bù nhìn quá già, phải nghĩ đến việc kế vị, họ cũng tìm ra một kế thâm thuý. Ông vua đã trên sáu bảy mươi tuổi, có một phò mã đã gần ngũ tuần, bà công chúa vợ phò mã vả lại là thân thích hàng con bạc con chú, hoặc giả con cô con cậu, việc không rõ lắm, nước nầy theo chế độ mẫu hệ, và "bà con lấy nhau" là sự thường, việc càng tốt vì gia tài khỏi bị người ngoại tộc vào chia, phò mã và công chúa có một người con trai, tạm gọi là thái tử. Để luyện cho thái tử (hay thế tử) đủ tài nối nghiệp làm vua, thay vì cho sang Pháp, họ gởi vào Sài Gòn, cho học trường Chasseloup và lựa một viên bảo chứng (correspondant) để phụng sự lo lắng mọi sự cần dùng của thái tử, là một cận thần thân tín, một sen đầm (hiến binh) Pháp, tôn lên chức đại diện hoàng gia, và có phận sự làm quản lý coi sóc một biệt thự ở bên hông trường, làm nơi trú ngụ cho thái tử những ngày chúa nhựt và nghỉ lễ có chỗ ra chơi (Ngôi biệt thự nầy ở đường Lê Quý Đôn). Thái tử là người dễ tánh, không cần tỵ hiềm và chỉ lo bề ăn học. Lúc ấy thái tử cũng chưa biết mình sau nầy cầm quyền sinh sát một tay và cầm vận mạng một nước, bắt tay địch thể với nhiều quốc gia trọng đại khác, thái tử rất giản dị, và sau nầy khi lên ngôi thế vua ông, có lần đã đòi xuống Sài Gòn để dự lễ đám tân hôn của một bạn đồng song người Việt, đủ biết thái tử bụng dạ dễ dãi và bình dân thế nào. Cái then chốt của câu chuyện nầy là ngày 19-11-1942, tôi chứng kiến đức Bảo Đại và bà Nam Phương hoàng hậu ngự du Sài Gòn. Phải biết tình hình trong xứ lúc nầy gay cấn lắm. Thái tử đã nghỉ học, tôi không nhớ rõ vì tiên đế giá băng hay vì lẽ bọn quân phiệt lùn lăm le đem mộng Đại Đông Á quyết xây trên bán đảo Đông Dương, nên thái tử phải về nước, bỏ dở việc sách đèn. Cùng ruột lúc: đề đốc Decoux thủ vai tuồng đi dây cho gánh xiếc Pháp của thống chế Pétain, một mặt lo ru ngủ các thần dân Miên - Lào - Việt, một mặt lo đối địch với đạo binh hùm sói viễn chinh Nhật nay đòi trưng thu thóc lúa, mai lăm le cướp chánh quyền. Để đánh lạc hướng dư luận trong xứ, ban đầu đề đốc nghĩ ra một kế và ân cần mời thái tử trở lại Sài Gòn, phen nầy không phải là một học trò trường trung học Chasseloup tầm thường, nhưng nghiễm nhiên là một tiểu quân vương của một nước bạn hết sức trung thành cùng mẫu quốc Pháp, có tiền hô hậu tống. Quả nhiên đề đốc thành công mỹ mãn, vì thái tử chưa đổi tánh, vẫn lịch sự và đối đãi với nước thầy hết sức nhã nhặn và khiêm tốn. Bữa rước thái tử lại dinh thống đốc dự yến, thái tử xuống xe bắt tay từ anh cai kèn đến ông quan soái, và khi về nước không quên gởi kỷ niệm cả vốc mề đay “cốm giẹp”, phân phát không thiếu một người từ trên là quan thống đốc tướng sĩ chưởng lý, xuống đến hạ cấp, anh cai thổi kèn, anh lính đánh trống, luôn cả anh bồng súng gác cửa canh cho thái tử được an toàn. Một cử chỉ nhỏ làm cho các quan Tây cười và lấy đó làm một giai thoại thích thú nhất đời là thái tử tánh còn con nít lắm. Trong chương trình tiếp tân, có dự định mỗi ngày lúc tám giờ khi thái tử thức giấc, là có một giàn nhạc Tây phải chực sẵn dưới bệ cửa sổ để trổi khúc nhạc chào mừng. Vả chăng lúc ấy với quân Nhựt chiếm đóng, họ kéo giờ lại sớm hơn sáu chục phút để phù hợp với giờ bên Đông Kinh, khiến nên tám giờ sáng lúc đó là chỉ có bảy giờ ban mai cũ. Thái tử trai tơ dậy mẩy, không thức sớm được, và khi lính kèn xin tấu nhạc, thái tử đuổi đi và hẹn nán lại một giờ sau (tức tám giờ sáng y như cựu lệ) khi ấy sẽ cử hành nghi lễ hay làm gì thì làm. Báo hại mấy anh lính Tây phải tìm chỗ trốn nắng, chờ cho thái tử dậy và tỉnh minh, thay đại phục ra đứng nơi cửa sổ rồi sẽ thổi kèn. Và vì mấy lính Tây dễ dạy, dễ sai nên sau nầy thái tử về xứ gởi thượng nhiều mề-đay không tiếc.

Công việc tiếp đón ông thái tử da ngăm đen được trôi chảy theo ý định trước, bản phúc trình của viên thống đốc Nam Kỳ (ông Rivoal) gởi ra Hà Nội cho toà quyền Decoux tường lãm, thì có công văn mật của ông nầy chỉ thị cho ông Rivoal phải làm cách nào thỉnh cho được hoàng thượng Bảo Đại ngự du Sài Gòn một chuyến y như gương thái tử Sihanuk, đã vạch sẵn. Nhưng phen nầy không dễ như phen nọ và đúng ra người mũi cao đã nếm mùi thể thức và nghi lễ do người mũ xệp dạy họ biết là một khi muốn vẽ viên thực sự rước một thiên tử ngự du cõi lạ. Trước khi kể sự nầy, xin cho tôi trở lại một thời xa xăm hơn. Như trước đây tôi đã nói, nước thầy đãi hai nước bị đô hộ một khinh một thường khác nhau. Tỷ dụ thái tử đen chỉ cho học trường bản xứ Chasseloup, thì trái lại đối với ông vua nầy, khi còn làm hoàng tử, vẫn được gởi đi học tận bên Pháp, có ký cô thác tử đường hoàng. Và việc ấy cũng có dây mơ rễ má liên lạc với nhau tự thủ chí vĩ. Việc tuy dài dòng, xin cho tôi kể đủ gọi góp tài liệu cho người sau nầy viết lại hay hơn.
Sơ khởi, tôi xin nhắc thầy dạy vua Đồng Khánh trước tiên là ông Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký. Khi nhà học giả nầy biết mình không làm gì được sau khi người tri ngộ là toàn quyền Paul Bert từ trần nhà học giả nầy xin rút lui, nhường vai tuồng sư phó cho một nầy sanh tại An Nhơn (Gia Định) nên lấy biệt hiệu là Yên Sa. Sau ông vốn hàn vi xuất thân, nhờ học giỏi xuất chúng nên Tây gởi qua học bên Alger, vì cho rằng người Nam, sanh nơi xứ nóng, học bên Pháp sẽ bị bất phục thuỷ thổ. Học thành tài. Ông đỗ bằng lú tài đôi gọi theo Pháp thời đó là double bacheher. Ông đã có sẵn một học lực vững chắc về Hán học, nên được bổ nhiệm như đà nói, làm thầy dạy vua Đồng Khánh thay ông Trương Vĩnh Ký.
Khi tôi ra Huế làm giảng viên Đại học Văn Khoa lối năm 1964-1967, có người chỉ cho tôi biết rằng bức vách trấn phong meo mốc nay còn lại trước dinh ông quận công (Vĩnh quốc công), nhạc trưởng đức Khải Định, nơi góc đường Nguyễn Du và Võ Tánh (Huế) là di tích nền xưa nhà ông Yên Sa khi còn làm quan ở đế đô.
Xin nhắc lại đời ông Yên Sa, ít có người chịu đi học trường Pháp lập ra và muốn có học trò theo học, Pháp phải ép buộc các hương chức làng và con người có gia tư điền sản, phải cho con đi học, thì khỏi đi làm xâu, đi lính, lại được cấp học bổng và phát áo quần và xà bông để giặt giậm cùng gội đầu hớt tóc. Đời đó, người nào hớt tóc cụt thì dân chúng ghét lắm tuy không dám nói ra.
Người dân mặc toàn vải đen (sau nầy thành ngữ "đầu đen máu đỏ” ý nói đầu có tóc đen, máu huyết vẫn màu đỏ lại hiểu rộng thêm là "dân đen” vì thường mặc y phục đen), và người nào mặc y phục màu trắng thì ố lắm, vì "thằng đó đã theo Tây", bất chấp màu trắng là màu tang tóc. Lớp trước tôi thì lãnh học bổng mỗi tháng năm đồng bạc (5$00) gọi boursier (học trò có học bổng), số tiền nầy do công nho địa hạt cấp, và phần nhiều đều lọt về tay mấy thầy giáo có nhà rộng rãi đem học trò về nuôi và gọi "nấu cơm tháng", và "ăn cơm tháng”. Khoảng năm 1915-1925, mỗi tỉnh ở Nam kỳ đều dự định bốn hay năm học bổng mười đồng mỗi tháng mỗi trò để gởi lên học trường sư phạm Sở Thú (Ecole Normale d inslituteurs), nay lấy trụ sở làm trường Võ Trường Toàn.
Học sinh nào khi thi ra trường, chịu làm giáo viên trong mười năm thì miễn, người nào thi đậu diplôme mà hành nghề khác như thơ ký toà bố hay thơ ký sở khác như tạo tác hay ngân khố, thì phải đền tiền, tính bốn trăm đồng (400$00) cho bốn năm học bổng, nhưng người nào có khả năng và có mánh lới thì giả chước thi rớt năm ra trường, và cố nhiên bị sa thải, miễn đền tiền, sau đó học đăng tên thi tuyển vào kho bạc, vào sở dây thép, vào sở trường tiền nghiễm nhiên trở nên công chức mà khỏi bị bắt buộc đền tiền mà thuở ấy cho rằng nhục nhã. Học trường Normale, mỗi năm có hai bộ quần áo vải trắng và hai quần Tây cùng một áo bằng nỉ tím, sau đổi ra đen, có sáu nút xi vàng có chừ nổi "E. N", sau bớt lần hai năm phát một áo nỉ rồi nín luôn tuốt luốt không cho một cấp áo nào mà vẫn học trò vô xin học càng đông đến nỗi phải bày ra các cuộc thi nhập học lần thét đến lo lót hối lộ để vô trường.
Vào đời ông Yên Sa, nghe đâu ông là con của người ở mướn, chăn trâu hay ở bạn gì đó, thấy mặt mày sáng láng, nên chủ nhà ép đi học thế cho con ở nhà làm cậu ấm công tử, được tiếng là trung thành với Nam triều. Ngờ đâu chánh phủ Pháp củng cố địa vị được hơn tám chục năm, trải bốn thế hệ (mỗi thế hệ trung bình hai mươi đến hai mươi lăm năm), và lần hồi người rừng Nam, phần đông đều chịu thua ngả nón chạy theo Pháp và ít có nhà thủ tiết cực đoan được. Ông Yên Sa ra Huế, làm tay mặt, đứng thông ngôn cho chánh phủ Pháp và Nam triều lấy vợ là một bà công chúa, em ngài Dục Đức. Trên là khâm sứ "Sạc" (Charles), dưới là ông. Khi đức Đồng Khánh băng, tưởng rằng đem cháu vợ vào nối ngôi sẽ nhờ cậy nhiều, sau ông Thành Thái được tôn làm vua rồi.
Năm 1919, tôi còn gặp ông Yên Sa vào dạy học Việt Văn (lúc ấy gọi môn “annamite”) nơi trường Chasseloup, tôi tiếc không được làm môn sanh của ông, tôi chỉ học nhín, ngồi bên nầy lớp gởi tai nghe lén ông dạy lớp kế bên, thật là lưu loát và dồi dào phong phú. Ông là cha của Diệp Văn Kỳ, chủ bút tờ Đông Pháp thời báo (con do bà công chúa sanh), nhưng tiếc cho ông Yên Sa, học lực hơn người mà sự nghiệp văn chương chỉ để lại một bổn Phong hoá viết bằng Pháp văn: Recuetl de morale annamite, Imprimerie de l Union Sài Gòn 1917; - một quyển "Việt nam luân lý tập thành" Imprimerie de l union, Sài Gòn, 1917; một quyển "Sách vần quốc ngữ" nhà in Phát Toán, Sài Gòn, năm 1909.
Tôi còn nhớ hình dạng ông Diệp Văn Cương, người nấm thấp, có hơi mập, thường mặc âu phục trắng, đội nón cát cô-lô-ni-anh (casque colonial), đặc biệt là mặt ông đỏ hồng chừa râu ngạch trê kiểu Clémenceau (râu hùm rất dày và quặp xuống như sừng trái ấu), tiếng ông rốn ráng như chuông hay như sấm, ông nói tiếng Pháp rất trôi chảy và y như Tây, thêm tánh ông nóng nảy, khi ông làm giám khảo hạch miệng khoa thành chung, học trò trường khác goi ông bằng ông, ông quở: "Cha mi gọi ta bằng ông cũng chưa được!”, vì ông vẫn nhớ ngoài kia ông vẫn là "quan lớn", muôn được gọi như vậy (quan lớn Cương, là tiếng quen gọi ông thuở ấy), nhưng bình tâm mà xét, ông khá tốt với học sinh, duy thích nạt nộ là hỏi cho tột cùng, cho đến bí, nhưng vẫn cho điếm trung bình chứ không đánh rớt. Sở trường của ông là môn hát bội. Ông rất rành từ câu hát đến điệu bộ, ông dạy trong trường về Kim Vân Kiều, ông ngâm Kiều nghe sang sảng. Ông thích xem hát bội, khi vãn hát ông ngồi xe song mã chở cô đào để nguyên áo mão về nhà, khi Phàn Lê Huê, khi Thoại Ba công chúa, ông ngạo tất cả giáo sư Việt, chê chẳng bằng ông (khi nghe tin ông đốc Nguyễn Văn Mai thay ông dạy Việt văn, ông trề môi: “Thằng Mai mà dạy cái gì?", câu nầy rồi ông đốc Mai trả lại cho người kế vị là ông Dương Minh Thới: "Thằng Thới mà dạy cái gì?", thật là người lớn tuổi thường giống nhau một chỗ ấy).
Đối với ông Yên Sa, có tiếng là danh sĩ miền Nam, uyên thâm Hán và Tây học, thế mà khi mất, chỉ để lại cho đoàn hậu sanh ba bốn cuốn sách mỏng dành, bé tý teo, đáng gọi "trái núi đẻ ra ba chuột nhắt".
Thuở ông Thành Thái còn tại vị, có một ông hoàng dòng vua Đồng Khánh, nhưng không, được phong thái tử, vì nếu phong, Tây sợ không đủ tiền trả cấp bổng vì đông quá. Bởi thế, ông nghèo xơ xác, nghèo rớt mồng tơi, và ông ăn chơi rất có mực, nổi tiếng là có đủ bịnh tật trong mình, thậm chí con ruột của ông, giống ông như khuôn đúc, mà miệng thế gian ăn thắm ăn muối vẫn đồn không phải thật con.
Theo quyển "Giai thoại văn chương Việt Nam” của nhà văn Thái Bạch (bản Sống Mới năm 1972, trường 193), ông hoàng nầy có biệt tài, sửa một chữ trong một câu đối mà chuyển được vận mạng tác giả câu nầy từ bế tắc ra hanh thông.
Một hôm ông vào xóm tìm hoa, bỗng thấy một câu đối dán trước cửa nhà nọ:
"Chữ nghĩa có là bao, học ừ bảo dậy, chi hồ giả dã lăng nhăng, đất có học tài sao chẳng đỗ”.
"Thuốc men nào mấy hột, lấy cũng bốc cho, lá cỏ cành cây láo nháo, trời cho bịnh khỏi ấy là may".
Nhìn câu đối, ông biết chủ nhân là nhà nho vừa dạy học vừa làm thuốc, ông ghé vào làm quen. Thấy chủ nhân than cảnh nghèo túng, ông bàn: "Nghèo là tại câu đối kia, nếu cho ông đổi một chữ, một chữ thôi, có lẽ làm ăn khá giả”.
Chủ nhà bằng lòng, ông đề nghị đổi câu “trời cho bịnh khỏi ấy là may" đổi lại là "trời cho bịnh khỏi ấy là HAY".
Như vậy, đâu phải là ông không có học. Còn hay nữa là khác. Nhưng nếu câu sau nầy mà thật của ông, theo lời Thái Bạch nói, thì ông thật là người đáng kính, một bậc thi bá tài tình chớ không chơi. Câu ấy như vầy:
"Xuân xanh tuổi ngoài đôi chục, chợt đục trần ai, khi bài khi bạc, khi tài bàn vác, khi tổ tôm quanh, khi năm canh ngôi nhà hát, khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tàu con đĩ xác, khi nằm rạp thuốc phiện tiêm, hoanh ra dáng rạng ra rồng. ngông ra phết cóc biết chi tồi, miệng én đưa qua mùi gió thoảng.
Quốc gia lịch tứ thiên dư, do truyền nhân vật, như Tô như Duật, như Phật Tứ Quân, như Trần Quốc Tuấn, như Phạm Công Thượng tướng quân, như Bạch Vân phu tử, như ngự sử Lê Cảnh Tuân, như công thần Nguyễn Công Trứ, tài chi tuấn thời chi thế, thế chi sử, khỉ nhưng nhiên phủ, thần long đắc vũ tiện vân đằng”.
Vế trước rặt nôm, vế sau ròng chữ vừa duyên dáng vừa tài tình, vừa có một khiếu trào lộng không ai hơn nếu phải đó là của ngài Bửu Đảo, sau nầy là Hoàng Tôn Tuyên Hoàng đế, trong Nam thường biết là ông vua Khải Định, thì đáng phục biết mấy, nhưng tại sao khi trên đất Pháp, khi đốc lý Paris xin một câu ghi trong quyển sổ vàng, ông đứng cả canh mà rặn không ra?
Nhắc lại khi ông nghèo sát chiếu và năng bị vua anh là Thành Thái húng hiếp, gặp mặt là rượt đánh là xỉ mạ lắm điều, mỗi lần gặp vận quá đen, ông hoàng nầy thường đến nhà ôngSạc (Charles) nhờ tiếp vận khi ít khi nhiều để vượt qua cơn túng ngặt. Việc làm cầu may cho qua cơn khó, ngờ đâu khi vận đỏ lại biến thành phúc tinh. Ông Sạc, lúc làm khâm sứ và khi lựa người thay thế ông vua có cơn điên Thành Thái, bỗng sực nhớ lại ông hoàng khả ái (le prince charmant), năng tới lui mượn tiền mình xài, nay tại sao mình không nhớ lại và tôn lên làm hoàng đế? Và ân báo ân, oán báo oán, khi ông Sạc sắp về hưu, cũng vừa lúc ông vua nầy lựa người gởi gắm con cô. Như đã nói bên trọng bên khinh, khi đào tạo một ông con trời cho xứ Việt giống rồng, người thầy cũ đã nhớ một công hai việc, vừa có dịp tài trợ thêm phụ cấp cho một công thần là Sạc tiên sinh, vừa giúp vua kiếm người thái phó tin cậy và gởi đi Pháp một lần hai hoàng tử mạnh khỏe, phòng hờ sơ sẩy là ông Vĩnh Cẩn và thái tử Vĩnh Thuỵ.
Vợ chồng ông Sạc dạy ông Vĩnh Thuỵ rất kỹ, trông nom từ cách cầm nĩa muỗng, khi cắt thịt cây dao phải cầm tay nào, nĩa muỗng cầm tay nào, nếp na cử chỉ một ông hoàng sau nầy sẽ làm vua phải ra sao, dạy thể thao từ chơi banh tơ-nít, trượt tuyết bay tàu trên ngọn sóng, lái phi cơ đi săn thú rừng, thêm học văn chương, kinh tế có giáo sư riêng đến nhà cho cua, mỗi mỗi tiêm tất hết lòng như con đẻ không bằng. Ông Sạc từ khâm sứ, được tấn phong hàm toàn quyền danh dự, và hoàng tử Vĩnh thuỵ xứng đáng là một hoàng tử hoàn toàn lịch sự, không thua kém các ông hoàng tân thời của các nước Tây phương. Pháp trọng vọng ông, đến nỗi một năm nọ nhơn dịp lễ quốc khánh kỷ niệm cách mạng Pháp, tức lễ 14-7 (cát-to dui-dết) lúc tổng thống Paul Doumtr còn sanh tiền, chánh phủ Pháp mời ông ngự kiến trên đài danh dự cuộc diễu binh vĩ đại ở Paris, cùng một lúc với hoàng tử nước Anh, chức phong Prince de Galles. Nhưng oái oăm thay, trước một ngày hành lễ mới sực nhớ lại và lính quýnh không biết ông nào lớn ông nào nhỏ, ông nào nên sắp ngồi bên tay mặt tổng thống Pháp... Nhưng đã nói Pháp là một nước khéo về ngoại giao, để giải nan, Pháp vội gởi thơ hỏi ngay thái tử Anh chọn ngồi bên nào, và lịch sự nhã nhặn không kém, Anh quốc thái tử trả lời lập tức: một phen nầy và phen thứ nhất, chỗ ngồi danh dự ấy, xin kiềng nhường hoàng huynh ta, Việt Nam thái tử, vốn chi cũng là "tứ hải giai huynh đệ”, Và trong tờ Đại Hoạ Báo (Illustration) năm đó còn ghi lại ảnh tam vương đồng tịch, ông Doumer ngồi giữa, Vĩnh Thuỵ, ngồi bên mặt và bên trái tổng thống Pháp là hoàng tử Prince de Galles - ông hoàng chính cống nước Anh, một người có tiếng là phong lưu đệ nhất và là cây kim chỉ nam về mốt thời trang của khắp hoàn cầu. Viết đến đây, nhớ lại tôi cũng lé mắt và phồng hai lỗ mũi với cái bóng vang một thuở cho nước ta buổi đó.
Về sau, khi ông về lên ngôi kế vị cho cha, lúc tuyển chánh cung, bà Nam Phương đem tiền hồi môn về là một triệu đồng bạc mặt, do cậu ruột là ông Lê Phát An dâng tặng cho cháu gái. Số tiền ấy thuở đó là khổng lồ, nếu so sánh với bạc hiện nay, thì số tỷ vẫn chưa vừa, vì tỷ phú ngày nay có hiếu chớ như lối năm một ngàn chín trăm hai mươi ngoài, đầu thế kỷ hai mươi, tờ giấy xăng (100$00) có người trọn đời chưa từng thấy, và giàu hạc muôn, tức trong nhà có được mười ngàn, đã là giàu bạc nứt đố đổ vách.
Đến đây tôi mới trở lại việc ông Decoux sau khí sai mời được thái tử Tần quốc ngự du Sài Gòn để làm tàng, dưới mắt quân phiệt Nhựt, giá trị của đế quốc Pháp, nay ông ăn quen, nên hạ chi sai ông Rivoal, thống đốc Nam Kỳ, phải tìm cách mời cho đức hoàng đế Nam triều ngự du Sài Gòn một chuyến. Lúc ấy tôi còn làm thơ ký nơi dinh thống đốc và được coi về công văn mật. Tôi không có ý khoe khoang, nhưng cũng phải có hạnh kiểm thế nào, mới được ngồi chỗ tín nhiệm ấy. Lúc đó tôi đã có ý nghĩ viết bút ký về sau, nên những gì tôi cho là thuộc về lịch sử, tôi đều có sao chép lại làm tài liệu riêng. Tiếc thay mớ tài liệu ấy, năm 1946 tôi tản cư vô Hoà Tú và mang kè kè sau lưng trong một chiếc nóp "bất ly thân", vì vậy quân gian đã để ý và cho rằng nóp chứa nhiều giấy "bộ lư" (giấy một trăm đồng có cái hình lư đồng), khiến cho một đêm tối lính viễn chinh Pháp đổ bộ Hoà Tú, bắn súng đùng đùng, tôi hoảng chạy bỏ quên chiếc nóp trên giường nhà Chú Lý, quân gian đột nhập thộp nóp mở ra xem thấy toàn giấy má chớ không có bạc, chúng thất vọng bèn đốt nóp làm đuốc để rọi nhà hôi của quý, thành thử các tài liệu đáng giá đều làm mồi cho lửa, uổng quá, và hôm nay khi thuật chuyện nầy, tôi đành tóm tắt theo trí nhớ. Vả lại các công văn thuở ấy đều viết bằng pháp văn, và dẫu cho còn, vì bí mật nghề nghiệp, tôi cũng không có quyền công bố. Duy việc xảy ra đã trên ba chục năm, nhắm nói ra cũng vô tai hại.
Ấy đúng ngày 19-11-1942, vua Bảo Đại và bà Nam Phương ngự du Sài Gòn, và chính bữa trưa ngày thứ sáu 20-11-1942, tôi đứng dưới gốc đa trước dinh Gia Long và đã diện kiến long nhan đức Bảo Đại như thế nầy:
a) Độ chừng một tháng trước ngày ngự du, thống đốc Nam Kỳ gởì ra Huế một công văn, mời hoàng thượng ngự du Sài Gòn và nhắc lại rằng ông thái tử nước bạn, vừa rồi, đã có ngự hành như vậy, và thần dân trong Nam, Tây như Việt, ngưỡng mộ ngài lắm.
b) Bức chiếu văn từ Huế trả lời rất gãy gọn : "Bằng lòng Nam du, nhưng sẽ dùng làm hành cung, đại dinh Toàn quyền đường Norodom.
Được bức thơ nầy, nội các thống đốc đều kinh sợ, hội nghị mật bàn kế, một mặt đánh mật mã khẩn mời Đờ Ku bay vô chiếm trước dinh Toàn quyền, một mặt trả lời hoàng thượng viện cớ dinh đã có quan đầu xứ Đông Dương đến ở, và ân cần xin hoàng thượng đoái tình, tạm nhận lưu trú nơi dinh đường Lê Quý Đôn ngày nay, là dinh đầy đủ tiện nghi và trước đây đã làm chỗ ngự cho Tân vương thái tử.
Hoàng thượng trả lời vắn tắt: "Không có dinh Toàn quyền thì ta ngự dinh Mont-Joye ở Hanh Thông Tây là dinh của quốc cựu Lê Phát An".
Phải nói câu trả lời vừa đúng lễ ngoại giao và thật khéo, vì vừa giúp biệt thự nầy trang bị điện lực để hoàng thượng khỏi cảnh thấp đèn dầu, thêm giữ được thể thống nhà vua, chớ không chịu lép vế đãi như hàng tiểu chư hầu.
Thế là phải làm đêm làm ngày, dựng cột đá và gần dây cáp đem điện lên nhà ông tỷ phú Lê Phát An, không tốn một xu trả cho hãng đèn. Một đắc thắng theo kiểu trong Tam quốc, Khổng Minh mượn tên giúp Ngô chống Nguỵ.
Và cái ngày kiến nhựt "tiếp kiến hoàng thượng" đã đến: 20-11-1942. Ăn quen theo thói trước, các quan viên và mạng phụ Pháp tề tựu đông đủ tại mặt tiền dinh thống đốc (nay là dinh Gia Long), để y như tiền lệ sẽ bắt tay (ngang hàng) vua ta cũng như đã bắt tay mấy tháng trước đây, vị thái tử nọ. Trong chương trình ghi là đúng ngọ đãi tiệc ra mắt vua Nam.
Tôi làm việc trong toà dinh nầy, và trông mau tới ngọ, hết giờ làm việc, còi điện nhà dây thép chánh vừa hù, là tôi thu xếp giấy má và ra chực nơi dưới gốc cây đa quen thuộc, để phen nầy coi lén “long nhan đức hoàng thượng".
Tôi thấy đủ mặt, các bà đầm vợ công chức cao cấp Pháp đứng theo một bên, bà tay cầm quạt quạt phạch phạch, bà che dù như sợ nắng ăn da, bà hỉnh mùi "ta đây là mạng phụ triều đình", bà bên Pháp vừa qua chưa quen thói thuộc địa, vẫn dễ thương như người dân thành phố văn minh, dĩ hà nhứt thể, ở đâu cũng là tự do (liberté), bình đẳng (égalité), bác ái (fraternité).
Đúng ngọ, chiếc xe Delage C.20 có hai tài xế mặc sắc phục ngồi trước, đưa hoàng thượng từ Hanh Thông Tây đến. Xe ngừng, nhạc trổi quốc thiều y như lần trước rước Tần vương thái tử. Trước cử quốc thiều Pháp La Marseillaise, tiếp theo, đổi lại thay vì quốc thiều Miên là bản quốc thiều của triều đình Huế. Chiếc xe Delage bóng loáng, một người cao lớn dình giàng (ông cao 1m80) đứng giữa xe tay giơ lên ngang rán chào theo điệu nhà binh Tây phương, bình vận một bộ y phục tùng hết sức đúng thời trang, trán rộng mũi cao, cặp mắt có diễn, và toàn thân chiếu ra một nghi biểu khác phàm. Tiếng nhạc chót vừa dứt, người tài xế phụ y như cái máy, chạy xuống khép nép mở cửa xe. Ông bước xuống. Các bà đầm chạy lại, miệng người nào người nấy như hoa nở, hí hửng toan bắt tay vua. Vua làm như không thấy, ngực ông đã cao, ông ễnh càng cao thêm, mắt chăm chỉ ngó ngay, chơn ông cứ bước tới trước. Khiếp quá, các bà mạng phụ lật đật cúi đầu, và quên hết lời dặn của các đấng phu quân, đã khép nép tay nắm vạt áo đại trào (phần nhiều mặc bùn rền) đầu cúi móp trước đức vua Việt y như các tổ tiên họ đã triều bái vua Louis XIV hay vua Louis XV đời trước. Không như thái tử da đen phen trước, phen nầy đứng trước một ông vua oai nghi quá, mấy bà đã mất hết bình tĩnh, nên đã có cử chỉ như đã kể, làm cho các đấng phu quân cũng khớp luôn và mạnh ai nấy chào theo nghi lễ đối với quân vương; ông thống đốc đứng đầu hàng, nghiêng mình kính cẩn, ông chưởng lý toà thượng thẩm cũng bắt chước theo, trung tướng bộ binh và hải quân đại tá chào theo nhà binh, kỳ dư chủ tịch viện cơ mật, viện quản hạt, lòng thương mãi và các quan viên Tây có mặt tại đó đều răm rắp cúi chào theo nghi lễ và khi ông qua khỏi rồi, đều ngó nhau trơ trẽn, quả ông đi đứng “long hành hổ bộ" rõ ràng. Khi ông bước đến bệ trên của điện, ông cũng không ngó lại chào và vẫn tiếp tục bước ngay vô trong. Thống đốc Rivoal mất hết bình tĩnh, không đợi tuỳ giá quan làm việc nầy, và đã chạy theo vua, kéo ghế danh dự ra cho vua ngự. Bữa tiệc dùng trong một sự lặng lẽ kính cẩn chưa từng có và mãn tiệc rồi, tại phòng khách vua mới dạy thống đốc trình diện quan khách và khi ấy vua mới có câu cởi mở đối với mọi người.
Lúc ấy tôi làm phụ tá cho một phó tham biện trẻ, tập sự, đã quen thân với tôi lúc còn làm chung ở toà bố Cần Thơ, và buổi ấy, ông làm bí thư cho thống đốc, còn tôi ngoài phận sự giữ công văn mật, còn giúp ông một tay về nội dịch, đi kiếm mua rượu ngon và kiếm thực phẩm âu chân như bơ sữa trong buổi bế quan toả cảng vì chiến tranh khắp trời nầy. Bicail là người tốt, chơi với tôi đãi tôi bực thầy, vì tôi trộng tuổi hơn va và lúc ở Cần Thơ có dạy va mấy tháng Việt ngữ. Trước khi vua vào Nam. Bicail, khoe với tôi rằng vốn cùng vua học chung một thầy, và khoe "nếu vua gặp mặt, ắt niềm nở với va lắm".
Tôi nghe thì để bụng, cũng không cố tâm lắm. Duy tiện đãy nên kể một tục ngộ trong dinh thống đốc thuở ấy, là mỗi lần thiết tiệc đãi tân khách, không bao giờ để bàn có chỗ trống, rủi có một, vị khách vào giờ chót không đến dự được thì trong hai ông than biện trẻ tuổi trong dinh, là ông Bicail nầy hoặc ông Grange, phụ tá chánh văn phòng (chen de cabinet adjoinl) được dự yến, và trong khi đùa giỡn thân mật chúng tôi gọi hai ông là ông trám lỗ!
Từ bữa có cuộc Nam du, nhứt là sau bữa tiếp tân, tôi biết Bicail vẫn cố làm cho vua thấy mặt, khi thì Bicail đứng lấp ló nơi cửa ra vào khi thì Bicail hiện ra nơi phòng tiếp tân để chạy bận hoặc thay cho bồi phòng làm những việc gì éo le cấp bách, ngờ đâu vua giả lờ không thấy Bicail và không trao đổi một lời nào. Có lẽ Bicail mắc cỡ với tôi nên cố lánh mặt không cho tôi thấy và trái lại tôi thì cố tìm cho gặp Bicail để ghẹo tức va chơi. Thoạt sau hôm đức vua hồi loan về Huế một l ngày, bỗng Bicail miệng cười tích toác, chạy lại bàn chìa tay nắm chặt tay tôi mà rằng. "Tưởng vua quên. Không dè vì nghi lễ, vua không thể tiếp tôi tại điện, nên đã nhắn với quan thống đốc mời tôi lên dinh ngài quốc cựu ở Hanh Thông Tây, và hôm qua này, tôi và vua. Ủa quên, vua và Bicaỉl nầy, đã hàn huyên nói chuyện trời mưa trời nắng y như lúc còn bên Pháp. Mà phải thật ông đã cùng vua chúng tôi cùng một lớp học không? Tôi hỏi. Bicail cười hề hề, đáp: “Nói đúng ra, đức vua học ở nhà ông Sạc, thỉnh thoảng đôi khi chúng tôi gặp nhau và chào nhau, vì ông thầy dạy học là một ông thầy chung. Anh Sển à, vua của anh đàng hoàng lắm, không như ông Sihanuk, tôi phục vua anh sát đất. Vua như vậy mới là vua!".
Những lời nói trên không phải là nịnh. Tôi chép lại thì cả hai vua đã mất ngôi, nịnh cũng là thừa. Duy lịch sử vẫn còn đó và chưa khoá sổ. Nói bây giờ e còn sớm, hãy chống mắt coi và xin hẹn "hậu nhựt tri".
Tái bút - Nhắc đến ông Grange, khiến nay tôi xúc tình cảm cựu. Sau đảo chánh năm 1945, thầy trò phân đôi ngả. Bỗng gặp nhau lại khi tôi vào làm việc ở Viện bảo tàng. Ông đến viếng nhà tôi vừa cất được ở Gia Định, và đây là câu ông viết trong tập sổ vàng hiện giữ tại nhà: ""Monsieur Vương Hồng Sển, ami de vieille data, m a jadis initié au culte des vieilles pierres, des fleurs délicates, des porcelaines précieuses, dont il est un collectionneur ausse fervent qu érudit Je ne suis hélas, qu un néophyte indigne, mais cependant je ne puis qu exprimer à Mr.Sển, toute mon admiration pour la reconstitution pieuse d une maison vietnamienne qu il a réalisée avec autant d amour que de got.
"Avec toute mon amitié,
J. GRANGE 12 Juin 1955
DỊCH THOÁT

Vương Hồng Sển là một bạn cũ lâu dài. Ông đã dẫn dắt tôi vào đạo tôn thờ đá cổ, hoa lạ, sứ quý, mà ông là một sưu tập gia vừa nhiều nhiệt thành cũng như thông thái.
Tiếc thay, tôi chỉ là một tân tín đồ bất xứng: mặc dầu vậy, tôi xin tỏ ra đây, với ông Sển, lòng thán phục của tôi đối với công ông dựng lại ngôi nhà cổ Việt Nam nầy với bao nhiêu nhiệt thành hiệu thượng chân thật của ông.
Với tất cả tình tri kỷ.
Ký tên: J.GRANGE
Ngày 12 tháng 06 năm 1955.
15: Hư!
(Kể về hào phu thê, khi lập hai gia đình trước).
Lấy bình tâm mà xét, cho tới năm tôi được bốn mươi hai tuổi (năm 1946), năm nầy là năm chạy tản cư vô Hoà Tú (Sốc Trăng), đời tôi gồm một chữ HƯ to tướng, và vì năm nay tôi viết hồi ký đã được bảy mươi bốn tuổi, cũng đôi năm nữa là khoá sổ, chớ không lâu, cho nên tôi tạm gọi lập hồi ký nầy là: HƠN NỬA ĐỜI HƯ
Trong khoảng hơn nửa đời người ấy, tóm tất lại:
a) Hai lần cưới vợ, có làm hôn thú đàng hoàng nhưng đều hỏng bét:
Với bà Trần Thị Thố, cưới nhau vì tiền, chín tháng, keo tan hồ rã.
Tôi không biết lựa người. Hai đứa hoàn toàn không hiểu nhau. Cưới theo xưa, đủ lễ, có coi ngày coi buổi, thế mà cưới ngày 16-6-1924, chín tháng sau, ngày 12-4-1926, thì ly dị trước toà: chưa nát một chiếc chiếu. Đổ lỗi cho nhau làm gì? Tôi chỉ ghi lại, tôi đã làm buồn cho Ba tôi và bên vợ. Tiền Ba tôi xuất ra không kể, nhiều lắm, nhưng thôi, nói làm gì. Chỉ nhớ tôi còn thiếu nợ tiền đi hồ, đến nay chưa trả, mà các ân nhân đã từ trần từ lâu.
Sau khi để vợ, còn lại một căn phố, số 214 La Grandière, tôi bán và sang luôn bàn ghế và phố được một ngàn bạc, không dám giữ trong mình mà gởi cho một bạn thân cùng làm một sở ở trường máy đường Đỗ Hữu Vị, vì tôi nghĩ mình có tánh ăn xài lớn, không nên giữ tiền trong túi nhiều. Nhưng tôi đã lầm, gởi trứng cho ác.
Đến khi tôi có chuyện cần dùng, hỏi, thì tên Nguyễn Văn Xuân đã đánh tứ sắc thua sạch rồi. Thế là tôi ở giữa hai thế kẹt: trước quá tin với vợ trẻ, thì vợ cho mọc sừng, trong tuổi thanh niên; tiếp theo vì quá tin nơi bạn thì bị bạn lừa; tình nghĩa phu thê không có, mà tình bằng hữu chi giao cũng không ra gì; duy tôi còn một chút lương tri, không muốn thành sát nhơn, một mình mình HƯ cũng đủ! Từ đó tôi đâm ra chơi bởi còn hơn trước. Tập uống rượu, thường nằm tiệm hút để đo lưng giấc trưa, vì tôi bán đồ đạc bàn ghế và sang phố rồi thì chở rương sách gởi nhà quen cho khỏi mất, chớ thân tôi, tôi không ở nơi nào định chắc: ăn thì ăn nhà hàng sang, Yeng-Yeng, Quảng Hộp, còn tối lại, tôi đi tìm gái, vui đâu chúc đó, đêm nay phòng ngủ nầy, đêm sau ở khách sạn khác, phòng sang chỉ có hai đồng rưỡi bạc một ngày, còn thuốc phiện chinh cống trong hộp thau chỉ có hai các mỗi ngao, hoặc hộp nhỏ mười gram một đồng mốt mỗi hộp hoặc hộp lớn hai chục gram hai đồng mỗi hộp, gái ăn chơi xóm nào tôi cũng quen, cô Mười tóc đỏ, cô Chín Quế Anh, cô Sáu Ngọc Anh, cô Ba Cù Là, ối thôi kể không hết. Thân xác xếp ve, mặt mày xanh mét, tôi là Vương Tái Sển chớ đâu xứng Vương Hồng? Một hôm ghé Solirène mua thuốc nhảy lên cân thấy còn có bốn mươi hai ký, giựt mình lúc đó, nhưng khi bước xuống cân, thì vẫn đi theo đàng cũ, cái hư thân mất nết không chừa. Nay tôi nặng sáu mươi ba ký, và nhớ lại các bạn trác táng năm xưa thảy đều xuống lỗ, ghê quá,
b) Lần thứ hai, tôi cưới cô Dương Thị Tuyết, phen nầy lúc ban sơ rõ là vì tình, vì khi gặp nhau, cô là bạch thủ; anh tôi khéo thu xếp cô ăn gia tài của bà Phủ An, nhưng rồi cũng đi đến ly dị. Cô ôm một ô xoàn, bỏ tôi với mớ đồ cô cho là vô dụng: chén bát cũ và sách rách bìa xác xơ như chủ nó. Cô bỏ tôi từ năm 1947, cưới nhau ngày 9-11-1927, án toà cho ly dị đề ngày 7-7-1958, ăn ở cùng nhau chia ngọt xớt bùi được mười chín năm, chen hoẻn không con,
“Mình ơi tôi nói mình nghe
Không thương nhau nữa, thà rằng mình thôi.
Muốn thôi, tôi cũng cho thôi.
Hồ san tát cạn, ai thôi mặc mình”
Mấy câu nầy không phải của tôi, và do một anh mật thám Tây, Le Corre, gặp ở Cần Thơ đọc cho tôi nghe, nay còn nhớ.

Đám cưới thật lớn, tiệc đãi linh đình. Cái nhạo rượu lễ, cậu Bảy Cảnh. Ông thân Hữu Phước, làm rể phụ, làm đổ hồi nào khi rót, không còn một giọt, điềm gì vậy? Phòng tân hôn: đêm cưới, lấy làm chỗ hốt me, đây thật điềm gở, nhưng tôi mê nhan sắc cô Tư nên nhắm mắt, cũng như chiều ngày nhập phòng vừa lạy xong mâm tơ hồng và cô bác, thì hai tôi phải để y đại phục cô dâu áo đỏ chàng rể áo thụng xanh bông hạc, đi rước tay bài: cậu Ba Qui, công tử Bạc Liêu, bác sĩ Lê Quang Trinh, hội đồng quản hạt, cô Ba Trà, Sáu Nhiều, huyện Đước v.v... và đêm ấy xâu được trót ngàn bạc. Ông via và bà via đều ăn trụm và giữ luôn mớ tiền hồ.
Ông Cò-mi Lân có mua biếu hai va-li da, một dùng đựng quần áo một chứa dao cạo và đồ nghề trang sức, hai vật nầy, chạy giặc mấy lần không mất, nay vẫn còn tại nhà tôi.
Ông Dương Văn Hai, cậu vợ, Dương Văn Tây và Dương Văn Giáo, cậu bên vợ, mỗi người cho một trăm đồng; anh Nguyễn Trinh Tường, anh vợ, đi hồ 50$. Nhưng thầy tôi là ông Kính, cho biết lễ vật đáng 550$ và bạc mặt 715$ thầy tôi cất giùm và hứa sau nầy sẽ trao lại hai tôi dành làm vốn khi ra riêng. Nói làm vậy, nhưng tôi không thấy mặt số tiền nầy, khi bà nhạc ban phần. Mấy chương kể lể nầy, không phải vì tiểu tâm, kỳ thật muốn ghi lại cho thừa kế biết mà đáp lại,
Đau lòng nhứt và nay tôi tiếc nhứt, là của lễ sính - lúc đó bị ông nhạc bà nhạc chê lên chê xuống vì chẳng phải kim cương hột xoàn, và chỉ có mười lạng vàng đôi. Nhưng đối với tôi, đây là vốn tiếng mẹ ruột tôi khi chết để lại, gồm mười đôi vàng do một tay Ba tôi chế tạo: chắt mót dành dụm từ li từ chút, lựa vàng thật cao tuổi, tự nấu lấy rồi cán ra móng, uốn thành vòng, mấy chỗ giáp mối thì cháy chớ không hàn vì hàn mất khéo và chỗ có vảy hàn vàng trở nên thấp (xấu), và bản thân trổ tài tự chạm ra mười kiểu khác nhau, kiểu chạm nào cũng xuất sắc, nay xin kể ra để cho biết cách gọi:
1) Chạm kiểu tứ linh tức long lân qui phụng;
2) Chạm bát tiên kỵ thú, tức mỗi ông tiên đều cỡi một con thú khác nhau;
3) Chạm nhứt thi nhứt hoạ, tức cảnh tứ thời “mai-lan-cúc-trúc” kèm thơ ngũ ngôn, nhưng mỗi giống hoa vịnh trong một câu năm chữ vắn tắt mà thôi;
4) Chạm nhứt cách nhứt chiếu (chiếc vòng chia ra tám khúc có bốn mặt trơn xen kẽ với bốn mặt chạm),
5) Chạm hạ cát, tức chạm hình nổ, dưới chân hình thì chạm bấm xuống cho hình thêm rõ nét và nổi hột thật đều y như hột cát sắp đầu cật kề nhau;
6) Chạm hạ láng, tức chạm hình nổi, dưới chân hình thì chạm bấm xuống và phải lăn mũi ve làm sao cho thật láng bóng nhứt là không được lủng rách; (đừng lầm với chạm lông, tức lấy giống lủng ra cho thấy lỗ trống);
7) Vàng nghiêng cũng gọi vàng niễng, tức cắt khữa sợi chí vàng như hình con cuốn chiếu. Người nào chạm đều tay đều nét là hay;
8) Vàng trơn, tức chiếc vòng để trơn, nhá thật bóng, không trầy, không móp;
9) Vàng neo chữ ngũ (nói chữ ngẫu mới hợp thời) tức vấn dây vàng cho đâu mặt nhau lại như hình ngũ trên hột lúc lắc,
10) Một đôi vàng đáp, tức để lá vàng trên khuôn mẫu bằng thép có chạm bông hoa sẵn, rồi xếp giấy để lên vàng rồi dùng búa “đáp” hay là đập mạnh lên giấy cho đến khi nào mặt vàng ăn lún xuống mặt khuôn, trổ ra hình mong muốn, xong rồi mới uốn cong ghép miệng, hoặc cháy hoặc hàn rồi làm khoá v.v...
Cưới vợ kỳ nầy, về ở chung với gia đình bà nhạc. Nực cười tôi muốn trụ mình cải hối, nhưng mấy cô nhân tình nhân ngãi vẫn chưa buông tha, tháng nầy một cô, tháng khác một cô, tiếp tục lên nhà số 260 đường Richaud (nay Phan Đình Phùng) kiếm để phá đám. Phần sợ vợ, vừa mười sáu tuổi đầu, biết được ghen tuông khóc lóc, phần sợ ông via đâm thọc kể kẻ vạch với bà via, nhưng nói có vong hồn ông và bà, mẹ vợ tôi rất lượng thứ, còn cha vợ, vốn là chắp nối, ông ăn chơi khét tiếng, thấy gái đến nhà như mèo thấy mỡ. Thèm thuồng thì có, la rầy vốn không!
Trong nhà không có tiền mà ăn xài như nước lở bờ. Nào bồi bếp nào sốp-phơ, lương thông phán của thầy tôi chỉ tám chục bạc mà mướn nhà đến một trăm sáu chục mỗi tháng ở đường Richaud được vài tháng, kế dọn về số 69 đường Taberd, cho đỡ tốn, vì phố nầy mướn tám chục bớt được tám chục. Nhưng nào có đủ. Mẹ vợ tôi tánh rất hào hiệp, trong nhà có tiệc đãi liền liền thầy tôi thì khỏi nói, kiếm được chút ít lì xì, thì lén đi nhảy đầm ôm gái. Vợ tôi và tôi thì không biết lo hậu. Lương tôi tám chục thêm tiền dạy Việt ngữ cho Tây kiếm mỗi tháng bốn anh trả mỗi anh hai chục, vị chi là tám chục nữa, thì cúng hết cho xi-nê, lúc ấy vừa có loại parlant (chớp bóng nói), thêm cải lương, lại còn coi đánh bốc. Cơm ở nhà không ăn, có máy với nhau làm giận làm hờn, bà via phải một tật mê tứ sắc tam hường, đánh mỗi lên mỗi cây đến một hai đồng, chiều về thấy hai đứa mặt héo ngồi chù ụ thì vứt năm đồng cho đi ăn Yeng-yeng, bà đâu biết rằng hai tôi giận giả, và rút rỉa bà mỗi tháng như vậy có trên hai chục ngày. Bất thình lình, mẹ vợ tôi xán bịnh, đánh tứ sắc ngồi một ngày một đêm gần cửa sổ làm qua ho ròi sưng phổi, ngày bớt ngày không, bỗng đêm 8-11-1928, bà đột ngột tắt hơi, trong khi tôi đã lìa Trường Máy, đổi về toà bố Sa Đéc từ 15-10-1928, phó thác vợ ở lại Sài Gòn nuôi mẹ đau chờ ngày tái hợp.
Lúc nầy thân tôi như chiến thuyền bé gặp cảnh bão táp, tai hoạ dập dồn.
Vì không lo xa nên không biết dành dụm xu nào, có bao nhiêu xài bằng hết. Lìa Sài Gòn, mất trước tiên tám chục bạc tiền dạy Tây, cũng mất luôn tiền phụ cấp đắt đỏ mười lăm đồng bạc mỗi tháng, về Sa Đéc lương tháng chỉ còn không tới sáu mươi ngoài đồng bạc (lúc nầy nếu có ai cho hối lộ thì nhận liền). Tôi ngây thơ trông cậy nơi mười lượng vàng của mẹ để lại và đã gởi cho cha mẹ của Tư cất giữ, tính lấy đó cầm vào nhà mont-de-piélé (tiệm cầm đồ) cũng có một số vốn nhỏ dọn nhà lập nghiệp, chớ không lòng nào tưởng tới việc bán đứt cho qua cơn túng ngặt. Ngờ đâu ngày l0-11-1928, lên Sài Gòn dự đám tang và khi chôn cất xong xuôi trở về nhà, trầu rượu lạy ông Trần Văn Kính trước mặt Ba tôi và trước mặt họ hàng cô bác bên vợ chứng kiến xin lãnh hộp gỗ đựng mười lượng vàng sính lễ năm trước, ông via tôi lấy trong tủ sắt cái hộp gỗ trống không và lấy thêm trong tủ một xấp giấy cầm đồ, rơi nước mắt cá sấu đổ thừa vì thua bạc, bà via tôi đã cầm gởi hết rồi, ông thề thốt sẽ chuộc lại trả tôi, nhưng lời hứa ấy như nước đổ lá môn, ông và tôi chia tay và bặt tin nhau từ đó.
Tiền đám tang bà nhạc mẫu, tôi làm sổ sách đàng hoàng và tính ra tiền điếu được tất cả 503$.
Sau khi tống táng, thầy tôi xét sổ, thấy còn 503$00 - 458$00 = 45$00, nên trả sổ và nói: “Ba cho hai con số tiền dư lại đó”.
Ngoài ra, thầy tôi có cho tôi hay rằng Ba tôi lên chia buồn có cúng số bạc một trăm đồng, tuy nói vậy mà thầy tôi nín luôn không trao số tiền nầy để biên vào sổ phúng.
Sáng ngày, hai tôi đưa Ba tôi lên xe đò về Sốc Trăng, hai tôi ôm một mớ áo quần cũ, một cái ô trầu bằng bạc, kỷ vật của bà nhạc mẫu, từ giã ông via, lên xe đò về Sa Đéc, trong túi còn lối năm chục đồng làm vốn, từ đây tranh đấu với đời, tự bay nhảy bằng cánh của mình, nhứt quyết không nhờ cậy ông nầy nữa.
Đời ấy tiền bạc mắc mỏ và có giá trị vô ngần. Tỷ dụ, tiền vãn phản đi từ Sài Gòn xuống Sa Đéc, đến toà bố lãnh nhiêm vụ mới kế ăn một bữa cơm buổi trưa ngoài nhiệm sở, tôi cũng cố đòi cho được và sau rối, nhà nước phải làm thủ tục cấp cho tôi một ngân phiếu, ngày nay tôi còn cất giữ để làm kỷ niệm đời làm tôi mọi năm xưa. Đó là ngân phiếu số 32.306 đề ngày 5-11-1928 có tất cả năm chữ ký: Denya, khu trưởng phòng nhì ký phái phiếu ngày nói trên 5-11-1928, Friqucgnon, trưởng phòng nhì, ký ưng thuận ngày 13-11-1928, Quên nói, khi lập xong ngân phiếu, phải gởi qua sở kiểm soát ước chi phê nhận, chữ ký ông Morieul và con dấu đề ngày 7-11-1928, xong rồi gởi trình tổng nha ngân khố, xin chữ ký (đọc không được) và rốt hết phải có chữ ký thứ năm của quan coi về đương sự có thiếu nợ chánh phủ hay không, và nhờ sở nầy phê “sans opposition” (không chi ngăn trở, tức không thiếu nợ) tờ ngân phiếu mới hợp lệ rồi còn chờ tôi lãnh tiền, nhưng tôi quyết giữ làm kỷ niệm cho con cháu biết đời công chức cho chánh phủ Pháp là vậy.
Số liền cấp vãn phản đó là Ba cắc bạc (0,30$ - Và cũng là một vậy kỷ niệm giá đáng ngàn vàng là một tờ ngân phiếu khác màu vàng, số 42.165 cấp ngày 7-3-1930 cũng đủ năm chữ ký y một kiểu như trên, giá bạc cấp phát là bốn chiêm Tây (0$04). Đây là tiền công thưởng tôi làm phát ngân viên (agent de paiement) đã chịu khó mỗi tuần đi xe từ toà bố Sa Đéc lên làng Vĩnh Bình, xa độ hai mươi cây số ngàn, phát tiền cho người phu lục lộ coiviệc vớt cỏ lục bình không cho trôi tấp vào chân cột cầu bê-tông. Công làm phát ngân viên cứ phát một ngàn đồng bạc lúc đó thì được ăn thưởng một đồng tiền huê hồng bù trừ sự mất mát; thế mà trọn một năm 1929, công tôi tính được “bốn đồng xu”, các độc giả cứ nhân ra rồi biết tiền công anh phu lục lộ là bao nhiêu. Không kể tiền xăng nhớt và tiền vỏ xe mòn, tiền sốp phơ v.v., hèn chi chánh phủ thời Pháp thuộc có tiếng là chu đáo, làm việc gì cũng đến nơi đến chốn! Ngân phiếu nầy tôi cũng không lãnh. Kể như chu đáo nhứt của chánh phủ đô hộ Pháp là năm 1944, tại Sốc Trăng, trong lúc binh Nhật hoành hành hống hách, anh em chúng tôi buồn quá nên tụ lại nấu một bữa cháo gà để lập đờn ca gọi yêu nghệ thuật, ngờ đâu sáng bữa sau có giấy đòi tôi lại hầu ông cò và ông bắt tôi chịu phạt về tội ban đêm làm mất trật tự (tapage nocturne), vì có người lân cận thưa về tội khuấy rầy. Biên lai số 1897 đề ngày 9-8-1944 (phạt 3$30 tức cinq frances d amende thời đó, cộng với tiền tiêu tiền nghệ khác thành 11 francs như đã ghi trên biên lai. (Viên cò Tolsano phạt tôi, sau chết tại Cà Mau dưới gươm quân phiệt Nhựt năm 1945).
Ba tài liệu nầy tôi xem là rất quý, vì nhắc lại đời nô lệ của tôi.
Vợ chồng đưa nhau về Sa Đéc. Ở nhờ nhà ân nhân dượng và cô Thầy thuốc Phạm Văn Ngỡi suốt mấy tháng mới kiếm được một căn phố xây tổ uyên ương nơi số 106 đường Vĩnh Long, một năm sau, dọn về phố mới Thầy Ký Ngọc ở một đường nhưng gọi số 2 đường Vĩnh Phước, và sát dốc cầu sắt Sa Đéc, ngày nay có dịp đi ngang còn bùi ngùi cảm động. Duy ơn sâu Dì Tư và bác sĩ Ngỡi, nguyện suốt đời không quên. Nay hai ông bà đã mất.

Về Sa Đéc, chân ướt chân ráo, mẹ vợ chết, trong túi không tiền, quan chánh chủ tỉnh chưa biết cử chỉ khả năng mình ra sao, bỗng có giấy hãng xe Laurent Gay đòi tiền mua xe chịu và trả chưa dứt. Cái đó mới chết một cứa Tứ! Thân làm phát ngân viên tại toà bố, chữ Tín là trọng, thế mà hiển hiện có bằng cớ lúc trên Sài Gòn mình đã bội tín, nhứt là đã giựt tiền của Tây, và Tây với Tây cố nhiên vẫn binh vực nhau. Tuy vậy trời xanh có mắt, tôi trình chủ tỉnh bức thơ trả lời cho hãng, xe ông nhạc tôi mua và để tôi đứng tên. Nay tôi bằng lòng cho hãng lấy xe về trừ số nợ thiếu hoặc đòi ông nhạc tôi trả tiền, chớ tôi vốn vô can trong vụ nầy. Hãng ham bán mà không cẩn thận, bán lầm đòi tiền không được thì chịu lấy. Chủ tỉnh chấp nhận lời biện minh của tôi, thế là thoát nạn. Sau rõ lại, khi được thơ tôi, hãng rình một lúc lơ đễnh của anh lài xế, hãng nhảy phóc lên xe lái về ga-ra, dứt khoát. Nhưng ông nhạc vì vụ nầy, mất xe mà không dám cớ không dám đòi, duy thù thằng rể thấu xương. Nay mỗi khi lấy tấm cát chủ xe Fiat bốn chỗ ngồi, li-mu-zinh sáu mã lực, số mã tự kinh C.9032 do chánh văn phòng Renou ký ngày 13-12-1927, không khỏi khúc khích mình cười lấy mình.
Tình duyên của tôi và Tư, đằm thấm như hai chim con vừa thoát ổ mẹ, ríu rít trên nhành, rất tự do, bụng đói mà vui, tuy nghèo mà hạnh phúc...
Ngày 20 tháng 11 Tây năm 1928, gặp cứu tinh và ân nhân là bà Phủ hàm Lê Văn An, nghiệp chủ ở Sốc Trăng. Bà lên Sa Đéc dự tiệc cưới nơi nhà thầy cai tổng Nguyễn Tấn Cao tự Keo. Tôi và Tư cũng có mặt trong tiệc nầy. Chốn tiệc trung ứa lệ, bà cháu nhìn nhau. Tôi còn ghi lời bà nói hôm ấy: “Tao nghĩ tội nghiệp cháu nội tao (Tư) nay côi cút mất mẹ, chớ mẹ nó nếu còn, ngậm ngọc mà nói, tao cũng không màng thằng Tư (tức là tôi), mầy không biết, chớ mẹ nó và ông Kính, lúc trước kiện bà đây tranh gia tài, nay bà còn tính giận. Duy nay thấy vợ chồng bây, bà động lòng thương. Bà lẫn biết ông nội của cháu (tức Sển) và cậu Hương cha của cháu, đều là người nhân đức, nên bà mừng hết đỗi và tán thành cuộc lương duyên của hai cháu đó. Bây rán ăn ở cho có hậu thì bà không bỏ”.
Ngày 6 tháng 5 năm 1931, bà Phủ An từ trần, làm chúc ngôn do một tay tôi viết và ký thác nơi phòng chưởng khế, cho Dương Thị Tuyết và Vương Hồng Sển cùng đứng tên làm chủ 220 ha ruộng tốt trong làng Hoà Tú, và cho riêng cháu gái gọi bà bằng bà nội (kỳ thật là bà cô) của tư trang gồm vô số hột xoàn, cái bâu cổ không cũng đã có ba trăm hai chục hột, bông tai và cà rá; và bạc mặt tám ngàn đồng (tám chục tờ giấy bộ lư). Nhưng than ôi, cũng vì có tiền nhiều, nên nhân tâm biến đổi. Sau mười chín năm từ 1927 đến 1946, vợ chồng ăn ở với nhau như bát nước đầy. Bỗng Tư sanh tâm và ôm cầm sang thuyền khác. Án ly dị đề ngày 7 tháng 7 năm 1958. Thế là hết duyên hết nợ với cô Tư. Nói nữa làm cái, gạt lệ đủ rồi. (Nay ruộng và xoàn, tôi để cho Tư trọn hưởng. Em có biết chăng?).
Thế là hai lần lập hôn thú, một lần nhục nhã vì ham tiền, một lần vượt quyền định đoạt của mẹ cha vì ham sấc, hai lần có hôn thú đều hư.
Qua lần thứ ba, thù người khác mà để người nầy chịu khổ: không làm hôn thú nữa. Thế mà ở đời với nhau cho đến nay, và việc còn dài, không nên nói trước. Xin Năm thứ lỗi cho tôi. Một khi đã có con trai nối dòng, tờ hôn thú vẫn là thừa.
Cho đến nay, nghĩ mình ân ít tội nhiều, nên cũng “bất oán thiên hề mạc vưu nhân”, ai ở xấu, có lương tâm và trên cao danh chứng kiến.
Duy có nước đồng, nước sông mới dấy. Không ơn bà (bà Phủ An) vừa giúp tôi làm sao có sự nghiệp nầy. Biết nhưng làm sao báo đáp.
16: Cây có cội, nước có nguồn
- Có nước đồng, nước sông mới đẫy.
Đến tuổi nầy, tôi đã thấy gần đủ mặt thò lò, bề trái cũng như bề mặt của cái gọi là phước đức hay nhục nhã của cái người đời ai ai cũng muốn: sự sống lâu. Tôi nói sống lâu có phước là khi có con hiền cháu thảo, và đại vô phúc là khi tuổi thọ chất chồng mà bên gối không người thừa tự: Đa phú tất đa ưu. Giàu mà thiếu sự trìu mến của cháu con bên màn, khi tối lửa tắt đèn, khi se da nhức gối, thì không nên giàu và sống lâu làm chi. Tổn hại cho bản thân nữa là khác. Những đứa kế nghiệp, bà con xa, chúng nó không một chút cảm tình, chúng chỉ mong mình sớm nằm xuống để mau ăn của.
“Đa thọ tất đa nhục”. Sống mãi về già ngày càng thấm đòn, càng thúc thủ bất lực nhìn sự đê tiện của dây huyết hệ, sự thối tha bề trái của nhân tình. Thiết nghĩ không nên sống lâu, sống với lời nguyền rủa sau lưng của chắt chít, tốt hơn biết mình già chúng đã trộng, thì nên chia sản nghiệp cho chúng, như vậy mà còn có ơn hơn, để làm chi bề ngoài cung cung kính kính, dạ dạ thưa thưa, bề trong chúng cay đắng chát chua: già mấc toi, khư khư chìa khoá tủ sắt bên lưng. không chết đâu chết phứt. Tiếc của sống hoài, ai hơi đâu chịu nổi!
Bà là người quê ở Vĩnh Long, làng Long Mỹ, tổng Bình Thiềng, nhưng trong khai sanh lại ghi ngày 15-4-1866, sanh tại làng Vĩnh Phước, tổng An Trung (Sa Đéc) tên trong bộ đời là Nguyễn Thị Lâu, nhưng ngoài thế lưu danh Bà Phủ An, với câu đặt để lớp xưa: Nhứt An, nhì Phát, tam Chanh, tư Định.
Có lẽ nhờ ông bà tôi khéo tu nhơn tích đức, nên tôi có được hưởng một phần gia tài của bà, nhưng nội gia sanh biếng sau mười chín năm nồng mặn, cháu gái bà với tôi hết duyên nợ, tôi không dám trách và chỉ nhớ ơn bà mộc bổn thuỷ nguyên, bà và ơn lớn của bà tôi nguyện đến thác không quên.
Ông là người Biên Hoà, quê ở Long Thành xứ Đồng Môn, làng Phước Mỹ, tổng Thành Tuy Thượng, nay còn một ngôi Phật tự che mát ngôi mộ song hồn của ông bà. Ông sớm thông Pháp ngữ, từng làm thông ngôn cho ông Gaslon Doumergue, có lúc làm toà tạp tụng lại Tây Ninh khi về Pháp cho hết vật kỷ niệm cho ông và thời may các vật nầy nay lọt về tay tôi cất giữ. Có dè đâu ông toà tạp tụng một xứ nhỏ như Tây Ninh, bỗng trở nên nguyên thủ nước Pháp, lúc đó gọi là đức giám quốc (nay gọi tổng thống).
Ông mất ngày 18-6-1937 sau khi leo lên tột bực nấc thang danh vọng và nếm đến cạn chén tân khổ năm 1926 khi nền tài chánh Pháp đi đến sát mức kiệt quệ và nhờ ông mà vượng lại được. (Ông sanh ngày 1-8-1863). Bất ngờ bốn món ông để lại đất Nam nầy trở nên quý: một cây đèn dầu lửa bằng sành (mục lục 56) họng có đến hai tim cho thêm sáng và ống khói hiệu Abeille làm giẹp giẹp cho xứng với hai tim; một đĩa bàn (mục lục 57) hiệu Saucy-uomkès, nơi mặt tiền vẽ cảnh lâu đài và đền Château d Azay-le-Rideau ; một đĩa bàn nữa hiệu Nr. (mục lục 58), mặt tiền vẽ hình nàng Charlotte Corday là một nữ anh thư Pháp (1766-1793) dám đâm chết Marat để lên đoạn đầu đài đền tội, trên bức hình đề cây: “Noo Charlotte Corday, 19 Juillet 1793” ; và một đĩa bàn thứ ba, hiệu A-II-J.I (mục lục 58 bis), vẽ hình một người và đề trên đầu hình: “Fouquier-Tinville, accusateur public Noo”. Ông nầy (1746-1795), nguyên là biện lý toà án cách mạng Pháp, đã từng gởi lên gươm máy không biết bao nhiêu anh hùng chết oan, và sau rốt lão cũng lên theo đền tội.
Nhắc lại, bà cùng chồng là ông Phủ hàm Lê Văn An, sau đổi xuống toà án Sốc Trăng rồi tạo lập lại đây một sự nghiệp rất lớn, gồm một toà nhà lầu ngày nay còn kiên cố ngó mặt qua dãy chợ cá của châu thành và đó là toà nhà lầu đầu tiên tại đây xây cất bằng bê-tông cốt sắt. Ngoài toà nhà, ông bà có một sở ruộng tại làng Hoà Tú, ấp Bâng-Xa-mô, rộng đến 1.121 mẫu tây (1121 ha). Bỗng đột ngột ông mất (trước năm 1920), bà can đảm tiếp tục đơn thân quán xuyến khai thác sở ruộng và kinh doanh ngày càng thêm vĩ đại. Bà có phần về cung nô bộc, tôi tớ bạn bè ở trong nhà trên ba mươi người, mà người nào cũng trên ba mươi năm công nghiệp. Một tiếng bà hô là họ vâng lịnh răm rắp. Bà từ trần ngày 6-5-1931, để lại giấy nợ tá canh và mướn trâu làm ruộng, cộng trên mấy trăm ngàn bạc, bà trối dặn đốt hết, và khi mất, để lại một lẫm lúa năm căn đầy óc nhóc và trong tủ sắt một số tiền hết sức lớn thời đó là tám chục ngàn đồng bạc (80.000$00) gồm tám gói cuốn tròn giấy bộ lư, mỗi cuốn là mười ngàn đồng bạc (theo tôi một ngàn thời đó đáng trên mười triệu thời nay).
Nhưng bà giàu mà không có con. Trong mấy tháng bà nằm trên giường bịnh, bà suy gẫm có lẽ bà nhìn nhận tuổi già mà không con nối hậu kể như đại bất hạnh, đó là một cách trời hành tội vì muốn được giàu thì khó tránh không làm điều ác. Cho vay nặng lãi, thiếu nợ không bỏ, cứ kê nể chồng năm nầy qua năm kia là đủ tội rồi.
Trong khi đau ốm, bà khát nước, người canh cho bà ngủ là cháu ruột tín cẩn tên cô Ngọc. Cô mắt nhắm mắt mở, rót cho bà đầy chén, bà nhắp vào miệng vừa kịp phun ra. Đó là rượu chín chục độ! Bà trách mắng. Cô Ngọc khóc, đổ thừa đêm hôm tối tăm chai nước suối Vichy để quá gần chai rượu cồn, nên cô lầm lộn. Thôi cũng bỏ qua cho, kể như là sơ ý. Đến như việc nầy mới cắt nghĩa làm sao? Bác sĩ khuyên ăn lạt, triệt để cữ mặn. Thế mà cô Ngọc, cô Ngà, hai chị em, một khóc hai khóc, năn nỉ ép nài, nấu cháo sò huyết, nấu bánh canh cua, nêm nước mắm hòn, nêm nước trong Tàu, khẩn cầu xin xỏ cho được bà ăn: “Phải có hột cơm hột cháo mới là mau mạnh”. Nếu đó là vì dốt nát cãi lời bác sĩ thì cũng còn châm chế, duy nếu đó là làm cho bà mau chết để mau hưởng gia tài, thì đó thật là sâu độc ác ý không phương tha thứ. Lúc ấy tôi biết mà cũng như thằng câm. Bà thường nói về tôi là “thằng cháu rể xa, quăng mười lăm bã trầu chưa tới”, làm sao bà tin bằng cháu ruột, hai cô Ngọc, Ngà gọi bà bằng cô? Vì vậy tôi á khẩu.

Còn nhớ kỳ lết rồi, bà cho vợ tôi đeo xoàn “đầy mình”, dạy đeo luôn lên Sa Đéc “lòe loẹt ba bữa với người ta”, tôi hay được phân trần với bà và từ chối rằng: “Chúng con nghèo, dẫu đeo của thật, người ta cũng nói của giả; thêm nữa, nếu rủi ro bị trộm, bà có thể tin là chúng con bày mưu đoạt của, hàm oan ấy làm sao biện minh?”. Lúc thấy tôi nhứt quyết không nhận mượn xoàn đeo tạm, bà lưỡng lự không biết tôi thật ngay thẳng, hay là “thằng điếm ba da”, giả đạo đức để sau nầy táp cho lớn miếng! Bà có biết đâu lúc ấy tuy tôi nhỏ tuổi thật, nhưng đã có chút ít kinh nghiệm, chỉ quyết muốn được vợ thuận tình trung trinh chớ có xoàn nhiều chúng cám dỗ, có ngày mất vợ! Mất luôn hột xoàn! Sự nghỉ kỵ của tôi sau mười chín năm sau quả đúng người, nhưng đó là căn số của tôi, trách than vô ích. Bà mất năm 1931, trong lúc đại thái bình, như vậy mà yên thân.
Nếu bà sống được đến năm nay, bà càng thêm vô phúc, vì thấy cuộc đời biến chuyển, bà đâu tiếc sống. Các điền chủ đồng thời với bà nay thảy đều khuất bóng như bà: duy bọn con cháu không đứa nào lầm lỗi, mà thảy đều sạch tay, mà còn chưa hết khổ. Điền Nguyễn Tấn Phát, nhà giàu số 2, sanh con là Nguyễn Tấn Phòng, Nguyễn Tấn Nghị, nối dòng là cháu nội Nguyễn Tấn Lễ. Tấn Quyền, Tấn Lợi, thảy đều rân rát, kỹ sư, cử nhân luật, nhưng cũng phải bỏ ruộng chạy ra chợ sinh sống rồi từ trần, cháu bốn đời nay đều vô sản! Điền bà Hương Chanh, nhà giàu số 3 với con cháu là Trần Đắc Lợi (Chủ Lý), Trần Đức Chương (cậu Ba Chen), Trần Đắc Tuấn, Trần Kế Vĩnh, thảy đều trở nên dân chợ, sống lây lất qua ngày. Bà Tư Định, vô hậu như bà, của cải người dưng ăn. Những điền đất xưa, nay chỉ còn chút danh mà đã quá lu mờ, hoặc cũng không biết ở đâu nữa mà chỉ. Còn lại chăng là trong vùng còn giữ tên, như Kinh xã Phát là do ông Nguyễn Tấn Phát xuất tiền ra đào. Kinh Huyện Phòng (Nguyễn Tấn Phòng) v.v... Kinh xã Nhạn, mới nghe, tưởng là Việt, sự thật ông là người gốc Miên, được người đời truyền tụng gọi là “cù công Nhạn”, cù công dịch là “cửu công” lức là ông cậu. Chết mà sanh tiền ăn ở tốt, dân nhớ đức, chết mà như còn. Bia miệng thơm hơn bia đá.
Bà ôi, sao nói hết được những sự đổi dời, tang điền hoá ra thương hải. Thuở bà còn sanh tiền, lúa giá rẻ mạt mà dân thảy thảy no bụng. Lúa ba đồng ngoài một tạ, gạo tám xu một cắc một lít. Ngày nay lúa bán trên hai chục ngàn đồng mỗi tạ, ruộng làm đến hai mùa ba mùa, nhưng không phải ai ai dễ làm ra hột lúa. Trái lại, thấy dân nghèo chay gạo hàng ngày cũng đú dựng tóc gáy. Tội nghiệp đồng nghìệp tôi là hạng công chức ít tiền.
Một thơ ký tám con, lương ba mươi ngoài ngàn, kéo một bao gạo đã mất hết hai mươi ngoài ngàn, tức ba phần tư của số lương. Tội nghiệp mấy đứa trẻ, không tiền ăn hàng bánh, chúng nhắm ngay ồi cơm mà xúc. Xây qua quay lại một bao chỉ xanh gạo (một trăm ký) mới kéo hôm đầu tháng, chưa hết tháng mà cái bao đã xẹp lép! Ăn cơm chưa no, chúng nhè thuốc tiêu thuốc bổ của mẹ, cất kỹ trong keo, chúng cũng lôi ra nhai tuốt. Không thể tiện cặn, thà mua gạo ngon cơm cho chúng chan nước mắm đỡ tốn đồ ăn, và thực đơn suốt năm nầy qua tháng kia của chúng là rau muống luộc, năm khi mười hoạ mới có hột vịt luộc dầm nước mắm, đối với chúng, bữa ấy là thịnh soạn còn hơn hải vị trân hào.
Một điều khác, bà nghĩ xem: vàng, lúc Ba tôi còn sanh tiền, năm 1919, đưa tôi lên nhập trường Chasseloup, mua về năm chục lượng, giá mỗi lượng năm chục đồng (50$00), lường bán lời mỗi lượng một đồng bạc, cũng dễ thở, ngờ đâu từ năm 1919 đến năm 1925, vàng cứ sụt giá mãi, thét rồi chỉ còn hai chục đồng (20$00) rồi xuống mức cùng là mười chín đồng (19$00) một lượng, khiến Ba tôi sạch vốn. Đến năm 1931 là năm Bà mất, vàng leo thang trở lại mức trung bình xê xích từ năm chục đồng đến sáu chục đồng mỗi lượng, như vậy kể là vừa. Ngờ đâu kế đó, năm 1939, rục rịch có tin binh lính Nhựt đổ bộ Đông Dương, giá vàng vọt lên một trăm đồng (100$00) một lượng. Kể từ đó, vàng lên giá:
- Ngày 19-5-1940: 220$00,
- Ngày 4-7-1940: 330$00,
Nhảy một vọt, mấy năm gần đây, từ mười ngàn đồng (10.000$00) (12- 1968) leo lên hai chục ngàn năm trăm (20.500$00)
(ngày 15-5-1970), rồi năm chục ngàn đồng (50.000$00) (tháng 5 năm 1973) (năm nầy con bán ra mười lượng để sứa nóc nhà), kế đến năm 1975, giá vàng vọi lên 170.000$00 mỗi lượng, thiệt là cao vót tự cổ chí kim. Nhưng đâu phải là ngừng nới đây.
Cháu tường với cảnh đau thương như hiện nay, bà nằm trong mộ mà yên thân hơn, và chính thân cháu cũng không muốn sống
(29-3-1975: ngày giỗ mẹ).
17: Lương y lớp xưa
 Bác sĩ Lalung Bonnaire và bác sĩ Grall.
Tôi quen với Ngân từ lâu. Khi Ngân cưới vợ, con ông cai tổng ở Tân Quy Tây thì tôi làm phát ngân viên ở toà bố, kể như hàng đồng liêu nhỏ tuổi của bố vợ anh ta, lối năm 1940 đến 1943 tôi đổi lên làm thơ ký ở dinh Thống đốc Nam Kỳ thì tôi trở nên đồng liêu của Ngân, đã có mặt tại dinh trước tôi nhiều năm. Sau khi xảy ra cuộc đảo chánh 1945, tôi đã về hưu nhưng ở Sốc Trăng nơi quê cha mẹ không đăng nữa, tôi chạy với một tay xách nhỏ lên Sài Gòn, thì Ngân tiếp tôi tại Bộ Ngoại giao là chỗ anh ta làm việc Và đã thay bực đổi ngôi, tôi không còn làm lớn, không có nhà ở, tức vô gia cư, và bị vợ bỏ, tức vô gia đình. Nhưng tình xưa không đổi Ngân tốt ở chỗ đó, Ngân tiếp tôi niềm nở, dắt tôi đi ăn một bữa cơm nhà hàng sang, bây giờ tôi còn cảm động, và trong lúc tỉ tê tâm sự, Ngân thuật cho tôi nghe một chuyện như sau, và tôi cố viết lại cho y lời anh đã kể, nếu có sơ sót và không y nguyên văn là tại tôi bất tài chứ giọng Ngân hôm ấy đã làm tôi cảm động lắm giọng trầm trầm buồn buồn như giọt nước trong rô-bi-nê chảy ra, và vì vậy, lúc còn làm chung nhau trên ca-bi-nê, tôi thấy y ta có vẻ chệc, nên đặt lén là thằng Ngành (Ngành là tiếng Quảng Đông, dịch ra tiếng việt là Ngân, lức đồng bạc trắng, cũng gọi chơi là ngành sình, ngành sểnh, ngành sình, chung quy là “ngân tiền”!).
Anh biết không, từ đây là lời Ngân nói: “Tôi có một bịnh lạ, thuở nay chưa ai có. Là thỉnh thoáng tôi đau bụng dữ dội và đi tiểu thấy nước tiểu đen thui. Tôi chạy đủ thứ thuốc, Tây, Nam, Chà, Chiệc, Đàn Thổ, đủ mặt thầy, lang Tây lang ta, lang Tàu, thầy ngải Khơ-me mà vẫn không hết. Tôi lên Nam Vang cắn răng cho thầy ngải đốt ba liều nơi lỗ rún, nay còn thẹo. Nhè chỗ ấy là da mỏng, bình thường đụng nhẹ cũng thấy nhói, mà họ đốt anh thấy có chết cha mình không? Họ bảo tôi, đè ngửa xuống ván, lột áo trịch quần tôi ra, rồi lấy vỏ tỏi lót ba chỗ quanh rún, và đặt mỗi chỗ một liều ngải cứu phơi khô, lớn hơn hột tiêu, có lẽ gần bằng đầu bút chì. Đoạn lão thầy ngải đọc thần chú rồi lấy đầu nhang đốt cháy châm từ liều. Tôi quên nói có bốn thằng đàn thổ lực lưỡng đè tay và đè chân tôi, nên tôi không cục cựa chi được hết. Lúc đó tôi chưa cưới vợ và tôi là một thằng ngu, anh vẫn biết và đừng cười, từng tuổi đó, trên hai mươi, mà tôi chưa biết đàn bà là gì chớ đừng nói chi đến bịnh phong tình. Tôi nói mà không mắc cỡ là tôi lúc còn “trinh” và chưa biết cái húm là gì, nếu ai hỏi tôi thì phải đợi tôi cưới vợ rồi mới biết. ấy mà nó đốt rún tôi như đốt người mắc tội có bịnh tiêm la hay là gì khác. Với liều đầu, khi thuốc cứu cháy lớp vỏ tỏi và cháy tới da, mẹ ôi, tôi nghe xèo xèo, một mùi khét thịt khét ngải cứu rất khó chịu bay vô mũi, tôi cố vùng vẫy thật mạnh, mà bốn thằng ác ôn nó đè chặt lên tay chân gần muốn gãy, tôi phải chịu đựng, rồi tới liều thứ nhì. Tôi thấy đủ mặt cha mẹ ông bà ông vải nhưng bốn thằng đàn thổ vẫn không buông, tôi càng la hét nó càng nhấn hết mình nó lên tay chân tôi, mình tôi toát mồ hôi dầm dề, rồi cũng xong liều thứ nhì. Qua liều thứ ba, tôi đã xụi lơ, và tôi chết giấc luôn cho đến khi lão thầy ngải lấy ngón tay đè từ chỗ một cho thiệt tắt. Ấy vậy mà tôi không chết và còn đủ sức gượng dậy, kéo cái quần lên thì cái quần ướt rượt kéo không lên vì tôi đã phóng vừa tiểu vừa đại đầy quần.
Thế mà bịnh vẫn như không và tôi vẫn thỉnh thoảng đau bụng như cũ. Từ đó tôi thù bọn thầy ngải ghê xương và ai nói đến bùa chú ngải nghệ, tôi bỏ đi chỗ khác. Tôi nói thiệt, cho đến chết, từ rày tôi theo thuốc Tây mà thôi.
Nhắc lại căn bịnh của tôi, tôi mang nó lê dài qua ngày tháng. Hôm cưới vợ và gặp anh ở Sa Đéc mới là nguy cho tôi chớ. Đêm tân hôn, tôi cất giấu gói thuốc viên đem theo đề phòng uống cơn nguy cấp, tôi nhét gói thuốc dưới gối rồi phải ra làm phận sự hầu hạ và rót rượu cho quan khách, ngờ đâu vợ tôi ở trong buồng lục lạo bắt được gói thuốc, chị ta khóc cho một mách tường bạc phân vớ nhằm thằng chồng ghiền và khi tôi vô kiếm gói thuốc thì nó ở trong ống nhổ. Phải là chết cha tôi chưa? Tôi không dám nói một lời phản đối, mà cũng may nhờ ông bà phù hộ hay là cưới được con vợ có đít lôm, mừng lòng nên trọn mấy ngày trăng mật không đau bụng phút nào. Rồi vợ tôi sanh con đẻ cái cả bầy, thằng Ngôn (trùng tên với ông đốc phủ ở Phú Lâm xếp của hai đứa mình đó rồi con Nga, thằng Ngươi, vân vân tôi đều lựa tên có chữ “Ng” đứng đầu cho xứng với câu anh nói giỡn năm xưa là một xâu tiền “ngành xĩnh”!
Từ năm anh đổi về Sốc Trăng anh em mình cách biệt, sau đó tôi đau bụng một trận cửu phần tử nhất phần sanh, anh đừng hỏi tôi năm nào, tôi không nhớ, duy biết chắc năm đó nhà thương Chợ Rẫy vẫn còn mang tên Hopitall Lalung Bonnaire và do chính ông nầy làm giám đốc cũng như nhà thương Đồn Đất lúc ấy vẫn do ông bác sĩ Grall bổn thân điều khiển, cả hai ông là hai ông thầy thuốc kỳ cựu có công lớn với bản xứ và để nhớ ơn hai ông Hoa Đà nầy nên đã lấy tên đặt tên cho hai dưỡng đường quan trọng nầy.

Tôi nhớ năm ấy tôi đau một trận kịch liệt, đau hơn lúc nào hết, và vợ tôi thấy nguy quá, uống thuốc nào cũng trơ trơ, nên hoảng kinh chở tuốt tôi vào Chợ Rẫy. Lúc đó thuốc men chưa hoàn bị như bây giờ, các tay danh thủ ở đây đều chay mặt, phần vì vợ tôi nhờ giỏi tiếng Tây, nên khóc lóc nài nỉ ông Lalung Bonnaire thiết tha quá.
Ông cầm lòng không đậu, bèn sai đem tôi ra xe nhà và ông tự lái xe chở thẳng tôi qua nhà thương Đồn Đất. Ông lên thương lượng với vị giám đốc ở đây là bạn già đồng nghiệp hữu Grall, hai người đồng tình cho tôi vào nằm ngay khu bịnh thất dành cho hàng sĩ quan cao cấp nhà binh Tây, vì tôi tuy là thằng “anh đi rền” nhưng làm tại dinh Thống đốc, lại nữa tôi đau một chứng kỳ lạ, cần khám phá có ích cho lương lai y học. Lúc ấy chỉ có nơi nầy có rọi kiếng quang tuyến X., ít ngày sau rõ được đầu dây mối nhợ của chứng bịnh tôi là cái bọng đái (vessie) có một túi nhỏ, khi nào túi nhánh ấy bị chất độc chứa nhiều thì sưng lên và hành đau bụng, và bây giờ tôi mới biết hèn chi có khi tôi uống thuốc Bắc hay ăn nhằm thứ gì không chịu thì tôi đi tiểu ra nước đục đen đen, lại lầm tưởng đó là thuốc thần hiệu nên tống khứ chất độc ra, lại thêm tốn tiền nuôi mập bọn dung y báo đời. Grall và Lalung Bonnaire đều lưỡng lự, vì thuở ấy chưa ai dám mổ hay cắt bớt bọng đái (bàng quang) vì sợ chỗ cắt không lành. Nhưng một cũng liều, hai cũng liều, vợ tôi can đảm làm tờ ưng thuận, khỏi nói lúc ấy tôi đã kể chết nên nghe vợ tôi thuận lại thì tôi gật đầu chấp thuận theo, vì trong trí óc mơ màng nhớ lại vậy chớ hồi bọn Thổ đè mình đốt rún đau thấu mây xanh, lại có mấy hỏi trước xem mình có bằng lòng cùng chẳng? Và tôi nói cho anh Tư (gọi theo thứ tự của vợ trước) biết, tôi là người duy nhứt được hai ông đại danh y Grall và Lalung Bonnaire thân hành giải phẫu, ơn ấy cho đến chết tôi không quên.
Mổ xẻ cắt may xong xuôi rồi, khiêng tôi xuống phòng, ông Lalung Bonnaire về sở, lui cui lo phận sự và nghỉ chưa hết mệt thì ông đã thấy vợ tôi đầu bù tóc rối, níu áo blu-zông của ông, xin cứu mạng cho chồng. Số là dì phước nuôi bịnh thấy tình trạng sức khỏe của tôi nguy kịch quá, đã thú thật và khuyên vợ tôi hãy kíp lo đồ liệm, vợ tôi nóng ruột đánh liều chân thấp chân cao chạy vô kéo áo óng bác sĩ đầy lòng nhân từ Lalung Bonnaire. Lại một phen nữa ông bỏ ăn bỏ ngủ, lấy xe nhà chở vợ tôi trở vô Grall, đến phiên ông níu áo ông nầy và hai người xuồng khu bịnh thất, còn có một phương cứu chữa cầu may là sang máu. Nghiệt nỗi thời đó chưa có ngân hàng máu, lại cũng không thử trước để biết máu tôi thuộc loại O hay mô tê gì. Sẵn có hai ông sân đá gác bịnh, một anh Tây chính cống và một anh cà phê sữa mạt ti nít quai, hỏi chúng chúng tình nguyện hiến máu, bèn cắt mạch máu hai bên tay tôi và nối ống cao su sang máu ngay từ hai thằng Pháp qua một thằng Việt.
Nhờ đó mà tôi thoát chết. Rồi lần lần tôi đi đến khỏe khỏe và chờ ngày bình phục. Thiệt là ơn cải tử hoàn sanh. Một bữa trưa chúa nhựt, vắng im trong phòng, tôi tập nói như đứa con nít lên ba và mấy tiếng nói đầu tiên của tôi là để tỏ lòng tri ân của tôi đối với hai anh bạn khác màu da và khác quốc tịch. Anh lính chà đáp. Nói vậy mầy hết chết rồi hả? Ơn với nghĩa làm gì. Đ.m! Hai đứa tao nào có biết mầy là ai? Cái tục lệ nhà binh, ai nằm phòng nầy là sĩ quan cao cấp, hai tao bị chỉ định phụng sự mầy thì chỉ biết phụng sự chớ nào có việc ơn với nghĩa. Lại nữa, mấy tuần nay, mấy bỏ cơm bỏ cháo, phần rượu chát sắp đôi của mầy, chúng tao nốc trọn, nếu kể về ơn nghĩa thì chúng tao thọ ơn mầy chớ mầy lào thọ ơn chúng tao. Thôi, để tính vầy cho gọn, nay mầy đã thấy khá, vậy thì ráng giữ thân đừng nhõng nhẽo, đừng làm gì bậy bạ, hãy ngủ yên cho sớm để mai nầy quan thầy lại viếng bịnh nếu mầy không có nóng lên độ, đó là mày trả ơn chúng tao rồi đó. Chúng tao cho mầy biết, tụi tao nục quá rồi.
Sau khi ra nhà thương, được giấy phép cho nghỉ hai mươi chín ngày, việc làm đầu tiên của vợ chồng tôi là mua chút ít lễ vật, nho cam, và vợ tôi trích trong của hồi môn một đôi vàng chạm chưa tới một lượng, hai tôi vào nhà ông Lalung Bonnaire. Ông mừng rỡ bắt tay thân mật và hỏi thăm tình trạng sức khỏe lãng xăng. Chủng tôi nài nỉ xin ông nhận chút lễ thành là một cách chúng tôi tỏ lòng ghì ân tái tạo, nhưng nói cách mấy ông cũng một hai từ chối. Vợ tôi nải mãi, bỗng ông cười xoà mà rằng; “Tôi đã có một cách giải quyết vụ rắc rối nầy. Số là tôi sẽ về hưu nay mai. Vậy thì tôi để lại địa chỉ lại cho vợ chồng thầy. Nếu thầy y thật không quên ơn tôi thì thầy nhớ thỉnh thoảng đôi ba tháng viết cho tôi ít chữ cho tôi biết tình trạng sức khỏe của thầy sau cuộc giải phẫu thành công mà kết quả không do tôi mà do sự mát tay của đồng nghiệp hữu kỳ tài Grall của tôi đó. Vợ chồng thầy là người có học chương trình Pháp, ắt hiểu rằng bọn đệ tử của thần Esculape là chúng tôi, có lời thề phải vị tha và không được nhận của cho. Hãy cất đôi vàng đi. Nhưng để thông cảm và khỏi mất lòng nhau, tôi đề nghị bà Ngân hãy ôm mớ trái cây xuống trại bịnh lao mà tặng cho họ, có lẽ họ cám ơn bà hơn là bà đem cho mấy thằng đồng bịnh thất của chồng bà trong mấy tuần qua, bọn chúng chỉ biết có rượu và gái mà thôi. À nầy! Tôi sắp quên! Thằng con út của tôi vừa bốn tuổi đòi chèo chẹo bảo mẹ nó mua cho nó vịt con để chơi. Như thầy quyết đã muốn đền ơn tôi, vậy thầy ra ngay chợ bán gà, mua cho tôi sáu con vịt ra ràn, đừng lựa vịt lớn, hãy tìm những con còn lông măng màu vàng lườm, nó càng la lớn càng tốt, vì thằng con tôi thích nghe tiếng chim kêu và vịt la như vậy. Thôi từ giã, rán giữ gìn sức khỏe: Chúng ta gặp nhau chưa phải là lần chót”.
Nói đến đây, Ngân gạt tàn thuốc, hai tôi chia tay và không gặp nhau nữa. Sau nầy tôi nghe tin Ngân đã định cư từ lâu bên Pháp quốc, sống an nhàn với con và cháu để tiện theo dõi chúng học hành. Gia đình bên bà Ngân có người chết oan trong cuộc chiến tranh chưa dứt nầy. Tôi không trách làm như vậy xem tuồng vong bổn, và nếu thảy thảy đều như thế thì còn chi nước Việt về sau.
Cơm nhà nợ nước, không phải quê hương đem theo được dưới gót giày, câu nầy không phải của tôi và tôi đã phạm tội nhại một danh ngôn Pháp rồi đó!.

18: Những việc gì xảy ra từ năm 1939 đến năm 1943
(Tôi được chứng kiến)
Tôi đã tiêu đầu lạn ngạch, tức làm việc cháy đầu phỏng trán, tức chịu khốn chịu khổ đủ mọi cách, hoặc nói theo lời bà thân ông kỹ sư Nguyễn Khắc Trương ở gần bên nhà, bà thường dùng câu nà tôi không hiểu nghĩa "cực trần ai lai khí" (?), mới về "gần mặt trời", và "về làm dâu nơi dinh Thống đốc Nam Kỳ” với chức thơ ký hạng nhứt (secrélaire de premiere classe), sau khi “lăn tròn cục bướu" khắp đó đây suốt mười sáu năm trời luân lưu nhiều chỗ:
- 5 năm Trường Máy đường Đỗ Hữu Vị (nay là trường Cao Thắng) (1923-1928)
- 4 năm công táp phát ngân toà bố Sa Đéc (mấy năm vui nhứt vì còn trong tuổi xuân xanh) (1928- 1932)
- 4 năm sở Địa bộ quê nhà, Sốc Trăng, báo ân báo hiếu cho cha mẹ... (1932-1936)
- 3 năm toà bố Cần Thơ, đứng bàn ông chánh (thông ngôn quan chánh bố) làm giàu dễ ợt nhưng tôi không màng, một mực làm theo lương tâm, ăn ngay nói thẳng. (1936-1939)
Gọi "gần mặt trời"vì làm với đầu xứ; gọi “làm dâ" vì làm đây cực nhọc và phải cho kín miệng, động một chút là bị đổi đi xa bất tín dụng luôn nhưng được chút an ủi là thêm lương mỗi tháng mười lăm đồng gọi tiền xúp (supplément) duy phải làm mỗi ngày thêm một giờ, như trưa ra sở 12 giờ thay vì 11 giờ 1/2 và chiều trễ tới 18 giờ thay vì về từ 17 giờ 1/2 như các sở khác.
Lúc đầu tôi làm "dâu phụ", "dâu ghẻ", vì còn chờ ở trên giám nghiệm tôi về khả năng. Vì vậy mấy tháng đầu, tôi được bổ làm phụ tá cho một thơ ký nhỏ tuổi hơn tôi và đó là thơ ký công nhựt Dương Văn Minh sau làm đến đại tướng. Ông Minh, nầy là người rất dễ thương và vốn dòng lễ giáo nho phong. Ông là nhỏ nhất trong dinh, và trừ vài người đồng chạn, các nhân viên đều là "chú của Minh", vì đều như tôi, bạn đồng liêu đồng ty với cha của Minh, là đốc phủ Dương Văn Mau. Tôi nói Minh rất dễ thương là thật sự và không có ý nịnh bợ. Sau nầy, cách nhau hơn gần chục năm, Minh làm đến tướng, vinh quang và lừng danh với chiến thắng vào Rừng Sác rượt Bảy Viễn và trận sanh cầm tướng Ba Cụt nơi cánh đồng Chắc Cà Đao.
Một buổi sáng lối năm 1948 nơi Chợ Trời bán chim bán chó đường Hàm Nghi, Minh gặp tôi, ôm choàng lấy cổ như hai bạn thiết cách mặt lâu ngày, tuy vậy "kính nhi viễn chi", tôi thủ phận "hưu viên trưng dụng trở vô làm ăn lương công nhựt”, bấy lâu không lại gần ông tướng suý nầy, vì xét phận mình, gần thần gần cây da, bóng mát thật, nhưng rủi cây da ngã, đè chết có ngày! Và an phận thủ thường là hơn.
Minh lúc ấy coi về công văn từ các tỉnh gởi lên và từ các ty sở khác (divers services) gởi về. Công việc dồn dập chồng chất không làm xuể, nên tôi được, buổi chân ướt chân ráo nhận việc, cấp làm phụ tá cho Minh. Ông Minh chia cho tôi coi về công văn các sở, và giữ lại công văn các tỉnh hạt có phần ít và khỏe hơn, Minh có một cách làm việc thực tế lắm. Trong khi tôi là một thơ ký già làm việc theo lề lối xưa, nai lưng kệch đi đúng giờ và đúng khắc và cong lưng ghi chép nhón và cho số thứ tự hết tất cả công văn thu nhận rồi gởi lên đãi lịnh bề trên là ông đốc phủ xếp ở lên lầu, Minh chê rằng làm như vậy đã mệt mỏi mau chết mà cũng chả ai khen, cho nên Minh đổi phương pháp lại theo ý riêng và chỉ lựa nhón những công văn khẩn cấp và thiết yếu, thì Minh mới ghi vào sổ, cho số thứ tự và bổn thân xách tay lên giao quan đốc phủ, kỳ dư công văn còn lại và Minh cho rằng "không gấp" thì Minh chôn vào nhiều ngăn và hộc tủ có đánh số cẩn thận tỷ dụ như “S” là Sốc Trăng, Sa là Sa Đéc, vân vân, rồi lần lần rỗi rảnh và thong thả Minh sẽ lấy ra ghi sổ, còn lại bao nhiêu thì giờ dư thì Minh sẽ lén dùng để thả xích phê ngoài chợ nhứt là trên đường d Espagne (nay là Lê Thánh Tôn) ở sát mé sau dinh. Tuy vậy không một ai phàn nàn Minh vì Minh rất biết điều, trong lúc thả rong chơi làm vậy là Minh lấy tin tức về cá ngựa cho "Chú Thân" "Chú Inh" là hai thơ ký đánh máy về ngựa trường đua như mê đào hát và tuần nào cũng cúng tiền mua cỏ cho ngựa côn hơn công tử chạy tiền cho các cô gầy sòng. Đối với tôi, Minh cho tin tức về hát bóng, tuần nào và rạp nào hát những tuồng gì, và Minh có một câu rất mát ruột: "Chú Sển à, tuần nầy Eden hát tuồng hay, không xem thì uổng lắm. Chú để đó tôi làm giúp cho và chú "nhảy dù" đi xem đi kẻo tiếc”. Hoặc giả, đến phiên Minh nhờ tôi và rằng: "Chú coi chừng tiệm giùm tôi, tôi bữa nay lén đi xi-nê một chuyén!:.
Hai chú cháu tôi làm việc đang tương đắc, bỗng Minh bị bắt đi quân dịch. Tôi cũng vừa mãn kỳ làm dâu, được lên lầu làm chung với các bạn và được giao chỗ quan trọng là coi về công văn mật (courrier confidentiel), sau coi luôn về việc dịch các điện tín mật mã (télégramme chiffré). Hai chú cháu bịn rịn chia tay không đành, nhưng Minh từ ấy công danh đốc lộ đi học trường thiếu sinh (école des cadres) vì có tú tài Pháp văn, dư trận chiến Thái Miên vùng Battambang, trở về đóng lon quan hai (trung uý), rồi lần lần lên tột bực làm đại tướng, người hùng một thuở và tương lai hậu vận còn chưa biết được. Vẻ vang thay, Minh.
Tôi nhờ lên lầu, làm quen và kết giao với nhiều bạn mới, nay kẻ mất người còn và không còn nhớ nữa, như:
- Xếp trên hết công chức Việt là ông đốc phủ sứ Phan Văn Ngô, nhà ở Phú Lâm, đường quốc lộ số 4, treo bảng đề “Villa An Phong”, tức “ông Phan” nói lái lại. Ông là một người đức hạnh, trọn đời không nhận của hối, sáng đi xe lửa Mỹ Tho lên, làm việc cho đến trưa, sai tuỳ phái mua một tô hủ tíu, ăn nửa tô với cơm, nằm nghỉ lưng một chút với một tờ báo mượn nơi phòng báo chí (bureau de la Presse), chiều tối đi bộ ra sở lần đến ga xe lửa Mỹ, lên xe về nhà, và luôn luôn như vậy suốt mấy chục năm trời, không thay đổi tánh. Ai dám nói quan lại đời Tây Tà toàn là tham ô? Một giai thoại đáng tức cười là một khi nọ có một anh tuỳ phái kia mới đổi lại nơi nầy chưa biết ý quan, gặp trưa thứ bảy, anh được quan sai đi mua một tô hủ tíu và bốn chén cơm trắng, khi dọn cho quan "thời", thấy quan chừa nửa tô và hai chén cơm trong bụng phất cờ tưởng quan tử tế cho mình "hầu tàn" anh chàng lấy tô chạy lăng xăng mua trà Huế cho quan dùng, bỗng nghe quan dặn: "Cất mấy cái nầy, chiều tôi ăn rồi sẽ về”. Ấy quan nhờ tiện cặn mà cũng sắm ruộng Phú Lâm như ai và đâu cần hối lộ, chỉ tôi nghiệp anh tuỳ phái thua ngựa, chỉ rửa chén cho quan như mấy anh khác chớ không hơn? Tôi giữ đối với ông Ngô, một lòng kính cẩn và ông là người đức độ, khi rầy la cũng nhỏ nhẹ, nhưng lời nói đoan trực làm cải hối được nhiều người.
Phụ tá cho ông Ngô, là ông đốc phủ Nguyễn Văn Bá, người gốc ở Cái Bè (Mỹ Tho), lúc học Chasseloup, trên tôi ba lớp, ông lớp 4c année gần ra trường thi tôi mới vô lớp 1ère année. Ông người đức hạnh, học trường hành chánh ở Hà Nội về suốt đời làm ở Sài Gòn, và không đổi đi lục tỉnh, vì tánh ông không ăn hối lộ. Ngộ nhứt là suốt đời làm quan, ông chỉ sử dụng có một cây bút chì, loại một đầu xanh một đầu đỏ, buổi ấy chưa có loại atomic BIC như nay, vì ông là trưởng phòng công văn cơ mật và thông thường, các thơ ký dâng lên ông, ông chỉ xem kỹ rồi dùng bút ghi mấy chữ lặp đi lặp lại mãi những ngày nầy tháng nọ, tỷ như: M.S. Cl., có nghĩa là "Ông S. Cất luôn (classer)" vào hồ sơ, hoặc giả như:

- "sortie", tức công văn đã xem, nay không cần trình lại;
- "entrée", tức công văn cần ghi chép chỉ thị dặn xong rồi cho trở vô đãi lịnh lần nữa;
- "sortie définitive", tức công văn đã giải quyết xong.
- "entrée définititive", tức công văn phải ghi chú lời dặn rồi gởi vô quan trên (tức chánh đầu phòng của thống đốc) để quan lưu trữ vĩnh viễn, vì đó là công văn hệ trọng hoặc cơ mật, để ngoài e lậu sự.
Khi tôi biết sắp được đổi về tỉnh nhà là Sốc Trăng, tôi lưu niệm lại anh em dinh Thống đốc bằng cách đề nghị gởi lại bản dịch Việt ngữ để thơ ký và tuỳ phái khỏi lầm lộn, là ghi thêm dưới bốn danh từ Pháp văn nọ như vầy?
- entrée, tôi đề nghị dịch “cho vô”;
- sortie, dịch "cho ra";
- entrée définitive, dịch "cho vô luôn";
- sortie définitive, dịch "cho ra luôn";
Về sau, không biết có ai kẻ vạch, ông sai bỏ hết những bìa các hồ sơ có ghi câu Việt văn do tôi đề nghị, vì đọc lâu thấm mật, thấy có ẩn ý điệu Hồ Xuân Hương cái gì cho vô, cho ra, cho vô luôn rồi lại "cho ra luôn"!
Khi ấy thì tôi đã về xứ sở, dẫu trách tôi cũng không nghe. Tuy vậy ông Bá không giận, bằng chứng là sau năm đảo chánh 1945, ông gặp tôi giữa Chợ Mới Sài Gòn, ông bắt tay niềm nở làm tôi cảm động. Tánh ông rất kín miệng nhưng ông vô thưỏng vô phạt, không hại ai mà cũng ít giúp ai. Ông có một sức nhớ phi thường nhờ vậy mà ông thăng chức đều đều. Công văn chánh văn phòng hay thống đốc khi trở ra có ghi chú câu nào ông đều nhớ để bụng, một ngày nào quan muốn tìm xem lại ông biết ngay chỗ, không mất thì giờ, dẫu cách mấy năm hay cất chỗ nào ông vẫn không quên.
Ông Bá, có một bạn ba chữ "đ”, đồng liêu, đồng hương, và "địch thủ”, danh từ sau chót tuy không đúng nhưng tả rõ tâm trạng cả hai, và cả hai đều cùng một quê quán ở Mỹ Tho, đồng ngạch đốc phủ và đồng hạng, duy trở nên thù ngầm mỗi kỳ vận động xin ăn lên. Ông nào không được lên đều tam sầu bạch xác (tâm sầu bạch phát), khổ não ra mặt, cho đến khi quan Tây thấy vậy cho thăng chức cả hai thì mặt méo mới trở lại no tròn, và ông sau là ông T.M.P. tú tài Pháp học bên Pháp, bổ ngạch huyện khỏi thi, mặt trắng đẹp trai, có vợ con nhà giàu xứ Gò Công, có nhà lầu chợ Mỹ, đốc phủ sứ trật ngạch, chánh đầu phòng "phòng bản xứ chánh trị sự vụ" (doc-phu-sư de classe exceptionnelle, chen du bureau des affaires politiques indigèces, gọi tắt là bureau des A.P.I., tức sở coi về việc nổi loạn, tù chánh trị, tôn giáo v.v...).
Ông người tốt, hiền, nói tiếng Tây rất giòn, nghe đồn lúc nhỏ ông rất vất vả, nhờ người chị có nhan sắc nên ông anh rể đốc phủ hàm cho sang Pháp cùng theo học với cậu con, nhưng khi trở về, ông đậu tú tài được bổ quan, còn ông kia trở nên bầu gánh cải lương, phong lưu công tử nức tiếng một thời và tên Georges Ph...
Kể qua bạn đồng liêu trên lầu dinh Thống đốc lúc ấy còn có quý ông:
Nguyễn Hữu Hậu, sau là tỉnh trưởng Biên Hoà, lúc đó coi về công văn gởi đi không biết nay ông còn ham hút thuốc chăng, chớ thời đó, ông vấn thuốc thật khéo và thật lớn, tánh tình ông dễ dãi dễ thương.
Khi ông Hậu đi, người lại thế là ông Trương văn Thành nay ẩn sĩ ở Vĩnh Long, người hiền và đạo đức, một lòng tu thân, nên lánh xa việc thế, quan lớp Tây thuộc, ít người theo kịp ông, và trên đời ngày nay còn gì hơn là để cho quên, đừng ai nhắc đến. Hoan hô ông Thành!
- Coi về dây thép điện tín không mật là chú nhỏ Trần Văn Cự.
- Người sau lưng Cự, là A-ngành, đã nói nơi đoạn trước. Công Văn Thường.
- Ngồi ngó qua Ngành là ông huyện Hồ Văn Sĩ, sau làm tỉnh trưởng, lúc đó coi về ghi số, đề ngày, các chỉ dụ Thống đốc ký và cho ban hành (gởi đi Bà Rá là ở chỗ nầy).
- Ông đốc phủ Mau, sau tôi lên thế, coi công văn mật và điện tín mật, ngồi sát cửa ra vô phòng Phó Chánh văn phòng (Chen đe Cabinet adjoint), khít bàn ông Phú Sĩ. Nhưng ông Mau và tôi, có tiếng mà không có miếng. Ông Mau một đời thanh bạch, làm việc hết lòng, đậu hèn lâu khoa phổ thông, nhưng không qua được ngạch trên và khi từ trần chỉ khiêm tốn chức "ngoại hạng thông phán kiêm phủ danh dự" (phủ hàm). Còn tôi, xin cho nói luôn, cho đến nay tôi chỉ chánh thức một thông phán nhì hạng, đến như chức quản thủ Viện bảo tàng, thì đó là chức "lậu", không chánh thức, anh em thường tình kêu lâng giỡn chơi, và về hưu bổng ngày nay tôi lãnh cũng là hưu bổng tỷ lệ, tính theo lương phán nhì hạng, công mười bảy năm tôi cố thủ Viện bảo tàng (từ 1947 đến 1963 không tính trong hưu bổng nầy). Duy nhờ trời cho tôi sống dai, lãnh lương hưu trí từ 1944 cho đến nay, đã thay ba cuốn sổ rồi mà chưa chết, nếu cộng lại tiền lãnh được, có lẽ đã quá lời quá vốn. Theo tôi tưởng chánh phủ còn phát tiền cho tôi mãi mãi người phát tiền không khỏi nổi cáu rủa thầm tại sao tôi quá cứng cựa, không chết đâu chết phức, cho xong!
Tại sao những vật kín, ngắn bó sát chỗ kia của đàn bà lại ngự trị trong giỏ đựng giấy ở trên lầu trong dinh quan Thống đốc Nam Kỳ như vậy? Số là lúc ấy vào thời gần "tận thế" của chánh phủ đô hộ, khiến sanh nhiều quỷ dâm dục: đàn bà nhí nhảnh lúc ấy lại sẵn sàng bán rẻ chữ trinh, miễn vào đây xin được một cái bông với quan chánh hay quan phó văn phòng để khi mua vài thước hàng lụa, khi để có một cục xà bông thơm hay vài ký đường buổi khan hiếm vì Nhựt phong toả đường biển, thì "cái ngàn vàng kia" đâu có mòn mà hòng tiếc? Ông Chánh được mồi thì dắt lại phòng ông Phó và xong rồi quăng ngay nùi giẻ vào sọt giấy ngay trên đầu hai anh đánh máy Inh và Thân, vì vậy mà thua ngựa mạt cộng từ đường. Đến phiên ông Phó săn được mồi ngon, thì đưa xuống mượn phòng ông đốc phủ nơi gọi bureau des A.P.I đã nói nơi trước và mỗi lần như vậy ông dối bề trên rằng đi học và trau dồi tiếng bản xứ!
Mấy năm trước nữa, gương bày đầu làm việc trên bộc trong dâu như vậy là lão Pagès (đọc “Ba-ghè"). Lão ta rất hảo ngọt và trang trí nguyên một Bá-lạc-đài trên Thủ Đức, nay còn để tiếng.
Người tài xế cho ông, tôi còn nhớ là anh Dền, một tay lái xe tuyệt luân và cũng một tay kiếm mèo về nạp cho quan tài dách. Anh thuật với tôi mỗi lần anh dẫn một bà thì ăn còm-mi-xi-ông bằng cách viết sẵn cái "bon" mượn quan năm chục bạc. Và đợi kỳ sau rước bà ấy nữa thì chực sẵn đôi ba chục lo le xin trả lại quan. Anh Dền cười và nói mười lần như một khi xin trả mớ nhắm và hẹn trả nốt khi khác, trước mặt bà, Dền vẫn được chửi “mấy là thằng con heo" (tu es ùn cochon", nhưng chửi rồi thôi, quan không khi nào đòi tiền, và Dền nói không biết ai heo hơn ai! Nghĩ làm tài xế như Dền, tôi đây cũng muốn được như vậy, xe có sẵn người vô dầu và săn sóc, rửa xe có người ở trường máy rửa sẵn, bánh lốp vừa nửa sạc ông Rosel đã lo thay cái mới, và sướng nhứt là mượn tiền thống đốc xài mà không bao giờ trả! Tôi hỏi Dền thay vỏ xe chi thay hoài, Dền đáp quan thường đi hứng gió ngoài Cấp với các bà, giao trong hai giờ phải chạy đến nơi, thường chạy hết tốc lực tám chục cây số một giờ (xe hiệu Delate số C.20), nếu không thay vỏ, rủi chậm trễ thì mất chức, vả lại của ông của cha gì tôi mà tôi tiếc.
Ông Ba ghè (Pagès) nầy có tiếng là thống đốc khó tánh, oai nghiêm và khinh người hơn các ông trước. Ông nghe tiếng quan đốc phủ Đ.N.C là lỗi lạc hơn người, làm đầu phòng nhơn ty (chef de section au bureau du Personnel) trong nhiều trào Thống đốc, ông dẫn theo một vòng lục tỉnh bắt làm thông ngôn, nhưng từ ấy không thấy mời đi nữa, ngầm hiểu lục lục thường tài. Ba ghè mặt sắt như vậy, thế mà trái tim là của một con dê xồm.
Dinh Gia Long, trước kia là dinh Thống đốc nơi phía mặt tiền, chỗ nầy sau lấy làm văn phòng cho ông tổng Diệm, thì lối năm 1936 là phòng giấy bu-rô ông Ba ghè. Cố nhiên, phòng nầy nghiêm mật, năm thì mười hoạ có người thật tai mắt mới được quan soái tiếp. (Soái là tiếng thông thường để gọi ông, vì Thống đốc nghe chưa oai). Nhưng có một người được ra vô thong thả, không cần gõ cửa xin phép, và đó là chỉ có một ông quản vệ uy tín cẩn nhứt, các ông đốc phủ cũng nhường bước sau ông và đó là ông Vệ Kỳ. Ông Vệ Kỳ, ngày thường, luôn luôn o bế một cái mâm nhỏ bằng gỗ cẩm lai, lâu lên nước bóng láng đỏ như nhuộm son, lớn cỡ 0,20 x 0,15; khi tôi thấy vật nầy thì vì lòng hiếu cổ tôi ước ao muốn lắm, vì là vật cổ tích của nhiều trào phó soái, đã có từ đời Tây mới qua đây, (theo lời Vệ Kỳ). Tôi cố ý nài hoài xin đổi với một cái mâm khác, có lẽ tốt hơn và tiện hơn mâm cũ nầy, nhưng Vệ Kỳ khăng khăng một mực từ chối, rằng sợ quan biết sẽ phạt nặng. Cái mâm ấy, tôi quên nói, dùng để đựng thơ từ quan trọng cần dâng lên phó soái, và mỗi ngày Vệ Kỳ đều có dùng, và sở dĩ tôi muốn đổi để làm của, vì tôi cho cái mâm ấy là một lưu vật biểu hiện của mấy trào nô lệ thời Pháp thuộc. Nhưng nếu tôi cà kê như vậy mãi e lạc đề, vậy xin nhắc lại một bữa sáng chúa nhựt kia, tôi đến phiên trực nên như thường lệ tôi phải vô làm việc, mặc dầu tuồng xi-nê hôm đó hay lắm. Đến trưa ông Vệ Kỳ ôm công văn xuống giao cho tôi, nhưng tôi để ý và lấy làm lạ, vì mặt ông Vệ không còn một chút máu, xanh như tàu lá, xanh thấy sợ. Tôi với ông là chỗ thâm giao, nên tôi vội hỏi dồn và lo lắng cho ông. Nhưng ông cứ lắc đầu không trả lời. Hỏi han không nói, đến lượt tôi van xin cầu khẩn một cách thật tình. Hỏi mãi Vệ Kỳ chỉ rưng rưng nước mắt và trả lời xuôi xị: "Hỏi làm gì. Ông coi về confidentiel (việc cơ mật), trước sau gì rồi ông cũng biết. Tôi chắc lần nầy chết, ông à!".
Nhưng rồi Vệ Kỳ không chết. Rồi một tuần qua, một tháng qua, Vệ Kỳ vẫn sống nhăn và không thấy gì. Ít tháng sau lại đến phiên tôi trực nữa. Chuyến nầy tôi theo bên lưng gạn thét, Vệ Kỳ bèn thú thiệt: "Hôm cái ngày xui xẻo, hôm trước đó, hì hì! Tôi mắc tiêu quá nên tôi mượn thằng dịch vật là thằng Đội Cửu, đứng coi giùm cửa ông Lớn hộ tôi vài phút. Cửu nó lên ngồi chỗ tôi, tôi thì chạy xuống cầu tiêu xong rồi trở lên liền, dịch vật thằng Cửu nó không nói gì, nên tôi yên tâm cứ phận sự mà làm. Một lát kế đó tôi nhận được một bức công văn thượng khẩn để trong bì thư có con dấu đóng “Ultra secret” (Tối mật) và một con dấu khác "Très urgent" (Hoả tốc), hai con dấu đỏ lóe, thấy mà ghê, khiến nên tôi lật đật lấy mâm cây đặt bì thư lên trên, rồi tôi thản nhiên đến cửa vặn chốt bước vô. Rủi cho tôi là lúc ấy tôi muốn thối bộ cũng không thể nào kịp và trước mắt tôi hiện ra cảnh ông Lớn đang đứng đè cô đầm nhỏ đánh máy sát vào vách, còn miệng ông Lớn thì đang ngậm một nhũ hoa của cô đầm, và tay ông Lớn đang vò cái kia như ta vò xôi vò! Trời mẹ ôi! Khi ấy tôi sợ quá mà cũng không biết làm sao, thấy lỡ và bại lộ hết rồi! Tôi rút lui, tôi hồi hộp và lo sợ trót tháng. Bây giờ nhắc lại tim tôi còn đập mạnh và có lẽ sau nầy tôi chết vì bịnh đau tim. Tôi có trách thằng Cửu, nó chối đong đỏng, nó thề bán mạng, nó đổ thừa cô đầm vô phòng lúc nào nó không thấy, sau tôi rõ lại thằng Cửu nó không ngồi một chỗ như tôi, nó bỏ chỗ, chạy chỗ nầy chỗ kia nói dóc, và như vậy có phải thằng Cửu nó giết tôi không? May sao thời vận tôi còn đỏ, ông Lớn tốt quá, đại độ quá! Đã không cách chức tôi mà cũng không đổi tôi ra Côn Lôn cho đáng tội. Buổi chiều tôi không dám vô thấy mặt ông Lớn, và chính ông Lớn lối năm giờ mở cửa bước ra chỗ tôi ngồi cú ru, ông cười cười và nói ba tiếng tôi còn nhớ mồn một: "Ne recommence plus, Ve!" (Đừng tái diễn như vậy nữa nghe. Vệ!). Thiệt là ơn đức tái sanh tái tạo. Ông Sển nghĩ coi, tội đáng chết, lưu đày tới Côn Đảo, tôi cũng cho là chưa vừa và còn nhẹ, thế mà Tây người ta không nói gì, chớ phải như ai, mồ tổ tôi cũng không còn và có lẽ tôi đã chôn thây ngoài ấy!".

Rồi tôi đổi về Sốc Trăng, cái mâm nhỏ bằng cẩm lai của dinh Phó Soái không biết thất lạc về đâu trong cuộc đảo chánh năm 1945, khiến nay tôi còn nhớ tiếc mãi.
Tại nhà, hiện có hai cổ vật mà đến nay mới biết giá trị:
1) Một hộp gỗ màu đỏ, trên nắp đề bốn chữ “Tấu sự, khâm giám”, mua ở Huế độ sáu bảy chục bạc, và nay mới rõ đó là "hộp đựng sớ tấu” của lục bộ đài quan, dùng dâng cho vua và trao cho nội-giám dâng lên. Người ta tốn bạc triệu mà không có vật nầy. (36cm x 25cm x 4cm).
2) Một mâm cẩm-lai 24cm x 15cm, dáng chữ Nhựt, tôi gặp nơi dinh phủ tỉnh Sốc Trăng, lúc mắc kẹt làm phó tỉnh trường lối 1946- 1947, người tuỳ phái dùng dâng thơ tín lên quan thời Pháp thuộc.
Hai vật nầy, một của triều đình Huế, một của thời Tây, theo tôi, cũng là vật hi hữu, có duyên mới gặp.
(Viết thêm 24-5-1992)
VHS
Ngày nay ngồi đánh máy cộp cộp bất kể lát nữa chết ngay trên bàn bất đắc kỳ tử cũng có thể được, bình tâm xét lại lúc làm trên dinh phó soái, buổi ấy tôi hoàn toàn hạnh phúc mà không hay biết để tận hưởng, vợ chưa ngoại tình, đồng bạc còn giá trị nhiều, tuy Nhựt có in lén bạc giấy xăng mới, và đồ ăn thực phẩm ngoài chợ chưa leo thang như hiện nay, bơ sữa chợ đen giá phải chăng. Tôi nhớ và xin kể ra đây bốn chuyện mà cho tôi rằng lạ, nếu nay không nói e lâu ngày quên phứt cũng uổng, và đây cũng không phải quốc gia trọng sự gì mà giấu kín. Duy xin các bạn cứ xem đó là giai thoại buổi mạt kiếp buổi Tây thuộc, có lẽ vì lâu ngày nếu có sai lạc đôi chút đối với sự thật, xin các bạn lượng thứ. a) Chuyện một ông Tây giỡn chơi và chơi chữ mà thành anh hùng kháng chiến; b) Chuyện cô Ba Trà nhờ giỏi khóc mà khỏi bị đày lên Bà Rá, c) Chuyện phá Khám lớn năm xưa và chuyện anh hùng ra pháp trường chịu tử hình.
a) CHUYỆN ÔNG TÂY CHƠI CHỮ TRỞ THÀNH ANH HÙNG KHÁNG CHIẾN.
Việc đã lâu, quên mất năm tháng và tên họ của nhân vật duy nhớ đại khái như vầy: Lúc Pháp thất trận, ông thống chế Pétain lên lập chánh phủ theo Đức Hitler, thì ba chữ devise (Cách ngôn, tiêu ngữ) cũ của Pháp quốc "Liberté-egalité-fraternité tức Tự Do (liberté), Bình đẳng (Egalité) Bác ái (Fraternité), được đổi lại là:
Travail, tôi dịch cho thật nôm na là "Làm việc" (cần lao)
Famille, tôi giữ ý sát nghĩa và dịch gọn "Gia đình"
Patrie, tôi cũng dịch gọn là "Tổ quốc".
Lúc ấy đã có chế độ kiểm duyệt thơ tín (contrôle postal), cho nên một hôm sở bưu điện gởi lên thống đốc một bức thơ nhận được của một người Pháp gởi cho một bạn thân cũng Pháp, trong thơ tác giả chơi chữ và nhạo giễu ba chữ tiêu ngữ mới của chánh phủ Pétain đầu hàng Đức, như sau:
Tiêu ngữ Việt ngữ Bị đổi là Dịch là
Travail Làm việc Trahison Làm phản
Famille Gia đình Forfaiture Gia tâm
bạn nghịch
Patrie Tổ quốc Pourriture Thúi nát
Trộm nghĩ đó là một cách giỡn chơi giữa bạn thân, nói lén chánh phủ để mua cười trong buổi bị phong toả vì chiến tranh, và cũng có một phần nào khoe mình là tay giàu văn chương, hay chữ hay nghĩa. Dè đâu giỡn chơi thành thật, ông toàn quyền Đờ-cu không cho là giỡn, và chỉ thị sai thống đốc ký nghị định bắt tác giả đày vào trại phạm nhơn chánh trị ở Long Xuyên (centre d internement politique à Long Xuyên). Và đến khi trào Pétain đổ tác giả được phóng thích và chẳng như vậy, được tôn trọng như một anh hùng kháng chiến, dám ăn dám nói.
b) CHUYỆN CÔ BA TRÀ
Ngày nay thanh niên chỉ thấy mỹ nhân phần nhiều là giả, là độn, là nhân tạo. Ngày xưa muốn xứng đáng danh từ “mỹ nhân”, phải hoàn toàn là thứ thiệt, răng sún hay có một tí thẹo nhỏ ở chỗ nào cũng không được. Cô Ba Trà thuộc vào hạng ấy. Lối năm 1939, một hôm cô bị bắt và sở mật thám Catinat định tống giải cô lên Bà Rá là nơi đày tù bản xứ làm chánh trị hoặc phạm tội làm bại hoại phong tục nề nếp xưa như tình trạng Cô Ba. Nhưng cô nài nỉ viên thanh tra Pháp khéo thế nào mà cô được dẫn dắt lên quan chánh văn phòng trước khi lên đường đi Bà Rá, nếu cô có tội.
Chánh văn phòng là tham biện nhứt hạng, Dufour, tôi sẽ nói sau, ông có tiếng là tay háo sắc, nhưng thật là người có tánh tốt nhất là thẳng thắn và cương trực, dám ăn dám làm. Cô Ba Trà cặp mắt lưng tròng đo đỏ, hai khóe mũi cũng đo đỏ, được tha ngay, vì ông Dufour hoàn toàn đồng ý với cô: một là cô không khuyến dụ, hai là cha phải nghiêm dạy con trước khi thưa con bị gái làm hư; ba là đây là ý nghĩ riêng của ông chánh văn phòng háo sắc nầy, một người đẹp như cô không thể gởi đày lên Bà Rá.
Tôi giả đò ra xả hơi nơi hành lang để cho người đẹp thấy rằng thằng nhỏ hôm trước đi xe hơi bòm Fiat C. 9032 chung với Thầy Ba Kính, nhạc gia nó, chính là thằng nầy, làm việc dinh phó soái đây! Hôm ấy ra cửa đi về có ba người - người sau bị ám sát góc đường Tự Do và Lê Thánh Tôn là cò Bazin, một lần thứ nhất phải giấu cái còng sắt trong túi, vì lịnh thống đốc, ký trước, đề tên sau vẫn vô hiệu lực trước một mỹ nhân.
Người ra kế, khi vô là cực phẩm đại thần, nghị viên cơ mật viện (membe du conseil privé); khi ra là người thua kiện! Con ông làm lục sự tên Trường, ông không biết dạy, ông đòi bỏ tù ai? Ông tên Tống, dòng Trương Vĩnh.
Người thứ ba là cô Ba Trà, khi vô là một bị cáo mắc nạn, khi ra là một bà hoàng, được ông Chánh văn phòng Dufour tiễn ra tới cửa. Ô! là! là! Sắc đẹp.
c) CHUYỆN PHÁ KHÁM LỚN SÀI GÒN NĂM ĐÓ, TIẾP THEO LÀ VỤ XỬ BẮN 13 NGƯỜI TÙ CÓ TỘI LÀM CHÁNH TRỊ, TỘI CHỐNG PHÁP.
Tôi đã làm mất hồ sơ nầy trong chuyến chạy giặc Pháp năm 1946 tại làng Hoà Tú (Sốc Trăng), nên nay chỉ ghi chép lại theo trí nhớ và không ghi được chi tiết khoa học về năm tháng xảy ra cùng tên tuổi người đương sự, hay người quan hệ. Xin độc giả lượng thứ. Theo tôi định chừng thì việc nầy xảy ra sau khi Pháp khai chiến với Đức quốc và khoảng những năm có quân đội Phù tang để chân lên đất Đông Dương nầy. Lúc ấy lịnh của chưởng lý dạy canh phòng thật nghiêm ngặt các khám đường nhất là đối với tù trọng phạm v.v...
Cái khám đường hay ngục thất mà ngày nay nhắc đến tên đủ rợn tóc gáy là Khám lớn Sài Gòn, vị trí ở ngay Thư viện Quốc Gia đường Gia Long, mà oái ăm thay, người Pháp lúc đó không gọi là khám lại gọi là "nhà" và đặt tên là "Maison Centrale" để tránh tiếng Prison Centrale, mà chính họ cũng không muốn dùng tiếng prison vì nghe ghê rợn quá; duy dân ta lại quá nhàm và đặt là Khám lớn Sài Gòn, cũng không gọi đó là Đại Ngục thất hay Đại Khám đường chi cho rườm. Năm 1953 tôi có viếng và chụp hình được đầy đủ chi tiết để viết một thiên khảo cứu dày, nhưng hỏi ra tôi đành chịu thua, vì chánh phủ không muốn phanh phui những tài liệu của nhà nước như vậy. Trên từng lầu cao, không nhớ rõ từng thứ mấy, duy nhớ ngó mặc qua sở nhà hình, đường Nguyễn Trung Trực ngày nay, có một phòng lớn xây rất kiên cố, vách dày ba mươi phân Tây (ba lớp gạch thứ 0,20 x 0,10 x 0,05), cửa làm bằng sắt, ống khoá cũng bằng một loại kim khí mà người làm, Ăng-lê và Hoa kỳ, tự hào là giũa không ăn, cưa không đứt, chánh hiệu là ống khoá Yale trứ danh. Phòng nầy dùng để giam cầm những người bị khép án tử hình và ngày như đêm vẫn khoá chân vào cùm sắt (trong Nam còn gọi là còng), và những còng nầy vẫn xỏ vào một gông sắt to bằng bắp tay, một đầu gông thì cháy cứng và một tấm sắt thật dày không rút còng ra được, còn đầu gông bên kia thì có khoét lỗ để đặt một ống khoá Yale thật to. Mỗi lần muốn đưa tù đi hầu toà hay đi một việc cần thiết như hỏi cung, trình biện lý cuộc hay "cho ra chơi", mỗi tuần vài ba mươi phút, thì phải mở khoá rồi rút chân từng người như cá trong xâu gắp, lấy ra, xong rồi khoá chân lại trong cùm. Lâu ngày chân chai đi, chớ lúc đầu lở loét, sanh ghẻ, chảy máu chảy mủ đau đớn lắm. Nội cái cách làm tiền, cai ngục khoá chân tù vào còng rồi, rồi lại nắm chân giựt kéo thử xem có sút tuột ra không, nói đến cũng đủ lạnh mình và tục lệ "khám tối" nầy, là cứ mỗi phiên đúng bốn giờ đồng hồ thì có một "phiên canh", viên cai xếp mở khoá cửa phòng, vô xem xét lại coi cái khoá gông có còn y như cũ chăng, rồi mới trở ra khoá trái cửa sắt lớn và canh tuần bên ngoài cẩn mật, có thể nói là con ruồi cũng không thể bay vô ra thong thả chốn nầy nếu không có phép của viên cai ngục nầy. (Tôi nói cai ngục chớ chưa phải chúa, vì tôi dành chữ "chúa ngục" để gọi tên Agostini là đầu dọc của khám đường, chức gọi directeur de la Mai son Centrale; cũng chưa hẳn chúa ngục là gác-dan xếp, vì Agosiini là chủ, là chúa tất cả và oai hơn nhiều, nhưng nếu dịch "giám đốc khám đường” thì tựa hồ kém mất oai đi). Ấy vậy mà một đêm tối trời, mưa gió lu bù, vào một giờ khuya khoắt, các xếp cai ngục đang ngủ gục. Giữa lúc ấy (độ một hai giờ khuya), anh cai ngục Chà lai Việt tên là Simoni, có phận sự mở khoá phòng tử hình để vào trong xem xét ổ khoá của cái gông lớn. Vừa đúng lúc ấy, các tù bên trong đã núp chờ sẵn, bỗng tạt mạnh vào mắt mũi tên cai, ngục một mủng vừa chứa đầy nước mắm giằm ớt cay mà họ dành dụm từ nhiều ngày để chờ cơ hội nầy. Tên cai ngục bị ớt cay nước mắm mặn làm cho mở mắt không ra, thừa dịp ấy, mấy người tù nầy lấy áo quần làm dây trói tay chân tên cai ngục bỏ nằm đó, lục lưng thộp xâu chìa khoá và ùn ùn mở khoá cửa kéo nhau chạy ra ngoài, rồi cởi hết quần áo đánh làm dây thang, quăng móc được lên vách ngoài và mặc dầu miểng chai, miểng kiếng chơm chởm, nhưng bất kể kiếng cắt chai đâm, họ cũng liều chết leo ra trốn được không hơn mười người, về sau đều bị bắt lại đủ số, vì làm sao thoát được với cách đề phòng hết sức hoàn bị của Pháp, có điện ba dây, có chuông a-lẹt (báo động) và cách trấn binh phòng thủ năm ngăn, bảy nắp từ trong ra ngoài của cái Khám lớn Sài Gòn có tiếng là khó hạ, khó chiếm (imprenable) nầy? Khi bắt tù trốn về, quan chưởng lý ra lịnh điều tra và có mời một viên chuyên môn từ Pháp quốc qua, để nghiên cứu về kỹ thuật tại sao khoá Yale tuy tù không có khí cụ tinh xảo mà vẫn cắt đứt và trốn thoát được như vậy?
Hỏi: Mấy anh lấy gì để cắt gọng ống khoá nầy?
Đáp: Chúng tôi lén giấu miếng xi-măng rồi thừa dịp cai ngục trở ra, thì cắt.
Hỏi: Mấy anh cắt như vậy trong bao lâu thì gọng khoá đứt?
Đáp: Dạ, cắt trong tám giờ đồng hồ thì gọng khoá đứt lìa.
Hỏi: Tôi không tin, vì trong tám giờ có đến hai lần đi rỏn, đi tuần (faire une ronde), mấy anh làm sao để tránh mất cú vọ kinh nghiệm của gác-dan?
Đáp: Dạ thưa, dễ ợt! Gác-dan ra vô mãi hoá quen và khinh thường. Chúng tôi kinh nghiệm nào thua họ và cứ mỗi lần rỏn họ day lưng ra hoặc chúng tôi canh kỹ biết giờ họ sắp vào trong khám, thì trước đó chúng tôi dùng xà-bông dành dụm phát khi tắm khi giặt, lấy đó đắp lên trên chỗ cắt, màu đồng ổ khoá và màu vàng của xà-bông Mạc-xây vẫn tiệp y nhau, dẫu ông Trời hay Bao Công tái thế cũng không dễ gì khám phá.
Thế là cuộc điều tra kết thúc. Muốn cho hắc bạch phân minh, viên điều tra Pháp yêu cầu một ông quán ty đề hình xỏ chân vào cùm và còng lại, khoá lại bằng ổ khoá Yale và dạy ông cắt thử bằng miếng xi măng, quả nhiên tám giờ đồng hồ gọng khoá đứt lìa, tội nhân tử hình phạm tội gì chớ không phạm tội nói dối!
Để tỏ ra mình tài ba xuất chúng, viên điều tra Pháp, cử nhân khoa học kiêm cứ nhân luật, đích thân đến khám xem xét tại chỗ, sau đó gởi lên chưởng lý và thống đốc tờ phúc trình chê đè các viên chức giữ ngục cũ, hoặc vì dốt hoặc thiếu kinh nghiệm, hoặc vì lơ đễnh, đã "dâng cơm cho lục" nhè ổ khoá gông lại đặt trong phòng giam, khiến nên khi đi rỏn, thì người cai ngục vẫn ở trong tay tha giết của những tù nhân bên trong, đều là bọn bất trị hay liều mạng cùi.
Viên điều tra đưa ra sáng kiến mới mẻ trong phúc trình rằng: "Thay vì đặt đầu gông và ổ khoá bên trong, bây giờ tay hãy đục vách tường khoét một lỗ nhỏ cho vừa lọt đầu gông ra ngoài, rồi khoá cái ống khoá Yale bên ngoài vách. Như vậy tù nhân làm sao thò tay ra ngoài mà cắt ổ khoá được? Cố nhiên khi đi tuần, chỉ cần liếc xem ổ khoá còn y nguyên, thì biết tù bên trong vẫn còn đủ số. Trừ ra khi nào muốn giải toả đầu gông hay dẫn tù ra ngoài, khi ấy sẽ mở khoá, thụt đầu gông vào trong và khi ấy viên cai ngục sẽ đem lính gác có đủ súng ống theo vào trong, thì làm sao tù tạt hắt nước mắm và bắt trói được, như vậy phải lưỡng toàn kỳ mỹ chăng?”
Bản phúc trình nầy tôi thấy mới lạ, nên có sao chép định làm tài liệu để viết và thuật lại khi tuổi già, tiếc thay lúc ấy chạy giặc nơi làng Hoà Tú năm 1946, lúc lính Tây bố ráp, tôi bỏ lại trên giường, giữa đêm khuya và có một nhóm người đến hôi của, thấy bó giấy tưởng là giấy bạc, giành nhau, chừng biết đó là giấy vụn bọn người nầy thất vọng bèn đốt làm đèn rọi để soi kiếm đồ khác, nay tôi tiếc quá!
Nay nhắc lại viên đá khoét lỗ của khám lớn Sài Gòn, khiến tôi phải dài dòng thêm nữa. Số là buổi ấy là thời kỳ chiến tranh, bên châu Âu thì Tây đã thua Đức còn chờ ngày "Dứt chến", còn bên Đông Dương thì binh Nhật lan tràn hách dịch, người Pháp làm chuyện vá víu chờ thời cơ, cho nên mặc dù lời đề nghị kia có chỗ tuyệt diệu, nhưng khi đem ra thực hành, trong cơn cấp bách như lửa cháy nầy, khiến nên khi đục vách đem đầu gông ra ngoài, thay vì lựa một viên đá cho vuông vắn, người thợ hồ làm việc tạm bợ lấy có và đã chọn một đầu đá có chạy chỉ bất viền khéo léo, vì chung viên đá cổ nầy có khoét sẵn một lỗ tròn đúng ni tấc cho đầu gông sắt lọt qua; khi đặt vào tường, người thợ hồ sẽ lấy xi măng trám bằng phẳng và bít mất những lằn chỉ viền bên kia đi, thì cục đá cổ sẽ hoàn toàn như mới chỉ còn hai mặt liền trơn với vách.
Làm như vậy viên đá đã làm tròn phận sự và giữ được tù khỏi trốn. Nhưng đối với nhà kháo cổ gàn như tôi, tôi vẫn chưa bằng lòng. Số là khi có lịnh chánh phủ sai phá bỏ Khám lớn Sài Gòn, tôi là người có ý định sẵn cho nên tôi đã xin đem cục đá có khoét lỗ ấy về đặt tại sân giữa của Viện bảo tàng, vì tôi cho rằng đó là một viên đá lịch sử, di tích độc nhất của cái gọi là Khám lớn Sài Gòn. Năm trước đây, nhân một buổi hội hiệp bàn về văn hoá và về thư viện quốc gia, tôi có đề nghị ngay với ông bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, kiêm chủ tịch ban Văn hoá thời ấy, rằng nên dựng một cái bia bằng đá, nơi góc đường Gia Long và đường Công Lý, trước mặt tiền Thư viện Quốc Gia, rồi đặt viên đá Khám lớn có khoét lỗ nầy và ghi một đôi hàng chữ cắt nghĩa đó là di tích của một chỗ âm u tù đày "Khám lớn" mà ta đã biến thành một nơi sáng suốt chứa đựng văn hoá văn minh các nước, v.v... Lời đề nghị của tôi được ông N.L. Viên tán thành, và cục đá vẫn còn nằm chờ đợi “có chỗ dùng" nơi Viện bảo tàng; tiếc thay cho đến nay vật đâu nằm đó, cho đến tôi chết ắt không thấy cái bia kia, vì ông Mai Thọ Truyền đặc trách Văn hoá, vốn là đốc phủ sứ, sau làm thanh tra ngạch tài chánh, làm sao nghe một lời đề nghị vô duyên của một thơ ký quèn, bạn cũ mà thi rớt Huyện! Hôm nay tôi viết mấy hàng nầy thì ông đã nằm yên dưới mộ, tôi xin thần minh chứng giám, tôi vẫn giữ tình xưa như cũ, mến phục ông thì có mà không lòng nào kích bác một bạn cũ đồng trường tốt phước hơn tôi.
d) VIỆC GÌ XẢY RA SAU CUỘC TÙ TRỐN Ở KHÁM LỚN NĂM ẤY. ĐÓ LÀ VIỆC XỬ BẮN MƯỜI BA VỊ ANH HÙNG CHỐNG PHÁP.
Sau vụ tù trốn, tờ phúc trình của quan chường lý chạy lên thống đốc có kể vụ mười ba người phạm nhân phạm tội tử hình giam trong khám tối, mặc dầu cửa phòng mở và khoá gông bị phá, mười ba người nầy không vượt ngục. Và tại sao có cơ hội tốt mà không thèm lợi dụng? Ông thống đốc Rivoal, khi đọc tờ phúc trình, không dám tự mình định đoạt và lật đật sai sao chép y nguyên văn và gởi cấp tốc ra Hà Nội đãi lịnh quan toàn quyền. Lúc ấy đường hàng không sử dụng loại máy bay Potez rất chậm chạp, phải hai ngày mới bay từ Sài Gòn ra tới Hà Nội hoặc từ ấy trở về.
Tuy vậy máy bay Potez chỉ dành riêng cho toàn quyền Đờ Ku hoặc cho loại công văn cơ mật và thượng khẩn. Nhưng bộ hành muốn ra ngoài nớ còn có cách khác đi cũng mau lẹ không thua lại có phần vững chắc hơn Potez, đó là xe hoả tốc hành, nhưng xe hoả thì không oai bằng máy bay, dẫu tử mạng cũng cam. Về công văn muốn mau lẹ hơn nữa thì điện tín mật gởi theo mật mã, nhưng đó là chuyện khác. Khi ông Đờ Ku nhận được phúc trình của ông Rivoal, ngài ta khoái quá, nên điện vô cấp tốc, và ra chỉ thị "grâcié", tức "đặc xá phóng thích” mười ba người kia, và cho rằng đó là những người có can đảm phi thường, đáng được hưởng đặc ân đại xá, để mua chuộc lòng người trong buổi bấp bênh có kẻ ngoại bang (Nhựt) dòm ngó và cũng để trấn tĩnh những kẻ có lòng như vậy. (Đó cũng là kế sách thâm sâu của ông Đờ Ku nầy quyết ru ngủ dân trong xứ bằng những phương pháp bơm ngọt và dụ dỗ, cầm bằng dân ta ấu trĩ "nên cho kẹo ngọt hơn là dùng roi sắt để cai trị”).
Nhưng khi nhận được chỉ thị ấy, quan chưởng lý phúc đáp cho thống đốc rằng “chỉ dụ đặc xá ấy vô phương áp dụng” cho mười ba người nầy, lý do vì mỗi người đều mang đến hai án tử hình (duex fuis condamné à mort), nếu tha và ân xá một cái đầu thì còn phải làm cho rụng một cái đầu kia, và con người có một thủ cấp chứ không có đến hai!
Sau đó chưởng lý dạy dẫn dắt những người ấy ra cho ông điều tra vì sao có dịp thuận tiện như vậy mà không tẩu thoát, cao chạy xa bay? Cả thảy đều thản nhiên trả lời cụt ngủn rằng: "Một khi ra làm quốc sự là đã lựa cái chết để đền nợ nước, chạy trốn là phi anh hùng!".
Đã không được ân xá thì phải hành hình. Chiếu y quân luật, họ bị xử bắn. Bây giờ pháp trường thuộc vùng Gò Vấp hay Hóc Môn gì đó, chung qui thuộc tỉnh Gia Định. Lại nữa chuyện xảy ra đã quá lâu, tôi cũng không dám quả quyết xử lần trước sáu người lần sau bảy người, hay là lần trước bảy lần sau sáu, vậy kể như xử bắn mười ba người ấy làm hai tốp. Tốp thứ nhất chịu hành hình xong, ông Dufour, lại cũng ông Dufour, lúc nầy ông đã thôi làm chánh văn phòng nơi dinh Thống đốc Rivoal và về lãnh trong trách làm chủ tỉnh tỉnh Gia Định. Ông nầy vì cuộc xử hắn xảy ra trên địa phận ông cai trị nên ông đứng ra làm thị chứng cuộc hành hình, và trên biên bản nơi phần cước chú, ông ghi một câu vắn tắt: "Ils sont morts courageusement", tôi dịch là "Chúng nó chết một cách can đảm”. Và khi được tờ phúc trình về việc nầy, ngoài Hà Nội quan toàn quyền Đờ Ku gởi vào ông Thống đốc một công văn mật căn dặn nên khiển trách sơ ông chủ tỉnh Dufour và khuyên ông nên chọn danh từ đúng chỗ, không nên đề cao hay tự tuyên dương kẻ thù. Trong công văn cũng nhấn mạnh đó là nể tình ông Dufour là một quan cai trị có công cán nhiều nên không nỡ khiển trách nặng, miễn ông đừng tái phạm.
Quả nhiên, sau khi được chỉ thị, ông Rivoal có điện thoại mời ông Dufour ra dinh, và nên nhớ hai người đồng hàng tham biện hạng nhứt, duy ông Rivoal, tốt phước được làm thống đốc, bề trong hai người rất kính nể nhau, nên ông Rivoal, mời ông Dufour ra hai người nói chuyện qua loa trời mưa trời nắng rồi ông Rivoal đưa công văn của toàn quyền có chữ ký của Đờ Ku cho xem và không nói thêm lời nào. Kế hai người bắt tay thân mật và ông Dufour cáo từ lui về Gia Định.
Xẩn bẩn lại đến vụ hành hình kỳ nhì. Cũng ông Dufour thị sự, và phen này, trên tờ biên bản giống y như kỳ trước, ông ghi vỏn vẹn câu: "Ils sont morts trèm courageusement" (Chúng nó chết một cách rất can đảm!).
Thế là chuyến nầy ông Dufour tự khai pháo, nói cách khác, ông tự châm dầu vào lửa. Decoux không dùng công văn, và sau một thời gian ngắn, đích thân bay vào Nam, đòi ông Dufour vào phủ toàn quyền, "cạo sát nhíp" (theo lời ông Dufour thuật lại với ông Grange là phó văn phòng, bạn thân với nhau từ trước), muốn bị khép vào tội "chống đối” sau khi nghĩ tình đồng nghiệp cũ, cho huyền chức, tức khắc giao việc cho chủ tỉnh khác thay thế, và cho chờ một chuyến tàu trước nhứt, cho về hưu trí non, và phải viết tờ tự thú, để vào hồ sơ.
Với phận sự thâu nhận công văn mật, tôi có đọc tờ tự thú nầy, vắn tắt có mấy câu thật nhã mà cứng cỏi: "Tôi, Dufour, là cựu phi công trận giặc chống Đức, tôi có tứ đẳng bội tinh lãnh tại chiến trận đã từng bị thương tại trận tiền, vốn là một binh sĩ nên ăn ngay nói thật, không có tánh nói vẹo màu mè. Phàm kẻ địch chết dũng cảm thì tôi nói chúng nó chết can đảm; khi chúng hô to “Việt nam muôn năm” trước họng súng, tôi có phận sự phúc trình "Chúng nó chết một cách rất can đảm”. Nếu muốn đúng sự thật, đáng lẽ tôi phải ghi “Các lính sơn đá đều khiếp khi bắn, tức nhát sợ, nhứt là tên đội có lịnh bắn phát chót xá hồn (donner le coup de grâce), tên đội nầy hai lần run như cầy sấy, tôi lấy làm nhục cho quân đội Pháp, nhưng tôi không nói trong lúc phúc trình".
Tờ thú nhận nầy, tôi ghi vào sổ "mật" đánh đấu thứ tự rồi gởi vào trong, trình Thống đốc, nhưng không bao giờ thấy trở ra.
Lúc ông làm chủ tỉnh ở Rạch Giá, ông ra chợ thấy dân nghèo nheo nhóc, trẻ con trần truồng vô y vô khậu, ông chạy xe về dinh ôm tất cả áo quần của con ông đem ra chợ phân phát hết, bất chấp lúc ấy hàng khan, không dễ gì sắm lại. Sau cuộc đảo chánh và khi binh Pháp trở lại Đông Dương, lúc ấy tôi đã về hưu, bỗng tôi thấy dạng ông Dufour đi ngang nhà, số 31-33 đường Hai Bà Trưng, chợ Sốc Trăng. Khi đó tôi biết dư ông làm lớn, thanh tra chánh trị gì gì đó, nhưng tôi khép cửa bước vào trong. Tuy rằng chủ cũ năm xưa, và đây là người hùng, gặp người cũ ắt mừng lắm. Nhưng tôi cam phận gác ngoại vòng thoi, như vậy mà cũng chưa được yên thân. Cái kiếp con bò kéo xe, tôi chưa thoát, và năm 1947 phải ra đầu quân lại nơi Viện bảo tàng, thà ăn lương công nhựt hơn là cầu cạnh ông Dufour, lúc thấy ở Sốc Trăng.
Chưa hết chuyện. Còn lại mười ba cái thây ma, không biết đem về đâu, và chôn dập nơi đâu? Chầu xưa, Sài Gòn có hai đất thánh: đất thánh Tây là nghĩa địa đô thành như ngày nay, mặt tiền ở đường Phan Thanh Giản, cửa trổ ngay đường Mạc Đĩnh Chi, và một nghĩa địa thứ nhì, nay đã san bình địa cất nhà lên trên cho công chức nhỏ của đô thành ở, xưa có tên là đất thánh Chà và đó là nơi chôn vùi dân bản xứ và tội phân tử hình như đám phá Khám Lớn đời Phan Xích Long và Tư Mắt v.v... đất Thánh Chà ở phía sau nghĩa địa đô thành và day mặt tiền vào đường Hiền Vương, trổ cửa xéo xéo đường Phan Liêm.
Còn một thây ma nữa và là thây ma một người đàn bà, không tên không tuổi, và khi đem ra hành hình chỉ mang tên kín là "agent X" (mỗ viên). Nghe nói bà là người có học thức, đậu bằng brevet élémentaire hay brevet supérieur (văn bằng tiểu học hay cao tiểu) nhưng bỏ tất cả ra làm quốc sự, đã mấy lần bị bắt, sau rốt bị kêu án tử hình. Trước khi hành hình, người cha là một ông quan ở Huế, nghe nói chức to lắm, vào Sài Gòn nhờ luật sư xin được thấy mặt con. Luật sư Pháp làm đơn xin đến toàn quyền nhưng ông Đờ Ku bác đơn không cho cha thấy mặt con, mặc dầu chưởng lý gởi suông bức đơn của luật sư không chống cũng không chấp thuận. Sau khi thọ hình, người cha đau đớn nhờ luật sư thảo một bức đơn thứ nhì thống thiết xin lãnh xác con về chôn. Toàn quyền Đờ Ku lại bác nữa. Trong đám công văn mật, tôi ghi vào sổ một bức thơ của ông luật sư gởi ông toàn quyền xuyên qua thống đốc Nam Kỳ, đại khái tôi nhớ và thuật lại như sau:
"Thưa quan toàn quyền, tôi ký lên dưới đây, xin trả lại ông:
1) Một mề đai điều tứ đẳng bội tinh lãnh tại trận tiền do chiến công mà có;
2) Tôi trả luôn quốc tịch Pháp và bằng cựu thương binh trận giặc 1914-1918.
Tôi là con một nhà cách mạng. Ông cha tôi đã từng làm cách mạng năm 1789 để lật đổ một chế độ lỗi thời và chống lại những, bất công của xã hội.
Vừa rồi tôi thay mặt cho thân chủ tôi là một người Việt Nam, cựu quan lại triều đình Huế. Ông không thể nói vì lão quan nầy thiếu sự hy sinh cho Đế quốc Pháp của chúng ta. Thế mà ông khước đơn tôi ký xin cho người cha nầy được thấy mặt con là "mỗ viên" một lần chết, trước khi con bị hành hình, vì tội làm quốc sự chống Pháp. Trong việc nầy, tôi cam cúi đầu trước lịnh của ông, vì ông là người điều khiển xứ nầy, có một chánh sách của ông riêng mà tôi không hoàn toàn đồng ý. Và có lẽ ông nhìn nhận chống Pháp là quyền riêng của người kia, không chắc đó là tội, và trước tiên luật pháp dạy phải tôn trọng tư tưởng riêng của một cá nhân.
Nay mới đây ông lại từ khước cho thân chủ tôi lãnh về một cái thây ma sình thúi để chôn một mộ riêng, vì tình cha thương con.
Tôi hiểu: chống lại cảnh tương ngộ cuối cùng của một cha già và một nữ nhi sấp chết, đó là một sự bất nhân tàn nhẫn, vô lương tâm, một đấng quân tử không khi nào dùng đến phương sách hèn hạ ấy, nhưng có chỗ dung thứ nếu hiểu làm chánh trị, cai trị một thuộc địa, phải như vậy, tức không có cảm tình.
Đến như nay ông từ chối không cho lãnh một cái thây ma "vô dụng" để đem về chôn phần mộ riêng là một cách an ủi lòng già, ông ở xứ Á Đông nầy lâu ắt biết dư, như vậy văn minh chỗ nào, và văn minh của ông như vậy đó có chỗ gì hay hòng truyền bá nơi đây?
Tôi cho rằng việc ấy bất xứng với tư cách một con cháu của các nhà đã làm cách mạng năm 1789.
Bởi các lẽ trên, tôi trả lại ông những gì đã nói nơi trên v.v... và v.v...
Ông luật sư nầy là trạng sư Motais de Narbonne, tôi không nhớ sau đó có bị hành tội gì không duy nhớ về sau thấy tên ông trên báo Pháp và tên tuổi ông lẫy lừng.
Tôi không có ý đề cao ai, nhưng ông Dufour và ông Motais de Narbonne nên liệt vào hàng Tây tốt.
Về điển tại sao gọi hải đảo Trường Sa là Iles Itu Aba
Còn một giai thoại khác xin nói cho luôn cuộc kẻo quên, và để nhớ buổi nhàn hạ thời còn làm trên dinh Thống đốc hay Phó soái ở Sài Gòn: việc nầy có liên quan đến hải đảo Trường Sa. Đảo nầy tên riêng gọi là Itu Aba, và khi đánh điện tín mật mã từ Nam (Sài Gòn) ra đó thì đề trên dây thép: "Phước à Itu", tức khắc sở điện tín gởi ngay ra đó vì tên "Phước" là dấu hiệu riêng để gọi Thống đốc Nam Kỳ, cũng như khi có điện tín nhận được “Itu à Phước" thì nhà dây thép chánh biết ngay mà đem lại dâng cho dinh để dịch lại tiếng thông thường trình lên thượng cấp. Một hôm đến phiên tôi gác, gần Tết, lối hai mươi lăm hai mươi sáu tháng chạp ta, lon-ton đưa vô tôi một điện tín vàng mật mã, dịch ra thì hiểu các ông lính mã-tà ngoài ấy, vì bắt vít lấy trứng luộc ăn mãi ngán quá nuốt không vô, nên thừa dịp cận tết, gởi điện tín mật xin gởi ra cho họ: năm ba bộ bài tứ sắc để giải buồn, ít kí-lô lạp xường và ít kí-lô hạt dưa đỏ để cắn chơi, nhai chơi thì cũng hiểu được, duy sau rốt có mấy số dịch hoài mà vẫn vô nghĩa. Tôi đánh dây thép xin gởi cho số khác, vì e sở điện tín ghi lộn, nhưng trở đi trở lại cũng mấy số vô nghĩa cái gì mà: H comme Henri, Acomme Albert, M comme Maurice. Nên nhớ lúc ấy dùng toàn Pháp văn, nên ba số nầy dịch là H.A.M, tạm hiểu như vậy. Đến đoạn sau, cái gì mà: D comme Denis, Z comme Ulysse, ráp lại là Dzu.
Tôi bứt đầu bứt óc kêu trời, may sao ông đốc phủ Bá là xếp của tôi, ông thấy tôi sa lầy, lại tiếp và sau rốt cả hai mới hiểu họ thèm cá mặn phơi khô của tiệm chạp phô các chú bán: mà thay vì "cá mặn" họ viết "hàm dzu" - (đọc là hàm dũ theo trong Nam, tức hàm ngư là cá mặn rõ ràng. Rõ tôi bị tổ trác!)
Một chuyện chót. Lúc tôi lên làm tiếp trên dinh Toàn quyền hai tuần lễ ở Đà Lạt với ông Decoux tôi có hỏi một chuyên gia Pháp về mật mã vì sao đặt tên hải đảo Trường Sa là cù lao Itu Aba, ông nầy cười và nói bằng tiếng Việt. Khi trước lựa tên đặt theo mật hiệu, có một thằng Tây nhè lựa danh từ trớ trêu "Chị Tư Chị Ba" là tên của hai người bồi của nó vì nó đọc giọng Pháp Itu Aba mà thành danh luôn từ thuở". (Tài liệu nầy tôi không đảm bảo rằng đúng nhưng cũng phải chép ra đây để người thức giả nghiệm lại).

19: Việc gì xảy ra tại tỉnh Sốc Trăng trong năm 1945
Dẫn - Trong chương hồi ký nầy, tôi cố viết, theo tôi hiểu, về những việc xảy ra nơi tỉnh nhỏ quê hương yêu quí của tôi, tỉnh Sốc Trăng, sau khi Nhựt lật đổ chánh quyền Pháp tại khắp Đông Dương, bắt toàn quyền Decoux, và ra lịnh cho quân Nhựt tước đoạt quyền hành từng địa phương trong Nam Kỳ của chánh phủ đô hộ Pháp, cáo chung từ ngày 9-3-1945 và lọt về tay Nhựt dưới danh từ giải phóng cho người Việt cũng như bao nhiêu người Lào - Miên - Xiêm - Miến Điện với cái mộng bánh vẽ “Đại Đông Á”.
Tôi khuyên độc giả nên tìm đọc quyển “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 - 1954” của ký giả lão thành Nam Đình (Nguyễn Kỳ Nam), không bán, và dành riêng, do nhựt báo “Dân Chủ Mới” xuất bản năm Giáp Thìn (1964). Tôi nhìn nhận quyển Hồi ký ông Nguyễn Kỳ Nam nầy mới thật là tập sử liệu quí giá viết đúng phương pháp hồi ký vô tư và khách quan. Trái lại tập nhỏ hồi ký của tôi viết về Sốc Trăng, chẳng qua là những gì nghe thấy nông cạn của một đứa con sanh đẻ tại tỉnh nhỏ nầy và đã từng sống hơn mấy tháng làm nhân chứng bất đắc dĩ tại toà bố vì bị ép buộc hơn là tình nguyện. Nếu đôi khi tôi có nói nhiều về “thằng tôi” thì đó là vạn bất đắc dĩ, tình thật tôi không có ý đề cao cho tôi. Nếu vô tình tôi tự đề cao cá nhân, tôi dư biết chỉ làm cho chúng ghét, và cũng không ích gì trong tuổi gần đất xa trời nầy. Duy tôi thấy tình người thường ham đeo theo danh lợi và tình người thường quên rằng danh lợi tự dâng đến mình mới quí chớ thứ “hoạ phù thân đái”, trước sau gì cũng bị lộ tẩy và tự mình bị đào thải hay bêu xấu, lại càng thêm xấu. Khi viết tôi không cố ý, nhưng vì muốn giữ đúng sự thật, tôi vẫn kể tên lại, nếu không đúng sự thật, các nhân vật nầy có quyền cải chính.
Cho đến nay, tôi vẫn còn ngờ vực và không dám quả quyết cái mộng xây dựng “Đại Đông Á” của mấy ông Nhựt là thực hay giả? Một điều nên nhận là khi lật đổ chánh quyền Pháp từ Sài Gòn, Hà Nội đến các tỉnh trong xứ, mặc dầu lúc ấy binh Nhựt đã nếm mùi thất bại nơi nhiều chiến trận hải ngoại, nhưng trên cõi Đông Dương bắt đầu từ ngày 9-3-1945, Nhựt làm như toàn thắng và thật sự ra mặt thay thế mấy ông Tây và cai trị bằng các quan lại Việt Nam ở đâu ngồi đó, chớ tỉnh Sốc Trăng lúc ấy không có tin tức từ Sài Gòn đưa xuống, vẫn lùng tung lúng túng như người ở trong mùng giữa một đêm khuya đèn đuốc tắt từ lâu và chưa mồi lửa kịp. Xe thơ con đường liên tỉnh Cà Mau - Sài Gòn xuyên qua Sốc Trăng, Cần Thơ đã nghỉ chạy. Chánh phủ trung ương đã đổ, từ chín giờ đêm 9-3-1945. Một tài liệu đích xác tôi còn giữ được là bức điện tín mật mã dịch như sau:

“Pour Ke-An de Soctrang N.742 most 33 dépôt le 12-3-1945 à 18h15m Administrateur à délégués administratifs Kean-Longphu-Thanhtri. Au cas où circonstances (pluriel) m obligent (présent) (pluriel) quitter direction province, vous laisse (présent) libre agir selon votre consience”.
Dịch: “Gởi cho Kế-an, từ Sốc Trăng, Số hiệu 742; 33 tiếng, gởi 12-3-1945; 18h15. Tham biện chủ tỉnh gởi các chủ quận Kế an, Long Phú, Thạnh Trị. Nếu tình hình bắt buộc tôi rời chức vị cai trị tỉnh, tôi phó thác quí vị trọn quyền hành động theo như lương tâm”.
(Nên nhớ Sốc Trăng lúc ấy chia ra làm bốn quận, và riêng quận Châu Thành khỏi gọi điện tín mật mã, vì tham biện ra khẩu lịnh vừa gọn và rành rọt hơn).
Lúc nầy quyền hành chánh trong tỉnh như rắn mất đầu, nói cách khác, đã bỏ trống. Chủ tỉnh là ông Barthel, phó là Mahé, cò là Tolosano, đều kéo theo lính mã-tà, chạy về hướng Cà Mau. Barthel nghe đâu dắt một thơ ký độc thân chạy theo, và xui xẻo xách lầm va-li của bà, toàn y phục đầm. Anh thơ ký nầy sau thưởng công được thăng ngạch cò-mi, sau cải bổ làm đốc sự, khỏi thi.
Anh tên H.V.T. Bà Barthel chạy vô ẩn trong nhà trắng với các bà sơ, lấy lộn va-li chồng, toàn y phục đàn ông, nhưng miễn cưỡng dùng được, và lúc ấy vì nạn khan vải, dẫu chức tham biện cũng mặc quần sọt và áo sơ-mi tay ngắn.
Đến nay tôi cũng chưa rõ vì duyên cớ nào (hay vì sợ trách nhiệm?) lúc đó ông chủ quận Châu Thành, có quyền ưu tiên, lại không nhận lên cầm quyền thay thế chủ tỉnh Pháp, và nhượng cho quận Kế An lên ngồi làm tỉnh trưởng tạm thời.
Một tờ bố cáo được dán khắp châu thành, tôi gỡ cất, nguyên văn như sau:
BỐ CÁO
Cùng nhân dân tỉnh Sốc Trăng đặng rõ.
Hiện nay, chánh phủ Đại Nhựt Bổn đã giao cho các quan chức và thân hào An nam tổ chức việc cai trị trong tính Sốc Trăng.
Vì nòi giống, chủng tộc, vì muốn cho dân chúng được làm ăn yên ổn, cho nên chúng tôi chẳng nể tài sơ trí siển, gánh lấy sự cai trị trong tỉnh và do hội công đồng, ngày 14 tháng 3 năm 1945 (Tây lịch) nhằm mồng một tháng hai năm Ất Dậu, cử Uỷ ban ban cai trị sau đây.
Chánh hội trưởng: Võ Văn Đảnh, đốc phủ sứ
Phó hội trưởng: Đào Văn Hội, tri phủ
Quan chủ quận Châu Thành kiêm chánh sở cảnh sát: Ngô Văn Nghị, đốc phủ sứ
- Quan chánh toà  Trần Văn Tân
- Lục sự  Đoàn Bá Lộc
- Thanh tra các trường sơ đẳng  Nguyễn Văn Nghĩa
- Kho bạc  Huỳnh Văn Đạo
- Phó kho bạc  Lâm Văn Xử
- Hoạ đồ  Bùi Đình Quế
- Chủ sự Bưu điện  Huỳnh Văn Quế
- Kỹ sư dẫn thuỷ nhập điền  Nguyễn Ngọc Bích
- Trưởng tiền cầu cống  Đỗ Văn Trà
- Chánh sở Y tế  Nguyễn Văn Sang
- Chủ sự Thú y  Đỗ Hữu Khoán
- Chủ sự Mễ Cốc  Nguyễn Thành Hộ
- Kiểm soát tài chánh Trần Văn Trọng
- Hội trưởng hội sản xuất lúa gạo Ngô Thiên Xên
- Chủ sự Bách phần  Lưu Tấn Đạt
- Chủ sự Thương chánh  Cao Văn Thành
- Chủ quận Long Phú  Hồ Văn Xuân
- Chủ quận Thạnh Trị  Hồ Văn Sĩ
- Chủ quận Kế Sách  Huỳnh Vạng Thân
Chúng tôi xin nhân dân các sắc cứ vững lòng làn ăn như thường, đừng nao núng chi cả, thuế vụ phải đóng đủ, hãy tin cậy lấy Uỷ ban cai trị của chúng tôi, còn kẻ nào bất tuân luật pháp, ăn trộm, ăn cướp làm chợ đen mà bóc lột dân lương thiện vân vân thì sẽ bị trừng trị nghiêm khắc.
Sốc Trăng, ngày 15 tháng 3 năm 1945
Mồng hai tháng hai năm Ất Dậu
Hội trưởng Uỷ ban cai trị
Ký tên VÕ VĂN ĐẢNH
Những hàng gạch đậm là y nguyên văn. Tôi cũng cất giấu được bố cáo nầy nữa.
BỐ CÁO
Khẩn cấp cho các sắc dân rõ.
“Phàm dân trong toàn tỉnh ai phạm mấy điều kể sau đây sẽ bị nghiêm trị.
CHÁNH PHỦ NHẤT ĐỊNH CẤM:
1. Cờ bạc (lớn nhỏ cũng vậy)
2. Oa trữ hàng hoá, bất kể là loại nào. Phải khai liền với nhà cầm quyền.
3. Bán chợ đen và tăng giá những nhu cầu không có phép của Chánh phủ.
4. Phá rối việc trị an bằng cách: mưu loạn, phao truyền tin nghịch Chánh phủ Việt Nam hay là nhà binh Nhựt. Không hợp tác với nhà cầm quyền, phá đường giao thông.
5. Trộm cướp, và lợi dụng quyền hành.
6. Giữ súng trái phép. Lính kín, lính mã tà và lính tập của Pháp đã trốn, phải về nạp súng cho Chánh phủ, súng và đạn lượm được phải giao ngay cho quan quận sở tại.
7. Các đồ đạc và tiền bạc của người Pháp để lại. Ai có giũ đồ hoặc tiền bạc của người Pháp gởi phải khai với nhà cầm quyền và nộp tại Toà bô. Đồ của người Pháp cho và đồ của họ bán mà không có biên toa cũng phải nạp: ví như đồ ăn cắp hay là mua của kẻ cắp. Ai mua có giấy tờ thì phải trình toà và chỉ rõ món đồ mua cho nhà cầm quyền xét đoán, có thể mới được làm chủ đồ ấy.
Hương quản mỗi làng phải truyền rao cho dân làng mình rõ và hành sự ngay trong năm ngày sau khi dán bố cáo nầy tại các nhà việc, chợ và quận trong tỉnh.
VIỆT NAM VẠN TUẾ
Sốc Trăng ngày 26 tháng 3 năm 1945
Quan chánh chủ tỉnh,
VÕ VĂN ĐẢNH

Và sau đây là bản dịch tờ phúc trình của Tỉnh trưởng tạm thời tỉnh Sốc Trăng số 4 đề ngày 8-4- 1945 gởi lên Thống đốc Nam Kỳ (văn phòng) dịch y nguyên văn (có in tiếp sau bản dịch), tả rõ tình hình chánh trị, kinh tế và tài chánh trong khoảng thời gian xảy ra trong tỉnh từ ngày 10-3 đến 8-4 năm 1945:
Bản dịch.
Sốc Trăng ngày 8 tháng tư dương lịch 1945
Chủ tỉnh lâm thời hạt Sốc Trăng
Kính gởi quan Thống đốc Nam Kỳ (văn phòng)
SAIGON
Trích yếu: Về tình hình chánh trị, kinh tế và tài chánh của bổn hạt Sốc Trăng từ khoảng ngày 10 tháng ba đến ngày 8 tháng tư dương lịch năm 1945.
Tham chiếu: Tiếp theo điện tín công số 45 ngày 4-4-1945 của Tỉnh trưởng Cần Thơ chuyển giao bức điện tín công số 285 ngà 3-4-1945 của Thống đốc Nam Kỳ.
Tôi xin kính trình tường tận tình hình địa hạt Sốc Trăng trong khoảng thời gian từ ngày 10 tháng ba đến ngày 8 tháng tư đã qua. Về mặt chính trị , kinh tế cũng như về tài chính.
1) VỀ TÌNH HÌNH CHÁNH TRỊ: Những việc quan trọng xảy ra trong đêm 9 qua 10 tháng ba dương lịch dân chúng bổn hạt biết được nhờ nghe tin đài phát thanh.
Trong ngày 13 tháng 3, trừ những công chức quan lại Pháp và gia quyến họ, thì những nhân vật công chức này đã rời nhiệm sở chạy về hướng Bạc Liêu-Cà Mau.
Thầy biện Barthel, chánh tỉnh trưởng,
- Tham biện Mahé, phó tỉnh trưởng
- Thiếu uý Rabany, trong trại chỉ huy trại lính tập địa hạt.
- Hiến binh (sen đầm) Champion và Tolosano,
- Thanh tra mật thám Canalngio, kiêm nhiệm ban hành cảnh lưu động địa hạt
- Siccé, viên coi về lò nấu rượu Bãi Xàu.
Ngoài ra, những lính đầu tiên của đạo binh Nhật xuất hiện hiện tại Sốc Trăng vào sáng bẩng tưng ngày 14 tháng ba dương lịch. Trong này 14 ấy tuân lịnh vị tướng lãnh điều khiển đạo binh Nhựt đóng tại Sốc Trăng, một nhóm nhân hào nhân sĩ hiện diện tại Châu Thành, tề tựu ban đầu dưới quyền chủ toạ của viên tướng lãnh nầy tại dinh toà bố sở tại, sau di về trụ sở Câu lạc bộ Pháp Việt do ông Ngô Văn Nghị, đốc phủ sứ, chủ quận Châu Thành làm hội trưởng, chủ toạ.
Sau buổi hội hiệp nầy, một uỷ ban được đề cứ với tánh cách lâm thời, hầu tiếp tục việc điều khiển cai trị trong bổn hạt, trong khi chờ đợi chánh quyền trung ương chỉ định viên chủ tỉnh thiệt họ cũng như sẽ chỉ định các viên chức đầu sở khác trong tỉnh.
Ngày 17 tháng ba, có một người lang-sa tên là Fauvel, đến tạm trú tại lữ quán địa hạt, đã bị đạo binh Nhựt bắt vì tội xé rách một báo cáo Việt ngữ tuyên bố Việt Nam được độc lập.
20: Ngày 19 tháng ba, cả đoàn người Tây ở Sốc Trăng, bị dẫn giải về Cần Thơ.
Sau cuộc di tống nầy, một cuộc biểu tình bỗng xảy ra, thành phần gồm đông đủ sắc người, đa số là thanh niên Việt và rất đông nam phụ lão ấu từ châu thành đến vùng phụ cận hoặc từ những làng mạc xa xôi ở ngoại châu thành đồng kéo tớỉ tụ tập làm biểu tình. Nhơn cuộc đó, dân chúng bày tỏ ước vọng mong thấy Uỷ ban hành chánh loại khỏi thành phần ba uỷ viên kể ra sau: quí ông Ngô Văn Nghị, đốc phủ sứ, chủ quận kiêm cảnh sát trưởng châu thành. (Chức viên nầy bị dân chúng trách vì có thái độ lưng chừng khả nghi trong các biến cố vừa rồi). Đào Văn Hội, tri phủ, phó chủ tịch Uỷ ban hành chánh lâm thời. (Vị nầy bị dân chúng trách vì có cử chỉ thiếu minh bạch và vì tánh do dự trong các biến cố đã qua). Trần Văn Trọng thông phán ngạch chánh phủ, đã được Uỷ ban phó thác quyền kiểm soát các cơ quan tài chánh trong tỉnh. (Vị nầy nguyên là tri phủ nhưng đã bị giáng chức hồi trào Pétain, cải bổ qua ngạch thơ ký vì hồ sơ cá nhân tệ xấu. Phần đông dân chúng trách ông có hành vi bất ứng).
Cũng trong buổi biểu tình, những người tham dự có yêu cầu mong mỏi Uỷ ban mời một công chức đã về hưu tham gia, là ông Vương Hồng Sển, ngạch thông phán chánh phủ. Bởi thế, cùng một ngày, ông nầy được chúng tôi mời gia nhập Uỷ ban, hầu chia sớt trọng trách làm cho trôi chảy công việc trong tỉnh cùng các cơ quan sở tại, trong khi chờ đợi sự bổ nhiệm các trưởng ty thực thụ. Nhơn dịp nầy Uỷ ban đều đồng ý rằng một viên chức lão luyện, đã từng đảm đang nhiều cơ quan trọng yếu, vả lại còn trẻ trung, thêm ai ai cũng công nhận tánh liêm cần mẫn cán, biết xử sự hợp lẽ phải như ông ấy, thiết nghĩ lúc nầy không được dưỡng nhàn nữa và phải có bổn phận thi thố khả năng giúp ích trong tỉnh.
Như vậy, kể từ ngày 19-3 Uỷ ban hành chánh lâm thời bổn hạt đã sửa đổi như sau:
- Không còn trong Uỷ ban, quí ông:... đốc phủ sứ;... tri phủ;... thông phán: (Uỷ ban đã cấp cho mỗi vị nầy vì tình hình hiện tại: và do đơn họ yêu cầu, mỗi người một giấy phép được nghỉ việc ba tháng có thể được sung công trở lại nếu có chỉ thị của Chánh phủ đương quyền. Và chúng tôi xin đãi lịnh trên về các đương sự).
- Uỷ viên mời dự tuyển nhập có quí ông:
- Hồ Văn Xuân, tri phủ, chủ quận ở Long Phú. Cử kiêm nhiệm chức cảnh sát trưởng Châu Thành, quản đốc khám đường, luôn chủ quận Long Phú.
- Vương Hồng Sển, công chức về hưu - Cử làm phó Uỷ ban hành chánh lâm thời trong tỉnh, do ước vọng công chúng thêm do sự tán đồng của toàn thể Uỷ ban, cho rằng xứng đáng với trách nhiệm giao phó

Ngày 24-3, có cứ hành lễ truy điệu chí sĩ Phan Châu Trinh. Có hương án bày nơi công trường trong tỉnh, trên mấy trăm người tham dự. Có diễn văn nhắc lại sự tích nhà ái quốc nầy, và không có việc gì xảy ra trong buổi hành lễ.
Ngày 28-3, ông Satoh, phó thống đốc Thương chánh, có đến thanh tra sở thương chánh địa hạt. Ông nầy ra lịnh trả về ty bưu điện ông Cao Văn Thành trước đó được Uỷ ban hành chánh cử làm trưởng ty, và ông Odaka đã bổ nhiệm ông Nguyễn Đăng Định thay thế ông Thành, vào chức quyền trưởng ty thương chánh địa hạt.
Ngày 30-3, mặc dầu không có lịnh nào, nhiều tín đồ Cao Đài đã ngang nhiên chiếm cứ trụ sở ty Thương chánh ở Đại Ngãi và chiếm lữ quán băng-ga-lô Sốc Trăng. Nhưng qua ngày 4-4, những người nầy rút lui trả hai nơi nầy do ông Satoh phó thống đốc ra lệnh và có nhờ hiến binh Nhựt ở Cần Thơ can thiệp.

Cũng trong đêm 30-3, ngày tín đồ Cao Đài chiếm cứ băng-ga-lô vào lối 22 giờ. Không rõ vì sự thông đồng với người ngoài hay chỉ là sự lơ đễnh của gác-dan, có 83 tù nhân đánh cắp xâu chìa khoá của giám ngục và đã tẩu thoát khỏi khám đường địa hạt. Chúng tôi đang mở cuộc điều tra về những người có trách nhiệm về vụ tù nầy.
Tôi không có tự đề cao khi nhắc lại đoạn sử nhỏ của tỉnh Sốc Trăng, nơi chôn nhau cắt rún của tôi. Không bao lâu nữa tôi củng trở về với cát bụi, đề cao cho mình làm gì. Nửa đời lăn lóc, cố vật lộn mà mãi vẫn bị đè xuống dưới, tôi chịu thua, đã xin và đã được về hưu trí từ lâu. Vì một chút háo thắng, muốn thấy tận mắt tận mày buổi các quan thầy cũ, bị Nhựt lùa lên ca-mi-ông như cá mòi trong hộp thiếc, cái tội tôi quá tiểu nhân thiếu khoan hồng, đã làm tôi bị kẹt nặng. Tôi đang đứng nhìn xem mãn nhãn cảnh mấy ông Tây và mấy bà đầm rất quen, nay mặt mày méo xẹo đang gượng gạo leo lên xe ca-mi-ông một cách nặng nề, “một bước hoá mười lui”, vì đã trở nên tù bỉnh của quân đội Nhựt. Mới ngày nào, nhứt hô bá ứng, lên xe xuống ngựa, nay bị áp giải nghe nói về Cần Thơ để rồi trực chỉ lên Sài Gòn, tánh mạng như treo sợi chỉ mành, thiệt là “vinh hà nhục hà” trong nháy mắt! Còn gì hách xì xằng với anh thơ ký, nạt nộ chị bồi con bếp? Mụ Tây đoan và mụ vợ sen đầm, vốn là người quê mùa rẫy bái, nay tay dắt con thơ, vừa mếu vừa lau nước mắt không che giấu được nỗi buồn.
Duy mấy quan lang-sa, mới hôm qua hôm kia còn là chủ tỉnh quan toà, bây giờ nét ủ mày châu, sậm mặt như gà lôi sắp đem ra cắt tiết. Trong thâm tâm, tôi còn chút máu quân tử Tàu, tôi quên hết những việc cu họ đã làm, và đứng đây, tôi thấy xúc động và tội nghiệp giùm thân thế họ. Bỗng tôi nghe tiếng vang dội thanh niên kêu réo tên tôi, kẻ gọi “anh Hai” là gọi theo thứ tự của tôi, kẻ khác kêu “anh Tư” là gọi theo thứ tự bên vợ trước, tôi nghe những gì hoan hô rồi những gì là “cho vào uỷ ban cai trị” thét lỗ tai tôi nghe ù ù rồi không nghe chi nữa cả.
Tôi chưa vội nói ra đây cái vinh và cái nhục của sự được thanh niên hoan nghinh nầy. Cho hay muốn làm quan thì phải học cho giỏi và thi đậu cho cao, và cứ đường ngay nẻo thẳng mà đi, thì mới gọi là tốt phúc. Xin chớ mượn hơi cáo đội lốt hùm, làm quan theo buổi loạn ly, tự mình vẽ bùa mình đeo (hoạ phù thân đái), nó vô đoan (vô duyên) và xấu phúc làm sao? Tôi sẽ chừa vấn đề nầy lại đoạn sau sẽ dẫn giải. Nhưng sự việc xảy ra trong khoảng thời gian đầu tháng ba dương lịch 1945 không dễ dàng mà cũng không khô khan như dã tả trên đây. Sự thật các việc ấy oái ăm thúc giục và dồn dập đưa tới một cách gần như bất ngờ mà tuần tự ngoài xa sự dự định trước của những người đương cuộc và những người góp mặt. Lúc đó tôi có ghi chép vào nhựt ký, nay xin sao lục lại đây làm thiên ký sự nầy, hầu cô bác tỉnh Sốc Trăng có một tài liệu chắc chấn về những biến thiên buổi hỗn loạn tại tỉnh nhà trong năm 1945 ấy. Sau đó tôi sẽ lần lượt rút tỉa và đối chiếu so sánh với các tài liệu hoặc công văn chánh thức tôi còn giữ, hoạ may soi sáng được phần nào buổi đen tối Mars 1945 ở Sốc Trăng vậy.

Vương Hồng Sển 
Nguồn: http://vnthuquan.org/
Theo http://4phuong.net/







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...