Chúng ta đều biết, không ai có thể phủ nhận được giá trị lịch
sử, giá trị nhân văn của nền âm nhạc dân tộc, bởi vì không có nó, dân tộc sẽ
không thể vượt qua khỏi đêm trường nghìn năm Bắc thuộc, không thể vượt qua những
khúc quanh cam go, khắc nghiệt của chiến tranh nối tiếp chiến tranh và lịch sử
dựng nước và giữ nước của dòng dõi Lạc Hồng. Đó là các làn điệu hát ru, hát đồng
dao, hát giao duyên, hát mừng nhà mới, mừng được mùa... của 54 dân tộc anh em
trên dải đất hình chữ S (Việt Nam). Đó là các giá trị quí hiếm của sân khấu
Tuồng, Chèo, Cải Lương, Ca Huế, các lối hát Cửa đình, Hầu văn, Quan họ, các
điệu Hò - Vè - Ví - Lý đặc sắc của mỗi vùng đất, đã tạo nên vẻ đẹp lấp lánh,
hun đúc nên hồn thiêng dân tộc. Đó chính là ý chí Việt Nam, tâm hồn Việt Nam
qua mọi thời đại, qua mọi thăng trầm mà vẫn giữ được cốt cách của chính dân tộc
mình.
Nói như vậy để thấy rằng: Trong xu thế toàn cầu hóa, hòa nhập và mở cửa hiện
nay, một mặt chúng ta có điều kiện giới thiệu bản sắc văn hóa nghệ thuật Việt
Nam với bạn bè thế giới, mặt khác, nhiều trào lưu tư tưởng nghệ thuật, nhiều
dòng âm nhạc tràn vào nước ta bằng nhiều hình thức, dưới mọi góc độ, và nhìn
chung, chất lượng audio - vidio đều tốt hơn chúng ta, giá thành lại hạ. Đây
chính là một thách thức với âm nhạc dân tộc và những người làm công tác âm nhạc
tâm huyết với di sản nghệ thuật của cha ông.
Vậy phải làm thế nào để gìn giữ vẻ đẹp của âm nhạc dân tộc trường tồn với thời
gian, đồng thời, vẫn tiếp thu được những tinh hoa của âm nhạc thế giới để làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Tất cả đều phải xem xét trên
góc độ hiện thực của đời sống hiện tại một cách chi tiết, cụ thể, ngõ hầu mới
mong tìm được một lối đi khả dĩ để dư luận và công chúng chấp nhận được.
2. Về đối tượng thưởng thức.
Phải nói rằng, đa số thanh thiếu niên - lực lượng thưởng thức đông đảo của xã
hội lại ít mặn mà với âm nhạc dân tộc, ngược lại, họ rất sành các bài hát tiếng
Anh của trong các trào lưu âm nhạc Rock - Jaz - Pop đang thịnh hành hiện nay.
Điều này cũng dễ hiểu, vì trong đời sống hiện đại, các giá trị truyền thống của
"Văn hóa Làng" ngày một rơi rụng theo sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ. Như vậy, nếu nhìn nhận một cách phiến diện, người ta dễ lầm
tưởng giá trị của đời sống hiện đại, tỷ lệ nghịch với các chuẩn mực văn hóa,
đạo đức truyền thống dân tộc. Bởi vì rất hiếm khi bắt gặp cảnh Mẹ hát ru con,
Bà hát ru cháu, lại càng khó tìm hơn những trò chơi diễn xướng dân gian, mà ở
đó, thanh niên nam nữ tìm hiểu nhau qua các làn điệu dân ca trữ tình, thâm
thúy của cha ông để nên duyên chồng vợ... Thậm chí, các thiếu phụ ngày nay
không biết hát ru (có người còn ru con bằng cassette), và như vậy, chính họ
đã đánh mất đi phần tâm hồn thiêng liêng nhất trong thiên chức làm mẹ của
mình.
Có phải vì âm nhạc dân tộc không hay, không hợp "gu" thời đại,
không phù hợp với tâm sinh lý tuổi trẻ, khó phổ cập trong đời sống hiện đại?
Hay vì thiếu một chính sách, một phương pháp khả thi?
Là những người làm công tác âm nhạc, chúng ta có quyền tự hào về vốn liếng âm
nhạc dân tộc mà cha ông chúng ta để lại. Vì ở đó có đầy đủ các chuẩn mực nghệ
thuật làm cho người nghe rung động, đầy đủ các thể loại cho từng lứa tuổi cảm
nhận, có tiếng nói riêng, đặc trưng riêng của ngôn ngữ âm nhạc dân tộc Việt
Nam đối với thế giới. Và các dân tộc khác sẽ hiểu Việt Nam một phần qua âm nhạc
dân tộc đầy bản sắc của chúng ta. Như vậy, âm nhạc là tiếng nói thiêng liêng
của giống nòi Lạc Việt, là sự sinh tồn, hưng thịnh của ngày mai. Vậy mà sao
thế hệ trẻ hôm nay lại ít thích, thậm chí có người còn không biết. Đây thực sự
là hồi chuông cảnh báo cho tương lai của nền âm nhạc dân tộc chúng ta. Sở dĩ
có thực trạng như vậy là vì sao?
- Thứ nhất: Chúng ta chưa nhất quán và triệt để trong các giáo trình và
phương pháp giảng dạy âm nhạc ở các trường phổ thông, các trường đạo tạo
chuyên nghiệp; Số giờ cho âm nhạc truyền thống còn ít, số lượng bài bản âm nhạc
dân tộc còn khập khiễng, chưa phù hợp.
- Thứ hai: Trên các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh, truyền
hình, báo viết... chúng ta truyền phát, đăng tải các bài hát mới, các ca khúc
tiếng Anh yêu thích (điều này rất cần), nhưng lại thiếu chương trình dạy các
bài bản dân ca hay và đặc sắc của Việt Nam, thiếu các chương trình truyền
thông, diễn giải về vẻ đẹp của âm nhạc truyền thống trên các phương diện như
cấu trúc hình thức, ca từ, hòa thanh, hòa tấu dàn nhạc, và các phương thức diễn
trình ca nhạc dân gian...
- Thứ ba: Chúng ta chưa thường xuyên khuyến khích các hoạt động văn hóa ở
làng, cùng các lễ hội, diễn xướng dân gian, là những nét đặc trưng văn hóa cội
nguồn, mà nhờ đó, dân tộc chúng ta mới tồn tại và phát triển.
3. Về đối tượng gìn giữ - bảo tồn.
Có thể nói từ đề cương văn hóa văn nghệ năm 1943, Đảng ta đã rất chú trọng đến
vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là từ khi đất nước
mở cửa trong chính sách đổi mới, các giá trị văn hóa dân tộc đặc biệt được
chú trọng dưới góc độ xã hội hóa, trong đó có âm nhạc.
- Trên phạm vi rộng, âm nhạc dân tộc vẫn được lưu giữ và phát triển
trong dân gian bằng các phương pháp truyền khẩu, truyền ngón, truyền nghề bởi
các nghệ nhân.
- Trên phạm vi hẹp, âm nhạc dân tộc được bảo tồn do các nghệ sĩ, diễn
viên chuyên nghiệp ở các đoàn ca múa nhạc dân tộc, các viện nghiên cứu, các
khoa âm nhạc truyền thống ở các Nhạc viện...
Tuy nhiên, công việc gìn giữ, bảo tồn âm nhạc dân tộc trong cơ chế thị trường
hiện nay là cực kỳ khó khăn, đặc biệt trên nhiều phương diện như trình độ
chuyên môn, sự tâm huyết, gắn bó với âm nhạc truyền thống và cuối cùng là vấn
đề kinh phí! Mặt khác, âm nhạc dân tộc chúng ta luôn luôn có tính dị bản, do
lưu truyền bằng phương thức truyền khẩu, truyền ngón, truyền nghề; bài bản,
làn điệu lại mang tính khuyết danh, do hình thức sáng tạo dân gian tạo nên,
không có tác giả, tác phẩm cụ thể. Mặt khác, lối ký tự âm nhạc dân tộc đến
nay vẫn chưa thống nhất và định hình (ghi theo chữ nhạc Hò - Xự - Xang - Xê -
Cống; hoặc ghi note theo kiểu phương tây). Hơn nữa, chúng ta chưa khai thác hết
khả năng của các nghệ nhân về các bài nhạc, bản đàn dân tộc, tuổi tác của các
nghệ nhân nay đều đã quá cao. Cái "kho tư liệu sống" đó, nếu chúng
ta không khai thác nhanh, khai thác khéo, sẽ là một thiệt thòi lớn cho nền âm
nhạc truyền thống Việt Nam.
Một thực trạng khác cũng không lấy gì làm phấn khởi, đó là các đoàn ca múa nhạc
truyền thống, cũng như sân khấu Tuồng - Chèo - Cải Lương - Ca kịch hàng năm vẫn
phải sống theo kinh phí bao cấp của các hội thi, hội diễn, còn doanh thu thì
có mấy người xem? Trong khi đó, để tìm được một kịch bản hay, tìm được một diễn
viên giỏi đâu có dễ dàng gì!.
4. Về đối tượng kế thừa - sáng tạo.
Đây chính là công việc của các nhạc sĩ sáng tác - lý luận và đào tạo, công bằng
mà nói, trong những năm qua đã có nhiều nhạc sỹ thực sự tâm huyết, trăn trở với
âm nhạc dân tộc. Trên lĩnh vực nghiên cứu âm nhạc dân gian phải kể đến các nhạc
sĩ: Tô Vũ, Lê Yên, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Thụy Loan, Tô Ngọc Thanh, Nguyễn
Thị Nhung, Dương Viết Á... Trên lĩnh vực sáng tác dựa trên cơ sở khai thác chất
liệu dân ca, dân vũ phải kể đến các nhạc sĩ: Nguyễn Cường, Ngô Quốc Tính, Đặng
Hữu Phúc, An Thuyên, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Tạo... Trên lĩnh vực đào tạo nhiều
giáo sư - nhạc sĩ đã đóng góp công sức, tài năng, tâm huyết cho tiếng nói của
âm nhạc dân tộc lắng đọng trong lớp lớp các thế hệ sinh viên. Và như tất cả
chúng ta đều biết, mọi sự tồn tại đều có quy luật vận động riêng và đặc thù của
nó. Đối với âm nhạc, một loại hình nghệ thuật trừu tượng nhưng hết sức cụ thể,
nó luôn luôn gợi mở trí tưởng tượng phong phú của con người, vì bản chất của
nghệ thuật âm nhạc là khi âm thanh vang lên đúng với cảm xúc và tâm thức dân
tộc, phù hợp với tần số rung động (nhận thức cảm tình) của từng người, thì
"cái hay" của âm nhạc đi thẳng vào trái tim con người mà không cần
qua khâu trung gian xúc tác (tính đặc thù của âm nhạc), lúc này, đối tượng
thưởng thức như đắm mình trong khoái cảm của nghệ thuật âm nhạc.
Chính vì vậy, thiên chức của những người kế thừa và sáng tạo âm nhạc dân tộc
là hết sức nặng nề, vì không làm tốt với tinh thần dân tộc cao cả thì vốn liếng
âm nhạc của cha ông sẽ mai một dần theo thời gian.
Trên thực tế cũng còn khá nhiều chuyện đáng buồn, chẳng hạn như dùng nhạc cho
phim truyện, phim truyền hình của chúng ta. Trớ trêu thay! Cảnh trong phim rõ
ràng là cảnh làng quê Việt Nam, nhân vật trong phim là người Việt một trăm phần
trăm, vậy mà âm nhạc vang lên lại không thấy âm nhạc dân tộc Việt Nam đâu cả,
cứ tây tây thế nào ấy, nghe không thủng!.
Hoặc một số nhạc sĩ sáng tác, một số nhà xuất bản băng đĩa nhạc chạy theo thị
hiếu thời thượng, sản xuất nhiều bài hát nghe đến "chóng mặt", một bài
cũng vậy, mười bài cũng thế, cứ na ná một "môđen", không thấy sự diệu
kỳ của âm nhạc đâu cả, không có hình tượng và cái thần thái của tác phẩm âm
nhạc. Và điều quan trọng là dường như họ đã quên đi rằng, mình đang đứng trên
nền văn hóa âm nhạc nào?
5. Về đối tượng quản lý văn hóa.
Đây là một hoạt động mang nặng tính chất hành chính nhà nước, và theo chúng
tôi đây là yếu tố cực kỳ quan trọng cho việc giữ gìn, phát huy vốn liếng âm
nhạc dân tộc trong đời sống hiện đại. Muốn vậy, những người làm công tác này,
ngoài hiểu biết chuyên môn cao còn phải nhanh nhậy trong tổ chức điều hành,
có những kiến nghị, giải pháp kịp thời, chính xác với các cấp lãnh đạo trong
việc bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc ở nhiều cấp độ khác nhau. Mặt khác,
quản lý văn hóa còn là chiếc cầu nối trong việc đẩy mạnh công tác xã hội hóa
giáo dục âm nhạc, một nhu cầu cấp bách trước thềm thế kỷ 21.
Trong những năm gần đây, nhà nước ta rất chú trọng việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc, trong đó có nghệ thuật âm nhạc mà biểu hiện rõ nhất là các liên hoan
hát ru toàn quốc, hội thi hát dân ca khu vực, hội diễn kịch hát dân tộc, hội
thi hát đồng dao, liên hoan ca nhạc "Búp sen hồng"...
Chính vì vậy, nhiệm vụ quản lý văn hóa là phải làm cho dòng chảy âm nhạc dân
tộc đi đúng hướng theo tinh thần nghị quyết của Đảng về văn hóa văn nghệ
trong thời kỳ đổi mới. Đó không những là chức năng, nhiệm vụ của những người
làm công tác quản lý văn hóa mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội, là ý thức
của cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc Việt Nam
trong đời sống hiện đại.
Huế, tháng 11 năm 2003 Nguyễn Việt Đức
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét