Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

Lóng lánh một hồn thơ

Lóng lánh một hồn thơ
Nhập vào thế giới thi ca mang tên Thu Nguyệt, ta dễ bị xoáy vào những vần thơ hướng nội, hoàn toàn hướng nội. Thế giới bên ngoài, nhất là đời sống thường nhật của con người, như dồn tụ về một hướng: “Vi vu trăm vạn nẻo đường/ Hụt chân bỗng rớt về phương trời mình”. Cứ tự nhiên lưu giữ trong chiều sâu trí nhớ của người đọc những câu thơ như:
Ta mang chút phận đèo bòng
Đau giùm, khóc hộ mênh mông đất trời
Hay:
Chiều buồn báo hiệu không đêm
Ta cùng thức trắng làm tim đất trời
Chừng như, mọi nỗi đời, nỗi người đều được cảm nhận qua trái tim mẫn cảm ấy, để kết lại thành một cõi thơ vừa gần vừa xa, vừa thật vừa hư, cứ hút ta vào như không thể nào cưỡng nổi. Đó là khối trữ tình cá thể nguyên chất tạo ra vẻ đẹp riêng, làm nên đóng góp riêng của Thu Nguyệt. Tất cả điều đó đều xác đáng, tôi không có ý hoài nghi. Chỉ xin bạn đọc cùng hướng tới chiều kích khác của thơ chị, còn ít người để ý, nhưng chính nó làm nên chất công dân quý giá mà bất kỳ nhà thơ có ý thức xã hội nào cũng đều khao khát bồi đắp.
Còn nhớ, một lần, Thu Nguyệt từ trong thành phố ra rừng ngồi chơi. Như nhiều người khác, chị đã chụp ảnh để lưu lại tâm hình của mình trong những giây phút thật hiếm hoi, khi mà: Nắng như tơ vuột khỏi trời / Quấn trong bóng lá vàng rơi nhẹ nhàng. Thu Nguyệt tỏ ra ngạc nhiên đến sửng sốt trước vẻ:
Rất mộng mơ, bỗng hiên ngang
Mặt mày có nét đàng hoàng công dân
Nhiều người lấy làm lạ. Chính chị cũng cảm thấy lạ nữa là! Khi biết Thu Nguyệt vốn sinh ra và lớn lên từ Đồng Tháp Mười trù phú lắm mà cũng chìm nổi lắm, thì tôi không lấy làm lạ. Mỗi khi đặt chân lên vùng đất phương Nam thiêng liêng của Tổ quốc, câu thơ lòng nặng phù sa đi qua cồn bãi của chị như ngân lên trong lòng tôi. Cho nên, tự trong thẳm sâu của lòng mình, Thu Nguyệt như tự nhiên chọn lựa, và theo tôi, đây là sự chọn lựa đúng đắn. Ấy là bởi tình cảnh tương phản này:
Xếp vạn câu thơ kê nỗi buồn mình
Nỗi buồn chông chênh, nỗi buồn khô ráo
Anh chị em dầm chân trong lụt bão
Kê cuộc đời bằng nước mắt mồ hôi
Nếu ai có dịp chứng kiến cảnh miền Tây mùa nước nổi thì sẽ dễ dàng đồng cảm với nỗi niềm ấy của nhà thơ. May mắn thay, đã từ lâu rồi, nó đã trở thành nỗi niềm chung của các cây bút thơ trưởng thành từ miền đất này. Mọi nỗi buồn vui của họ đều như bắt nguồn từ những dòng kinh, miệt vườn thân thiết, từ những cánh sen, bông súng, mảng lục bình lặng lẽ trôi xuôi… Phép so sánh ngàn đời được Thu Nguyệt nhiều lần sử dựng mà chừng như vẫn tươi tắn, mới lạ:
Lòng như bông súng trắng phau
Nổi theo con nước lao xao gió đồng
Rồi:
Ta như sen súng giữa đồng
Ngắn dài theo nước mà bông vẫn đầy
Thật phù hợp, những phép đối sánh ấy! Hợp ý. Nhất là hợp tình – cái tình dâng tràn, cái tình sâu lắng. Cảnh vật nơi này không chấp nhận sự vô tâm, hờ hững:
Về thăm nhà như một người dưng
Buồn tay ngắt một chùm bông súng
Vô tâm để dật dờ thân cọng
Gốc rễ buồn âm cả đất đồng xa.
Thu Nguyệt không ưa lớn tiếng, mà thích thầm thì, rỉ rả. Mưa phùn thấm đất, kiểu thơ này đem lại hiệu quả riêng, lắm khi thảng thốt đến khó ngờ. Cần tĩnh tâm để lắng nghe chị thổ lộ. Nghe không phải bằng tai, mà bằng tâm, hơn thế bằng thần. Khi đó bao điều vi tế, lạ lẫm sẽ dần dần hiện ra…
Thế là đã rõ rồi, càng đọc thơ Thu Nguyệt, càng thấy tâm tình của chị tựa như tiếng nói không lời của trái tim lục bình quen thuộc lừng lững trôi ngàn đời trên dòng Cửu Long kia:
Chẳng vội vàng, em cứ nhẹ nhàng trôi
Thời gian đứng trên đầu con sóng
Nhìn đời bằng tim, em ngàn năm mơ mộng…
Nếu như bạn hãy còn chưa tin thì xin cùng tôi dừng lại lâu lâu một chút ở bài Dòng trôi tài tử. Có lẽ không một ai từng ngược xuôi trên những kinh rạch Đồng bằng mà lòng lại không vấn vương bởi những giọng ca, những cung đàn tài tử. Hai câu mở đầu bài thơ gợi bao điều:
Sợi khói bắc chiếc cầu qua sông
Lời hát vịn vào đưa ta về miền nhân nghĩa
Cầu ở đây là hoàn toàn ảo. Câu hát thì hư hư thật thật, như bao đời nay vốn vậy. Những chuyện Bá Nha – Tử Kỳ, Huyền Trân công chúa, những khúc Phượng cầu Hoàng, những lớp Nam ai… Riêng “miền nhân nghĩa” thì khác, là cuộc sống thật, là tâm tình thật. Vậy nên:
Nước xuôi dòng mà con sóng loay hoay
Tiếng đàn quấn vầng trăng đứng lại
Lục bình níu dừng con nước chảy
Ta mơ màng nghe rõ nhịp song loan
Tả cảnh ư?  Thật ra là diễn tình! Có phải bởi thế chăng mà những câu hát như con sóng cuộn trào, như ánh trăng lung linh, như lục bình líu ríu, khiến lòng người trôi nổi theo nhịp song loan. Đó là ngọn nguồn sâu xa của câu kết: “Con nước dâng lên, hạt phù sa lắng xuống”. Câu hát ở đây bay đi, nhưng lòng người thì như giọt phù sa kia lắng lại. Thêm nhiều, rất nhiều ràng buộc giữa ta với đất, với người.
Người viết nên những vần thơ chứa chan tình sông nước ấy, giờ phải rời xa sông nước, với bao cảnh trí thân thuộc gắn liền với sông nước. Chẳng phải nói, ta cũng có thể  hinh dung được tâm trạng của chị ra sao rồi! Có điều, rung động là một chuyện, chuyển sự rung động thành thơ, thành thơ hay, làm người khác cùng rung động như mình lại không dễ. Thu Nguyệt hơn một lần đã làm được. Không, phải nói là đã làm một cách thành công. Hãy cùng nghe chị giãi bày nỗi nhớ Nước:
Ơi mặt nước ơi! Ta gọi như say
Yêu dấu quá mà không ôm hết được
Ta tròn chớp hai giọt trong vào nước
Hòa lòng mình lòng nước ắp bao la
Tôi nghĩ, những câu thơ ấy sẽ còn lại giữa đời, một khi con người còn biết cách chấp nhận vẻ đẹp của sự sống. Bởi có sự sống nào không gắn bó, hơn thế không được khởi nguồn từ nước đâu! Tuy nhiên, những câu thơ dạng ấy, người khác cũng có thể làm được. Không hoàn toàn như thế thì cũng từa tựa như thế. Riêng bài thơ có tên là Nhớ nước thì chỉ có thể là sản phẩm của Thu Nguyệt. Khi “ra thành phố, xa đồng”, thì tâm tưởng nhân vật trữ tình thật lạ: “Buồn! đem thau nước ra soi bóng mình”. Rồi, liên tiếp, liên tiếp những đối sánh. Để giúp nhận ra sự khác biệt. Càng thấy khác biệt càng thắt ruột thắt  lòng:
Cũng bập bềnh cũng lung linh
Nhạt nhèo một mảnh vô tình như không
Chẳng bến bờ, chẳng đục trong
Mắt nhìn thấy bóng mà không có người
Hai câu kết nâng bài thơ lên bằng một sự bao quát lớn, có khả năng chạm khắc vào tâm tưởng người đọc:
Quê xa có kẻ đứng ngồi
Nhìn mưa nghe nước mắt rơi về nguồn
Người Đồng bằng! Vâng, đó chính là người Đồng bằng thứ thiệt, từ trong thẳm sâu hồn cốt. Thơ Thu Nguyệt như được chưng cất lên từ vùng đất ấy, từ truyền thống ấy. Vậy có gì là lạ khi phẩm chất công dân trong thơ chị lại đậm đà đến thế. Vậy nên, tôi xin được lấy câu thơ rút trong bài Tấm ảnh của chị để kết thúc bài viết của mình:
Đưa ra xa, để lại gần
Xoay ngang trở ngược trăm lần cũng… y!
Thu Nguyệt là vậy, rất nhiều lớp sóng khác nhau dập dồn trong thơ chị. Rồi cùng với năm tháng dần dà bồi đắp nên một hồn thơ lóng lánh như giọt nước trong lành giữa sông nước quê hương chị. Ai cũng biết rằng, chỉ dưới ánh sáng rạng ngời của mặt trời giọt nước kia mới thật sự tỏa sáng...
Đà lạt, 2005 -2007
Người sớm chạm vào thơ hay
Người đẹp Thái Nguyên Lưu Thị Bạch Liễu đến với Trại Sáng tác Nha Trang - Hè 2006 khá là ồn ã. Liễu nói nhiều, lời nào cũng như có cánh, lấp lánh trí tuệ. Em như một người từng trải, dám phán xét, lật tung tất cả. Mà có tuyệt không, lời nào của em dường như cũng ẩn cái lý riêng, càng ngẫm càng thấy thấm.
Ngày thường, có thể bảo Liễu thuộc loại những người đàn bà lắm điều, nhưng em lại viết ít và ngắn đến không thể ít hơn và ngắn hơn thế được nữa. Tôi đã đọc kỹ thơ Liễu, rồi buộc phải thừa nhận là em thuộc trong số ít những người sớm chạm vào thơ hay. Tôi mừng như bất ngờ chạm phải Thần Vệ nữ của Lò Ngân Sủn:
                  Cha mẹ sinh ra nàng
                  Đặt tên nàng là con gái
                  Nghệ thuật sinh ra nàng
                  Đặt tên nàng là “Thần Vệ nữ”…
Rồi có người sẽ bảo có lẽ tôi đã quá lời. Tôi không ngại. Chỉ ngại là không biết Liễu có đắm đuối với thơ cho đến tận cùng không? Nếu em dám đánh cược cuộc đời mình với canh bạc thi ca, tôi cả quyết là em sẽ thắng đậm. Ngay từ đầu kia, chứ không phải đợi đến canh bạc về chiều đâu!
Bằng chứng ư? Xin chỉ trưng ra hai bằng cớ tiêu biểu này thôi! Ấy là tôi sợ mình lại trở nên lắm lời như Liễu. Bằng cớ thứ nhất là về những đứa trẻ và đàn ông Xứ Mây:
Những đứa bé họ Nông lớn lên
Giúp cha gieo hạt bằng cách tung còn
Hoa cải theo nắng về ấm vàng chân cầu thang
Những người họ Nông
Mỗi bước đi chân cứng đá nềm
Vì đến từng đầu ngón chân đều có tình yêu em ấp ủ
Khổ thơ liền mạch vì ý thơ không đứt quãng: từ đứa bé họ Nông đến người họ Nông - chúng được diễn tả trong thế động lớn lên rồi sau này là chân cứng đá mềm. Đứa trẻ gắn với những hình ảnh lấp lửng ý nghĩa bởi hai phép ẩn dụ. Hay là ở chỗ lấp lửng ấy. Giúp cha gieo hạt bằng cách tung còn quả có gì thật sự mới lạ. Vừa thật vừa ảo. Viết hoa cải theo nắng về ấm vàng chân cầu thang, Liễu chịu ảnh hưởng rõ rệt những khúc tình ca dân dã. Cái đáng khen là nó hợp. Đáng khen hơn là Liễu nhận từ dân gian cái hồn vía là chính. Đúng như cách những cây bút già dặn tay nghề từng làm. Tôi thích những hình ảnh gắn với những người đàn ông họ Nông hơn. Bởi chúng đời hơn. Lý giải mỗi bước đi chân cứng đá mềm bằng đến từng đầu ngón chân đều có tình yêu em ấp ủ thì phải nói là chí tình. Thơ hay tôi nghĩ là ở khả năng lay động tình người, tình đời này. Có phải thế chăng?.
Bằng cớ thứ hai  là những người đàn bà Xứ Mây:
Người phụ nữ Dao tuổi cao dần đầu thấp dần
Suốt đời làm con ngựa thồ
Thuở nhỏ cõng em bằng địu cũ
Cõng con bằng địu hoa rực rỡ
Cõng măng
Cõng ngô
Người phụ nữ với tấm lưng còng và đôi bàn chân to
Rụt rè hơn đất
Chỉ con suối thấy trái tim họ trĩu xuống
Trọn đời địu một bóng đàn ông
Đó là bài Ở Cao Phong của Liễu. Xuyên suốt câu chữ là sự cảm thông đến tận cùng. Chỉ có người đàn bà mới viết nổi về người đàn bà ngập tràn cảm xúc đến vậy. Hơn thế, Liễu là người đàn bà biết làm thơ. Ý tôi muốn nói, em biết cách thể hiện nỗi cảm thông con người bằng nghệ thuật ngôn từ. Mà em không hề uốn éo lời như một nghệ sỹ xiếc. Em thổ lộ thật, và, thế mới đau. Không đau, không thật không thể viết nổi  những câu thơ thắt ruột thắt gan ấy. Cái lành mạnh của tình cảm được bảo hiểm bởi câu cuối: Chỉ con suối thấy trái tim họ trĩu xuống. Mọi cảm giác nặng nề hầu như tan biến đi đâu mất. Đọng lại chỉ còn là nỗi cảm phục. Trọn đời địu một bóng đàn ông -  Liễu đã nâng tấm tình thủy chung của người đàn bà vùng cao thành tấm gương sáng cho mọi người phụ nữ đích thực trên đời cùng soi. Liễu rõ ràng đã biết dừng lại ở chỗ cần dừng, biết nói cái điều mà thơ cần nói. Em đã làm chủ ngòi bút phiêu diêu của mình. Bản lĩnh của người làm thơ là ở đó chăng?
Thơ Liễu củng cố niềm tin này ở tôi: phải tìm đến thứ thi ca đích thực như tìm  một người tình đích thực. Tiếc là không ít người làm văn chương suốt cả một đời mà vẫn chưa tìm được cái đích thực của văn chương. Tấn bi kịch phải nói là quá chua chát. Họ chỉ ôm cái bóng mờ ảo không thực của văn chương thôi.
                                      Nha Trang, 15/6/2006
Phạm Quang Trung
Theo http://www.pqtrung.com/





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...