Xuân Thiều lấy văn xuôi làm
nghiệp chính, nhưng thỉnh thoảng, như một đòi hỏi nội tâm không thể cưỡng nổi,
ông còn làm thơ. Năm 1973, ông cho in tập Trước giờ ra trận, và mới đây
vào năm 1998, tập Và nỗi nhớ của ông ra đời. “Với tôi, thơ là nỗi
nhớ”, ông giải thích lên tập thơ của mình như vậy. Và quả thật, thơ là mối
duyên đầu sâu đậm không thể phai mờ trong ông. Sau này, khi đã thật sự khẳng định
mình trong văn xuôi, “nỗi nhớ” không nguôi ấy đôi lúc lại vật vã trở mình... Đó
là lẽ thường tình! Cũng là thường tình Khi ta nhớ, mưa giăng mờ núi biếc... (Gửi
em). Tôi muốn nói tới chất thơ trong nhiều trang văn xuôi của Xuân Thiều –
chính nó góp thêm một nhân tố định hình phong cách riêng của ông.
Có điều kiện đọc những truyện
vừa và truyện dài của Xuân Thiều, tôi thấy chưa khi nào con người thi sĩ ẩn
trong con người văn sĩ của ông lại có dịp bộc lộ đến tận cùng như khi viết Thành
phố thấp thoáng. Phải chăng vì Đà Lạt – “thành phố sương mù”, “thành phố mộng
mơ”, là mạch chính của câu chuyện tình và là nền chung cho sự hiện hữu của các
nhân vật trong truyện?
Thành phố thấp thoáng kể
về mối tình éo le không thành của Bích và Trinh. Mối tình xứng đôi của họ nảy nở
trong dịp Bích cùng Trung đoàn 569 của mình tham gia chiến dịch chống di cư vào
Nam ở Nghệ An sau 1954. Họ yêu nhau tự nguyện và chân thành. Song do nhiều
nguyên nhân, khách quan có mà chủ quan cũng có, họ không thể nên vợ nên chồng.
Để rồi tại Đà Lạt 20 năm sau, họ gặp nhau trong sự ngỡ ngàng với bao kỷ niệm đẹp
đẽ mà đắng cay của mối tình thời trẻ. Lúc này Bích đã ly dị vợ, còn Trinh đã là
một góa phụ, vẫn giữ được vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm của người đàn bà bước vào tuổi
hồi xuân... Nhưng rồi họ không thể “tái hồi Kim Kiều” bởi như Bích nói: “Cái gì
chứ tình yêu đã để mất đi thì khó bề tìm lại được cho nguyên vẹn”.
Chuyện thì đơn giản chỉ vậy.
Có điều, vấn đề xã hội của truyện Thành phố thấp thoáng thì lại không
đơn giản chút nào. Xuân Thiều viết truyện vừa này vào những năm sau 1975. Cuộc
sống ngổn ngang bao điều, đòi hỏi phải giải quyết; cái mới và cái cũ cùng hiện
hữu, tranh chấp ở khắp mọi nơi. Thật âm thầm mà cũng thật quyết liệt. Bao điều
đang giã từ và bao điều đang manh nha theo quy luật tự nhiên của đời sống. Đúng
là một thời “thấp thoáng”...
Ngòi bút Xuân Thiều tập
trung khám phá bản chất của người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam – người chiến
thắng trong cuộc chiến lịch sử vừa kết thúc. Họ quả cảm, lẫm liệt là vậy, nhưng
tâm hồn họ cũng giàu có và tinh tế lắm. Cứ xem sự cảm nhận của họ trước thiên
nhiên Đà Lạt cũng đủ rõ. Và ở đây, chất thơ của truyện có cơ sở phát lộ như thứ
sương mờ mờ ảo ảo của Đà Lạt bao phủ lên nhiều chi tiết trọng yếu tạo nên sức
quyến rũ đặc biệt của Thành phố thấp thoáng.
Người ta gọi Đà Lạt là
“Thành phố hoa”. Không đâu trên đất nước ta lại có nhiều loài hoa, mà loài nào
cũng có vẻ đẹp riêng như ở đây. Sắc màu và hương thơm của hoa Đà Lạt lạ lắm, tự
nhiên lắm, cứ như đất ấy, trời ấy phải có hoa ấy vậy. Đây là những chùm hoa bướm
“lúc nào cũng rung rinh như chính chúng phát ra tiếng rì rào chứ không phải là
những đồi thông bắt gió ngoài xa” trong cảm giác của nhân vật người kể chuyện vốn
là một trung tá quân đội. Ông còn kinh ngạc trước một loài hoa có tên là Trạng
nguyên, chúng “cao bằng tầm đầu người, lá xòe đều, càng lên cao càng vén lại
thánh chòm, lạ nhất là cũng thứ lá màu xanh ấy nhưng đã trở nên đỏ thắm phía
trên chòm”. Ông nhận xét rất đúng rằng đó là “lá chứ không phải là hoa, nhưng gọi
là hoa cũng không sai”. Tôi, một người Đà Lạt, thật sự thích thú trước liên tưởng
sau của ông: “Hoa Trạng nguyên! Tuyệt thật! Cái tên gọi mới thông minh làm sao!
Nó mang hình tượng một con người đội vòng nguyệt quế đỏ thắm trên đầu. Nó còn
biểu thị một cái gì đó chỉ ở trên đỉnh cao rực rỡ”. Kể ra ở vùng núi phía Bắc đất
nước như ở Sơn La cũng có thứ cây – hoa loại này, không như nhân vật Xuân Thiều
từng nghĩ. Trong nhiều bài thơ của các chiến sĩ cách mạng từng bị giam cầm ở
đây có hình ảnh của nó nhưng với biểu tượng khác: “Nhạn lai hồng”, nghĩa là
loài chim nhạn trở về báo hiệu mùa xuân... Điều tôi muốn nói, ở Đà Lạt, phải
liên tưởng như tác giả mới là xác đáng. Cũng vậy, cảm giác của những người lính
cách mạng về loài hoa có thể xem là đặc trưng số 1 của Đà Lạt – hoa mimôsa.
Nhân vật của Xuân Thiều kể mà không quên biểu lộ cảm nghĩ của mình như các nhà
thơ từng làm : “Ngoài đó là một hàng cây “mimôda” gợi cho tôi có cảm giác
mơ màng, cảm giác bắt gặp những cặp mắt buồn, tư lự”. Có lẽ ý thức được cái
riêng biệt Đà Lạt của loài hoa này nên nhà văn còn nối dài cảm nghĩ qua nhân vật
Bích: “Khi tôi bảo hàng cây “mimôda” là cặp mắt buồn tư lự thì anh gật đầu và
nói thêm rằng cái cảm giác kia là do từ màu lá cây, đấy là màu sương. Sương bao
giờ cũng gợi cái mơ màng ẩn hiện nửa hư nửa thực. Và nếu cây “mi môda” kia
không phải là ở Đà Lạt sương mù để hòa với nhau như sự phối âm trong âm nhạc,
mà đặt ở Huế, hoặc Hà Nội chẳng hạn, thì ta có cảm giác khác: cảm giác bắt gặp
một người ăn diện không hợp tuổi”. Phải thừa nhận sự tinh nhạy của lời nhận xét
này. Tôi còn muốn lưu ý đến cái lẽ đời thấm sâu trong câu nói ấy nữa. Thì ra,
người lính cách mạng không chối từ cái buồn, lại còn biết giá trị của những vẻ
đẹp ẩn chứa nỗi buồn ở bên trong. Xuân Thiều – nhà chính luận từng viết: “Có một
thời, chúng ta tưởng rằng chỉ có niềm vui, sự phấn chấn cùng với tiếng cười mới
làm cho con người đứng dậy được, vươn lên được. Sự liêm khiết ấy đã tước mất một
phần sức mạnh tình cảm con người” (Những giọng văn mới mẻ). Còn Xuân Thiều - nhà thơ? Tôi nhớ tới bài Vô đề 4 câu của ông:
Tôi buồn để biển buồn lây
Dã tràng xe cát hao gầy đêm
đêm
Bạc đầu con sóng không yên
Bạc đầu tôi ngẩng mặt lên
nhìn trời
Xin đừng tước đi cái quyền
được buồn một cách chính đáng nơi con người. Vả chăng, khi không tồn tại cái buồn,
nỗi bất hạnh thì liệu còn không phạm trù đối lập trong sự thống nhất với nó là
niềm vui và hạnh phúc? Gắn với nỗi buồn là sự cô đơn. Xin trở lại với Thành
phố thấp thoáng. Tôi vừa thích thú vừa ngỡ ngàng trước ý nghĩ hóm hỉnh của vị đại
tá nọ:
- Anh biết cái đất Đà Lạt
này không? Đấy là đất của thơ mộng, của tình yêu. Tôi ở Đà Lạt này lâu rồi, tôi
biết. Con người đến đất nay sợ nhất là cô đơn.
Tuy ở Đà Lạt chưa thật lâu,
mới gần 20 năm, nhưng tôi xin được xác nhận lời nói của ông. Người ta thường bảo
muốn ở Đà Lạt lâu phải có đôi. Ngay những cặp vợ chồng nếu có ý ly dị nhau cũng
khó. Được đôi ba bữa, lạnh qua, lẻ loi quá, tự nhiên lại về với nhau. Con người
sợ nỗi cô đơn như sợ chính sự lạnh lẽo...
Sự cảm nhận của Xuân Thiều đối
với Đà Lạt không dừng lại ở ban ngày, dẫu là một ngày đẹp trời. Nhà văn còn lưu
lại nhiều ấn tượng về Đà Lạt - ban đêm. Ông viết: “Đà Lạt về đêm thật ưa nhìn (Ôi!
Cứ như đang nhận xét một mỹ nhân nào đấy!). Những ngọn đèn xa gần cao thấp lẫn
vào những vì sao. Những vùng ánh sáng thấp thoáng sau rặng cây hoặc bất chợt hiện
ra dưới một thung lũng. Có nhiều mảng trời trắng mờ chẳng biết đấy là mặt hồ
hay sương trôi. Đường vắng vẻ trải ra dưới ánh điện cao áp gây cảm giác mình vừa
lạc vào thế giới huyền bí xa lạ nào”. Đọc những dòng này, chúng tôi – những người
Đà Lạt, cứ thấp thỏm một nỗi áy náy: mình đã phát hiện được những gì mới về Đà
Lạt để cho nghệ thuật được thăng hoa như bao nghệ sỹ từ nhiều vùng quê khác đến?
Món nợ tinh thần luôn thôi thúc những văn nghệ sĩ như tôi. Song, ngẫm cho đến
cùng, Đà Lạt đâu chỉ của riêng người Đà Lạt. Đó là mảnh “đất xanh” mà trời đã
dâng tặng cho người Việt đó mà!
Có lẽ Xuân Thiều ý thức rõ
được sứ mệnh nghệ sĩ – công dân nên ông không hề giới hạn bút lực của mình. Hãy
ghi lại thật nhiều, thật đúng, thật đủ như mong mỏi không cùng của lòng mình.
Và đây, Đà Lạt hiện lên trong mưa: “Cơn mưa lắc rắc, chúng tôi náu dưới mái
hiên hè phố. Chợt thấy những chiếc dù màu ẩn hiện đó đây, nhiều chiếc dù màu thấp
thoáng sau rặng thông”. Trong đoạn văn có mưa nhẹ và có những cánh dù màu ẩn hiện
giữa chập chùng thông xanh... Thiếu những cái đó, ấn tượng về Đà Lạt sao gọi là
đủ đầy! Thế rồi, cảm quan nghệ sĩ của tác giả phóng nhanh về phía trước với những
giả định sâu sắc mà cũng thật đáng phải suy ngẫm: “Nếu không còn đồi thông và
những chiếc dù màu thì thành phố này có nên gọi là Đà Lạt nữa không? Sẽ trở nên
kinh khủng nếu Đà Lạt trơ trụi như thành phố công nghiệp và cư dân ở đây chỉ
còn biết đội nón lá áo tơi...”. Mấy chục năm trời đã trôi qua, kể từ khi Xuân
Thiều đặt bút viết những dòng chữ này, giờ đây, có dịp nhìn lại, ta càng thấy
quý khả năng dự cảm của một người nghệ sĩ giàu tài năng và tấm lòng như ông.
Tất cả những cảm nhận đầy
thi vị của Xuân Thiều về Đà Lạt giúp người đọc thấy “khả năng nhận xét tinh tế
và tâm hồn đa cảm” không chỉ của Bích, và thật sự đánh tan đi cái định kiến cũ
không chỉ của nhân vật – người kể chuyện về những người chỉ huy quân sự “có vẻ
thiên về tư duy lô gich chính xác và thường khô cứng, thiếu nhạy cảm trong lĩnh
vực tình cảm”. Đó là cơ sở tồn tại của chất thơ đậm đà trong Thành phố thấp
thoáng. Đó còn là một đóng góp hiển nhiên của Xuân Thiều vào mảng văn chương viết
về thành phố Đà Lạt của chúng ta.
Phạm Quang Trung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét