‘Ý nghĩa cuộc đời là nhận biết’
Bồ Đề Đạt
Ma; Phật thứ 28 thuộc Thiền Phật giáo. Xưa nay không ai biết chính danh của
người. Rứa thì danh xưng Bồ Đề Đạt Ma có từ đâu? Dựa vào Phạn ngữ
(Sanscrit) để tìm thấy nguồn gốc của vị khai sáng Thiền phái: Bồ-đề (Bodhi)
là ánh sáng, hư không, đấng giác ngộ tồn hữu (lit, sans, one enlightened in
essence). Đạt-ma (Dharma) là đạo pháp hay còn gọi là định-niệm (Dhyana) một
hiện hữu tồn lưu (being, existence).Và; từ đó có tên là Bồ Đề Đạt Ma
(Bodhidharma). Thực ra; do phân tách ngôn từ hoặc phiên bản từ một cỗ ngữ để
trở thành tên Phật, hoặc có thể là Pháp danh hay Phật danh (Thích Bồ Đề Đạt
Ma). Tổ là người đạt tới một luân lý tối thượng, một trí tuệ siêu đẳng và
được gọi là tâm-như-phật toàn trí, toàn lực –A patriarch who has achieved
great moral, spirit wisdom and is a potential Buddha. Nhưng nhớ cho Phật ở
đây chủ trương Tự-tính (le soi/self) và Tự-ngã (atman/itself) là điều vô
minh, mê vọng đầu tiên của chúng ta. Nhận biết của Bồ Đề Đạt Ma là niệm, là
ý thức, là giác ngộ về quá trình diễn biến của hiện tại, quá khứ, vị lai là
một định luật nhân duyên, vượt lên tuyệt đối vô điều kiện; cho nên chi
vô-chấp là giải thoát, ngã-chấp là vô minh.Ý thức của Bồ Đề Đạt Ma là ý thức
phản tỉnh tư duy về sự vật là tri thức về lẽ Không (Sunyata) là Bát Nhã
(Prãjna) để đi tới Tính-Không trong Thiền Phật giáo. (Tính-Không đúng nghĩa
của nó nằm trong ‘Tứ-Cú’ nghĩa là Có, Không, lại Có Không mà chẳng lại Có
Không) Đó là luận đề mà Bồ Đề Đạt Ma muốn đem vào giáo lý của mình trong một
ý thức thức tỉnh như lẽ đạo là vậy.
Bồ Đề Đạt Ma là vị tổ sư đầu tiên của Thiền
phái –Bodhidharma: First Patriarch of Zen. Theo truyền thuyết Thiền: sư người
Thiên Trúc (Indian monk) râu tóc bù rối có tên là Bồ Đề Đạt Ma (ca.470-532)
vào khoảng đầu thế kỷ thứ 6; con thứ của vua Hương Chi (Brahmin) xứ Nam Vực
Thiên Trúc (Southern Indian). Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa như một người
khách lạ: nửa thực, nửa giả, nửa tỉnh, nửa say không phải là dáng dấp của một
đạo sĩ, bởi; tướng mạo, phong cách quái đản, đôi mắt trợn tròng như giận dữ,
râu tóc bù rối như người điên, thời đó gọi ngài là Bích-Nhãn-Hồ (Rợ mắt
xanh). Thế nhưng; ngài là đấng tuyệt thế, trí tuệ siêu đẳng; quyết tâm hoằng
dương và mở ra con đường đốn-ngộ trong việc tu… Xuất hiện vào một ngày đẹp
trời ở đất Phương Nam thuộc thành phố bến cảng Quảng Châu (Canton)
vào khoảng năm 520. Và; khởi hành từ đó xuống đông bắc để tới Nam Kinh
(Nankin) gần cửa khẩu dòng sông Giang Tử (Yangtze River).Vũ Đế (Wei) đời
nhà Lương (Liang Dynasty) là vị vua mộ đạo Phật.Sau những lần vấn đáp nổi
tiếng giữa sư và vua; mà trong câu chuyện chúa, tăng có vẻ bất đồng, bất
kính, bất tôn. Bồ Đề Đạt Ma lặng lẽ rời khỏi cung điện Vũ vương với thái độ
khoan dung, mỉm cười ra đi. Bồ Đề Đạt Ma quyết tâm hướng về miền bắc trung
tâm Phật giáo;người trú ở chùa Thiếu Lâm (Shao-Lin) trên ngọn Tung Sơn (Mt.
Sung) cho 9 năm tỉnh lự diện bích –for nine years of meditation staring at
a wall. Dâng hiến hết lòng vào con đường tỉnh lự, mang theo một số kinh kệ
có trước là những phẩm kinh được truyền thừa vào Trung Hoa. Về sau được tôn
vinh là cha đẻ Thiền phái của người Trung Hoa. Tỉnh lự; người Trung Hoa gọi
là ‘Ch’an’ hay còn gọi là ‘Ch’an Na’ (Thiền Na) một lối phát âm trẹo chữ của
Phạn ngữ (Sanskrit).
Bồ Đề Đạt Ma lôi cuốn vào những tư duy
trong sáng về Đạo (Taoism) là tôn giáo cổ ở Trung Hoa. Đạo (Tao) là nằm dưới
bóng của vũ trụ như nhiên (underlies all nature),trong những năm người tòng
sự tu học và được coi là bước đầu biên niên thuộc lịch sử, ghi lại những lời
rao giảng thành kinh, kệ; vượt qua hằng trăm năm sau, một dữ kiện đơn thuần
về phép thực hành tỉnh lự. Và; đời đã thần thánh hóa cuộc đời ngài như một
huyền thoại của Thiền Phật giáo; cũng có thể những lời nói vô hình nhưng hữu
hình, thâm hậu mà trở nên công-án (Konan)(?) Chưa một ai nói đến Tâm/Ch’an
mà có một âm vang gần gũi với người Hoa; dần dà thấm nhuần đạo lý của Bồ Đề
Đạt Ma và được tôn vinh là đấng sáng lập đầu tiên về phép tu Thiền và khai
mở ở Trung Hoa như một giáo phái: Thiền Phật giáo. Một tôn giáo không có
kinh điển.
Bồ Đề Đạt Ma là con người với một trí tuệ
tuyệt hảo, sáng ngời và soi rọi khắp vũ trụ. Bồ Đề Đạt Ma ước vọng
đưa giáo điều này vào trong tinh thần Phật giáo Đại thừa (Mahayana), một
tôn giáo đại chúng. Con người và thể cách của một nhà sư thế tục, chỉ mong
cầu đạo và gieo vào đó một hiện hữu thánh ý Phật (holiness). Bồ Đề Đạt Ma
thực hành phép tu chính niệm và một tâm thanh tịnh trong nghệ thuật tu tập
về Thiền. Ngài nhận ra được giá trị trung thực của những gì quan trọng
trong con đường tỉnh lự. Thấu triệt những gì trong và ngoài; nghệ thuật tu
học là đức hạnh tối thượng hơn cả mẫu thức vũ trụ giới –inside, outside he
was transpicuous, his virtures were more than a model to the world. Ngài vận
dụng trí tuệ để triệt hạ những gì chính thống đã làm hư hại đôi phần Phật
pháp. Sự cớ đó đã cấu thành cho một hành trình đi về Đông phương nơi chứa
chấp một tư duy sương mù và huyền ảo. Đó là điểm hẹn của Bồ Đề Đạt Ma.
Ra đi của Bồ Đề Đạt Ma là một ý niệm dứt
khoát, bởi; suy vi Phật giáo ở Ấn Độ vào thời ấy (khoảng 520). Đi là lối-về-của-ý
(Path) một tâm như thánh thiện vị tha để hoàn thành sứ mạng của một ‘đệ tử
Phật’ sứ mạng của tâm niệm chính pháp, hành trang bằng một tâm-thức; cái
Tâm chính yếu của con người, cái tâm-vô-trụ, hướng tới tâm-như-nhiên, tâm
vô-thức để kiến tánh (thành Phật) là hướng chỉ đạo của Thiền.
Thiền của Bồ Đề Đạt Ma là tâm phóng
khoáng không câu nệ, thiệt hơn; một giáo lý huyết mạch qui tụ trong Kinh
Lăng Già (Lankavatara Sutra). Có nhiều lối về của ý, nhưng nói gọn hơn chỉ
có hai lối. Một là ‘Nhập bởi Trí năng’ (Entrance by Reason) và mặc khác là
‘Nhập bởi Hành đạo’ (Entrance by Conduct).
Bước đầu cho lối về của ý là Nhập bởi Trí
năng, một diễn tả chính xác, nhận thức trong sáng, thấu triệt mọi sự vật. Lối
về của ý gần như là một hòa nhập giữa Phật giáo và Lão giáo, bởi; mỗi phẩm
kinh thường được dùng như truyền thừa đưa dẫn con người cho bước đầu vào tỉnh
lự và rồi đi tới cái vô văn tự (nonliterary) mà chỉ là trạng huống nhận thức
trong tất cả những gì có tính cách đối ngẫu (dualities).Mọi trạng huống đều
thuộc cảm thức nhận biết tự chính nó như một phần có từ thế giới đang sống;
mà tất thảy đã được xóa bỏ chỉ còn lại một tâm như nhiên mà thôi. Đấy là lời
biện minh cho đối tượng của Thiền.
Bước hai cho lối về của ý là Nhập bởi
Hành đạo; có nghĩa rằng chúng ta thực hiện một tinh thần Phật tính gần như
dựa vào kinh điển cổ để truyền dạy cho một kinh nghiệm thiện xảo và nghệ
thuật về Thiền. Để rồi chúng ta đạt đến một niềm tin như-nhiên đúng nghĩa; ấy
là một cách duy nhất và giống như một tri nhận hiện hữu –We then come to have
a deep faith in True Nature which is one and the same in all sentient
beings. Lý do đó không không có nghĩa là biện chứng cho một biểu lộ, một điều
không thể nghi hoặc hay lấy đó để chứng minh ở tự nó là thích đáng cho cái
vỏ bề ngoài của chiếc áo cà sa với một tư duy siêu lý để đánh bạt những tư
tưởng sai lầm (chưa hẳn kinh điển là thực chứng cho giáo điều). Trong khi
con người bỏ rơi sự sai lầm và ôm đầm vào sự thật cho một tư duy tầm thường.
Bồ Đề Đạt Ma thấu triệt lẽ tự nhiên , thấu triệt lẽ nhân duyên để đi tới một
tỉnh lự nguyên dạng thể hoặc tự vấn ở chính mình bằng đôi mắt không đóng lại
trước hư không ‘wall-gazing’. Người không dẫn chúng sinh đi vào những gì
văn vẻ, kinh điển, giáo điều mà hướng tới tính không . Răng rứa? là vì tính
không là một nhất thể của Tâm, cái tâm vô lượng đại bi, một giao thông trực
tiếp giữa con người và như nhiện để kiến tánh. Bồ Đề cho rằng trong cái sự
truyền thông vắng lặng đó là phép chính yếu tự nó; dẫu là gì trầm lắng
trong tỉnh lự là cao qúy hơn phải nói thành lời, một giải thoát để tới ‘tự
do’ từ những ý niệm khác biệt. Đó là những gì Bồ Đề Đạt Ma đòi hỏi
tĩnh lặng và không-hành-động –Bodhidharma is serene and not-acting. Bồ Đề
đã cho một thách đố trong việc tu bằng kiểu thức sáng tạo về cái việc
‘pi-kuan/diện-bích/wall-gazing’ nhưng thực ra điều đó có nghĩa là dự đoán
do người đời nghĩ thế. Pi-kuan đôi khi được hiểu như một ẩn dụ (metaphor) dựa
trên dự tưởng ngầm để có một đối đầu của trí tuệ trước những rào cản gây ra
từ những hiểu biết. Chính những rào cản đó đưa người ta đạt tới giác ngộ. Một
nẻo về khác (hoặc Tao/Đạo) được miêu tả qua lối về ‘Nhập bởi Hành đạo
/Entrance by Conduct’ là lối cầu khấn viện dẫn nguồn cơn Phật giáo Ấn độ.
Miêu tả về ‘Hành/Conduct’ được chia ra bốn phẩm mà mỗi phẩm đều liên hệ lẫn
nhau là bao gồm tất cả có thể coi đó như thể loại tu tập cho những người tu
Phật. Rứa thì bốn phẩm đó là gì? Gồm có: 1- là làm sao thay vào lòng ghen
ghét (tức vị tha). 2- là tuân phục định mệnh nghiệp báo. 3- là không tham,
si. 4- hiện hữu trong nhất tâm với Pháp. Trong bốn phẩm trên người tu Thiền
phải rốt ráo, nhận thức qua trí năng, tiêu diệt uẩn khí đề có thanh khí cho
một tinh thần trong sáng; ấy là đạo tu, một đạo đòi hỏi cái tâm là chính yếu.
Vai trò của Thiền là lắng đọng để thấy được thân tâm đang đối diện trước
ngoại giới không chi phối nội giới; nội giới chính là tâm-như-nhiên không
vướng đục. Vì rứa mà có những vấn đáp cầu kỳ không để cho tâm động trước sự
vật, dù là sự vật không có thực. Tâm trong bóng của Thiền là thế đấy!
Thiền là tinh thần toa rập khoa Yoga Ấn Độ
và khoa Đạo Dẫn Trung Hoa. Khi đạo Phật tràn vào Phương Đông (vào khoảng đầu
kỷ nguyên) đã đưa triết lý của hai khí công để hoà hợp vào trong Thiền. Thiền
là trạng huống cực cao của ý thức, vì vậy mỗi khi nói tới Thiền tức
thời có Định là Thiền Định, một trạng thái trầm tư mặc tưởng để tinh thần
và thể xác lắng đọng, hoàn toàn tinh khiết không chút ô nhiễm, thể xác
không còn đọng lại (cảm giác) mà hồn phách chìm trong trạng thái thần hóa
(mystique). Giữa Thiền Định (Dhyana) và Tam Muội (Samadhi) là một hỗn hợp
trong thuật Yoga. Thiền định là trầm-tư. Tam muội là mặc-niệm nghĩa là hai
phép tu này không làm cho tri thức minh bạch về điều gì trong tinh thần để
phân tách thế này là thiền và thế kia là niệm; vì tất cả nội dung của hai
phép tu chứa ít nhiều chất liệu của ảo giác; đã thế thì làm gì có thế giới
ý niệm phản chiếu vào sự hiểu biết mà tập trung trong một ý thức thuần trực.
Rứa cho nên con người giữa vũ trụ này chỉ để lại mê muội trong cuộc đời, bởi;
mọi nơi, mọi chốn chúng ta nhận ra là bừng lên lòng ham muốn, tức còn dục,
thời còn bụi bám –Men of the world remain unawakened for life; everywhere
we find them bound by their craving and clinging. Điều này gọi là vướng tục,
mắc dính vào nhau. Vượt ra khỏi những trạng huống đó thời tất tâm ta thanh
tịnh đại hải, một cõi riêng tuyệt hảo. Những gì đã vận hành vào là những gì
ray rức đau khổ mà luôn luôn ý thức về những gì thuộc KHÔNG, bất luận những
gì thuộc hiện tượng luận mà trong những gì tìm thấy đều không được thỏa
lòng, không thích thú say mê…Trong kinh sách có nói: ‘Tất cả đau đớn xuất xứ
từ chỗ bám vào; niềm vui thực sự mọc lên từ chỗ cách xa không vướng tới’
(All sufferings spring from attachment; true joy arises from detachment).
Nhận biết một cách trong sáng là hạnh phúc riêng mình là sự thật của nẻo về
của ý của lẽ Đạo –To know clearly to bliss of detachment is truly to walk
on the Path of the Tao. Giáo pháp không có gì khác hơn Trí năng/Reason mà
đó là tính chất tinh lọc. Trí năng trong bóng là hình thức vô-thể của tất cả
mọi thể; là thoát tục từ mọi ô nhiễm, mọi hệ lụy và được biết về cái không
‘ngã’ và cũng không ‘phải ngã’ –It knows of neither ‘self’ nor ‘other’. Cái
sự cớ này nằm trong luật tắc của Hành đạo/Conduct. Đây là một hợp nhất của
ngã vị với thế giới bên ngoài. Bồ Đề Đạt Ma gọi đây là tâm-như-nhiên hoặc
là trí năng trong sáng/ pure reason. Theo biên niên ghi lại, có lẽ; Bồ Đề Đạt
Ma đến Trung Hoa vào năm 520, người ta cảm nhận và ngợi ca phép tu tỉnh lự
của ngài và coi danh nghĩa này như phép kinh mật-thể, cũng có thể đây là một
thức tỉnh và có một ý nghĩa tối thượng của Phật giáo Trung Hoa. Đấy là một
trong những thành quả thu nhận được trong sứ mệnh truyền giảng đạo pháp của
Bồ Đề; ngoài những gì mà ngài nhận ra được, một hình ảnh trong sáng và phản
chiếu. D.T. Suzuki tóm tắc về điều này: ‘Giữa lúc này không có gì đặc biệt
hơn Thiền trong giáo lý của ngài về Hai Nhập và Bốn-hành’ là pháp quyết định.
(While there was nothing specifically Zen in his doctrine of ‘Two Entrance
and Four Acts’) .
Phương thức ‘diện-bích/pi-kuan/wall-contemplation’
là phép tu tiên khởi do Bồ Đề Đạt Ma lập ra, vị tổ sư đầu tiên của Thiền Phật
giáo Trung Hoa. Suzuki lý giải về cái sự đối diện bức tường là đưa cái tâm
vào trạng huống vô lự, mà trong tỉnh lự đã chất chứa lý lẽ trí tuệ để đạt tới
một sự bừng dậy toàn diện –Suzuki interprets pi-kuan as referring to the
mind in a thoughtless state, in which meditation has permitted the rational
mind to be suppressed entirely. Tỉnh lự là mục đích đi tới để thấy được cái
tâm ở chính mình thay vì phải phát triển những gì thuộc về huyền ảo. Thiền-Na/Dhyana
vốn đã có trước đây, nhưng nay tìm thấy cái thâm hậu sâu sắc, một
phép tu mới đem đến cho Trung Hoa bởi Bồ Đề Đạt Ma. Và; từ đó lôi cuốn vô số
đệ tử tu học theo phương thức của ngài. Trong thời gian ở Trung Hoa Bồ Đề Đạt
Ma đã đối chất và ngẫu hứng trong lúc tu luyện; trong số đó có Huệ Khả
(Hui-K’o) (487-593) để lại những lời đối chất nổi tiếng như một giá trị chứng
thực trong phép tu Thiền của Bồ Đề Đạt Ma. Sự gặp gở giữa Huệ Khả và Bồ Đề
Đạt Ma là một tri nhận, bởi; thái độ giữa thầy trò là thái độ cùng cực,
thái độ của bế tắc trước tình huống; cái khó của hai tâm trạng không còn thấy
lối về của ý mà đang dẫm chân trên lối mòn (path) thế tục. Một nhận và một
khẩn cầu. Hoàn cảnh của tha nhân không vin vào sự tu mà vin vào giải thoát
đó là thách đố trên đường về của ý, của hạnh nguyện lợi tha. Huệ Khả không
đến để khẩn cầu hay tìm đến hiếu-tri của một hiền giả mà tìm đến của con
người tuyệt vọng cùng cực. Huệ Khả đến với tấm lòng vô hạn, một tâm như
thoát tục hoàn toàn đang còn vất vơ giữa trần đời. Huệ Khả đại diện cho tha
nhân như để ‘cứu chuộc’, kẻ đang đi trong đêm tối với ngạ qủy. Huệ Khả đứng
suốt đêm dưới tuyết, chặt tay chờ Bồ Đề Đạt Ma an tâm. Huệ Khả ngộ chứng
trong những câu vấn đáp ít ỏi đó mà chứa đựng cả một trời hư vô giữa thầy
và trò. Chúng ta không cần phải đòi hỏi, lý giải cầu kỳ mà chứng thực từ
câu chuyện huyền thoại đó để có một tri nhận qua tinh thần ‘tôn giáo’ Thiền.
Khi nhận ra được tức ngộ là giải thoát ở chính mình không cần nhờ tới Phật.
Cầu Phật ngay ở ta. Răng rứa? Vì; ‘đạo lý của Phật chỉ có thể cầu được là
sau khi trải qua sức tinh cần nhiều kiếp, chịu đựng những gì bức xúc nhất
và phải đương đầu trước hoàn cảnh chớ đem cái đức nhỏ nhen, kể lể với đầu
óc cạn cợt để cầu đạo vô thượng thì nhọc công và chẳng được gì cả’ (lời dạy
của Bồ Đề Đạt Ma) Thiền không vòng vo tam quốc. Rứa Thiền là cái gì? Là
phát hiện trở lại tự tánh, một tự tánh siêu việt đã phủ lấp bởi vọng niệm.
Rứa thì tu Thiền để làm gì? để thấy tâm thực, tâm như phật là lối về của ý
tức thực hiện được sự trở về. Về trong ý niệm nhân tâm. Rứa thì Thiền đo
cưa, đòi hỏi thì đâu còn gọi là tâm-nguyện (Ch’an)? Mục đích rốt ráo của
Thiền là Thức-Tỉnh. Trí tuệ thức tỉnh là nhận thức đúng về một thực tại
hóa thân (metamorphosis). Hóa thân là tội lỗi chất chứa (tham sân si, vọng
huyễn) trong mỗi con người. Ấy là điều phải vượt thoát để tìm lối về của
tâm-đại-bi (Mahakãruna). Thiền là dập tắt mọi vọng niệm, mọi hư ảo để đi tới
Không. Chính cái lý đó là thâm hậu của Thiền mà Bồ Đề Đạt Ma đề xuất qua lời
kinh rao giảng, truyền khẩu để đi vào thân tâm mà không qua kinh điển.
Trong kinh Tượng Đầu Tinh Xá của Tỳ Ni Đa Lưu Chi: “Tất cả là KHÔNG chỉ lấy
BÁT NHÃ làm nơi an trú”. Thực ra trong Thiền chẳng có gì nên mà cũng chẳng
có gì không nên. Ngay cả Ngũ Uẩn là trống không và Tứ Đại là giả hợp. Đó là
lý do tại sao Bồ Đề Đạt Ma chỉ có nói Không mà không nói Có. Vì Có, Không
là một mà chỉ kêu gọi Đạo/Tao (nhập vào Đạo của Trung Hoa) để có ‘tâm bình
thường’.
Đạo ở đây ngụ ý là vô-thức, tác động thường trực trong ý thức
chúng ta. Bình thường thì không có chấp trượt, chấp trượt là huyễn hóa. Thiền
cần có một tâm thanh tịnh, quán chiếu để giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp
chướng. Tối hậu của Thiền là thức tỉnh, là tuệ giác vô biên, lòng bi mẫn vô
hạn và năng lực là cứu cánh là phương tiện; ấy là mục đích của Thiền. Thiền
không nói nhiều, không văn tự mà chỉ cần niệm để mở ra con đường sáng tới
chân như. Tánh-không của Thiền nằm trong đó. Rứa thôi!
Để phù hợp với những huyền thoại khác
nhau về Bồ Đề Đạt Ma. Ngài chết vì trúng độc thọ 150 tuổi và được chôn cất
dưới chân núi Hồ Nam (Honan ) không bao lâu được đổi thành tên là Tung Sơn
(Mt. Sung). Có sách nói ngài đã hồi hương (Ấn Độ) mang theo nhiều phẩm
kinh. Có người lại gặp ngài trên núi Tung Sơn ăn vận cẩu thả, râu tóc trắng
phau đi chân trần, vát gậy trúc trên vai với đôi dép cỏ. Sau những năm
tháng vắng bóng, qua hằng thế kỷ người Trung Hoa cũng như những nước cận
Đông tu tập phép tu Thiền của Bồ Đề Đạt Ma như lẽ đạo. Sơn Dương (Sun Yun)
đệ tử của Bồ Đề tường thuật thêm rằng: trở lại viếng mộ thầy thấy người ta
đào mồ Bồ Đề Đạt Ma để biết thực hư chỉ thấy ở áo quan trống rỗng với đôi
giày vải… Rất nhiều câu chuyện kể về huyền thoại này. Đều tìm thấy câu trả
lời không thực vấn đề như đã nói; tợ nhau cả. Rứa thì làm răng? Có răng hay
không có răng như lời Bồ Đề nói: ‘Tất cả là Không/ Nothingness/ Néant’. Nếu
như Bồ Đề Đạt Ma không hiện hữu ở đời thì việc đó có thể là tối cần đối với
người sáng lập ra giáo phái này; dẫu là hư cấu (fiction) hay không hư cấu
(non-fiction), dẫu là huyền thoại hay lịch sử. Quan trọng là ta bước tới,
luyện tới, tu tới với một nhận biết về Thiền. Ấy là đạo vậy.
SÁCH ĐỌC: ‘Zen Experience’ by Thomas
Hoover. New American Library. New York. NY 100019 USA 1980.
TRANH VẼ: ‘Bồ Đề Đạt Ma/ Bodhidharma’ Khổ
10’ X 14’.
Trên giấy cứng. Acrylic+House-paint. Vcl#792015.
|
Theo http://www.vanchuongviet.org/
|
|
Tôi không biết phải giới thiệu như thế nào. Quyển sách mà các bạn sẽ đọc sau đây là tác phẩm vô cùng quý cho những người thành tâm tìm đạo. Không phải bằng sự tin tưởng, cầu nguyện, mà bằng sự sáng suốt. Kinh Bát Đại Nhân Giác có câu “ Duy Tuệ Thị Nghiệp ”. Như người đi đêm chỉ cần một ánh đèn là đũ. Nếu những lời hay, sách quý đúng vào mục đích nhất là mục đích cốt tủy của người tầm đạo thì thật là như một ngọn đèn sáng. Trân trọng giới thiệu với các bạn tác phẩm “ Ý Thức là Tất Cả ” của Peter Francis Dziuban do Ông Vũ Toàn biên dịch và gửi tặng. Đây là một quyển sách nói về Phật tánh ( Tánh Biết, Bản lai diện mục, Chơn Tâm…) do một tác giả Tây Phương viết với văn phong hiện đại. Một quyển sách chỉ trực tiếp cho hành giả thấy lại “ viên ngọc bỏ quên trong chéo áo của mình ”. Cảm nhận riêng tôi đây là một tác phẩm rất xuất sắc. Thật là một duyên lành, phước báu lớn cho người tìm đạo khi đọc quyển sách này. Cùng vài quyển sách Đạo khác. Nếu các bạn muốn, xin vào trang web chuabenhdongian.com và để lại email tôi sẽ gửi quyển sách này và vài quyển sách Đạo hay, đến các bạn
Trả lờiXóaTôi không biết phải giới thiệu như thế nào. Quyển sách mà các bạn sẽ đọc sau đây là tác phẩm vô cùng quý cho những người thành tâm tìm đạo. Không phải bằng sự tin tưởng, cầu nguyện, mà bằng sự sáng suốt. Kinh Bát Đại Nhân Giác có câu “ Duy Tuệ Thị Nghiệp ”. Như người đi đêm chỉ cần một ánh đèn là đũ. Nếu những lời hay, sách quý đúng vào mục đích nhất là mục đích cốt tủy của người tầm đạo thì thật là như một ngọn đèn sáng. Trân trọng giới thiệu với các bạn tác phẩm “ Ý Thức là Tất Cả ” của Peter Francis Dziuban do Ông Vũ Toàn biên dịch và gửi tặng. Đây là một quyển sách nói về Phật tánh ( Tánh Biết, Bản lai diện mục, Chơn Tâm…) do một tác giả Tây Phương viết với văn phong hiện đại. Một quyển sách chỉ trực tiếp cho hành giả thấy lại “ viên ngọc bỏ quên trong chéo áo của mình ”. Cảm nhận riêng tôi đây là một tác phẩm rất xuất sắc. Thật là một duyên lành, phước báu lớn cho người tìm đạo khi đọc quyển sách này. Cùng vài quyển sách Đạo khác. Nếu các bạn muốn, xin vào trang web chuabenhdongian.com và để lại email tôi sẽ gửi quyển sách này và vài quyển sách Đạo hay, đến các bạn
Trả lờiXóa