Nhập vào thế giới thi ca
mang tên Thu Nguyệt, ta dễ bị xoáy vào những vần thơ hướng nội, hoàn toàn hướng
nội. Thế giới bên ngoài, nhất là đời sống thường nhật của con người, như dồn tụ
về một hướng: “Vi vu trăm vạn nẻo đường/ Hụt chân bỗng rớt về phương trời
mình”. Cứ tự nhiên lưu giữ trong chiều sâu trí nhớ của người đọc những
câu thơ như:
Ta mang chút phận đèo bòng
Đau giùm, khóc hộ mênh mông
đất trời
Hay:
Chiều buồn báo hiệu không
đêm
Ta cùng thức trắng làm tim đất
trời
Chừng như, mọi nỗi đời, nỗi
người đều được cảm nhận qua trái tim mẫn cảm ấy, để kết lại thành một cõi
thơ vừa gần vừa xa, vừa thật vừa hư, cứ hút ta vào như không thể nào cưỡng
nổi. Đó là khối trữ tình cá thể nguyên chất tạo ra vẻ đẹp riêng, làm nên đóng
góp riêng của Thu Nguyệt. Tất cả điều đó đều xác đáng, tôi không có ý hoài
nghi. Chỉ xin bạn đọc cùng hướng tới chiều kích khác của thơ chị, còn ít người
để ý, nhưng chính nó làm nên chất công dân quý giá mà bất kỳ nhà thơ có ý thức
xã hội nào cũng đều khao khát bồi đắp.
Còn nhớ, một lần, Thu Nguyệt từ
trong thành phố ra rừng ngồi chơi. Như nhiều người khác, chị đã chụp ảnh để
lưu lại tâm hình của mình trong những giây phút thật hiếm hoi, khi mà: Nắng
như tơ vuột khỏi trời / Quấn trong bóng lá vàng rơi nhẹ nhàng. Thu Nguyệt
tỏ ra ngạc nhiên đến sửng sốt trước vẻ:
Rất mộng mơ, bỗng hiên ngang
Mặt mày có nét đàng hoàng
công dân
Nhiều người lấy làm lạ.
Chính chị cũng cảm thấy lạ nữa là! Khi biết Thu Nguyệt vốn sinh ra và lớn lên từ
Đồng Tháp Mười trù phú lắm mà cũng chìm nổi lắm, thì tôi không lấy làm lạ. Mỗi
khi đặt chân lên vùng đất phương Nam thiêng liêng của Tổ quốc, câu thơ lòng
nặng phù sa đi qua cồn bãi của chị như ngân lên trong lòng tôi. Cho nên, tự
trong thẳm sâu của lòng mình, Thu Nguyệt như tự nhiên chọn lựa, và theo tôi,
đây là sự chọn lựa đúng đắn. Ấy là bởi tình cảnh tương phản này:
Xếp vạn câu thơ kê nỗi buồn
mình
Nỗi buồn chông chênh, nỗi buồn
khô ráo
Anh chị em dầm chân trong lụt
bão
Nếu ai có dịp chứng kiến cảnh
miền Tây mùa nước nổi thì sẽ dễ dàng đồng cảm với nỗi niềm ấy của nhà thơ. May
mắn thay, đã từ lâu rồi, nó đã trở thành nỗi niềm chung của các cây bút thơ trưởng
thành từ miền đất này. Mọi nỗi buồn vui của họ đều như bắt nguồn từ những dòng
kinh, miệt vườn thân thiết, từ những cánh sen, bông súng, mảng lục bình lặng lẽ
trôi xuôi… Phép so sánh ngàn đời được Thu Nguyệt nhiều lần sử dựng mà chừng như
vẫn tươi tắn, mới lạ:
Lòng như bông súng trắng
phau
Nổi theo con nước lao xao
gió đồng
Rồi:
Ta như sen súng giữa đồng
Ngắn dài theo nước mà bông vẫn
đầy
Thật phù hợp, những phép đối
sánh ấy! Hợp ý. Nhất là hợp tình – cái tình dâng tràn, cái tình sâu lắng. Cảnh
vật nơi này không chấp nhận sự vô tâm, hờ hững:
Về thăm nhà như một người
dưng
Buồn tay ngắt một chùm bông
súng
Vô tâm để dật dờ thân cọng
Gốc rễ buồn âm cả đất đồng
xa.
Thu Nguyệt không ưa lớn tiếng,
mà thích thầm thì, rỉ rả. Mưa phùn thấm đất, kiểu thơ này đem lại hiệu
quả riêng, lắm khi thảng thốt đến khó ngờ. Cần tĩnh tâm để lắng nghe chị thổ lộ.
Nghe không phải bằng tai, mà bằng tâm, hơn thế bằng thần. Khi đó bao điều vi tế,
lạ lẫm sẽ dần dần hiện ra…
Thế là đã rõ rồi, càng đọc
thơ Thu Nguyệt, càng thấy tâm tình của chị tựa như tiếng nói không lời của trái
tim lục bình quen thuộc lừng lững trôi ngàn đời trên dòng Cửu Long
kia:
Chẳng vội vàng, em cứ nhẹ
nhàng trôi
Thời gian đứng trên đầu con
sóng
Nhìn đời bằng tim, em ngàn
năm mơ mộng…
Nếu như bạn hãy còn chưa
tin thì xin cùng tôi dừng lại lâu lâu một chút ở bài Dòng trôi tài tử. Có
lẽ không một ai từng ngược xuôi trên những kinh rạch Đồng bằng mà lòng lại
không vấn vương bởi những giọng ca, những cung đàn tài tử. Hai câu mở đầu bài
thơ gợi bao điều:
Sợi khói bắc chiếc cầu qua
sông
Lời hát vịn vào đưa ta về miền
nhân nghĩa
Cầu ở đây là hoàn toàn ảo.
Câu hát thì hư hư thật thật, như bao đời nay vốn vậy. Những chuyện Bá Nha
– Tử Kỳ, Huyền Trân công chúa, những khúc Phượng cầu
Hoàng, những lớp Nam ai… Riêng “miền nhân nghĩa” thì
khác, là cuộc sống thật, là tâm tình thật. Vậy nên:
Nước xuôi dòng mà con sóng
loay hoay
Tiếng đàn quấn vầng trăng đứng
lại
Lục bình níu dừng con nước
chảy
Ta mơ màng nghe rõ nhịp song
loan
Tả cảnh ư? Thật
ra là diễn tình! Có phải bởi thế chăng mà những câu hát như con sóng cuộn
trào, như ánh trăng lung linh, như lục bình líu ríu, khiến lòng người trôi nổi
theo nhịp song loan. Đó là ngọn nguồn sâu xa của câu kết: “Con nước dâng
lên, hạt phù sa lắng xuống”. Câu hát ở đây bay đi, nhưng lòng người thì
như giọt phù sa kia lắng lại. Thêm nhiều, rất nhiều ràng buộc giữa ta với đất,
với người.
Người viết nên những vần thơ
chứa chan tình sông nước ấy, giờ phải rời xa sông nước, với bao cảnh trí thân
thuộc gắn liền với sông nước. Chẳng phải nói, ta cũng có thể hinh
dung được tâm trạng của chị ra sao rồi! Có điều, rung động là một chuyện, chuyển
sự rung động thành thơ, thành thơ hay, làm người khác cùng rung động như mình lại
không dễ. Thu Nguyệt hơn một lần đã làm được. Không, phải nói là đã làm một
cách thành công. Hãy cùng nghe chị giãi bày nỗi nhớ Nước:
Ơi mặt nước ơi! Ta gọi như
say
Yêu dấu quá mà không ôm hết
được
Ta tròn chớp hai giọt trong
vào nước
Hòa lòng mình lòng nước ắp
bao la
Tôi nghĩ, những câu thơ ấy sẽ
còn lại giữa đời, một khi con người còn biết cách chấp nhận vẻ đẹp của sự sống.
Bởi có sự sống nào không gắn bó, hơn thế không được khởi nguồn từ nước đâu!
Tuy nhiên, những câu thơ dạng ấy, người khác cũng có thể làm được. Không hoàn
toàn như thế thì cũng từa tựa như thế. Riêng bài thơ có tên là Nhớ nước thì
chỉ có thể là sản phẩm của Thu Nguyệt. Khi “ra thành phố, xa đồng”, thì
tâm tưởng nhân vật trữ tình thật lạ: “Buồn! đem thau nước ra soi bóng
mình”. Rồi, liên tiếp, liên tiếp những đối sánh. Để giúp nhận ra sự
khác biệt. Càng thấy khác biệt càng thắt ruột thắt lòng:
Cũng bập bềnh cũng lung linh
Nhạt nhèo một mảnh vô tình
như không
Chẳng bến bờ, chẳng đục
trong
Mắt nhìn thấy bóng mà không
có người
Hai câu kết nâng bài thơ lên
bằng một sự bao quát lớn, có khả năng chạm khắc vào tâm tưởng người đọc:
Quê xa có kẻ đứng ngồi
Nhìn mưa nghe nước mắt rơi về
nguồn
Người Đồng bằng! Vâng, đó
chính là người Đồng bằng thứ thiệt, từ trong thẳm sâu hồn cốt. Thơ Thu Nguyệt
như được chưng cất lên từ vùng đất ấy, từ truyền thống ấy. Vậy có gì là lạ khi
phẩm chất công dân trong thơ chị lại đậm đà đến thế. Vậy nên, tôi xin được lấy
câu thơ rút trong bài Tấm ảnh của chị để kết thúc bài viết của mình:
Đưa ra xa, để lại gần
Xoay ngang trở ngược trăm lần
cũng… y!
Thu Nguyệt là vậy, rất nhiều
lớp sóng khác nhau dập dồn trong thơ chị. Rồi cùng với năm tháng dần dà bồi
đắp nên một hồn thơ lóng lánh như giọt nước trong lành giữa sông nước quê
hương chị. Ai cũng biết rằng, chỉ dưới ánh sáng rạng ngời của mặt trời giọt nước
kia mới thật sự tỏa sáng...
Người sớm chạm vào thơ hay
Người đẹp Thái Nguyên Lưu Thị
Bạch Liễu đến với Trại Sáng tác Nha Trang - Hè 2006 khá là ồn ã. Liễu nói
nhiều, lời nào cũng như có cánh, lấp lánh trí tuệ. Em như một người từng trải,
dám phán xét, lật tung tất cả. Mà có tuyệt không, lời nào của em dường như cũng
ẩn cái lý riêng, càng ngẫm càng thấy thấm.
Ngày thường, có thể bảo Liễu
thuộc loại những người đàn bà lắm điều, nhưng em lại viết ít và ngắn đến không
thể ít hơn và ngắn hơn thế được nữa. Tôi đã đọc kỹ thơ Liễu, rồi buộc phải thừa
nhận là em thuộc trong số ít những người sớm chạm vào thơ hay. Tôi
mừng như bất ngờ chạm phải Thần Vệ nữ của Lò Ngân Sủn:
Cha mẹ sinh ra nàng
Đặt tên nàng là con gái
Nghệ thuật sinh ra nàng
Đặt tên nàng là “Thần Vệ nữ”…
Rồi có người sẽ bảo có lẽ
tôi đã quá lời. Tôi không ngại. Chỉ ngại là không biết Liễu có đắm đuối với thơ
cho đến tận cùng không? Nếu em dám đánh cược cuộc đời mình với canh bạc thi ca,
tôi cả quyết là em sẽ thắng đậm. Ngay từ đầu kia, chứ không phải đợi đến canh
bạc về chiều đâu!
Bằng chứng ư? Xin chỉ trưng
ra hai bằng cớ tiêu biểu này thôi! Ấy là tôi sợ mình lại trở nên lắm lời như Liễu. Bằng
cớ thứ nhất là về những đứa trẻ và đàn ông Xứ Mây:
Những đứa bé họ Nông lớn lên
Giúp cha gieo hạt bằng cách
tung còn
Hoa cải theo nắng về ấm vàng
chân cầu thang
Những người họ Nông
Mỗi bước đi chân cứng đá nềm
Vì đến từng đầu ngón chân đều
có tình yêu em ấp ủ
Khổ thơ liền mạch vì ý thơ
không đứt quãng: từ đứa bé họ Nông đến người họ Nông -
chúng được diễn tả trong thế động lớn lên rồi sau này là chân cứng
đá mềm. Đứa trẻ gắn với những hình ảnh lấp lửng ý nghĩa bởi hai phép ẩn dụ. Hay
là ở chỗ lấp lửng ấy. Giúp cha gieo hạt bằng cách tung còn quả có gì
thật sự mới lạ. Vừa thật vừa ảo. Viết hoa cải theo nắng về ấm vàng chân cầu thang, Liễu
chịu ảnh hưởng rõ rệt những khúc tình ca dân dã. Cái đáng khen là nó hợp. Đáng
khen hơn là Liễu nhận từ dân gian cái hồn vía là chính. Đúng như cách những cây
bút già dặn tay nghề từng làm. Tôi thích những hình ảnh gắn với những người đàn
ông họ Nông hơn. Bởi chúng đời hơn. Lý giải mỗi bước đi chân cứng đá mềm bằng đến
từng đầu ngón chân đều có tình yêu em ấp ủ thì phải nói là chí tình.
Thơ hay tôi nghĩ là ở khả năng lay động tình người, tình đời này. Có phải thế
chăng?.
Người phụ nữ Dao tuổi cao dần
đầu thấp dần
Suốt đời làm con ngựa thồ
Thuở nhỏ cõng em bằng địu cũ
Cõng con bằng địu hoa rực rỡ
Cõng măng
Cõng ngô
Người phụ nữ với tấm lưng
còng và đôi bàn chân to
Rụt rè hơn đất
Chỉ con suối thấy trái tim họ
trĩu xuống
Trọn đời địu một bóng đàn
ông
Đó là bài Ở Cao Phong của
Liễu. Xuyên suốt câu chữ là sự cảm thông đến tận cùng. Chỉ có người đàn bà mới
viết nổi về người đàn bà ngập tràn cảm xúc đến vậy. Hơn thế, Liễu là người đàn
bà biết làm thơ. Ý tôi muốn nói, em biết cách thể hiện nỗi cảm thông con người
bằng nghệ thuật ngôn từ. Mà em không hề uốn éo lời như một nghệ sỹ xiếc. Em thổ
lộ thật, và, thế mới đau. Không đau, không thật không thể viết nổi những
câu thơ thắt ruột thắt gan ấy. Cái lành mạnh của tình cảm được bảo hiểm bởi câu
cuối: Chỉ con suối thấy trái tim họ trĩu xuống. Mọi cảm giác nặng nề hầu
như tan biến đi đâu mất. Đọng lại chỉ còn là nỗi cảm phục. Trọn đời địu một
bóng đàn ông - Liễu đã nâng tấm tình thủy chung của người đàn bà
vùng cao thành tấm gương sáng cho mọi người phụ nữ đích thực trên đời cùng soi.
Liễu rõ ràng đã biết dừng lại ở chỗ cần dừng, biết nói cái điều mà thơ cần nói.
Em đã làm chủ ngòi bút phiêu diêu của mình. Bản lĩnh của người làm thơ là ở đó
chăng?
Thơ Liễu củng cố niềm tin
này ở tôi: phải tìm đến thứ thi ca đích thực như tìm một người tình đích
thực. Tiếc là không ít người làm văn chương suốt cả một đời mà vẫn chưa tìm được
cái đích thực của văn chương. Tấn bi kịch phải nói là quá chua chát. Họ chỉ ôm
cái bóng mờ ảo không thực của văn chương thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét