Chủ Nhật, 26 tháng 9, 2021

Làm thế nào để giết một tổng thống 2

Làm thế nào để giết một tổng thống 2

CHƯƠNG V
TỪ CHẾ ĐỘ
NGÔ ĐÌNH DIỆM ĐẾN CÁI CHẾT CỦA
ÔNG NGÔ ĐÌNH CẨN

Từ một thế kỷ nay và trên 25 năm qua, Việt Nam trở thành nghĩa địa của những cái chết tức tưởi, vô lý. Song cái chết của một Tổng Thống như ông Ngô Đình Diệm, tất nhiên không phải là một sự vô lý đơn giản như người ta nghĩ. Nó đã được sửa soạn tinh vi, vì làm thế nào để giết một ông Tổng Thống đã cầm quyền 9 năm không phải là một chuyện “tùy hứng”.
NGƯỜI EM ÚT
Quanh cái chết của Tổng Thống Diệm đầy dẫy những sự vô lý trên nông nổi bi thảm. Sau khi ông chết đi, lại còn bao nhiêu sự vô lý khác. Chữ vô lý ở đây xin được hiểu theo sự suy đoán trong bản chất và tinh thần Việt Nam vốn trọng tình cảm, sự trung hậu va lễ nghĩa.
Một trong những sự vô lý đó, là cái chết của ông Ngô Đình Cẩn. Người em thứ 5 của Tổng Thống Diệm. Cái chết này đã được công khai hợp pháp hóa vì ông Cẩn được ra Tòa xét xử. Nếu bị công tố viện gay gắt buộc tội thì cũng chả có gì gọi là vô lý. Khi đảo chánh bùng nổ, thì Tướng Đỗ Cao Trí đang là Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật. Ông Tướng này là người có thẩm quyền duy nhất tiếp thu toàn vẹn những gì có ở bên trong căn nhà tổ ấm của gia đình họ Ngô. Ông Cẩn tưởng đã thoát thân...dù tấm thân chỉ còn hai bàn tay trắng. Trong cuốn Vietnam Crisis, hai tác giả Stephen Pan và Dieaniel Lyons đã viết như sau: “Ông Cẩn lúc đầu tỵ nạn tại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Nhưng những người từng được ông giúp đỡ sợ rằng: Nếu chứa chấp ông, sẽ có thể bị các nhà lãnh đạo đảo chánh nghiêm trị nên ông Cẩn phải qua Tòa Lãnh Sự Mỹ tại Huế xin trú ẩn. Tòa Lãnh Sự này phải xin chỉ thị của Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn. Đại Sứ Henry Cabot Lodge trả lời rằng Tòa Lãnh Sự không được phép cho ông ta tỵ nạn, đồng thời ra lệnh phải đưa ngay ông Cẩn vào Tòa Đại Sứ. Nhưng khi ông Cẩn đến Sài Gòn Tòa Đại Sứ Mỹ liền trao ông Cẩn cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng xét xử. Theo nguồn tin có thẩm quyền mà hai tác giả được biết, Tòa Đại Sứ Mỹ đã hội ý với Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và buộc Hội Đồng phải cam kết 3 điều kiện thì Tòa Đại Sứ Mỹ mới dẫn độ:
1) Phải được xét xử minh bạch.
2) Không bị đối xử tàn nhẫn.
3) không bị bắn hoặc bị giết.
Stephen Pan và Dieaniel Lyons viết: “Trong tình cảnh lúc bấy giờ, nếu tin tưởng vào một cuộc xét xử minh bạch, công khai thì quả thật là ngây thơ. Mặc dù trong thời gian đó, ông Cẩn bị yếu nặng với những căn bệnh huyết áp cao và bệnh đái đường. Với cách đối xử rất tồi tệ lại thiếu thuốc men, săn sóc trong tù, ông Cẩn chắc chắn cũng sẽ không sống thêm được bao lâu.
Nhưng dù quá yếu đến nỗi không đứng nổi, ông ta vẫn bị cột gô vào cái trụ đứng, và bị bắn”. Stephen Pan và Dieaniel Lyons thắc mắc: “Người ta còn nhớ hồi tháng 8.1963 một nhà sư (...) đã lánh nạn trong Tòa Đại Sứ và được Cabot Lodge bảo vệ an toàn trong 9 tuần lễ, nghĩa là cho đến ngày hai anh em Ông Diệm bị giết. Hãy để cho lịch sử phán xét những việc mâu thuẫn như trên”.
Nếu ông cẩn bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đem ra xử bắn trước cuộc chỉnh lý của Tướng Khánh thì cũng có thể giải thích được. Nhưng ông Cẩn lại bị xử tử khi Tướng Khánh lên cầm quyền và Cabot Lodge vẫn còn tiếp tục làm Đại Sứ. Ông Lodge thường được coi như quan thầy uy quyền của Tướng Khánh. Mấy ngày sau cuộc chỉnh lý, người ta cho rằng có thể ông Cẩn được tha xuất ngoại. Vì dù sao Tướng Khánh cũng là một trong mấy người con tinh thần của Tổng Thống Diệm và Tướng Khánh đã trung thành với Tổng Thống Diệm cho đến phút cuối cùng khi Dinh Gia Long bị mất vào vào quân cách mạng. Chiều ngày 1.11.1963, Tướng Khánh từ Pleiku còn gọi điện thoại cho Tướng Cao ở Cần Thơ và hối thúc ông Cao đem quân về cứu Tổng Thống Diệm. Tướng Khánh cho biết không thể đem quân về được vì Quân Đoàn II quá xa...Tướng Cao tin cho Tướng Khánh rõ là Tướng Minh, Khiêm và các Đại Tá Đỗ Mậu, Nguyễn Đức Thắng hứa là bảo đảm tính mạng của Tổng Thống Diệm và Ông Nhu. Tướng Khánh trả lời: Không tin tụi nó được đâu...chúng nó nói vậy mà làm khác. Tướng Khánh vẫn giữ lòng trung thành cho đến phút chót. Thế nhưng...quyền lợi cá nhân và địa vị đã thay đổi lòng người.
Khi ông Cẩn bị đưa ra tòa, người ta vẫn tin rằng có thể ông chỉ bị xử qua loa. Khi bị kết án tử hình người ta vẫn tin ông Cẩn sẽ được Quốc Trưởng Dương Văn Minh chấp thuận đơn xin ân xá.
Cuối cùng vào một buổi chiều ánh nắng còn chan hòa, bệnh nhân tử tội Ngô Đình Cẩn được khiêng ra pháp trường trong vòng thành Khám Chí Hòa, tay bị trói chặt vào gốc cây cột giữa pháp trường và bị bắn gục trước sự chứng kiến của những người trước kia ra vào Dinh ông Cẩn thường khúm núm như gia nhân.
Đại Sứ Lodge là người đã buộc Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng phải cam kết không được xử bắn ông Cẩn. Khi ông Cẩn nhận từng loạt đạn, Lodge vẫn còn là một vị Đại Sứ Mỹ đầy uy quyền tại Việt Nam. Rồi có hai giả thiết nêu ra:
1- Ông Khánh làm như thế để chiều lòng những áp lực khác đang đè nặng lên ông.
2- Ông Khánh chủ chương thanh toán ông Ngô Đình Cẩn vì áp lực của những người từng ra vào luồn cúi dưới trướng “Cố Vấn Chỉ Đạo”...
3- Ông Khánh chủ chương thanh toán ông Ngô Đình Cẩn chỉ vì “vụ tài sản” của ông Cẩn mà ông Khánh đã được chia phần kể từ khi ông ra nhậm chức Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật thay thế Tướng Trí.
SÉT ĐÁNH NGANG ĐẦU
Sáng ngày 2.11.1963 tại tư thất ông Cẩn chuông điện thoại lại reo vang. Âm vang của hồi chuông thật rền rĩ réo rắt vào buổi sáng trong sương. Điện thoại gọi từ Đà Nẵng.
Đại Úy Minh nhấc máy lên nghe. Từ phía đầu giây bên kia, vẫn giọng Tướng Trí ngập ngừng, cắt quãng rời rạc. Lời Tướng Trí được ghi nhớ như sau: “Anh thông báo ngay cho ông Cậu biết, Sài Gòn vừa báo tin cho tôi hay là Tổng Thống và ông Cố Vấn đã tự tử chết rồi. Tôi không hiểu ra sao nữa...” Đại Úy Minh chân tay bủn rủn, ông có cảm tưởng như đang nghe điện thoại trong cơn mê của giấc ngủ say. Ông hỏi đi hỏi lại Tướng Trí hai ba lần. Tướng Trí xác nhận: “Sài Gòn vừa báo cho tôi hay như vậy”.
Lúc đấy, Đại Úy Minh mới tin đây là sự thực. Một sự thực phũ phàng ngoài trí tưởng tượng của ông. Nhưng tự tử quả là vô lý ? Khi báo cho ông Cẩn hay hung tin này, ông Cẩn cũng vẫn không tin và nói: “Làm gì có chuyện động trời như vậy”. Nhưng Tổng Thống Diệm và Ông Nhu đã chết...Dù ông Cẩn chưa tin là sự thực thì sự thực vẫn tàn nhẫn xảy ra như thế.
Ngay lúc đó, Đai Úy Minh cho người đi báo hung tin cho Cha Thuận. Sáng ngày 2.11 màn tang tóc đã bao phủ căn nhà tổ ấm của gia đình Tổng Thống Diệm, miền Phú Cam nơi mà anh em Ông Diệm sinh ra và lớn lên từ đó. Lúc ấy chung quanh ông Cẩn vẫn còn đầy đủ cộng sự viên thân tín trong đó có ông Đào Quang Hiển Giám Đốc Nha Công An Trung Nguyên Trung Phần.
Rồi chiều 2.11 buổi chiều nặng nề như những phiên đá đè nặng trên phận người mong manh. Khoảng 1 giờ 30, Đại Úy Minh được lệnh ông Cẩn gọi điện thoại cho Tướng Trí ra Huế để báo cáo cho ông Cẩn biết rõ nội vụ. Huế cho đến lúc ấy tương đối yên tĩnh.
Vào khoảng 3 giờ, bỗng nhiều đoàn thiết giáp của Thiếu Tá Tuấn đến bao vây vùng Phú Cam và căn nhà ông Cẩn (Thiếu Tá Tuấn sau thăng Trung Tá và bị việt cộng thảm sát trong biến cố Tết Mậu Thân tại Trường Thiết Giáp Gò Vấp Sài Gòn). Tình hình Huế bắt đầu ngột ngạt, dao động và như cây nước giữa biển nặng đang bắt đầu vỡ ra và dâng cao. Trong giờ phút cuối cùng này, một nhân chứng thuật lại: Ông Cẩn đã mất tinh thần vì xúc động trước cái tin hai ông anh bị giết chết. Chung quanh ông vẫn còn đầy đủ cộng sự viên như Minh, Trọng, Độ...
Khoảng hơn 9 giờ đêm mồng 2, Huế bắt đầu chuyển động như cơn sóng trong trận cuồng phong. Trời tê buốt hoang vắng và đầy đe dọa, bất trắc thê lương. Dân Huế vây quanh radio nghe đài Sài Gòn, BBC, VOA...
Hồi hộp rung động, kích thích...Tối một nhóm người tự động qui tụ lại như hình thức một Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Đứng đầu là Trung Tá Mô, Thiếu Tá Hiếu và Đào Quang Hiển. Ba viên chức này tìm gặp Đại Úy Minh đưa họ vào gặp ông Cẩn. Lúc ấy đoàn thiết giáp của Thiếu Tá Tuấn đang bao vây chung quanh nhà ông Cẩn nhưng chỉ có tính cách giữ gìn anh ninh trật tự và theo lời Tướng Trí là để bảo vệ sanh mạng của ông Cẩn và đề phòng một khi dân chúng làm hoảng...Quân Đội có thể can thiệp kịp thời.
Thể theo lời yêu cầu của Trung Tá Mô cũng như Thiếu Tá Hiếu...Đại Úy Minh vào tìm gặp ông Cẩn trong khi đó ba viên chức vẫn đứng chờ ở ngoài. Nhà lúc ấy vắng ngắt không có ai, không khí đầy một nỗi bi thương đổ vỡ. Bé gái Kính cho Đại Úy Minh hay là ông Cẩn đã trốn khỏi. Để tránh lạc hướng phe ông Mô, Đại Úy Minh cho bọn ông Mô hay là ông Cẩn hiện đang bị mệt, và đang nằm nghỉ, mai sẽ vào gặp sau. Thực ra lúc ấy, ông Cẩn đã vào trú ẩn tại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế.
TẨU VI THƯỢNG SÁCH
Trong bước đường cùng thì 36 kế, tẩu vi thượng sách vẫn hơn cả. Tuy nhiên ông Cẩn rời căn nhà tổ ấm cùng với cơn đau của loài chim bị bắn trúng cả hai cánh khi đang tung bay.
Qua ngày 3, Huế tương đối vẫn còn yên tĩnh tuy trong dân chúng bắt đầu chuyển động, đang bắt đầu một trận cuồng phong cho sóng đổ lên cao. Từ Đà Nẵng, Tướng Trí điện thoại cho biết ông sẽ trở ra Huế với tư cách đại diện Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Lúc ấy, ông Cẩn bắt đầu lâm bệnh, khuôn mặt hốc hác, đôi mắt như lạc mất tinh thần. Ông xúc động một cách vô tả trước cái chết của hai ông anh.
Bên cạnh ông trong những giờ phút đó vẫn còn một số Cộng sự viên thân tín như Cha Thuận (người cháu ruột của ông). Cho đến giờ phút đó vẫn không thấy ông Cẩn quan tâm gì đến tiền bạc tài sản. Khi thấy Đại Úy Minh vào thăm ông (tại một căn phòng trong nhà Dòng Chúa Cứu Thế) ông rướm nước mắt khóc và nói: Thôi hết rồi Minh ơi! Và những người có mặt đều khóc theo ông.
Ông bảo Đại Úy Minh gọi điện thoại cho Tướng Trí, nhắn Tướng Trí vào Huế ngay để ông có đôi điều dặn dò.
Huế lúc ấy bắt đầu sôi động. Thiếu Tá Hiếu, Trung Tá Mô, ông Đào Quang Hiển và một số “bá quan văn võ” đã đứng về phía cách mạng. Biến chuyển mau lẹ quá. Huế ngỡ ngàng rồi Huế bùng lên trong cuộc nổi lửa.
Chiều 3.11, Tướng Trí từ ngoài Đà Nẵng ra Huế. Quân Đội vẫn làm chủ tình hình Huế. Không có súng nổ, không có máu sắt. Sự lặng lẽ trong cơn dao động, hoang mang. Ảnh của Tổng Thống Diệm vẫn còn được treo ở nhiều công sở. Người đầu tiên mà Tướng Trí tìm gặp là Đại Úy Minh. Đây là mẩu đối thoại giữa hai người:
- Bây giờ Cậu ở đâu ? Tướng Trí hỏi.
- Cậu đang ở trong nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Đại Úy Minh đáp.
- Anh em cứ an tâm, không có gì phải lo sợ. Mọi việc ở ngoài này đã có tôi.
- Là Sĩ Quan của Quân Đội, tôi phải tuân theo lệnh của Thiếu Tướng.
- Anh cho tôi gặp ông Cậu. Tôi ra đây với tư cách đại diện Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Lời Tướng Trí. Lúc ấy, ông Cẩn vẫn nằm trên chiếc giường sắt. Cơn đau đã bớt. Ông lấy trầu ra ăn.
Ông Cẩn cho gọi một cộng sự viên thân cận và nói giọng thều thào “Chiếc bao bố ném ở dưới gậm giường (trong căn nhà ở Phú Cam) trong đó có 24 kilo vàng. Chiếc valise gồm một số gia bảo và quí vật v.v...Mày lo liệu giữ gìn không thì tụi nó lấy hết. Số bạc mặt tao vẫn để trong tủ...” Ông Cẩn còn dặn dò thêm: “Mày trao cho Trí giữ hộ...cứ đưa cho Trí không sao đâu”.
Buổi chiều ngày 3.11 tại nhà Dòng Chúa Cứu Thế, không khí thê lương ảm đạm như một ngày cuối Đông miền hàn đới. Tình hình Huế lúc ấy đã náo động.
Cha Bề Trên Nhã cúi đầu lần hạt đi đi lai lại trên hành lang. Gặp Đại Úy Minh, Cha Nhã hỏi: “Anh đã tìm Cha Thuận chưa ?”...Hai người nhìn nhau lặng lẽ, nỗi buồn thật mênh mông. Đại Úy Minh lên phòng ông Cẩn...Lúc đó ông Cẩn vẫn nằm vắt chân chữ ngũ, mắt ông đỏ ngầu vì khóc cho hai người anh...Tướng Trí cũng vào phòng ông Cẩn cùng với Đại Úy Minh. Tướng Đỗ Cao Trí vẫn niềm nở và trọng vọng ông Cẩn như xưa, ông giơ tay chào theo kiểu nhà binh. Ông Cẩn ngước nhìn Tướng Trí không nói một lời nào. Đôi mắt ông nặng chĩu một đau thương. Dường như lúc ấy ông Cẩn như muốn khóc. Mẩu đối thoại giữa Tướng Trí và ông Cẩn được ghi lại như sau:
- Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ủy cho con xin thưa lại với ông Cậu, Tổng Thống và ông Cố Vấn chết là do tai nạn ngoài ý muốn của các Tướng lãnh.

Tướng Trí không dấu nổi xúc động, ông yên lặng một lúc rồi nói tiếp:
- Chuyện đã xảy ra như vậy bây giờ biết làm thế nào. Con được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ủy cho đến đây xin thưa với ông Cậu, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng kính mời Cậu tham gia cách mạng và xin Cậu đứng trong thành phần của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Ông Cẩn đưa mắt nhìn một vài người thân yêu. Mọi người vẫn yên lặng. Tướng Trí nói trong niềm xúc động:
- Việc đã xảy ra như vậy thì thế nào Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cũng áp dụng một số biện pháp với Cậu, như tịch biên tài sản...Con nghĩ Cậu nên tính xem thế nào...Cậu có thể đưa con giữ hộ.
Chuyện trò với ông Cẩn một lát rồi Tướng Trí ra xe cùng về với Đại Úy Minh.
Lúc ấy tại Vùng Phú Cam vẫn yên tĩnh. Đoàn Thiết Giáp của Thiếu Tá Tuấn đang giữ phận sự canh phòng và kiểm soát chặt chẽ. Nhà Ông Cẩn vắng lặng chỉ có con bé Kính sau này cho biết, Valise và bao bố vàng được đưa lên xe jeep, rồi đoàn tùy tùng rời khỏi tư thất ông Cẩn.
ÔNG LÃNH SỰ
Từ khi Tướng Trí và Đại Úy Minh đi khỏi, trong ông Cẩn không còn ai. Một vài người thân yêu ngơ ngẩn ở trước cửa Nhà Dòng có ý đợi Đại Úy Minh xem ông Minh có quyết định sang tị nạn ở Tòa Phó Lãnh Sự Mỹ hay không. Buổi sáng ở nhà Đại Úy Minh, ông Phó Lãnh Sự Mỹ có đến tìm gặp Đại Úy Minh và đề nghị:
- Nếu Đại Úy và gia đình cũng như viên chức nào thấy ở ngoài này không có an ninh và nguy hiểm cho tính mạng, tôi mời tất cả qua tị nạn tại Tòa Lãnh Sự.
Đại Úy Minh đáp: Xin cảm ơn ông Lãnh Sự, có lẽ không cần thiết.
Ngày 1.11.1963, chính là ngày sinh nhật của ông Cẩn...ông đâu có ngờ chính là ngày ông phải đề tang hai người anh...Sau khi ông Cẩn sang tị nạn tại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế thì ông Lãnh Sự và Phó Lãnh Sự có tìm gặp Đại Úy Minh và đề nghị đưa ông Cẩn qua Tòa Lãnh Sự tỵ nạn cho an ninh hơn và ông cam kết sẽ để ông Cẩn được hưởng quyền tỵ nạn như Tòa Đại Sứ Mỹ đã dành cho Thượng Tọa Trí Quang trước đây.
Nhưng ông Cẩn chỉ bằng lòng qua tỵ nạn với điều kiện ông phải được đem theo thân mẫu của ông tức bà cụ Ngô Đình Khả...Lãnh Sự Mỹ không chấp nhận điều kiện này. Hơn nữa, các cộng sự viên thân tín tỏ ý dè dặt vì không hiểu lòng dạ người Mỹ ra sao.
Ngày 5.11 Tướng Trí được lệnh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đưa ông Cẩn về Sài Gòn cùng với bà cụ Khả. Lúc ấy bà cụ Khả vẫn chưa hay tin Tổng Thống Diệm và Ông Nhu đã bị thảm sát vì trong nhà cố giữ kín tin này. Bà cụ Khả đã trên 90 tuổi và bán thân bất toại từ lâu...
Khi về Sài Gòn thì mẹ con đôi ngả. Ông Cẩn vĩnh viễn xa mẹ từ buổi ấy. Ông bị biệt giam trong một căn phòng “ghê rợn” nhất của khám Chí Hòa.
Cái đau khổ lớn của tù nhân không phải vì thân thể bị câu thúc mà trước hết đau khổ vì cô đơn. Nỗi cô đơn như một Phi Tần trong chốn lãnh cung. Có ai trải qua cơn phong trần mới thông cảm được nông nỗi “giết nhau chẳng cái lưu cầu, giết nhau bằng cái u sầu độc chưa”. Trên sáu tháng trời ông Cẩn đã chết mòn trong cái u sầu thê lương như vậy của một căn phòng đầy oan trái và hồn ma. Chắc chắn những đêm dài thao thức, ông Cẩn chỉ còn sống theo dĩ vãng huy hoàng 9 năm trong đó bao nhiêu khách công hầu đã đến với ông, van lậy ông một điều cậu, một điều con để mong ông ban phát bổng lộc.
Điều đau khổ nhất đối với riêng ông Cẩn là những ngày tháng ông phải sống xa mẹ. Từ ấu thơ cho đên ngày lao lý, ông Cẩn không bao giờ xa mẹ. Trong gia đình Tổng Thống chỉ có một mình ông Cẩn sống cạnh mẹ. Tổng Thống Diệm cho đến Đức Cha Thục, Ông Nhu, ông Luyện mỗi người một ngả một năm mới về thăm mẹ đôi ba lần. Theo nhân chứng, ông Cẩn được thân mẫu yêu thương nhất vì đức hiếu thảo. Kể từ ngày bà Cụ Khả bị bán thân bất toại, suốt ngày nằm trên ghế tựa ông Cẩn luôn luôn có mặt bên cạnh không chịu xa mẹ lấy một đêm.
Mỗi sáng chủ nhật theo thường lệ Linh Mục Cao Văn Luận đều đến nhà làm lễ cho bà Cụ và gia đình ông Cẩn. Vào một sáng chủ nhật năm 1961, Đại Úy Minh không bao giờ quên hình ảnh một người con ôm mẹ khóc. Theo thông lệ, khi xem lễ bà cụ Khả vẫn nằm trên ghế tựa, trước mặt kê một cái bàn quỳ để tượng trưng cho lòng kính Chúa. Đằng sau, con bé Kính đứng giữ hai vai bà Cụ. Sáng hôm ấy không hiểu sao con bé Kính lại đứng ở nơi khác. Bà Cụ chới với thế nào bị ngã lộn nhào giữa lúc Linh Mục đang dâng lễ. Ông Cẩn thất thần...Chưa bao giờ ông Cẩn lại biểu lộ nét mặt hãi sợ như vậy. Mặt ông tái xám, tay run rẩy...Bà cụ té sưng trán và rướm máu. Chính tay ông ẵm bà cụ đặt lên giường. Nước mắt ông chảy dàn dụa. Bác Sĩ Lê Khắc Quyến được gọi đến cấp tốc (Bác Sĩ Quyến là Y Sĩ riêng của gia đình ông Cẩn và vẫn được coi là đồng chí thân cận của ông Cẩn). Lúc ấy ông Cẩn gần như người mất trí, ông cầm cái này rồi lại lấy cái kia tay chân run rẩy luống cuống. Sau khi bà cụ đã tỉnh, ông Cẩn mới khăn áo chỉnh tề, ông vận chiếc áo tấc xanh (Loại áo dài ta mặc trong dịp tế lễ) đội khăn đống mặc chiếc quần ta dài trắng tinh, chân đi dép. Mọi người lấy làm ngạc nhiên không hiểu ông Cẩn định đi đâu, làm gì. Sau mới rõ, ông đến trước mặt bà thân mẫu, lậy ba lậy (lên gối, xuống gối và mỗi lần vái tay khấu đầu phủ phục). Lạy xong ông ôm chân thân mẫu khóc và xin được tha lỗi. Ngày hôm ấy ông không tiếp khách, chỉ luẩn quẩn bên bà mẹ.
Ngày thường, tự tay ông lo liệu thức ăn đồ uống cho thân mẫu. Đối với mẹ, ông cư xử theo đúng lễ giáo của một nhà nho thủa xưa. Tối trước giờ mẹ ngủ, ông đến viếng một lần. Sáng dù bận thế nào, ông cũng vào phòng thăm mẹ. Mỗi năm vào ngày sinh nhật, ông sửa soạn quần áo từ hôm trước để sáng hôm sau khăn đóng áo dài vào khấu đầu phủ phục lạy mẹ ba lạy.
Trên đây là môt vài chi tiết cụ thể để giúp ta tìm hiểu con người ông Cẩn thường bị mô tả là Hung Thần Miền Trung.
Ngày 20.4.1964, Tòa án Cách Mạng tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn mà Chánh Thẩm là Đại Tá Đặng Văn Quang (vợ chồng Đại Tá vốn là con đỡ đầu của thân mẫu Đức Cha Nguyễn Văn Thuận chị ruột ông Cẩn). Trước Tòa Án ông Cẩn nói: “tôi quân sự không biết, hành chánh không biết học tầm thường làm sao ra lệnh cho ai được ?”. Bốn ngày sau, ông Cẩn đệ đơn xin ân xá và 2 ngày sau Tướng Dương Văn Minh bác đơn xin ân xá với tư cách Quốc Trưởng. Trong thời gian 2 ngày, Tướng Khánh đã “đau đầu” rồi bối rối không biết làm thế nào để giải quyết cho mọi bề êm đẹp. Bao nhiêu cuộc tiếp xúc, bao nhiêu việc trả giá tấm thân của ông Cẩn trở thành món hàng để “bên này đưa ra điều kiện này bên kia đặt điều kiện khác”. Chữ “nếu” làm cho ông Khánh bù đầu. Nếu không giết ông Cẩn chúng tôi sẽ có thái độ hoặc nếu không ân xá cho ông Cẩn chúng tôi sẽ hành động !! Các Cố Vấn của Tướng Khánh thì cho rằng: “Trong vụ này Thủ Tướng cứ coi như vô can. Việc xử như thế nào do Tòa. Việc ấn xá hay không là do
Tướng Minh.
Nếu Tướng Minh ân xá thì hợp ý với Thủ Tướng và có thể xoa dịu được phe bên này, mà áp lực “búa rìu” của phe bên kia sẽ đổ hết vào đầu Tướng Minh và ngược lại...Cộng sự viên thân cận của Tướng Khánh lúc ấy đều là những người đồng chống chế độ Ngô Đình Diệm và bị giam cầm như Phạm Thái (Việt Nam Quốc Dân Đảng) Tổng Trưởng Thông Tin hay thuộc đảng Đại Việt như Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, Phó Thủ Tướng hoặc thuộc “gà nhà” của Giáo Hội PHTN (khuynh hướng Thượng Tọa Tâm Châu) như Luật Sư Nghiêm Xuân Hồng Bộ Trưởng Phủ
Thủ Tướng...
Hôm xử bắn ông Cẩn tại Khám Chí Hòa, buổi sáng ông Khánh uống một hơi hết ly rượu mạnh, mắt ông lại lồi hẳn ra.
CHẾT VÌ CỦA
Qua lời nguyền phục hận cho anh em Tổng Thống Diệm Tướng Khánh đã nhiều lần bày tỏ trước ngày chỉnh lý... Ai cũng tưởng ông là người một lòng, một dạ sống chết với với anh em Tổng Thống Diệm. Nhưng Tướng Khánh thì “lời nói gió bay lên trời” thảy đều không quan trọng.
Sau khi đảo chánh thành công, hầu hết các Tướng tham dự đều được vinh thăng, nhưng trường hợp Tướng Khánh lại bị chậm trễ. Trong quá khứ và thuở còn mang lon cấp Tá, Tướng Minh và Khánh biết rõ nhau quá nhiều Đã từ lâu, không ai ưa ai. Ngày 5.11, Tướng Khánh ở Pleiku bay về Sài Gòn môt mặt trình diện Tướng Minh. Mặt khác chạy lon. Vốn là người láu cá vặt nên Tướng Khánh chạy theo “cửa” Thủ Tướng Thơ vì biết rằng ông Thơ hay bị xiêu lòng nếu chịu khó năn nỉ. Hơn nữa, ông Thơ vẫn có lòng tốt với bọn em út. Quả nhiên Tướng Khánh thành công. Thủ Tướng Thơ điện thoại cho Tướng Minh để “xin lon” cho Tướng Khánh và Tướng Minh cũng đồng ý cho ông Khánh lên lon Trung Tướng. Sáng hôm sau, Tướng Khánh lại đến tư thất Thủ Tướng Thơ để năn nỉ. Việc thăng Trung Tướng, Thủ Tướng Thơ đã dàn xếp xong, Tướng Khánh nóng lòng nên cho người lên phố mua cặp sao ngay. Tại tư thất, Thủ Tướng Chánh Phủ vẫn còn mặc áo pyjama. Vốn là con người xuề xòa, không kiểu cách Tổng Thống Thơ đã gắn lon Trung Tướng cho ông Khánh trong lúc mặc đồ ngủ.
Thực ra thì Tướng Khánh cũng chả thương sót Tổng Thống Diệm gì cả. Đối với ông ai cũng có thể là “tri kỷ”... Ai cũng có thể là bạn đường... Người như Tướng Khánh khó lòng giữ được sự trung kiên.
Vì Tướng Khánh không phải chỉ bắt cá hai tay mà ba bốn tay. Cùng một câu chuyện gặp ông A Tướng Khánh nói thế này, gặp ông B, Khánh lại nói thế cách khác.
Ngày 9.5.64, Ông Cẩn bị xử bắn tại Khám Chí Hòa thì Phan Quang Đông bị xử bắn tại Huế. Ông Khánh bay ra Huế để lấy lòng dân chúng từ một trung tâm tranh đấu...nhưng ông lại bị dân chúng vây tại Dinh Tỉnh Trưởng Thừa Thiên. Ông phải “trốn lủi” đi cửa sau rồi dùng trực thăng rời khỏi Cố Đô.
Sau một ngày hành trình toát mồ hôi lại bị dân chúng la ó đả đảo, hôm ấy ông Khánh tìm lại giấc ngủ bình an sau khi ông Cẩn ra người thiên cổ. Chết là hết, ông Khánh được bình an vì những tưởng ông Cẩn chết sẽ mang theo tất cả những bí mật về phần tài sản của ông. Sự đời đâu có giản dị như vậy. Cái kim bọc để lâu ngày cũng tấy, huống chi tài sản của ông Cẩn không phải là ít từ của chìm đến của nổi. Nhiều người thân tín trong gia đình ông Cẩn cho rằng: “ông Cẩn chết vì tài sản đó”. Để gây quỹ cho Đảng Cần Lao, trong 9 năm ông Cẩn đã ủy cho một số người đứng tên quản trị. Ông X đứng tên và quản trị một cơ sở kinh doanh này. Ông Y được trao phó đứng tên mua một thửa đất kia. Trong cái Valise của ông Cẩn lại chất đầy những vật quý rồi lại có một số trương mục tại Ngân Hàng do mấy người trong đoàn thể đứng tên. Nếu ông Cẩn còn sống, các đương sự khó lòng có thể chiếm đoạt nổi. Có thể Tướng Khánh đã được chia một phần tài sản ấy về mặt của nổi để gọi là dùng vào quỹ mật.
Tại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế ngày 3.11 khi Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mời tham gia, một vài người thân tín của ông Cẩn đã đề nghị: “Tình thế đã ra như vậy rồi nay Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mời cậu tham gia thì cậu cứ tham gia. Bao nhiêu tài sản, của cải của đoàn thể hiện do ai đứng tên, do ai cất giữ cậu khai hết rồi đem nạp cho cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng để xung vào quỹ Quốc Gia” Nếu ông Cẩn nghe lời nhân chứng B, công khai hóa tài sản và đem nộp cho Quốc Gia, thì ít nhất cũng không ai có thể nuốt trôi được hết dù cho có “chấm mút” ít nhiều.
Nói về tài sản của ông Cẩn, giới thân tín của ông đều ngao ngán “Ông Cẩn không bao giờ tin những cộng sự viên thân cận của ông mà ông vẫn cho rằng, còn quá trẻ không hiểu gì về vấn đề kinh tài cho đoàn thể”.
Dạo năm 1961 nhiều cán bộ bị thương, đau yếu túng quẫn, Đại Úy Minh có đề nghị:
“Cậu trích một số tiền trong quỹ đoàn thể giúp đỡ cán bộ đã phải hy sinh hay thương tích vì quốc gia và đoàn thể”. Lúc đó Ông Cẩn nói: “Tiền đâu bây chừ... tao làm gì có tiền?” Mấy cộng sự viên rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu tiền bạc bấy lâu đi đâu ở trong những tay ai ? Vào năm 1959, có người đề nghị ông Cẩn mua lại một số đất của Hoàng Tộc. Ông bảo Đại Úy Minh và mấy người thân tín cùng ông đi coi xem đất cát ra sao. Một người lên tiếng cản ngăn: “con nghĩ Cậu không nên làm như vậy. Mình vừa truất phế Bảo Đại xong bây giờ lại đứng ra mua đất đai của Hoàng Tộc thì cho dù có trả tiền theo thời giá cũng vẫn bị mang tiếng” Ông Cẩn đáp:
“Tao một thân một mình thì cần chi. Lo là lo cho bọn bay, cho đoàn thể, mà không có vốn liếng thì làm sao hoạt động được? Tụi bay còn trẻ biết gì”.
Từ đó, mấy cộng sự viên thân tín không ai đả động gì đến việc này dù họ cũng biết rõ ông Cẩn đã ủy cho những ai lo phần kinh tài. Theo người biết chuyện thì mẹ con bà Luyến và một số người khác đã làm hỏng ông Cẩn nhất là vấn để kinh doanh tiền bạc. Rồi khi tàn cuộc thì những “ai đó” đã phỗng tay trên. Trong suốt 9 năm đã có bao nhiêu ông bà lớn tấng bốc bà Luyến lên tận mây xanh, một tiếng Dì, một tiếng con cứ làm như bà Luyến là một nhân vật quan trọng không kém ông Cẩn. Thậm chí lại có người gọi bà Luyến là Mợ. Một đằng Cậu Cẩn, một đằng Mợ Luyến. Do đó đã gây lên bao nhiêu dư luận xâu xa. Mà bà Luyến, tuy anh em con dì với anh em ông Cẩn nhưng lại chỉ là thứ gia nhân lo việc nội trợ trong nhà.

PHÚ HỘ ĐỒNG QUÊ
Trong 9 năm, ông Cẩn đã cho tiền thiên hạ rất nhiều. Bản thân ông vốn là cậu Ấm con quan Thượng Thư Lễ Bộ nhưng ông lại là con người tiêu biểu cho trạng thái quê mùa. Thường ngày, ông dùng cơm với cá kho, dưa chua. Ngay nhà ông bao giờ cũng muối sẵn từng vại dưa, vại cà, có khi ông tỉ mẫn muối cả hàng vại “dưa rau muống”. Một sáng kiến khá kỳ cục...vì chưa thấy ai dùng rau muống để muối dưa, ông lại không ăn được vây yến hay sơn hào hải vị. Nhà ông ở Phú Cam nuôi hàng trăm con chim bồ câu. Nuôi là để dành đấy thôi. Ông Cẩn có tâm lý một nhà giầu xứ quê nên cái gì cũng thu vén chắt chiu cái gì cũng cho vào trong kho hết, trong kho của nhà ông chứa đựng không biết bao tranh sơn mài đồ gốm, đồ cổ. Dĩ chí có nhiều người biếu ông miếng gỗ cẩm lai ông cũng cho cất vào kho để dành. Ngày 1.11 chính là ngày sinh nhật của ông cho nên khách bốn phương đổ về Huế tấp nập với bao nhiêu quà, ông không ăn, trong nhà cũng không thể ăn hết, tuy vậy dù là quà thuộc về thực phẩm, ông cũng vẫn cho vào kho cất đi. Mấy hôm sau để thối ra đấy người nhà lại cất công đem đi đổ... Con người ông Cẩn là một thế giời đầy mâu thuẫn ông vừa có cái cốt phong kiến của con quan, ông lại có tính thu vén chắt chiu của một phú nông cùng cái hách của Tổng Lý thời xưa. Ông có bản chất sắc thái của một ông già quê. Ngoài thú câu cá, ông còn tự tay vót tre đan rổ rá. Rổ rá trong nhà ông phần lớn là do ông đan lấy và ông coi đó như một sinh thú.
CÔNG LÝ
Ngày 20.4.64, ông Cẩn được xét xử trước Tòa Án Cách Mạng. Ông Cẩn cũng bị khép vào các tội như Phan Quang Đông, chỉ khác một số tội cố sát. Trên đây, xét từ nguyên nhân sâu xa thì ông Cẩn chết vì lý do tài sản. Nhưng ra tòa, bản án tử hình dành cho ông lại bắt nguồn từ cục gián điệp Miền Trung với Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Đắc Phương. Theo sự tố cáo trước tòa thì Nguyễn Đắc Phương bị người của ông Cẩn xô từ trên lầu xuống và Phương đã chết vì như vậy tức là Phương bị cố sát có dự mưu chứ không phải Phương tự tử.
Buổi sáng 20.4 khi tòa xử, có vợ Nguyễn Đắc Phương ra làm nhân chứng. Một vài tờ báo mô tả rằng: Người vợ của ông Phương vì thương chồng phẫn uất quá nên ra tòa bị ngất xỉu. Một người ở Huế biết quá rõ bà Phương lại nói rằng “bà Phương mới sinh con được hai ngày thì phải ra tòa nên mới ngất xỉu”. Tại sao thế? Chồng bà đã chết từ lâu cơ mà? Đại cương vụ án gián điệp Miền Trung như thế này:
Hồ sơ vụ này đã có từ thời ông Giám Đốc Công An Trung Phần Nguyễn Chữ. Đầu năm 960 mấy Linh Mục ở Đà Nẵng có lên gặp Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục trình bày về một số người bị bắt oan trong đó có cả tín đồ Thiên Chúa Giáo. Đức Cha Thục thay vì hỏi thẳng Phan Quang Đông (vì Đông phu trách nhiệm vụ này) ngược lại Đức Cha Thục lại vào thẳng Sài Gòn trình bày nội vụ với Tổng Thống Diệm, sau đó Tổng Thống Diệm ra lệnh cho Đại Tá Đỗ Mậu mở cuộc điều tra.
Đại Tá Mậu đánh công điện cho Đại Úy Thích Trưởng Khu An Ninh Huế điều tra vụ này. Dĩ nhiên là động đến ông Cẩn, Đại Úy Thích tìm Đại Úy Minh bàn luận cùng ông Minh nên xử trí thế nào. Ông Minh cho rằng, vụ này nên hỏi lại Phan Quang Đông và báo cho Đông biết sự thể nó như vậy. Sau đó, sẽ trình bày với ông Cẩn.
Đại Úy Thích vào gặp ông Cẩn trình bày về bức công điện từ Sài Gòn. Phản ứng đầu tiên là ông Cẩn tái mặt, ông bảo ông Thích phải điều tra lại ngay xem có sự oan ức gì không. Ông Cẩn nói: Giết oan người ta thì Chúa phạt đến đời con đời cháu. Sau khi An Ninh Quân Đội điều tra lại thì đều xác nhận vụ án gián điệp có thật.
Ngày 20.11.1964, Tòa xử ông cẩn về vụ ấy. NGƯỜI TỬ TÙ
Một viên Giám Thị tại khám Chí Hòa (từng có nhiệm vụ canh gác phòng ông Cẩn) đã kể lại với chúng tôi: Có một đêm đã khuya lắm, anh ta đi qua phòng ông Cẩn, tò mò nhìn qua ổ khóa. Anh thấy ông Cẩn đi đi lại quanh phòng rồi ông gục đầu vào tường. Anh nghe thấy tiếng ông khóc nấc. Sau đó anh thấy ông Cẩn đi lại phía giường.
Ông quì dưới chân giường gục đầu vào nệm, anh vẫn nghe thấy tiếng ông khóc nấc. Một lần khác có việc vào phòng ông, ông lại có vẻ bình thản và hỏi: “Chú có nghe tin tức gì ngoài nớ không ?” Tất nhiên là anh ta chỉ ậm ừ rồi mau chóng đi ra vì sợ bị nghi có liên lạc với tù nhân...Lần nào gặp, ông Cẩn cũng có lời hỏi han anh như: Lương bao nhiêu, có đủ ăn không, mấy con, bố mẹ còn không, có nuôi được bố mẹ không?
Buổi sáng ngày ông Cẩn phải ra pháp trường, người con gái bà Ấm (cháu gọi ông Cẩn bằng cậu) được phép vào tận trong phòng giam thăm ông với sự hiện diện của một viên chức. Chị ta dơ năm ngón tay ra hiệu cho ông Cẩn (có nghĩa là 5 giờ bị xử). Ông Cẩn khẽ gật đầu. Vì không nén được xúc động, người cháu gái khóc bù lu bù loa và nặng lời nguyền rủa những ai phản phúc ông Cậu mình. Ông Cẩn vẫn điềm đạm. Lời ông nói với cô cháu gái được ghi nhận như sau: “không có gì đáng buồn mà phải khóc lóc. Làm chính trị là phải như thế. Cậu không có gì oán thán hết. Làm chính trị thì phải biết sẽ có một ngày như thế này”.
Buổi chiều, có những viên chức sau đây đã đưa ông từ phòng giam ra pháp trường: Đại Tá Trang Văn Chính Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành, Trung Tá Nguyễn Văn Đức ủy viên chánh phủ và Luật Sư Võ Văn Quan cùng một số viên chức khác và có cả bà Ấm, người chị ruột ông Cẩn.
Trước đó ông Cẩn bị bệnh to khớp xương và những tháng nằm trong tù ông gần như bị tê liệt, mỗi khi đi đứng phải có người xốc hai vai.
Song buổi chiều ra pháp trường một số người hiện diện đều ngạc nhiên, da mặt ông tự nhiên đỏ hồng, từ trên lầu xuống nhà ông vịn tường mà đi không cần người xốc nách. Ông vẫn nói với chị ông và các cháu (trong đó có bà Trần Trung Dung) “không việc gì mà phải khóc lóc hay chửi rủa ai. Cứ cầu nguyện cho người ta. Cậu làm chính trị cậu đã nghĩ đến ngày phải như thế này”.
Đại Tá Chính và mấy người khác lên tiếng chào ông, ông cúi đầu thi lễ: “Xin chào các ngài” Mọi người đều công nhận ông có vẻ thản nhiên và khỏe mạnh hơn ngày thường.
ĐẢNG LÀ TA
Xưa kia ông Cẩn vẫn thường phê bình Ông Nhu rất gay gắt “Làm chính trị như anh ấy chỉ lo chương trình kế hoạch thì có ngày chết”. Theo ông Cẩn làm chính trị vào thời nay cần phải có tiền, phải gây cơ sở tức là phải nghĩ đến chuyện làm kinh tài cho đoàn thể. Điều ấy đúng. Không một đảng phái nào muốn phát triển tồn tại mà không nghĩ đến chuyện này, ông Cẩn thường nói với các “đồng chí” của ông (như đồng chí Văn Anh, Bí thư Xứ bộ Trần Quốc Toản, từng được ông Cẩn chu cấp tiền cho xây biệt thự tại Nha Trang) “Làm chính trị mà không có tiền, có cơ sở thì mần răng ?” Tiếc thay, quan niệm đó đúng thực tế, nhưng đã sai lầm từ căn bản (do môi trường, hoàn cảnh, con người đó). Với ông Cẩn thì “ngoài lòng yêu mẹ ông còn yêu Đảng của ông”. Đảng trong quan niệm của ông chỉ có nghĩa: “Đảng là ta mà ta là Đảng” (Le Parti c'est moi) ông muốn một tay mình quán xuyến Đảng, thu vén chắt chiu cho Đảng. Do đó, mọi tài sản sẽ dành cho Đảng. Ông Cẩn thường nói: “Tao một thân một mình và đã già rồi thì cần gì. Mua đất cát, dựng xí nghiệp này nọ (...) là lo cho bọn bay sau này”...Việc xây dựng Đảng của ông đã lầm lẫn ngay từ ngôn ngữ “BỌN BAY
Và Đảng đã được lãnh đạo qua hình thức phụ quyền cha con. Cứ cho rằng lãnh đạo Đảng như vậy cũng được đi. Nhưng thực tế của Miền Nam không phải là thực tế của Miền Bắc cộng sản. Ở Bắc thì Bác rồi mới đến Đảng, nhưng Đảng là một tập thể anh em, với kỷ luật sắt thép. Còn ở Nam thì khác, vào Đảng vì lý tưởng cũng có mà vì chủ nghĩa xôi thịt cũng nhiều. Chẳng hạn, năm 1954 khi kết nạp Đảng Viên, một trong tình thế bấp bênh lộn xộn lúc ấy, có một Trung Tá chỉ huy một “GM” (Groupe Mobile) từ Bắc di quân vào Nam. Viên Trung Tá vốn là người của Biệt Đội Con Ó (thuộc Phòng VI của Trần Đình Lan). Ông Cẩn đã ủy cho một người thân tín phải tìm cách thuyết phục đưa viên Trung Tá vào Đảng. Với cấp bậc và chức vụ đương nhiên viên Trung Tá trở thành một đảng viên quan trọng thuộc hàng “lãnh đạo”. Con người ông ta ra sao, lòng trung thành và hiệu năng phục vụ đảng như thế nào, ông Cẩn không cần biết. Khi vào Đảng rồi “đồng chí” của ông đóng vai trò con cái trong nhà “vâng vâng dạ dạ” bẩm lạy Cậu. Từ đó viên Trung Tá trở thành đồng chí Văn Thanh, chỉ còn là thứ nô bọc trong vai trò nô bộc cao cấp. Như vậy thì làm sao kiếm tìm được tình đồng chí trong ý nghĩ thiêng liêng của từ ngữ này? Thế nhưng ông Cẩn vẫn say mê Đảng...Và gây kinh tài cho Đảng gồm những ông tai to mặt lớn kiểu “đồng chí Văn Thanh”, trong khi đó một số đông cũng yêu Đảng như mối tình đầu lại bị ông chê “Tụi bây còn trẻ mà biết gì”.
Trong quan niệm phụ quyền cha con và “Ta là Đảng” ông Cẩn tự ý lo liệu, tự ý ủy quyền cho một số người quản trị tài sản của Đảng ông. Sự quản trị do tín nhiệm cá nhân và lại không có gì dàng buộc với tập thể...Hóa cho nên khi ông Cẩn ngã xuống thì anh nào “may tay có lời”, Đảng của ông trở thành tay trắng, tan tác một sớm một chiều và ông cũng chết trong hai bàn tay trắng. Đó cũng là một bài học quý giá cho những ai khi có chánh quyền mà muốn lập Đảng dù lập Đảng tất cả ý chí và lòng say mê. Nhưng đừng quên rằng, chuyện đời rất khó, thấy ăn thì tìm đến thấy khó thì tìm đi đó là lẽ trắng đen của đời.
Sự ủy quyền quản trị tài sản cho Đảng cần lại trao cho một số người trong đó có Dược Sư, Dân Biểu, ông Cẩn (do môi trường, hoàn cảnh thuận tiện và ý thức non kém về chính trị cũng như sự lãnh đạo Đảng) khiến cho ông đã chọn lầm một số người toàn là những kẻ tùy cơ hội tùy thời ăn có, cho nên khi được ủy quyền rồi thì bọn người này lại nhân danh ông Cẩn mà sách thủ tác oai tác quái để nói là kinh tài cho Đảng theo lệnh Cậu Cẩn mà kỳ thực chỉ lo cho cá nhân đầy tham vọng của họ.
Bao nhiêu oán thán đã có ông Cẩn chịu. Thực tế đã xảy ra như vậy và khi chết, ông lại chết vì tài sản cùng với hai bàn tay trắng.
Khi ra pháp trường ông Cẩn lẻ loi một mình. Mặt ông vẫn thản nhiên, ông bị trói vào cột (như báo chí đã tường thuật). Trung Úy Bảo, Sĩ Quan Báo Chí Phủ Thủ Tướng là người duy nhất đại diện báo chí nhà nước có mặt tại “sân bắn” lúc ấy. Trung Úy Bảo thuật lại: Hai bàn chân của ông chỉ có năm ngón chấm đất, gót chân lơ lửng. Ông Bảo viết tiếp: Biết đâu lúc ấy ông Cẩn không nhận ra tôi”. Trung Úy Bảo đứng cách tử tội Ngô Đình Cẩn 15 m về phía tay mặt. Đằng trước ông Cẩn là toán Quân Cảnh. Sau toán Quân Cảnh là báo chí. Do tình cờ của số phận nhân chứng lại có mặt trong tư thế đại diện chính quyền trong buổi xử bắn ông Cẩn. Thật là éo le!
Nhân chứng nói: “Nhìn ông Cẩn lúc ấy tôi rớm nước mắt song vẫn cố tình làm ra vẻ thản nhiên”. Định mệnh lịch sử có thật hay sao? Trước đó, nhân chứng được Trung Tá Khôi cho ra Huế mang thư riêng đến ông Cẩn. Nhân chứng tưởng chừng ông Cẩn phải là người dữ dằn hung hãn lắm.
Nhưng khi được Đại Úy Minh đưa vào yết kiến Trung Úy Bảo rất ngạc nhiên. Ông Cẩn nằm trên chiếc ghế xích đu kê ở hàng hiên. Ông đang nhai trầu bỏm bẻm. Thấy Bảo ông Cẩn ngồi nhỏm dậy và tự tay kéo ghế mời ngồi. Ông gọi đích danh Bảo rồi hỏi thăm chuyện trò lan man về tình hình Sài Gòn, về gia cảnh và công việc làm ăn của Trung Úy Bảo.
Vẫn khuôn mặt cũ, buổi chiều hôm ra pháp trường, Trung Úy Bảo thấy ông Cẩn vẫn giữ vẻ bình thản, da mặt đỏ hồng.
Rồi một loạt súng nổ, ông Cẩn trở về cõi thiên cổ.
Trước đó ông ta từ chối không chịu bịt mắt. Nhưng Trung Tá Ủy Viên Chính Phủ nói “Đây là luật lệ bắt buộc như vậy”. Ông Cẩn đành chịu, ông cũng không quên lên tiếng xin mọi người tha thứ cho ông và những người đồng đạo có mặt lúc ấy đã đọc cho ông một Kinh Lạy Cha trong đó có câu “xin cho chúng tôi hàng ngày dùng đủ và tha tội chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Khi bị trói vào cột, ông Cẩn được gặp riêng Cha Thính thuộc Dòng Chúa Cứu Thế là vị Cha linh hướng của ông. Rồi sau đến Luật Sư Võ Văn Quan...Luật Sư Quan nói chuyện với ông Cẩn một lúc, rồi đưa tay gỡ cặp kính trắng trên mặt ông, không khí thật trầm lặng và căng thẳng trong nỗi thê lương. Cha Thính quay đi...mắt vị Linh Mục long lanh hạt lệ.
Luật Sư Quan khẽ thở dài như tiếc thương cho một phận người.
Chỉ một loạt đạn thứ nhất, ông Cẩn đi ngay. Đầu ông gục xuống, lắc lư.
Trung Úy Bảo đến bên ông...Mầu da đỏ hồng biến thành mầu xám nhạt. Không ai giữ được tiếng thở dài nghẹ ngào. Ông được tháo dây trói và đặt trên barancard khiêng trở lại khám đường. Nhân chứng đi theo. Trong gian phòng hoang lạnh, không còn ai ngoài nhân chứng, người Hiến Binh áp giải và lát sau thì có bà Ấm lật đật chạy vào. Ông Cẩn nằm trên brancard, phủ tấm vải trắng loang lổ máu. Người chị của ông khóc rưng rưng, nước mắt dàn dụa trên gò má. Thế là xong một đời người.
CHƯƠNG VI
TRƯỜNG HỢP
BÀ NGÔ ĐÌNH NHU
Bà Ngô Đình Nhu có điệu bộ vóc dáng của một minh tinh màn bạc hơn là một phu nhân theo cốt cách Đông Phương. Trong 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm Bà được suy tụng như một Đệ Nhất Phu Nhân. Chính cái danh xưng này đã không thuận tai và làm cho dân chúng đàm tiếu không ít. Ông Nhu tuy là Cố Vấn Chính Trị Phủ Tổng Thống nhưng trên danh nghĩa ông không có một vị thế công quyền. Ông Tổng Thống sống đời sống độc thân mà người em dâu được “suy tôn” như Đệ Nhất Phu Nhân thì điều đó quả là chướng tai vì nó không chính danh và hợp với chữ Lễ.
Nhưng từ nguyên do nào đã đưa Bà Nhu lên địa vị một người đàn bà “Uy Quyền”, bao nhiêu khách công hầu của chế độ từng ra luồn cúi và coi Bà như một nữ lãnh tụ? Ai phong cho Bà Nhu tước vị Đệ Nhất Phu Nhân? Không ai phong cho bà cả. Nếu có thì chỉ có cơ quan Thông Tin thỉnh thoảng qua một vài bản tin, qua bích chương đã “bốc” bà lên hàng tột đỉnh công danh đó.
Xin trở lại quá khứ: Tháng 4.1955 khi Sài Gòn đang ngút ngàn khói lửa, Bình Xuyên quyết ăn thua đủ với chính quyền, gia đình Bà Nhu vẫn còn ở tại căn nhà của Bác Sĩ Cao Xuân Cẩm, trước Dưỡng Đường Saint Pierre Sài Gòn.

Khi thu hồi Dinh Norodom, Tổng Thống Diệm dành một phòng phía bên trái cho vợ chồng ông Luyện. Trong hai người em dâu thì Tổng Thống Diệm quý Bà Luyện hơn. Giữa vợ chồng ông Luyện với Tổng Thống Diệm có sự thân mật đậm đà và không xa cách như vợ chồng Ông Nhu. Từ khi trở về nước chấp chánh cho đến 4.55, vai trò của ông Ngô Đình Luyện mới là quan hệ. Vai trò của Ông Nhu lúc ấy còn mờ nhạt...
Nhưng có một điểm tâm lý như thế này: Tuy nhiên rất quý vợ chồng ông Luyện nhưng ông Luyện lại chỉ có toàn con gái. Tổng Thống Diệm không thích cháu gái. Ông rất yêu mến đám con trai của Bà Nhu. Đó cũng là lý do dễ hiểu, khi cha con ông Khôi qua đời (1945) thì mấy chú con trai của Ông Nhu trở thành kẻ nối dõi tông đường của Dòng họ Ngô Đình. Ngô Đình Trác đứng vào hàng đích tôn thừa tự và là bực trưởng của gia tộc Ngô Đình sau này. Mấy chú con trai của Ông Nhu trở thành nhịp cầu nối tiếp giữa Tổng Thống Diệm và vợ chồng Ông Nhu mặc dầu bản chất giữa Tổng Thống Diệm và Ông Nhu rất khác biệt nhau. Anh em không mấy khi gần nhau qua những phút tâm tình hàn huyên. Nhưng mấy đứa cháu trai lại trở thành nguồn sinh thú tinh thần của Tổng Thống Diệm và đó cũng là hy vọng của ông Tổng Thống còn nặng lòng với Nho Giáo...trong tình tự gia đình. Chính cũng nhờ điểm có mấy người con trai nên Bà Nhu đã dễ dàng tạo được tư thế trong gia đình nhà chồng.
Khi trận chiến giữa Bình Xuyên và chính quyền bùng nổ, Đại Úy Huỳnh Văn Cao bàn tính với Thiếu Tá Vinh làm thế nào để di tản gia đình Bà Nhu vào trong Dinh, nếu không Bình Xuyên có thể làm “hoảng” giết ông Bà Nhu hoặc bắt cóc mấy đứa con của bà để làm điều kiện thương thuyết. Ý kiến này mọi người đều cho là phải. Trước đó Tổng Thống Diệm cũng tỏ ý băn khoăn ngỏ ý với ông Bằng “Mi bàn với Vinh và Cao làm sao che chở cho gia đình Ông Nhu ở Saint Pierre...Bình Xuyên nó làm dữ quá...” Mấy hôm sau, gia đình Bà Nhu di tản vào Dinh Độc Lập, ở trong một gian phòng phía góc trái. Lúc đầu Ông Nhu nằm ghế bố vì không có giường.
Bà Nhu tuy chỉ học hết lớp Đệ Tam (classe de seconde) Trường Albert Sarraut Hà Nội nhưng bà lại có trí thông minh thiên bẩm. Sinh ra trong nhung lụa lại thuộc gia đình quan lại vọng tộc, Bà Nhu từ tấm bé đã ở trong một môi trường tháp ngà như không liện hệ với nếp sống Việt Nam. Có thể nói, bà thuộc một giai cấp khác không có trong xã hội Việt Nam. Cái giai cấp đó được hình thành trong chiếc nôi văn hóa của Tây phương. Bà là thứ trưởng giả thiệt. Nhưng thứ trưởng giả này là một chất hỗn hợp giữa bản chất Hoàng phái (dòng máu bên ngoại) cùng quan lại vọng tộc (dòng máu bên nội qua gia đình cụ Trần Văn Thông). Thân mẫu của bà vừa là cô gái Huế vừa thuộc hàng khuê các của sông Hương núi Ngự. Thân phụ bà tuy hiền lành nhưng trong con người của ông Trần Văn Chương đã có 80% chất Tây. Quê nội trong Nam, quê ngoại ở xứ Huế lại sinh trưởng tại đất Bắc, bà trở thành xứ lưu dàn giữa 3 Miền Nam, Bắc, Trung.
Từ nhỏ học Trường Pháp, và trong gia đình sống theo lối Pháp, cha mẹ con cái chỉ nói tiếng Pháp như một ngôn ngữ mẹ đẻ, Bà Nhu trở thành thứ đầm con khi còn cắp sách đến trường.
Tóm lại, môi trường và nếp sống của bà hoàn toàn xa cách với nếp sống quảng đại quần chúng Việt Nam. Khi trở về làm dâu họ Ngô Đình Bà Nhu càng trở nên lạc lõng.
Giữa hai họ Ngô Đình và Trần Văn tuy là dòng quan lại cũ nhưng họ Trần Văn đã “Tây hơn cả Tây”. Họ Ngô Đình trước năm 1945 thường bị giới đường quan phê bình là “quê”. Quê có nghĩa là không biết ăn chơi, không có một đời sống thích nghi với nếp sống Tây phương và hầu hết các giới quan lại thời đó đều tôn thờ đây là hình ảnh mâu thuẫn và hoàn toàn khác biệt giữa hai gia đình thông gia. Ngô Đình và Trần Văn.
1- Qua tấm ảnh trong cuốn album của gia tộc Ngô Đình ta thấy ông cụ Ngô Đình Khả đứng cao lênh khênh, mặc áo đại quan, đeo bài ngà kim khánh nhưng chiếc quần lại cao quá mắt cá chân, rộng thùng thình. Ông cụ là một hình ảnh vị Thượng Quan Thế Kỷ 18. Bà cụ khá thấp, mặc áo dài đen, quần thì ống thấp ống cao, bế con. Chung quanh hai ông bà là một đàn con yêu vận quốc phục. Riêng Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại mặc bộ đồ đầm sọc (loại Tây phế thải) và đi chân đất. Nhìn hình ảnh đó, ta có ngay một mối cảm tưởng sâu xa vì cảnh hàn vi của một Lễ Bộ Thượng Thư Nam Triều.
2- Hình ảnh gia đình Bà Nhu thì trái hẳn, ông Trần Văn Chương mặc Smoking rất đúng điệu trưởng giả Anh Quốc...Bà Chương lộng lẫy trong áo dài gấm vấn tóc trần. Chính ảnh một phu nhân tân thời vào những năm 1930...trong khi con cái bà Chương đều mặc “đầm” rất đúng điệu. Chú con trai mới mấy tuổi cũng “Tenue de soirée” hoàn toàn trưởng giả.
Trong gia đình ông Trần Văn Chương, vợ chồng con cái đều dùng Pháp ngữ như tiếng mẹ đẻ. Bà Chương vốn đã nổi tiếng là một mệnh phụ giao du rất rộng. Bà thuộc loại “Dame galante”.
Được ấp ủ và giáo dục trong một Trường Tây phương, khi còn đi học Bà đã nổi tiếng là một tiểu thư lả lướt và lãng mạn.
Ông Nhu vốn là bạn của vợ chồng Luật Sư Chương. Cuộc tình duyên giữa chú Nhu và cô bé Trần Lệ Xuân là cuộc tình duyên “chú cháu”. Chú hơn cháu cả trên hai mươi tuổi.
Kể từ năm 1945, gia đình Ông Nhu trải qua cuộc “phong trần”, khi thì ở Đà Lạt, khi thì ở Sài Gòn...Ông Nhu “thất nghiệp”...5, 6 năm trời. Khoảng thời gian này đều do bàn tay Bà Nhu tần tảo thu xếp. Từ nếp sống một tiểu thư trưởng giả đổi qua vai trò một người vợ của ông chồng “lừng khừng và thất nghiệp chính trị” bà phải lo toan mọi bề và thời gian này một người như Bà Nhu không tránh khỏi cái tâm lý của kẻ tự tôn với dĩ vãng vàng son và tự ti với hiện tại đầy cam go về sinh kế.
Dù có sự chu cấp ít nhiều từ Đức Cha Thục, gia đình vẫn không thoát khỏi cơn khủng hoảng kinh tế kéo dài năm sáu năm. Thời gian sau này, chuyện xô xát giữa đôi vợ chồng già trẻ khó bề tránh khỏi. Theo sự tiết lộ của một số gia nhân thân cận...thì Bà Nhu luôn to tiếng...với ông chồng. Ông Nhu không biết kiếm đâu ra tiền, mọi sự đành “một tay nhờ mụ nó”. Khi một người đàn ông dù người đàn ông đó là loại siêu đẳng nhưng từ một điếu thuốc cũng do tiền vợ mua thì tất nhiên kết quả tiệm tiến của một quá trình tâm sinh lý người đàn ông đó không thể nào không bị vợ chi phối. Vợ không khinh đã là đại phước. Nếu vợ vẫn trọng vọng mình thì lại càng tạo nên yếu tố tâm lý giúp cho người vợ dễ dàng khuất phục ông chồng và uy quyền của người vợ theo thời gian mà thấm vào trái tim và trí óc ông chồng không bao lâu uy quyền của chồng trở thành uy quyền của vợ. Ông Nhu ở trong trường hợp này.
Kể từ năm 1952, tình trạng kinh tế gia đình của vợ chồng Ông Nhu càng thêm sa sút đến độ tê liệt. Bà Nhu đã phải bán hết tư trang. Năm 1952 chiếc vòng đeo cổ cuối cùng cũng phải đem ra phát mại. Khi Ông Nhu quay sang làm tờ tuần báo Xã Hội thì cảnh nhà lại càng tê liệt. Những cộng tác viên của ông dạo đó phải mua tặng Ông Nhu từng bao thuốc, đãi ông từng bữa quà sáng. Quần áo của Ông Nhu cũng đã xác xơ. Ông chỉ còn lại vài bộ đồ lớn còn lưu giữ từ thời tiền chiến. Bà Nhu thì đi xe đạp...Ông chồng Nhu vẫn đi ké xe “muôn thuở” từ năm 1945 cho đến 1954.
Bản chất Ông Nhu vốn trầm lặng một cách khó hiểu và rất sợ “sì căng đan”, cho nên cứ mỗi lần Bà Nhu la lối thì ông lại ngồi im không một lời nói năng, nét mặt chảy dài. Sì căng đan như một biến cố tâm lý trong đời ông là dạo cuối năm 1953 Bà Nhu đã dọa tự tử sau một trận xô xát...Trước sau Ông Nhu vẫn là kẻ thua cuộc vì bất lực trong một cuộc mưu tìm sinh kế cho gia đình. Nguyên nhân chỉ vì cạn tiền không còn cách nào xoay sở để sinh sống. Với người trí thức cỡ nặng như Ông Nhu trong tình cảnh ấy kéo dài qua nhiều năm thì áp lực và ảnh hưởng của vợ đối với chồng (nhất là chồng già vợ trẻ) mỗi ngày ăn thấm sâu lan rộng...thì đời sống “phòng the” do đó mà dễ dàng khuynh loát khống chế bao tỏa ra mọi việc...từ gia đình riêng tư đến giao tế bên ngoài. Trước năm 1952 đối với vợ, ông là người cứng rắn, ông không thích ai bàn tính chuyện thế sự với bà vợ...mà ông cũng không bàn thảo gì với bà vợ còn non trẻ.
Ông vẫn coi bà vợ như một cô cháu gái ngây thơ. Nhưng Bà Nhu lại nhiều lần muốn chứng tỏ mình không còn nhỏ dại và có đủ khả năng để giúp chồng làm việc lớn. Trong vụ tranh chấp giữa Tướng Hinh và Tổng Thống Diệm, bà đã chứng tỏ bà có khả năng thực. Dạo ấy Bà Nhu đã len lõi đến nhiều nơi để vận động chống Tướng Hinh và kể cả chuyện tham gia sách động biểu tình tháng 9 năm 1954. Giữa lúc tình hình gay go nhất, Bà Nhu nhảy vào vòng với một lập trường dứt khoát là phải đuổi cổ anh “Tây con” sang Pháp. Tháng 4.55, khi Tổng Thống Diệm nhận được công điện của Quốc Trưởng Bảo Đại triệu qua Cannes, Bà Nhu đã mạnh bạo tỏ thái độ quyết liệt và tìm mọi cách ngăn cản ông anh chồng qua Pháp và chủ chương lật đổ ông Vua này. Về vụ Bình Xuyên bà cũng nhảy vào vòng (dù không ai yêu cầu) nhưng bà lại chứng tỏ có khả năng và nhiều sáng kiến trong việc giúp anh chồng và chồng giải quyết đại sự trong một tình thế sôi bỏng.
Khi gia đình Bà Nhu dọn vào Dinh Norodom, lúc đầu chỉ có tính cách ở tạm ít lâu để lánh nạn Bình Xuyên. Gia đình ông Luyện tự động nhường căn phòng phía bên trái Dinh cho vợ chồng ông anh và dọn ra ở tòa nhà trắng phía đường Nguyễn Du. Ông Bà Nhu ở căn phòng này cho đến vụ ném bom 27.2.1962.
Trong gia đình, ngoài Đức Cha Ngô Đình Thục và Tổng Thống Diệm thì không ai ưa Bà Nhu cả. Riêng ông Luyện lại coi thường bà chị dâu và tỏ ra bất mãn khó chịu mỗi khi thấy chị dâu “can dự vào” chuyện quốc sự. Sự bất đồng giữa Ông Nhu và ông Luyện trở nên rõ rệt qua vụ truất phế Bảo Đại. Ông Luyện là bạn thân của Bảo Đại từ hồi còn đi học và chính ông đã đóng vai trò giao liên dàn xếp với Bảo Đại qua vụ Tướng Hinh và Bình Xuyên. Ông Nhu thì chủ trương phải truất phế cựu Hoàng Bảo Đại và thành lập chế độ Cộng Hòa, dĩ nhiên là Bà Nhu hùa theo. Bà lại thường dùng những ngôn ngữ dao to búa lớn...Thái độ và lời nói của bà vừa lấn át người đối thoại vừa như một mệnh lệnh khuất phục kẻ đối lập với bà. Trong thời gian qua Pháp ba tháng để dàn xếp với Bảo Đại vào đầu năm 1955 lúc ông Luyện trở về thì quyền Cố Vấn đã hoàn toàn nằm trong tay Ông Nhu có nghĩa là Bà Nhu cũng tham gia ít nhiều vào quyền cố vấn đó. Tổng Thống Diệm đã phải dặn riêng mấy người thân cận như Đại Úy Cao, Thiếu Tá Vinh như “ở nhà có chuyện gì xảy ra đứng có kể lại cho ông Luyện nghe”. Ý Tổng Thống Diệm không muốn làm phật lòng ông em út mà Tổng Thống Diệm thương nhất nhà nhưng ông lại nể Ông Nhu hơn và phục cái tài của ông em học giả. Từ dạo đó, quanh Tổng Thống Diệm đã chia thành 2 phe một phe thân ông Luyện, một phe thân Ông Nhu. Mấy gia nhân cận thân như ông Bằng cũng bắt đầu công khai va chạm với gia đình Bà Nhu.
Sở dĩ phải mô tả và nhận định về con người và bản chất thực của Bà Nhu ở thiên bút ký này là vì những tình cờ của lịch sử và số phận hẩm hiu của quốc gia, Bà Nhu đã có cơ hội tham dự ít nhiều vào biến cố lịch sử năm 1963. Điều quan trọng hơn là bà Cố Vấn Nhu có một phần trách nhiệm trong biến cố đó.
Vấn đề đại sự quốc gia nhiều khi lại bắt nguồn từ những việc rất tầm thường. Biến chuyển lớn của Lịch Sử hơn một lần lại bùng nổ từ những cảm xúc và ý kiến rất phiến diện của cá nhân lãnh đạo cùng những ảnh hưởng tình cảm chung quanh cá nhân đó. Biến cố 1963 đã nói lên điều này và Bà Nhu đã góp phần “đổ dầu thêm vào lò than hồng năm 63” trong khi sách lược của cộng sản là luôn luôn tìm mọi cách phân hóa và gây mâu thuẫn trong hàng ngũ quốc gia bằng một kỹ thuật tinh vi nhất. Cộng sản tạo nên dư luận về một số cá nhân lãnh đạo và gia đình, đời tư của cá nhân đó. Từ dư luận rồi lộng giả thành chân để tạo nên “như là thực”.
Từ cái như là thực không bao lâu trở thành sự thực. Chẳng hạn như chiếc “ghế khoái lạc” của Bà Nhu được triển lãm tại Phòng Thông Tin Đô Thành năm 1964 (đây chỉ là chiếc ghế ngồi uốn tóc. Từ năm 1961 Bà Nhu không ra hiệu uốn tóc nên một tiệm uốn tóc ở đường Catinat đã đưa chiếc ghế này vào Dinh, mỗi tuần cho thợ vào một lần), chiếc ghế đó bỗng nhiên được cách mạng đặt tên là ghế khoái lạc để chứng tỏ tội ác của Bà Nhu cùng chế độ Ngô Đình Diệm. Chiếc ghế khoái lạc đó đã ít nhiều khích động quần chúng tạo dựng nên bao nhiêu điều đáng tò mò qua con người đầy sôi nổi như Bà Nhu.
Trong 9 năm đã có biết bao nhiêu “sự thực” như vậy được diễn tả một cách mê ly gay cấn trong dư luận quần chúng. Mà sự thực về Bà Nhu như thế nào? Trước hết, nếu nói về tội thì bà có một “tội lớn” như thế này: Bà không biết gì về chính trị nhưng lại hăng hái tham gia chính trị. Sinh trưởng trong nhung lụa của một tháp ngà trưởng giả Tây phương không thích nghi với đời sống quảng đại quần chúng, nhưng lại công khai nhảy ra hoạt động đứng trên hàng đầu...Tất nhiên bà phải dấn mình vào thực tại nhưng lại không thích nghi được, thực tại trở nên đối nghịch với chính bản thân trưởng giả và xa lìa quần chúng của bà. Thực ra thì chính quyền dạo đó cũng muốn tạo lực lượng phụ nữ...Vì đây là một lực lượng đáng kể và nếu biết cách tổ chức và vận động thì lực lượng này là một hậu thuẫn to lớn. Bà Nhu có thể làm được điều đó cùng với ưu thế và quyền hành (trong bóng tối mà ở trong bóng tối mới là quan trọng). Bà Nhu lại quyết tâm hoàn thành giấc mộng trở thành lãnh tụ của giới phụ nữ Việt Nam. Ngay trong gia đình nhà chồng (một gia đình Thượng Quan nho phong) Bà Nhu còn không sống cho thích nghi với đời sống huống chi quảng đại quần chúng nhất là quần chúng Việt Nam vốn trọng nam khinh nữ, dân Việt Nam vốn chỉ tôn mộ khâm phục những loại như bà Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh, Phan Bội Châu phu nhân và gần hơn điển hình nhất là Nam Phương Hoàng Hậu.
Bản chất người Việt cả nam lẫn nữ, vốn không có cảm tình nếu không muốn nói là ghét và khinh thị nhưng loại “phu nhân” múa may bên ngoài phạm vi gia đình và công tác xã hội từ thiện.
Những lý do nào khiến Bà Nhu tạo được cơ hội nhẩy vào sân khấu chính trị và từ năm 1956 bà đã gây được nhiều thanh thế trong dư luận quốc nội và quốc ngoại...Nói là bà quá ồn ào thì quả thực bà ồn ào nhưng ồn ào có kỹ thuật trình diễn. Lý do gần và như là tầm thường nhất đã giúp cho Bà Nhu trở nên dâu cả trong gia đình họ Ngô và độc quyền dành cho họ Ngô mấy cậu con trai để nối dõi tông đường (mãi sau này ông Luyện mới có con trai). Tổng Thống Diệm độc thân và mấy đứa cháu trai trở thành nhu cầu cần thiết cho đời sống tình cảm qua một con người còn nặng lòng với gia tộc và truyền thống như Tổng Thống Diệm. Sau nữa dù Phủ Tổng Thống đã có Nha Nghi Lễ, có Sở Nội Dịch, ông Tổng Thống Diệm vẫn cần có một phụ nữ để lo toan công việc tiếp khách và nhiều vấn đề khác thuộc phạm vi giao tế nhân sự mà thiếu một người đàn bà cũng gây nên nhiều nan giải, bế tắc. Bà Nhu lại có sở trường giao thiệp có khiếu đôi chút về thẩm mỹ. Trong khi Tổng Thống Diệm cũng như Ông Nhu hoàn toàn mù mờ về thẩm mỹ và giao tế (lo toan việc nội trợ đều một tay Bà Nhu điều động) như trang hoàng phòng khách sắm sửa các đồ trang trí và trang sức v.v...
Bà lại luôn luôn tỏ ra con người mẫn tiệp, tháo vát và khéo (khi tiếp phái đoàn ngoại quốc)... Bà lại nói tiếng Pháp ngữ và Anh ngữ rất lưu loát.

Từ tư thế của một nữ tiếp viên của Dinh Độc Lập lại thêm tham vọng lãnh tụ của phụ nữ cùng với uy thế và uy quyền của chồng và anh chồng, Bà Nhu được mặc nhiên chấp nhận trên thực tế như một uy quyền bất khả kháng và uy quyền đó, cách này hay cách kia đã chi phối ít nhiều trong sinh hoạt quốc gia và công vụ.
Lực lượng phụ nữ của Bà Nhu qua Phong Trào của Phụ Nữ Liên Đới lại chỉ gồm vợ mấy ông lớn cho nên không có tính cách quần chúng và chỉ nặng về trình diễn. Khi các bà lớn trình diễn chính trị thì quả tình không hấp dẫn được ai và trở thành trò cười cho thiên hạ.
Bà Nhu chịu đọc sách lại có ông chồng “Cố vấn”. Tuy kiêu ngạo tự tôn nhưng gặp những việc khó khăn nan giải, bà vẫn chịu khó tìm hiểu ý kiến qua một vài cộng sự viên thân cận của Ông Nhu.
Bà đối đáp lanh lẹ, phản ứng bốp chát nóng bỏng. Đó là ưu điểm của bà. Nhưng về mặt chính trị phản ứng nóng nảy bốp chát của một người đàn bà ở địa vị như Bà Nhu đã trở nên thất lợi. Khuyết điểm lớn của bà là không tạo được những cử chỉ và phong độ ngôn ngữ hấp dẫn được quần chúng kể cả giới phụ nữ. Trong khi Bà Nhu lại trở thành đối tượng cho sự tuyên truyền có sách lược của cộng sản. Mà người cộng sản muốn bôi đen một chế độ trước hết tìm cách bôi đen qua từng cá nhân uy quyền của từng chế độ ấy. Rồi theo ngày tháng, một cách tiệm tiến có kỹ thuật, cả chế độ đó sẽ thành đen và quỵ ngã toàn bộ. Nếu ý thức được như vậy, lý ra Bà Nhu phải hoàn toàn đứng trong bóng tối một cách khiêm nhường. Đằng này Bà Nhu xuất hiện với tất cả sự lộng lẫy lòe loẹt với chiêng trống nhịp nhàng của một số các bà Tướng Tá Bộ Trưởng Tổng Giám Đốc và kể cả mấy vị tu mi “mày râu nhẵn nhụi”...
Trước hết là dịp Lễ Hai Bà Trưng, Bà Nhu muốn làm sống lại khí thế của hai vị Nữ Anh Hùng Dân Tộc này...và có nhẽ bà cũng muốn nhân cơ hội trở về nguồn lịch sử để tạo một thần tượng dẫn đạo phụ nữ. Theo Bà Nhu “Nam giới có Lê Lợi, Quang Trung thì nữ giới cũng có Hai Bà Trưng cũng như Pháp có Jeanne d'Arc”. Trước năm 1963, Lễ Hai Bà Trưng được mô tả như một Lễ Quốc Khánh thứ 2 sau lễ Quốc Khánh 26.10. Đó là một sáng kiến rất tốt, một cử chỉ đẹp có chính nghĩa không có ai công khai phản đối được. Nhưng vì khi trình diễn quá nhiều nên lại không thuận tình. Xin dẫn chứng về cái gọi là không thuận tình như thế này:
Lễ đài trần thiết thật long trọng tôn nghiêm có bàn thờ có tàn lọng có đồ bát biểu, gươm đao, khí giới...trên bục lớn của lễ đài trải nhung đỏ (màu tiêu biểu cho sự thiêng liêng tôn kính theo truyền thống nghi lễ dân tộc). Lễ nghi dành cho bậc anh hùng dân tộc như vậy là đúng. Nhưng người chủ lễ cũng rất quan trọng. Dư luận luôn luôn lưu ý về điểm này. Bà Nhu với tư cách đại diện Phụ Nữ Việt Nam và Đại diện Tổng Thống nhất là đại diện Tổng Thống nên bà được hưởng đầy đủ lễ nghi nào xe dành riêng cho Tổng Thống lại có đoàn xe Harley hộ tống khi đến lễ đài có đủ mặt Bộ Trưởng, Tướng Tá tăm tắp đứng lên “kính chào” và chào kính theo nghi lễ quân cách. Trên nguyên tắc thì đúng là vì đại diện Tổng Thống được quyền hưởng nghi lễ như vậy.
Thực tế chính trị và tâm lý truyền thống Việt Nam không chấp thuận như vậy. Dù cho là vợ một Tổng Thống, người Việt cũng cảm thấy khó chịu. Nếu vợ ông Tổng Thống cũng được hưởng nghi lễ đón tiếp dành riêng cho Nguyên Thủ Quốc Gia ở Tây Phương thì lại khác huống chi Bà Nhu chỉ là em dâu một Tổng Thống vốn được tôn trọng theo hàng trưởng lão quốc gia. Do đó mà dư luận bàn tán mỉa mai thành ra “kính chẳng bỏ phiền không ít”, Giọng nói của Bà Nhu qua các bài diễn từ cũng là một thất lợi vì giọng nói tuy mạnh thật, tuy có lửa nhưng lại vốn ra vẻ lãnh tụ như răn dạy, truyền bảo, thêm vào đó tiếng nói lại thiếu ngọt ngào truyền cảm, thiếu nữ tính...
Khi đã có quyền hành, có địa vị (dù là trong bóng tối) và một uy tín cần phải được bảo vệ trong tư thế lãnh đạo...Ông Nhu hay ai cũng không thể làm cách nào khác hơn trước một người vợ hay lớn tiếng, dám làm những việc động trời như Bà Nhu...Ông Nhu trở thành bất lực không thể ngăn cản vợ...đó chỉ là hậu quả của bản chất trí thức.
Vả lại, trước con mắt chủ quan của Ông Nhu thì người vợ ông không làm gì quá đáng trái lại công việc của Bà Nhu lại hợp lý và hữu ích cho quốc gia. Luật Gia Đình là một thí dụ.
Kể từ tháng 12.1957, Quốc Hội họp bàn sôi nổi về dự án của Luật Gia Đình, Bà Nhu đã từng bỏ phòng họp ra về với thái độ ngôn ngữ rất ngang ngược ngạo mạn. Đối với một tín đồ Thiên Chúa Giáo và người Tây phương thì đời sống lứa đôi chỉ có một vợ, một chồng, vấn đề đa thê không cần đặt ra. Tín lý Thiên Chúa Giáo không chấp nhận đa thê. Nhưng xã hội Việt Nam không phải là xã hội Tây phương và dân chúng Việt Nam không phải tất cả đều là tín đồ Thiên Chúa Giáo, giới Thiên Chúa Giáo chỉ là thiểu số (15% dân số). Cho nên luật này trên lý thuyết thì hay song thực tế không phù hợp với bản chất và nếp sống quảng đại của quần chúng. Hơn nữa, giới âm thầm phản đối chính là giai cấp Tướng Tá và công chức cao cấp cũng như công kỹ nghệ gia giàu có, phần lớn các vị này đều bị kẹt nếu không có vợ bé thì cũng lén lút giao du.
Bà Nhu đã lý luận “Đã đến lúc người phụ nữ đứng lên bình đẳng với người chồng ngay trong phạm vi gia đình, chỉ một vợ một chồng thôi...chỉ những kẻ hư hỏng không ra gì mới lấy vợ nhỏ rồi bỏ phế gia đình” Bà Nhu vẫn tin mình đi đúng đường với chủ trương cách mạng giải phóng phụ nữ trước hết từ gia đình để từ đó bước qua xã hội. Lý luận và chủ trương của bà nghe xuôi tai và hợp lý. Nhưng điều căn bản là cải tạo xã hội, không phải chỉ bằng một biện pháp ban hành một vài đạo luật.
Có thiện chí và hăng say nhưng Bà Nhu vẫn bị phản đối, dân chúng thờ ơ. Trước hết Bà Nhu không nắm được một vài định luật rất giản dị, đơn sơ của chính trị (những nhà lãnh đạo sau năm 1963 cũng đều mắc phải lỗi lầm như vậy vì là một thứ lãnh tụ “non” thiếu học tập, thiếu kinh nghiêm, không có căn bản chính trị)
Một trong những “định luật chính trị” căn bản của người lãnh đạo là không bao giờ được lấy chủ quan của mình để biến đổi khách quan (tức thực tại chính trị) nhưng ngược lại phải biết biến hóa chủ quan lãnh đạo của mình. Và thích hợp chủ quan với khách quan tức hòa đồng bản thân với thực tại đề nắm thực tại.
Từ bao lâu rồi, việc quốc gia đại sự nếu không may để một người đàn bà can dự vào thì mọi sự đang tốt lành cũng dễ trở thành u tối. Nói như thế không phải là khinh thị giới phụ nữ.
Nhưng lịch sử Đông Tây đã từng minh chứng như vậy. Đàn bà chỉ là đàn bà dù người đàn bà đó có tài ba như thế nào...
Bà Nhu là người có tài thực, có thiện chí nhưng tính kiêu ngạo và chủ quan cũng đã đủ làm cho bà trở thành đối tượng cho bao nhiêu điều phẩm bình, dị nghị đàm tiếu...Mẫu người như Bà Nhu sẽ dễ dàng thành công trong xã hội Mỹ. Ngôn ngữ cử chỉ cùng những phản ứng lanh lẹ bà sẽ dễ dàng thu hút được đám đông. Nhưng đám đông trong quần chúng Việt Nam lại trở nên xa cách với ngôn ngữ, dáng điệu và cử chỉ của bà. Qua mấy lần ra ngoại quốc như tại Moroco, Bresil...Bà Nhu đã thành công nhờ ưu điểm trên. Còn chuyến đi giải độc tại Hội Nghị Liên Hiệp Quốc Tế Nghị Sĩ tại Belgrade (Nam Tư 1963) và Mỹ Quốc Bà Nhu đã chứng tỏ được khả năng của mình và nhất là tại Mỹ Quốc, bà đã gây được nhiều sôi nổi sóng gió làm kinh động chính quyền Kennedy và Đảng Dân Chủ Mỹ. Nhưng với xã hội Việt Nam, bà hoàn toàn thất bại trước đám đông.
Người ta tự hỏi, tại sao một nhà trí thức uyên bác như Ông Nhu lại không kiềm chế được người vợ ? Tại sao ông ta không tìm cách ngăn chặn những hành động thất nhân tâm của vợ ? Ông Nhu sợ vợ ? Nói cho ngay tình thì Ông Nhu không phải là người sợ vợ, ông rất ghét “chuyện đàn bà” dính vô.
Bộ Luật Gia Đình đã gây sôi nổi trong dư luận một thời. Thực tế thì luật ấy cho đến khi ban hành và thực thi cũng không tạo được một tác dụng lớn lao nào trong cái tầng lớp dân chúng. Phản ứng của dân chúng đối với luật lệ như Luật Gia Đình không có gì đáng quan tâm vì luật pháp hãy còn hết sức xa vời với quảng đại quần chúng Việt Nam...Dù có luật hay không luật, đời sống vợ chồng giới bình dân đều dựa trên căn bản tình cảm “yêu nhau giá thứ bất luận tất”. Nhưng giới thượng lưu và nhất là giới Tướng Tá và công chức cao cấp tuy ngoài mặt hân hoan chào mừng Luật Gia Đình. Có ông Tòa 2, 3 vợ...Như vậy thì trách chi không oán ghét Bà Nhu. Bà Nhu thường bàn luận với mấy cộng sự viên của ông Cố Vấn chính trị như thế này: “Kinh nghiệm trong gia đình nội, ngoại của tôi, tôi biết rõ. Ai có vợ nhỏ thì đang trong sạch cũng trở thành tham nhũng, gia đình chia rẽ, rồi dòng con này, dòng con kia cứ lung tung, lộn xộn”. Khởi từ kinh nghiệm này, Bà Nhu quyết thanh toán chế độ đa thê mà bà nghĩ rằng nếu hoàn thành bà đã giải phóng cho nữ giới cái thảm cảnh gia đình vợ nọ con kia (chém cha cái kiếp lấy chồng chung, kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng). Trước điễn đàn Quốc Hội dạo năm 1957, cũng đã có nhiều Dân Biểu (kể cả mấy Dân Biểu trong Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia) mạnh dạn lên tiếng công kích dự án luật này. Bà coi mấy ông Dân Biểu không đi đến đâu cả...Bà Nhu coi thường nếu không muốn nói là khinh miệt một số Dân Biểu như vậy cũng có nguyên nhân. Vì rằng bà cũng biết rõ “chân tướng” của các ông. (Đời tư lần đời công cũng chẳng đẹp đẽ gì). Chức Dân Biểu của họ phần lớn cũng do “công ơn ban phát của Đoàn Thể...” Do đó, mà phản ứng của một số Dân Biểu trở thành vô hiệu hóa.
Trong một cuộc họp vào khóa đầu năm 1959. Bà Nhu công khai đả kích một số Dân Biểu ngay tại diễn đàn Quốc Hội và cho rằng ai chống đối Luật Gia Đình chỉ là những kẻ ích kỷ hèn nhát muốn lấy “vợ lẽ”. Thái độ chống đối đó thật là “hèn”. Mấy ông Dân Biểu quyết làm lớn vụ này và đòi Bà Nhu phải xin lỗi...về thái độ hống hách của bà. Sau đó Bà Nhu tỏ ra phục thiện và ra một cái thông cáo cải chánh là bà không nói các Dân Biểu thật hèn nhưng Bà chỉ nói Dân Biểu “thất hẹn”. Cách cải chánh của Bà kể cũng thông minh và khéo léo.
Tất nhiên ai cũng hiểu rằng, không ai lại nói “thái độ thất hẹn” cả. Nhưng ở đây bà lại bẻ quặt hai chữ thật hèn thành thất hẹn. Bà đã chơi chữ một cách thông minh và đúng lúc. Mấy ông Dân Biểu đành chịu đựng một cách hoan hỉ. Phụ họa với Bà Nhu còn một số nữ Dân Biểu thuộc “gà nhà”. Nhưng hầu hết trình độ chính trị còn non kém lại thiếu thông minh nên mới có một nữ Dân Biểu lớn tiếng bệnh vực Luật Gia Đình và đưa ra một “định thức” Đàn bà đẻ ra đàn ông. Nhờ câu nói “phàm phu tục tử” này mà cả mấy năm trời báo chí có đề tài đem ra “thị phi”.
Dự Luật Gia Đình bàn cãi vòng vo cả năm. Bà Nhu quyết liệt phải đạt thắng lợi hoàn toàn. Dân Biểu Nguyễn Hữu Chung được coi là kện tướng dám đương đầu. Ông kết án Luật Gia Đình trái với thiên nhiên, xúi dục vợ chồng kiện nhau và chỉ tạo ra cảnh rối loạn trong gia đình. Bà Nhu lại ra chỉ thị cho các Dân Biểu “gà nhà” kể cả mấy tờ báo kịch liệt công kích Dân Biểu Chung. Cuối cùng như ta đã biết Bà Nhu thắng thế. Nhưng sự thắng lợi của bà không đi đến đâu, vì luật lệ tự nó không thể cải cách được xã hội, muốn dùng luật pháp để cách xã hội thì trước đó phải vận động dư luận, gây ý thức trong quần chúng, học tập thực tế và dùng biện pháp cùng các thể chế của chính trị. Không thể cách mạng nông thôn bằng luật này luật kia để nông dân có ruộng rồi coi là cách mạng. Đó chì là hình thức tuyên truyền, khoa trương thanh thế.
Thực tế thì Luật Gia Đình có nhiều điểm phù hợp với tinh thần thượng tôn hạnh phúc và bảo vệ trật tự xã hội qua trật tự gia đình. Thế nhưng lại có một số điểm quá khắt khe, không phù hợp với thực tế, thiếu căn bản của một tinh thần xã hội trong truyền thống Việt Nam. Do đó mà cả cái hay cái đẹp đều bị che lấp bởi cái dở...Nhận định của quần chúng vốn nông nổi như một người nhìn giấy trắng và chỉ chú ý đến một vết mực đen (dù vết đen đó rất nhỏ và ở ngoài lề). Bà Nhu hãnh diện với Luật Gia Đình nhưng luật ấy có tác dụng hay không thì lại là chuyện khác. Sau đó bà lại đưa ra dự án luật Lành Mạnh Xã Hội. Trước đó tháng 5.1958 tại Quốc Hội bà đưa ra đề nghị thành lập Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới và kêu gọi các bà vợ công tư chức Quân Nhân tham gia Phong Trào. Quốc Hội Khóa II ( tháng 8.59) đã có 9 nữ Dân Biểu trong đó có Bà Nhu. Bà lại khởi công hoàn thành dự án luật “lành mạnh xã hội”. Sau cái tên này bị đả kích được đổi thành luật bảo vệ luân lý (ban hành năm 62 bị bãi bỏ sau đảo chánh bởi Sắc Luật 2-63.
Dự luật này cũng gây sôi nổi không ít. Xét cho công bằng, khi đưa ra dự luật này, Bà Nhu nắm ngay được chính nghĩa vì rằng chỉ có một tối ưu tối thiểu số là nạn nhân của luật bảo vệ luân lý. Thiết tưởng dù là ở một thời đại nào, ở một chế độ nào (ngoại trừ chế độ của những kẻ hãnh tiến ăn chơi sa đọa và coi nhẩy đầm như một lý tưởng đáng tôn thờ) không ai có thể tán trợ cho các thiếu niên uống rượu hay hút thuốc hoặc tán trợ cho nạn phá thai, đồng bóng...Ấy thế mà người ta vẫn chống đối và hè nhau tạo nên niềm công phẫn. Bà Nhu lại trở thành trung tâm điểm của bao mũi dùi dư luận. Dĩ nhiên luật ấy cũng có những điểm quá đáng và thực tế.
Trên quan điểm quần chúng cũng như phong tục truyền thống dân tộc thì dự luật bảo vệ luân lý của Bà Nhu là một công trình tốt đẹp với thánh ý xây dựng rất rõ rệt. 15 triệu đồng bào bất quá chỉ có vào khoảng nửa triệu ảnh hưởng đến luật này nhưng chính lớp người tối ưu thiểu số đó lại có tác dụng sa đọa hóa xã hội Việt Nam và đồng thời vong bản hóa bản chất dân tộc cũng như bôi đen cả tập tục tốt đẹp của xứ sở. Do đó không thể nào buông thả cho một thiểu số này sống phóng đãng được trong khi quảng đại quần chúng vẫn phải sống đời sống lầm lũi cơ cực và trong khi mà nếp sống của quảng đại quần chúng vẫn tập thành trên căn bản của truyền thống cao đẹp.
Về công trình này, Bà Nhu đứng hẳn về phía quần chúng, lập trường là lập trường xã hội dân tộc. Nhưng Bà lại càng gặp phải phản ứng dữ dội tuy ngấm ngầm. Nhiều Tướng Tá hay một số công chức cao cấp đều mê cái món nhẩy đầm. Các bà lớn thì bài bạc.
Phần nhiều các con ông lớn thì rượu chè thuốc sái (con nhà nghèo và trung lưu thì lấy tiền đâu ra)...Các vũ nữ lại là thành phần liên kết ruột thịt với một số Tướng Tá công chức cao cấp, công kỹ nghệ gia ăn chơi và giới “văn minh” đô thị. Bà Nhu vô tình đã đụng độ với những địch thủ ghê gớm đó.
Quảng đại quần chúng từ nông thôn đến trung lưu không ai chê trách gì luật bảo vệ luân lý (có hay không đối với họ không quan trọng) nhưng một giới khác thì luật này trở nên quan trọng.
Việc cấm nhẩy đầm của Bà Nhu cũng gây bất mãn lớn trong giới ngoại kiều tại Sài Gòn (Tây Phương nhẩy đầm là một nghệ thuật, một trò giải trí thanh lịch truyền thống). Năm 1961
Phái Đoàn Maxxwell Taylor qua Việt Nam tìm hiểu về chương trình kinh tế Vũ Quốc Thúc- Staley...Trong một cuộc gặp gỡ mấy Bà, Ông Taylor không đề cập vấn đề nào khác hơn là chuyện nhẩy đầm. Ông cho rằng sự cấm đoán như vậy là kỳ quái. Một cách lỗ mãng, sống sượng hơn nữa, một giới chức Mỹ trong phái đoàn đã hỏi mấy bà “Nếu cấm đoán như vậy thì đàn ông chỉ còn là sở thích của đàn bà hay sao”.
Đáng lý chuyện nhẩy đầm nếu cấm thì cũng nên linh động uyển chuyển nhưng kẻ thi hành lại quá hăng hái trong việc lập công. Trường hợp nữ giới chức thuộc Lãnh Sự Đoàn Liban, cư ngụ tại Đường Trương Minh Ký, đã bị nhân viên công lực gây phiền phức tạo nên dư luận không tốt trong giới ngoại giao.
Bà này đã có tuổi. Nhân dịp một tầu hàng Liban cập bến, một số thủy thủ đồng hương của bà đến thăm rồi nghe nhạc theo vũ điệu...Thế là Cảnh Sát cũng ập vào lập biên bản đem về bót. Rất nhiều trường hợp như vậy xảy ra. Giới ngoại kiều càng thêm bất mãn và đó cũng là sự thất lợi về “ngoại giao”. Trong khi triệt để cấm nhẩy đầm mấy ông Tướng Tá vẫn cứ lén lút du dương.
Riêng việc cấm nhẩy đầm, Bà Nhu tỏ ra dè dặt. Bà cũng là một dân nhảy nổi tiếng từ thủa còn đi học tại Hà Nội. Cấm nhẩy đầm sẽ dụng chạm đến nhiều ông tai to mặt lớn. Trong một phiên họp của ban chấp hành Phụ Nữ Liên Đới, vấn dề nhảy đầm được mổ xẻ cặn kẽ. Phiên họp này qui tụ nhiều quý bà “lừng danh”. Một số ý kiến cho rằng chỉ giới hạn việc nhẩy đầm mà không nên tuyệt đối cấm. Một bà Tướng Tổng Thơ Ký của Phong Trào Liên Đới lại “bảo hàng hơn vua” đã yêu cầu “Bà Cố Vấn” phải cấm triệt để. Bà Nhu vẫn lờ lững chưa quyết định hẳn, nhưng cuối cùng vẫn quyết định cấm nhảy.
Việc cấm nhảy đầm được nhiều “bà lớn” tán thành triệt để vì đức ông chồng của quí bà đều thuộc loại “hảo ngọt lẫy lừng”. (Vụ vũ nữ Cẩm Nhung là một dẫn chứng)
Thế nhưng, cấm là một chuyện còn nhảy vẫn nhảy. Nhiều Tướng Tá vẫn “lén lút mở bar” ngay trong doanh trại hay tư dinh.
Ai ở Nha Trang vào những năm 1961-1962 đều biết rõ chuyện ông Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Đồng Đế vẫn mở bar đều đều lại cho sĩ quan hầu cận về tận Sài Gòn kiếm vũ nữ và bao dàn cả tuần. Do đó, dư luận đã bàn phiếm về việc ba ông Tướng hoan hỉ tham gia cách mạng 63 chỉ là do nguồn khát vọng từ tiềm thức do những dồn nén quá độ về món nhảy đầm. Thành ra sau ngày 1.11.1963, các ông “lớn” này ăn mừng cách mạng qua những đêm thần tiên trên sàn nhảy.
Chuyện nhảy đầm lậu tại Nha Trang, Đà Nẵng cũng như Pleiku do mấy ông Tướng Tá và cao cấp đỡ đầu đều lọt vô tai Tổng Thống Diệm. Ông Tổng Thống cố ý làm ngơ.
Không phải là người Mỹ ghét Bà Nhu qua biến cố Phật Giáo 63. Bà Nhu đã bị báo chí Mỹ công kích lai rai từ năm 1959. Tòa Đại Sứ Mỹ ngoài vợ chồng Đại Sứ Nolting, ông Richardson và Tướng Harkins có thể nói hầu hết không có ai có thiện cảm với Bà Nhu. Từ Lu Conlin đến Colby (trước 1961) và Phó Đại Sứ Trubeart đều không chấp nhận sự hiện diện của Bà Nhu. Họ ngang nhiên dùng những từ ngữ tục tằn nhất để phê phán về chuyện cấm nhẩy đầm, cấm mãi dâm, cấm nam nữ giao du thân mật.
Vì quá chủ quan nên cứ tưởng rằng ta có thành ý có lòng tốt đối với quần chúng thì quần chúng phải theo ta. Thành ý và lòng tốt theo chủ quan trong rất nhiều trường hợp đã mâu thuẫn và bội phản lại thực tại khách quan cho nên có nhiều ông lãnh tụ có chủ trương hay có ý chí vững một lòng vì dân vì nước nhưng tại sao vẫn bị dân chúng oán thán, vẫn chống đối? Giản dị chỉ vì, nhà lãnh đạo không đáp trúng khát vọng của quần chúng và cứ tưởng rằng ta thích gì thì quần chúng thích cái đó rồi sống trong một ảo tưởng thần thánh.
Bà Nhu qua công việc đã thực hiện và lời nói thì quả thực bà muốn thực hiện những gì tốt đẹp nhất cho phụ nữ Việt Nam. Nhưng thoát thai từ trong nhung lụa tháp ngà, điều đó đã trở nên bức tường thành ngăn cách giữa lòng tốt và ý chí lãnh đạo với đại đa số phụ nữ, khi Bà Nhu dự định dưa ra dự luật “quyền bình đẳng” cho phụ nữ. Nhưng vẫn chỉ là ảo tưởng xa vời thực tế vì không hiểu thực chất và hoàn cảnh phụ nữ Việt Nam. Khi bà chủ trương “Lương công nhân phụ nữ phải đồng đều với nam công nhân”. Chủ trương ấy không hợp lý cũng không hợp tình. Tại nhiều quốc gia Á Châu như Tân Gia Ba, lương một nữ giáo viên bao giờ cũng thấp hơn nam giáo viên vì căn cứ trên năng xuất thì nam bao giờ cũng hơn nữ. Tại Việt Nam tiến bộ hơn nhiều quốc gia khác về mặt này. Giáo chức cũng như công chức lương bổng đồng đều theo ngạch trật. Bà Nhu tiến thêm bước nữa là đòi cho nữ công nhân bằng lương nam công nhân. Phản ứng giới chủ ra sao?
Hãng BGI chẳng hạn, Ban Giám Đốc cho rằng “đàn bà năng sức yếu lại còn sanh nở và nhiều cái yếu khác nữa. Do đó nếu buộc họ trả lương ngang với nam công nhân thì họ không dại gì thuê nữ công nhân”. Trên thực tế vốn như vậy. Nếu luật ấy được chấp nhận thì sẽ chỉ là văn bản chết và không giúp ích gì cho phụ nữ trái lại còn gây ra cho họ bao nhiêu khó khăn.
Nhờ những yếu tố nào mà Bà Nhu tạo được uy quyền trên thực tế? Đơn giản nhất là sự khôn khéo tinh ranh và nhiều sáng kiến với một tiềm lực tinh thần rất mạnh về trực giác, Bà Nhu đã ảnh hưởng sâu xa trong đời sống của năm anh em trong gia đình Tổng Thống Diệm đến Ngô Đình Thục và kẻ cả ông Ngô Đình Cẩn.
Ông Cẩn được coi là chống đối Bà Nhu kịch liệt và chửi chị dâu cũng không tiếc lời nhưng ông Cẩn chỉ chửi “đổng” thế thôi. Trong gia đình ông vẫn chịu lép vế. Thí dụ về việc lập Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới tại Miền Trung. Phong Trào này vẫn bĩu môi khinh bỉ “Mấy con mụ đó mần được chi, chỉ ăn hại”. Trước năm 1961, nhiều bà vợ của các ông lớn tại Miền Trung cũng muốn lập Hội để có ăn nhưng ông Cẩn ghét như vậy nên đành chịu.

Khi Bà Nhu nhúng tay vào quyết định phát triển ra Trung...ông Cẩn đành chịu thua. Bà lại còn chỉ thị cho Huế, Đà Nẵng phải tuân hành theo ý Bà mà thôi, Bà rất coi thường ông Cẩn cũng như chỉ để trong lòng.
Dịp ra Huế chủ tọa thành lập Phong Trào là cả một việc trọng đại. Chúng qui Bà đã áp đảo được chú em chồng. Trước hôm đó, cả một Đại Đội thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống được gởi ra Huế để lo an ninh cho Bà Cố Vấn. Giới chức thẩm quyền toát mồ hôi vì phải lo tổ chức sao cho long trọng. Ông Cẩn trong lòng tức tối nhưng cũng đành chịu vì chính ông cũng phải đứng ra đôn đốc cho các giới chức lo liệu thực chu đáo. Điều nực cười nhất là hôm lễ khai mạc, Bà Nhu như một nữ hoàng thì Cậu Cẩn rụt rè khiêm tốn như một công tử miền quê uy quyền. Trước đám đông ấy Cậu Cẩn chả còn gì...khiêm tôn, nhỏ bé, nhọc nhằn. Trong khi đó, từ cách đón tiếp đến chiếc ghế ngồi qua ngôn ngữ và cử chỉ Bà Nhu lấn át hoàn toàn chú em chồng.
Đây là lần đầu tiên ông Cẩn đành chịu khuất phục uy quyền của bà chị dâu, người mà ông Cẩn rì rả công kích nhiều khi dùng cả chữ “con mụ” và “lăng loàn” để chỉ thị Bà Nhu.
Khi Bà Nhu trở về Sài Gòn thì Phụ Nữ Liên Đới cũng theo Bà mà đi luôn. Miền Trung vẫn là đất của ông Cẩn...Phong Trào Liên Đới chỉ được phép phát triển tại Nam phần và mấy Tỉnh Cao Nguyên.
Sở dĩ, trước mặt Bà Nhu ông Cẩn phải chịu khuất phục vì bà ta đã biết sử dụng cái bề thế của bà chị dâu trong gia đình vốn khắt khe với những tôn chỉ lễ giáo. Còn Tổng Thống Diệm thì như thế nào?
Điểm quan trọng sau đây đã giúp cho Bà Nhu thành công trong việc khuất phục ông anh chồng Tổng Thống.
Thí dụ điển hình vẫn là những quan niệm về luân lý của Bà Nhu. Quan niệm đó rất thích hợp với quan niệm và bản chất nho sĩ cùng nhu tu đức Thiên Chúa Giáo trong con người của Tổng Thống Diệm. Khi Bà Nhu đưa ra dự luật “bảo vệ luân lý” (lành mạnh hóa xã hội) thì được Tổng Thống Diệm hoàn toàn tán đồng và còn khích lệ. Báo chí và Quốc Hội lên tiếng công kích, bình phẩm (tất nhiên là yếu ớt) Tổng Thống Diệm lại cho rằng dư luận lầm lẫn vì có nhiều người ganh ghét Bà Nhu mà tìm cách nói xấu dèm pha. Bà Nhu đã trình bày với ông anh Tổng Thống như thế nào mà được Tổng Thống dễ dàng chấp nhận và hết sức tán trợ.
Trước hết xin đan cử một vài chi tiết đã thể hiện quan niệm luân lý và tâm tính bất thường của Tổng Thống Diệm qua khía cạnh này. Dạo năm 1959 một thời đại “vàng son” của hội bảo vệ luân lý do Linh Mục Hoàng Yến tất nhiên không thể thoát khỏi những lý do “méo mó nghề nghiệp” qua quan niệm tu đức và luân lý giữa thế giới tu hành và xã hội ngoài đời. Linh Mục Yến qua những lần đi quan sát ngoài phố, Linh Mục chụp được một số ảnh tượng bán thân và khỏa thân trưng bày tại mấy tiệm bán đồ điêu khắc và mỹ thuật trong đó có mấy bức tượng được coi là hoàn toàn “lõa lồ” trưng bày tại tiệm Mai Lĩnh, Đường Phan Thanh Giản. Thêm vào đó còn có cản một số hình đàn ông đàn bà, trai gái tắm chung ở piscine (dĩ nhiên là mặc đồ tắm)
Đối với một người bình thường và qua những quan niệm bình thường trong đời sống thì những hình ảnh trên đây không có gì đáng chú ý. Tượng phụ nữ lõa thể chỉ là một công trình của nghệ thuật. Trai gái tắm piscine với quần áo lót hở hang cũng là chuyện quá thông thường.
Nhưng nó lại trở nên quan trọng trước mắt một vị Linh Mục Hội Trưởng Hội Bảo Vệ Luân Lý. Linh Mục Hoàng Yến làm một phúc trình dài kèm theo hình ảnh gởi lên cho Tổng Thống Diệm.
Chỉ mới xem qua những tấm hình đó, ông Tổng Thông đã đỏ mặt, bất thần nổi giận. Ông dùng bút đỏ phê vào bản phúc trình “Ông Lương cấm ngay” (ông Nguyễn Văn Lương lúc đó là Tổng Giám Đốc Xã Hội). Nhận được bản phúc trình trên, ông Nguyễn Văn Lương hết sức lo âu, không biết phải xử trí như thế nào. Ông đành hỏi ý kiến người trong Phủ. Tất nhiên là không có một ý kiến nào khác hơn tìm cách khôn khéo nhất để áp dụng lệnh của Ông Tổng Thống. Ý kiến được nêu ra như sau: Ông Nguyễn Lương cho người đến vài tiệm Mỹ Thuật như tiệm Thế Hệ nói khéo để họ thông cảm trưng bày một cách kín đáo bức tượng bán thân lõa thể. Hai hôm sau ông Nguyễn Lương vào trình Tổng Thống với đầy đủ hồ sơ để tỏ ra rằng đã tuân theo chỉ thị của thượng cấp.
Tổng Thống Diệm lại vui vẻ gật đầu: “Ừ, ừ thôi được”. Từ đó, ông Tổng Thống quên cả chuyện cấm trai gái tắm piscine cũng như chuyện cấm trưng bày tượng bán thân.
Với một quan niệm luân lý khắt khe và quá cổ như vậy lại có những phản ứng bất thường nên Tổng Thống Diệm dễ dàng bị Bà Nhu thuyết phục. Đây là một pha thuyết phục Tổng Thống của Bà Nhu do sĩ quan hầu cận kể lại (khi vào Phòng Tổng Thống trình việc gì thì luôn luôn phải có sự hiện diện của một sĩ quan hầu cận hay Tùy Viên).
Bà Nhu thuyết phục Tổng Thống Diệm để ông chấp thuận luật bảo vệ luân lý, đại cương như sau: Luân Lý Việt Nam hiện nay đang suy đồi. Trẻ con thì hư hỏng người lớn thì bài bạc sa đọa. Một người như Tổng Thống Diệm nghe nói như vậy tất nhiên phải lo lắng cảm phục người em dâu nổi tiếng văn minh tân thời nhưng lại tỏ ra thoát xác biến nghĩ đến con đường thành thiện.
Bà Nhu biết yếu điểm của ông anh chồng...nên chỉ đưa ra đoạn mở đầu như vậy nhằm gây xúc động. Sau đó bà mời trình bày những biện pháp giải quyết.
Những biện pháp ấy đều lý tưởng cả. Ông Tổng Thống cho là người em dâu có thành ý xây dựng đất nước. Bà nhảy đầm rất tài hoa mà nay lại đề nghị cấm nhảy thì ai mà không cho là hy sinh đáng quý. Ông Tổng Thống đã tin tưởng như thế thì đề nghị nào mà không được chấp thuận. Việc cấm bài bạc thì vốn là chủ trương của ông. Tứ đổ tường đối với Tổng Thống Diệm là một tội ác làm cho người ta “sa hỏa ngục”. Thiếu niên uống rượu hút thuốc lại càng phải cấm triệt để...Từ nhỏ chí già Ông Tổng Thống có uống rượu đâu. Còn hút thuốc lá thì ông chỉ hút phà khói...Hóa cho nên, dự luật bảo Vệ Luân Lý của bà em dâu đối với ông hiển nhiên là hợp lý hợp đạo.
Khi Ông Tổng Thống để hết mình ủng hộ dự luật ấy thì còn ai dám chống đối. Một vài Dân Biểu lên tiếng công kích một số sai lầm và không thực tế của dự luật này. Tuy nhiên sự công kích chỉ là dàn cảnh để tạo ra dư luận cho ra vẻ hợp lý có vẻ dân chủ thế thôi.
Trong những buổi họp của Ban Chấp Hành Phụ Nữ Liên Đới Bà Nhu trở thành một chiến sĩ tiên phong trong cuộc giải phóng phụ nữ. Còn thực tế có giải phóng được không thì 9 năm đã trả lời đầy đủ. Tuy nhiên phải công minh nhận rằng Bà Nhu đã làm được nhiều điểm tốt, dù làm theo chủ quan của bà. Chẳng hạn như vấn đề cấm triệt để thiếu niên không được uống rượu hút thuốc lá, cấm hẳn bài bạc (trừ món tổ tôm được tòa án cho là không thuộc loại đổ bát sát phạt) Bà Nhu có môt ý kiến như thế này về giá trị thân xác đàn bà. Tưởng cũng nên ghi lại đây về việc cấm thi sắc đẹp, bà cho rằng “thời Trung Cổ người Tây phương trưng bày nô lệ tại phố cho bọn nô lệ xếp từng hàng cho người ta đến xem xét đánh giá như mua bán xúc vật, con này mông to, con kia ngực nở con nọ thuộc giống tốt...Với những giá bao nhiêu. Thi sắc đẹp, tuyển lựa hoa khôi của Tây phương xuất phát khởi thủy từ các cuộc trưng bày mua bán nô lệ từ thời Trung Cổ. Ở xứ ta không chấp nhận được cái trò đó”.
Bà Nhu nói riêng với Bà Lương Khải Minh “Ăn mặc hở hang, để cả ngực cả đùi ra cho đàn ông họ nhìn ngắm rồi họ đánh giá họ cho điểm làm như vậy ô nhục lắm hạ giá nhân phẩm của người phụ nữ ngang với bọn nô lệ thời Trung Cổ. Phụ nữ Á Đông không thể chấp nhận như vậy...” Với lập luận như vậy vừa xác đáng vừa có căn cứ vừa có “chính nghĩa” bảo vệ tinh hoa phụ nữ Á Đông...Cho nên Tổng Thống Diệm cũng như Ông Nhu và những người hiểu biết không nông cạn lắm đều cho Bà Nhu có thiện chí và sáng suốt. Do đó mới có vụ cấm luôn các vụ thi sắc đẹp, tuyển lựa hoa khôi và kể cả thi lực sĩ đẹp. Bà Nhu luôn luôn nhắc nhở “Đàn ông họ ích kỷ lắm...Phụ nữ không thể chỉ là trò chơi cho họ mua vui được. Mãi dâm và làm gái nhẩy là những việc ô nhục đồi bại nhất cho người phụ nữ”.
Giá như Bà Nhu không phải là một em dâu của một ông Tổng Thống đương nhiệm thì thiện chí và những cố gắng giải phóng phụ nữ của Bà Nhu đáng ca ngợi.
Nhưng ở đây lại khác. Trong khi Bà cố gắng hoàn tất Dự Luật Gia Đình cũng như Dự
Luật Bảo Vệ Luân Lý thì trong dư luận từ Thành đến Tỉnh và nhất là trong giới thượng lưu đã đồn đãi rất nhiều về những cái gọi là “lem nhem bê bối” thuộc đời tư của Bà. Dư luận thì nhiều lắm. Nhưng đâu là chứng cớ? Tuy vậy quần chúng đông đảo vẫn lập luận rằng “nếu không có lửa sao có khói”. Rồi một số “phu nhân” vây bủa quanh Bà xem ra phần đức hạnh cũng không có gì được đảm bảo cho lắm. Quan hệ là chỗ đứng. Chỗ đứng của Bà Nhu không thuận lợi cho mọi đề xướng cải cách của Bà khi những cải cách đó hoặc còn quá sớm hoặc không phù hợp với tập quán cổ truyền. Dư luận xuyên tạc rất nhiều về cuộc tình duyên của Bà với Tướng Đôn...Lại có dư luận cho rằng Đại Sứ Nolting bị Bà Nhu mê hoặc trong lưới tình. Tục ngữ Việt Nam có câu “ghét ai ghét cả đường đi lối về”. Trong 9 năm qua cử chỉ và ngôn ngữ, Bà Nhu làm cho nhiều giới và nhiều người “mích lòng” thực. Cái dễ ghét rất giản dị chỉ vì tâm lý và truyền thống Việt Nam không ưa đàn bà múa may hay lợi dụng chức vị của chồng mà làm “lớn lối” chỉ nguyên một chuyện sử dụng ngôn ngữ đao to búa lớn của Bà đã làm cho người ta dễ ghét. Trong cái dễ ghét đó tất nhiên do sự ghen tức nhau. Các ông thường bị ảnh hưởng các bà. Các bà thấy Bà Nhu như vậy nếu không có cơ hội được gần Bà thì trở nên ghen ghét nói xấu. Ai nói xấu thì nói không đáng kể chứ đàn bà nói xấu nhau quả là một nghệ thuật qua khả năng sáng tạo về tưởng tượng. Nhiều câu chuyện “mê ly gây cấn” chung quanh con người Bà Nhu hầu hết do một số phu nhân dựng đứng lên...rồi lan rộng ra dư luận và dư luận lâu ngày trở nên như là thực.
Tổng Thống Diệm không được nghe những dư luận đó và chỉ nhận được lời công kích Bà Nhu qua việc làm của Bà như Dự Luật Gia Đình và bảo vệ luân lý. Một số báo Mỹ tiết lộ Bà Nhu có một gia tài đồ sộ tại Ba Tây (đồn diền cafe) và Thụy Sĩ. Tổng Thống Diệm không tin vì ông vốn có thành kiến với báo Mỹ. Còn sự công kích Luật Gia Đình cũng như Bảo Vệ Luân Lý ông Tổng Thống đều cho là ganh tị phá hoại và do một số người có vợ nhỏ “dông dài ham chơi” nên cố ý phá Bà Nhu.
Tóm lại Bà Nhu hiểu rõ tâm tính và cuộc đời đạo đức của anh chồng. Bà lợi dụng ngay những đặc điểm đó để tạo ảnh hướng với Tổng Thống. Khi đã tạo được ảnh hướng với Tổng Thống...thì hàng Bộ Trưởng, Tướng, Tá đối với Bà chả có nghĩa lý gì cả. Tuy vậy, vì biết rõ tính ông anh, Bà Nhu không bao giờ công khai bày tỏ một ý kiến nào về hoạt động của chính phủ cũng như các nhân vật văn võ. Trước mặt Tổng Thống Diệm, Bà luôn luôn tỏ ra mình chỉ biết lo công việc của phụ nữ. Khi nào có đại biến như vụ Tướng Hinh vụ Bình Xuyên và cuộc đảo chánh hụt 11.11.60 Bà Nhu mới nhẩy vào vòng.
ẢNH HƯỞNG CỦA BÀ NHU ĐỐI VỚI ĐỨC CHA THỤC
Ảnh hưởng của Bà Nhu đối với Đức Cha Ngô Đình Thục như thế nào? Ảnh hưởng ấy người ta chỉ có thể cảm thấy một cách bàng bạc. Mỗi khi về ở trong Dinh, Đức Cha Thục đều dùng cơm chung với gia đình Ông Nhu. Trong những bữa cơm thân mật gia đình đó, anh em tỏ ra tương đắc từ chuyện hàn huyên đến việc quốc gia đại sự. Bà Nhu không những đóng trọn vai trò của một người em dâu mà luôn luôn tỏ ra một con chiên hết sức kính cẩn, vâng phục một vị Giám
Mục. Bà theo đạo chồng (gọi nôm na là Đạo theo) nhưng từ ngày vào ở trong Dinh Bà tỏ ra một tín đồ ngoan đạo. Mặc dầu đã mấy lần Bà Nhu công khai phê bình một số Linh Mục với lời lẽ phạm thượng sỗ sàng nhưng với ông anh chồng Đức Cha thì lại khác, Đức Cha Thục thường khen ngợi Bà Nhu trước mặt nhiều người “Bà Cố Vấn tốt đạo lắm, siêng năng xưng tội rước lễ lắm” chỉ một lời khen đó ta cũng thấy Đức Cha tin tưởng người em dâu như thế nào.
Về mặt tâm lý, ảnh hưởng của Bà Nhu đối với Đức Cha Ngô Đình Thục cũng dễ hiểu. Dù là Giám Mục hay ở một tước vị cao sang nào cũng vẫn chỉ là con người cùng với những “yếu điểm tâm lý” của con người.
Mà người ta càng già bao nhiêu thì càng thêm nhiều “yếu điểm tâm lý”. Nhất là người già trong thế giới tu hành. Nỗi cô đơn của một nhà tu càng lớn càng mênh mông khi tuổi đời mỗi ngày một chồng chất. Những ẩn ức trong tiềm thức của một người già cô đơn lại càng dễ dàng bị chinh phục bởi những an ủi vỗ về của người thân yêu. Nhất là người thân đó lại là một cô em dâu trong gia đình. Bà Nhu đã thành công nhờ ưu điểm này. Kinh nghiệm và sách vở đã cho thấy, trong một Xứ Đạo với một vị Linh Mục già thì bà quản gia mới là người có ảnh hưởng nhiều nhất đối với Linh Mục.
Vị Sư già trụ trì trong một ngôi Chùa thì bà vãi nào khôn khéo, đảm đang sẽ được thầy tin cậy...Sự tin cậy cũng như ảnh hưởng trên đây không hề có chuyện tội lỗi trái lại rất thành thiện và chỉ phản ứng của một dồn nén cô đơn trong tiềm thức của một nhà tu luống tuổi.
Trường hợp Đức Cha Ngô Đình Thục cũng không thoát khỏi những phản ứng tự nhiên đó.
Những phản ứng thân yêu trong trái tim con người tương tự như con người của bà mẹ đối với con người của cậu con trai hay một ông bố chồng già đối với một người con dâu hiếu thảo khéo léo.
Mỗi khi Đức Cha Thục về Dinh Độc Lập thì Bà Nhu lo toan từ món ăn thức uống và lúc đó trước mặt Đức Cha Bà Nhu chỉ là một cô em gái ngoan, dịu hiền ăn nói ngọt ngào dễ thương.
Đức Cha đã dùng tất cả mọi ảnh hưởng của mình để hỗ trợ 2 Dự Luật của Bà Nhu nhất là Luật Gia Đình. Đức Cha Ngô Đình Thục hết lòng hỗ trợ và bênh vực Luật Gia Đình cũng là điều dễ hiểu vì nó đã thể hiện đầy đủ tinh thần luyến ái quan Thiên Chúa Giáo. Với một tín đồ Thiên Chúa Giáo thì việc cấm ly dị là điều hiển nhiên theo phép hôn phối.
Đối với một Giám Mục thì còn gì đáng ca ngợi đáng ủng hộ hơn một Đạo Luật đời cấm ly dị và đời sống lứa đôi chỉ một vợ một chồng. Tuy nhiên, như trên đã viết trong số 14 triệu dân Việt ở Miền Nam thì tín đồ Thiên Chúa Giáo không tới 2 triệu. Vả lại, luyến ái quan Thiên Chúa Giáo lại có nhiều điểm đối nghịch với luyến ái quan của người Việt Nam bình dân và kể cả luyến ái quan Nho Giáo mà luật pháp bao giờ cũng phải xây dựng trên căn bản công bình bất phân tôn giáo giai cấp.
Nhưng một vị Giám Mục như Đức Cha Thục tất nhiên không nghĩ như vậy khi mà ông em đang là Nguyên Thủ Quốc Gia. Bà Nhu lại có sáng kiến đưa ra luật ấy lẽ dĩ nhiên, ông anh Đức Cha phải lấy làm cảm phục và cho rằng cô em dâu đã làm những việc cao quí trong tinh thần phúc âm.
Từ luật gia đình cùng những ngôn ngữ cử chỉ khéo ăn khéo nói của Bà Nhu đã giúp cho Bà tạo được những yếu tố sống động gây ảnh hưởng mạnh mẽ nơi Đức Cha Thục. Nhưng luật Gia Đình đã làm cho Bà thất bại hơn là những dư luận đồn đại về đời tư của Bà. Bởi luật đó chỉ tạo thêm những thị phi và đàm tiếu của quần chúng. Trên thực tế, trai gái vẫn cứ tự do giao du, lấy nhau cứ việc lấy nhau, hôn thú chưa phải là điều chính yếu.
Luật cấm ngoại hôn không được hưởng gia tài không được hưởng một quyền lợi của người cha nhưng thực tế người Việt Nam vẫn sống theo một thứ luật bất thành văn trên tinh thần “con nào cũng là con”.
Dư luận đàm tiếu không phải đàm tiếu về nội dung đó. Hầu hết quảng đại quần chúng có mấy ai tìm hiểu luật pháp mà biết nó hay hoặc dở. Duy có một điều Luật Gia Đình của Bà Nhu cấm không cho đàn ông lấy vợ nhỏ nhưng cô chánh văn phòng bà (gọi là cô cho danh chính vì, theo luật ấy thì cô chưa có chồng) nhưng ai lại không biết cô là vợ nhỏ của một ông chồng văn nhân (thường tình nếu cô ta không phải là “chánh văn phòng” của Bà Nhu thì chả ai chú ý thị phi vì vợ lớn vợ nhỏ cũng đều là vợ cả miễn sao được chồng yêu thương). Đằng khác dư luận giới cao cấp không ngớt bàn ra tán vào về đời tư của mấy bà “lớn” trong Ban Chấp Hành Liên Đới.
Nào là vợ nhỏ sau “đá vợ cả” của ông Tướng để lên ngôi chính thất. Nào là bà Tá B vốn đã có một đời chồng rồi sau “mèo chuột” bỏ chồng lấy ông Tá B...Dự Luật đàm tiếu tùm lum như vậy. Mà dự luật ấy có thật chứ không phải do thêu dệt. Nhưng từ đó dư luận được dịp phụ đề thêm
“hoa lá”. Đó cũng là cái nguy cho một cá nhân trong guồng máy lãnh đạo khi cá nhân đó trở thành cái đinh của dư luận. Trong khi đó, nhờ Luật Gia Đình cũng như công tác xã hội mà Bà Nhu đề ra, càng ngày càng tăng cường ảnh hưởng của Đức Cha Thục.
ẢNH HƯỞNG CỦA BÀ NHU ĐỐI VỚI ÔNG CHỒNG
Còn Ông Nhu? Giới thân cận nhất của ông đều xác nhận trước năm 1955, Bà Nhu không tạo được ảnh hưởng chính trị nào đối với ông chồng “đa mưu túc kế” rất uyên thâm. Nhưng nó lại như thế này, từ ảnh hưởng tâm sinh lý của bà vợ đã dễ dàng biến thành ảnh hưởng chính trị... Trước năm 1945, ông Ngô Đình Nhu chỉ coi bà vợ như một cô em gái không biết gì về chính trị. Nhưng mấy năm sau, trong văn phòng của ông lại treo một bức hình bán thân của bà vợ tràn đầy nhựa sống. Một người thường thì không nói làm gì nhưng ở vào trường hợp Ông Nhu và nhất là con người trí thức như Ông Nhu, thì khi treo bức hình đó tại ngay văn phòng chính thức của một vị Cố Vấn Chính Trị Phủ Tổng Thống quả là điều chướng mắt...Đáng lý ra thì chỉ treo trong phòng riêng. Dĩ nhiên Ông Nhu cũng cảm thấy như thế khi tự tay Bà treo bức hình đó, song Ông Nhu không phản đối.
Bức hình treo ở một nơi trang trọng trong văn phòng đã đủ nói lên việc Ông Nhu chấp nhận sự hiện diện của Bà trong đời sống của mình (vì văn phòng ấy là nơi Ông Nhu tiếp khách quan ngoại quốc. Bộ Trưởng Tướng lãnh, Nhân Sĩ... nghĩa là đủ mặt mọi giới). Qua sự kiện này đã đủ nói lên ảnh hưởng của Bà Nhu, đã chinh phục toàn diện con người ông chồng mà nhiều khi chính Ông Nhu cũng không biết (ảnh hưởng của bà vợ đối với ông chồng là một cuộc hành trình với những chất liệu “vô hình” thấm dần vào tim óc nói ra không được và chỉ mơ hồ cảm thấy) hoặc không thể cảm thấy và chỉ có người ngoài mới nhìn thấy rõ được.
Bởi vậy cô nhân tình của một nhà lãnh đạo nhiều trường hợp lại ảnh hưởng sâu xa đến chuyện quốc gia đại sự mà chính nhà lãnh đạo đó cũng không hay để tự cảnh giác. Do vậy, nhà lãnh đạo dù tài ba cũng cần phải đặt mình trong guồng máy lãnh đạo và phải chấp nhận mọi khám phá tình cảm và phê bình cá nhân mình qua sự phát biểu kiểm thảo của các bộ phận guồng máy.
Giới thân cận của Ông Nhu biết rõ ràng ông không bao giờ nghe vợ bàn góp ý kiến. Sự thực một người tự kiêu như Ông Nhu với khả năng trí thức như vậy khó lòng có thể tin theo ý kiến của bà vợ còn nhỏ tuổi mà trước mắt ông, bà chỉ vẫn là hình ảnh cô nữ sinh trường Pháp chưa đậu Tú Tài. Tuy nhiên, đã có một vài trường hợp ngoại lệ Ông Nhu theo ý kiến của Bà nhưng đó chỉ là ý kiến xuất phát từ khả năng trực giác dồi dào của một người đàn bà thông minh nhạy cảm (qua vụ đảo chính hụt 11.11.60). Về phần này thì người đàn ông dù tài ba đến đâu cũng đành chịu thua đàn bà. Ý kiến của đàn bà xuất phát theo trực giác phần lớn đều đúng với thực tế cả.
Nhưng Ông Nhu vốn sợ “sì căng đan” đó cũng là một điểm yếu của một nhà trí thức làm chính trị. Bà Nhu vốn nóng như lửa nói năng bất chấp và dễ gây gổ làm chuyện lớn. Hễ một khi bà vợ gây gổ lớn tiếng thì Ông Nhu đành im. Quá lắm thì Ông Nhu chỉ đập bàn, mắng mấy câu tiếng Pháp cho thỏa rồi đành chịu thua (giới ăn học bị vợ lấn át và mang tiếng sợ vợ phần lớn cũng chung một cảnh ngộ tâm lý như vậy) Tổng Thống Diệm lại cũng là người sợ sự lớn tiếng gây gổ. (Đại Úy Bằng kể lại, một lần Tổng Thống Diệm bảo ông đi theo sang bên phòng ông Bà Nhu. Ông Tổng Thống đang có điều gì vui mừng. Nhưng gần đến cửa phòng nghe thấy Bà Nhu la lối ông chồng, Tổng Thống Diệm quay gót trở về phòng khẽ lắc đầu) Cứ nhận diện Ông Nhu theo tướng số thì khuôn mặt ông không phải là người “sợ vợ”.
Còn một chi tiết nhỏ này cũng đủ chứng tỏ, ảnh hưởng của Bà Nhu đã thâm nhập sâu xa trong con người ông chồng: Trước kia ông muốn hút bao nhiêu thì hút. Nhưng kể từ năm 1959- 1960, Bà Nhu giới hạn. Mỗi ngày tự bà chia cho ông một vài điếu hút cho đỡ nhớ mà thôi. Nhiều khi một điếu được cắt làm đôi. Một người nghiện thuốc lá nặng như Ông Nhu mà đành chịu như vậy thì cũng là một điều lạ lùng.
Trước năm 1955 Ông Nhu là người ăn mặc xuề xòa...Khi trở thành Cố Vấn Chính Trị ông cũng vẫn thế nhưng ông anh Tổng Thống không bằng lòng vì cho rằng ăn mặc như vậy “mất cả thể thống...thím phải lo cho chú ấy ăn mặc đàng hoàng”. Từ đó, tự tay Bà Nhu lo liệu cho ông chồng, bà lựa chọn cho ông từng chiếc cravate. Ngay văn phòng làm việc của ông Bà Nhu cũng tự tay trang trí cho ngăn nắp mỹ thuật. Một người già mà được cô vợ trẻ săn sóc yêu thương như vậy ai mà không cảm động. Từ chỗ cảm động đến chỗ bị “chi phối âm thầm” không bao xa.
Ảnh hưởng của Bà Nhu đối với ông chồng mỗi ngày càng mạnh đó cũng là điều dễ hiểu xét theo khía cạnh tâm sinh lý. Ông Nhu không phải là người ăn chơi, trước năm 1954 sống trong thế giới kín cổng cao tường của Phủ Tổng Thống. Ông Nhu cũng không phải là người quảng giao nên ít bạn bè. Rồi tuổi ông mỗi ngày một cao...Cô vợ với tuổi hồi xuân càng trở nên “ngào ngạt yêu thương” đó mới là nguyên nhân thầm kín tạo cho Bà Nhu có một “uy quyền” đối với ông chồng. Thứ uy quyền chỉ có thể cảm thấy nơi ông chồng sống đời nội tâm...Bà vợ trái hẳn lại, ham mê hoạt động hòa cuộc sống với bên ngoài...Đó không phải là hai thái cực mà là hai cái “hố” mâu thuẫn để tạo thành một hậu quả chi phối đời sống vợ chồng theo một tương quan tình cảm.
Một vài nhân vật thân cận nhất của Ông Nhu bị ông cho ra “rìa” vì thất sủng trước hết do sự bất hòa và bất đồng giữa các nhân vật này với Bà Nhu. Nói rằng Ông Nhu nghe vợ thì không đúng...nhưng quả vì sợ mà ông bỏ rơi một vài người thân cận...Thật dễ hiểu, trong đời sống phòng the, nay nghe bà vợ rủ rỉ bên tai: “thằng ấy nó như thế như thế”, mai lại nghe bà vợ phàn nàn: “ông ta như vậy như vậy”. Những lời ngọt ngào đó lúc đầu ông chồng bỏ qua vì cho rằng “chuyện đàn bà...đàn bà lắm chuyện” nhưng lâu ngày, thì chuyện đàn bá hóa thành chuyện đàn ông. Trong cái thời đại quân chủ, bao nhiêu bậc Vua Chúa đã mất ngai vì nghe vợ thủ thỉ bên tai. Ở Miền Nam này cũng vậy, bao nhiêu lãnh tụ đảng phái mất cả anh em đồng chí rồi hủ hóa cũng một phần vì nghe vợ trong cung cách trên. Vậy thì vấn đề quan trọng phải đặt ra ngay: Người lãnh tụ cũng chỉ là một người nên không thể dứt bỏ đời sống vợ chồng riêng tư. Nhưng nếu mưu đồ đại sự dứt khoát ngay từ lúc nhập cuộc là không để đàn bà chen lấn vào công việc của mình. Muốn loại bỏ những ảnh hưởng tiệm tiến vô hình ấy thì lãnh tụ phải được biến thể theo khách quan của thực tại lãnh đạo. Thực tại lãnh đạo gần nhứt là các đồng chí thân cận. Nếu nghe vợ hay vì cách này cách khác qua ảnh hưởng của vợ mà làm xa cách đồng chí thì sứ mệnh lãnh đạo không còn nữa. Staline hay Hitler tạo được sức mạnh tối thượng và tối đa của uy quyền lãnh đạo vì họ là con người thép không còn rung động trong chủ quan thực tại khách quan của lãnh đạo còn Ông Nhu hay ai ai sau này muốn chủ toàn sứ mệnh lãnh đạo thì trước hết phải giải quyết ngay cái mâu thuẫn giữa tình cảm cá nhân trong đời sống riêng tư và đời sống tình cảm tập thể trong đời sống guồng máy. Bông hoa hồng của bà vợ cài trên áo mình và cái đinh ốc trong guồng máy mà mình lãnh đạo cả hai đều quan trọng nhưng làm thế nào để không vì bông hoa hồng mà làm mất đi chiếc đinh ốc của guồng máy đó mới là điều quan trọng.
Chúng tôi có đọc cuốn “La Révolution sensuelle” nói về cuộc cách mạng của Fidel Castro tại Cuba.

Đó cũng là cuộc cách mạng nhậy cảm nhờ sự tham dự ngào ngạt hương thơm của phái yếu. Vậy thì muốn mưu đồ đại sự cũng cần có yếu tố nhạy cảm và phái yếu bổ xung để gợi cảm và xung động quần chúng. Vậy thì sự thành lập Phụ Nữ Liên Đới cũng như tổ chức bán quân sự của phụ nữ (tuy chỉ có hình thức biểu dương) quả là điều cần thiết cho những chiến thuật chính trị. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bổ nhậm phụ nữ làm Tư Lệnh Phó lực lượng võ trang của họ cũng không ngoài chiến thuật chính trị để tạo được sự chú ý của quần chúng và gây được nồng độ nhạy cảm trong cuộc chiến đấu.
Nếu như Bà Nhu chỉ đứng bên trong lèo lái và chọn một người tương đối xứng đáng đứng ra thành lập thì quả là tốt đẹp. Nhưng đây thì lại khác, Bà Nhu vừa là tác giả lại đóng luôn vai trò diễn xuất của “kép” chánh.
Đáng lẽ chúng tôi không viết về Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới của Bà Nhu vì Miền Nam đã có bao nhiêu Hội, Phong Trào như vậy chỉ xuất hiện như vậy để trình diễn nhất thời rồi lại tan vào lãng quên. Nhưng muốn nêu lên đây một kinh nghiệm và xác định rằng nếu ai ở thế chính quyền cũng cần phải tạo được một số thế lực của mình để hỗ trợ cho chính quyền mà mình đã nắm được. Sau năm 1963, người ta đã có mặc cảm và thiên kiến về Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới của Bà Nhu.
Từ đấy đến nay cũng chưa ai đứng lên tổ chức một Phong Trào như vậy.
Nhưng dù thế nào cũng phải công nhận rằng: Miền Nam từ năm 1954 đến nay, Bà Nhu là người đầu tiên đã xây dựng được Phong Trào Phụ Nữ (nhất là phụ nữ bán quân sự) dù Phong Trào ấy như viết trên, tuy có danh mà không có thực nhưng có vẫn hơn không.
Ông Nhu cũng như Tổng Thống Ngô Dình Diệm có “dính dáng” vào sự thành lập Phong Trào đó không? Có thể nói là Tổng Thống Diệm thấy cô em dâu làm được điều tốt với chủ ý hỗ trợ chính quyền tất nhiên ai ở địa vị ông Tổng Thống cũng không có lý do gì ngăn cản, còn Ông Nhu? Ông cũng không đóng vai trò giật giây Phong Trào đó. Khi thấy việc làm của vợ có ích lợi cho chế độ thì ai ở địa vị ông cũng không có lý do gì ngăn cản. Mà thực ra thì Ông Nhu muốn cản cũng không được.
Giới thân cận được biết rằng, đối với Bà Nhu thì “việc ông ông làm, việc tôi tôi làm miễn sao tôi không chống lại ông”. Nhiều việc Bà Nhu cứ “làm đại” nếu ông chồng biết thì mọi sự đã rồi. Tuy nhiên những việc “làm đại” đó đối với Ông Nhu đều có vẻ hợp lý.
Dư luận trước 1963 cho rằng, Ông Nhu bị vợ “chế ngự, áp đảo”...Nhưng điều đó không đúng. Trong các việc chính sự quốc gia, có bao giờ ông hỏi “ý kiến” vợ đâu. Nhưng có điều như thế này, Ông Nhu cũng phải ngán sự dữ dằn nóng tính như hổ lửa của bà vợ. Một lần, Bà Nhu hỏi ông chồng trước mặt một số người thân trong đó có bà Lương Khải Minh: “Tại sao mấy ông ấy (tức các ông lớn) lại khiếp tôi quá dữ đến như vậy”. Ông Nhu mỉm cười trả lời: “Tui còn khiếp bà huống chi mấy ông ấy”.
Bà Nhu áp đảo được nhiều nhân vật cỡ lớn trước hết nhờ yếu tố bạo ăn bạo nói của Bà. Trong những buổi họp Ban Chấp Hành Liên Đới, Bà Nhu chủ tọa và hầu như chỉ có mình bà ta độc thoại. Các bà khác ngồi lặng thinh lắng nghe chăm chú và luôn tỏ ra thán phục. Một lần nọ vào năm 1962 một bà Liên Đới đi họp muộn. Bà Nhu hỏi lý do thì thực thà trình bày là có một vài nhân vật Mỹ đến thăm ông chồng do đó đến muộn. Trước đông đủ mọi người Bà Nhu lớn tiếng “Tiên sư cha mấy thằng Mỹ”.
Đại cương lời ăn tiếng nói của Bà Nhu có những lúc sỗ sàng như vậy.
Nhưng nó lại quá sức thất lợi về phương diện giáo tế chính trị. Chửi Mỹ sỗ sàng như vậy vào năm 1963 quả là “liều” nếu không phải là Bà Nhu thì không ai dám ăn nói như vậy. Nhưng Bà Nhu nói, với tư cách Chủ Tịch Trong Trào Liên Đới lại là vợ một Cố Vấn Chính Trị thì hẳn rằng giới chức Mỹ phải đặc biệt lưu ý (trong đám người hội họp đó dĩ nhiên là phải có một vài bà về học lại với ông chồng và ông chồng học lại với Mỹ).
Cho nên cũng không lấy làm lạ khi Bà Nhu qua Mỹ “giải độc” Bà đã làm chấn động Bạch Cung qua những lời tuyên bố nảy lửa mạt sát Mỹ thậm tệ. Công kích và mạt sát Mỹ là điều ai cũng thích cả nhất là quảng đại quần chúng như vị trí và tư thế của Bà Nhu lúc ấy thì sự công kích Mỹ chỉ tạo nên những hậu quả nguy hiểm cho chế độ Ngô Đình Diệm.
Với tự ái dân tộc nhược tiểu cùng với bao nhiêu niềm phẫn uất phải dấu kín trong lòng thì việc Bà Nhu sang tận Mỹ và lớn tiếng chửi thẳng vào bộ mặt lớn cùng chính sách sai lầm của Mỹ chúng tôi coi đó như một điều hân hoan và có thể mô tả Bà Nhu như một phụ nữ Việt Nam đầu Thế Kỷ 20 sang tận nước Pháp đứng giữa Kinh Thành Paris bắc ghế và “vén váy” chủi vào mặt nước pháp. Bây giờ thì người phụ nữ đó, báo Mỹ mệnh danh là “Rồng Cái” đã chửi Mỹ thật lưu loát.
Sự công kích Mỹ của Bà Nhu chỉ là cách “xả hơi” nói cho sướng miệng. Khi mà chế độ Ngô Đình Diệm đang thất lợi đối với dư luận Mỹ thì sự công kích ấy không có ích lợi gì và chỉ làm tăng sự phẫn nộ trong dư luận Mỹ. Tuy nhiên, Bà Nhu đã gây được sự chú ý đặc biệt của dân chúng Mỹ nơi mà người dân luôn luôn bị kích động bởi những sì căng đan một dân tạp chủng thường xuyên quay cuồng trong một nhịp sống đổi mới không ngừng hiếu kỳ tuyệt độ.
Vốn là người nói năng bất kể...Bà Nhu không kiêng nể một ai ngoại trừ anh em nhà chồng bà. Năm 1963, Bà đã không tiếc lời công kích cả thân phụ bà (Luật Sư Trần Văn Chương) trước đó Bà cũng đã không tiếc lời bài bác ông chú ruột của Bà tức Bác Sĩ Trần Văn Đỗ (trong nhóm Caravelle). Cho nên Bà Nhu mô tả các vụ tự thiêu của Phật Giáo với ngôn từ như “rô ti người bằng săng của Mỹ” cũng không có gì khó hiểu. Có lẽ trên đời Bà Nhu chỉ khâm phục có anh em nhà chồng bà rồi đến bà.
Trước khi trở lại vụ Phật Giáo 1963 ở đây chúng tôi cũng cần phải chắc qua Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới với bản chất của nó.
Quả thực Phong Trào đó là một hội đàn bà đúng nghĩa với chữ đàn bà theo quan niệm của người Việt Nam. Giá như Phong Trào này chỉ chuyên tâm đến các hoạt động xã hội từ thiện thì không kể làm gì. Đó là điều rất tốt.
Ngày 20.5.1958 trong một phiên nhóm họp Quốc Hội, Bà Nhu đã đưa ra một đề nghị thành lập một Phong Trào Phụ Nữ với danh xưng “Phụ Nữ Liên Đới Việt Nam” và yêu cầu Liên Đoàn Công Chức để cho các bà vợ công chức được phép tham gia. Bốn năm sau Phong Trào đó mới được Tổng Thống Diệm chính thức chấp thuận và được thừa nhận là một Hội Đoàn Công Ích (SL 84 VN 13.4.62)
Như trên đã viết, Phong Trào này không đạt được “quần chúng tính”. Trước sau đây chỉ là một Hội Đoàn của các Phu Nhân, vợ Công Chức cùng Nữ Công Chức và Nữ Quân Nhân. Vì vậy mà Hội Đoàn ấy được xem như một Hội Đoàn bán chính thức của chính quyền.
Ban Chấp Hành Trung Ương ngoài một số Nữ Dân Biểu “gà nhà” của Bà Nhu còn hầu hết là vợ các công chức cao cấp và Tướng Tá. Vai trò của các bà cao thấp tùy theo địa vị của người chồng cùng sự khôn lanh nịnh bợ bà Cố Vấn.
Một bà là vợ ông Tướng nên được làm Tổng Thư Ký, một bà là vợ ông Bộ Trưởng nên được cân nhắc làm Phó Chủ Tịch v.v...Chúng tôi không bao giờ làm công việc “bới móc” chuyện “đàn bà con trẻ” nhưng chuyện “đàn bà” của Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới lại có sự liên hệ đến sự vong tồn của một chế độ. Thật là những sự rủi ro do những lỗi lầm tình cờ ấu trĩ và chính trị khi đàn bà xen lẫn vào chính trị. Đáng lẽ, một Phong Trào như vậy phải tìm những phụ nữ có khả năng, có học vấn (học vấn không có nghĩa là phải có bằng cấp). Nhưng ở đây thì lại khác. Tuy bà X là vợ Tướng lãnh thật nhưng chỉ vì “đàn ông quan tắt thì trầy, đàn bà quan tắt nửa ngày nên quan” cho nên bà ta chỉ có trình độ “biết viết” nhưng nhờ địa vị của chồng nên phút chốc đã leo lên hàng “lãnh tụ” của Phong Trào. Như vậy Phong Trào ấy làm sao có lãnh tụ tốt, có sáng kiến tốt cho được. Tuy Phong Trào cũng có một vài bà Luật Sư nhưng đa số chỉ là độc giả của báo “SM” và khán giải mộ điệu của tuồng “cải lương”...nếu không thì chỉ lại lo toan affaire làm giầu. Bởi vậy mới có một bà Liên Đới phu nhân của một Bộ Trưởng khi ngồi vào bàn hội nghị với tư cách chủ tọa bà lên tiếng ngay “Thưa chị em hôm nay đại diện Bà Cố Vấn tôi tuyên bố bế mạc hội nghị”. Cả hội trường đều ngỡ ngàng tại sao chưa khai mạc mà đã bế mạc, sau mới rõ bà Bộ Trưởng sử dụng chữ bế mạc thay cho chữ khai mạc ! Rồi một phu nhân khác trong một dịp đi vận động bầu cử. (Khóa III 65) đến một Trại Gia Binh đã nói với các bà vợ Quân Nhân ở đây rằng: “Chồng tôi làm đến Bộ Trưởng...chồng tôi chức như vậy tôi đâu có ham nhưng vì thương chị em tôi mới đứng ra ứng cử để bênh vực quyền lợi cho chị em”. “Bằng một giọng” lớn lối như vậy các bà vợ lính la ó...nhún vai nhỏ nước bọt...Bà ứng cử viên Dân Biểu phải chuồn lẹ. Đại cương các bà có những lỗi lầm ấu trĩ...nhưng mấy bà lại “đua nhau” tham gia công tác Phong Trào để được Bà Cố Vấn súng ái rồi chỉ định ra tranh cử Dân Biểu (Khóa III Quốc Hội Phong Trào Liên Đới đạt 22 ghế Dân Biểu).
Tất nhiên cùng không ai quá khắt khe chấp nhất những “lỗi lầm đáng bỏ qua” của quí bà.
Nhưng có điều quan trọng thế này: Các bà đã làm cho các ông mâu thuẫn nhau, hiềm khích nhau...Rồi chính phủ trở thành “Chính phủ đàn bà”.
Bà Nhu trao cho Bà Tướng X công tác A. Bà Tướng X hoàn toàn “mù tịt” nhưng cứ nhận bừa rồi về nhà trao trách nhiệm thực hiện cho ông chồng. Ông chồng lại gọi thuộc viên vào trao phó...Thuộc viên hùng hục làm cho xong vì họ đã thuộc nằm lòng tiêu chuẩn “lệnh của bà mới là điều quan hệ!!” Bà Nhu lại trao cho Bà Bộ Trưởng Y công tác B...Bà Bộ Trưởng cũng cứ “nhận đại” rồi về trao phó cho ông chồng...Ông chồng nào (nể vợ) thì làm hay ông nào “cứng đầu” với vợ thì làm qua loa. Hậu quả không những các viên chức cao cấp phải làm thêm công việc Liên Đới của các bà vợ mà còn tạo nên sự ganh tị suy bì...Bà X tâng công “Việc của em Bà Cố trao phó cho em làm xong ngay còn việc của chị X...chị ấy dựa vào thế lực của chồng chị ấy chỉ có chỉ tay năm ngón !”
Các bà chia thành phe cánh ra lườm vào nguýt, cũng là điều dễ hiểu nhưng các bà lại kéo theo các ông...Thói thường cái gì bà không thích thì cho dù ông không nghe theo nhưng lâu ngày thủ thỉ bên tai cuối cùng ông cũng về phe bà mà không thích như vậy. Nhiều ông với những “cái yếu” nhất của con người...cũng cố giúp vợ sao cho đắc lực để Bà Cố Vấn tin cẩn nhờ đó vợ sẽ giữ địa vị cho chồng bảo vệ địa vị một cách hữu hiệu. Đàn bà Việt Nam không có gì đẹp hơn là làm nội tướng trong gia đình giúp chồng trong sự giao tế trông nom con cái lúc ấy hình ảnh bà không còn gì đẹp hơn nhưng khi các bà nhẩy ra sân khấu để diễn xuất (mà lại diễn xuất trật lất hết trơn) lúc ấy kẻ đứng ngoài quan sát thấy nó chướng mắt lắm. Các Bà Liên Đới cận thân Bà Nhu đã diễn xuất nhiều sự chướng ta gai mắt như vậy. Lẽ tất nhiên không lôi kéo được quần chúng. Đây cũng là bài học cho các phu nhân của những ai đang và sẽ ở vào thế lãnh đạo xứ sở.
Fénelon nói một câu thật có lý: “đàn bà, khó thương kể cả má của tôi”...Cái khó thương trong dễ thương mà càng dễ thương trong tình yêu gia đình thì lại càng khó thương trong đời sống công cộng ít nhất là chính trị.
Trong cái hội Phong Trào Liên Đới cũng như nhiều hội đoàn thiếu nữ khác thì sự ganh tỵ như là bản chất (vì máu nghen là bản chất của đàn bà, nó đẹp và dễ thương khi đàn bà ghen trong tình yêu). Chúng tôi thí dụ: Dạo năm 1959, một phái đoàn phụ nữ sang Tân Gia Ba tham dự Hội Nghị Phụ Nữ Đông Nan Á, một nhân vật cận thân của Ông Nhu đã dặn vợ trước khi bà ấy lên đường là khi sang đó phải cố gắng làm sao đừng cho báo chí họ đề cao hay nói đến mình quá nhiều cũng đừng để báo chí chụp hình. Vì nhân vật này hiểu rõ quý bà nên tránh ngộ nhận cho nó được “êm tai” để làm việc. Khi phái đoàn trở về Tân Sơn Nhất, báo chí Việt Nam cũng làm cái việc thông thường là phỏng vấn chụp hình...
Khi nhân vật này biết được như vậy ông đã phải điện thoại cho khắp báo quán xin “thông cảm” đừng tường thuật cái có dính dáng đến tên vợ “vì như vậy phiền lắm” ông cũng lưu ý các báo đừng đăng hình nào nếu có mặt vợ ông. Sau được biết nhật báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà lại in hình vợ ông trong bài tường thuật. Nhân vật này xin báo Sài Gòn Mới “tha tội” nhưng báo đã in được 5000 số, ông cũng đành nói với Bà Chủ Nhiệm: “Trước đây vì ơn nghĩa với nhau Bà có quà cho vợ chồng tôi nhưng tôi không nhận. Thôi bây giờ bà cho tôi 5000 số báo đã in. Nhờ bà cho đục các bản kẽm có hình nhà tôi dù tốn phí thế nào cũng xin chịu” Bà Chủ Nhiệm Sài Gòn mới vui vẻ nhận lời.
Tuy vậy 5000 số báo đã in xong để rồi cho vào kho bán “ký” thế nhưng một vài tờ cũng vẫn lọt ra ngoài và một bà Liên Đới đã sốt sắng đưa vào trình bà Cố Vấn. Bà Nhu lại tức giận cho rằng “Đi hội nghị chỉ lo đề cao cá nhân”...Nhưng thực tình thì Bà Nhu không muốn ai nổi bật ngang mình hay hơn mình. Phân tách ra thì đây cũng chỉ là “mạc cảm lãnh tụ” của phái yếu.
Còn một điều đáng nói hơn nữa là dư luận quần chúng quanh bức tượng Hai Bà Trưng dựng tại Công Trường Mê Linh (Bến Bạch Đằng tháng 3.1962). Bức tượng Hai Bà Trưng sáng ngày 2.11.1963 đã bị làn sóng biểu tình của Sinh Viên Học Sinh hè nhau kéo đổ rồi chặt đầu lôi quanh các đường phố chỉ vì bức tượng đó giống Bà Nhu và con gái bà tức Ngô Đình Lệ Thủy. Bức tượng ấy quả có giống hai mẹ con Bà Nhu thật.
Nhưng nguyên do từ đâu mà lại giống như vậy? Có phải mẹ con Bà Nhu làm mẫu cho Điêu Khắc Gia Nguyễn Văn Thế tạc tượng ấy không (ông Thế đạt được giải Á Nguyên La Mã về điêu khắc).
Bức tượng Hai Bà Trưng thật “kính chả bỏ phiền”. Bao nhiêu lời đàm tiếu chung quanh bức tượng đó. Mà sự đàm tiếu cũng rất phải vì đây là sự bôi lọ anh hùng lịch sử. Khách bàng quan ai đi qua Bến Bạch Đằng nhìn thấy pho tượng cũng không khỏi hổ thẹn. Lạ thay càng nhìn kỹ pho tượng càng giống hệt hai mẹ con Bà Nhu. Cũng vì vậy mà pho tượng trở thành trung tâm của bao lời phê phán nghiệt ngã. Người thức giả trung dung cũng phải lên tiếng: “pho tượng sừng sững thế kia còn gì là thể thống quốc gia. Lịch sử còn gì giá trị nữa” Rồi người ta suy luận rằng: “Bà Nhu dám can đảm dựng tượng mình như vậy thì chuyện gì bà ta không dám làm?”
Sự thực pho tượng ấy do Điêu Khắc Gia Nguyễn Văn Thế thực hiện. Người được chỉ định làm mẫu để tạc pho tượng này không ai khác hơn là cô Cao Xuân Châu Phố (dạo ấy còn là sinh viên luật khoa). Nhưng tại sao nó lại giống hai mẹ con Bà Nhu, đó là cả vấn đề bí ẩn không lẽ trong lúc sáng tác ông Thế lại mắc bệnh ám thị về hình ảnh hai mẹ con Bà Nhu! Hay là có một bàn tay bí mật nào muốn sa đọa hơn chế độ tạo nên một đối tượng cho dư luận mỉa mai đồng thời tạo nên tác dụng tuyên truyền trong quần chúng mà đối phương mong muốn, đây cũng chỉ là một giả thuyết. Tuy nhiên theo Đại Úy Bằng, sĩ quan hầu cận, thì chính Điêu Khắc Gia Nguyễn Văn Thế, trước ngày Phật Đản 63 đã từ Huế về Sài Gòn rồi đi thẳng vào Dinh Gia Long báo cáo với Tổng Thống Diệm “Thưa Cụ Phật Giáo ngoài Huế họ làm chi mà lố hết sức chẳng tôn trọng luật lệ quốc gia. Gần Lễ Phật Đản mà con thấy Huế cả một rừng cờ Phật Giáo”. Điêu Khắc Gia Thế lại nói tiếp: “Chẳng hề có Quốc Kỳ chi cả. Ở Châu Âu cờ Công Giáo đâu có treo như vậy”...Phải chăng do lời báo cáo này mà Tổng Thống Diệm nổi giận rồi tức khắc gọi ông Đổng Lý Quách Tòng Đức và đọc cho ông Đức viết bức công điện “Cấm treo cờ Phật Giáo ngoài đường”. (năm 1964 ông Thế được Tướng Khánh cho phép xuất ngoại qua Âu Châu).
Cách ăn mặc của Bà Nhu cũng tạo nên nhiều dư luận bất lợi trong quần chúng. Bà luôn luôn “lancé” các kiểu áo dài phụ nữ. Kiểu áo hở cổ mà hiện nay các bà các cô thường mặc thì chính Bà Nhu đã “lancé” từ dạo 1958. Rồi một số bà Liên Đới cũng “a dua” mặc theo kiểu này. Bà Nhu phỏng theo kiểu áo dài Việt Nam và áo dài của phụ nữ Chiêm Thành. Áo dài của bà lại thường thêu hoa lá và chim phượng hoàng. Một bức ảnh cho ta thấy, Bà Nhu mặc chiếc áo dài hở cổ, ngay trước ngực thêu một con chim phượng hoàng...Bà Nhu coi đó là việc “cách mạng” chiếc áo dài Việt Nam.
Bà Nhu không muốn một ai phê bình mình. Tất nhiên như vậy thì chỉ chấp nhận sự ca ngợi tán tụng. Bất kỳ ai một ai tỏ ra nổi hơn bà một chút, khác hơn bà một chút cũng đủ bị “thất sủng”. Khi bà vợ bị thất sủng thì ông chồng cũng dễ dàng bị thất sủng. Người đàn bà có tài và thông minh hầu như đều mắc phải cái tật xấu này. Bà Nhu bị nhiều người ghen ghét, bị dư luận dân chúng chỉ trích nặng nề và nghiêm khắc trước hết do sự xuất hiện nặng phần trình diễn của bà cùng tính cao ngạo và cố tạo ra vẻ có uy quyền để được mọi người thán phục tôn trọng.
Nếu so với nhiều bà tai to mặt lớn hiện nay thì sự trưng diện quần áo của Bà Nhu cũng hãy còn giản dị lắm. Nhiều bà lớn bây giờ đeo cả hạt xoàn kim cương đáng giá 3, 4 triệu đồng với kẻ hầu người hạ như một nữ lãnh chúa cùng sự ăn chơi bài bạc vô cùng sa đọa. Nhưng chỉ có một giới nào đó biết rõ mà thôi. Song Bà Nhu dù có mặc đồ nội hóa, không đeo kim cương hạt xoàn lộng lẫy xa hoa, thế nhưng dân chúng mọi giới đều chúi mũi vào bà. Tại sao? Giản dị vì bà tiêu biểu cho một phần uy quyền của chế độ, uy quyền ấy không được chính thức công nhận nhưng thực tế thì không ai chối cãi được.
Gia đình Bà Nhu ở trong Dinh Tổng Thống với hai phòng không được rộng rãi lắm.
Bà nổi tiếng là người “keo kẹt”, chi tiền chợ hàng ngày. Ông Nhu thì vợ cho ăn uống như thế nào thì ăn uống như vậy, không đòi hỏi. Những người hầu cận cho biết, nhiều khi Ông Nhu đi săn mang về theo ít thịt nai hoặc thịt mấy con chim thì Bà Nhu lại bớt tiền chợ và dùng đồ săn đó bắt ông chồng ăn cả hai ba bữa. Hai căn phòng của Ông Nhu trang hoàng không có gì xa hoa lộng lẫy trái lại có vẻ bình thường trung lưu.
Bà Nhu sống trong cảnh kín cổng cao tường cho nên dễ dàng trở thành nơi thâm cung bí sử. Dân chúng bao giờ cũng tò mò muốn tìm hiểu sự thật cho nên khi thấy cảnh Bà Nhu đi xe hơi lộng lẫy, ăn mặc diêm dúa, lính tráng theo hầu canh gác cẩn mật, bằng thứ ấy làm dân chúng dễ dàng liên tưởng đến sự xa hoa đài các. Rồi thân hình của Bà Nhu nữa, căng đầy nhựa sống và trang sức như một tài tử, dân chúng lại càng liên tưởng từ một ẩn dụ sinh lý. Bởi vậy mới có dư luận hàng ngày cho Bà Nhu tắm bằng sữa tươi giữ cho da được tốt.
Sau 1.11.1863, đã biết bao nhiêu dư luận được tạo dựng chung quanh Bà Nhu...nhất là một số tình ái lăng nhăng...Không hiểu xuất phát từ đâu, có một số hình ảnh lõa lồ của Bà Nhu và mấy bà Liên Đới được tung ra công chúng và nói rằng Bà Nhu buộc các bà Liên Đới phải chụp ảnh lõa lồ như vậy để bà giữ làm điều kiện, ấy thế mà dư luận có vẻ tin thực. Chúng tôi xem tấm hình lõa thể của Bà Chủ Nhiệm báo Sài Gòn Mới...trông qua thì có vẻ giống nhưng nhìn kỹ thì một người già như vậy không thể nào có cặp giò tròn trĩnh chắc nịch như vậy. Tấm hình lõa thể của Bà Nhu cũng vậy, nhìn qua thật là giống nhưng so sánh, một người Việt Nam như bà dù nở nang nhưng với 4 mặt con và trên 40 tuổi không thể nào có bộ ngực và cặp giò tròn trĩnh chắc nịch như vậy. Tấm thân từ cổ xuống phải là tấm thân của một cô gái Tây phương khoảng 22-23 tuổi.
Sự thực ai cũng biết rằng, những hình ảnh trên đã dược các tay thợ ảnh lành nghề nối ráp lại. Nhiều bà tai to mặt lớn đã bị bọn “bất lương” tống tiền bằng cách đe dọa đem đăng báo hình ảnh lõa thể (ngày nay hồi tưởng lại mới thấy ngán trò đời thâm độc thật. Cao Miên sau cuộc đảo chánh LonNol hình ảnh Hoàng Hậu Monique cũng được ráp nối lại và trở thành Monique dâm loạn truyền tay nhau để thưởng thức). Thành ra trò đời đâu cũng giống đâu về những âm mưu thâm độc.
Sau cuộc đảo chánh 63, Bà Nhu được mô tả như một “ác phụ dâm loàn” Tại sao như thế? Giản dị trong quá khứ bà đã gây nên nhiều nỗi bất bình nhất là ở giới thượng lưu.
NGÔ ĐÌNH NHU: MỘT HỌC GIẢ UYÊN THÂM
Ông Nhu đậu Cử Nhân Văn Chương Đại Học Sorbonne Ba Lê và tốt nghiệp Trường Chartes.
Danh từ riêng “Chartiste” chỉ những người tốt nghiệp Trường Chartes của Pháp cũng đồng nghĩa với sự uyên bác, thông thái. Trường Chartes không tới 100 sinh viên nhưng Thư Viện lại chứa đựng 100.000 tài liệu và sách thuộc mọi ngành. Giáo Sư hầu hết là Học Giả và các ông Hàn Lâm. Mỗi lớp chỉ giới hạn khoảng 20 sinh viên. Tuy ấn định Tú Tài II được thi vào, nhưng sinh viên đều phải học qua hai năm luyện thi vào Trường Chartes (tại Trường danh tiếng Henri IV). Cố Giáo Sư Nguyễn Thiệu Lâu, bạn học của Ông Nhu cũng theo học tại Chartes nhưng bị loại vì sự thi cử rất khắt khe, trong 4 năm học sinh viên chỉ có quyền thi trượt một lần và mỗi năm chỉ có một kỳ thi lên lớp. Mỗi khóa năm thứ nhất vào khoảng 20 sinh viên thì tốt nghiệp chỉ lọt chừng một nửa. Chương trình học thật là mênh mông. Tiếng La Tinh là ngôn ngữ thông dụng.
Sinh viên phải am tường về cổ tự phải học về công văn thư, học Pháp chế sử... Ông Ngô Đình Nhu đã được đào tạo trong môi trường khoa bảng uyên thâm dó.
Khi về nước, ông trở thành Quản Thủ Thư Viện. Tại Tổng Thư Viện Hà Nội ông được mô tả như “con mọt sách”. Quả thực một nửa đời người như ông đã chìm đắm trong thế giới suy tư và chữ nghĩa kim cổ.
Hai tác giả mà Ông Nhu say mê và nghiên cứu rất kỹ đó là Thánh Ghandi và Mao trạch Đông (tức là từ triết lý bất bạo động đến triết lý cách mạng bạo động).
Cho đến nay nhiều người vẫn phê bình Ông Nhu là thâm hiểm và quá hẹp hòi. Sự thực thì ông quá kiêu ngạo và tự tôn. Hơn nữa ông lại vụng về lúng túng trong sự giao tế. Ông nói rất kém (tiếng Việt cũng như tiếng Pháp) và lại là người ít nói. Nhưng ông lại là người có khả năng tiên liệu, đa mưu túc kế. Với cuộc sống khép kín nên ngay với cộng sự viên cận thân của ông trong 7, 8 năm cũng khó hiểu ông.
Cuộc đời Ông Nhu được coi “phong trần” kể từ năm 1945. Khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ tại Hà Nội thì Ông Nhu cùng Hoàng Bá Vinh chạy thoát ra vùng ngoại ô Hà Nội. Rồi ngày đêm qua sự hướng dẫn của Hoàng Bá Vinh Ông Nhu trốn thoát về Phát Diệm và lưu ngụ tại Nhà Chung. Ở đây ít ngày, Ông Nhu được hướng dẫn vào Thanh Hóa (vùng Thanh Hóa Phát Diệm đang bộc phát Phong Trào chống cộng. Các cán bộ Công Giáo cũng như Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn hoạt động mạnh mẽ. Ở đây cũng xin tưởng niệm hương hồn Cố Văn Sĩ Mai Nguyệt Đái Đức Tuấn Ủy Viên Quân Sự Tỉnh Đảng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng Thanh Hóa là một trong số những cán bộ quốc gia hoạt động mạnh mẽ tại vùng Thanh Hóa).
Người hướng dẫn Ông Nhu từ Phát Diệm vào địa phận Thanh Hóa là Bác Sĩ Trần Kim Tuyến. Dạo ấy ông Tuyến vừa đậu Tú Tài II, ba lô trên vai với chiếc xe đạp “cuốc” ômg Tuyến làm hướng dẫn viên. Ông Nhu thì ngồi trên chiếc xe kéo bánh gỗ che kín. Ở lại Nhà Chung Thanh Hóa trong 3 tuần lễ rồi Ông Nhu lên thẳng Bái Thượng, Ông Nhu được Linh Mục Trọng hướng dẫn lên Châu Thường Xuân Hòa Bình.
Ở đây ít ngày, ông lại được một vị Linh Mục thuộc họ đạo Mường đưa ông qua Sầm Nưa (Lào) theo ngả đường rừng.
Trong thời gian này, ông chịu ơn các Linh Mục địa phận Thanh Hóa. Sau này, ông còn nhớ mãi ân nghĩa đó. Linh Mục Trọng đã phải cho Ông Nhu mượn áo “Sourane” Linh Mục để hóa trang trên bước đường trốn tránh.
Hoàng Bá Vinh ở lại Phát Diệm cùng với Lê Quang Luật tổ chức Phong Trào Xã Hội Công Giáo để hậu thuẫn cho Ông Nhu sau này. Ông Lê Quang Luật là một trong mấy cán bộ trụ cột và đã giúp anh em Tổng Thống Diệm một cách đắc lực ngay từ giai đoạn 1946-1954.
Khi trở về Sài Gòn Ông Nhu “thất nghiệp chính trị” và “trùm chăn” để chờ thời. Từ đó, sinh kế trong gia đình đều do một tay bà vợ lo liệu. Trong thời gian này, ông công tác chặt chẽ với Linh Mục Parell trong việc nghiên cứu chính trị xã hội.
Vốn là con người lạnh lùng nên đời sống tôn giáo của ông cũng lạnh lùng. Tổng Thống Diệm mộ đạo bao nhiêu thì Ông Nhu thờ ơ bấy nhiêu. Đức tin của ông thật mạnh mẽ nhưng ông không biểu lộ đức tin đó bằng những hình thức nghi lễ. Tổng Thống Diệm thì xưng tội rước lễ thường xuyên, Ông Nhu trái lại không mấy khi rước lễ, xưng tội. Đại Úy Bằng một người sống lâu năm trong gia đình họ Ngô cho biết, có khi cả năm sống trong Dinh cũng không thấy Ông Nhu xưng tội rước lễ.
Mỗi lần xem lễ trong Dinh, hai hình ảnh thật trái ngược: Tổng Thống Diệm thì đăm đăm đọc kinh, coi sách lễ, Ông Nhu tuy cũng quỳ gối nhưng hình như chỉ quỳ thế thôi. Lần nào ông anh cũng mở từng trang sách lễ rồi trao sách lễ cho ông em, chỉ rõ từng trang. Ông Nhu cầm lấy nhưng chỉ cầm chiếu lệ mà không đọc.
Một cộng sự viên thận cận khi đề cập đến Thiên Chúa Giáo đã nói với Ông Nhu: “Thành Bernard cho rằng trong Nhà Thờ người ta thờ Chúa bằng chén vàng chén bạc, ngoài cửa nhà thì con chiên chết đói” Ông Nhu gật đầu đắc ý: “Đúng, đúng như rứa!..” Mỗi lần nghe thấy tin Nhà Thờ họ đạo này xây Nhà Thờ nguy nga, họ đạo kia dựng tượng Đức Mẹ rất lớn, Ông Nhu lại nhăn mặt khó chịu vô cùng, nói với chung quanh rằng: “tại sao không xây nhà thương trường học mà cứ phải xây Nhà Thờ”.

Ông Nhu rất ít tiếp xúc với các vị Linh Mục trừ một số Linh Mục thân thiết với gia đình.
Mỗi khi phải tiếp một vị Linh Mục nào ông coi như là chuyện bất đắc dĩ và tiếp cho mau chóng.
Ông thường tâm sự: “Nhiều Cha hay lợi dụng lắm chỉ lo làm afffaire này kia”.
Dư luận cho rằng, ông chống lại hàng giáo phẩm nhưng Lương Khải Minh nhận định: “Ông theo đạo một cách khác. Ông không coi thường các hàng giáo phẩm nhưng không cho là quan trọng đến mức độ phải tôn thờ, quỵ lụy”.
Con người Ông Nhu thật khó hiểu vì ông không bao giờ tâm sự với ai, dè dặt mọi cuộc tiếp xúc, không muốn đi ra ngoài và dè dặt từng lời nói. Người ta vẫn có thành kiến Ông Nhu thâm độc và chủ trương độc tài. Trái lại ông có vẻ phóng khoáng và có tầm nhìn cởi mở của một chánh khách Tây phương. Người độc đoán phải là Tổng Thống Diệm Ông Nhu thì lại khác. Nhiều sự kiện đã chứng tỏ điều này.
Thí dụ về kết quả về cuộc bầu cử Quốc Hội Khóa II (31.8.1959) trong đó Bác Sĩ Phan Quang Đán dẫn đầu tại Quận II với 33.166 phiếu và tiếp theo là cụ Phan Khắc Sửu, ông Nguyễn Trân (nguyên Tỉnh Trưởng Mỹ Tho) Tổng Thống Diệm quyết định phải loại bỏ ba Dân Biểu này bằng mọi cách nhất là ông Phan Quang Đán và ông Nguyễn Trân.
Cả tháng trời Tổng Thống Diệm cho gọi các Luật Gia như ông Trần Chánh Thành và Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, để nghiên cứu làm thế nào dùng biện pháp của luật để loại các Dân Biểu.
Ông Nhu nói vói Bác Sĩ Trần Kim Tuyến: “Làm chi mà quá như vậy. Thì người ta đắc cử để người ta vô Quốc Hội người vô làm được cái gì... Có ba người như vậy đâu có nhiều mà phải làm vậy...” Ông Nhu tỏ ra rất khó chịu và hoàn toàn bất đồng với Tổng Thống Diệm về việc này. Cuối cùng, để chiều ý ông anh, Ông Nhu đành chịu. Tuy vậy, riêng cụ Phan Quang Sửu vì biết rõ uy tín cũng như đức độ của cụ trong dân chúng nên Ông Nhu đã ủy cho ông Bộ Trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa liên lạc với cụ Sửu và dàn xếp mời cụ Sửu vào Dinh Độc Lập gặp riêng Ông Nhu. Cuộc gặp gỡ giữa cụ Sửu và Ông Nhu lâu hơn cả một giờ. Theo Bác Sĩ Tuyến thì cụ Sửu cũng như Ông Nhu tỏ ra thông cảm và cởi mở (cụ Sửu bị bắt trong cuộc đảo chính hụt 11.11.60 song cụ Bà vẫn được tiếp tục lãnh lương Dân Biểu).
Thu xếp xong vấn đề cụ Phan Khắc Sửu nhưng còn hai trường hợp ông Phan Quang Đán và Nguyễn Trân, Ông Nhu để ông anh mặc quyết định.
Hơn nữa, đối với Ông Nhu thì cụ Phan Khắc Sửu mới là điều quan trọng vì không ai phủ nhận được đời sống đạo đức và thành tích tranh đấu của cụ trong dĩ vãng.
Sau đó thì Ủy Ban Hợp Thức Hóa quyết định không thừa nhận 2 Dân Biểu nói trên. Đây cũng là một vết đen lớn của Quốc Hội Đệ Nhất Cộng Hòa và dù cách nào hay dựa trên căn bản pháp lý cũng không thể biện minh cho sự sai phạm thể chế dân chủ một cách quá rõ ràng như thế.
Việc loại trừ Bác Sĩ Phan Quang Đán ra khỏi Quốc Hội xét về tâm lý cũng dễ hiểu. Bác Sĩ Đán trúng cử tại một đơn vị chính Tổng Thống Diệm đi bỏ phiếu và ở ngay khu trung tâm Sài Gòn. Vả lại Tổng Thống Diệm đã biết rõ con người ông Đán, từ khi gặp Ông Diệm bên Mỹ. Ông Nhu thì cho rằng ông Phan Quang Đán không quan trọng “cứ để hắn vô” nhưng Tổng Thống Diệm không chấp nhận. Đây cũng là điều quá hẹp hòi và sai lầm. Nếu cứ để cho ông Đán vô
Quốc Hội thì sớm muộn gì ông Đán cũng bị “cháy” do chính ông “đốt” ông. Nhưng khi loại ông Đán thì chính là cơ hội cho ông Đán thêm nhiều uy tín tiếng tăm trong dân chúng mà thực ra uy tín đó hết sức bấp bênh.
Dạo đó dư luận đồn đã rằng, chính quyền Ngô Đình Diệm cố loại Phan Quang Đán vì ông Đán có thể tranh cử Tổng Thống và ông Đán sẽ là “con bài nặng ký” của Mỹ. Dư luận cũng cho ông Ngô Đình Diệm ghen tức với uy tín của ông Phan Quang Đán. Sự thực thì năm 1955 chính quyền Ngô Đình Diệm đã chấp thuận cho ông Đán hồi hương mà không do áp lực của Mỹ. Một vài lần Tổng Thống Diệm có ý dành cho ông Đán một ghế Bộ Trưởng không mấy quan trọng nhưng ông Đán lại quá nhiều tham vọng và muốn trở thành một lãnh tụ đối lập trong khi ông không có lực lượng nhân dân, không có một số cán bộ cần thiết. Điều đó Ông Nhu biết rất rõ nên để mặc ông Đán ăn nói rộng rãi trước các Sinh Viên Y Khoa năm thứ năm và Sinh Viên Trường Cán Sự Y Tế. Khi về nước, Bác Sĩ Đán được mời vào dạy môn Y Tế Công Cộng và Y Tế Dự Phòng tại 2 Trường Y Khoa và Cán Sự Y Tế.
Ông Nhu chấp nhận những cá nhân đối lập cùng những ý kiến đối lập. Cũng vì vậy, Tổng Thống Diệm quyết định loại trừ Phan Quang Đán và Nguyễn Trân thì Ông Nhu lại không đồng ý và cho rằng cứ để họ vô Quốc Hội. Với một Phan Quang Đán, Ông Nhu đã nhiều lần “miệt thị” và sẵn một thành kiến là Phan Quang Đán hèn, hết chạy theo Pháp và Bảo Đại bây giờ lại trở cờ.
Khi qua Mỹ Phan Quang Đán móc nối được mấy tay Thượng Nghị Sĩ và một vài viên chức CIA thì Phan Quang Đán lại trờ cờ theo Mỹ. Ông cũng biết rõ, Phan Quang Đán không có một thực lực nào, đảng dân chủ của ông chỉ là đảng ma và thứ đảng phái “cò mồi” cho Mỹ. Bác Sĩ Phan Quang Đán vẫn tự hào về thành tích lập đoàn khất thực trong trận đói tại Miền Bắc 1945 và Phong Trào Ngũ Xã tại Hà Nội (chống Việt Minh). Thành tích của ông chỉ có bấy nhiêu thôi.
Còn sau này, từ Mỹ qua Phi Luật Tân rồi trở về nước định làm một “cú” đối lập nhưng ông không làm nên chuyện gì cả. Ngay những người quốc gia đối lập thuộc thành phần đảng phái từ Nguyễn Bảo Toàn, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Văn, Hồ Văn Nhật cũng không ưa gì Phan Quang Đán vì đã biết “tẩy” của ông Đán, một số người vốn khoa trương thanh thế nhưng chỉ có mỗi thực lực là dựa vào thế của Mỹ qua mấy tay Thượng Nghị Sĩ Dân Chủ (trong khi Đảng Cộng Hòa của Eisenhower đang cầm quyền).
Về việc dựa vào thế lực Mỹ như thế nào thì Đại Tá Lansdale đã bắn tiếng cho Ông Nhu biết rõ. Nhiều người thân thiện giới chức Mỹ của Phòng Chính Trị Tòa Đại Sứ Mỹ thì lại được biết rằng ông Phan Quang Đán vẫn đi cửa sau với ông Đại Sứ Durrbow.
Sau ông nổi tiếng và được dân chúng dành cho nhiều cảm tình là nhờ tờ báo Thời Luận của ông Nghiêm Xuân Thiện. Cộng tác với ông Thiện được ít lâu và nhờ tờ Thời Luận mà có tiếng tăm thì ông lại trở cờ phản phé ông Thiện và trong khi viết báo đối lập ông vẫn bí mật liên lạc với chính quyền và tìm cách gặp riêng Ông Nhu.
Hiểu rõ bản chất thực của những cá nhân đối lập như vậy nên Ông Nhu cho rằng không có gì quan trọng mà phải cấm đoán họ. Tổng Thống Diệm thì lại nghĩ khác. Nhận xét về Bác Sĩ
Phan Quan Đán Ông Diệm nói: “Hắn dị hợm lắm không dùng được”.
Tuy vậy việc gạt Phan Quang Đán và Nguyễn Trân ra khỏi Quốc Hội đã gây nhiều bất mãn trong dân chúng nhất là đám dân chúng cử tri Quận II và Đô Thành. Việc này Ông Nhu không sao can thiệp được với ông Tổng Thống Diệm.
Hầu hết những chính khách đối lập tại Miền Nam nếu không quen Ông Nhu thì cũng từng là chỗ quen biết Ông Diệm, những chính khách độc lập Ông Nhu không quan tâm vì ông chủ trương chấp nhận đối lập cá nhân và các lập trường dị biệt, nhưng có một điều quan trọng này: Ông Nhu không chấp nhận đảng phái đối lập. Phải chăng những ngày dài đọc Lenine và nghiên cứu chiến lược cách mạng bạo động của Mao trạch Đông (Ông Nhu rất ưa thích Mao trạch Đông) Ông Nhu đã dứt khoát mà nói với cộng sự viên thân cận nhất: “Các đảng phái ở Á Châu và các nước chậm tiến không giống như Tây Phương. Đối lập với chính quyền đối với họ là hoàn toàn chống lại chính quyền và tìm mọi cách cướp chính quyền lật đổ chế độ”. Nhận xét kể cũng đúng nếu tìm hiểu các Đảng phái ở Indonesia cũng như Bán Đảo Ả Rập và lại càng đúng hơn nữa ở Việt Nam. Ngay năm 1954 Ông Diệm vừa về nước chấp chánh thì đảng Đại Việt của ông Hà Thúc Ký đã kéo quân ra Ba Lòng lập chiến khu rồi năm 1955 Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Nam Ngãi kéo quân ra bưng lập chiến khu.
Đó là quan niệm của Ông Nhu còn nó có hợp tình hợp lý không thì lại là chuyện khác.
Ngay trong Dinh Độc Lập đã có sự đối lập rồi. Một bên Tổng Thống Diệm với các ông Võ Văn Hải v.v...Một bên là Ông Nhu với mấy cộng sự viên cận thân. Ông Võ Văn Hải theo Tổng Thống Diệm từ thời thiếu niên, một Phật Tử thuần thành nhưng đối với Ông Nhu như “mặt trăng mặt trời”. Sau cuộc đảo chánh hụt 11.11.1960 ông Hải bị nghi oan có liên hệ với phe đảo chánh, ông tức giận làm một bản phúc trình dài gửi thẳng lên Tổng Thống Diệm và kết luận đại cương: “Tôi theo Tổng Thống, trung thành với Tổng Thống tôi chỉ biết một lòng với Tổng Thống mà thôi”.
Bản phúc trình ấy có ý nói gián tiếp không cần biết Ông Nhu, Ông Nhu được xem bản phúc trình đó không biết lòng dạ ông như thế nào nhưng ông không tỏ một thái độ gì cả. Rồi mỗi người mỗi việc, mỗi phận sự.
Nói năng kém hoạt bát, giao tế lại ngượng ngùng. Đó là cái yếu nhất của một nhà chính trị. Ông Nhu mấy lần cũng cố gắng mở các cuộc tiếp xúc với một số chính khách nhưng cũng vì sự giao tế ngượng ngùng nên kết quả không đi đến đâu, không tìm được sự hợp tác.
Sau cuộc đảo chánh hụt 11.11.1960 Ông Nhu được khuyến cáo cần phải mở rộng chính quyền phải kết hợp các thành phần vẫn được gọi là đối lập. Một cộng sự viên của Ông Nhu ủy cho vai trò móc nối và dàn xếp. Nếu mời các chính khách vào Dinh Độc Lập thì rất bất tiện. Vả lại các vị này vốn có mặc cảm sợ mang tiếng “luồn lót”. Do đó, phải tổ chức cuộc gặp gỡ ở bên ngoài.
Lần thứ nhất, cuộc gặp gỡ tổ chức tại nhà riêng của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc. Nhưng khi Ông Nhu đến thì ông lại trở thành người cô đơn lạc lõng. Mấy vị chính khách thì ngồi tận xa và mình ông trơ trọi trên chiếc ghế bành kết quả không đi đến đâu không cởi mở với nhau được những gì cần phải thẳng thắn cởi mở.
Lần thứ hai tại nhà riêng Bác Sĩ Phan Huy Quát. Lần này khá đông. Nhưng khi Ông Nhu đến thì mọi người né tránh, ông vẫn là người trơ trọi. Vốn ít nói lại nói “trọ trẹ” khó nghe nên ông lại càng thêm trơ trọi. Trong khi đó không ai gợi chuyện hiểu tính nhau và tìm đường thông cảm nhau.
Người ta cho rằng, Ông Nhu thâm hiểm, sự thực, như trên đã viết, tâm hồn ông quá khép kín, vui buồn không bộc lộ ra ngoài, không mấy khi tâm sự với một ai kể cả những người thân. Ông lầm lì, trù tính những gì không ai hay biết.
Nhưng ông lại là người biết nghe cộng sự viên trình bày điều hợp lý, phải lẽ. Ông nghe kể cả những nguyện vọng của quần chúng. Nhưng có mấy ai trình bày nguyện vọng thực của quần chúng để ông có thể nhìn rõ thực trạng.
Đối với một việc dù quan hệ đến đâu nếu do tay ông giải quyết thì ông giải quyết ngay, không do dự.
Thí dụ năm 1957 nhân một chuyến di dạo quanh Đô Thành, Tổng Thống Diệm đi qua Bến Bạch Đằng...ông đùng đùng nổi giận vì cảnh bến sống thật là “bê bối”...Hàng quán san sát chiêu đãi viên cùng thực khách đùa giỡn lả lướt, Tổng Thống Diệm sau đó chỉ thị cho giới chức Đô Thành phải giải tỏa ngay, ông Tổng Thống cho rằng Thủ Đô là tiêu biểu cho thể thống quốc gia để cho hàng quán tùm lum ở bến sông, ở hè phố như vậy còn gì là thể thống. Đô Trưởng Sài Gòn khẩn cấp ra lệnh giải tỏa. Hàng ba trăm bạn hàng dọc theo bờ sông Bạch Đằng và một số khác ở các vỉa hè lớn bị giải tỏa. Trước khi giải tỏa họ chỉ được thông báo và thông báo một cách cấp kỳ như vậy trong một thời gian quá ngắn làm sao thu xếp được công ăn việc làm.
Các bạn hàng cấp tốc qui tụ lại thành một nghiệp đoàn để tranh đấu (đặt dưới sự bảo trợ của Tổng Liên Đoàn) do ông Nguyễn Văn Vượng làm Chủ Tịch và dự định biểu tình làm lớn chuyện...Ông Nhu biết được như vậy thì tìm cách giải quyết ngay. Ông cho gọi Nguyễn Văn Vượng vào Dinh.
Không phân biệt địa vị sang hèn, Ông Nhu đã tiếp đại diện các bạn hàng lâu cả hai giờ đồng hồ. Đến nay, ông Vượng vẫn không thể quên được hình ảnh Ông Nhu trong buổi yết kiến này, ông Vượng được hướng dẫn đến văn phòng Cố Vấn Chính Trị. Một lát sau Ông Nhu đi ra, hất hàm hỏi: “Ai đây” nhân viên cho biết: “Ông Cố Vấn cho gọi người này vào hầu chuyện”
Ông Nhu gật đầu: “À, à... vô đây” Ông Nhu vừa ngồi xuống ghế vừa chỉ mặt ông Vượng “Tranh đấu hỉ? Anh quá khích! Quá khích. Rồi ông lại ôn tồn nói: “Bây chừ thế nào, ra sao nói coi”. Rồi trong suốt hai giờ liền, Ông Nhu yên lặng ngồi nghe người đại diện trình bày hoàn cảnh và nguyện vọng (cũng nên ghi chú: Ông Vượng là người đầu tiên “sáng chế” ra món “bia cốc” bán tại bờ hồ Hoàn Kiếm. Sau ông tổ chức cả một xe bán lưu động trong khắp Thành Phố. Món “bia cốc” rất thịnh hành tại Hà Nội trước năm 1954).
Một người tự tôn như Ông Nhu mà nghe đại diện hàng quán nói thao thao cả 2 giờ như vậy thì Ông Nhu cũng không phải là người không biết lắng nghe tìm hiểu.
Sau đó chỉ một tuần lễ, các bạn hàng được chính quyền lo giải quyết và Khu Dân Sinh trở thành khu giải trí lành mạnh.
Nếu Tổng Thống Diệm quá khắt khe trong quan niệm luân lý và thuần phong mỹ tục thì
Ông Nhu lại tỏ ra rộng rãi mặc dù ông không phải là người bài bạc ăn chơi. Đây là một thí dụ: Khoảng năm 1959 Tổng Thống Diệm đi xe từ Quang Trung về, khi đến Ngã Ba Chú Ía (gần nhà thương Cộng Hòa) thì có cả hàng mấy chục cô giang hồ phấn son lòe loẹt đứng bên đường vẫy tay cười nói, Ông Tổng Thống mặt mày đỏ bừng bừng: “Mấy con mụ đó nó làm chi mà dị hợm rứa? (chữ dị hợm này Tổng Thống Diệm đã dùng để nhận định về con người Bác Sĩ Phan Quang Đán). Viên Sĩ Quan Tùy Viên cứ tình ngay nói thẳng: “Bẩm Cụ mấy đứa đó là bọn gái giang hồ, vùng này nhiều lắm”. Ông Tổng Thống lại hầm hầm mặt đỏ gay: “Thằng Tỉnh
Trưởng nó làm chi đó hỉ?”
Khi trở về Dinh, Tổng Thống Diệm cho gọi Đại Úy Bằng đến hỏi kỹ về chuyện này. Sau đó, ông bảo Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An, Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành, Tỉnh Trưởng Gia Định và Trung Tá Cao Văn Viên phải tuân hành lấy xe đi một vòng kiểm soát xem thực hư thế nào. Các viên chức này trở về Dinh đều xác nhận là có nhiều gái giang hồ tại mấy vùng ngoại ô như Lăng Cha Cả, vùng nhà thương Cộng Hòa. Ông Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành (Trần Văn Tư) phải một phen xanh mặt. Mấy hôm sau Tổng Thống Diệm ra lệnh bãi chức một loạt Cảnh Sát Trưởng thuộc Đô Thành và Trưởng Ty Cảnh Sát Gia Định. Vụ này làm “rung động” giới chức Cảnh Sát cao cấp. Ông Nhu cứ nhăn mặt lắc đầu: “làm chi mà quá đáng như rứa”. Ông cũng thường nói với cộng sự viên: “Cấm là cấm vậy thôi chứ nạn mãi dâm làm sao hết được tập trung bọn nó sang cả vùng Cầu Hàn cho dễ kiểm soát bệnh tật”.
Ông Nhu quan niệm rộng rãi như vậy cũng dễ hiểu vì ông không lạ gì nạn mãi dâm tại Thành Phố Ba Lê nơi ông đã lưu trú nhiều năm. Theo Lương Khải Minh Ông Nhu khác hẳn Tổng Thống Diệm, ông không quan tâm đến những chuyện vụn vặt như ông A phóng đãng ông B ăn chơi trác táng. Điều quan trọng đối với ông là “chơi thì cứ chơi nhưng kín đáo đứng gây nên tai tiếng”. Ông thường nói: “Bọn cán bộ cộng sản cao cấp nó cũng ăn chơi hủ hóa ghê lắm nhưng nó kín đáo...chơi thì chơi nhưng chịu làm việc suy nghĩ” Cái chết của Tướng Hồ Văn Tố bị bệnh thượng mã phong làm cho Tổng Thống Diệm mặt chảy dài, thở phì phì vì tức giận...Ông Nhu chỉ lắc đầu: “làm thì không lo làm...lúc nào cũng chỉ có “con chim” trên đầu” Nhưng ông có cái rộng rãi này thì vấp phải những định kiến hẹp hòi khác nhiều khi rất quá đáng nếu ở tư thế một nhà chính trị. Trường hợp đối xử với một số đồng bạn cũ cũng gây tai tiếng không ít và do đó người ta cho rằng Ông Nhu theo chính sách “vắt chanh bỏ vỏ”.
CHƯƠNG VII
CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM 
VÀ NGƯỜI MỸ
Sau vụ biến cố đẫm máu tại Đài Phát Thanh Huế 4 ngày, Ông Nhu đã cho nổ một trái bom làm rung động ngoại giao Mỹ. Khi ông tuyên bố với phái viên tờ Washington Post: “Cho đến lúc này Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa không thấy cần thiết một số Cố Vấn Quân Sự quá lớn, cho nên Việt Nam Cộng Hòa có thể yêu cầu chính Mỹ cho rút một nửa số Cố Vấn Quân Sự Mỹ, tức là chỉ nên duy trì khoảng 7, 8 ngàn là đủ”. (Washington Post 12.5.1963) Cũng vào thời gian này Ông Nhu nói với Giáo Sư Bửu Hội: “Đã đến lúc mình phải xét lại sự hợp tác và viện trợ của Mỹ. Anh có thể giúp tôi tìm sự ủng hộ thân hữu của Pháp và các quốc gia Bắc Phi. Trong tình thế này chúng ta phải đi đến một modus vivendi thỏa ước với Bắc Việt”. Sáng Chủ Nhật hôm ấy Ông Nhu cũng lập lại như vậy với một vài cộng sự viên thân cận. Nhưng ai nấy đều cho rằng con đường mà Ông Nhu sắp đi tới nguy hiểm. Nhưng Ông Nhu vẫn chủ quan cho rằng kế hoạch Ấp Chiến Lược và đường lối ngoại giao mới qua trục Ba Lê và Á Phi sẽ tạo cho Miền Nam đủ tư thế chấp thuận thỏa ước với Miền Bắc. Nhưng Ông Nhu quên mất rằng với 16000 Cố Vấn Mỹ và mỗi ngày Mỹ phải chi trên một triệu đô la cho cuộc chiến tại Việt Nam (63) thì không dễ dàng gì Mỹ có thể để cho Ông Nhu tự do hành động khác với đường lối của họ
MỘNG ƯỚC HIỆP THƯƠNG HAI MIỀN NAM BẮC
Trước đây năm 1961 Ngoại Trưởng Pháp Couve De Murville sau cuộc tiếp xúc với Ông Nhu tại Ba Lê (61) đã phê bình “Ngô Đình Nhu là một người có nhiều ảo tưởng”. Ông Murville cũng như Bác Sĩ Trần Kim Tuyến cho rằng phê bình như vậy cũng có phần đúng. Theo Bác Sĩ Tuyến “Ông Nhu là một chính khách có suy tư về chính trị, có khám phá sáng tạo trên bình diện chiến lược. Nhưng thực tại chính trị Miền Nam chính nó đã làm cho những suy nghĩ của Ông Nhu trở nên ảo tưởng”. Một buổi sáng trời trong xanh, Ông Nhu mỉm cười mô tả một cách đầy thi vị nói với ông Tuyến: “Buổi sáng Việt Nam trời mầu pha lê, toa thấy chiến tranh phi lý quá hỉ ? Nhưng bọn nó (tức cộng sản) có bao giờ muốn hòa bình đâu. Chiến lược chiến tranh cách mạng vô sản mà. Nhưng nếu bọn nó ngưng bắn hiệp thương thì mình cũng chấp nhận, mấy thằng tư bản phiêu lưu nó sẽ phá moa, toa thấy thằng Nghị Sĩ Mansfield gầm thét chưa. Bọn nó (tức Mỹ), như con hổ bị thương, chúng sẽ cho dollar để Phật Giáo phá moa...Nhưng chế độ này phải tồn tại”.
Khi Ông Nhu toan tính bắt tay với Bắc Việt thì trước hết ông đã gặp phản ứng hết sức bất lợi cho kế hoạch của riêng ông. Phản ứng đó xuất phát ngay từ tập thể Thiên Chúa Giáo và nhất là khối di cư.
Khối người đó từng hậu thuẫn vô giá cho chế độ Ngô Đình Diệm từ những ngày đầu năm 1954-1955. Tuy toan tính của Ông Nhu không mấy ai biết nhưng hẳn nhiên không thể qua mắt được các Đức Giám Mục Thiên Chúa Giáo. Đức Cha Lê Hữu Từ có thể là người được biết khá thông suốt về những toan tính của Ông Nhu. Điều này Cha Jean (một Linh Mục người Pháp hiện sống tại Sài Gòn) đã có nhiều cơ hội được am tường một cách tương đối rành rẽ. Sau cuộc biểu tình dữ dội của Phật Giáo ngày 17.7, phản ứng của Mỹ hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Đài VOA thông tin và bình luận một cách có thiện cảm hay đúng hơn đã gián tiếp ca ngợi cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Cha Jean được mời vào gặp Ông Nhu. Cuộc gặp gỡ kéo dài trong trong 2 tiếng đồng hồ. Ông Nhu đề cập về cuộc xuống đường của Phật Giáo ngày 17, ông nói: “Tôi có bằng chứng là hiện nay cộng sản đã thao túng Phật Giáo. Rất nhiều cán bộ cộng sản cải trang vào đó với tư cách Phật Tử hay các nhà sư”.
Cha Jean chỉ lắng nghe mà không đáp. Ông Nhu với thái độ giận dữ: “Tôn giáo là tôn giáo, quốc gia là quốc gia. Tổng Thống không thể nào nhượng bộ họ được nữa. Đã đến lúc chính phủ phải có biện pháp mạnh. Nếu chính phủ hạ lệnh thì chỉ trong vòng một ngày, Quân Đội và Cảnh Sát có thể dẹp tan Phong Trào đấu tranh này”.
Cha Jean đáp: “Thưa ông Cố Vấn, đây là vấn đề nguy hiểm và tế nhị. Ông Cố Vấn có thể nào tìm cách giải quyết tốt đẹp hơn là đàn áp không? Theo tôi đàn áp thì dễ, cộng sản sẽ chỉ mong chính phủ đàn áp Phật Giáo”.
Ông Nhu lừ mắt nhìn Cha Jean, ông lắc đầu: “Đến nay thì không còn cách nào giải quyết tốt đẹp nữa. Hiện các Tướng lãnh và Sĩ Quan cao cấp đang bất mãn với Phật Giáo, họ đang xúi Tổng Thống hạ lệnh cho họ được phép dẹp cho yên” Cha Jean không còn biết nói gì hơn. Ông Nhu lại tiếp tục: “Tôi hiểu, cộng sản cũng như Hoa Kỳ đang âm mưu gây rối Miền Nam theo tư lợi của họ...chính phủ không thể tha thứ bất cứ một cuộc nổi loạn nào”.
Bất chợt Ông Nhu hỏi Cha Jean: “Phía Hoa Kiều Chợ Lớn Cha thấy thái độ chung của họ như thế nào?” Cha Jean đáp: “Hoa Kiều tại Việt Nam như ông Cố Vấn đã rõ họ chỉ biết làm ăn buôn bán”. Ông Nhu nói: “Cha có thể giúp tôi một việc riêng?” Cha Jean đáp: “Tôi sẵn sàng nếu thấy có khả năng”. Ông Nhu ngần ngại rồi đi thẳng vào câu chuyện: “Cha có thể giúp tôi một việc quan trọng này mà ngoài Cha, Tổng Thống không muốn ủy thác cho một ai”.

Ông Nhu lại yên lặng hút thuốc lá lâu hàng 5, 7 phút. Đoạn ông nói: “Cha sang Đài Loan giúp chính phủ được không?” Cha Jean chưa trả lời, Ông Nhu nói tiếp: “Cha có đủ uy tín nói chuyện với chính phủ Đài Bắc, Cha làm sáng tỏ cho họ rõ là chính phủ Việt Nam không bao giờ chủ trương và kỳ thị tôn giáo. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo đang bị cộng sản sách động giật giây!!” Cha Jean đáp: “Thưa ông Cố Vấn, tôi nghĩ việc này ông Cố Vấn nên tiếp xúc thẳng với
Đại Sứ Trung Hoa Dân Quốc hoặc nếu không ông Cố Vấn có thể ủy thác cho ông Bộ Trưởng Ngoại Giao”.
Sự từ chối khéo của Cha Jean làm Ông Nhu mất bình tĩnh: “Bộ Trưởng Ngoại Giao ấy à?
Ông ta không làm được cái chi hết. Còn ông Đại Sứ Trung Hoa Dân Quốc cũng đang bị dư luận đầu độc. Tôi muốn Cha sang Đài Loan nói cho chính phủ của Tưởng Giới Thạch biết rõ sự thực và Cha nói dùm chính phủ Đài Bắc phải chấm dứt ngay chiến dịch báo chí ở Đài Loan hiện đang xuyên tạc chính phủ Việt Nam và họ đang cổ võ cho cuộc tranh đấu của cộng sản dưới chiêu bài tôn giáo”.
Cha Jean nói: “Xin ông Cố Vấn cho tôi trình bày ý kiến. Theo tôi, có thể cộng sản len lõi vào hàng ngũ đấu tranh của Phật Giáo nhưng tôi tin rằng cuộc đấu tranh này vẫn có tính cách tôn giáo đó chứ. Tôi không tin Thượng Tọa Tâm Châu hay ông Mai là cộng sản. Đại Sứ Trung Hoa Dân Quốc cũng đã nói với tôi như thế. Xin ông Cố Vấn thông cảm sự khó khăn của tôi, tôi không thể nói gì khác hơn là như vậy”.
Ông Nhu hỏi: “Ngay Cha cũng tin vào dư luận là Tổng Thống sẽ thương thuyết với cộng sản Bắc Việt?” Cha Jean đáp: “Đó là điều tôi ngạc nhiên”. Cha hỏi lại: “Chắc chắn ông Cố Vấn có theo dõi hoạt động của Ủy Ban Hòa Bình Phục Hưng Miền Nam” (Comite pour la Paix et Renovation du Sud VN) Ông Nhu “à” một tiếng khá lớn lắc đầu với thái độ khinh miệt. “Tôi biết tổ chức ấy là một con số không do một số người Pháp đỡ đầu. Trần Văn Hữu chắc Cha đã biết rõ?” Cha Jean đáp: “Tôi có gặp mặt ông ấy một vài lần”. Ông Nhu bỗng cao hứng nói một hơi thật dài. Đến nay Cha Jean chỉ còn nhớ lại vài nét chánh, đại cương Ông Nhu nói “Trần Văn Hữu hiện nay đang được nhóm Paul Devinat Bolaert, Pignon đỡ đầu, hắn đòi gì biết không? Hắn đòi phải lật đổ chánh phủ này nghĩa là xóa bỏ chế độ này sau đó tổ chức một chánh phủ liên hiệp có Mặt Trận Giải Phóng tham gia và Miền Nam sẽ trung lập”. Cha Jean lại hỏi: “Thưa ông Cố Vấn ông Cố Vấn nghĩ như thế nào về đề nghị của ông Hữu?” Ông Nhu đáp: “đó là một đề nghị trẻ con tôi không quan tâm nếu có nói chuyện trung lập thì chỉ nói với cộng sản Bắc Việt thôi chớ Mặt Trận Giải Phóng chỉ là một tổ chức phiến loạn”.Cha Jean nhân cơ hội này lại hỏi: “Thưa ông Cố Vấn ông có nghĩ đến vấn đề nói chuyện với Bắc Việt không ?” Ông Nhu mỉm cười: “Đó là vấn đề chính mà hôm nay tôi cần gặp Cha và nhờ Cha giúp tôi”.
BẮT TAY VỚI CỘNG SẢN CHỈ LÀ CHIẾN THUẬT TRẢ ĐŨA HOA KỲ
Qua cuộc tiếp xúc với Ông Nhu, Cha Jean nhận thấy Ông Nhu đang trải qua cơn giao động với một thái độ quyết liệt. Về vấn đề bắt tay với cộng sản Bắc Việt Ông Nhu tỏ ra hết sức dè dặt. Ông vẫn không tin tưởng vào thế trung lập mà liên hiệp với cộng sản lại càng không thể có. Ông Nhu nhắc đi nhắc lại với Cha Jean “Cha đã hiểu rất nhiều về cộng sản...Cha cũng rõ Tổng Thống ghét cộng sản như thế nào”. Sau đó ông rất dè dặt tâm sự: “Trong tình thế này Hoa Kỳ cứ gây khó khăn mãi cho chánh phủ Việt Nam tôi phải lựa chọn” Ý Ông Nhu nói là ông phải lựa chọn một thế đứng mới làm điều kiện trả đũa áp lực của Hoa Kỳ. Cha Jean cũng nhận thấy chưa bao giờ Ông Nhu tỏ vẻ tức giận Hoa Kỳ như vậy. Trong cuộc gặp gỡ hôm ấy Ông Nhu muốn nhờ Cha Jean qua Đài Loan rồi trở qua Ba Lê. Về việc qua Đài Loan Ông Nhu cho biết ông muốn nhờ Cha Jean nói với nhà cầm quyền Đài Loan biết rằng Tổng Thống Diệm vẫn giữ vững lập trường chống cộng không có vấn đề trung lập liên hiệp tuy nhiên Ông Nhu nhấn mạnh: “Tuy nhiên nếu quốc gia chống cộng như Trung Hoa Dân Quốc không giúp đỡ tích cực Việt Nam Cộng Hòa và không làm cách nào cho Hoa Kỳ bớt gây rối Miền Nam thì buộc lòng Việt Nam Cộng Hòa phải chọn lựa nghĩa là sẽ có nói chuyện ngưng bắn và thiết lập quan hệ bình thường với Bắc Việt” Cha Jean đã tìm cách từ chối không qua Đài Loan.
Điểm sau cùng mà Ông Nhu nhấn mạnh “Chánh phủ Việt Nam hoàn toàn ủng hộ Trung Hoa Dân Quốc và chính vì thế Hoa Kiều tại Việt Nam đã hưởng mọi ân huệ. Nếu tình thế thay đổi nghĩa là khi chánh phủ Việt Nam buộc lòng phải bắt tay với cộng sản Bắc Việt thì lúc ấy Hoa Kiều không còn được hưởng ân huệ như vậy và các tổ chức chìm nổi của chánh phủ Đài Loan tại Việt Nam cũng sẽ gặp khó khăn rồi tự nó tan rã”.
Trước khi ra về Ông Nhu nắm chặt tay Cha Jean tiễn ra tận hành lang ông nhắc đi nhắc lại: “Bất cứ một người Công Giáo nào cũng không thể nghi ngờ được lập trường chống cộng của Tổng Thống”. Ông Nhu ngập ngừng khẽ nhún vai dáng điệu ấy cho đến nay Cha Jean vẫn chưa thể quên. Ông Nhu nói: “Lập trường chống cộng phải đi song song với lập trường dân tộc. Nếu Hoa Kỳ không tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam thì buộc lòng Tổng Thống sẽ phải xét lại công cuộc viện trợ. Chắc Cha cũng đã rõ, nhiều quốc gia sẵn sàng viện trợ cho Việt Nam,
Tổng Thống sẽ cân nhắc lựa chọn”. Trong buổi tiếp xúc này, Ông Nhu có vẻ muốn thanh minh hai điểm quan trọng:
1/ Không có chuyện đàn áp Phật Giáo.
2/ Tập thể Công Giáo cứ yên tâm và tin tưởng vào lập trường chống cộng của Tổng Thống Diệm.
Từ Cha Jean đến Bác Sĩ Trần Kim Tuyến và giới lân cận Ông Nhu đều nhận định rằng Ông Nhu muốn thoát ảnh hưởng của Mỹ, muốn tìm một thế đứng mới nhưng chuyện mưu đồ bắt tay với cộng sản chỉ là chiến thuật trả giá với Hoa Kỳ. Nhưng Hoa Kỳ lại dùng “gậy ông lại đập lưng ông” quật ngã Ông Nhu, khi họ cố tình cho rằng Ông Nhu định bắt tay với cộng sản. Một số Tướng lãnh và sĩ quan cao cấp Việt Nam đã bị Hoa Kỳ lung lạc tinh thần bằng cái dư luận: Ông Nhu định điều đình với cộng sản. Thực sự cơ quan CIA không thiếu gì phương tiện, nhất cử nhất động của Ông Nhu không qua khỏi con mắt CIA. Có lẽ vấn đề Ông Nhu bắt tay với cộng sản không làm Mỹ lo ngại bằng cho vấn đề bang giao Việt Pháp mỗi ngày càng thêm tốt đẹp sau nữa là thái độ quá cứng rắn của Tổng Thống Diệm trước những đề nghị của Mỹ mà Tổng Thống Diệm cho rằng xâm phạm đến chủ quyền Việt Nam (như vụ Cam Ranh. Đề nghị đặt Cố Vấn Mỹ cạnh Tỉnh Trưởng Việt Nam, lập phòng Dân Vụ Mỹ cạnh Tòa Đại Biểu Chánh Phủ. Sau năm 1963 những đề nghị này được hậu các chánh phủ sau đảo chánh thỏa mãn ngay)
Trước năm 1962, bang giao Việt-Pháp vẫn tẻ lạnh như buổi chợ chiều. Chánh phủ De Gaulle không một chút thân thiện nào đối với Việt Nam Cộng Hòa. Theo những tài liệu mà chúng tôi tìm hiểu thì Tổng Thống Diệm do sự thúc đẩy của Ông Nhu đã gián tiếp ngỏ ý muốn qua hành hương tại Lourder và nhân cuộc hành hương này Tướng De Gaulle sẽ chính thức mời Tổng Thống Diệm thăm viếng Ba Lê. Song điều đó bất thành.
CHẮP NỐI DUYÊN XƯA
Theo Cha Jean thì không phải chỉ năm 1963 Ông Nhu mới nghĩ đến chuyện bang giao phát triển Việt-Pháp và tìm mọi điểm tựa mới trong chính phủ De Gaulle. Năm 1961 trong chuyến du hành qua Maroc dự lễ đăng quang Đức Vua Hanssan II Ông Nhu nhân dịp này ghé qua Ba Lê với tư cách riêng. Tuy vậy Ông Nhu cũng đến thăm xã giao Ngoại Trưởng Pháp
Couve De Murrville. Tuy với tư cách riêng Ngoại Trưởng Couve De Murrville cũng mở dạ tiệc khoản đãi Ông Nhu với sự hiện diện của Đại Sứ Lalouette và ông Étienne Manach đặc trách Á Châu Sự Vụ tại Bộ Ngoại Giao Pháp. Tuy không đạt được một kết quả nào cụ thể nhưng chuyến thăm viếng Ba Lê lần này Ông Nhu đã phá được bầu không khí tẻ lạnh giữa Pháp-Việt. Kể từ năm 1961, ông Étienne Manach trở thành nhịp cầu thông cảm giữa hai quốc gia Việt-Pháp. Hơn nữa vấn theo Cha Jean, ông Étienne Manach rất có thiện cảm với Ông Nhu (một cựu sinh viên Trường Cổ Học Ba Lê) đó cũng là một điểm hào quang dễ dàng thu hút sự cảm phục của giới ngoại giao Pháp. Trước năm 1960, các Cha Thừa Sai Pháp (MEP) từng tỏ ra lạnh nhạt đối với chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng năm 1960 thái độ đã thay đổi. Tổng Thống Ngô Đình Diệm trở lại ưu ái các Cha Thừa Sai Ba Lê đặc biệt những Cha hoạt động trên Vùng Cao Nguyên thì Tổng Thống mỗi ngày thêm tín nhiệm và kính phục. Đó cũng là tia sáng soi đường cho giai đoạn thân thiện với Pháp. Một trí thức cỡ như Ngô Đình Nhu tất nhiên dễ dàng thông cảm với Pháp hơn. Cái văn minh cơ khí của Mỹ có tiền dollars viện trợ dù to tát như thế nào cũng khó lòng đè bẹp được cái tinh hoa văn hóa Pháp đã tiêm nhiễm quá sâu xa trong con người trí thức như Ngô Đình Nhu.
Đó cũng là điều dễ hiểu khi Ông Nhu giơ bàn tay tiếp nhận người bạn Pháp. Đó cũng là lý do đễ hiểu tại sao những năm 1960-1961, chính quyền Ngô Đình Diệm cho mở hàng loạt Tòa Đại Sứ tại các quốc gia Á Phi thuộc ảnh hưởng Pháp. Trong một bài báo nhan đề “La Paix manquée”, của ký giả Georger Chaffard (express số 909) nhận định rằng trong cuộc gặp gỡ Couve De Murrville. Ngô Đình Nhu (1961) đã không đạt được kết quả vì Ông Nhu quá tự ái. Couve De Murrville lại tỏ ra lạnh nhạt. Chaffard viết: “Ông Couve De Murrville tin rằng thế nào chuyến sang Pháp lần này Ông Nhu cũng ve vãn Pháp nhưng ông Couve De Murrville đã thất vọng vì trong suốt bữa tiệc Ông Nhu chỉ đề cao chánh sách của anh em ông, ca ngợi Khu Trù Mật và tự hào chế độ Ngô Đình Diệm đang mạnh. Vẫn theo Chafffard thì ông Étienne Manach linh cảm rằng, Ông Nhu sang Pháp không phải chỉ để nói những lời “suông” như vậy...Ông Étienne Manach lại bố trí cuộc hội đàm Ngô Đình Nhu. Couve De Murrville từ Ratbat (Maroc) trên đường về ghé qua Ba Lê. Cuộc hội đàm không đi đến đâu...nhưng đó là cái mốc lớn mở đầu cho giai đoạn mới mà Đại Sứ Labouette đóng vai trò quan trọng. Đại Sứ Labouette đã hiểu rõ sự rạn nứt trong mối tình Đồng Minh Việt-Mỹ. Sự mâu thuẫn giữa Việt-Mỹ càng ngày càng gia tăng và Ông Nhu đã hơn một lần gián tiếp ngỏ ý cho Đại Sứ Labouette hay rằng đã đến lúc Pháp-Việt phải cải thiện bang giao tại Bán Đảo Đông Dương. Đại Sứ Labouette trở thành người bạn thân của Tổng Thống Diệm lẫn Ông Nhu. Labouette đóng vai trò biện hộ cho chế độ Ngô Đình Diệm trước thái độ nghi ngờ của Tướng De Gaulle, vì De Gaulle vẫn chưa quên bài học đau đớn 1954- 1955, một mặt bị Mỹ đá khỏi Việt Nam một mặt chính quyền Ngô Đình Diệm tẩy chay Pháp. Theo George Chaffard nhận định thì theo ông Đại Sứ Labouette anh em Tổng Thống Diệm quá nhiều tự ái dù anh em Ông Diệm có muốn ve vãn Pháp đến mức nào chăng nữa, anh em Tổng Thống Diệm cũng không nói thẳng ra được. Dần dần, Tướng De Gaulle ngã theo hướng thuyết phục của Đại Sứ Labouette.
Nghĩa là: Với sựu mâu thuẫn Việt-Mỹ, khi mà Ông Nhu muốn dân Mỹ tìm một thế đứng mới thì đây là cơ hội tốt nhất để Pháp nhẩy vào Đông Dương, đóng vai trò mới.
Tưởng cũng nên ghi lại một số biến cố ngoại giao đáng cho Hoa Kỳ lo ngại. Tháng 2.63 một phái đoàn Dân Biểu Việt Nam chính thức sang thăm viếng Pháp Quốc do ông Trương Vĩnh Lễ hướng dẫn gồm có các Dân Biểu Nguyễn Hữu Chỉnh, Hà Như Chi, Nguyễn Quốc Hưng, Trần Văn Thọ. Phái đoàn Dân Biểu Việt Nam được đón tiếp một cách khác thường, Tổng Thống De Gaulle đã tiếp phái đoàn tại Điện Elysée và cuộc hội kiến kéo dài 35 phút. Báo chí Pháp trong ngày 14.2.63 đã nhận định về cuộc hội kiến này. Tờ Le Monde cũng như France Soir coi đây như một biến cố lớn, một khúc quanh quan trọng trong cuộc bang giao Việt-Pháp. Ngày 15.2, Thủ Tướng Murrville đã thảo luận rất lâu với phái đoàn Dân Biểu Việt Nam về chương trình hợp tác và viện trợ kinh tế văn hóa. Phòng Thương Mại Ba Lê cũng mở dạ hội khoản đãi phái đoàn Dân Biểu Việt Nam với sự tham dự gần như đủ mặt giới doanh thương và kỹ nghệ Pháp. Người hoan hỉ nhất trong dịp này là Đại Sứ Labouette. Ông Đại Sứ đã thành công trong chặng đầu...Từ đó trở đi Đại Sứ Labouette trở thành một Đại Sứ quan trọng sau Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Phản ứng của Hoa Kỳ như thế nào ? Dĩ nhiên Hoa Kỳ không thể công khai phản đối mối tình Việt-Pháp nhưng Hoa Thịnh Đốn bắt đầu phản công lại.
Đại Tá Lansdale cũng như Fishel người đã từng ủng hộ hết lòng Tổng Thống Diệm trong thời gian 1954-1955 thì 1963, ông lại là người tích cực vận động lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Fishel từng lưu ngụ tại Việt Nam đã từng cộng tác với chính quyền Ngô Đình Diệm thì 1963 ông lại chủ trương phải lật đổ ngay Ngô Đình Diệm dù phải dùng biện pháp máu sắt kể cả việc thanh toán cá nhân Tổng Thống Diệm.
NGÔ ĐÌNH NHU-TƯỞNG KINH QUỐC VÀ GÃ CHỦ NỢ KEO KIỆT
Trong 9 năm dấn thân vào hành động, Ngô Đình Nhu vẫn chỉ là con người cô đơn. Ông lại có quá nhiều kẻ thù. Kẻ thù nguy hiểm đối với ông vẫn là cộng sản nhưng sau cộng sản thì người bạn Hoa Kỳ tuy vẫn có cái tình Đồng Minh nhưng cuộc hôn nhân Việt-Mỹ theo tháng ngày trôi qua cùng với áp lực nặng nề thì cái tình ấy đã mong manh như giây tơ cuối cùng “còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi”. Đến nay bao nhiêu biến cố thăng trầm Cha Jean vẫn thấy lời Ông Nhu nói vừa hữu lý vừa thấm thía.
“Thưa Cha, người thông cảm sự đớn đau của Việt Nam không ai hơn Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và Lý Thừa Vãn. Đối với người Mỹ, chúng tôi chỉ là những kẻ đi vay nợ lãi”. Cha Jean cho biết sau cái chết của Tổng Thống Diệm và Ông Nhu, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch than thở: “Người Mỹ có trách nhiệm về vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Quốc Gia mất đi những đồng chí tâm đầu hợp ý”. Tướng Tưởng Kinh Quốc vẫn không thể quên hình ảnh một Ngô Đình Nhu, ông ta bàng hoàng trước tin Ngô Đình Nhu bị giết và sau này gặp Cha Jean Tưởng Kinh Quốc than thở: “người Mỹ đã lầm lỗi lớn ở Miền Nam, Ông Nhu, là người chống cộng có suy nghĩ, có chiến lược...Tôi đã khâm phục Ông Nhu là một lãnh tụ lớn” (Viết theo lời Cha Jean)
Ở đây chúng tôi trình bày một vài điểm nhỏ để độc giả thấy rõ cái gọi là tình Đồng Minh giữa Việt Nam và Trung Hoa Dân Quốc đã thông cảm nhau đến mức độ nào. Và cũng là nguyên do làm cho Ông Nhu phát ngán “người bạn” Mỹ.
Riêng Trung Hoa Dân Quốc và Miền Nam trải qua cơn khủng hoảng vào nhưng năm 1956-1957 vì vụ Tổng Thống Diệm ký Sắc Lệnh cấm Hoa Kiều không được hành nghề hai loại nhất là vụ Hoa Kiều nhập tịch Việt. Nhưng sau đó chính phủ Đài Loan đã cải thiện thái độ và thông cảm Chánh Phủ Việt Nam. Năm 1957 Phó Tổng Thống Trần Thành qua viếng thăm Việt Nam thì hai quốc gia đã tạo được một cơ hội tốt đẹp nhất để cùng phát triển tình huynh đệ. Hơn nữa chuyến công du của Tổng Thống Diệm qua Đài Loan đã được Tổng Thống Tưởng Giới Thạch mô tả như một biến chuyển lịch sử của tình huynh đệ trong cùng một chiến tuyến chống cộng. Nhưng đây mới là hành động cụ thể của Chính Phủ Đài Loan để chứng tỏ tình huynh đệ ấy: Năm 1959 Bác Sĩ Trần Kim Tuyến theo lời mời của Đại Tướng Chủ Nhiệm Quốc Gia An Toàn Cuộc (Cơ Quan Tình Báo) qua thăm viếng Đài Loan. Dịp này đôi bên đã trao đổi kinh nghiệm chuyên môn cũng như kỹ thuật tình báo chiến lược.
Quan điểm của Đài Loan là công cuộc chống cộng phải đặt lên hàng đầu vượt khỏi những bất đồng về quyền lợi. Đại Tướng Chủ Nhiệm Quốc Gia An Toàn Cuộc cũng hướng dẫn phái đoàn thăm trung tâm kiểm thính (Service d'écouter) một trung tâm vĩ đại đặt dưới lòng đất có chiều dài cả cây số và được coi là một trung tâm tối tân nhất ở Á Châu. Phái đoàn Việt Nam ngỏ ý muốn được một trung tâm như thế nhưng đành bất lực không đủ tiền bạc. Lời ngỏ ý này được Đài Loan đặc biệt lưu tâm. Một chi tiết làm cho phái đoàn Việt Nam hết sức cảm động là Tướng Tưởng Kinh Quốc đã tiếp phái đoàn không bằng hình thức nghi lễ. Ông đã cư xử với phái đoàn Việt Nam như những đồng chí từ một trận tuyến trở về gặp nhau. Ngày đầu lưu ngụ tại Đài Bắc, Tướng Tưởng Kinh Quốc mời Bác Sĩ Trần Kim Tuyến ra nhà hàng dùng cơm một cách thân thiện và đôi bên cũng trao đổi kinh nghiệm về cộng sản. Tướng Tưởng Kinh Quốc cho rằng Đài Loan tự thấy có bổn phận phải sát cánh với Việt Nam. Sau đó Tướng Tưởng Kinh Quốc đã bất chấp khó khăn và quyết định giúp Việt Nam một trung tâm kiểm thính.
Quyết định này làm cho Hoa Kỳ tức giận không ít và có thể nói “chiến tranh lạnh” Việt- Mỹ âm thầm mở màn từ vụ này (xin gọi là vụ kiểm thính)
NGƯỜI MỸ "NÓ" VIỆN TRỢ CÓ ĐIỀU KIỆN NHƯ RỨA
Tại sao Hoa Kỳ lại tức giận trước sự giúp đỡ tận tình của Đài Loan đối với Việt Nam? Sự thực thì không có gì khó hiểu bởi người Mỹ vẫn quen thói chủ nhân. Vụ kiểm thính tuy rất nhỏ nhưng đã nói lên một phần nào cái nguyên nhân mà Ông Nhu nóng lòng muốn bứt bỏ người chủ nợ khó tính Hoa Kỳ.
Trước khi Pháp triệt thoái khỏi Việt Nam thì Phòng Nhì Pháp vẫn có một Sở Kiểm Thính nhưng quá cổ lỗ nghèo nàn. Và Sở Kiểm Thính này chỉ hoạt động theo một tầm mức hạn hẹp. Trước sự tiến bộ vượt bực của ngành kỹ thuật tính báo chiến lược thì một cơ sở kiểm thính như vậy không thể nào thỏa mãn được những đòi hỏi cấp bách và hữu hiệu. Chính quyền Việt Nam đã nhiều lần ngỏ ý với Hoa Kỳ yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ cho một trung tâm nhưng Hoa Kỳ đều từ chối vì họ thấy không cần thiết có nghĩa là không có lợi gì cho họ vì lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương đã có một trung tâm kiểm thính tối tân. Hơn nữa Hoa Kỳ chỉ chỉ đồng ý đặt tại Việt Nam một trung tâm kiểm thính tối tân với điều kiện phải có chuyên viên của họ và dưới quyền điều khiển của họ. Điều kiện này Tổng Thống Diệm bác bỏ ngay. Sự thực lúc ấy Hoa Kỳ cũng lơ là không mấy sốt sắng cho nên vấn đề “trung tâm kiểm thính” rơi vào quên lãng.
Sau trận chiến tranh Cao Ly ngoài Mỹ và Anh, Trung Hoa Quốc Gia là nước (ngoài cộng sản) có một Trung Tâm Kiểm Thính tối tân ngoại hạng. Nhờ Trung Tâm Kiểm Thính này với máy móc điện tử tuyệt hảo, Đài Loan có thể kiểm soát được toàn bộ các làn sóng điện trên Hoa Lục. Một sư đoàn của Trung Cộng di chuyển từ điểm A đến điểm B cũng không qua khỏi kiểm soát của Trung Tâm Kiểm Thính Đài Bắc (nhờ khả năng bắt các làn sóng điện từ hệ thống vô tuyến điện của địch). Chính quyền Việt Nam ao ước thèm thuồng có được một trung tâm như thế thì khả năng tình báo chiến lược sẽ gia tăng vượt mức. Nhưng Hoa Kỳ từ chối viện trợ, Việt Nam đành bó tay.
Sau chuyến thăm viếng Đài Bắc của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến thì Quốc Gia An Toàn Cuộc của Trung Hoa Dân Quốc quyết định viện trợ vô điều kiện cho Việt Nam cả chuyên viên lẫn máy móc để thành một Trung Tâm Kiểm Thính (gồm một số đài cỡ nhỏ máy móc tối tân). Hành động này đã chứng tỏ sự giúp đỡ thực tâm của Đài Loan nhưng Hoa Kỳ nhất là phía CIA tuy không công khai phản đối nhưng ngấm ngầm đã phát tức giận.
Sự tức giận của Hoa Kỳ cũng có lý vì máy móc kiểm thính của Đài Loan đưa sang Việt Nam lại chính là những máy móc do Mỹ viện trợ cho Đài Loan. Những máy móc ấy được đóng thùng rồi bí mật gởi qua Sài Gòn mà không có một lời nào thông báo cho Mỹ, khi người Mỹ biết được thì sự đã rồi. Hơn nữa dù không bằng lòng cũng không thể nói gì khác hơn là im lặng. Hơn nữa, ai cũng biết Tướng Tưởng Kinh Quốc là một nhân vật uy quyền của Đài Loan vừa với tư cách Tổng Thư Ký Hội Đồng An Ninh Quốc Gia lại vừa là Tổng Thanh Tra Quân Đội (1959) nên ông có đủ thẩm quyền quyết định viện trợ đặc biệt cho Việt Nam như vậy và qua mặt Mỹ “cái vù”. Vả chăng Tưởng Kinh Quốc vẫn nổi tiếng là con người không ưa gì Mỹ.
CHÍNH HOA KỲ ĐÃ ĐẨY ÔNG NHU VÀO THẾ CHÂN TƯỜNG
Kể từ khi Trung Hoa Quốc Gia thiết lập một số Đài Kiểm Thính tại Việt Nam (chẳng hạn Đài Kiểm Thính Phú Bài Huế) thì hiệu năng tình báo gia tăng mạnh mẽ. Điều đáng kể những Đài Kiểm Thính này đều đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Nhân viên Trung Hoa Quốc Gia tự coi như nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị Việt Nam. Không những đài kiểm soát được toàn bộ các làn sóng điện của Bắc Việt, Lào Quốc mà còn bao trùm cả miền Hoa Nam. Tuy nhiên có một điều Hoa Kỳ không vừa ý là vì kết quả khai thác của Đài Kiểm Thính đã không được chuyển giao cho Hoa Kỳ. Mãi sau này, khi chiến cuộc bộc phát mạnh, Hoa Kỳ mới thiết lập một Trung Tâm Kiểm Thính khác (1962) gần Bộ Tổng Tham Mưu để họ sử dụng riêng trong phạm vi cơ quan MACV. Qua vụ Đài Kiểm Thính ta cũng thấy rõ một phần nào bản chất của viện trợ Mỹ tại xứ này. Rồi vụ Đài Phát Thanh Sài Gòn nữa. Khoảng đầu năm 1960 Tổng Thống Diệm muốn gia tăng hiệu năng vô tuyến thanh mà Đài Sài Gòn lại quá yếu. Ngân sách không cho phép phát triển theo ý muốn hầu có thể đương đầu với hiệu năng quá lớn mạnh của Đài Phát Thanh Hà Nội. Tất nhiên là phải yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ. Song người Mỹ chỉ đồng ý viện trợ máy móc tối tân cùng với chuyên viên điều khiển của họ. Tổng Thống Diệm cho rằng đây là một trò chơi nguy hiểm. Ông Nhu cũng lo ngại vì nếu như máy móc đặt trong tay chuyên viên Hoa Kỳ thì nếu có một biến cố lớn nào xảy ra, Hoa Kỳ có thể chơi xấu và phá đám bằng khả năng kỹ thuật của họ. Phía Việt Nam có đề nghị Hoa Kỳ huấn luyện chuyên viên Việt Nam và chỉ cần viện trợ máy móc cũng đã quá đủ. Đề nghị này không được Hoa Kỳ chấp thuận, cuối cùng Tổng Thống Diệm bỏ qua không nhắc nhở đến nữa.

Kể từ năm 1962 thế lực Mỹ mỗi ngày một gia tăng và bao trùm nhiều ngành sinh hoạt quốc gia, chiến tranh càng lan rộng thì thế lực Mỹ cũng có nhiều cơ hội thuận tiện nhất để khống chế chính quyền Ngô Đình Diệm. Theo Bác Sĩ Tuyến Ông Nhu tâm sự rằng: “Ngân sách Quốc Phòng tăng như rứa viện trợ như rứa...buộc phải tìm lại thế quân bình. Chiến tranh càng kéo dài càng bất lợi cho chế độ”. Theo Ông Nhu (thường thổ lộ với Bác Sĩ Trần Kim Tuyến cũng như một số cộng sự viên thân cận) thì chiến tranh sẽ phải sớm chấm dứt. Một là dốc toàn lực để đè bẹp cộng sản. Nếu hai bên còn nghiêng ngửa và chiến tranh chiều hướng kéo dài thì phải tìm cách chấm dứt bằng giải pháp chính trị. Ông Nhu tin tưởng Ấp Chiến Lược là một căn bản và một ưu thế cho giải pháp chính trị để chấm dứt chiến tranh. Khi khả năng quốc phòng và chiến tranh phải tùy thuộc vào viện trợ Mỹ thì sự mất mát chủ quyền là một điều khó có thể tránh được.
Theo Lương Khải Minh cũng như những nhân vật trọng yếu gần Tổng Thống Diệm thì vấn đề chủ quyền quốc gia đối với Tổng Thống Diệm là vấn đề số I. Chủ quyền quốc gia gắn liền với tính tự ái quá cao của ông Tổng Thống. Bằng chứng là năm 1961-1962 các Cố Vấn Quân Sự Mỹ khuyến cáo chính quyền Ngô Đình Diệm bãi bỏ Ngành Hiến Binh. Lúc đầu Tổng Thống Diệm có vẻ thuận ý qua lời trình bày của Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần. Ông Thuần cũng chỉ trình theo đề nghị của Cố Vấn Quân Sự Mỹ. Tổng Thống Diệm có một do dự là Ngành Hiến Binh đang phục vụ đắc lực, ông Tổng Thống vẫn tin tưởng vào Hiến Binh vì cho rằng Hiến Binh “làm việc đúng đắn rành pháp luật”. Nhưng sau đó, Tổng Thống Diệm cho xếp lại và vẫn duy trì Ngành Hiến Binh. Tổng Thống Diệm bảo ông Thuần: “Cứ thư thả, không có thay đổi gì hết, họ (tức Hoa Kỳ) nói sao mình cũng làm vậy thì còn gì là thể thống quốc gia”. Sự thực lúc đầu Tổng Thống Diệm cũng nghiêng theo lời trình bày của ông Thuần nhưng bỗng hầm hầm nổi giận khi ông Thuần cho biết, Cố Vấn Quân Sự Mỹ muốn bãi bỏ Ngành Hiến Binh chỉ vì Quân Đội Hoa Kỳ không có ngành này (MP đảm trách mọi việc). Cố Vấn Quân Sự Mỹ cho rằng đã có Quân Cảnh rồi thì Hiến Binh không cần thiết và sẽ có riêng loại Quân Cảnh Hiến Binh. Cố Vấn Quân Sự Mỹ cho biết, nếu không bãi bỏ Ngành Hiến Binh thì Hoa Kỳ không để dành một ngân khoản viện trợ cho một ngành không cần thiết như vậy. Tổng Thống Diệm coi đây là một áp lực và vô tình xúc phạm đến tự ái của một vị Tổng Thống cai trị dân theo quan niệm “thiên mệnh”. Do đó mà Ngành Hiến Binh bao nhiêu lần có tin đồn bãi bỏ rút cuộc vẫn được duy trì cho đến sau ngày đảo chánh 1.11.1963.
Trên đây là một vài sự kiện trong bao nhiêu những sự kiện đau lòng khác và đó cũng là một nguyên nhân đẩy Ông Nhu vào một lựa chọn mới.
KHÔNG THỂ LÀM TAY SAI MỘT CÁCH TRƠ TRẼN
Mâu thuẫn Mỹ-Việt càng trầm trọng khi chiến cuộc mỗi lúc càng gia tăng. Trước hết Việt Mỹ đã xung khắc ngay từ buổi đầu của cuộc hôn nhân. Nói đúng hơn, Miền Nam trở thành một phận gái hẩm hiu do cảnh ngộ của lịch sử mà phải ép duyên gán nợ cho anh chồng trọc phú. Xin trở lại vụ Đài Phát Thanh để dễ dàng sáng tỏ tính chất xung khắc qua cuộc hôn nhân miễn cưỡng này. Tổng Thống Diệm khao khát có được một Đài Phát Thanh tối tân và hiệu năng của nó có thể tương đương với đài Hà Nội, trước hết vì đòi hỏi có một chiến lược chính trị trường kỳ tại Bắc Việt với hiệu năng lớn mạnh của Đài Sài Gòn thì chính quyền Miền Nam mới để dành một chương trình đặc biệt hướng về toàn thể Miền Bắc và xa hơn nữa là đi Ai Lao, Bắc Thái Lan là những nơi có hàng ngàn Việt Kiều cư ngụ. Đài Sài Gòn không đủ khả năng hoạt động trong một khu vực rộng lớn như vậy. Chính quyền Miền Nam đành bó tay vì Hoa Kỳ từ chối lời yêu cầu tối tân hóa Đài Sài Gòn. Trong khi đó thì Hoa Kỳ sẵn sàng viện trợ cho Việt Nam một đài tiếp vận địa phương (mà ngân khoản tổn phí có thể gấp đôi ngân khoản tối tân hóa Đài Sài Gòn).
Tại sao lại có vụ mâu thuẫn kỳ cục như vậy? Điều giản dị là Hoa Kỳ muốn độc quyền truyền thanh “tiếng nói chống cộng” của họ qua bức màn sắt, Hoa Kỳ không muốn Miền Nam được quyền “chia xẻ”...Cho đến nay, Đài Sài Gòn không có gì khả quan hơn xưa. Điều mà trước năm 1963 Tổng Thống Diệm ước ao có một một chương trình phát thanh đặc biệt hướng về Miền Bắc (với một hiệu năng tối đa) thì nay đã có (1964-1970) nhưng chương trình ấy lại nằm trong hệ thống đài VOF (Voice of Freedom) tuy Đài đặt ngay tại Thủ Đô Sài Gòn và do nhân viên người Việt đảm trách nhưng thực chất nó là của Hoa Kỳ qua miệng người Việt.
Tóm lại, Hoa Kỳ quan niệm Đài Phát Thanh Sài Gòn chỉ có một nhiệm vụ thông tin tuyên truyền trong lãnh thổ Miền Nam , còn Miền Bắc đã có Hoa Kỳ lo liệu (trước hết là Đài VOA sau là Đài VOF). Trí thức Ngô Đình Nhu thúc thủ trong một thực tại viện trợ như vậy thì chỉ còn một con đường là cam phận làm tay sai một cách thiếu thông minh trơ trẽn. Ông Nhu lựa chọn một thế đứng mới tức là lựa chọn một con đường giải thoát anh bạn chủ nợ keo kiệt. Tiếc thay con đường đó lại đem đến sự giải thoát vĩnh viễn cả ba anh em Ông Nhu. Nói ra những mâu thuẫn Việt-Mỹ thì nhiều lắm, mâu thuẫn về quan điểm lập trường...mâu thuẫn về chiến lược, chiến thuật. Khi Ông Nhu trở lại thân thiện với Pháp, thì chỉ một chiến thuật tạo thế chân vạc và cũng là điều kiện dọa Hoa Kỳ “Nếu anh bắt bí tôi quá tôi bỏ anh”...
“Tôi sẽ không cô đơn. De Gaulle đã sẵn sàng”. Một khi De Gaulle thân thiện với Miền Nam thì lẽ tự nhiên Sihanouk sẽ không thể theo đuổi chính sách thù nghịch với Miền Nam nữa và cũng là con đường đưa đến thỏa hiệp với Miền Bắc. Trước sau cái gút của vấn đề chỉ là Pháp. CIA không khi nào để cho Miền Nam một mặt sống vì viện trợ Mỹ, một mặt lại đưa tay nắm bàn tay De Gaulle (vẫn bị coi là kẻ thù của Mỹ) CIA không e ngại nhưng toan tính của Ông Nhu trong việc tìm thế thỏa hiệp với cộng sản Bắc Việt nhưng CIA coi việc Miền Nam thân thiện với Pháp là một biến cố nguy hiểm và phải đập vỡ ngay từ trong trứng nước.
MỸ MUỐN VIỆT NAM CÓ MỘT THỨ CIA KIỂU MỸ
Năm 1963 Hoa Kỳ chủ trương phải leo thang chiến tranh mạnh và quyết liệt.
Trong một chiều hướng như vậy thì làm sao Ông Nhu có thể lựa một thế đứng mới ? (dựa vào Pháp để cân bằng thế lực Mỹ và giảm thiểu thế lực ấy sau mới tính chuyện với cộng sản) nhưng nực cười thay, giai đoạn mà chế độ Ngô Đình Diệm toàn thịnh, Miền Bắc đang phải đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế và hậu quả của cuộc đấu tố đẫm máu thì Hoa Kỳ lại chủ trương không can thiệp vào Miền Bắc, duy trì sự bình thường giữa hai Miền Nam Bắc như hai quốc gia !!!
Đây là những sự kiện rõ rệt chứng tỏ chủ trương của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1957-1958. Khi Sở Nghiên Cứu Chính Trị được thành lập do ông Vũ Tiến Huân làm Chánh Sở thì Hoa Kỳ muốn đặt Sở này vào vai trò tính báo chiến lược tương tự như CIA của họ. Với vai trò như CIA thì Sở Nghiên Cứu Chính Trị chỉ có nhiệm vụ hoạt động tại quốc ngoại, nhưng thân phận của một nhược tiểu như Việt Nam thì vai trò ấy quả không cần thiết. Chả lẽ Sở Nghiên Cứu lại gửi người qua Ấn Độ để gây xáo trộn và lật đổ chính phủ Ấn Độ? Chả lẽ Sở Nghiên Cứu lại cho nhân viên qua Indonesia để âm mưu lật đổ Sukarno? Dù có muốn thế chăng nhưng phương tiện ở đâu và để làm gì? Theo phương thức của Hoa Kỳ thì Sở Nghiên Cứu Chính Trị Việt Nam là một thứ CIA lo phần quốc ngoại. Cảnh Sát Công An là một thứ FBI lo phần quốc nội. Quốc ngoại là những đâu ? Quanh đi quẩn lại chỉ có mấy quốc gia láng giềng như Thái Lan, Ai Lao, Cambodge. Thái lan và Ai Lao thì chỉ có Việt Kiều là phạm vi hoạt động đáng kể. Vậy thì hoạt động quốc ngoại của Sở này chỉ có Cambodge là đáng kể nhất, nếu không muốn nói là duy nhất sau đó là đến Miền Bắc vẫn được tạm coi là một ”quốc gia” (về mặt chuyên môn và thực tại chánh trị của nó)
Ở đây chúng tôi chỉ nói sơ qua về công tác tính báo tại Cambodge và Bắc Việt để một lần nữa thấy rằng, người Mỹ khó hiểu lắm và chớ lầm tưởng họ dại khờ. Cá nhân họ có thể dại khờ nhưng cả một hệ thống cộng đồng Mỹ thì vô cùng tinh xảo và khôn lanh tuyệt mức dưới cái lớp vỏ dại khờ của mỗi cá nhân.
Đó cũng là lý do dễ hiểu tại sao Đại Tướng Hakkins (Tư Lệnh MACV 1963) cũng như Đại Tá Richardson (Giám Đốc CIA tại Việt Nam 1963) ủng hộ Tổng Thống Diệm và dành cho Tổng Thống một cảm tình nồng hậu nhưng cuối cùng chế độ Ngô Đình Diệm vẫn bị lật nhào. Bởi chính tổ chức này được coi là nguy hiểm chỉ vì bản chất tồn tại của nó được phát biểu bằng năng biểu ”tồn tại từ mâu thuẫn cá nhân cực độ trong đồng nhất tổ chức và toàn bộ”.
CÁI THẾ CỦA KẺ KHÓ ĂN ĐONG
Riêng những công tác tính báo tại Miền Bắc (phần đầu đã nói sơ qua) thì Hoa Kỳ và chính quyền Miền Nam đã bất đồng sâu xa. Chính quyền Miền Nam muốn chú trọng về tình báo chiến lược. Hoa Kỳ ngược lại chỉ chấp thuận những hoạt động có tính cách tình báo chiến thuật.
Phương tiện hoạt động của Sở Nghiên Cứu lúc đầu đều tùy thuộc vào khả năng viện trợ Mỹ. Mà
Mỹ viện trợ cho từng điệp vụ và những “vụ” này phải là những công tác phối hợp tay đôi (Việt Mỹ). Năm 1957, chính quyền Miền Nam rất muốn thực hiện một kế hoạch tình báo chiến lược tại Miền Bắc, trước hết nhằm vào các vùng Thượng Du (Móng Cái, Đầm Hà, Tiên Yên, Lai Châu, Hòa Bình) sau là hai miền Bùi Chu, Phát Diệm. Nếu kế hoạch này được thực hiện cùng với phương tiện dồi dào thì sẽ tiến đến sự thành lập một Mặt Trận Giải Phóng Miền Bắc làm động cơ phát động du kích chống cộng từ mỗi cục bộ địa phương nhằm đến toàn bộ Miền Bắc.
Muốn được như thế thì phải đòi hỏi một ngân khoản quá lớn lao và một sự đài thọ liên tục và dồi dào. Cuối cùng kế hoạch ấy chỉ còn là ảo mộng vì Hoa Kỳ chỉ thỏa thuận tài trợ cho những điệp vụ phối hợp có tính cách trắc nghiệm khả năng tình báo (cả Miền Bắc lẫn Miền Nam) Những điệp vụ phối hợp đó chỉ nhắm thả người ra Bắc với nhiệm vụ thâu lượn tin tức, gây rối phá hoại như phá hoại đường xe lửa, ném lựu đạn đặt chất nổ, nghĩa là hoàn toàn có tính cách chiến thuật giai đoạn. Chống cộng mà lại chống ngay trong vùng cộng sản (Bắc Việt) thì như thế quả là ngây ngô lố bịch vì không khác gì kẻ cho ăn đong giữa khi đói kém, khốn nỗi Miền Nam lại ở vào tư thế của kẻ khó ăn đong mà Hoa Kỳ thì nắm hầu bao rất chặt.
Đại cương sự bất đồng giữa Hoa Kỳ và Miền Nam là nhu vậy. Giai đoạn 1957-1958...Hoa Kỳ chỉ chủ trương chống cộng tại Miền Nam mà thôi.
CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM SIHANOUK VÀ MỸ
Trong khi Hoa Kỳ cố loại bỏ ảnh hưởng của Pháp tại Miền Nam thì ngược lại họ vẫn củng cố Sihanouk mặc dầu ai cũng biết Sihanouk chỉ là con cờ của Pháp phải duy trì bằng bất cứ giá nào tại Đông Dương.
Năm 1956, ông Ngô Đình Nhu qua Nam Vang cùng với chủ trương ve vãn Sihanouk. Lúc ấy Hoa Kỳ chưa phải là thế lực đáng kể tại Bán Đảo Đông Dương. Và Hoa Kỳ tán trợ đường lối ve vãn Sihanouk của Ông Nhu. Theo Bác Sĩ Trần Kim Tuyến thì Ông Nhu được Sihanouk đón tiếp một cách trọng thể. Tuy không có nghi lễ chính thức nhưng Sihanouk đã dành cho Ông Nhu một ngoại lệ nghĩa là tiếp ông như một Quốc Trưởng. Sau đó Sihanouk chính thức được mời qua thăm Việt Nam và dịp này Sihanouk được tiếp đón hết sức trọng thể. Cuộc hội đàm Sihanouk Ngô Đình Nhu được coi là rất tốt đẹp. Nhưng Tổng Thống Diệm vốn là người không khéo léo trong sự giao tế qua hình thức nghi lễ. Vẫn theo Bác Sĩ Tuyến, trong cuộc gặp gỡ Sihanouk, Tổng Thống Diệm vẫn giữ vẻ nghiêm trang đạo mạo...Do đó mà thiếu sự thân mật cởi mở cần phải có đối với một người xảo quyệt và có tài “diễn xuất” như Sihanouk .
Kết quả là khi trở về nước Sihanouk lại tiếp tục chính sách ve vãn cộng sản và bất thân thiện với Miền Nam. Cũng từ đó Việt Nam Cộng Hòa và Cambodge giữ miếng nhau. Theo Bác Sĩ Tuyến, Ông Nhu chủ trương “phải triệt hạ cho bằng được Sihanouk” Khi Ông Nhu chủ trương như vậy thì Hoa Kỳ tiếp tục ve vãn Sihanouk. Một xa lộ thênh thang nối liền Nam Vang với Sihanoukville được Mỹ thực hiện để làm quà dâng cho ông vua xứ Chùa Tháp. Rồi một bệnh viện lớn cũng được Hoa Kỳ xây cất tại Nam Vang. Nhưng Sihanouk vẫn tiếp tục công kích Mỹ. Xa Lộ Nam Vang Sihanoukville do Mỹ viện trợ khánh thành chưa được bao lâu thì Trung Cộng lại nhảy vào viện trợ cho Cambodge và dựng lên cả một hệ thống cột điện chạy dài trên xa lộ của Mỹ. Bệnh viện tai Nam Vang do Mỹ xây cất thì lại do Nga Sô viện trợ máy móc cùng các đồ trang thiết bị thuốc men với một số Bác Sĩ Nga. Dù ve vãn, Mỹ vẫn bị Sihanouk đá bay khỏi Cambodge .
Tuy vậy, Mỹ vẫn cố gắng tìm mọi cơ hội ve vãn Cambodge và đồng thời ngăn chặn không cho Miền Nam phá Sihanouk. Hậu quả là Mỹ vẫn “tay trắng” tại Cambodge. Nhưng Mỹ muốn tách biệt Miền Nam với Cambodge. Chúng tôi kể lại đây một câu chuyện mưu sát Sihanouk do Miền Nam chủ động nhưng Mỹ lại chịu tai bay vạ gió và nồng độ chống Mỹ của Sihanouk lại càng tăng. Đây cũng là thí dụ cho biết rằng đối với Mỹ thì đừng có do dự, khúm núm và phải đặt Mỹ vào việc trước đã rồi và phải trói chặt chân họ vào biến cố. Và ta phải làm chủ biến cố đó. Chính sách chủ nhân ông độc quyền. Dân nhược tiểu phải biết điều đó. Tháng 8 năm 1963, Bà Ngô Đình Nhu nói trong phiên họp Phụ Nữ Liên Đới rằng “Phải trói chân trói tay mấy thằng phiêu lưu (ám chỉ Mỹ) mà hành hạ”. Câu nói đó tuy có đại ngôn nhưng nghĩ lại cũng đáng cho ta suy nghĩ. Trở lại câu chuyện ám sát Sihanouk năm 1961 thì đó cũng là “trước ám sát Sihanouk”, “sau hành hạ Mỹ cho vui”. Số là, sau khi ông Ngô Trọng Hiếu rời khỏi chức vụ Đại Diện Việt Nam tại Cambodge thì Tòa Đại Diện Việt Nam vẫn duy trì cơ sở như cũ. Việt Nam Căm Bốt tuy rất căng thẳng nhưng chưa đến nỗi đoạn giao. Dù vậy Cơ Quan Tình Báo Phủ Tổng Thống vẫn nhận được chỉ thị phải “hạ” Sihanouk bằng bất cứ cách nào. Âm mưu này muốn đạt được kết quả thì trước hết phải canh chừng Mỹ. Xử lý chức vụ đại diện lúc ấy là ông Phạm Trọng Nhơn, một điệp viên của Việt Nam hoạt động tại Nam Vang có biết được một Kỹ Sư Mỹ (có trách nhiệm thiết lập xa lộ Nam Vang Sihanoukville) là chỗ thân quen của họ Sihanouk. Bà mẹ Sihanouk lại nổi tiếng là người nhận hối lộ và quà biếu. Điệp viên này được mật lệnh của Phủ Tổng Thống là phải bám sát viên Kỹ Sư Mỹ và tìm cách “khai thác” ông ta nếu có thể được. Điệp viên kể trên báo cáo cho Cơ Quan Tình Báo Phủ Tổng Thống biết là viên Kỹ Sư Mỹ sắp lên đường về Mỹ qua ngả Hồng Kông . Ngày lên đường về nước viên Kỹ Sư Mỹ có đến chào cáo biệt Quốc Trưởng Sihanouk và Hoàng Thái Hậu. Đó cũng là ngày Sài Gòn bật đèn xanh cho phép các điệp viên hành nghề. Réseau tại Nam Vang có chuyển về Sài Gòn một tấm danh thiếp của viên Kỹ Sư Mỹ này cùng bút tích ông ta. Lập tức Cơ Quan Tình Báo Phủ Tổng Thống in lại một số danh thiếp của viên Kỹ Sư Mỹ (rập đúng y khuôn) và trao phó cho một chuyên viên nghiên cứu tuồng chữ của ông ta và sẽ giả mạo tuồng chữ này cho công tác điệp vụ. Kế hoạch được trình bày lên Ông Nhu và ông hoàn toàn tán thành. Sau đó, hai chiếc vali tuyệt đẹp được dùng giết Quốc Trưởng Sihanouk. Chiếc vali thứ nhất thì bình thường trong đựng một số kỷ vật quý giá xuất xứ tại Hồng Kông. Chiếc thứ hai chính nó sẽ quyết định số mạng của Sihanouk ngoài một số kỷ vật còn có một cái hộp ngà hảo hạng xuất phát từ Đài Loan, một loại chất nổ ghê gớm cực mạnh (dành cho các điệp viên) được cho vào cái hộp cùng một bộ phận cơ bấm tinh vi khác và bộ phận này được nối với nắp vali, khi mở vali thì tự động chất nổ bộc phát ngay. Sau khi hóa trang và làm dấu cẩn thận...hai chiếc vali này được giải lên lên xe mang biển số ngoại giao của ông Xử Lý Đại Diện Phạm Trọng Nhơn. Chính ông Phạm Trọng Nhơn có nhiệm vụ chuyển hai chiếc vali này lên Nam Vang nhưng ông cũng không được biết “nội dung” ra sao và ông Nhơn cũng chỉ “cảm thấy” có chuyện gì khác lạ sắp xảy ra.
SIHANOUK THOÁT CHẾT KẾ HOẠCH CỦA ÔNG NHU BẤT THÀNH
Nhờ mang xe số Ngoại Giao Đoàn của ông Phạm Trọng Nhơn nên hai chiếc vali “nguy hiểm” đã vượt qua biên giới và đến Tòa Đại Diện hoàn toàn tốt đẹp.
Tại Sài Gòn, Cơ Quan Tình Báo Phủ Tổng Thống theo dõi từng giây phút với bao nhiêu lo âu hồi hộp. Nếu như bị tình báo Cambodge khám phá thì bang giao Miên-Việt lần này sẽ đứt đoạn luôn không còn gì hàn gắn đươc nữa. Ông Ngô Đình Nhu cùng mấy cộng sự viên thân cận đã tính toàn thế này, nếu giết được Sihanouk thì việc đầu tiên là phải đưa Sơn Ngọc Thành về Nam Vang để làm chủ tình hình.
Ngoài mấy điệp viên chủ chốt thì Tòa Đại Diện Việt Nam không một ai hay biết gì về âm mưu này kể cả ông Xử Lý Đại Diện Phạm Trọng Nhơn cũng chỉ được “rỉ tai” sơ qua sẽ là có một vụ nổ lớn tại Nam Vang.
Theo kế hoạch đã dự định, điệp viên Nguyễn Nhơn cải trang thành một nhân viên của nhà thầu Mỹ nơi mà viên Kỹ Sư Mỹ phục vụ. Khoảng 9 giờ sáng, điệp viên Nhơn dùng xe hơi vào Hoàng Cung để trao tặng phẩm của viên Kỹ Sư Mỹ. Nhơn nói là viên Kỹ Sư Mỹ khi ghé qua Hồng Kông đã mua hai vali tặng phẩm này để gửi tặng Quốc Trưởng Sikanouk và ông Giám Đốc Nghi Lễ.
Giám Đốc Nghi Lễ Hoàng Cung Cambodge cũng là chỗ bạn thân của viên Kỹ Sư Mỹ nên không do dự gì cả và ông vui vẻ nhận hai chiếc vali quý giá. Chiếc vali thứ nhất tặng viên Giám Đốc Nghi Lễ cùng với danh thiếp của viên Kỹ Sư Mỹ và trên danh thiếp không quên viết mấy hàng hỏi thăm viên Giám Đốc Nghi Lễ.
Sau vụ ám sát hụt này, báo chí Cambodge đã có dịp tường thuật khá đầy đủ. Riêng về phía tình báo Phủ Tổng Thống lúc bấy giờ được báo cáo nội vụ như sau: Khi viên Giám Đốc Nghi Lễ mở chiếc vali phần tặng của ông ta thì chiếc vali này toàn chứa đựng những tặng phẩm đắt tiền. Sau đó ông ta đem chiếc vali vào phòng khách riêng của Sihanouk. Chiếc vali này niêm phong kỹ càng đề chữ “Kính tặng Hoàng Thái Hậu và Quốc Trưởng Khmer” cùng với phong thư đựng tấm danh thiếp của viên Kỹ Sư Mỹ với những lời lẽ rất đẹp “kính thăm” và chào cáo biệt Hoàng Thái Hậu và Quốc Trưởng Sikanouk. Phòng khách lúc ấy có mặt cả hai mẹ con Sihanouk. Nhưng lại nhằm đúng vào giờ Thái Tử Sihanouk và Hoàng Thái Hậu phải ra đại sảnh để tiếp đón phái đoàn sinh viên Trung Quốc cùng đi với một số sinh viên Cambodge.
Thái Tử Sihanouk vừa cất lời khuyên nhủ sinh viên thì một tiếng nổ kinh hoàng làm rung động cả Hoàng Cung. Số là, khi Thái Tử Sihanouk và Hoàng Thái Hậu ra đại sảnh tiếp sinh viên thì có nhẽ, Viên Giám Đốc mở vali lấy quà tặng để dâng Thái Tử nên chiếc vali phát nổ, viên Giám Đốc Nghi Lễ chết tan thây. Cả Thủ Đô Nam Vang náo động. Buổi phát thanh vào lúc 12 giờ trưa Đài VOA cũng như Mạc Tư Khoa đều loan tin và cho biết vắn tắt Thái Tử Sihanouk thoát hiểm, nhưng dân Nam Vang lại không tin và cho rằng Sihanouk đã chết tan thây.
12 giờ trưa nghe tin Đài VOA, Cơ Quan Tình Báo Phủ Tổng Thống đã lấy làm mừng và sửa soạn thực hiện giai đoạn hai nghĩa là đưa Sơn Ngọc Thành về Nam Vang nhưng chỉ ít phút sau, một tài liệu từ Nam Vang gửi về Sài Gòn cho biết, âm mưu bất thành. Cho đến lúc ấy, Tòa Đại Sứ Mỹ vẫn chưa được biết tình báo Việt Nam chủ động vụ này. Nhưng chỉ một ngày sau thì báo chí Cambodge đều chĩa mũi dùi vào Mỹ và cả quyết Mỹ âm mưu sát hại Thái Tử Sihanouk. Bang giao Mỹ Cambodge lại một lần nữa thêm căng thẳng. Có một điều lạ Cambodge không hề nghi ngờ là Sài Gòn. Hoa Kỳ lãnh đủ cơn tai bay vạ gió này. Dư luận báo chí Cambodge lại có dịp ồn ào và mạt sát Mỹ thậm tệ nhất là mấy nhật báo như La Dépeche Cambodge, Bang Khoeum Monous. Sau đó ít lâu một người Việt Nam bị bắt vì Cambodge tình nghi ông ta là nhân viên tình báo CIA có liên quan đến vụ mưu sát Thái Tử Sihanouk. Thực ra, Phạm Thanh Tòng (tên thật Phan Vinh Tòng) (tên đương sự) hết sức oan uổng vì ông ta chỉ làm nghề viết báo. Đương sự bị kết án tử hình. Mãi gần đến sau cuộc đảo chánh của Lon Nol ông mới được trả tự do.
Cuộc mưu sát Sihanouk bất thành nên kế hoạch đưa Sơn Ngọc Thành về Nam Vang đành xếp lại. Miền Nam bắt đầu nghiên cứu một kế hoạch mới mà Sơn Ngọc Thành sẽ giữ một vai trò chủ chốt.
Trước vấn đề nan giải này, Ông Nhu hỏi Bác Sĩ Tuyến xem có cắt xén ngân sách và ngoại viện được không. Điều này không thể được vì sẽ lộ ngay và khi Tòa Đại Sứ Mỹ biết được thì họ sẽ không bao giờ chấp nhận dùng khoản tiền ngoại viện để viện trợ cho họ Sơn. Do đó chỉ còn cách trích trong ngân quỹ đen của Phủ Tổng Thống. Nếu dồi dào phương tiện thì Sơn Ngọc Thành có đủ khả năng phát triển tổ chức của ông đến mức độ lớn mạnh. Nhưng rút cuộc, ông ta đành thúc thủ trong một hoàn cảnh hết sức thiếu thốn. Mỗi tháng Phủ Tổng Thống chỉ có thể viện trợ cho Sơn Ngọc Thành vài ba trăm ngàn bạc mặt.
Tuy có điều số tiền này được trao tận tay cho họ Sơn và ông ta có thể chi tiêu như thế nào tùy ý. Điều đó theo Bác Sĩ Tuyến đã làm cho Sơn Ngọc Thành cảm động vì tuy nhận tiền của Việt Nam ông vẫn không bị xúc phạm vì lòng tự ái quốc gia của một lãnh tụ lớn.
Nơi ăn chốn ở và sự đi lại di chuyển của Sơn Ngọc Thành hoàn toàn bí mật. Cơ quan CIA của Mỹ cũng biết nhưng không có một phản ứng nào vì lẽ tiền mà Việt Nam tài trợ cho Sơn Ngọc Thành không thuộc ngân sách ngoại viện. Đầu năm 1960 lực lượng họ Sơn quy tụ vào khoảng 400 tay súng phân tán trong hai vùng mật khu Châu Đốc và Bình Long. Sĩ Quan Việt Nam trực tiếp đảm nhận và huấn luyện và làm cố vấn cho lực lượng võ trang này. Tuy họ có tính thần chiến đấu hoàn toàn gan dạ nhưng lại thiếu thốn về mọi phương diện nhất là vũ khí, quân trang, quân dụng. Trong khi đó Hoa Kỳ thì vũ khí đổ đi không hết nhưng tuyệt nhiên Hoa Kỳ không viện trợ cho lực lượng Sơn Ngọc Thành lấy một cây súng Garant. Chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ còn cách vơ vét một số khí giới thuộc loại phế thải của Pháp, như MAT 49, MAS 36 để giúp họ Sơn. Nếu nói rằng Mỹ viện trợ vũ khí cho Việt Nam và Việt Nam có toàn quyền sử dụng số vũ khí ấy thì không đúng. Cố Vấn Mỹ kiểm soát một cách khắt khe nên Phủ Tổng Thống không thể dùng một khẩu Garant MI của Mỹ để tặng họ Sơn. Bởi nhất nhất đều không thể qua con mắt nhóm ngó của tình báo Mỹ. Về phía Tây, Sơn Ngọc Thành được Thái Lan yểm trợ nhưng bản doanh vẫn là Sài Gòn.
Trên đây cũng tạm đủ nói lên sự mâu thuẫn và bất đồng giữa Việt-Mỹ.
CHỦ TRƯƠNG CỦA HOA KỲ THEO NGÔ ĐÌNH NHU LÀ MỘT SỰ LỪA GẠT XẤU XA
Kể từ năm 1959, theo Bác Sĩ Trần Kim Tuyến thì ông Ngô Đình Nhu chủ trương quyết hạ cho bằng được Sihanouk vì nếu không thì chính Sihanouk sẽ là một mũi dùi đâm ngang hông Việt Nam Cộng Hòa. Biên giới Việt-Miên nếu còn Sihanouk thì rồi đây sẽ trở thành vùng chiến lược bất khả xâm phạm của cộng sản. Đối với Sihanouk, Ông Nhu chỉ có hai giải pháp một là lật nhào ông ta hai là trở lại ve vãn thân thiện với ông ta. Giải pháp ve vãn thân thiện đã bất thành cho nên Miền Nam chỉ còn một cách là đương đầu quyết liệt với Cambodge.
Con đường này lại đi ngược với chủ trương của Mỹ. Kể từ năm 1960 khi cuộc chiến gia tăng và nhất là trận đánh kiến phong (tháng 10.60) giữa lực lượng chính quy của cộng sản với Tiểu Đoàn I Nhảy Dù, người Mỹ mới bắt đầu nhận ra sự thực: Cambodge đã trở thành căn cứ địa an toàn của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Lực lượng cộng sản đã xuất phát từ phía bên kia lãnh thổ Cambodge tiến qua đánh Kiến Phong. Tuy biết sự thật như vậy nhưng vẫn giữ chủ trương ve vãn o bế Sihanouk. Không phải là các chiến lược gia Mỹ không hiểu rõ tầm mức quan trọng của lãnh thổ Cambodge đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Nhưng lúc ấy Hoa Thịnh Đốn vẫn còn giới hạn cuộc chiến trong cục bộ Miền Nam. Đầu năm 1963, với trận Ấp Bắc tuy không có gì đáng gọi là một trận thua lớn (sự thiệt hại giữa Việt Nam Cộng Hòa và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được coi là cân bằng), nhưng Hoa Kỳ lại lợi dụng trận đánh này và ồn ào áp lực mạnh với Tổng Thống Kennedy buộc chính quyền Ngô Đình Diệm phải thay đổi chiến lược và chiến thuật. Cũng từ năm 1963, Việt Nam Task Force mà chủ chốt là Hilsman nhận định rằng, phải thay đổi thái độ với Sihanouk nghĩa là chấm dứt thái độ o bế ve vãn. Trong khi đó thì ông Ngô Đình Nhu lại làm ngược lại nghĩa là bắt tay với Pháp tìm ở De Gaulle một điểm tựa. Ông Nhu đồng thời cũng muốn hâm nóng lại mối bang giao Việt-Miên đã nguội lạnh từ lâu. Hoa Kỳ coi chủ trương này như một đe dọa cho thế đứng của họ tại Bán Đảo Đông Dương. Bởi vì khi Hoa Kỳ muốn đẩy mạnh cuộc chiến, muốn mở rộng địa bàn hoạt động thì toan tính của Ông Nhu lấy Pháp làm thế tựa, tìm ở Cambodge một động thái trung lập tích cực (nghĩa là trung lập giữa Việt Nam Cộng Hòa và cộng sản Bắc Việt) thì chủ trương ấy tự đã nói lên tính cách đe dọa nguy hiểm đối với toan tính Hoa Kỳ. Đó cũng là lý do khiến người Mỹ nóng lòng muốn thanh toán Ngô Đình Diệm. Ngày 19.7.1963, Nghị Sĩ Wayne L. Morse thuộc Ủy Ban Ngoại Giao Hoa Kỳ tuyên bố: “Việt Nam không đáng nhận được sự hy sinh của một trẻ em Hoa Kỳ”. Ông còn nói rằng, không đồng ý cho một đô la nào nữa để ủng hộ một chế độ độc tài tàn bạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tại Sao như thế?
ĐƯỢC NHẬP TỊCH VIỆT, NGƯỜI MIÊN 1959 COI ĐÓ NHƯ MỘT THẮNG LỢI Trong vụ tranh đấu Phật Giáo 1963, Cambodge là nước được ghi nhận là nước công kích chính quyền Ngô Đình Diệm mãnh liệt nhất. Ngay từ tháng 7 năm 1963, khi cuộc tranh đấu Phật Giáo trở nên mãnh liệt thì Sihanouk đã tìm mọi cách vận động khối người Việt gốc Miên tham gia cuộc tranh đấu này với chủ ý lật đổ cho kỳ được chế độ Ngô Đình Diệm.
Nhưng Sihanouk đã không thành công như ý muốn. Bởi Cộng Đồng Người Việt gốc Miên tại miền Tây vốn có cảm tình đặc biệt với cựu Thủ Tướng Sơn Ngọc Thành và dĩ nhiên trong hoàn cảnh lúc ấy Sơn Ngọc Thành phải giữ thế trung lập giữa chính quyền Việt Nam và Phật Giáo. Nói đến Cộng Đồng Người Việt gốc Miên thì không thể nào bỏ qua thế lực của các Sư Sãi Miên. Các vị Sư Sãi này luôn là các thủ lãnh có uy quyền với đồng bào của họ và đa số lại có cảm tình với Sơn Ngọc Thành. Khi Phái Đoàn Phật Giáo đến yết kiến Tổng Thống Diệm vào ngày 15.5 (sau vụ nổ Đài Phát Thanh Huế) Hòa Thượng Lâm Em đã phát biểu: “Được gặp Tồng Thống như thế này, tôi thấy tốt đẹp lắm”. Từ đó, tuy có tiếng trong Ủy Ban Liên Phái nhưng Hòa Thượng Lâm Em cũng như Cư Sĩ Sơn Thái Nguyên vẫn giữ thái độ ôn hòa đối với chính quyền Ngô Đình Diệm nếu không muốn nói là họ vẫn giữ sự thân thiện với chính quyền. Nhờ vậy trong suốt cuộc tranh đấu Phật Giáo năm 1963 người Việt gốc Miên tại miền Tây vẫn thụ động. Những Tỉnh có nhiều người Việt gốc Miên (chiếm đa số) như Trà Vinh, Sóc Trăng đều không có một phản ứng nào đáng ghi nhận...Trong 4 Vùng Chiến Thuật thì Vùng 4 và nhất là miền Tây kể từ tháng 5 đến ngày 1.11.1963 được coi là yên tĩnh về mặt Phật Giáo. Mặc dù Sihanouk với sự hỗ trợ đắc lực của tổ chức giáo vận thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam song ông vẫn không sao kích động được Cộng Đồng Người Việt gốc Miên để họ đứng lên chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm. Được như vậy là nhờ ảnh hưởng của Sơn Ngọc Thành và uy quyền lớn lao của Hòa Thượng Lâm Em, vị thủ lãnh của các Sư Sãi Miên tại Miền Nam. Điều đáng kể là chính quyền Ngô Đình Diệm nắm vững Cộng Đồng Người Việt gốc Miên chính là nhờ trục Lâm Em, Sơn Thái, Sơn Ngọc Thành. Năm 1959 đã có đề nghị yêu cầu Tổng Thống Diệm đặt người Việt gốc Miên thành thiểu số (như đồng bào Thượng) các thủ lãnh của họ phản đối. Hòa Thượng Lâm Em cũng như Sư Sãi Miên cho như thế là “hạ nhục” người Miên. Đề nghị này được hủy bỏ, các thủ lãnh người Miên coi đó như một chiến thắng và một ân huệ mà Tổng Thống Diệm dành cho họ.
Với chính sách ve vãn Cambodge và nắm vững Cộng Đồng Miên tại miền Tây, Tổng Thống Diệm đã dành cho họ nhiều ưu tiên và đó cũng là cách nhằm nâng cao uy tín của thủ lãnh Sơn Ngọc Thành và vuốt ve lòng tự ái dân tộc của Cộng Đồng người Miên vốn có nhiều mặc cảm với người Việt. Có điều rất khó hiểu là năm 1969 người Miên lại muốn trở thành dân thiểu số tại Miền Nam. Theo sự tiên liệu thì đây cũng chỉ là một chiến thuật nằm trong sách lược của ngoại bang muốn biến người Việt gốc Miên thành dân thiểu số rồi từ nhãn hiệu thiểu số sẽ dễ dàng bước qua một giai đoạn khác tức giai đoạn phát động Phong Trào tự trị của người Miên tại miền Tây.
Năm 1963 Sihanouk được dịp trả thù. Kể từ năm 1959 Thái Tử Sihanouk tìm mọi cách phát triển uy tín và cơ sở mật tại hạ tầng Cộng Đồng Người Việt gốc Miên nhưng như trên đã viết uy tín của Thái Tử Sihanouk vẫn mờ nhạt trước một Sơn Ngọc Thành, và Lâm Em. Vụ tranh đấu Phật Giáo 1963 là một thất bại lớn của Sihanouk tại miền Tây vì Sihanouk không đạt được âm mưu khuấy động tại miền Tây với anh nghĩa tranh đấu cho 5 nguyện vọng của Phật Giáo.
Trong khi đó thì tại Nam Vang Shihanouk dùng mọi nỗ lực để yểm trợ tinh thần cho cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam. Báo chí từ phe Miên hữu đến phe tả đều nhất loạt lên án chính quyền Ngô Đình Diệm. Điển hình là nhật báo Neak Cheat Niyum, (tờ báo của chính phủ) kể từ 19.5 cho đến 1.11.1963 nhật báo này mở cả một chiến dịch tấn công chính quyền Ngô Đình Diệm về vụ gọi là “kỳ thị và tàn sát Phật Giáo”. Ngôi Chùa Onnalum, một ngôi Chùa lớn mới được xây cất tại Nam Vang đã trở thành trung tâm tranh đấu của Phật Giáo tại Miên. Trong buổi lễ khánh thành ngôi Chùa này vào đầu tháng 6.1963, Thái Tử Sihanouk đã tuyên bố những lời nảy lửa lên án chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Sihanouk cũng đã dự lễ cầu siêu cho Phật Tử Việt Nam mà ông cho rằng “nạn nhân của chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính phủ Diệm sau khi tàn sát nhiều Sư Sãi và Phật Tử Miên tại Miền Nam nay lại ngược đãi tàn sát cả đồng bào họ theo Phật Giáo”. Ngày 6.9.1963 chính phủ Miên tổ chức một cuôc mít tinh tại Chùa Onnalum để gọi là biểu dương tinh thần đoàn kết với Phật Tử Việt Nam để phản kháng chính quyền Ngô Đình Diệm về sự đàn áp Phật Giáo. Hội Việt Kiều Phật Giáo do ông Trần Văn Được làm Chủ Tịch cũng được Cambodge dành cho mọi sự dễ dãi trong công cuộc vận động Việt Kiều chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 16.6.1963 chính phủ Cambodge lại cho phép hội này được tổ chức một cuộc biểu tình rầm rộ trước Đại Diện Việt Nam Cộng Hòa tại Nam Vang để lên án chính quyền Ngô Đình Diệm và Đế Quốc đàn áp Phật Giáo Việt Nam. Trước đó 3 ngày tức là ngày 13.6, Cambodge bày tỏ lòng căm phẫn của chính phủ và nhân dân Cambodge tại Miền Nam và cũng bày tỏ niềm âu lo trước các biện pháp đàn áp Phật Giáo và Phật Tử của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trong văn thư kể trên chính phủ Cambodge đòi hỏi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải tôn trọng các nguyên tắc của bàn tuyên ngôn nhân quyền Liên Hợp Quốc.
Tổng Trưởng Ngoại Giao Cambodge đã chánh thức mời viên Đại Lý Tòa Đại Diện Việt Nam đến Bộ Ngoại Giao và trao cho ông này một văn thư gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa. Trong văn thư ngày 16.6 Sihanouk lại tuyên bố hỗ trợ chính phủ Tích Lan của bà Sikimawo Bandaranaike về việc vận động với U-Thant, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc để đưa vụ Phật Giáo Việt Nam ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.

SIHANOUK TRANH ĐẤU CHO PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Đối với Sihanouk thì vụ Phật Giáo 1963 là một cơ hội ngàn vàng để ông có dịp tố cáo Việt Nam Cộng Hòa về một điều giả tạo nhưng Sihanouk vẫn cho rằng chính quyền Ngô Đình Diệm đã đàn áp giết hại người Miên và các Sư Sãi Miên tại Miền Nam.
Sihanouk gắn liền lới tố cáo này với chiêu bài “ủng hộ triệt để cuộc tranh đấu Phật Giáo Việt Nam”. Sihanouk không ngừng phát động cả một chiến dịch báo chí tấn công và bôi đen chính quyền Ngô Đình Diệm trong khi đó Cộng Đồng Người Việt gốc Miên lại tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt. Nhờ vậy mà Vùng 4 Chiến Thuật không gặp một khó khăn nào trong vụ tranh đấu ngoại trừ một vài địa phương như Bến Tre và Mỹ Tho nhưng lại không đáng kể. Căn cứ theo tài liệu thì trong suốt thời gian đấu tranh của Phật Giáo, Vùng 4 Chiến Thuật chỉ phải đối phó với áp lực quân sự mạnh mẽ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Miền Tây coi như không có vụ tranh đấu của Phật Giáo nếu không theo dõi báo chí và Đài VOA và BBC. Khi yết kiến Tổng Thống Diệm cũng như Bộ Trưởng Bùi Văn Lương, ông Đại Biểu Nguyễn Văn Vàng đã trình bày rõ ràng như vậy và Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Vùng 4 cũng xác nhận như vậy trong tập hồi ký của ông mới xuất bản gần đây.
Tại Nam Vang ngày 2.11.1963 tức sau ngày đảo chánh và trước cái chết của anh em Tổng Thống Diệm, Thái Tử Sihanouk đã biểu lộ niềm hân hoan chưa từng có. Đêm 2.11 Sihanouk mở tiệc liên hoan trong Hoàng Cung. Tờ La Dépeche du Cambodge ra số ngày 3 cho rằng, cái chết của Diệm, Nhu đã đem lại cho nhân dân Cambodge một niềm vui mừng vô hạn. Thái Tử Sihanouk chính thức tuyên bố: “Ngô Đình Diêm, kẻ thù của nhân dân Cambodge và Phật Giáo đã đến tội...đó là ngày lớn của lịch sử Đông Dương”. Liên tiếp trong 3 ngày liền, Sihanouk mở tiệc liên hoan làm như chính ông ta đã ra tay hạ được kẻ thù không đội trời chung của Sihanouk.
Sihanouk biết rất rõ chính quyền Ngô Đình Diệm đã tài trợ và dung dưỡng tổ chức Khmer Tự Do của Sơn Ngọc Thành. Chỉ một điều này đã đủ khiến Sihanouk căm thù chính quyền Ngô Đình Diệm vì Sơn Ngọc Thành đối với Sihanouk vốn là kẻ thù bất cộng đái thiên. Sihanouk đã dùng đủ cách để hạ sát Sơn Ngọc Thành kể cả âm mưu dùng bàn tay của Phòng Nhì Pháp và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nhưng Sihanouk không thể làm gì được họ Sơn bởi vì chính cái uy tín lớn lao của họ Sơn trong Cộng Đồng Người Miên ở Miền Nam đã tạo nên bức tường thành bảo vệ Sơn và tổ chức Khmer Tự Do.
MỐI THÙ BIÊN GIỚI
Trong chuyến công du Việt Nam năm 1957 Thái Tử Sihanouk đã đặt vấn đề biên giới Việt-Miên với Ông Nhu. Kết quả là Sihanouk và Ông Nhu đã thỏa thuận như thế này: “Hai chánh phủ Việt-Miên sẽ không đặt vấn đề biên giới như một tiên quyết cho việc thiết lập bang giao Việt-Miên. Tuy nhiên hai nước vẫn mặc nhiên công nhận thỏa hiệp Dupré-Norodom 1873” Theo thỏa hiệp Dupré-Norodom ký kết giữa Thống Đốc Nam Kỳ (Đô Đốc Dupré) và Miên Hoàng Norodom thì biên giới Việt-Miên được phân định bằng 124 cột trụ kéo dài từ ngã ba biên giới cho đến phía Bắc Kinh Vĩnh Tế qua sông Tonly tree, Sóc Stroc tum, Ban Churung, Paplan.
Kết quả cuộc hội đàm giữa Sihanouk và Ngô Đình Nhu là Cambodge sẽ không công nhận chính quyền Miền Bắc, nhưng vì tôn trọng tinh thần hiệp ước Genever 1945, Cambodge chỉ thiết lập bang giao với Việt Nam trên hàng Đại Diện Ngoại Giao (với cấp bậc Đặc Sứ).
Ít lâu sau Sihanouk lại làm ngược lại lời cam kết khi ông ta tính chuyện kết thân với chính quyền Bắc Việt và Trung Cộng.
Sihanouk đưa ra hai mục tiêu để gây hấn với chính quyền Ngô Đình Diệm. Trước hết là vấn đề biên giới Sihanouk lại phủ nhận thỏa hiệp Dupré.
Sihanouk thường lên tiếng tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm đã vi phạm và đã lấn qua lãnh thổ Cambodge, sau nữa, Sihanouk lại phủ nhận các nghị định mà các toàn quyền Đông Dương của Pháp trước đây đã ký ấn định ranh giới các Tỉnh Tây Ninh và PreyVeng, Thủ Dầu
Một và Kompong Chàm, Châu Đốc... Những năm 1959-1960-1961 tại các vùng biên giới Việt- Miên, lính Miên được lệnh nhổ cột trụ cắm sâu vào lãnh thổ Việt Nam cả 6, 7 cây số. Quân Đội Việt Nam lại phải mở cuộc hành quân nhổ cột trụ đem vào vị trí cũ. Cứ mỗi lần như thế
Shihanouk lại hô hoán là Quân Đội Việt Nam vi phạm biên giới. Vấn đề thứ hai là người Miên tại Miền Nam, Shihanouk chống lại việc Việt tịch hóa người Miên, ông ta còn “bắn tiếng” sẽ đòi lại một số Tỉnh miền Tây. Khi Tổng Thống Diệm đặt tên tại một số địa danh của các Tỉnh miền Tây là có ý biểu dương uy quyền quốc gia trên một số lãnh thổ còn mang nhiều di tích của người Miên (như Sóc Trăng chẳng hạn) và đó cũng là cái cách Tổng Thống Diệm muốn làm sống lại một quá khứ xa xưa dưới thời Minh Mạng, Tự Đức với những địa danh như Kiên Giang, An Giang, Phong Dinh...giai đoạn vinh quang kết thúc cuộc Nam Tiến.
Trên đây chúng tôi trình bày sơ qua về mối cừu hận của Sihanouk đối với chế độ Ngô Đình Diệm và đó cũng là lý do khiến cho Sihanouk vô cùng hân hoan trước cái chết của anh em Tổng Thống Diệm. Sihanouk hận thù chính quyền Ngô Đình Diệm vì chính quyền này đã dung dưỡng và hỗ trợ Sơn Ngọc Thành. Một điều khác nữa là đã có một lần chính quyền Ngô Đình Diệm âm mưu lật đổ chế độ Sihanouk vào tháng giêng năm 1959.
Giai đoạn đầu Tổng Thống Diệm vẫn giữ vững chủ trương giao hảo tốt đẹp với Sihanouk (1957-1959). Vào cuối năm 1956 Việt-Miên đồng ý thiết lập bang giao trên cấp bậc Đặc Sứ. Tổng Thống Diệm hỏi ý kiến Phó Tổng Thống Thơ về việc này và yêu cầu ông chọn một nhân vật giữ chức vụ Đặc Sứ Việt Nam đầu tiên tại Cambodge. Tổng Thống Diệm đưa ra ba tiêu chuẩn để ông Thơ dễ dàng lựa chọn.
1- Viên Đặc Sứ phải ăn nói hoạt bát lanh lẹ và giỏi về Pháp Ngữ.
2 Am tường nội tình Cambodge.
3- Có mưu mẹo tháo vát và quen biết nhiều các giới chức Miên, Pháp.
Phó Tổng Thống Thơ đề bạt người bạn tâm giao của ông tức Ngô Trọng Hiếu lúc ấy đang giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Ngân Khố. Cũng nên ghi thêm là suốt 9 năm cầm quyền Tổng Thống Diệm rất tin cẩn ông Thơ. Khi muốn tìm một người giữ chức quan trọng nào thì thường thường Tổng Thống Diệm hỏi ý kiến ông Thơ. Một khi ông Thơ đề bạt ai thì người đó rất nhiều hy vọng được bổ nhậm. Mặc dầu bổ nhậm một Đặc Sứ đáng lý ông Tổng Thống phải hỏi ý kiến ông Bộ Trưởng Ngoại Giao, nhưng Tổng Thống Diệm vẫn có thành kiến là Phó Tổng Thống Thơ am tường về Miền Nam và nội tình Cambodge. Khi Tổng Thống Diệm nói: “Người Cụ Phó giới thiệu”. Câu nói này có nghĩa là người đó đáng tin cẩn của chế độ. Người duy nhất mà ông Thơ đề bạt giữ chức vụ Đặc Sứ tại Miên là ông Hiếu (hai người này được coi như đôi bạn cố tri, khi ông Thơ lãnh Tỉnh Trưởng Long Xuyên thì ông Hiếu giữa chức Trưởng Ty Ngân Khố) Phó Tổng Thống Thơ có trình bày với Tổng Thống Diệm là Ngô Trọng Hiếu hội đủ nhưng tiêu chuẩn mà Tổng Thống Diệm đưa ra. Ông Thơ cũng nhấn mạnh là Ngô Trọng Hiếu nói được tiếng Miên rất thông thạo, từng sống nhiều năm tại Cambodge và là một viên chức của Ngành Ngân Khố Pháp tại Cambodge. Tổng Thống Diệm đồng ý nhưng sau đó lại hỏi ý kiến Ông Nhu thì Ông Nhu cho rằng “Tùy Tổng Thống, cắt cử ai cũng được ăn thua là chính sách của mình, tôi thấy Ngô Trọng Hiếu cũng được”. Ông Nhu thắc mắc: “Hiếu còn hơn là dân Tây mà?” Tổng Thống Diệm nói một hơi dài như thể biện minh cho ông Hiếu: “Hắn hồi Việt Tịch rồi”. Ông Nhu đáp nhát gừng: “Như vậy cũng được”.
Trước khi chính thức bổ nhậm, Ngô Trọng Hiếu phải trải qua một cuộc “thi vấn đáp” mà giám khảo là Tổng Thống Diệm. Sau khi hỏi kỹ về nội tình Cambodge Tổng Thống Diệm chất vấn Ngô Trọng Hiếu: “Tình hình như vậy thì đối với Miên bây giờ sẽ tính sao” Vốn là người nói năng lưu loát, ông Hiếu đáp ngay: “Trình Cụ, đối với Miên thì tôi có hai điều căn bản, một là dùng tình cảm, hai là hối lộ mua chuộc họ” Tổng Thống Diệm hỏi: “Dùng tình cảm như thế nào” Ông Hiếu đáp: “Người Miên có nhiều mặc cảm với người Việt lắm vậy ta phải làm mọi cách thân thiện với họ, đề cao họ và để họ thấy rằng ta coi họ như bạn bè”. Tổng Thống Diệm lại căn vặn: “Lúc nẫy ông nói hối lộ vậy hối lộ như thế nào?” Ông Hiếu đáp: “Thưa Cụ xin được tùy cơ ứng biến, bà mẹ của Sihanouk ham được hối lộ lắm”.
Tổng Thống Diệm hỏi: “Ông có quen ai ở bên đó không?” Ngô Trọng Hiếu đáp: “Dạ thưa quen nhiều, tôi có quen thân ông Hoàng Monireth” Tổng Thống Diệm hỏi tiếp: “Ông ta là người như thế nào?” Ông Hiếu đáp: “Theo thứ tự trong Hoàng Tộc Miên thì Hoàng Thân Monireth mới là người nối Vua Cao Miên chứ không phải Sihanouk” Tổng Thống Diệm lại hỏi:
“Ông ta với Sihanouk như thế nào?” Ông Hiếu đáp: “Hoàng Thân Monireth là cậu ruột của Sihanouk. Thời Pháp Hoàng Thân Monireth là Trung Úy trong quân đội Lê Dương của Pháp, ông ta rất được mẹ Sihanouk tin cẩn” Tổng Thống Diệm hỏi lại: “Bà ta như thế nào?” Ông Hiếu đáp: “Thưa Cụ, bà ta nổi tiếng là tham lam hay nhận hối lộ”. Tổng Thống Diệm lại hỏi: “Ông còn quen ai khác nữa không?” Ông Hiếu đáp: “Thưa Cụ còn một vài bạn thân như Samsary Yam Sambaur”. Tổng Thống Diệm gật đầu: “Thôi được ông về lo thu xếp rồi sang bên đó giúp tôi”. Tổng Thống Diệm thắc mắc: “Ông đi sang bên đó ai có thể thay ông làm Tổng Giám Đốc Ngân Khố” Ông Hiếu đáp: “nhân viên cao cấp của ngành ngân khố hiện nay hầu hết còn giữ Pháp Tịch vậy xin Cụ cho Trần Văn Minh tạm thời thay quyền Tổng Giám Đốc” Tổng Thống Diệm nói vắn tắt: “Thôi được, ông sang bên đó cố gắng làm sao cho tốt đẹp”. Trước khi ra về ông Hiếu được Tổng Thống Diệm chỉ thị thêm: “Mình phải tạo được thế liên minh với Miên Lào thì hai nước ấy cùng một khối với mình thì mình sẽ đủ sức chống cộng sản”.
NGÔ ĐÌNH NHU VÀ VỤ ĐẢO CHÍNH HỤT CỦA DAP CHOUN
Khi Tòa Đại Diện Việt Nam được thiết lập chính thức mở đầu cho giai đoạn bang giao tốt đẹp giữa Việt Nam và Miên thì Pháp cũng như chính Hà Nội bắt đầu lo ngại. Tòa Đại Diện Việt Nam đã thành công qua giai đoạn “thân thiện và mua chuộc theo đúng chỉ thị của Tổng Thống Diệm” Tốn phí thế nào cũng được miễn sao mua chuộc được Miên, rồi lần về Sài Gòn, Ngô Trọng Hiếu lại mua sắm đủ thứ của ngon vật lạ để dưa lên Nam Vang “hối lộ” Hoàng Hậu
Kossamack. Bà ta cũng như Hoàng Thân Monireth đều có cảm tình tốt đẹp với người Việt.
Từng giỏ soài, cam, ổi sá lị của ông Hiếu dâng tặng Hoàng Hậu Kossamack đã có tác dụng ngay. Sihanouk qua ảnh hưởng của người mẹ đã có một thái độ tốt đẹp và cởi mở đối với chính quyền Sài Gòn. Tòa Đại Diện Việt Nam sử dụng phương thuật “phóng tài hóa thu nhân tâm” nên không những hối lộ quà cáp với Hoàng Hậu Kossamack mà còn mua chuộc các giới chức cao cấp của Miên cũng như Hoàng Thân Monireth bằng cách biếu quà, tổ chức tiệc tùng, săn bắn...Nhờ vậy, Ngô Trọng Hiếu móc nối được Tướng Dap Choun, mệnh danh là Phó Vương Cao Miên, một mình ông ta thống lãnh cả vùng Siemreap miền Tây Cambodge.
Giữa năm 1958, Shihanouk thay đổi chính sách ngoại giao...việc đầu tiên là Sihanouk chấp thuận cho Trung Cộng đặt tại Nam Vang một đại diện thương mại. Đồng thời Sihanouk cũng tìm cách mở rộng bang giao với khối cộng sản và bắt tay với chính quyền Hà Nội. Năm 1958, Sihanouk thiên hẳn về cộng sản.
Sự thực Sihanouk chủ tâm gây hấn về vấn đề biên giới Việt-Miên, về Việt Tịch hóa người Miên cũng như đòi lại mấy Tỉnh miền Tây chẳng qua chỉ là một chiến thuật gây rối và tạo áp lực trước hết để chính quyền Ngô Đình Diệm không tạo được cơ hội gây rối nội bộ Miên sau nữa là nhắm đến việc sửa soạn đón tiếp “ông bạn” Bắc Việt. Sihanouk đã từng tuyên bố “Cộng sản Bắc Việt và Việt Nam Cộng Hòa đều nguy hiểm như nhau” Nhưng Bắc Việt là mối nguy hiểm đằng xa. Việt Nam Cộng Hòa mới là mối nguy hiểm trực tiếp đối với Cambodge.
Rõ rệt nhất là sự tài trợ và dung túng tổ chức Khmer Tự Do của Sơn Ngọc Thành, họ Sơn là một ám ảnh lớn đối với Sihanouk đó cũng là mối thù của Sihanouk đối với chính quyền Ngô Đình Diệm. Nhưng không có mối thù nào lớn cho bằng vụ Dap Choun đã gây nên mối cừu hận giữa Sihanouk và chính quyền Ngô Đình Diệm. Đó cũng là lý do cho ta thấy tại sao liên tiếp trong 3 ngày sau đảo chánh 1.11.1963 Sihanouk đã tổ chức liên hoan như đại hội hoa đăng để ăn mừng Diệm Nhu bi thảm sát.
TƯỚNG DAP CHOUN VÀ 100 KILO VÀNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
Vụ Dap Choun diễn tiến như thế nào? Ông Đặc Sứ Ngô Trọng Hiếu trở về Sài Gòn trong chiều hướng mới của Sihanouk đối với cộng sản Bắc Việt và Cambodge với chiều hướng này sẽ là mối de dọa lớn cho Việt Nam Cộng Hòa. Ông Ngô Đình Nhu chỉ thị nếu không kéo được Sihanouk về phe mình và nếu Sihanouk trung lập thân cộng thì chỉ còn cách mưu đồ hạ bệ ông ta. Ông Ngô Trọng Hiếu đề nghị nên làm một “cú” đảo chính Sihanouk. Về đề nghị này, Tổng Thống Diệm hỏi: “Ai có thể làm được” Ngô Trọng Hiếu đáp: “Trình Cụ, Tướng Dap Choun có thể làm được” Tổng Thống Diệm lại hỏi ông Hiếu: “vai trò của Dap Choun hiện nay ra sao?” Ông Hiếu trình bày: “Tướng Dap Choun nắm hết quyền bính tại miền Tây Cambodge, lực lượng phòng vệ Hoàng Cung tại Nam Vang đều là tay chân của Dap Choun” Tổng Thống Diệm đồng ý
“Ông cứ làm đi, liên lạc với Dap Choun xem sao”.
Trở lại Cambodge, ông Ngô Trọng Hiếu bắt liên lạc ngay với Tướng Dap Choun. Trong một chuyến săn tại khu rừng phía Bắc Siemrreap, ông Hiếu cùng đi với Dap Choun và tìm lời ngỏ ý... Tướng Dap Choun đang có chuyện bất mãn với Sihanouk và cho rằng Sihanouk chưa đủ trưởng thành để lãnh đạo. Dap Choun thuộc phe quân Phiệt cực hữu Cambodge và ông ta chống lại chủ trương trung lập thân cộng của Sihanouk. Dap Choun lại có cô vợ bé người Việt mà ông ta đang sủng ái, chính người vợ bé này đã giúp Tòa Đại Diện Việt Nam trong nhiệm vụ giao liên để thuyết phục Dap Choun.
Sau nhiều lần găp gỡ thảo luận, Tướng Dap Choun đã đồng ý với Đặc Sứ Ngô Trọng Hiếu về kế hoạch đánh chiếm Nam Vang và lật đổ Shihanouk.
Tướng Dap Choun ngỏ ý, ông cần một số dollars hoặc vàng để làm phương tiện dưỡng quân trong vòng hai tháng. Điều kiện này không có gì quá khó khăn và ông Ngô Trọng Hiếu lại trở lại Sài Gòn trình lại với Tổng Thống Diệm và Ông Nhu. Tổng Thống Diệm nói đơn giản:
“nếu thấy làm được thì cứ làm, tổn phí cũng ráng phải chịu cho nó xong việc”.
Ông Nhu cho mời Bác Sĩ Tuyến vào phòng để thảo luận cho kỹ lưỡng, cân nhắc lợi hại trước khi bắt tay vào hành động. Kế hoạch này tuyệt đối bí mật không một nhân vật cao cấp nào biết rõ ngoại trừ Phó Tổng Thống Thơ, Ông Nhu, Bác Sĩ Tuyến và ông Hiếu. Vấn đề khó khăn nhất là tìm đâu ra 100 kilo vàng để tài trợ cho Dap Choun? Điều này Tổng Thống Diệm trao phó cho Phó Tổng Thống Thơ giải quyết vì còn là Bộ Trưởng Kinh Tế nên nếu rút 100 kilo vàng trong số trữ kim của ngân khố sẽ không ai để ý, nghi ngờ và sau đó sẽ tìm cách giải quyết. Phó Tổng Thống Thơ đã góp công đắc lực trong phần vụ này.
Một trăm kilo vàng được đóng vào thùng niêm phong cẩn mật và tự tay ông Hiếu dùng xe hơi trở lên tận Siemreap. Tại đây, đặt một điện đài liên lạc thẳng với Sài Gòn và Tòa Đại Diện Việt Nam. Đặc Sứ Ngô Trọng Hiếu vẫn tiếp tục liên lạc bí mật với Tướng Dap Choun và người em của Dap Choun cũng là Dân Biểu Quốc Hội Miên. Tướng Dap Choun khi nhận được 100 kilo vàng đã đánh một điện văn cảm ơn Tổng Thống Diệm và cho biết ông đã nhận được quà biếu. Từ đầu tháng 1 năm 1959 hàng ngày cứ lúc 7 giờ sáng 12 giờ sáng, 12 giờ trưa và 9 giờ đêm, điện đài vô tuyến từ Dinh Dap Choun vẫn gửi tin tức đều đặn về Cơ Quan Tình Báo Phủ Tổng Thống. Phía Dap Choun và Ngô Trọng Hiếu cũng sửa soạn kế hoạch tiến đánh Nam Vang. Lần gặp gỡ cuối cùng giữa Dap Choun và Ngô Trọng Hiếu nhằm ngày 10.11.1959. Dap Choun cho ông rõ là công việc mưu đồ đang tiến hành tốt đẹp và hai bên ấn định ngày H sẽ ra tay.
Tại Sài Gòn, Ông Nhu cũng như Bác Sĩ Tuyến chỉ còn thảo luận về việc đem Sơn Ngọc Thành trở lại Nam Vang. Một khi cuộc đảo chánh bùng nổ thì lực lượng của Quân Khu V (tức Quân Khu IV bây giờ) và Quân Khu II sẽ động binh tiến đến biên giới giúp Dap Choun nắm vững khu vực miền Đông-Bắc Cambodge.
Sơn Ngọc Thành lại qua Vọng Các và liên lạc với chính quyền Thái Lan để hỗ trợ ông ta về phía Tây. Cũng vì Sơn Ngọc Thành qua Thái Lan nên ngày H phải hoãn lại và đó cũng là nguyên nhân làm cho âm mưu bị bại lộ.
TRƯỚC KHI TỬ HÌNH HAI ĐIỆP VIÊN VIỆT NAM HÔ LỚN: “VIỆT NAM MUÔN NĂM”
Nếu ngày H theo đúng kế hoạch và thời hạn ấn định thì Sihanouk không kịp trở tay. Như trên đã viết sở dĩ phải dời lại thêm 10 ngày đợi cho Sơn Ngọc Thành đi tiếp xúc với nhà cầm quyền Thái Lan. Trong thời gian này, có lẽ Tướng Dap Choun quá chủ quan cho nên âm mưu đảo chánh lọt đến tai Tòa Đại Sứ Pháp. Dĩ nhiên là Pháp phải cấp báo cho Sihanouk.
12 giờ đêm ngày 21. Đại Sứ Pháp cùng Đại Sứ Nga vào Hoàng Cung gặp Sihanouk và tiết lộ âm mưu đảo chánh của Tướng Dap Choun. Hai giờ sau, Sihanouk cho lệnh động binh, trao cho Tướng Lon Nol thống lãnh lực lượng Dù mở cuộc tấn công chớp nhoáng Thành Phố Siemreap, 6 giờ sáng, Tướng Dap Choun còn đang ngủ, quân của Tướng Lon Nol đã tràn ngập Thành Phố Siemreap. Dap Choun không kịp trở tay, ông cải trang trốn thoát.
Quân của Lon Nol chiếm Dinh Thống Đốc Siemreap và bắt được đầy đủ tang vật gồm 100 kilo vàng, hai chuyên viên Việt Nam và đài vô tuyến cùng một số võ khí. Khi quân của Tướng Lon Nol tiến về Siemreap, Tòa Đại Diện Việt Nam biết rõ nhưng đành bó tay vì không còn phương cách nào cấp báo cho Dap Choun.
Tại Sài Gòn theo thông lệ 7 giờ mỗi sáng đều nhận được tín hiệu từ Dinh Dap Choun nhưng suốt buổi sáng hôm đó bặt tin. Cơ Quan Tình Báo Phủ Tổng Thống linh cảm thấy nguy cơ... Âm mưu lật đổ Sihanouk chắc bất thành.
Ngày hôm sau, Thái Tử Sihanouk mời tất cả Ngoại Giao Đoàn lên Siem Reap xem chiến lợi phẩm trong đó có Ngô Trọng Hiếu. Ông Hiếu ở thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng cuối cùng vẫn quyết định đi theo Phái Đoàn Ngoại Giao cùng với toàn thể Nội Các Cambodge. Ngôi sao Lon Nol bắt đầu rực sáng. Đó là thành tích huy hoàng của ông đối với Thái Tử Sihanouk. Từ thành tích này, Tướng Lon Nol trở nên một cận thần có thế lực nhất sau Sihanouk.
Tại Dinh Thống Đốc Siem Reap, Sihanouk vênh vang đắc thắng nhưng không ngớt lời thóa mạ “kẻ thù dân tộc Khmer” mà Sihanouk tuy không nêu đích danh là Việt Nam Cộng Hòa nhưng ám chỉ bằng những danh từ “tay sai đế quốc”...Sihanouk trình bày tất cả bằng chứng 100 kilo vàng và hai điệp viên Việt Nam cùng điện đài. Sihanouk quay về phía Ngô Trọng Hiếu và hỏi: “Thưa ngài Đại Diện, Ngài nghĩ thế nào về những bằng chứng rõ rệt này”. Ông Hiếu cố làm vẻ thản nhiên, đáp: “Thưa Thái Tử Quốc Trưởng, chúng tôi đến đây để được nghe ngài trình bày nên không có gì để trả lời cả”. Ngoại Giao Đoàn im phắc...Thái Tử Sihanouk không biết nói sao nhưng bằng chứng thật là rõ rệt, 100 kilo vàng còn giữ nguyên dấu hiệu của Ngân Khố Việt Nam. Hai chuyên viên vô tuyến người Việt Nam, lại mang theo cả giấy thông hành Việt Nam.
Tuy vậy Sihanouk vẫn không lên án đích danh Việt Nam Cộng Hòa mặc dù ông ta biết rõ tường tận từ bằng chứng cụ thể đến âm mưu kế hoạch. Khi ông Ngô Trọng Hiếu và Ngoại Giao Đoàn được mời đến quan sát hai chuyên viên người Việt (bị trói chặt tay) ông Hiếu đưa tay tát yêu trên má của họ và mỉm cười không nói một lời nào. Hai chuyên viên này cũng không biết ông là Đặc Sứ của Việt Nam. Ít lâu sau bị kết án tử hình và hành quyết ngay. Trước phút lìa trần hai chuyên viên này đồng thanh hô lớn: “Việt Nam muôn năm”. Thái độ bình tĩnh gan dạ và đầy khí phách của họ đã làm cho nhà cầm quyền Cambodge phải kính nể.
Riêng Tướng Dap Choun trốn thoát vào rừng nhưng ông ta vốn nghiện thuốc phiện và ôm cả thuốc nằm gục dưới một gốc cây. Lực lượng Dù của Tướng Lon Nol bắt gặp và hạ sát Dap Choun tại chỗ.
Tại Sài Gòn, Tổng Thống Diệm cũng như Ông Nhu đều phập phồng lo âu cho số mạng của ông Đặc Sứ Ngô Trọng Hiếu vì biết đâu Sihanouk có thể làm hoảng. Nhưng trái lại, Sihanouk chỉ yêu cầu chính phủ Việt Nam triệu hồi Ngô Trọng Hiếu.
Linh Mục François từ Nam Vang qua Sài Gòn vào cuối tháng 7 năm 1963. Trước khi đặt chân lên Thủ Đô Miền Nam. Linh Mục có cảm tưởng Sài Gòn đang là một hỏa ngục thiêu đốt hàng ngàn Sư Sãi và Phật Tử. Sở dĩ có cảm tưởng như vậy vì xuyên qua báo chí Tây Phương và nhất là những lời đồn đại và dư luận báo chí tại Nam Vang. Linh Mục tuy vẫn tin tưởng nơi cá nhân Tổng Thống Diệm, nhưng Linh Mục vẫn cảm thấy ghê tởm những trại tù lộ thiên “giam hàng ngàn Phật Tử bỏ đói, phơi nắng và bị tra tấn dã man” Trong cuộc gặp gỡ với Linh Mục François và Thủ Tướng Cambodge (Hoàng Thân Norodom Kantol) chính Thủ Tướng Kantol đã nói như vậy. Nhưng sự thật có như vậy không ? Linh Mục François lưu ngụ tại Sài Gòn hai tuần lễ và tìm mọi cách để điều tra xem chính quyền Ngô Đình Diệm đã đàn áp Phật Giáo đến mức độ nào ?
Trong cuộc gặp gỡ Thủ Tướng Kantol ông ta có nói với Linh Mục:
- Thái Tử Quốc Trưởng và Chính Phủ Cambodge rất lo ngại cho số phận hàng trăm ngàn Phật Tử Miên thuộc Giáo Phái Theravada nếu chính quyền Ngô Đình Diệm không ngừng đàn áp Phật Tử thì các nước Phật Giáo Á Châu sẽ có một thái độ quyết liệt và có thể tiến đến một hành động, chúng tôi sợ rằng lúc ấy sẽ bất lợi cho tín đồ Thiên Chúa Giáo Á Châu.
Linh Mục François đáp: Chúng tôi rất hổ thẹn có một tín hữu dùng quyền bính mà đàn áp ngược đãi đồng bào Phật Tử của ông ta như vậy. Nếu cứ nói như lời Thủ Tướng thì sự đàn áp này có thật. Chắc chắn Giáo Hội Thiên Chúa Giáo tại Miền Nam sẽ có thái độ.
Thủ Tướng Kantol: “Cuộc biểu tình ngày 17 vừa qua (17.7.1963) của hàng trăm ngàn Phật Tử tại Sài Gòn chính quyền Thiên Chúa Giáo thẳng tay đàn áp. Hiện nay có cả hàng ngàn Sư Sãi đang bị giam giữ, một số bị thủ tiêu”.
Linh Mục François lắc đầu: “Tôi không biết phải thưa chuyện với Thủ Tướng thế nào.
Nhưng nếu Thủ Tướng nói là chính quyền Thiên Chúa Giáo thì hoàn toàn không đúng. Tôi nghĩ chỉ có chính quyền Miền Nam do ông Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Giáo Hội Thiên Chúa Giáo không có liên hệ gì đến chính quyền đó”.

Có lẽ Thủ Tướng Kantol biết mình lỡ lời nên mỉm cười, nói: “Xin lỗi Cha đó chỉ là cách nói của tôi theo dư luận báo chí. Tuy nhiên Giáo Hội Thiên Chúa Giáo cũng có trách nhiệm nhất là vụ “bắt giết” Phật Tử lại xảy ra ngay nơi mà người anh của Ông Diệm làm Tổng Giám Mục và điều khiển chính quyền”.
Linh Mục François: “Tôi có đến thăm Giáo Khu Huế một vài lần, tôi có thể cả quyết với
Thủ Tướng là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục không có một quyền hạn nào đối với chính quyền do người em ông lãnh đạo. Dù nếu có thì Giáo Hội cũng không cho phép Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục được làm như vậy”.
Thủ Tướng Kantol có vẻ không tin lời của Cha François. Ông ta dẫn chứng qua một vài bài báo của Mỹ và khẳng định cho rằng: “Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đang chia xẻ một phần lớn quyền hành của ông em và theo chỗ tôi được biết thì Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đang chỉ huy chiến dịch đàn áp Phật Giáo”.
Thủ Tướng Kantol cũng tiết lộ là ông mới gặp một Đại Diện cao cấp của chính phủ Hà Nội. Đại Diện này đã trao tất cả tài liệu (?) về chiến dịch đàn áp Phật Giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm và đặc biệt về tài liệu “bắn giết giam cầm” hàng ngàn Phật Tử tại Miền Trung do Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục chỉ huy”. Linh Mục Fracois hỏi thằng Kantol: “Ngài Thủ Tướng, có thể tin vào tài liệu của chính phủ cộng sản Miền Bắc Việt Nam???” Khantol đáp: “Thưa Cha ít nhất thì tài liệu đó cũng giúp chính phủ Cambodge tìm hiểu được sự thật”.
Bước xuống Phi Trường Tân Sơn Nhất, Cha François vẫn còn bị ám ảnh...về những vụ thủ tiêu giam cầm đàn áp. Có đúng như vậy không ? Cha François vẫn tin tuyệt đối nơi cá nhân thánh thiện của Tổng Thống Diệm nhưng Cha cũng bắt đầu nghi ngờ...Cha François bỗng nhớ lại những trang sử đẫm máu của cuộc bách đạo Thiên Chúa Giáo dưới thời Thiệu Trị, Tự Đức. Không lẽ vào giữa năm 1963 lại tái diễn một cuộc bách đạo như vậy mà nạn nhân lại là Sư Sãi và Phật Tử?
Những ngày đầu ở Sài Gòn, Linh Mục François thấy Thành Phố không có gì thay đổi nhiều. Tuy nhiên ở đâu cũng âm ỉ như một lò than hồng. Việc đầu tiên là Cha đến xin yết kiến Đức Khâm Sứ Tòa Thánh. Đức Khâm Sứ cũng đang sửa soạn về La Mã. Dịp này Đức Khâm Sứ sẽ tường trình với Tòa Thánh La Mã về cuộc tranh đấu của Phật Giáo cùng thái độ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Gặp Cha François, Đức Khâm Sứ tỏ vẻ thất vọng và nói: “Tình hình rất nguy ngập nếu Tổng Thống Diệm không cải tiến thì chắc chắn chế độ ông ta sẽ sụp đổ”.
Cha François hỏi: “Thưa Đức Khâm Sứ ngài có thể dùng uy tín để thuyết phục Tổng Thống Diệm không? Con thấy dư luận các nước Á Châu không những bất lợi cho chính quyền Ông Diệm mà bất lợi cả cho Giáo Hội Việt Nam”.
Đức Khâm Sứ phác một cử chỉ lạnh lùng đáp: “Làm thế nào được? Dù là Tổng Thống của một nước dân chủ nhưng con người Ông Diệm vẫn là vị Hoàng Đế của nước Việt Nam thời xa xưa”.
Cha François hỏi: “Lúc này Đức Khâm Sứ có hay gặp Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục không? Con tin là Đức Cha Ngô Đình Thục sẽ tuân theo lời khuyến cáo của Đức Cha”
Đức Khâm Sứ đáp: “Đã lâu rồi tôi không gặp ngài. Theo Linh Mục Cao Văn Luận cho tôi biết thì ngài cũng có một phần trách nhiệm về vụ biến cố này!”
Cha François hỏi: “Vậy thì lời tố cáo của phía bên Phật Giáo cũng không phải là sai”
Đức Khâm Sứ đáp: “Không sai nhưng không hoàn toàn đúng. Tôi nói là Đức Cha Ngô Đình Thục phải chịu một phần trách nhiệm. Đây chỉ là trách nhiệm tinh thần đối với lương tâm Công Giáo”.
Cha François hỏi: “Thưa Đức Khâm Sứ có thực là chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo như báo chí ngoại quốc tường thuật không?”
Đức Khâm Sứ chỉ im lặng một lát rồi khẳng định: “Đây chỉ là một chiến dịch thổi phồng quá đáng. Cha đã từng sống ở Việt Nam chắc Cha hiểu rõ họ hơn tôi. Trí tưởng tượng của họ ghê gớm lắm, tôi tin rằng chắc cũng có những vụ bắt bớ giam cầm đánh đập Phật Tử, nhưng làm gì đến độ ghê gớm như sự tường thuật của báo chí”.
Đức Khâm Sứ kể: “Mới đây có một giáo dân đến thăm tôi. Ông là một nhân vật cao cấp trong chính phủ, ông ta quả quyết có bàn tay người Mỹ, dàn cảnh trong cuộc biểu tình của Phật Tử ngày 17.7 vừa qua, ông ta nói có một Bác Sĩ bên Phật Giáo đã chế tạo cả hàng mấy chục ngàn lọ thuốc mê (Chloroforme) trao cho các Nhà Sư trẻ và Phật Tử để khi biểu tình mà sô sát với Cảnh Sát thì đưa thuốc lên mũi ngửi lúc ấy thuốc mê sẽ làm họ lảo đảo quỵ ngã, rồi các phóng viên ngoại quốc sẽ quay phim chụp ảnh. Nhân vật này cũng cho biết sau cuộc biểu tình ngày 17.7 Cảnh Sát đã tịch thu được cả hàng chục chai thuốc mê như vậy. Ông ta cũng tiết lộ với tôi là truyền đơn của phía nhà tranh đấu được quay ronéo bằng những loại giấy mà chỉ có cơ quan UDAID mới có. Đó là thứ giấy tốt đặc biệt”.
Cha François lại hỏi: “Thưa Đức Khâm Sứ ngài có nghĩ rằng đã bàn tay cộng sản trong Phong Trào Tranh Đấu Phật Giáo hay không?”
Đức Khâm Sứ ngần ngại rồi đáp: “Đây là một vấn đề quá tế nhị, cho đến bây giờ chưa có một dữ kiện nào khiến chúng ta có thể nghi ngờ như vậy”.
Cha François lại nói: “Tại sao Tổng Thống Diệm lại có thể hành động thiếu khôn ngoan khi ông ra lệnh cấm treo cờ Phật Giáo?”
Đức Khâm Sứ: “Có nhiều nguyên nhân sâu xa lắm, lệnh cấm treo cờ của Ông Diệm đâu phải chỉ dành riêng cho Phật Giáo mà quy định cho cả Giáo Hội Công Giáo nữa. Cha phải hiểu rằng Ông Diệm là một nhà quốc gia cực đoan. Ông ấy coi Tổ Quốc trên Giáo Hội, chứ không phải Giáo Hội trên Tổ Quốc”.
Cha François nói: “Con vẫn tin Tổng Thống Diệm là một người hoàn toàn thánh thiện”.
Đức Khâm Sứ gật đầu đáp: “Đúng, ông ấy là một giáo dân có một đời sống rất thánh thiện. Nhưng ông ấy không phải là một giáo dân thức thời. Ông ấy cũng là một Nhà Nho, cuồng tín với lý tưởng an dân trị quốc của ông ấy”.
Cha François hỏi: “Con nghe nói một số Linh Mục và Giáo Dân đang tham gia Phong Trào Đấu Tranh Phật Giáo”.
Đức Khâm Sứ đáp: “Đúng, tôi có nghe nói như vây. Một số Linh Mục có đến hỏi ý kiến của tôi như thế nào khi họ tỏ ra thái độ thân thiện và hỗ trợ Phật Giáo thì tôi trả lời các ngài hãy cứ làm theo lương tâm của các ngài”.

CON SỐ 80% SỰ THỰC HAY LÀ HUYỀN THOẠI
Cha François trong cuộc gặp gỡ Đức Khâm Sứ cũng không được thỏa mãn cho lắm. Đức Khâm Sứ đã tỏ ra sự thiếu thiện cảm với chính quyền Ngô Đình Diệm và ngài bị ảnh hưởng xâu xa bởi dư luận đồn đã về đời sống của Bà Nhu cũng như quyền bính của Ông Nhu và Đức Cha Thục. Khi Cha François sắp cáo từ ra về thì một Giáo Sư Đại Học và một Linh Mục trẻ cũng vừa đến xin thăm Đức Khâm Sứ. Ngài bảo Cha François: “Cha có thể ngồi lại đây... Nếu Cha muốn biết rõ tình hình Việt Nam như thế nào thì hai ông khách này có thể giúp Cha nhiều tài liệu xác thực”.
Lúc đầu hai vị khách còn dè dặt nhưng sau khi ông bắt đầu cho nổ máy, công kích chính quyền hết sức mãnh liệt. Cha hỏi: “Tôi vẫn nghĩ rằng chính quyền này có thực thi dân chủ và thực hiện nhiều công tác lớn lao cho xứ xở”.
Vị Linh Mục trẻ, “Thưa Cha chúng tôi chưa thấy dân chủ ở đâu cả, Quốc Hội là Quốc Hội bù nhìn, toàn thứ Nghị gật do Đảng chỉ định. Quyền hành đều nằm trong tay Tổng Thống hay đúng ra trong tay ông Bà Nhu”.

Vị Giáo Sư Đại Học: “Thưa Đức Khâm Sứ và thưa Cha, tình hình đến lúc nghiêm trọng lắm rồi...Thiết tưởng Giáo Hội không thể đứng vòng ngoài... Giáo Hội phải lên tiếng”. Đức Khâm Sứ mỉm cười: “Ông bảo Giáo Hội phải lên tiếng như thế nào? Giáo Hội không đứng ngoài vòng thì Giáo Hội phải làm sao bây giờ?”.
Sài Gòn, Mùa Đông 1970
Lương Khải Minh
Vị Hoàng Cao Thế Dung
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một chuyến hoa xuân

Một chuyến hoa xuân Nhà văn trẻ Trác Diễm vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị sinh năm 1988 ở Quảng Bình, bắt đầ...