Làm thế nào để giết một tổng thống 3
Tập 2
CHƯƠNG VIII
PHẬT GIÁO VÀ TỔNG THỐNG DIỆM
Nếu không có vụ tranh đấu 1963 và nói một cách chung thì Phật
Giáo chưa có xích mích nào đáng kể đối với chính quyền Ngô Đình Diệm. (Ngoại trừ
những xích mích có tính cách địa phương xảy ra tại Bình Định vào những năm
1960-1961). Trước năm 1963 Phật Giáo Việt Nam chỉ là một tập thể bao gồm những
cục bộ riêng rẽ. Mà những cục bộ này cũng không được tổ chức chu đáo (vì bản chất
của Phật Giáo là phi tổ chức). Tuy vậy Phật Giáo Việt Nam cũng bị ảnh hưởng sâu
xa bởi sắc thái địa phương bối cảnh địa dư và nhân sự. Do đó, Phật Giáo đã thể
hiện rõ rệt qua ba “sắc thái sinh hoạt”: Phật Giáo Miền Nam, Phật Giáo Miền
Trung và Phật Giáo Di Cư. Phật Giáo Miền Nam gồm Hội Phật Học Nam Việt (Cư Sĩ
Mai Thọ Truyền và Chùa Xá Lợi) Giáo Hội Tăng Già Việt Nam Thượng Tọa Thích Thiện
Hoa Chùa Ấn Quang. Phật Giáo Nguyên Thủy nhóm Tiểu Thừa Chùa Kỳ Viên) và một số
hội đoàn lẻ tẻ khác. Phật Giáo Miền Bắc di cư có độ 20.000 người nhưng không tạo
thành một cộng đồng. Phần nhiều Phật Tử đã đi di cư với tư cách cá nhân và bằng
phương tiện cá nhân. Trong số 200.000 người có vào khoảng 50.000 sống rải rác ở
các trại định cư. Khoảng 50.000 người sống tại các Thị Xã. Còn lại 100.000 người
qui tụ tại Sài Gòn. Phật Giáo Di Cư tại Đô Thành đại cương có thể chia thành
hai nhóm, nhóm thuộc Chùa Phổ Quang và Nghĩa Trang Bắc Việt (Thượng Tọa Thích
Trí Dũng) Nhóm đa số thuộc Chùa Từ Quang (Thượng Tọa Thích Tâm Châu).
Riêng Phật Giáo Miền Trung được coi là một cộng đồng có tổ chức
sinh hoạt từ cấp khuôn hội cho đến trung ương (tức Chùa Từ Đàm). Theo thống kê
trước năm 1963 Phật Giáo Việt Nam (Miền Trung) có khoảng 40.000 người với một
tổ chức thanh niên và hướng đạo Phật Tử đáng kể. Sau 1963 cũng thì số Phật Giáo
Miền Trung 800.000 người.
Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam do Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết
làm Hội Chủ. Trên thực tế, Phật Giáo Miền Trung mới là thành phần chủ lực của Tổng
Hội Phật Giáo Việt Nam. Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết là một bậc cao tăng nổi tiếng
về đức độ của con người xuất thế tu đạo. Nhưng tước vị Hội Chủ chỉ là một danh
nghĩa tiêu biểu cho tinh thần hiệp nhứt cao trọng. Quyền hành xử Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam vẫn do các vị Thượng Tọa Trí Quang và Thiện Minh, xa hơn nữa là
các Thượng Tọa Trí Thủ và Đôn Hậu cùng một số Thượng Tọa, Đại Đức thuộc khuynh
hướng dấn thân tích cực.
Phật Giáo Miền Nam trước năm 1963 luôn luôn giữ thái độ xuất
thế không thân chính quyền mà cũng không chống chính quyền và cũng không hề biểu
lộ một thái độ nào có mầu sắc chính trị và thời thế.
Cư Sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền không có một quan hệ đối với
chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng giữa ông và Phó Tổng Thống Thơ lại có nhiều mối
tương giao thân hữu.
Ngược lại, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Miền Trung lại được
coi là thân thiện và có những tương giao tốt đẹp với chính quyền Ngô Đình Diệm
qua ông Ngô Đình Cẩn, chính ông Cẩn vẫn tự hào và lớn tiếng kể công với các ông
anh là ông đã nắm được Phật Giáo Miền Trung.
Ông Cẩn thường coi thành tích này như một điều để “bắt bí” mấy
ông anh, bất cứ một hội nghị Phật Giáo nào tại ngoại quốc, các Thượng Tọa Miền
Trung phải được ưu tiên.
Do đó cũng làm cho giới chức tại Sài Gòn gặp nhiều cảnh “tréo
cẳng ngỗng”. Theo Lương Khải Minh vào khoảng năm 1960... Tổng Thống Diệm đã chấp
thuận một danh sách gồm mấy Thượng Tọa và Cư Sĩ đi tham dự hội nghị Phật Giáo
Thế Giới. Các vị này đã được thông báo để sửa soạn làm giấy thông hành, bỗng
nhiên ông Cẩn cho người đem vô Sài Gòn một danh sách mới đòi cho bằng được phải
để mấy vị Thượng Tọa Miền Trung tham dự và nắm chức Trưởng Phái Đoàn.
Ông Cẩn lấy cớ rằng: Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam do Hòa Thượng
Thích Tịnh Khiết làm Hội Chủ và trụ sở đặt tại Huế thì Huế mới là trung ương Tổng
Hội. Do đó, một Thượng Tọa ở Huế phải làm Trưởng Phái Đoàn.
Sự việc này quả khó giải quyết cho nên lại phải trình lên Tổng
Thống Diệm. Ông Tổng Thống đáp: “Ai đi cũng vậy. Tôi nghe nói mấy ông Thượng Tọa
này tốt lắm. Chắc ông cậu ở ngoài nớ đã biết rõ họ”. Có lẽ bắt nguồn từ những sự
việc này nên Phật Giáo Sài Gòn vẫn rì rầm là chính quyền không hiểu sao đã ưu
đãi các Thầy ở Huế. Nhiều kẻ đa nghi lại rỉ tai nhau “Thầy ấy... là người thân của
ông Cẩn mà”.
Đại Úy Bằng, Sĩ Quan hầu cận của Tổng Thống Diệm cũng xác nhận
rằng: “không hiểu một lý do gì mà ông Cẩn lại quá ưu đãi và trọng vọng mấy vị
Thượng Tọa ở Chùa Từ Đàm. Đại Úy Bằng nhớ lại: Cũng vào khoảng năm 1960 khi
tháp tùng Tổng Thống Diệm về Phú Cam, ông Cẩn đã gọi ông Bằng đến dặn dò rất kỹ:
Mi về Sài Gòn gặp ngay anh Tuyến hỏi xem tuần trước Thầy có mang thơ giới thiệu
của tao đến gặp anh ấy không ? Mi bảo anh Tuyến lo ngay cái vu hồ sơ xin xuất
ngoại của Thày Trí Quang” Một lát sau, ông Cẩn lại nhắc lần nữa và biểu Bằng
tin ra Huế ngay để ông biết rõ vụ giấy tờ xuất ngoại của mấy Thầy đã đi đến
đâu.
Khi về Sài Gòn, Đại Úy Bằng đến tìm Bác Sĩ Tuyến và nói như vậy.
Bác Sĩ Tuyến cho biết là hồ sơ đưa qua phòng ông Hải rồi: “Có thư của ông Cậu
ai mà dám chậm trễ”.
Ông Ngô Đình Cẩn tỏ ra rất tự hào về mối tương quan thân hữu
của ông và Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Miền Trung. Do đó, khi nhận được bức
công điện cấm treo cờ tôn giáo, ông Cẩn tỏ ra tức giận không ít.
Bức công điện mang số 9195 đề ngày 6.6.1963 Dương Lịch cho đến
chiều ngày 6, bức công điện đó mới về đến Tòa Đại Biểu và Tỉnh Đường Thừa
Thiên. Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo của ông Cẩn vẫn không hay biết một chút nào.
Mãi đến sáng ngày 7, người Vú già của Đại Úy Minh đi chợ về, thuật lại: “Ngoài
chợ đang xôn xao về việc gì đó. Đồng bào nói rằng chính phủ cấm không cho Phật
Giáo treo cờ”. Lúc đó Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo mới rõ và tìm cách gặp ông Cẩn để
trình bày tự sự mới hay.
Ông Nguyễn Văn Đẳng, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên vào trình bức
công điện kể trên. Với sự hiện diện của Đại Úy Minh, ông Cẩn băn khoăn...
“Sao lại có chuyện lạ như thế”. Đại Úy Minh cũng ngần ngại:
- Đồng bào các nơi đã treo hết cờ cả rồi. Bây giờ làm thế nào
được.
Ông Đẳng lo ngại: Thưa nếu thi hành bức công điện này, con thấy
lôi thôi lắm.
Ông Cẩn bảo Đại Úy Minh hỏi Tòa Đại Biểu xem thế nào và yêu cầu
xác nhận bức công điện có phải đúng như thế không? Cầm bức công điện trên tay
ông Cẩn vẫn chưa tin là thực. Ông Cẩn nhắc đi nhắc lại “Quyết định cái gì mà lại
lạ lùng như vậy”.
Trong thời gian này, ông Ngô Đình Cẩn đang bị thất sủng. Tổng
Thống Diệm không còn tín nhiệm ông em như trước nữa. Trên thực tế, kể từ ngày Đức
Cha Ngô Đình Thục trở về Huế thì uy tín ông Cẩn bắt đầu xuống dốc dần dần... Tổng
Thống Diệm đã quyết định bãi bỏ Văn Phòng Cố Vấn chỉ đạo từ đầu năm 1963 (cho đến
tháng 10 năm 1963 Tổng Thống Diệm mới dứt khoát bãi bỏ Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo
có nghĩa ông Cẩn bị loại ra khỏi chính trường Miền Trung)
Bức công điện trên đây ông Cẩn chỉ được biết sau khi ông Đằng
mang vào. Ông Cẩn bảo Tỉnh Trưởng Thừa Thiên: “Đồng bào người ta treo cờ rồi
thì cứ để nguyên như vậy đừng có ra lệnh hạ gì cả”. Ông Cẩn lại bảo ông Hồ Đắc
Khương, Đại Biểu Chánh Phủ Trung Nguyên Trung Phần, đánh điện vào Trung Ương
xin hoãn thi hành bức công điện “kỳ quái” này.
Một viên chức có mặt tại nhà ông Cẩn lúc ấy đều đồng ý phải
hoãn thi hành lệnh trên và cứ để đồng bào Phật Tử treo cờ như mọi năm. Đại Úy
Minh bàn luận với một số viên chức: “Tại sao không ra lệnh từ trước mà mãi đến
bây giờ mới ra lệnh. Vụ này kẹt cho tụi mình lắm. Các anh tính sao?”
Ông Cẩn thắc mắc hỏi ông Đẳng và Hoàng Trọng Bá: “Các Thầy dưới
Từ Đàm đã biết chưa?” Thực ra, các Thầy cũng như một số đông Phật Tử biết tin
từ tối hôm trước.
Tất nhiên là phải có một viên chức nào ở Tòa Tỉnh đã tiết lộ
bức công điện trước khi thông báo cho ông Cẩn.
Sau một hồi thảo luận, cân nhắc ông Cẩn bảo Tỉnh Trưởng Thừa Thiên:
“Chú cho mấy xe thông tin nó đi thông báo gấp cho đồng bào hay là không có gì
thay đổi. Đồng bào cứ treo cờ như mọi năm”.
Ông Cẩn đồng thời căn dặn Đại Úy Minh cũng như Hồ Đắc Khương,
Hoàng Trọng Bá phải thận trọng hết sức và làm thế nào để tránh những chuyện
đáng tiếc có thể xảy ra. Mặt khác Văn Phòng ông Cẩn cũng chỉ thị cho giới chức
Cảnh Sát Thành Phố Huế không được hạ cờ của đồng bào.
Nói về ông Ngô Đình Cẩn và Phật Giáo, Thượng Tọa Mật Nguyện
(thuộc phái Ấn Quang) cho rằng, trong chín năm chế độ Ngô Đình Diệm, không hiểu
trong lòng như thế nào nhưng ngoài mặt, ông Cẩn tỏ ra thân thiết và tin cậy các
Thầy trong Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam (tại Huế). Qua bức công điện cấm treo cờ,
thái độ ông Cẩn ngay từ phút đầu là sửng sốt tức giận. Ông Cẩn than thở với mấy
thuộc viên thân cận: “làm như rứa tao còn mặt mũi nào nói chuyện với người ta”
(tức là các Thầy tại Chùa Từ Đàm)
Buổi trưa ngày 7, ông Cẩn trầm ngâm một cách khó hiểu, ông uống
một hơi hết ly rượu lễ và cho gọi ông Minh vào để tìm hiểu tình hình Huế cho đến
giờ phút này vẫn không hề xao động.
Cả một Thành Phố như rừng cờ. Số lượng cờ Phật Giáo như càng
tăng thêm. Vào buổi chiều ông Cẩn nhận được báo cáo cho biết khoảng 8:30 sáng
(khi Nguyễn Văn Đẳng vào trình bức công điện) thì lại có mấy Cảnh Sát viên
trong Thành Nội kéo nhau đi hạ cờ tại mấy nhà đồng bào và đã có sự dằng co xô
xát. Sau đó được thu xếp êm ngay. Huế nơi nơi như bừng sống như đang vươn cao
trong hương hoa ngào ngạt. Không khí như ngày hội hoa đăng và như tất cả dành
riêng cho ngày Phật giáng thế.
Ông Nguyễn Hữu Cang, một trong những chiến sĩ trong vụ Phật
Giáo Huế 63 đã kể lại cho chúng tôi: “Sáng ngày 7 trong giới đồng bào và các
khuôn hội đã xôn xao lắm. Nhất là chúng tôi lại được tin cho biết chính Đức Cha
Ngô Đình Thục đã về tận Sài Gòn thúc đẩy ông Ngô Đình Nhu ra lệnh “triệt hạ” Phật
Giáo. Do đó lại càng khiến mọi Phật Tử xôi động, bất mãn” Nguyễn Hữu Cang cho
biết thêm: “trưa ngày 7, khi được tin chính quyền cho Cảnh Sát đi hạ cờ và xé cờ
Phật Giáo tại mấy khuôn hội thì dư luận lại càng thêm xôi nổi phẫn uất. Nhất là
giới bạn hàng Chợ Đông Ba. Có thể nói giới bạn hàng này mới là thành phần đi
tiên phong trong vụ tranh đấu kể từ ngày 7 chứ không phải chỉ riêng ngày 8”.
Nguyễn Hữu Cang cũng công nhận rằng: “anh có nghe thấy xe thông
tin đi loan báo là đồng bào cứ treo cờ như thường lệ. Tuy nhiên lúc bấy giờ bao
nhiêu dồn nén trong quần chúng được khơi dậy và chỉ chờ đợi giây phút nổ tung”.
Các Hội Đoàn và Quân Đội đều nhận được một lệnh sửa soạn để
tranh đấu đòi quyền bình đẳng tôn giáo, đối tượng cho sự đấu tranh như vậy quả
là hấp dẫn và dễ dàng lôi cuốn được mọi giới Phật Tử.
Khoảng 6 giờ chiều, một số công chức tòng sự tại Tòa Đại Biểu
không đến Tòa Hành Chánh Thừa Thiên và ở đây cũng có một số công chức thuộc Tỉnh
Đường tụ tập bàn tán xôn xao về bức công điện cấm treo cờ, đồng thời cũng vào
khoảng một ngàn đồng bào cùng với một số đông Thượng Tọa Đại Đức kéo đến Tòa
Hành Chánh để tỏ thái độ trong đó có Thượng Tọa Đôn Hậu, Trí Quang.
Không khí lúc ấy đã nhuốm mầu tranh đấu. Anh Nguyễn Hữu Cang
cũng có mặt trong đó. Ngày nay tuy đã quên nhiều chi tiết nhưng anh vẫn còn giữ
nguyên giây phút ngọn lửa hồng cháy rực. Anh nói: “Khi nghe tin cờ Phật bị xé
tôi có cảm tưởng như chính tổ tiên mình bị chính quyền chà đạp. Lúc ấy dù có phải
chết cho đạo pháp tôi cũng bằng lòng”.
Trong một không khí xôi động như vậy Thượng Tọa Trí Quang xuất
hiện cùng với mấy Thượng Tọa khác như Thượng Tọa Trí Thủ, Thiện Minh.
Về phía chính quyền thì có ông Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng,
ông Phó Tỉnh Trưởng Hành Chính, ông Phong Trưởng Ty Cảnh Sát Thành Phố Huế...Lát
sau, Thiếu Tá Đặng Sỹ Phó Tỉnh Trưởng Nội An lái xe đến. Ông này mới đi hành
quân về từ chiều ngày 6.5. Khi được cấp báo đồng bào Phật Tử đang biểu tình ở Tỉnh
Đường, Thiếu Tá Sỹ vội vã lái xe đến.
Lúc ấy Thượng Tọa Trí Quang với một vẻ xúc động mạnh, lên tiếng
gay gắt phản đối bức công điện cấm treo cờ tôn giáo. Ông Đẳng cho các Thượng Tọa
biết chính quyền đã hoãn thi hành bức công điện này và xin các Thượng Tọa cứ an
tâm. Mọi sự đều như mọi năm không có gì thay đổi.
Tuy vậy, Thượng Tọa Trí Quang vẫn giữ vẻ tức giận và lên tiếng
phản đối chính quyền Thừa Thiên tại sao sáng ngày 7.5 đã cho Cảnh Sát hạ cờ Phật
Giáo và tại một vài nơi Cảnh Sát xé cờ Phật Giáo.
Ông Đẳng quay sang hỏi ông Phong Trưởng Ty Cảnh Sát xem sự thể
hư thực thế nào. Ông Phong lên tiếng: “Tôi quả quyết không có chuyện đó”. Ông
Phong lại nhấn mạnh thêm: “Tôi quả quyết với các Thày không có chuyện xé cờ”
Thiếu Tá Sỹ lên tiềng: “Nếu có chuyện xảy ra như vậy xin Thày cho biết rõ nơi
nào Cảnh Sát đã xé cờ tôi sẽ cho điều tra và trừng trị ngay”.
Ông Phong lại một lần nữa quả quyết không có chuyện như vậy.
Ông Phong xin Thượng Tọa Trí Quang nêu lên một vài chứng cớ. Thượng Tọa Trí
Quang đáp: “Tôi nghe đồng bào Phật Tử nói như vậy”.
Ông Phong lại thỉnh cầu: “Xin Thày cho biết rõ nơi xảy ra
chuyên. Xé cờ thuộc về khuôn hội nào, khu phố nào để chúng tôi mở cuộc điều
tra”.
Thượng Tọa Trí Quang lắc đầu không tiết lộ và nói đại ý: “Tôi
không thể cho các ông biết rõ được. Tôi cho các ông biết để rồi Công An Cảnh
Sát đến làm phiền đồng bào Phật Tử rồi tính sao đây ?”
Cuối cùng Thượng Tọa Trí Quang tỏ vẻ lo ngại: “Hiện nay chúng
tôi rất hoang mang không hiểu chính quyền sẽ đàn áp chúng tôi khi nào ?”
Ông Nguyễn Văn Đẳng vẫn “xuống nước” thỉnh cầu các Thượng Tọa
yên tâm trở về Chùa và ngày mai mọi sự sẽ tiến hành tốt đẹp như mọi năm. Thượng
Tọa Trí Quang vẫn lo ngại: “Mai này đồng bào Phật Tử sẽ tổ chức rước kiệu chúng
tôi đã sửa soạn đâu vào đấy cả rồi chúng tôi rất hoang mang”.
Hai bên chính quyền và các Thượng Tọa cứ vòng vo bàn cãi cuối
cùng chính quyền Thừa Thiên phải nhượng bộ bằng cách gọi điện thoại ngay cho
ông Trưởng Ty Thông Tin cho ba xe có máy phòng thanh đến Tòa Tỉnh. Ông Nguyễn
Văn Đẳng đề nghị các Thượng Tọa cho cán bộ Phật Tử của mình đi theo xe và chính
các cán bộ này chia nhau đi khắp khu phố để loan báo cho đồng bào rõ ngày 8.5 sẽ
không có gì thay đổi, đồng bào cứ đi hành lễ như chương trình đã ấn định. Kết
quả các Thượng Tọa cũng bằng lòng như vậy. Khoảng 9 giờ đêm đám đông mới giải
tán và mọi chuyện tưởng đã được giải quyết tạm thời êm đẹp. Ba xe Thông Tin
chia nhau đi vào các khu phố để làm phận sự như chính quyền và các Thượng Tọa
đã thỏa thuận.
Theo Nguyễn Hữu Cang đêm ngày 7.5 là một đêm không ngủ. Cang
cũng như một số Phật Tử khác thừa hành lệnh trên đi kẻ bandeoles và quay ronéo
những bản văn đòi chính quyền thực thi quyền bình đẳng tôn giáo.
Giới An Ninh Quân Đội Khu XI Chiến Thuật đã “cảm thấy” những
hiện tượng đáng lo ngại. Có lẽ vì vậy, đêm ngày 7.5, Đại Tá Đỗ Cao Trí ra lệnh
cấm trại.
Đêm ngày 7.5 vẫn bình thường. Không một ai ngờ được rằng chỉ
một ngày sau Huế nổ tung mở đầu cho một biến chuyển lịch sử.
Sau cuộc thảo thuận với các Thượng Tọa tại Tòa Hành Chánh Thừa
Thiên, ông Cẩn không còn gì băn khoăn, ông dặn dò mấy người thân cận: “các Thày
họ đòi hỏi như thế cũng là phải. Ngày lễ của người ta. Nếu có gì quá găng thì bọn
bay tìm ông Nghiêm không có thì gọi cho Lê Trọng Quát hoặc tìm Hà Thúc Luyện”.
Ngay đêm đó, ông Cẩn đã nhận được báo cáo là mọi chuyện đã được giải quyết êm đẹp.
Ông Cẩn tin tưởng sẽ không còn chuyện gì xảy ra nữa vì ông vẫn tự hào được các
Thầy Chùa Từ Đàm trọng nể và tin ông. Hơn nữa, những người ruột của ông Cẩn lại
là những Phật Tử có nhiều tương quan mật thiết với các Thầy như Thiếu Tướng Lê
Văn Nghiêm, có họ hàng rất gần với Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tịnh Khiết. Ông Lê
Trọng Quát lại là một Phật Tử quy y nơi Thượng Tọa Đôn Hậu, ông Hà Thúc Luyện vốn
từ xưa đóng vai trò giao liên giữa ông Cẩn và mấy Thày. Đó là sự tự hào và tin
tưởng chủ quan của ông Cẩn. Trong khi đó bức công điện cấm treo cờ trở nên một
đối tượng khích động quần chúng. Nguồn tin Cảnh Sát xé cờ lại là những yếu tố ngoại
quan đập mạnh vào lòng hiếu động của quần chúng mà quần chúng là những khối quần
chúng có tổ chức (masse orgnaisee) như Phật Tử, Thiên Chúa Giáo vốn không biết
suy nghĩ và lý luận vì chỉ là một khối người cho nên từ sự thật “cấm treo cờ”
đã dễ dàng liên tưởng đến sự hạ cờ và xé cờ thì chả có gì vô lý cả. Rồi đến một
đối tượng cao hơn như đấu tranh cho quyền bình đẳng tôn giáo bỗng nhiên đối tượng
ấy trở nên thần bí, ly kỳ. Những biến cố lớn của lịch sử lại thường được tạo
hình thì những tiêu ngữ ly kỳ thần bí quả là những đối tượng đầy những huyền
thoại. Vì lẽ đó bất cứ trong một biến cố nào của lịch sử cái hư bao giờ cũng
chiếm phần ưu thế và thủ một vai trò quan trọng hơn sự thực rất nhiều.
NGÀY LỊCH SỬ 7.5.1963 (Âm lịch)
Không một người Việt Nam nào có thể ngờ rằng, ngày ấy và bức
công điện ấy đã cắm một cái mốc khởi điểm cho một tấm thảm kịch bi thương nhất
của lịch sử Việt Nam.
Trần Khôi hồi tưởng lại những ngày khi ông ra Huế thanh tra
trước ngày 8.5 khoảng mấy ngày. Bây giờ nghĩ lại ông Khôi chợt bàng hoàng về một
sự trùng hợp như là ngẫu nhiên và tự hối. Người Mỹ muốn gì ở Việt Nam?
Vốn quen biết với Đại Tá Conein trong thời gian thuộc Bộ Nội
Vụ trước khi ra Huế, Khôi tình cờ gặp lại Conein. Ông Conein khoe:
- Do sự thuyết phục của tôi Tổng Thống Diệm mới chịu thi hành
dân chủ tại ấp xã. Kể từ ngày đó xã ấp đều do dân chúng trực tiếp bầu theo lối
phổ thông đầu phiếu.
Biết rõ bản tính Conein nên ông Khôi nghĩ bụng “Thằng cha thuộc
loại nói róc tay tổ”.
Conein còn nói thêm:
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa còn phải thi hành nhiều cải tổ
quan trọng nữa mới thắng được cộng sản. Chính quyền này thiếu dân chủ. Rồi
Conein lại nhấn mạnh: “Tôi có cảm tưởng chính phủ Việt Nam là chính phủ của những
người Công Giáo”.
Anh ra Huế thì biết. Tôi sẽ giới thiệu anh với Johnson, đàn
em của tôi đang giúp Hoàng Trọng Bá huấn luyện lực lượng Nhân Dân Võ Trang.
Conein nói với Khôi như một lần giải bày bày tâm sự:
- Dư luận Mỹ đang bất lợi cho Việt Nam, muốn chống cộng sản
thì phải huy động lực lượng Phật Giáo không phải chỉ một chính quyền Công Giáo.
Phật Giáo sẽ (saboter) chính phủ.
Ông ra Huế thì biết ở đó chỉ là một vương quốc của Tổng Giám
Mục Ngô Đình Thục (Empire de l'archeveque Ngô Đình Thục).
Ông khôi lấy làm lạ lùng về thái độ của Connei, một người Mỹ
đã có kinh nghiệm gần 30 năm tại Việt Nam không hiểu suy luận từ một sự kiện
nào. Conein lại nhất đán cho rằng chính quyền Ngô Đình Diệm là một chính quyền
của người Công Giáo. Ông Khôi biết bụng vậy thôi và khi ra Huế đúng vào dịp Huế
đang tưng bừng đón Phật Đản và đồng thời đang sôi động về bức công điện cấm
treo cờ.
Theo lời Trần Khôi, quan sát ngay tai chỗ về vụ nổ ở Đài Phát
Thanh Huế sẽ không đủ cho ta những lập luận có thể tin được là CIA hay cộng sản
đã nhúng tay vào biến cố 8.5. Nhưng về phía Mỹ, qua những cuộc đối thoại trao đổi
thì ta lại dễ dàng cảm thấy (bằng trực giác) là Mỹ đã có thể nhúng tay và qua
nhiều ngẫu nhiên trùng hợp thì quả là người Mỹ đã “ra tay hành động”.
Buổi tối 7.5, ông Khôi được mời dùng cơm tại nhà một viên chức
Mỹ. Trong bữa cơm đó, ông gặp Johnson, ông Phó Lãnh sự Mỹ, một Bác Sĩ người Đức
tại Trường Đại Học Y Khoa Huế và một người Việt Nam tự giới thiệu là Giáo Sư
Trường Đại Học Văn Khoa Huế. Khôi ngồi cạnh Johnson, ông ghi nhận rằng Johnson
là một người Mỹ tốt, ông Khôi không thấy Johnson khen chê chính quyền. Nhưng luận
điệu của ông Phó Lãnh Sự Mỹ cũng tương tự như Conein. Đề cập đến Phật Giáo, ông
Phó Lãnh Sự Mỹ nói đại ý:
- Phật Giáo là lực lượng rất lớn lao. Nhưng Phật Giáo không
tham gia vào công cuộc chống cộng nên chính phủ Việt Nam không mở rộng cho Phật
Giáo tham dự.
Nghe nói như vậy, ông Khôi phản đối:
- Quan niệm của ông Phó Lãnh Sự có phần không đúng. Tôi là Phật
Giáo Ông Tỉnh Trưởng ở đây, ông Tướng Tư Lệnh vùng cũng đều là Phật Giáo. Phó Tổng
Thống cũng là Phật Giáo. Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng cũng là Phật Giáo.
Ông Phó Lãnh sự mỉm cười không đáp. Một lát sau, viên chức Mỹ
Warren Smith lên tiếng công kích nặng nề việc làm của Nha Công Tác Miền Thượng.
Viên chức Smith cho rằng chính quyền Việt Nam đang thực hiện kế hoạch Việt Nam
hóa và Công Giáo hóa tất cả đồng bào Thượng và nhất là Nha này đã xâm phạm chủ
quyền Vương Quốc Lào và quyền “tự quyết” của các sắc tộc Thượng.
Bữa cơm hôm đó, các viên chức Mỹ, Smith và nhất là ông Phó
Lãnh Sự đã công kích chính quyền Ngô Đình Diệm khá mạnh mẽ về vấn đề Phật Giáo.
Đề cập đến vụ biểu tình tại Tòa Tỉnh Trưởng Thừa Thiên chiều mùng 7.5, ông Phó
Lãnh Sự Mỹ cho rằng: “Nếu chính quyền Ngô Đình Diệm không chịu “liên hiệp” (?)
với Phật Giáo tham chánh thì Phật Giáo sẽ đứng lên tranh đấu”.
Cũng từ ngày 7.5, có một người Mỹ ở Đà Nẵng cấp tốc ra Huế.
Đó là Đại Úy Scott. Tất nhiên là không ai để ý đến ông ta.
Nhưng Đại Úy Scott ra Huế để thực hiện một công tác trọng đại
có thể do Trung Ương Tình Báo Mỹ trao phó cho ông ta. (Năm 1965, Đại Úy Scott
trở thành sĩ quan Cố Vấn của Tiểu Đoàn 1/3 Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Trong cuộc hành
quân tại vùng Nam Đồng, Scott trong lúc đau buồn bất mãn tiết lộ công tác mà
ông đã thực hiện ngày 8.5.1963)
Tại Sài Gòn, không có một chuyện đáng tiếc nào xảy ra trong
hai ngày 7, 8. Sáng ngày 8, Lương Khải Minh được mấy người bạn cho biết, phía
bên Chùa Xá Lợi đang có chuyện bất mãn với chính quyền về vụ cấm treo cờ Phật
Giáo. Lúc ấy ông ta mới hay và rất ngạc nhiên.
Lương Khải Minh thầm nghĩ: “Trong tình thế này cấm đoán làm
chi cho dù là hợp lý. Vụ cờ Vatican rồi vụ cờ Phật Giáo, chế độ càng ngày tạo
thêm mâu thuẫn”.
Và cộng sản thì chỉ mong có thế. Sáng sớm, Thượng Tọa Trí
Dũng và một vị Thượng Tọa khác có lại thăm Bác Sĩ Tuyến tại nhà riêng và yêu cầu
ông can thiệp làm thế nào để chính quyền đình chỉ thi hành bức công điện cấm
treo cờ. Bác Sĩ Tuyến gọi điện thoại hỏi ông Đoàn Thêm (Đổng Lý Văn Phòng Bộ Phủ
Tổng Thống ) Ông Đoàn Thêm xác nhận là có bức công điện đó và do nơi ông Đổng
Lý Phủ Tổng Thống Quách Tòng Đức gởi đi (ông Quách Tòng Đức thi hành khẩu lệnh
của Tổng Thống Ngô Đình Diệm).
Sự việc đã xảy ra như vậy, biết làm thế nào?
Tại Sài Gòn, Lương Khải Minh tự động giải quyết theo đường lối
tình cảm cá nhân. Quận 3 là nơi tập trung rất nhiều Chùa chiền và là những Chùa
lớn như Xá Lợi, Kỳ Viên... Từ tư thất, Bác Sĩ Tuyến gọi Trung Tá Phó Đô Trưởng Nội
An và ông Cảnh Sát Trưởng Quận 3 (bây giờ là Cò Kính) và yêu cầu hết sức thận
trọng “nơi nào đã treo cờ rồi cứ để yên đó đừng cho Cảnh Sát hạ cờ xuống. Nơi
nào đồng bào Phật Tử chưa treo thì tìm lời nói khéo léo với họ xin thông cảm”.
Nhờ sự sốt sắng và quan tâm của Cảnh Sát thuộc 7 quận Đô
Thành cho nên vụ cờ Phật Giáo đã không gây ra những chuyện đáng tiếc tại Sài
Gòn. Lễ Phật Đản cử hành như mọi năm.
BÀI THUYẾT PHÁP NẢY LỬA
Ngày 8.5, từ sớm tinh mơ, Huế đã trở mình thức dậy giữa một rừng
cờ. Đồng bào Phật Tử trong khắp Thành Phố nhất tề áo quần bảnh bao sửa soạn kéo
nhau về Chùa Từ Đàm dự đại lễ. Anh Nguyễn Hữu Cang trong một tâm trạng náo nức.
Nguyễn Hữu Cang đã được bạn rỉ tai từ hôm trước là sáng nay
có thể chính quyền đàn áp Phật Tử và ngăn chặn không cho rước kiệu Phật. Song
cũng vì nguồn tin như vậy nên số Phật Tử đi dự lễ càng đông hơn và càng hăng
say.
Từ 8 giờ trên các ngả đường Thành Phố Huế tấp nập những người,
từ Đập Đá, từ An Cựu, từ Gia Hội, từ Diệu Đế...Hàng ngàn Phật Tử rước kiệu Phật
tiến về Lễ Đài thiết lập tại Chùa Từ Đàm.
Khoảng 9 giờ, Đại Úy Minh vào gặp ông Cẩn và tin cho ông Cẩn
hay, mọi chuyện rước sách đã diễn ra rất tốt đẹp.
Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm cũng như ông Đại Biểu Hồ Đắc
Khương, ông Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng đều khăn đóng áo dài đến Chùa Từ Đàm dự
lễ vừa với tư cách chính quyền vừa với tư cách Phật Tử.
Trước đó, một đoàn người ước chừng 500 từ Gia Hội rước Phật
qua Từ Đàm, khi đi ngang Tòa Đại Biểu thì dừng lại, năm bảy chiếc biểu ngữ được
dương lên. Không khí bắt đầu sôi nổi.
Trong số biểu ngữ đó có khẩu hiệu như là đòi chính quyền thực
thi quyền Bình Đẳng Tôn Giáo và lên án kỳ thị Tôn Giáo.
Đoàn người dừng lại một lúc lâu có nhiều tiếng la ó và đả đảo.
Sau đó đoàn người lại thẳng bước tiến về lễ đài. Theo Nguyễn Hữu Cang thì hôm ấy,
thanh niên và hướng đạo Phật Tử đã nhận được lệnh là luôn luôn đề cao cảnh giác
và chính quyền có thể đàn áp bất cứ lúc nào.
Trong buổi lễ Thượng Tọa Trí Quang đăng đàn thuyết giảng. Bao
nhiêu ngàn Phật Tử im lặng như tờ. Phật Tử vừa thích thú vừa hồi hộp vừa ngạc
nhiên, Thượng Tọa Trí Quang nói hay quá hấp dẫn và nồng nàn. Thượng Tọa lên tiếng
công kích chính quyền rất nặng nề và tố cáo sự kỳ thị tôn giáo, bất bình đẳng
tôn giáo. Tóm lại, bài thuyết giảng đó vừa công kích chính quyền vừa có tính
cách kêu gọi Phật Giáo tranh đấu cho Phật Pháp và “đòi quyền bình đẳng tôn
giáo”
Tội nghiệp cho ba “ông lớn” của chính quyền một phen “rụng
tim”. Ba “ông lớn” thất sắc đưa mắt nhỉn nhau và đành lắc đầu chịu trận. Thiếu
Tướng Nghiêm cho rằng Thầy Trí Quang công kích chính quyền quá nặng, đang dự lễ
chả lẽ ông bỏ ngang ra về. Bài thuyết giảng của Thượng Tọa Trí Quang được Cơ
Quan An Ninh thu băng.
Khi tan lễ, Thiếu Tướng Nghiêm cũng như ông Đẳng và ông
Khương cùng kéo nhau đến tư dinh ông Cẩn và mỗi người lần lượt trình bày về nội
dung bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang. Ông Cẩn thắc mắc nói với mọi người:
“Tại sao Thầy Trí Quang lại cư xử với mình như vậy ?” Có thể nói, ông Cẩn ngạc
nhiên về bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang. Lúc đầu nghe nói ông vẫn
không tin “làm gì có chuyện đó”. Mãi lúc sau khi nghe hết cuộn băng, ông Cẩn chỉ
lắc đầu, than như bọng.
Về phía đồng bào Phật Tử tinh thần bỗng lên cao và càng thêm
hăng say nhờ bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang.
Theo Nguyễn Hữu Cang, sau khi nghe Thượng Tọa Trí Quang thuyết
pháp như vậy, anh cũng như bạn bè anh và nhất là giới Phật Tử lao động và học
sinh, sinh viên bỗng nhiên cảm thấy phẫn uất và thấy cần phải làm một cái gì.
Cơn giông tố bắt đầu nổi lên.
Vào khoảng 7 giờ 30, đồng bào tụ tập tại Chùa Từ Đàm chen
chân không nổi. Bỗng nhiên ban tổ chức cho biết, chương trình được thay đổi và
không có đốt pháo bông như đã dự định.
Đồng bào được mời về tập trung tại Đài Phất Thanh phía cầu
Tràng Tiền. Ban tổ chức cho biết đồng bào hãy tập trung quanh vùng Morin, để
đón đoàn xe hoa từ Đà Nẵng ra tham dự. Đồng bào Phật Tử lại chen nhau đổ xô về
địa điểm đã định. Ai nấy đều nao nức, mong chờ đoàn xe hoa từ Đà Nẵng tiến ra.
Tại Đài Phát Thanh, ông Quản Đốc Ngô Ganh đang sửa soạn để
phát chương trình Lễ Phật Đản vào lúc 8 giờ 15. Chương trình đã thu thanh từ
trước và đã được kiểm duyệt theo thể lệ chung. Linh tính cho ông biết có lẽ sắp
có chuyện gì chẳng lành. Đồng bào tập trung quanh Đài Phát Thanh đông quá sức
tưởng tượng. Nhân viên của đài vẫn yên trí làm việc vì cho rằng đồng bào đến để
nghe phát thanh chương trình đặc biệt về Lễ Phật Đản, giản dị chỉ có thế thôi.
Nhưng sau đó, có mấy ông Thượng Tọa, Đại Đức và một số thanh
niên Phật Tử vào thẳng văn phòng ông Quản Đốc yêu cầu được thay đổi chương
trình phát thanh. Thay vì cho phát thanh chương trình đã được thu thanh kiểm
duyệt, Ban Tổ Chức yêu cầu ông Quản Đốc cho truyền thanh trực tiếp buổi lễ ban
sáng kể cả bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang mà ban tổ chức đã thu băng.
Quản Đốc Ngô Ganh từ chối với lý do ông chỉ được phép cho truyền thanh những cuộn
băng nào đã được kiểm duyệt còn vấn đề trực tiếp truyền thanh buổi lễ thì ông
không thể thỏa mãn. Ban tổ chức cương quyết đòi hỏi phải được truyền thanh theo
chương trình trong cuốn băng của Ban Tổ Chức. Bên ngoài Phật Tử và đồng bào tập
trung mỗi lúc một đông và tựa như từng lớp sóng người trong vùng biển động.
Ngô Ganh điện thoại cho từng cấp liên lạc để báo cáo sự tình.
Đôi bên vẫn dằng co.
Về phía chính quyền từ lúc 5 giờ chiều, Cơ Quan An Ninh đã nhận
được nguồn tin mật là tối nay các Thày sẽ làm áp lực buộc Đài Phát Thanh phải
cho trực tiếp truyền thanh cuộn băng ghi lời thuyết pháp ban sáng của Thượng Tọa
Trí Quang. Thiếu Tá Đặng Sỹ Phó Tỉnh Trưởng Nội An đi tìm ông Tỉnh Trưởng để tường
trình nội vụ. Nhưng ông Sỹ không làm sao tìm ra ông Đẳng. Ông Sỹ cho người đến
nhà vợ nhỏ ông Đẳng cũng không thấy ông đâu.
Cuối cùng Thiếu Tá Sỹ đến văn phòng ông Cẩn thì lúc ấy ông Lê
Văn Đạm (Đổng Lý Tòa Đại Biểu) và ông Đẳng cũng vừa tới. Ông Sỹ trình bày qua
loa về hiện tình, ông Đẳng cho biết ông đã gặp Thượng Tọa Trí Quang và nói: “cứ
yên trí không có chuyện gì đâu. Sau đó hai ông Đạm và ông Đẳng vào gặp riêng
ông Cẩn. Ông Cẩn cho rằng: “Nếu có rứa thì sao bây chừ...vậy cố gắng sao nói với
Thầy Trí Quang bỏ qua đi”.
Tình hình Đài Phát Thanh lúc ấy hết sức căng thẳng. Đồng bào
Phật Tử đã tràn vào tới sân, nhiều tiếng la lối, hò hét. Ngô Ganh gọi điện thoại
cho Thiếu Tá Sỹ cầu cứu. Thiếu Tá phải can thiệp gấp, họ chiếm Đài bây giờ đây
này. Rồi cứ năm phút Thiếu Tá Sỹ lại nhận được điện thoại của Ngô Ganh. “Thiếu
Tá không an thiệp gấp thì họ chiếm Đài, họ giết tôi đó”. Ông Sỹ cũng không biết
làm thế nào, đành trấn an Ngô Ganh: “Anh cứ yên trí, không sao đâu, tôi ra
ngay”. Sự thực lúc ấy Thiếu Tá Sỹ cũng như văn phòng ông Cẩn cũng chưa biết giải
quyết như thế nào cho êm đẹp.
Tình thế quá gấp rút, ông Nguyễn Văn Đẳng bảo Thiếu Tá Sỹ
“bây giờ chỉ còn cách giải tán, Thiếu Tá lo dùm tôi đi”.
Ông Sỹ trả lời: “Tôi làm ngay nhưng ông Tỉnh Trưởng cho lệnh
đã”. Ông Đẳng có vẻ mất bình tĩnh. Tin tức cho biết, Đài Phát Thanh có thể mất
đến nơi. Ông Đẳng bảo Thiếu Tá Sỹ “Thiếu Tá lo gấp dùm tôi. Ký một giấy chứ
hàng trăm giấy tôi cũng ký”. Thiếu Tá Sỹ ngần ngại: “Tôi thi hành lệnh giải tán
với tư cách nào ? Phó Tỉnh Trưởng Nội An hay Tiểu Khu Trưởng ?” Ông Đẳng chưa
biết trả lời sao thì ông Sỹ giải thích: “Nếu với tư cách Phó Nội An thì tôi chỉ
có một ít Cảnh Sát, Công An và hai Đại Đội Địa Phương Quân”. Ông Đẳng vui vẻ: “Thiếu
Tá thi hành theo tư cách Tiểu Khu Trưởng đi”. Ông Đẳng không quên vấn đề giấy tờ
và nói: “Thiếu Tá về Tiểu Khu làm giấy tờ đi rồi tôi ký sau”. Theo Dụ 57. Tỉnh
Trưởng ngoài chức Trưởng Hành Chính còn giữa trách nhiệm Trưởng An Ninh lãnh thổ.
Như vậy, giải tán cuộc biểu tình tại Đài Phát Thanh đều thuộc thẩm quyền tối
thượng của Tỉnh Trưởng Thừa Thiên.
Sau khi nhận lệnh của ông Đẳng, Thiếu Tá Sỹ gọi điện thoại về
Đà Nẵng trình nội vụ lên Thiếu Tướng Nghiêm Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật. Tướng
Nghiêm tỏ vẻ lo lắng và ra lệnh cho ông Sỹ “Anh phải lo giải tán ngay còn chần
chờ gì nữa...Nếu họ chiếm được Đài Phát Thanh việt cộng nó lợi dụng phá Đài rồi
làm sao đây ?” Thiếu Tá Sỹ trình bày: “hiện nay Tiểu Khu Thừa Thiên không có đủ
phương tiện, xin Thiếu Tướng cho phương tiện”. Thiếu Tướng Nghiêm đồng ý cho Tiểu
Khu Thừa Thiên được sử dụng phương tiện thuộc khu và vùng chiến thuật đặt dưới
quyền Tư Lệnh của Thiếu Tướng Nghiêm.
Như vậy là đã có sự đồng ý của ông Vùng. Thiếu Tá Sỹ gọi điện
thoại xin lệnh của ông Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu XI Chiến Thuật.
Đại Tá Đỗ Cao Trí đã bay về Sài Gòn từ chiều và chỉ còn Trung Tá Lê Quan Hiền
Tư Lệnh Phó. Sau khi trình bày nội vụ, Thiếu Tá Sỹ xin lệnh và ý kiến thì Trung
Tá Hiền sốt sắng đồng ý ngay: “Tôi cho anh sử dụng Đại Đội Thiên Hổ” Đại Đội trừ
bị của Sư Đoàn I nổi tiếng là thiện chiến do Thiếu Úy Phú làm Đại Đội Trưởng.
Thiếu Tá Nguyễn Hộ Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn cũng có mặt tại chỗ. Bộ Tư Lệnh cũng
đồng ý để ông Sỹ sử dụng lực lượng trừ bị của Sư Đoàn. Thiếu Tá Nguyễn Hộ bảo
ông Sỹ: “Anh cứ làm đi, Thiếu Úy Phú đến trình diện anh ngay bây giờ”.
Thiếu Tá Sỹ lại gọi điện thoại cho Thiếu Tướng Nghiêm báo cáo
diễn tiến của nội vụ. Ông nghiêm ra lệnh: “Phải lo giải tán gấp đi. Tôi cho anh
Đại Đội khóa sinh C1 và một Đại Đội Thiết Giáp đang hành quân tại Phú Lộc” Hai
Đại Đội này đều trực thuộc cấp vùng. Thiếu Tá Sỹ trở về Tiểu Khu Thừa Thiên và
gọi điện thoại cho Thiếu Tá Vĩnh Biểu (Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Phú
Bài): “Anh cho tôi xin một Đại Đội, anh cho lên Tiểu Khu gấp, Thiếu Tướng đã
nói gì với anh chưa ?” Thiếu Tá Biểu xác nhận được lệnh của Thiếu Tướng Nghiêm
qua Đại Úy Thiết, Chánh Văn Phòng của Tư Lệnh Vùng I.
Thiếu Tá Vĩnh Biểu cho biết là Đại Đội khóa sinh C1 đang sửa
soạn lên xe trực chỉ Tiểu Khu. Kể từ lúc này Thiếu Tá Sỹ đã có một lực lượng
khá hùng hậu gồm Đại Đội Thiên Hổ, Đại Đội C1, Đại Đội Quân Trấn, Chi Đội cơ giới
Bảo An (do Trung Úy Kỳ chỉ huy, sau năm 63 ông Kỳ bị bắn chết một cách rất ly kỳ
sẽ nói vào đoạn sau) Đại Đội Thiết Giáp và một số Hiến Binh Quân Cảnh thuộc
Quân Trấn.
Bộ Tham Mưu của ông Sỹ có mặt Đại Úy Lê Nguyên Phu (Tiểu Khu
Phó) Đại Úy Nguyễn Kinh Lược (Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An) Đại Úy Lê Duy Hiền (Tham
Mưu Trưởng).
Tuy đã nhận được lệnh đầy đủ từ ba phía liên hệ (Tỉnh Trưởng,
Vùng, Khu Chiến Thuật) ông Sỹ cũng như các sĩ quan hiện diện đều băn khoăn do dự.
Riêng ông Sỹ lại khó xử hơn cả vì ông mắc vào hai cái kẹt: Là một tín đồ Thiên
Chúa Giáo, gia đình bên vợ lại là Phật Giáo (bà mẹ vợ ông Sỹ thuộc hàng tu tại
gia và thọ giới trai). Các sĩ quan hiện diện đều đồng ý là phải hết sức thận trọng,
đây là vấn đề thuộc phạm vi tôn giáo vì dù có giải tán một cách êm đẹp cũng vẫn
bị mang tiếng là đàn áp. Nếu thất bại để mất Đài Phát Thanh thì hậu quả sẽ
không biết như thế nào.
Các đơn vị đã tập hợp đầy đủ tại sân tiểu khu, ông Sỹ ra trước
hàng quân giải thích cho Quân Nhân các cấp rõ và ra lệnh dùng súng Garant tay cầm
ngang trước mặt và chỉ lấy sức mạnh xô đồng bào, tuyệt đối không được dùng lưỡi
lê đâm và cũng không được phép nổ súng. Bộ Tham Mưu chọn 10 người và chỉ 10 người
này mới được phép bắn. Đại Úy Lược lưu ý: Chỉ được bắn chỉ thiên mà thôi. Khi
nào nghe thấy Thiếu Tá báo hiệu lệnh thì mới được nổ. Ngoài 10 người đã được chỉ
định không có 1 Quân Nhân nào được phép sử dụng đạn nổ. Bộ Tham Mưu lại chọn 15
Quân Nhân khác, phân phối cho 15 địa điểm và mỗi Quân Nhân được phát một trái lựu
đạn MK3. Đây là lựu đạn thuộc loại huấn luyện có mục đích làm cho tân binh quen
với tiếng nổ. Lựu đạn MK3 cũng dùng khi tấn công địch nhưng MK3 không có tác dụng
giết người và nếu đứng gần chỗ nổ sẽ chói tai long óc và có thể bị thương nhẹ.
Đại Úy Phu nhắc lại lệnh của Thiếu Tá Sỹ: “Các anh em sử dụng
lựu đạn phải nhớ hai tiêu chuẩn: 1 chỉ ném khi có súng lệnh của Thiếu Tá, 2 chọn
nơi nào không có người mới được ném thí dụ như ném vào bãi cỏ, gốc cây”.
Trong khi Bộ Tham Mưu của Tiểu Khu còn đang bàn thảo kế hoạch
đối phó thì Đài Phát Thanh bắt đầu lâm nguy trầm trọng. Gạch đá bay vun vút.
Trung Tá Thưởng, Giám Đốc Nha Công An Tỉnh Ngành Tư Pháp gọi điện thoại cho Thiếu
Tá Sỹ, giọng bẳn gắt : “Anh còn chần chờ gì nữa...Anh giải tán ngay đi. Tình
hình nguy lắm rồi”. Thiếu Tướng Nghiêm từ Đà Nẵng gọi điện thoại hỏi tình hình
và ra lệnh cho ông Sỹ: “Việc đã gấp rồi giải tán thì giải tán ngay đi, còn chần
chờ gì...”
Ông Ái và mấy Sĩ Quan Tham Mưu nhìn nhau, do dự...Ai cũng
ngán.
Đợt thứ nhất, ông Sỹ cho sử dụng xe phun nước nhưng vô hiệu.
Đồng bào đông quá và nhấp như biển động trong cơn giống tố. Đợt thứ hai, ông Sỹ
cho hai Tiểu Đội Quân Cảnh, một Tiểu Đội Hiến Binh và khoảng 20 nhân viên Cảnh
Sát. Nhưng cũng vô hiệu. Đám quần chúng càng ngày càng bị khích động và đang
như trong cơn lên đồng.
Ông Quản Đốc Ngô Ganh kêu cứu trong sự tuyệt vọng: Đài mất đến
nơi rồi họ giết tôi bây giờ đây nè. Thiếu Tá can thiệp gấp.
Đợt thứ 3: Thiếu Tá Sỹ cho 2 Trung Đội ra đi tiến theo đội
hình ngang cùng với ba xe phóng thanh kêu gọi đồng bào giải tán, gạch đá bay
vun vút hàng ngàn tiếng la ó, đả đảo, hoan hô.
Ông Nguyễn Văn Đẳng bắt đầu mất tinh thần. Quần chúng làm dữ
quá. Gạch đá ném tới tấp vào cửa Đài Phát Thanh. Ông nói với Thượng Tọa Trí
Quang “Thầy dùng micro, Thầy nói dùm như thế này nguy hiểm quá”. Thầy Trí Quang
ngần ngại: “Bây giờ tôi phải nói với Phật Tử sao đây?” Đám đông vẫn cuồn cuộn
như thủy triều dâng cao. Thầy Trí Quang ra trước cửa Đài, lên tiếng trấn an đám
đông, đại cương: “Phật Tử cứ bình tĩnh, mọi việc Thầy đang tìm cách giải quyết”...Nhưng
lời Thầy Trí Quang cũng vô hiệu.
Đám đông làm dữ quá. Một Nhà Sư trẻ đã nhẩy lên được nóc Đài
Phát Thanh và cắm cờ Phật Giáo. Khi Thượng Phật kỳ xong đám đông càng thêm phấn
khởi hô to vang dội. Từ lúc đó, chung quanh Đài Phật Kỳ bay rợp trong ánh sáng
như vùng hào quang đêm hoa đăng. Biển người nhấp nhô chuyển động và bắt đầu như
con thuyền trăm lái. Đám đông này sẽ vỡ như ong vỡ tổ. Một số ít nhân viên công
lực đành khoanh tay và lúc ấy đám đông đang làm chủ tình hình. Khi đám đông bộc
phát trong ngọn lửa của nhiệt tình tôn giáo thì thiết tưởng không có gì chế ngự
được. Lúc ấy họ chỉ biết vâng phục một thứ thần quyền qua ngọn cờ tôn giáo.
Quản Đốc Ngô Ganh cũng như Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng gần
như mất hết bình tĩnh. Lúc ấy nhà cầm quyền phải triệu thỉnh Thượng Tọa Trí
Quang, Thượng Tọa Trí Quang tuy có kêu gọi Phật Tử phải nên bình tĩnh nhưng đám
đông mỗi lúc một thêm cuồng nhiệt.
Trung Tá Thưởng tỏ ra vô cùng lo ngại nên một lần nữa điện
thoại cho Thiếu Tá Sỹ hối thúc: “Anh còn đợi gì nữa? Anh còn chần chờ gì nữa?
Anh còn chần chở gì nữa mà không bắt đầu đi”. Dù ông Sỹ đã cho hai Tiểu Đội
Quân Cảnh cùng Hiến Binh và Cảnh Sát đi giải tán nhưng họ khoanh tay không thể
làm gì được hơn. Trung Tá Thưởng phải thân hành đến Quân Trấn hối thúc ông Sỹ.
Thiếu Tá Sỹ cho hai Trung Đội tiến ra theo đội binh hàng ngang.
Kể từ lúc đó, đồng bào Phật Tử cũng bắt đầu lo việc bố phòng... Các xe đạp được
đưa chắn ngang đường. Thanh niên Phật Tử lẫn lộn bên cạnh các bà các cô và thiếu
nhi để tạo thành vòng rào ngăn chặn nhân viên công lực.
Từ trên nóc Đài Phát Thanh một Nhà Sư trẻ cầm chiếc loa kêu gọi
Phật Tử hãy tiến lên không sờn lòng trước bạo lực. Nhà Sư lại nhấn mạnh là đang
có Sư Đoàn từ Đà Nẵng tiến vào để hỗ trợ cho cuộc đấu tranh vì Đạo Pháp. Nhà Sư
vừa dứt lời, đám đông bỗng náo nhiệt hẳn lên nhiều tiếng la ó hoan hô vang dậy.
Tại Tiểu Khu Thiếu Tá Đặng Sỹ duyệt xét kế hoạch lần cuối
cùng với các sĩ quan như Đại Úy Phu, Đại Úy Lược, Trung Úy Kỳ. Ông Sỹ quyết định
dùng xe cơ giới của Bảo An (thứ có 4 bánh xe cao lênh khênh) để mở đường lính
tiến theo sau xe. Một sĩ quan cho rằng dùng xe mở đường rất hay, đồng bào thấy
xe đạp bị cán sẽ sót cũng do đó sẽ tự động vác xe lên hè phố, như thế binh sĩ mới
có thể tiến được, ý kiến quả hiệu nghiệm khi xe của Thiếu Tá Sỹ tiến lên. Theo
Trung Sĩ Quang (thuộc Tiểu Khu Thừa Thiên) thì xe đi với một tốc độ như rùa.
Xe tiến gần đến đâu thì đồng bào đổ xô ra đường vác xe lên hè
phố. Ai cũng biết dân Miền Trung nghèo khổ, nên chiếc xe đạp luôn là một bảo vật.
Nhờ vậy cuộc tiến quân diễn ra êm thắm. Tuy nhiên theo ông
Nguyễn Nghiễm khi đồng bào thấy xe và lính thì không khí tranh đấu bỗng dưng
bùng lên cực mạnh. Bao nhiêu con mắt đều đổ dồn về ông Sỹ, phía ông Sỹ có nhiều
tiếng chửi thề. Có Phật Tử gọi đích danh ông Thiếu Tá Sỹ mà chửi bới. Thế rồi gạch
đá guốc vỏ la ve bay như bướm. Theo ông Nguyễn Nghiễm lúc ấy tinh thần đồng bào
lên quá cao.
Chính Nguyễn Nghiễm cũng có cảm tưởng như mình như mình đang
dự vào cuộc thánh chiến và sẵn sàng xả thân cho đạo pháp. Cho đến lúc ấy chương
trình phát thanh vẫn ngưng bặt và chỉ còn tiếng la ó của đám đông. Mô tả đám
đông này, ông Nguyễn Nghiễm cho rằng chưa có Lễ Phật Đản nào (trước năm 63) lại
đông người và phấn khởi như vậy.
Trên xe, Thiếu Tá Sĩ mặc áo giáp cùng với 2 Hạ Sĩ Quan là
Trung Sĩ Tư và Quang... Gạch đá ném lên xe nhiều quá nhưng vì có mũ sắt và áo
giáp nên không ăn nhằm gì. Ông Sỹ vẫn cho xe tiến từ từ...
Cùng với Trung Úy Kỳ, Chi Đội Trưởng cơ giới Bảo An. Xe tiến
đến đâu thì đồng bào dạt ra hai bên đường, trông cảnh tượng rất ngộ. Dù chạy
thì chạy nhưng ai nấy không quên dắt theo xe. Ông Sỹ được một phen nghe chửi
rát tai.
Trong khi đó, ba xe phóng thanh của Ty Thông Tin luôn luôn
kêu gọi đồng bào giải tán. Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo của ông Cẩn lại có vẻ bình
thản vì không ai ngờ thảm họa sẽ xảy ra. Cho đến lúc ấy Văn Phòng của ông Cẩn
không có một liên lạc nào với Trung Ương. Từ Thiếu Tướng Nghiêm đến ông Hồ Đắc
Khương ông Cẩn và Bộ Tham Mưu ai cũng chỉ lo sợ một điều duy nhất là Đài Phát
Thanh bị chiếm và một khi bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang được phát
thanh thì coi như một tai họa không nhỏ cho mấy ông lớn vì bài thuyết pháp đó
như trên đã viết công kích chánh quyền mạnh quá và tất cả đều sợ trách nhiệm đối
với Tổng Thống.
Thực nếu không sử dụng Quân Đội thì lực lượng an ninh của
Thành Phố Huế không thể nào giữ nổi Đài Phát Thanh. Ai có mặt trong đêm 8.5.63
mới thấy rõ sức mạnh của quần chúng. Sức mạnh đó khi được khơi động bằng lý tưởng
tôn giáo và được hướng dẫn bởi một số huyền thoại lãnh tụ thì đó là sức mạnh của
giông bão.
TIẾNG NỔ RUNG CHUYỂN CẢ NƯỚC
Chiếc xe cơ giới của Thiếu Tá Sỹ tiến đến gần Đài Phát Thanh
khoảng 50 thước. Bỗng có một tiếng nổ kinh hồn và tiếp theo một tiếng nổ khác.
Lúc ấy là 10g30.
Xe của ông Sỹ quay khựng lại, một Hạ Sĩ Quan la lớn: “nổ Thiếu
Tá coi chừng việt cộng Thiếu Tá. Ông Sỹ rút Colt 12 cầm tay, nói qua máy “nghe
đây, nghe lịnh đại bàng đây”.
Theo sự mô tả của một số sĩ quan có mặt ở gần Đài lúc đó thì
tiếng nổ làm rung chuyển tất cả, thứ ánh sáng từ phía nổ phát ra giống như một
tia xét và trong đời binh nghiệp của họ thảy đều chưa nghe thấy một tiếng nổ
nào lạ tai như vậy.
Sau tiếng nổ, ông Nguyễn Nghiễm cho biết cảnh tượng trở nên
vô cùng hỗn loạn trong sự kinh hoàng. Đồng bào xô đẩy nhau tìm đường thoát
thân. Bao nhiêu tiếng khóc kêu la. Các đường chung quanh Đài Phát Thanh vốn nhỏ
hẹp lại càng thêm tắc nghẽn. Đồng bào bỏ cả xe, guốc dép và tìm cách thoát
thân. Trẻ con đàn bà khóc như di. Ông Nguyễn Nghiễm đứng cách chỗ nổ 50, 60 thước,
cảm tưởng của ông lúc ấy giống như người bị mất trí người thì ngất ngư, hai con
mắt hoa lên, tay chân luống cuống không biết chạy đi đâu.
Sau hai tiếng nổ đầu, khoảng 4, 5 phút sau ông Nguyễn Nghiễm
nghe thấy ba, bốn tiếng súng lục từ phía xe của Thiếu Tá Sỹ và tiếng la lối của
mấy Quân Nhân trên xe. Ông Nguyễn Nghiễm thấy tức nơi ngực ông chạy khỏi Đài một
quãng khá xa mới dừng lại. Anh Nguyễn Hữu Cang chạy thoát qua cầu Tràng Tiền.
Khi tiếng nổ xảy ra, Nguyễn Hữu Cang ở ngay gần Đài. Tiếng nổ lớn quá làm anh
xây xẩm và lảo đảo. Một mảng thịt người văng tung vào mặt Nguyễn Hữu Cang cho đến
nay Nguyễn Hữu Cang vẫn không thể xóa nhòa được cái cảnh tượng bị thương hôm ấy.
Trong khi đồng bào xô đẩy nhau chạy thoát thân, đồng bào luôn
luôn được nghe tiếng người ta hô hoán: “Chạy lẹ đi, nó bắn chết hết bây giờ” hoặc
những tiếng la lối như “Bà con chạy lối ni...đồng bào đứng về lối nới...Đặng Sỹ
nó đang cho xe cán đồng bào ở đằng nớ...”
Đám đông quần chúng đã hỗn loạn lại càng thêm hỗn loạn.
Về phía Thiếu Tá Sỹ, khi nghe hai tiếng nổ, ông hét lên qua
máy nói: “việt cộng phá Đài, nghe tôi. Nghe tôi đại bàng đây việt cộng phá
Đài”.
Lệnh trên được truyền ra thế là 10 tay súng được chỉ định từ
trước đều dơ cao nòng súng lên không trung và nhả đạn. Họ chỉ được phép bắn chỉ
thiên mà thôi. Đồng thời lúc đó, các Quân Nhân sử dụng lựu đạn MK3 cũng đồng loạt
cho nổ qua 15 địa điểm khác nhau. Có anh ném
MK.3 xuống phía bờ sông, có anh ném trong sân trường Văn
Khoa, có anh ném ngay gần phía Câu Lạc Bộ Thể Thao.
Quân Đội bắt đầu chuyển dịch và bắt tay vào hành động. Xe của
Thiếu Tá Sỹ đứng trước Đài. Chao ơi cảnh tượng thê lương chưa từng thấy! Không
một xác chết nào được toàn thây. Có nạn nhân đầu bị thổi bay cách Đài cả chục
thước, cẳng giò cũng bay đi đâu mất tiêu, ruột gan phèo phổi bay lên cả cành
cây, tung tóe khắp nơi, tất cả cửa kính của Đài bị bay đi hết. Cảnh tượng ấy
theo những người chứng kiến, có thể nói không bút nào tả hết được sự thê lương.
Tiếng nổ đó không do mảnh (écletements) mà chỉ do hơi (soufflement). Sức hơi ép
ước khoảng tương đương với 5 kilo thuốc nổ TNT. Nạn nhân chết không do mảnh mà
do hơi ép. Sức hơi ép ấy là cho nạn nhân tan xác. Trung Sĩ Tư tiến đến cách Đài
30 thước bỗng dừng khựng lại hô thất thanh: “Bớ đầu người ta đây nè” Một chiếc
đầu nạn nhân ở ngay dưới chân ông ta. Theo ông Tư chiếc đầu người đó không còn
là đầu người nữa. Ông chỉ thấy hàm răng dính vào một mảng thịt.
Một loạt liên thanh nổ lên trời. Thiếu Tá Sỹ colt 12 cầm trên
tay, mặt thất sắc nói không ra lời ông cố ra lệnh cho thuộc viên. “Coi chừng,
nó có thể tấn công Đài bây giờ”. Sau đó...ông Sỹ vào thẳng bên trong Đài. Vừa
trông thấy Thượng Tọa Trí Quang ông Sỹ đã mất bình tĩnh nói lớn: “Làm sao thế
này. Sao có người chết như thế này” Những người có mặt trong Đài lúc đó đều tỏ
ra lo sợ và mất hết tinh thần. Ông Đẳng mặt tái xanh ngơ ngác. Tai họa xảy ra bất
ngờ quả không một ai tưởng tượng nổi. Thượng Tọa Trí Quang cũng vậy thảy đều
không giữ được sự bình tĩnh, Thượng Tọa Trí Quang chắp tay vào nhau như nguyện
cầu nói trong cơn lo âu: “Tôi không ngờ lại xảy ra như thế này”. Thiếu Tá Sỹ bảo
Thượng Tọa Trí Quang: “Thầy phải chịu hết trách nhiệm về những hậu quả đã xảy
ra như thế này”. Ông Sỹ lại dằn giọng nhắc: “Tại sao lại xảy ra như thế này?”
Trung Tá Thưởng Giám Đốc Nha Công An Tư Pháp như không nén được cơn tức giận.
Ông lừ mắt nhìn mọi người rồi nói với Thượng Tọa Trí Quang: “Ông phải chịu hết
trách nhiệm” Ông Thưởng lại nói bâng quơ “Ai gây ra thì phải chịu hết trách nhiệm”
Lúc ấy, Thượng Tọa Thiện Minh đứng bên Thượng Tọa Trí Quang với một thái độ khá
ôn tồn và khiêm tốn nói với Thiếu Tá Sỹ cũng như Trung Tá Thưởng “Chuyện xảy ra
như thế này, thì không biết nói sao. Tôi xin chịu hết trách nhiệm”.
Lúc bấy giờ chung quanh Đài không còn một ai ngoài Quân Đội
và nhân viên công lực. Đồng bào đã chạy dạt sang bên kia cầu và đang tụ tập ở
phía Chợ Đông Ba khoảng 5, 7 trăm người. Những nạn nhân bị thương được di tản gấp
đến nhà thương Huế. Nạn nhân bị tử thương ngay lúc đầu không còn cách nào để nhận
ra, có bao nhiêu người nam hay nữ, già hay trẻ, vì như trên đã viết, nạn nhân
chết không tòa thây da thịt bay tứ tung.
Lúc ấy một viên chức Mỹ tìm cách đến đây để lo chụp hình quay
phim nhưng bị nhân viên công lực đuổi khỏi. Vợ chồng Bác Sĩ Wuff người Đức thuộc
Đại Học Y Khoa Huế tìm cách vào trong Đài xin để săn sóc nạn nhân nhưng bị từ
chối. Chính Bác Sĩ Wuff này nhanh tay chụp được mấy tấm hình, một vài chiếc xe
cơ giới của Bảo An lúc ấy đang đậu ngay trước đài (nội sáng 9.5 tấm hình này được
gởi về Sài Gòn và mấy ngày sau xuất hiện trên báo chí Tây Đức, Pháp, Mỹ. Một
chi tiết cần lưu ý năm 1965, ba Bác Sĩ Đức của Đai Học Y Khoa Huế trong đó có
Bác Sĩ Wuff chụp hình và ráp nối hình đêm 8.5.63 đều bị an ninh của Sư Đoàn I
dưới thời Tướng Nguyễn Chánh Thi làm Tư Lệnh, trong một cuộc hành quân tại Khu
Nam Đồng Khánh khám phá được tài liệu mật cho biết rằng 3 ba Bác Sĩ người Đức
trên đây đều là người Đông Đức vượt qua Tây Đức và là những điệp viên cộng sản
thuộc loại quốc tế. Nhưng lại có giả thuyết cho rằng họ thuộc loại gián điệp
đôi)
Khoảng 11 giờ đêm đồng bào Phật Tử lại nhốn nháo người thì lo
các Thầy bị bắt, người thì xôn xang không biết nạn nhân có phải vợ con mình
không. Đồng bào tìm cách vượt qua cầu Tràng Tiền tiến sang Đài Phát Thanh. Cầu
Tràng Tiền lúc đó ngổn ngang không biết bao nhiêu là guốc dép. Không khí bỗng
dưng lại xôi nổi. Một Phật Tử từ phía Đài sang bên Đông Ba kêu gọi đồng bào phải
có thái độ ngay vì các Thầy đã bị bắt hết rồi và xe tăng cán người ta chết nhiều
không biết bao nhiêu mà kể. Thế là trong cơn hăng say, một số đồng bào lại kéo
nhau qua Đài.
Ông Nguyễn Văn Đẳng lo âu lắm, bảo với Thiếu Tá Sỹ “Sự việc
đã xảy ra như vậy rồi, Thiếu Tá cứ an tâm, tôi sẽ trình với Tổng Thống về vụ này” Đám
đông tiến đến phía Đài bắt đầu sôi động, nhiều tiếng la ó. Thiếu Tá Sỹ thấy vậy
chạy vào mời Thượng Tọa Trí Quang ra coi và nói: “Thầy nhìn kìa, bây giờ
mà còn làm tới nữa. Thầy bảo họ về ngay đi, đừng làm cái trò đó nữa”. Thượng
Tọa Trí Quang vui vẻ nhận lời và nói với các Phật Tử: “Các con cứ về đi.
Các Thầy không có sao cả” Đám đông nghe theo lời tự động kéo về nhưng
trong lòng rất giao động, bất mãn và ai cũng nóng muốn tìm hiểu xem đã có bao
nhiêu nạn nhân bị gục ngã.
AI LÀ THỦ PHẠM
Giới chức chính quyền Thừa Thiên bắt đầu lo sợ không biết giải
quyết như thế nào và thượng cấp sẽ tỏ thái độ ra sao. Hầu hết dều yên trí rằng
đây là một “coup montée” do cộng sản chủ động. Việc cấp thời lúc ấy là cho di tản
các nạn nhân bị thương vào bệnh viện.
Mặt khác nhân viên hữu trách cho người đi lượm từng mảnh thịt,
từng khúc xương từng bàn chân của nạn nhân bị tử nạn. Theo Đại Úy Minh trong số
nạn nhân này, có một thiếu nữ đã chịu phép rửa tội theo Đạo Thiên Chúa, Suốt
đêm 8 nhân chứng Nguyễn Hữu Cang cũng như ông Nguyễn Nghiễm và nhiều cán bộ Phật
Tử đã gần như thức trắng đêm vừa hoang mang vừa lo âu vừa căm tức chánh quyền
vì họ cho rằng chánh quyền đã gây ra vụ nổ đó. Lại có nguồn tin loan truyền
trong giới Phật Tử là Thiếu Tá Sỹ đã cho “đằn” Phật Tử và ném lựu đạn vào Phật
Tử.
Trong khi đó tại Bộ Tham Mưu Tiểu Khu từ Thiếu Tá Sỹ đến Đại
Úy Phu, Đại Úy Lược không dấu nổi lo âu. Người trong cuộc cũng không hiểu đầu
đuôi ra thế nào. Hai tiếng nổ từ đâu? Do ai ? Cảm tưởng đầu tiên của họ là bàng
hoàng. Tiếng nổ lạ tai quá cũng không giống plastic, lựu đạn lại càng vô lý.
Nhưng không ai có thể suy đoán ra được. Người nghe tiếng nổ đầu tiên là ông Sỹ
cũng như một số sĩ quan và binh sĩ trên cùng chiếc xe cũng như đi sau xe. Họ đều
bị chói tai và áp lực của tiếng nổ làm cho họ không còn phản ứng đầu và ngực
như bị một vật gì rất nặng đập ngang.
Có điều lạ là sáng hôm sau mấy ông Bác Sĩ Wuff đã có một số
hình ảnh về vụ nổ trong đó có tấm hình xe cơ giới đang “đằn” qua đồng bào Phật
Tử. Một số hình này Bác Sĩ Wuff trao cho Bác Sĩ Lê Khắc Quyến. Ngày 9, ông Quyến
cấp tốc về Sài Gòn.
Ai gây ra tiếng nổ? Trong phiên tòa xử Thiếu Tá Đặng Sỹ, các
chuyên viên quân cụ có dịp phân tích các loại chất nổ như M26, MK3... Giả thuyết
M26 đã bị loại giả thuyết MK3 mặc dầu tòa đặc biệt lưu ý, nhưng cuối cùng cũng
bị loại. Như trên đã viết MK có thể làm cho chết người được vì áp lực của hơi nổ
(Soufflement) nhưng tác dụng không thể nào đạt tới con số thương vong cao như vậy
nhất là trong một khoảng trống. Mà nơi phát ra tiếng nổ thì nền xi măng lại chỉ
mõm xuống không sâu bao nhiêu.
THỦ PHẠM MANG TÊN SCOTT
Mãi sau này, năm 1966 trong cuộc hành quân ở Nam Đồng, Đại Út
Scott (Cố Vấn của Tiểu Đoàn 1/3 Sư Đoàn I Bộ Binh từ năm 1965) mới cho biết về
một sự thật.
Dạo ấy năm 1965, Miền Trung đang bắt đầu sôi động và ngút
ngàn trong ngọn lửa Phật Giáo đấu tranh. Trong một buổi mạn đàm Đại Úy Bửu nói
chuyện trăng gió mây nước với Đại Úy Scott rồi hai người “bắt” qua chuyện Phật
Giáo tranh đấu. Đại Úy Scott nói đại cương:
- Phật Giáo Miền Trung sẽ không thành công trong vụ này. Ông
Bửu hỏi: “Tại sao không thể thành công?”
Đại Úy Scott đáp: “Phật Giáo không tạo được những yếu tố để
thành công như năm 1963”.
Đại Úy Bửu hỏi: “Đại Úy muốn nói yếu tố nào?”
Đại Úy Scott nói: “Những yếu tố không phải do Phật Giáo tạo
được”. Đại Úy Bửu: “Đại Úy muốn nói đến tiền bạc hay khí giới tinh thần”.
Đại Úy Scott đáp: “Khí giới tinh thần thì Phật Giáo có đấy chứ
nhưng không dễ gì thành công vì không được đồng minh ủng hộ”. Ông nói tiếp:
“Hoa Kỳ đã giúp cho Phật Giáo nhiều yếu tố để thành công trong vụ 1963”
Đại Úy Bửu nói: “Bây giờ Hoa Kỳ sẽ không còn giúp đỡ Phật
Giáo nữa” Đại Úy Scott: “Bây giờ thì tôi không biết nhưng vụ 1963 thì tôi biết
rõ”.
Đại Úy Bửu lấy làm ngạc nhiên tại sao một Đại Úy như Scott lại
có thể am tường nội tình Phật Giáo Việt Nam như vậy. Đương sự hỏi tiếp: “Năm
1963 Đại Úy ở đâu?” Scott không đáp thẳng vào câu hỏi và tựa hồ trong lòng ông
còn ẩn dấu bao nhiêu điều bí mật. Sau đó Scott tâm sự: “Tôi hiểu rõ Phật Giáo ở
đây, có thể còn hơn cả các anh. Tháng 5.63 tôi ở Đà Nẵng. Tôi trở ra Huế một
ngày trước khi xảy ra vụ nổ tại Đài Phát Thanh Huế”.
Đại Úy Bửu hỏi ngay: “Theo Đại Úy có phải việt cộng gây ra vụ
nổ đó không?” Scott đáp: “Chỉ có người nào ngây thơ mới tin như vậy”.
Đương sự hỏi luôn: “Như vậy thì Thiếu Tá Đặng Sỹ, Phó Nội An
cho nổ?”
Scott đáp: “Làm gì có chuyện đó, tội nghiệp cho ông ta. Bây
giờ ông ấy đang bị tù phải không?”
Đại Úy Bửu: “Hiện Thiếu Tá Sỹ đang bị cầm tù. Ông ấy bị kết tội
đã đàn áp Phật Giáo và làm chết 8 Phật Tử tại Đài Phát Thanh”.
Lời Scott: “Không ai nói thẳng sự thật để bênh vực ông ấy?”
Đại Úy Bửu hỏi: “Vậy anh có tin là Thiếu Tá Sỹ thủ phạm vụ nổ
tại Đài Phát Thanh Huế không?”
Đại Úy Scott nói: “Thiếu Tá Sỹ cũng chỉ là một nạn nhân”.
Hỏi: “Theo Đại Úy ai là thủ phạm trong vụ này?”
Đại Úy Scott lắc đầu nói, chuyện còn dài lắm. Tôi sẽ kể cho
anh nghe.
Trả lời tiếng nổ thuộc về loại nào. Đại Úy Scott nói: “Tại
sao người ta lại tin dó là tiếng nổ của Plastic việt cộng và lựu đạn của chính
quyền Việt Nam?”
"CÚ SCOTT"
Đại Úy Bửu chính là em họ bên vợ của Thiếu Tá Sỹ ông cố bám sát
Scott và tìm lời dọ hỏi xem đầu giây mối nhợ như thế nào. Lúc đầu Scott thố lộ
rằng chính người bạn của ông một nhân viên CIA đã làm vụ đó. Scott mô tả chất nổ
đó là một chất đặc biệt của Trung Ương Tình Báo Mỹ. Thể tích của nó không lớn
hơn bao quẹt và có riêng bộ phận để điều khiển. Bộ phận này sẽ “căn giờ” chừng
nào nổ.
Ít lâu nay, do nhiệt tâm tìm hiểu của Bửu, Đại Úy Scott đã
phanh phui tất cả sự thật, ông ta có lẽ vì “lương tâm” xúc động cho nên tâm sự
rằng chính mình đặt thứ khí giới đặc biệt đó tại Đài Phát Thanh.
Trở lại đêm 8.5 tại Đài Phát Thanh Huế: Những nhân chứng có mặt
tại đài đều xác nhận sự tàn phá của chất nổ thật kỳ lạ và ghê tởm. Thượng Tọa
Trí Quang cũng như Thiện Minh không dấu được sự lo âu và mất bình tĩnh.
Khi nghe tiếng nổ đầu tiên linh tính cho biết là đã có sự chẳng
lành. Đại Úy Minh, Chánh Văn Phòng của ông Ngô Đình Cẩn vội vã lấy xe cùng mấy
người khác chạy ra Đài. Theo Đại Úy Minh, cảnh tượng trước mắt ông thật thê
lương ông không thể dấu được xúc động. Mọi người lúc ấy (về phía chính quyền)
thì đều cho rằng cộng sản đã làm việc này gây xúc động. Phật Giáo thì cả quyết
là chính quyền.
Khoảng 1 giờ đêm mọi người kéo nhau về nhà ông Cẩn trong đó
có ông Nguyễn Văn Đẳng, Trung Tá Thưởng, Hoàng Trọng Bá, Hồ Đắc Trọng. Giờ ấy,
ông Cẩn đã lên giường nằm ngủ nhưng Đại Úy Minh vẫn vào phòng đánh thức ông cẩn
dậy. Cảm giác đầu tiên của ông Cẩn là mất bình tĩnh. Sự việc xảy ra thực không
ai ngờ nổi.
Scott hay ai cũng chỉ là một thứ thừa hành. Ai ra chỉ thị ?
Hoa Thịnh Đốn hay Tòa Đại Sứ hay ông Trùm CIA ? Hay Đại Tướng Richardson ? Dưới
thời Tổng Thống Kennedy, tổ chức Việt
Nam Task Force được coi như môt thẩm quyền mạnh nhất trước
các quyết định về Việt Nam do Hilsman cầm đầu. Ngay từ năm 62 Hilsman đã chủ
trương phải lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và người Mỹ phải có thái độ tích cực
hơn đối với các vấn đề Việt Nam có nghĩa là Mỹ phải trực tiếp can dự vào cuộc
chiến. Mỹ phải nắm quyền chủ động tại chiến trường Việt Nam. Hilsman không phải
là nhân viên tình báo chuyên nghiệp nhưng trong quá khứ ông là một cộng tác
viên đắc lực của CIA.
Hilsman thuộc phái trẻ và khuynh hướng tự do (ông đã công
khai chống đối Đại Sứ Nolting và chịu chi phối bởi một số ký giả Mỹ cho rằng Đại
Sứ Nolting quá nhu nhược đối với chính quyền Ngô Đình Diệm và cùng lên án
Nolting đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm mua chuộc). Đã từ lâu phe Hilsman chủ
trương thay thế Đại Sứ Nolting. Ông Nolting lại là một Nhà Ngoại Giao thuần
túy. Ngôn ngữ, cử chỉ của ông có vẻ Tây hơn là Mỹ. Ông bị ảnh hưởng văn hóa
Pháp khá sâu xa. Sự thật là lập trường của Đại Sứ Nolting là ủng hộ chính quyền
Ngô Đình Diệm và ông được coi là người Mỹ mềm dẻo nhất tại Việt Nam.
Năm 1963, phòng Trung Ương Tình Báo tại Tòa Đại Sứ Mỹ có vào
khoảng 50 nhân viên (sau năm 63 và cho đến nay, con số này đông vô kể) Đại Tá
Richardson là ông trùm CIA tại Việt Nam, lúc đó dưới quyền là ông Smith. Nhưng
Richardson lại tỏ ra đồng một lập trường với Nolting. Sau này Ông Nhu tố cáo Richardson
âm mưu đảo chánh, Ông Nhu đã tố sai tuy vậy Richardson bị cấp tốc thay thế. Ông
Nhu mất một CIA ủng hộ. Đó cũng là một sự tính toán lầm của Ông Nhu.
Nếu nói rằng CIA tại Tòa Đai Sứ Mỹ chủ động vụ nổ tại Đài
Phát Thanh thì không đúng. Nhưng CIA không phải chỉ ở Tòa Đại Sứ Mỹ và họ có những
đường giây (reseaux) hoạt động biệt lập với phòng CIA của Đại Tá Richardson và
chỉ trực tiếp với Hoa Thịnh Đốn. Do đó, “cú Scott” tại Đài Phát Thanh Huế cũng
chỉ là một cú “chơi lẻ” (coup isolé).
Ngay từ những năm 61, 62 nhân viên Trung Ương Tình Báo Mỹ đã
gài người trong nhiều cơ quan như USAID kể cả những tổ chức văn hóa giáo dục.
Nhờ vậy CIA đã thừa khả năng nhân sự để chơi những “coup lẻ”
tương tự như trên. Người ta tự hỏi rằng, hà tất gì CIA phải ra tay nhập cuộc
như vậy qua vụ nổ Scott tại Đài Phát Thanh Huế ? Câu chuyện thật dài dòng phức
tạp và khó có thể giải thích cho một vấn nạn trên đây nếu không căn cứ theo những
diễn biến trong cuộc bang giao Việt Mỹ 1964 cùng những toan tính của Mỹ trong
chiến lược của họ tại Việt Nam. Giới chức Mỹ nhất là phía CIA đã thuộc nằm lòng
phương thức này: “Những lãnh tụ Á Đông phải dùng bạo lực mới có thể đánh đổ họ
xuống được”. Một phương thuật sử dụng bạo lực của CIA không kém tinh xảo so với
phương thức của cộng sản.
Nhưng lúc ấy không ai ngờ CIA nhúng tay “tinh vi” như vậy và
người ta nhất định cho rằng cộng sản làm vụ này.
Riêng ông Cẩn trước cái họa như vậy và khi nghe tường trình nội
vụ rồi im lặng triền miên như đành bất lực không biết phải giải quyết như thế
nào. Theo Đại Úy Minh đã có ba ý kiến được nêu lên như sau.
1.- Đã xảy ra như vậy thì làm tới luôn. Sáng ngày 9, ban hành
lệnh giới nghiêm tại Thành Phố Huế. Đồng thời cô lập giữa Chùa Từ Đàm với các
cán bộ Phật Tử. Trong khi đó sẽ có Cơ Quan An Ninh sẽ truy lùng những thành phần
việt cộng khả nghi từ bấy lâu nay.
2.- Nếu không giải quyết theo cách một thì cấp tốc phải tìm tới
gia đình các nạn nhân để điều đình thu xếp ốn thỏa và bồi thường xứng đáng.
3.- Cách hai không đồng ý thì phải thương thuyết với mấy Thầy
ở Chùa Từ Đàm và nhờ các Thầy xoa dịu đồng bào Phật Tử và đồng thời sẽ bồi thường
nạn nhân một cách đầy đủ.
Cả ba phương thức giải quyết đưa ra ông Cẩn không tỏ một thái
độ nào rõ rệt. Ông Cẩn ra lệnh cho Tòa Đại Biểu đánh điện cấp tốc về Sài Gòn để
xin quyết định. Một việc sôi bỏng như vậy nhưng mãi hai ngày hôm sau Sài Gòn mới
phái ông Bùi Văn Lương Bộ Trưởng Nội Vụ ra Huế tìm cách giải quyết tại chỗ.
Trong số những phương thức được đưa ra để giải quyết có một
phương thức khá nguy hiểm. Hoàng Trọng Bá cho rằng, ngoài việc giới nghiêm toàn
thể vào ngày 9.5 (al) chính quyền phải cho mời ngay Thượng Tọa Trí Quang và Thiện
Minh vì ai cũng biết hai vị này là nòng cốt của Giáo Hội Phật Giáo Miền Trung.
Ý kiến như thế này: “Ông Cố Vấn (tức ông Cẩn) sẵn “hồ sơ tối mật” của hai ông
Thầy (ông Cẩn có thể dùng những hồ sơ đó như một điều kiện giao tế) và cho rằng
khi đã nắm được những “a tu” của mấy vị tất sẽ dễ dàng khu xử và những cái gọi
“bí ẩn” trong đời sống cá nhân cùng những hoạt động từ năm 1945-1955, ý kiến
trên căn cứ đó xin với ông Cẩn cho an ninh “mời” ngay hai Thầy lại sẽ đưa ra điều
kiện để dọa: Hồ sơ hai Thầy như thế, như thế, hoạt động quá khứ như vậy...như vậy.
Do đó, một là mấy Thầy bỏ qua nội vụ và để chính quyền lo việc bồi thường. Hai
là nếu không chính quyền sẽ bắt giữ rồi công khai hóa “hồ sơ tối mật” đã nắm giữ
từ dạo năm 56 trong khi đó chánh quyền sẽ dùng phương pháp phóng tài hóa thu
nhân tâm bồi thường nạn nhân xoa dịu Phật Tử, mua chược các Thầy khác”.
Ý kiến trên tuy có vẻ bá đạo nhưng Hoàng Trọng Bá tin chắc chắn
có hiệu nghiệm. Cuối cùng không được chấp nhận.
Sáng 9.5 Đại Úy Minh túc trực tại Văn Phòng Chỉ Đạo từ sớm.
Ông Cẩn chỉ thị tìm mọi cách giải quyết sao cho êm đẹp.
Về phía Phật Giáo tại Chùa Từ Đàm thì ngay đêm 8, sau vụ nổ,
nhiều Thượng Tọa cũng giao động không biết sự thể xảy ra như thế nào. Hầu hết đều
ngán thứ “uy quyền” trong tay ông Cẩn (trên thực tế uy quyền ấy đã suy giảm từ
năm 1961) cho nên không một Thượng Tọa Đại Đức nào đã bình tĩnh để trù tính kế
hoạch cho ngày hôm sau ngoại trừ một hai Thầy đã có mưu riêng.
Mấy Thượng Tọa lại lo sợ chính quyền sẽ áp dụng biện pháp mạnh.
Và có thể làm tan rã hàng ngũ mà đã dầy công xây đắp từ chục năm qua. Riêng
Nguyễn Nghiễm trong thâm tâm nghĩ rằng, sẽ có sự bắt bớ vào sáng mai và ông đã
trù tính trốn nếu sự thể không êm. Nhưng lại có một khuynh hướng tích cực khác
cho rằng, phải lợi dụng ngay biến cố này để làm lớn chuyện. Đây là cơ hội ngàn
năm một thủa. Đứng đầu khung hướng này là Thượng Tọa Thiện Minh.
Theo Nguyễn Nghiễm, Thượng Tọa Trí Quang tuy là người lên tiếng
và phát động đầu tiên (qua bài thuyết pháp) nhưng từ ngày 7 đến ngày 9 vai trò
của Thượng Tọa Thiện Minh mới là quan hệ và chủ động. Vì Thượng Tọa này có lập
trường dứt khoát cho rằng phải lợi dụng ngay biến cố đẫm máu kể trên để hướng đồng
bào Phật Tử về một đối tượng sống chết cho Đạo Pháp. Việc đầu tiên, nếu như
ngày 9 êm xuôi thì phải đứng lên. Thơi cơ đã đến.
Sáng 9.5, chính quyền lo sợ bên Chùa Từ Đàm sẽ làm tới, nên
ông Cẩn muốn dùng “tấm tình cố tri” với mấy Thầy để giải quyết. Song nội bộ Từ
Đàm tuy đoàn kết nhưng ý kiến rất phân tán, do dự và không ai ngờ phía ông Cẩn
lại mềm dẻo như vậy.
Trụ cột là ông Cẩn và chính quyền địa phương chỉ chờ đợi sự
giải quyết từ phía ông Cẩn thì ông Cẩn lại không có một quyết định nào. Mọi sự
đều nhờ Trung Ương. Suốt buổi sáng ngày 9, ông Cẩn rất bận rộn nào là tiếp Thượng
Tọa Trí Quang nào là tiếp các giới chức liên hệ. Ông Cẩn vẫn không tìm ra được
một phương thức nào thu xếp ổn thỏa. Một cách đơn giản nhất, ông Cẩn chỉ dùng
tiền mua chuộc những người liên hệ và mặt khác cho người tiếp xúc riêng với các
gia đình nạn nhân để giàn xếp.
Về phía Chùa Từ Đàm, chỉ cần một buổi sáng “tiếp xúc và hòa
hoãn” đã trắc nghiệm được phản ứng của chính quyền và thấy rằng, chính quyền
không dám làm tới, do đó cần phải bắt tay hành động. Việc đầu tiên là yêu cầu
chính quyền phải trả các nạn nhân về Chùa Từ Đàm để Nhà Chùa lo phần ma chay
chôn cất.
Lời yêu cầu này không được thỏa mãn vì phía ông Cẩn đã lượng
tính được hậu quả và biết thế nào cũng có biến chuyển rất nguy hiểm nếu phía Từ
Đàm tổ chức chôn cất nạn nhân.
Trong khi Huế còn đang dằng co dàn xếp thì tại Sài Gòn vẫn có
vẻ yên tĩnh lắng đọng. Tại Dinh Gia Long, khi nhận được tin về vụ nổ tại Đài
Phát Thanh Huế, Tổng Thống Diệm vẫn cứ yên trí rằng cộng sản len lỏi vào sách động
và gây tiếng vang để qui tội cho chính quyền đàn áp Phật Giáo.
Ngày 9 và 10, ông Tổng Thống vô cùng đăm chiêu, Nguồn tin và
báo cáo ngoại quốc nhất là Mỹ, Pháp đều không đồng nhất. Tổng Thống Diệm vẫn
đinh ninh câu chuyện sẽ giải quyết êm đẹp, không có gì đáng quan trọng gọi là đại
sự. Phía Phật Giáo tại Sài Gòn cũng chưa có một phản ứng nào khác hơn là xôn
xao bàn tán và cũng mới chỉ biết biến cố qua báo chí dư luận và nhất là bản tin
của đài VOA, BBC.
Tòa Đại Sứ Mỹ qua ngày 9, 10 vẫn giữ thái độ yên lặng dè dặt.
Ngay trong hành lãnh đạo Phật Giáo tại Huế cũng như Sài Gòn không có ai ngờ rằng
biến cố có thể lan rộng và trở thành cơn giông tố. Nếu như chính quyền Trung
Ương lúc đó có một quyết định dứt khoát để giải quyết cấp thời thì vụ Phật Giáo
cũng không nổ to và có thể thu xếp ngay từ buổi đầu.
Trước một biến cố như vậy, không thể giải quyết bằng đường lối
hành chánh, luật pháp và công quyền mà phải giải quyết bằng đường lối chính trị
với tính cách uyển chuyển, thích nghi và thông suốt của nó. Đằng này, Tổng Thống
Diệm lại chờ đợi giới chức Thừa Thiên báo cáo sau đó mới gửi ông Bộ Trưởng Nội
Vụ ra điều tra tại chỗ.
Biến cố tại Đài Phát Thanh Huế sẽ không thể bùng nổ to nếu
không có sự lợi dụng những mâu thuẫn giữa ông Ngô Đình Cẩn và Đức Cha Ngô Đình
Thục và nhất là nếu không có sự đổ dầu vào lửa của Tòa Lãnh Sự tại Huế. Một vài
Thượng Tọa thuộc phe “tích cực dấn thân” như Thượng Tọa Trí Quang, Đôn Hậu có
tình quen biết với ông Cẩn nên cứ làm tới trước hết không phải để “chơi” ông Cẩn
mà có ý biểu dương lực lượng cho Đức Cha Thục coi. Sau khi trắc nghiệm thấy có
thể làm tới được thì làm tới luôn. Lúc đầu, ông Cẩn lại chủ quan tin rằng:
Các Thầy Chùa Từ Đàm nể ông và vì tình riêng ông sẽ không làm
mạnh cho nên lập trường của ông Cẩn lúc đầu hết sức dè dặt và tìm mọi cách
thương nghị. Đêm 9 ông Cẩn tâm sự với mấy nhân vật cận thân như Đại Úy Minh,
Hoàng Trọng Bá, Hồ Đắc Trọng đại cương như sau: “Dù là cộng sản nó gây ra như vậy
thì mình cũng phải có trách nhiệm. Sáng nay Thầy Trí Quang gặp tui tuy Thầy ấy
có buồn phiền nhưng sau nói riết, Thầy ấy cũng vui vẻ nhận lời thu xếp” Thực tế
thì sáng 9.5, khi gặp ông Cẩn, Thầy Trí Quang cũng không có gì tỏ ra là quá
“găng”. Thượng Tọa Thiện Minh lại quá “thâm trầm” nên không ai rõ Thầy Minh muốn
gì sẽ làm gì nhưng Thượng Tọa Trí Quang có sự nóng tính và qua sự nóng tính đó
nhiều lần biểu lộ sự bất mãn về Đức Cha Ngô Đình Thục cùng sự hiện diện “quyền
uy” của Đức Cha tại Huế. Điều mà chính ông Ngô Đình Cẩn cũng tỏ ra khó chịu và
bất mãn. Bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang sáng 8.5 có ý nhắm vào Đức
Cha Thục hơn là chính quyền Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Cẩn.
Có nhẽ vì thế ông Ngô Đình Cẩn tỏ vẻ thờ ơ không lấy làm khó
chịu về bài thuyết pháp của Thượng Tọa Trí Quang và có nhẽ cũng tin rằng, mình
vẫn nắm được mấy ông Thầy nên ông Cẩn đã từ chối ngay đề nghị của Hoàng Trọng
Bá yêu cầu tung ra trước công luận một vài tài liệu “tổ chức” nọ. Tuy nhiên dù
có tung tài liệu đó ra và tài liệu đó đúng 10/10 đi chăng nữa thì quần chúng
đang hăng say cũng sẽ không tin tưởng gì vào tài liệu đó cuối cùng sẽ mang tiếng
là dùng sức mạnh của nhà nước để chụp mũ.
Trong khung cảnh và thực tại của Huế lúc ấy chính quyền Thừa
Thiên chỉ cần khôn khéo đôi chút thì đã dễ dàng xoa dịu được phản ứng nhất thời
của Phật Tử. Nhưng từ Tỉnh Trưởng đến Đại Biểu Chánh Phủ đã quá non nớt về
chính trị và chỉ là cấp thừa hành về hành chánh nên đành khoanh tay trong khi
đó phản ứng của quần chúng không được xoa dịu và càng ngày càng bị kích động do
những nguồn dư luận “giật gân”.
Ngày 10.5 ông Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ được phái ra Huế điều tra tại
chỗ. Theo thông lệ và “truyền thống” của những nhà hành chánh xứ ta thì công việc
điều tra đều tựa trên giấy tờ và nghe các cấp bộ hành chánh điều trần. Do đó,
ông Bùi Văn Lương vẫn lạc quan vì tình hình tại Huế không có gì trầm trọng, dân
tình như thường. Ông Lương tiếp xúc qua các giới liên hệ như ông Nguyễn Văn Đẳng
ông Hồ Đắc Khương, Thiếu Tá Sĩ, Trung Tá Thưởng, chính quyền vẫn giữ nguyên luận
cứ là cộng sản đã gây ra thảm cảnh này. Buổi trưa ngày 10 tháng 5, trên đường từ
Tòa Đại Biểu qua Dinh ông Ngô Đình Cẩn, ông Bộ Trưởng Bùi Văn Lương gặp đoàn biểu
tình khoảng vài trăm thanh thiếu niên, hàng ngũ lộn xộn. Đại Úy Minh trình bày
cho ông Bùi Văn Lương về “nội dung” thành phần đoàn biểu tình đó còn quá thưa
thớt và hỗn tạp. Nhưng nếu chỉ ở xa, chỉ nghe hai chữ biểu tình mà lại do Phật
Giáo đồ chủ trương thì cuộc biểu tình đó trở nên sôi nổi trong trí tưởng tượng
của riêng mỗi người. Riêng cuộc biểu tình ngày 5.10 giới an ninh báo cáo có ông
Phó Lãnh Sự Mỹ đi theo sau “quan sát”. Tất nhiên là ông đi trên vỉa hè. Sự hiện
diện của ông Phó Lãnh Sự Mỹ quả là một yếu tố kích động rất quan hệ, đầy ý
nghĩa. Nhưng chính quyền hồi đó vẫn còn tin tưởng quá nhiều thiện chí của ông bạn
Đồng Minh Mỹ. Phía Phật Giáo cũng vậy, khi thấy giới chức Mỹ ủng hộ cuộc tranh
đấu của mình, thì không ai nghi ngờ thiện chí của họ.
Cùng ngày phái đoàn của Bộ Trưởng Việt Nam ra Huế thì từ Chùa
Từ Đàm cũng tổ chức mít tinh và đưa ra một bản tuyên gồm 5 điểm. Bản Tuyên Ngôn
trở thành căn bản và đối tượng chính yếu của Phật Giáo năm 1963.
Với Bản Tuyên Ngôn như vậy kèm theo lời tường trình báo cáo của
ông Bộ Trưởng Bùi Văn Lương, Tổng Thống Diệm tỏ vẻ tức giận cho rằng phía Phật
Giáo đòi hỏi quá đáng. Ông Tổng Thống lại coi đây chỉ là một yêu sách của một
khuynh hướng Phật Giáo cực đoan, quá khích. Tìm hiểu các khuynh hướng Phật Giáo
tại Sài Gòn, ông Tổng Thống Diệm lại càng quyết định không thể nhượng bộ vì từ
ngày 10.15 tháng 6 giới lãnh đạo Phật Giáo Sài Gòn vẫn còn tiêu cực, tuy có phản
đối chính quyền qua bức công điện (cấm treo cờ) nhưng lại có vẻ hòa hoãn với
chính quyền và đạt chủ trương một giải pháp ôn hòa trung dung. Trong khi đó Tổng
Thống Diệm lại chỉ quyết định tìm hiểu và nói chuyện với các vị lãnh đạo tiêu
biểu qua Cư Sĩ Mai Thọ Truyền, Thượng Tọa Thích Thiện Hoa (Chùa Ấn Quang) và
Thượng Tọa Tâm Châu (Chùa Từ Quang).
Thực tế để giải quyết vấn đề vẫn là Huế mà chính quyền Sài
Gòn vẫn tin tưởng Huế không có gì đáng ngại. Sự thực hoàn toàn khác. Không khí
đấu tranh tại Huế bùng nổ vào ngày 8.5 lắng dịu sau đó nhưng đang âm ỉ như những
sóng ngầm. Chùa Từ Đàm đã qui tụ được một lực lượng quần chúng đáng kể và rất
đáng ngại đó là các thành phần các bạn hàng tiểu thương tại Chợ Đông Ba, các
anh em công nhân xe đò, xích lô đạp sau cùng một thành phần nòng cốt là các học
tăng tại Chùa Bảo Quốc, nơi mà các Thượng Tọa Trí Quang, Minh Châu đã được đào
tạo. Các học tăng trở nên một lực lượng sung yếu. Thêm vào đó là tập thể sinh
viên Huế. Mấy ngày đầu, tập thể sinh viên Đại Học Huế yên lặng và chỉ có sinh
viên Phật Tử tham dự, hơn nữa tháng 5 đã vào Hè và sinh viên đang dự thi. Nếu
như chính quyền giải quyết ngay mấy ngày đầu thì lực lượng trên khó lòng có thể
móc nối liên kết với nhau được. Qua ngày 12, khi thấy chính quyền không có đàn
áp và chỉ canh chừng, Huế bắt đầu vùng dậy và các lực lượng trên tự vốn nó phân
tán nay liên kết với nhau và cùng hướng về đối tượng tranh đấu cho 5 điểm trong
Bản Tuyên Ngôn. Huế bắt đầu chuyển động.
Phía Chùa Từ Đàm Huế thay đổi thái độ. Thượng Tọa Trí Quang gặp
thẳng ông Ngô Đình Cẩn để thu xếp với mục đích làm thế nào chính quyền Trung
Ương thu xếp trực tiếp với giới lãnh đạo Phật Giáo tại Huế mà không qua trung
gian đại diện Phật Giáo tại Sài Gòn.
Đề nghị này cũng hợp ý ông Cẩn, vì từ lâu ông Cẩn vẫn cho rằng
Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam phải là Miền Trung, Chùa Từ Đàm mới là đầu
não.
Các Thầy Chùa Từ Đàm khi được tin mấy Thượng Tọa Tâm Châu,
Thiện Hoa nhảy vào cuộc thì không khỏi lo ngại tiếng nói Phật Giáo Miền Trung sẽ
không được chính quyền Trung Ương tôn trọng. Sau khi đã công bố Bản Tuyên Ngôn
5 điểm, Chùa Từ Đàm đã nắm được nhiều yếu tố thuận lợi. Dù vậy cho đến ngày
15.5, khi Phật Giáo Sài Gòn làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân tại Đài Phát Thanh
Huế không hiểu từ một nguyên do sâu xa nào, các Thầy Chùa Từ Đàm bỗng nhiên
thay đổi thái độ và trở nên hòa hoãn, muốn “nói chuyện” với chính quyền. Ông
Ngô Đình Cẩn thỉnh cầu với Trung Ương yêu cầu điều đình trực tiếp với Huế qua
hai Thượng Tọa Trí Quang và Thiện Minh. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối
đề nghị đó. Điều này làm cho ông Cẩn bối rối, khó xử. Cùng ngày 15.5, một phái
đoàn Phật Giáo đại diện Nam Tông và Bắc Tông vào yết kiến Tổng Thống Diệm và đạo
đạt nguyện vọng. Kết quả là không đi đến đâu. Sài Gòn bắt đầu rục rịch bùng
lên.
Ngôi sao Tâm Châu bắt đầu ló dạng. Một Phong Trào Tranh Đấu của
Phật Giáo tại Sài Gòn có đủ yếu tố lớn mạnh và có đủ điều kiện để làm mạnh với
chính quyền.
Trong khi Huế, cái đinh của biến cố lại bắt đầu mờ nhạt,
không tạo được cơ hội để tranh thủ với chính quyền Trung Ương. Dù vậy, Huế vẫn
nắm căn bản “pháp lý” qua tổ chức Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam mà hội chủ là Hòa
Thượng Thích Tịnh Khiết.
Ngày 20.5, Hòa Thượng Hội Chủ đã đánh điện tín vào Sài Gòn và
một số Tỉnh báo tin để tâm tang và lễ cầu siêu cho các nạn nhân vụ nổ Đài Phát
Thanh. Đó cũng là cách lên tiếng. Phía Chùa Từ Đàm từ cuộc biểu tình ngày 10 đến
ngày 21 cũng đã tự hiểu được rằng dù đã có cán bộ và quần chúng, Huế không thể
đơn phương vận động được một Phong Trào chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Về
phía ông Cẩn qua trục giao liên Hà Thúc Luyện, Lê Trọng Quát, Lê Văn Nghiêm được
biết rằng các Thầy Từ Đàm tuy bên ngoài mạnh miệng tỏ ra cương quyết nhưng rất
muốn “thương thuyết” để bảo đảm chủ lực Huế. Chính quyền Trung Ương thì vẫn cố
chấp “chỉ nói chuyện” với đại diện Phật Giáo tại Sài Gòn. Do đó Thượng Tọa Trí
Quang đến gặp ông Cẩn rồi tự tay Thượng Tọa viết một lá thư gửi Tổng Thống Diệm
nhờ ông Cẩn chuyển giao. Nội dung lá thư thật hòa hoãn khiêm nhường.
Qua cuộc tiếp xúc giữa Thượng Tọa Trí Quang, giới Phật Giáo Từ
Đàm không đòi hỏi chính quyền phải thỏa mãn 5 điểm trong Bản Tuyên Bố. Trái lại
bên Từ Đàm đã hạ 5 điểm xuống còn 3 điểm và những điểm này đều có thể thỏa mãn
được như “yêu cầu chính quyền bồi thường một cách xứng đáng cho gia đình những
kẻ chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bù xứng đáng”.
Theo giới thân cận ông Cẩn thì nếu như chính quyền Trung Ương
gặp trực tiếp giới Phật Giáo Chùa Từ Đàm thì mọi việc thu xếp cũng không có gì
khó khăn. Tuy nhiên Phật Giáo Chùa Từ Đàm vẫn bị kích động qua một khuynh hướng
“cứ làm tới”. Cũng khuynh hướng này tuy chỉ là một thiểu số nhưng đã đóng góp
vai trò chủ động và lấn át những khuynh hướng ôn hòa. Thượng Tọa Minh bắt đầu
nao núng.
Sài Gòn chuyển động, dần dần trở thành trung tâm biến cố. Trước
hoàn cảnh này tuy, các Thầy Chùa Từ Đàm đứng trước bài toán:
1/ Phải làm mọi cách để có mặt tại Sài Gòn hoặc trực tiếp với
chánh quyền hoặc có thể nắm một phần chủ động trong những biến chuyển tại Sài
Gòn.
2/ Nếu không được như vậy tạm thời thỏa hiệp và thương nghị với
chánh quyền qua những đòi hỏi tối thiểu và nhượng bộ nhau.
Thực tế xuất hiện của Thượng Tọa Tâm Châu cũng như Cư Sĩ Mai
Thọ Truyền sẽ làm nghiêng ngả...nếu không nhanh tay hành động thì Phật Giáo Miền
Trung sẽ bị lép vế do đó nguyện vọng và đòi hỏi của Phật Giáo Miền Trung sẽ trở
thành cái cớ thúc đẩy những tập thể đứng lên lãnh “công đầu”. Bởi vậy bằng một
giá nào các Thượng Tọa Trí Quang, Thiện Minh cũng phải nắm lấy thế chủ động và
các vị này vẫn tin rằng ông Ngô Đình Cẩn sẽ bênh vực lập trường của Giáo Hội Phật
Giáo Miền Trung. Mà thực vậy, ông Cẩn tìm mọi cách thuyết phục Tổng Thống Diệm
“tiếp kiến” riêng một phái đoàn Phật Giáo Miền Trung. Nhưng ông Cẩn không còn đủ
tín nhiệm để thuyết phục bào huynh. Biến cố 8.5 tại Huế, Tổng Thống Diệm lại chỉ
theo tường thuật một chiều và chật hẹp của Đức Cha Ngô Đình Thục. Ngày 7.5 khi
tình hình có vẻ căng thẳng, Đại Tá Đỗ Cao Trí gặp riêng Đức Cha Ngô Đình Thục rồi
bay thẳng về Sài Gòn yết kiến Tổng Thống Ngô Đình Diệm để trình bày nội vụ và
ngày đó đến khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu.
Đã hàng tháng trôi qua, Tổng Thống Diệm vẫn được nghe trình
bày nội vụ về một phía tức phía Đức Cha Thục và giới chức chánh quyền, cho nên
Tổng Thống Diệm lại càng tin mình đã làm việc chính đáng để tôn trọng Quốc Kỳ
và thể thống Quốc Gia.
Một biến cố như vậy đáng lẽ phải cấp thời thu xếp cho êm đẹp
vì càng kéo dài càng bất lợi. Và nó đã bất lợi thật: Gần nửa tháng không giải
quyết được gì. Biến cố đó đã đẻ ra bao nhiêu biến cố giây chuyền khác.
Chính quyền đã hết sức lầm khi ra lệnh cấm treo cờ, tuy cái lầm
lẫn đó bất cứ một chính quyền thiếu sự cảnh giác có thể mắc với bộ máy công quyền
thư lại làm việc quen chiếu lệ (routimer) điều đó có thể không đáng trách lắm
trong bối cảnh một nước chậm tiến. Song điều đáng trách là khi chánh quyền đã
làm lỗi lại không biết kịp thời khôn ngoan sửa chữa lỗi lầm, do đó mới bị tràn
ngập các biến cố. Lúc ấy chính quyền “túng thế” cho rằng phải cương quyết bảo vệ
uy quyền nếu cân bằng biện pháp mạnh. Khi biện pháp mạnh được sử dụng (trong
hoàn cảnh tràn ngập biến cố) thì chính những biện pháp mạnh đó lại nuôi dưỡng
biến cố và chỉ là cách đổ dầu thêm vào lửa.
Nếu như Tổng Thống Diệm nghe lời ông Cẩn và chấp thuận nói
chuyện với các Thượng Tọa Miền Trung thì nội vụ đã không đổ vỡ lớn như vậy. Mặc
dù, có sự yêu cầu được tiếp kiến của Thượng Tọa Trí Quang, Tổng Thống Diệm lại
trả lời không tiếp kiến, không thu xếp với phía Từ Đàm vì ông Tổng Thống cho rằng
một vấn đề địa phương như vậy một ông Đại Biểu Chính
Phủ cũng đã đủ tư cách để thu xếp.
Qua ngày 20.5, chính quyền địa phương đành thủ lợi đợi thượng
cấp. Chính quyền Trung Ương vẫn không có một đường lối dứt khoát trong việc giải
quyết vì không dựa vào sự phân tách thực tế khách quan mà chỉ dựa vào ý kiến và
xúc cảm chủ quan của mình.
Những ngày đầu biến cố, phe cộng sản mới chỉ lên tiếng chiếu
lệ (tuyên truyền có lợi cho phe mình và gây hoang mang chia rẽ trong hàng ngũ
quốc gia và các tập thể dân chúng) nhưng cộng sản đã bắt đầu điều khiển và phân
tách thực tại khách quan của nội vụ để có thể nếu điều kiện thuận lợi nhất cho
phép thì họ nhảy vào vòng. Trong khi đó, mấy ông CIA Mỹ “chìm” cố kết với báo
chí Mỹ, Pháp qua các thông tấn và ký giả tại Sài Gòn để đóng vai trò hoạt náo
viên có lợi nhất cho “đối phương” hành động của họ.
Tại Sài Gòn ngày 21.5 một cuộc lễ cầu siêu tổ chức tại Chùa Ấn
Quang với sự tham dự của 5, 6 trăm Tăng Ni, cuộc rước linh từ rất trọng thể từ Ấn
Quang qua Xá Lợi. Đó là dấu hiệu đầu tiên liên kết giữa các vị Phật Giáo ba Miền
Trung Nam Bắc. Trước đó, giới Phật Giáo Miền Nam vẫn còn e dè thận trọng tối
đa. Theo giới thân cận tại Chùa Xá Lợi cho biết, Cư Sĩ Mai Thọ Truyền là chỗ
tâm giao với Hòa Thượng Thích Thiện Hòa (Ấn Quang) mà Thượng Tọa Thiện Hòa được
coi là vị tu hành không có tham vọng thế tục, bản chất rất hiền hòa phước hậu
và ghét chính sự đa đoan.
Cư Sĩ Mai Thọ Truyền vốn là bạn thân của Phó Tổng Thống Nguyễn
Ngọc Thơ, ông lại là cựu Tổng Thanh Tra hành chánh tài chánh Phủ Tổng Thống,
ông không muốn dính dáng chính trị với Phật sự. Đã từ lâu Cư Sĩ họ Mai không
“hoan hỉ” cho lắm về mấy Thầy tại Chùa Từ Đàm. Có lẽ do kết quả từ những bất đồng
ngấm ngầm qua một lần tham dự Hội Nghị Phật Giáo Quốc Tế.
Về phía ông Ngô Đình Nhu thì như thế nào ? Ông Nhu chỉ thật sự
dấn mình vào biến cố sau khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (11.6.1963) và
từ đó ông càng trở nên quyết liệt chơi ván bài “được ăn cả ngã về không”. Trước
đó gần như ông không tỏ một thái độ rõ rệt. Sau vụ Huế 2 ngày, hôm ấy hình như
là thứ sáu Ông Nhu lên Đà Lạt. Lương Khải Minh có điện thoại cho ông Cao Xuân Vỹ
nhờ ông Vỹ trình bày nội vụ cho Ông Nhu hay “Toa tìm cách nói thế nào cho ông Cố
Vấn rõ chuyện và nên tìm cách thu xếp cho êm đẹp không sẽ là cả một vấn đề nguy
hiểm”.
Trên đường từ Dinh ra phi trường trên xe chỉ có Ông Nhu và
ông Cao Xuân Vỹ. Dịp này ông Vỹ đã tường trình nội vụ cho Ông Nhu rõ đầu đuôi.
Ông Nhu tỏ vẻ buồn bực nói: “Quyết định một việc vô chính trị như vậy mà không
hỏi ý kiến ai” (ý nói Tổng Thống Ngô Đình Diệm đơn phương quyết định một mình).
Nhưng thật lạ lùng, thứ hai tuần sau khi trở về Sài Gòn Ông Nhu bỗng dưng thay
đổi thái độ và trở nên cương quyết. Quả khó hiểu. Có nhẽ ông bị bà vợ chi phối
quá nhiều. Khi ở Sài Gòn một mình thái độ của ông ôn hòa và bực tức với biến cố
mà ông cho rằng “thất chính trị”. Lúc lên Đà Lạt với bà vợ trong 3 ngày bỗng
dưng ông thay đổi thái độ từ cực này đến cực kia.
Ngày 25.5 Ủy Ban Liên Phái bảo vệ Phật Giáo đưa ra một Bản
Tuyên Ngôn đặt trên hai căn bản chính yếu:
1.- Ủng hộ 5 nguyện vọng Phật Giáo qua Bản Tuyên Ngôn
10.5.1963 (xuất phát từ Chùa Từ Đàm)
2.- Thề nguyện đoàn kết trong cuộc tranh thủ hợp pháp bất bạo
động để tranh thủ cho đến khi được 5 nguyện vọng ấy. Một loạt lễ cầu siêu được
tổ chức theo giây chuyền từ Chùa Xá Lợi đến Giác Minh và các Chùa khác trong Đô
Thành.
Trụ sở của Ủy Ban Liên Phái đặt tại Chùa Xá Lợi vì đây là
Chùa lớn đồng thời cũng là trụ sở của Chi Hội Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại
Miền Nam vì Chùa Ấn Quang lúc ấy còn quá nhỏ. Chùa Từ Quang (nơi Thượng Tọa Tâm
Châu trụ trì) lại ở trong con hẻm (Đường Phan Thanh Giản). Thượng Tọa Tâm Châu
trở thành Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo vì Thượng Tọa được coi
nhưng một trung dung giữa “trục” Phật Giáo Miền Trung và các tôn phái Phật Giáo
khác trong Nam. Sự xuất hiện của Thượng Tọa Tâm Châu được coi là nhân vật thuận
lợi cho nhịp cầu thông cảm giữa các tôn phái lúc bấy giờ. Vả lại trước năm 1963
và trong 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm Thượng Tọa Tâm Châu được coi là vị lãnh tụ
tu hành theo đúng tôn chỉ của Đức Thế Tôn. Thượng Tọa Tâm Châu trụ trì trong một
ngôi chùa nhỏ hàng ngày dịch kinh sách và tu đạo. Thượng Tọa Tâm Châu không có
liên hệ với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhưng Thượng Tọa cũng không phải là người
chống lại chế độ đó. Trong 9 năm chính quyền Ngô Đình Diệm không có hoài nghi về
Thượng Tọa Tâm Châu. Trong kỳ bầu cử Tổng Thống, ông có theo Bác Sĩ Tuyến đến
thăm Thượng Tọa Tâm Châu. Dịp này Bác Sĩ Tuyến ngỏ ý thỉnh cầu Thượng Tọa chỉ ủng
hộ liên danh Ngô Đình Diệm-Nguyễn Ngọc Thơ. Thượng Tọa hoan hỉ nhận lời. Thượng
Tọa Tâm Châu trở thành Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo đạt được một lợi điểm
đối với chính quyền vì Thượng Tọa thuộc thành phần chống cộng và cũng từng đứng
trong Phong Trào Liên Tôn chống cộng sản (năm 45-46). Thượng Tọa lại là chỗ
quen biết của Đức Cha Lê Hữu Từ cũng như Linh Mục Hoàng Quỳnh.
Tuy vậy sự xuất hiện của hai Thầy Tâm Châu và Đức nghiệp đã
làm cho một số người tại Huế không vừa ý vì vậy hiển nhiên là tiếng nói Phật
Giáo Miền Trung không được tôn trọng theo đúng tư thế (vì Huế mới là khởi điểm
của biến cố) Nhận biết được cái lợi cho chính quyền nếu tìm cách đưa được các
Thầy Từ Đàm vào Sài Gòn và đích thân tham dự Ủy Ban Liên Phái hầu có thể cân bằng
“cán cân ảnh hưởng và thế lực”. Lương Khải Minh tiếp tục thuyết phục Tổng Thống
Diệm chấp thuận việc đưa các Thầy Huế vào Sài Gòn để tham dự cuộc nói chuyện với
chính quyền. Ai có thể làm việc giao liên móc nối này ? Lương Khải Minh đề nghị
Bác Sĩ Trương Khuê Quan, (Giám Đốc Xã Hội thuộc Bộ Quốc Phòng) đảm nhận công
tác.
Ngày 30.3 các cấp lãnh đạo sáu tập đoàn Phật Giáo thì hành chỉ
thị của Hòa Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tuyệt thực 48 giờ kể từ
4 giờ cùng ngày. Tổng Đoàn Phật Tử từ Huế Trước biến cố 5.8, phía Xá Lợi tỏ ra
thận trọng. Sau khi tiếp xúc với ông Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương (với tư
cách riêng và tâm tình) giới đầu não Hội Phật Học Việt “cảnh giác” với một số bằng
hữu ở Chùa Xá Lợi là hãy coi chừng, chớ có nhẩy vội vào vòng không rồi mắc mưu
ông Ngô Đình Cẩn. Họ đề cao cảnh giác như vậy vì vẫn hoài nghi và có mặc cảm với
một số tổ chức do ông Cẩn đỡ đầu. Biết đâu từ biến cố 8.5 lại không có người của
ông Cẩn nhân dịp biến cố này sẽ lợi dụng để tung một mẻ lưới lớn ? Kinh nghiệm
chính trị đã cho phép hoài nghi như vậy vì trong những biến cố chính trị chính
quyền biết đâu không cho những người nằm vùng để khuấy động?
Những ngày đầu của biến cố, Phó Tổng Thống Thơ vẫn đứng ngoài
lề có lẽ ông muốn tránh tiếng và có lẽ cũng không muốn dây dưa đến một vấn đề
có liên hệ đến Miền Trung (thuộc phạm vi ông ngô Đình Cẩn).
Ngoài ông Bộ Trưởng Nội Vụ có phận sự thu xếp, Tổng Thống Diệm
còn ủy cho Bác Sĩ Võ Vinh Hoa tìm cách dàn xếp riêng với trục Thượng Tọa Thiện
Hòa và Cư Sĩ Mai Thọ Truyền. Bác Sĩ Hoa cũng là Y Sĩ riêng của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm (sau Bác Sĩ Bùi Kiện Tín) Bác Sĩ Hoa có nhiều liên hệ tình cảm với Thượng
Tọa Thiện Hòa cũng như Cư Sĩ Mai Thọ Truyền. Gia đình ông lại quen biết với Thượng
Tọa Trí Quang (qua gia đình ông Võ Văn Hoàng. Phòng Thương Mại Sài Gòn) Bác Sĩ
Hoa sau những lần thăm dò đã trình cho Tổng Thống Diệm rõ là Cư Sĩ Mai Thọ Truyền
vẫn giữ vững lập trường ôn hòa. Sở dĩ phải có thái độ với chính quyền vì không
thể không chứng tỏ trong đoàn kết tương thân với Phật Giáo Miền Trung. Hơn nữa
Cư Sĩ Mai Thọ Truyền cũng là thành phần lãnh đạo của Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam.
Tổng đoàn Sinh Viên Phật Tử từ Huế gởi tâm thư cho các sinh
viên toàn quốc hô hào ủng hộ cuộc tranh đấu cho tự do tín ngưỡng đồng thời gởi
một bản kiến nghị lên Tổng Thống Ngô Đình Diệm sau một phiên họp khoáng đại tại
Chùa Từ Đàm sáng 31.5. Điều 4 trong bản kiến nghị có ghi: “Yêu cầu chánh quyền
ra lệnh triệt để đình chỉ những mánh lới trẻ con”, thiếu tri thức của cán bộ đối
với tín đồ Phật Giáo trong cuộc tranh đấu. Vì chính những mánh lới đó không lừa
bịp được ai mà chỉ làm mất uy tín của cán bộ và của chính phủ” (Bản kiến nghị
có chữ ký của đại diện 6 phân khoa và các Trường như Cộng Đồng Mỹ Thuật, Cán Sự
Y Tế, Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Quốc Gia Âm Nhạc, bản kiến nghị trên đây là dấu hiệu
đầu tiên cho biết tập thể Sinh Viên Học Sinh bắt đầu nhập cuộc. Đây cũng là lời
phản kháng thứ nhất của giới sinh viên trong suốt 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm và
cũng là lời lẽ xúc phạm nặng nề nhất vì trong 9 năm cầm quyền Tổng Thống Ngô
Đình Diệm chưa hề nhận được một kiến nghị nào công khai bày tỏ sự phản kháng
như vậy.
Trên thực tế, bất cứ một Phong Trào phản kháng nào của tập thể
Sinh Viên dù lớn mạnh và rộng đến đâu cũng không thể xoay chuyển được thế cuộc,
không thể lật đổ được chế độ (Phong Trào nổi loạn năm 1967 của Sinh Viên Pháp
là một thí dụ) nếu như Phong Trào đó không gắn liền với một thái độ chống đối định
hình khác. Nhưng đây thì lại khác, tập thể Sinh Viên Học Sinh đã dễ dàng bị lôi
kéo và phát động mạnh mẽ trong cuộc tranh thủ của Phật Giáo và Phật Giáo Miền
Trung lại có sẵn một khối vẫn động trong tập thể Sinh Viên Huế. Khối ấy tuy nhỏ
bé (là Tổng Đoàn Sinh Viên Phật Tử) nhưng lại có đủ yếu tố khích động và gợi cảm
hứng tranh đấu cho tất cả tập thể. Sinh Viên Huế nhận thức được tầm quan trọng
của tập thể Sinh Viên nếu tập thể này nhập cuộc cho nên một vài nhân vật cận
thân của Tổng Thống Diệm tìm mọi cách thuyết phục Tổng Thống giải quyết mau
chóng.
Tập thể Sinh Viên trước năm 1963 tương đối thuần túy. Chính
quyền Ngô Đình Diệm đã thành công trong việc “ổn định” Đại Học. Qua Tổng Hội
Sinh Viên Sài Gòn, tuy không phải là một thực lực nhưng chính quyền lúc ấy bằng
cách này hay cách khác có thể nói đã “nắm” được Tổng Hội. Tập Thể Sinh Viên Huế
không tổ chức được như Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn nhưng lại qui tụ quanh uy tín
của Linh Mục Cao Văn Luận.
Sinh Viên Huế trước năm 1963 đươc coi là chăm học, kỷ luật và
hoạt động thuần túy học đường (tuy cộng sản có thâm nhập nhưng chỉ là thiểu số
lén lút không dám xuất hiện dù với một chiêu bài nào, không tạo được một ảnh hưởng
lớn nào). Bỗng dưng Sinh Viên đứng lên phản kháng, nhập cuộc. Lý do dễ hiểu là
họ bị xúc động qua biến cố 8.5 lại bị mặc cảm thụ động vì bấy lâu nay đã ỷ lại
chính quyền đồng thời người dẫn đạo sinh viên như Linh Mục Cao Văn Luận thì nay
Linh Mục “buông xuôi” không có ý kiến trong việc Sinh Viên phản kháng (dù Sinh
Viên Phật Tử mà Đại Học Huế theo thành phần tôn giáo thì đa số là Phật Giáo).
Lý do sự buông xuôi của Linh Mục Cao Văn Luận cũng dễ hiểu vì Linh Mục Luận tuy
là chỗ thân tình sâu xa với ông Ngô Đình Cẩn và Tổng Thống Diệm nhưng Linh Mục
lại có nhiều mâu thuẫn “cá tính” với Đức Cha Thục (nhất là từ khi Đức Cha Ngô
Đình Thục trở về Huế trọng nhậm Giáo Tỉnh Huế). Lý do khác nữa là vì những mâu
thuẫn giữa Công Giáo và Chánh Quyền. Đồng thời cũng vì “liên đới thiện cảm” với
Phật Giáo cho nên Linh Mục Viện Trưởng Đại Học Huế thế tất không thể chống lại
những hành động phản kháng chính quyền và ủng hộ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam của
Tập thể Sinh Viên. Cho nên Sinh Viên được “buông thả” để nhẩy vào vòng.
Khi tập thể Sinh Viên nhẩy vào vòng chiến, chính quyền nào
cũng không thể không quan tâm đặc biệt. Vấn đề căn bản lúc ấy là phải giải quyết
vụ Phật Giáo thì mới có thể làm xẹp được “Phong Trào” (lúc ấy hãy còn giới hạn)
phản kháng của sinh viên (đồng thời cũng nhắm vô hiệu hóa sự sâm nhập của cộng
sản một khi Phong Trào Sinh Viên có cơ hội phát động lan rộng)
Trong khi các khối quần chúng kể cả quần chúng Phật Tử đang
trong tình trạng thụ đông, do dự hoặc tê liệt, giới lãnh đạo Phật Giáo khó lòng
có thể tạo được một cuộc vận động lớn dù cho một đối tượng thiêng liêng tôn giáo.
Vậy thì chỉ còn Sinh Viên là một khối “quần chúng” chọn lọc tuy vô định hình
trên lý thuyết nhưng trên thực tế sinh viên trở thành một khối có khả năng vận
động (manoeuvre) nhờ môi trường sinh hoạt, nếp sống hằng ngày tương đối thuần
nhứt lại hiếu động, dễ tin, đầy nhiệt huyết.
Khối “quần chúng chọn lọc” này luôn luôn là con mồi thèm khát
của cộng sản và bất cứ thế lực nào cũng muốn nhảy vào gây ảnh hưởng và sách động
(dĩ nhiên cộng sản thuộc nằm lòng phương thức tri vận và sách động sinh viên).
Ngay từ đầu biến cố, chính quyền Ngô Đình Diệm đã có lợi điểm
là tập thể sinh viên không tham dự gần như kẻ bàng quan. Ở Huế từ ngày 8-30
tháng 5, Sinh Viện Phật Tử chỉ tham dự lẻ tẻ và với tư cách Phật Tử.
Khởi từ tháng 6, vì không giải quyết mau chóng và kéo dài biến
cố cho nên chánh quyền mất lợi điểm trên khi tập thể sinh viên đứng vào hàng
ngũ tranh đấu của Phật Giáo, đồng thời cộng sản thì muốn thâm nhập và ăn có
trong cuộc tranh đấu này một cách hợp pháp và thuận lý cho nên họ đã lanh tay bố
trí kế hoạch và khởi điểm của kế hoạch ấy là đi vào cửa ngõ vốn bao giờ cũng bỏ
ngỏ theo đúng tinh thần Đại Học.
Tiên liệu những khó khăn ấy và cái sức mạnh phức tạp vạn nan
của khối sinh viên học sinh cùng với khối quần chúng “định hình” Phật Tử (một
khi hai khối này liên kết) cho nên khởi từ 22.5, một vài nhân vật thân cận của
Tổng Thống Diệm tìm cách “ổn định”. Mà ổn định trong một biến cố tế nhị và phức
tạp như vậy thì phương thức chính trị phải được đặt thành trọng tâm hoạt động.
Ổn định trong trường hợp này không có nghĩa là tìm cách đối
phó và chiếu lệ. Ông Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần “hoàn toàn” đồng ý với ý kiến
lập trường trên. Ông Thuần trình bày với Tổng Thống Diệm, ông Tổng Thống không
do dự gì cả và chấp thuận ngay nguyên tắc thương nghị và hòa hoãn với Ủy Ban
Liên Phái.
Vào một buổi sáng đầu tháng 6 khoảng 8g30 Bác Sĩ Tuyến được Tổng
Thống gọi điện thoại bảo vào Dinh có việc gấp. Linh tính cho ông biết là đề nghị
hòa giải chắc chắn đã được Tổng Thống chấp nhận.
- Bây giờ anh tính ra sao?
Lời hỏi đầu tiên của Tổng Thống Diệm. Bác Sĩ Tuyến suy nghĩ
ít phút rồi trình bày:
- Thưa Cụ bên phía Phật Giáo cũng muốn hòa giải. Chuyện này
cũng không có gì...kéo dài mãi sẽ bất lợi, cộng sản nó sẽ len lỏi vô.
Tổng Thống Diệm trầm ngâm. Vẻ mặt ông có vẻ lao lung lắm.
Trong căn phòng quen thuộc ấy chỉ có ông Nguyễn Đình Thuần, Bác Sĩ Tuyến. Bẵng
đi một dạo, đã năm sáu tháng trời Bác Sĩ Tuyến mới vào Dinh gặp Tổng Thống cùng
mục đích như ông Thuần. Tổng Thống Diệm quay sang hỏi Bác Sĩ Tuyến:
- Ý anh thế nào?
Bác Sĩ Tuyến trình bày thẳng thắn vấn đề và những lợi hại của
nó. Tổng Thống yên lặng chừng 5, 7 phút. Sau đó, Bác Sĩ Tuyến đưa ra đề nghị.
- Chính phủ nên chính thức cử người đại diện để nói chuyện trực
tiếp với họ. Tổng Thống Diệm hỏi: Ai có thể đại diện cho chính phủ? Ông Thuần
làm đi? Ông Nguyễn Đình Thuần nãy giờ vẫn ngồi im lặng.
- Để giữ thể thống cho bên Phật Giáo và cũng là cách tạo
thông cảm dễ dàng cho việc thu xếp xin Cụ đề cử một người nào có bề thế đại diện
Cụ.
Tổng Thống Diệm băn khoăn: Ai đại diện được bây giờ?
Ông Nguyễn Đình Thuần: Tôi thấy chỉ có Cụ Phó (tức Phó Tổng
Thống Thơ) là đầy đủ uy tín để đại diện Cụ.
Tổng Thống Diệm đồng ý ngay: Ừ, ông Phó được đấy. Ông (tức
ông Thuần) cũng phụ vào.
Bác Sĩ Tuyến trình bày qua một vài phương thức thành lập một ủy
ban hòa giải. Tổng Thống Diệm lại hỏi:
- Ai nữa chứ, chỉ có một mình ông Phó thôi à?
Đến đây thì Bác Sĩ Tuyến cũng như Ông Nguyễn Đình Thuần đều
không dám đưa ra ý kiến đề cử ai. Tổng Thống Diệm cũng như hai ông đều yên lặng
lâu cả 10 phút. Ông Tổng Thống cũng không tự ý cắt cử thêm ai.
Tổng Thống Diệm bấm chuông gọi ông Ngô Đình Nhu qua để tham
khảo ý kiến rồi cùng quyết định.
Vẫn một vẻ “lừng khừng” muôn thuở, Ông Nhu vào phòng Tổng thống
hút thuốc lá, vẫn yên lặng. Tổng Thống Diệm hỏi:
- Chú nghĩ sao về việc này? Ông Nhu thủng thỉnh đáp:
- Như thế cũng được.
Tổng Thống Diệm lại hỏi:
- Có ông Phó còn phải kiếm thêm ai nữa chớ? Ông Nhu vẫn yên
lặng, mãi một lúc ông mới đáp:
- Việc này thuộc Bộ Nội Vụ thì đặt ông Nội Vụ vô.
Tổng Thống Diệm đồng ý ngay. Thế là thành phần đai diện chính
phủ đã có ba người, ông Phó Tổng Thống Thơ, ông Nguyễn Đình Thuần và ông Bùi
Văn Lương. Trong lúc đang bàn tính thì ông Nguyễn Đình Thuần được báo tin có
Phó Đại Sứ Mỹ xin gặp gấp. Đó là ông Phó Đại Sứ Truchart. Vì Đại Sứ Notlting đi
vắng nên ông Phó thay mặt chuyển giao đến Chính Phủ Việt
Nam Cộng Hòa một bức công điện của của Chính Phủ Hoa Kỳ. Bức
công điện đó cho biết dư luận bên Mỹ rất bất lợi cho Việt Nam và gây khó khăn
cho chính phủ Mỹ qua vụ Phật Giáo cho nên chính phủ Mỹ hối thúc chính phủ Việt
Nam phải sớm giải quyết cho xong cơn khủng hoảng này.
Ông Thuần trở vào phòng, trình Tổng Thống bức công điện kể
trên. Đọc xong vẻ mặt ông Tổng Thống càng thêm đăm chiêu. Mọi người lại trở về
vấn đề cũ quyết định thành lập một Ủy Ban Liên Bộ này.
Về phía chính quyền như vậy đã xong. Bây giờ là đến việc tìm
cách nào để đưa mấy Thầy từ Huế vào để nói chuyện với chính quyền trong Ủy Ban
Liên Phái. Bác Sĩ Tuyến đã trình bày những lợi điểm của việc này như sau:
1/ Đưa mấy Thầy Chùa Từ Đàm vào đây để thương nghị với chính
phủ trên một cấp bậc cao nhất (qua Phó Tổng Thống Thơ) tức là xoa dịu tự ái địa
phương của mấy Thầy.
2/ Huế mới là trung tâm của biến cố, nếu chữa được tận gốc
thì mọi sự sẽ êm.
3/ Mấy Thượng Tọa như Thích Trí Quang, Thiện Minh được coi là
thành phần nòng cốt của Tổng Hội Phật Giáo Miền Trung. Khi đưa mấy Thượng Tọa
đó vào Sài Gòn tức là biệt lập được mấy Thượng Tọa chủ chốt đó với quần chúng
Phật Tử.
Nhưng ai đi tiếp xúc cho tiện. Nhân vật này thật quan trọng
vì phải hội đủ điều kiện mới có thể thành công trong sứ mạng. Tổng Thống cũng
như Ông Nhu để tùy quyền Bác Sĩ Tuyến và ông Thuần lựa chọn. Bác Sĩ Tuyến đề
nghị Bác Sĩ Trương Khuê Quan. Ông trình bày với Tổng Thống và Ông Nhu:
Ông Quan có quen biết nhiều phía ngoài đó. Ông lại thuộc Bộ
Quốc Phòng nên mọi sự đi lại di chuyển sẽ dễ dàng hơn mà lại không ai để ý.
Đề nghị này được chấp thuận và sau đó ông Nguyễn Đình Thuần
ký sự vụ để Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế tiếp xúc với Chùa Từ Đàm. Tổng Thống
Diệm thỏa mãn với quyết định này lắm. Theo Lương Khải Minh, nếu không có những
ngộ nhận và những cái vụn vặt tạo ra ngộ nhận và một vài “tai nạn” đáng tiếc
thì Ủy Ban Liên Bộ đã thành công và vụ Phật Giáo không đến nỗi nổ to như vậy.
Nhưng lịch sử chuyển vần lại không có chữ “nếu”, nếu như thế này nếu như thế
kia những chữ nếu đó đều ở bên lề biến cố lịch sử. Nếu lịch sử là một sự tái diễn
không ngừng thì người đời sau có thể suy ngẫm rất nhiều và có ích rất nhiều khi
đặt mình vào lịch sử đã qua để tự vấn “nếu như thế như thế...ta phải làm thế
nào khi gặp những khó khăn tương tự như chế độ Ngô Đình Diệm”.
Bước qua năm 1963, thế lực Mỹ mỗi ngày một lớn thì đồng thời
uy thế của các Tướng Tá Việt Nam lúc ấy cũng bắt đầu lớn dần, tham vọng cũng
không nhỏ và bắt đầu hướng qua một chân trời mới lạ khác tức chính trị. Khi một
số Tướng Tá có tham vọng làm chính trị thì tình trạng càng rối loạn bao nhiêu
càng kéo dài bao nhiêu càng là một cơ hội tốt nhất cho họ nhảy vào vòng. Lịch sử
1963 đã chứng minh như vậy là lịch sử còn tái diễn nhiều lần như vậy nữa khi mà
xứ sở này còn bị mê hoặc bởi thứ dân chủ lòe loẹt phấn son.
Lúc bấy giờ, phía Tòa Đại Sứ Mỹ, Đại Sứ Nolting hoàn toàn ủng
hộ chế độ Ngô Đình Diệm. Ông giữ vững lập trường là không thể lật đổ chế độ Ngô
Đình Diệm trong hoàn cảnh sôi động lúc bấy giờ. Phái đoàn Anh Quốc của Sir
Robert Thomson (một nhà chiến lược về chiến tranh du kích) cũng giữ một lập trường
ủng hộ tích cực chế độ Ngô Đình Diệm. Sir Robert Thomson tin tưởng vào sự thành
công của Ấp Chiến Lược và Ấp Chiến Đấu (nhất là ở Vùng 2 và Vùng 1) Đại Tá
Richaedsson, Trưởng Phòng CIA cũng như Đại Tướng Harkins (Tư Lệnh MACV) đều là
những người cùng một lập trường như Đại Sứ Nolting. Tuy nhiên, một số viên chức
Mỹ khác bị chi phối bởi lập trường và thái độ của Harriman, Mac Namara, Hilsman
đã không ngừng chống đối chế độ Ngô Đình Diệm và họ đã tìm cách móc nối với các
Tướng lãnh mua một số nhân vật Mỹ hoạt động chìm. Thí dụ như trục liên lạc Lu
Conein và Trần Văn Đôn.
Ông Lu Conein vẫn thường bình phẩm chế độ Ngô Đình Diệm là độc
tài, gia đình trị. Ông ta thúc đẩy thực hiện một số chủ trương dân chủ hóa Việt
Nam, Việt Nam phải có một thể chế dân chủ như nền dân chủ Hoa Kỳ.
Dạo ấy, các chính khách đối lập thật khó lòng liên lạc được với
Mỹ vì không thể lọt qua được con mắt của giới an ninh chìm, nổi. Riêng các Tướng
Tá thì được tự do gặp gỡ giới chức Mỹ mà ít ai lưu tâm với lý do họ là những cố
vấn về Quân Sự và An Ninh.
Biến cố Phật Giáo kéo dài trong một hoàn cảnh bất lợi cho chế
độ Ngô Đình Diệm như vậy cho nên, khi Tổng Thống Diệm quyết định dàn xếp ngay
thì mọi người đều tin tưởng mọi việc sẽ êm đẹp. Nhưng bất trắc phi lý của lịch
sử thì không một ai có thể ngờ được.
Việc lựa chọn Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế tiếp xúc với Từ
Đàm là một “lựa chọn chính trị”.
Nói là chính trị vì một sự tiếp xúc như vậy sẽ dễ dàng đạt được
sự cảm thông tín nhiệm. Trong một viễn cố thì phe tranh đấu ở đâu và thời nào
cũng vậy không mấy khi tin tưởng nơi thiện chí của chính quyền.
Cho nên trước khi công khai giàn xếp thì phải có sự vận động
giàn xếp ngầm. Người tiếp xúc vận động có thể là một ông Tổng Bộ Trưởng và tuyệt
đối không để cho mấy giới chức An Ninh Cảnh Sát dính vô. Người đi tiếp xúc phải
hội đủ ba yếu tố:
1/ Người của chính quyền (ở một địa vị lu mờ).
2/ Phải có sự thâm tình tri giao của phe đối lập.
3/ Phải có đức tính của một người mai mối khéo léo, linh động.
Cuộc tiếp xúc càng diễn ra âm thầm bí mật càng dễ dàng có kết
quả tốt. Bác Sĩ Quan đã hội đủ được mấy yếu tố đó. Như trên đã viết Bác Sĩ Quan
vốn là chỗ tâm giao với Thượng Tọa Thiện Minh không tin nơi chính quyền thì ít
nhất cũng tin nơi thành tín của một cá nhân thân thiết của mình.
Về phía Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông tin tưởng mọi việc sẽ
êm suôi và trao trách nhiệm cho bộ ba Thơ, Thuần, Lương đều là “cỡ nặng” của
chính quyền.
Ông Ngô Đình Nhu không có một thái độ rõ rệt. Nhưng Bà Nhu bắt
đầu hung hăng và tìm mọi cách nhẩy vào vòng. Qua những biến cố lớn như vụ Tướng
Minh 1954 cuộc đảo chánh
11.11.1960 Bà Nhu tỏ ra là một người có tài ứng biến mau lẹ
và có nhiều sáng kiến tổ chức.
Nhưng qua hai biến cố trước, Bà Nhu vẫn trong bóng tối nay
thì bà tự cho là mình đã có lực lượng lớn tức Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới. Trên
thực tế Phong Trào này hữu danh vô thực nhưng với Bà Nhu với lòng kiêu hãnh và
thái độ nghênh ngang của Bà thì Phụ Nữ Liên Đới là một đoàn thể mà chính quyền
phải kiêng nể. Đoàn thể ấy phải có tiếng nói tham dự vào mọi diễn tiến của lịch
sử.
Trong một buổi họp vào trung tuần tháng 7.1963. Phong Trào Phụ
Nữ Liên Đới với đầy đủ nhân viên Ban Chấp Hành Trung Ương (vào cuối tháng 5 âm
lịch) Bà Nhu với lời nói “chanh chua” gay gắt cho rằng, nếu chính quyền nhượng
bộ, thỏa mãn yêu sách của Phật Giáo thì Phong Trào của bà cũng sẽ làm áp lực
cũng đưa ra một số yêu sách buộc chính quyền phải thỏa mãn nhượng bộ. Trong
phiên họp đó. Bà Nhu chỉ trích gay gắt mấy Nhà Sư với những ngôn ngữ không được
mềm mỏng.
CUỘC HÒA GIẢI ÂM THẦM
Cuộc đấu tranh của Phật Giáo đã biến chuyển mau lẹ. Đầu tháng
6 riêng tại Huế và Miền Trung Phong Trào đấu tranh đã lan rộng đến các Tỉnh, Quận,
Xã. Thành phần sinh viên học sinh cũng bắt đầu nhảy vào cuộc, chính quyền Sài
Gòn vẫn lạc quan, tin là có thể giải quyết êm đẹp.
Nhưng cái đinh của biến cố vẫn là Huế và Chùa Từ Đàm trở
thành Tổng Hành Dinh của cuộc tranh đấu.
Điều rõ rệt là các Thượng Tọa Miền Trung muốn nói chuyện trực
tiếp với chính quyền.
Khi thấy chính quyền từ 8.5 đến 30.6 chỉ tìm cách điều đình với
các nhà lãnh đạo Phật Giáo Miền Nam thì các thượng Tọa Chùa Từ Đàm bắt đầu lo lắng.
Đầu tháng 6, Thượng Tọa Thiện Minh vào Sài Gòn tìm một con đường
riêng để trực tiếp nói chuyện với chính quyền. Nhưng về phía ông Ngô Đình Nhu
thì cho rằng: Không thể nào điều đình với mấy ông Thượng Tọa như Thượng Tọa
Thích Thiện Minh và Trí Quang được. Trước đây, Ông Nhu không quan tâm đến các vị
Thượng Tọa vì việc này đã có “chú Cẩn” lo liệu. Từ lúc biến cố bùng nổ, Ông Nhu
mới bắt đầu tìm hiểu vấn đề nhân sự Phật Giáo. Ông Nhu có định kiến rằng mấy
Thượng Tọa đó có hồ sơ khả nghi và có nhiều liên hệ với Giáo Sư Lê Đình Thám
(Chủ Tịch Hội Seerba trước năm 1945 sau theo kháng chiến và tập kết ra Bắc).
Qua báo cáo Ông Nhu lại có định kiến thêm rằng: Những phương thức đấu tranh từ
ngày 8.5 đến đầu tháng 6 đều là những phương thức của một chiến lược trường kỳ
tranh đấu với xuất sứ rất khả nghi.
Tại Huế ngày 30.5 Chùa Từ Đàm bị cô lập. Ít ngày sau điện nước
cũng bị cúp luôn. Một số đông thanh niên Phật Tử rút vào Chùa rồi võ trang bằng
gậy gộc đá...để lo việc phòng bố. Số lương thực trong Chùa lúc đó có thể kéo
dài được hai tháng. Ngày 4.6 lại có biểu tình xô xát tại Huế, lực lượng an ninh
phải dùng lựu đạn cay giải tán, một số bị thương nhẹ, nhưng chỉ vài ngày sau báo
chí Mỹ lại làm ùm lên. Tại Sài Gòn dư luận lại được dịp lan truyền mau chóng và
rất khích động như các Tăng Ni bị bắt, bị thương và bị cầm tù bằng những hình
thức dã man của nhà cầm quyền địa phương.
Quả thực chính quyền Thừa Thiên lúc đó quá yếu. Trước kia nhận
lệnh trực tiếp từ ông Cẩn thì nay phải đợi lệnh từ Trung Ương. Ông Nguyễn Văn
Hà người thay thế Nguyễn Văn Đẳng lại ôn hòa và có rất nhiều tình cảm với các
Thượng Tọa bên Chùa Từ Đàm cho nên ông không thể mạnh tay đàn áp dù cuộc biểu
tình ngày 4.6 cũng không đông đảo bao nhiêu.
Dư luận báo chí ngoại quốc như thế nào? Tờ Công Luận tại Đài
Bắc liên tiếp đăng tải những bài bình luận lên án chính quyền Ngô Đình Diệm và
cho rằng chính quyền kỳ này kỳ thị tôn giáo, đã đặt Thiên Chúa Giáo lên hàng đầu
và vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
“Trước khi băng hà Đức Giáo Hoàng Jean XXIII đã lên tiếng
nhân loại không thể có kỳ thị nhưng đối với tín ngưỡng của anh em Tổng Thống Diệm
thì lời nói của Đức Giáo Hoàng trở thành vô nghĩa” (Công Luận 1.6.1963). Những
tờ báo uy tín như Exxpress News China Post, China News đều đăng những hình ảnh,
bình luận tin tức hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Báo chí Thái
Lan tỏ ra dè dặt hơn nhưng báo Thái Ngữ (ngày 23.5.63) đã lên tiếng nghiêm chỉnh
cảnh cáo “biến cố Phật Giáo nếu không sớm giải quyết sẽ bất lợi lớn cho chính
quyền vì chắc chắn cộng sản sẽ nhẩy vào cuộc lợi dụng sự bất mãn của Phật Giáo
để làm lớn chuyện” Tại Miên, Sihanouk lợi dụng ngay vụ Phật Giáo để gây rắc rối.
Báo chí từ Cao Miên từ thiên tả đến thiên hữu đều lên tiếng công kích chính quyền
Ngô Đình Diệm. Từ tờ thiên tả La Depêche du Cambodge đến Kampuchia và tờ Neak
Cheat Niyum (của chính quyền) nhất loạt công kích chính quyền Ngô Đình Diệm.
Từ đầu tháng 6 tại Nam Vang liên tiếp tổ chức cuộc mít tinh tại
ngôi chùa lớn Onnalum để lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo.
Báo chí Mỹ lại càng công kích mãnh liệt hơn nữa như tờ New
York Time, Washington Post, New York Herald Tribunne, đã đứng hẳn về phía Phật
Giáo. Tờ New York Time 31.5 thì cho rằng cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam
đã chứng tỏ dân chúng đã bất mãn sâu xa với chế độ. Ảnh hưởng và uy tín của Hoa
Kỳ sẽ bị tổn thương và Mỹ không thể đứng ngoài vòng cuộc tranh chấp (có nghĩa
là Mỹ phải nhúng tay vào).
Tầm nhìn của báo chí Mỹ cũng không khác bao nhiêu lập luận của
các hãng thông tấn UPI,AP,CBS News nghĩa là hoàn toàn chống lại chính quyền
Ngô Đình Diệm và như tờ US News and World Report lại cả quyết rằng: “Các nhà
lãnh đạo Phật Giáo chỉ yêu cầu Tổng Thống Diệm chấm dứt sự kỳ thị tôn giáo
nhưng ngược lại Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đàn áp mạnh các nhà lãnh đạo Phật
Giáo. Do đó chính quyền của ông đã tách rời Thiên Chúa Giáo ra khỏi tập thể đại
đa số Phật Giáo đồ tại Miền Nam” (24.6.63). Tờ báo trên còn lên tiếng như thế
này: “Qua cuộc tranh chấp giữa chính quyền và Phật Giáo, cộng sản sẽ tuyên truyền
với ân chúng rằng Diệm tiêu diệt Phật Giáo để mở đường cho Đế Quốc Mỹ xâm lăng
Miền Nam Việt Nam”
Báo chí Mỹ thì như vậy. Giới chức Mỹ tại Tòa Đại Sứ luôn luôn
áp lực với Tổng Thống Diệm phải điều đình với Phật Giáo, phải mở rộng nội các,
phải ban hành dân chủ rộng rãi. Vấn đề quan trọng hơn nữa là phải đẩy vợ chồng
Nhu ra khỏi nước.
Khi được biết Tổng Thống Diệm tìm cách điều đình trực tiếp với
mấy Thượng Tọa Miền Trung thì Ông Nhu không đồng ý. Ông cho rằng không thể nhượng
bộ được và mấy vị Thượng Tọa này không “thuần túy tu hành”.
Tuy vậy Tổng Thống Diệm vẫn quyết định theo ý riêng của ông.
Ngày 5.6, Bác Sĩ Trương Khuê Quan được gọi vào Dinh để gặp Tổng
Thống. Giới thân cận cho biết, không khí hôm đó thật nặng nề khó thở.
Trong căn phòng Tổng Thống, Ông Nhu ngồi riêng trên một ghế
bành, nét mặt đăm chiêu khó chịu. Ông mặc chiếc áo sơ mi Hồng Kông ngắn tay im
lặng không nói một lời. Bộ Trưởng Bùi Văn Lương đứng bên Tổng Thống Diệm. Bác
Sĩ Trương Khuê Quan bước vào chào theo lối nhà binh (ông là một Y Sĩ Trung Tá)
Tổng Thống Diệm gật đầu rồi chỉ ông ngồi đối diện với Tổng Thống. Tổng Thống Diệm
hỏi ngay:
- Tôi nghe Trung Tá quen biết với mấy Thầy ở Chùa Từ Đàm phải
không?
Bác Sĩ Quan đáp:
- Dạ thưa có, gia đình tôi quen biết các Thầy từ lâu. Tổng Thống
Diệm nói tiếp:
- Trong lúc khó khăn như thế này tôi muốn nhờ Trung Tá giúp
cho qua cơn khó khăn với các Thầy ở ngoài đó. Ở ngoài đó mấy Thầy cứ tuyệt thực
rồi biểu tình này khác. Được biết Trung Tá có quen biết, tôi nhờ Trung Tá liên
lạc với mấy Thầy không biết Trung Tá có đủ khả năng dàn xếp cho êm được không
Bác Sĩ Quan chưa kịp trả lời thì Tổng Thống Diệm lại nói tiếp:
- Nhờ Trung Tá giúp và giải thích cho họ muốn gì?
Bác Sĩ Trương Khuê Quan trả lời:
- ThưaTổng Thống, tôi có quen biết với mấy Thầy, có làm việc
chung với mấy Thầy từ năm 1946 cho đến khi nhập ngũ (1956) chuyên lo Phật sự và
hoằng pháp. Từ khi nhập ngũ đến nay, tôi không có dịp để hoạt động với mấy Thầy
ấy nữa. Việc giải thích và dàn xếp không biết mấy Thầy có nghe không, nhưng Tổng
Thống đã ra lệnh thì tôi xin sẵn sàng thi hành.
Bác Sĩ Trương Khuê Quan ngừng lời, Tổng Thống Diệm bất thần hỏi:
- Người ta nói ông Trí Quang thân cộng. Ông ta vẫn thường hoạt
động cho cộng sản có đúng vậy không?
Bác Sĩ Quan đáp:
- Thưa Tổng Thống tôi không dám trả lời là có hay không. Sau
đó Bác Sĩ Quan có trình bày đại ý rằng, Thượng Tọa Trí Quang có là cộng sản hay
không vấn đề này thật quan trọng. Điều cần nhất phải tìm hiểu sự tiến triển của
Hội Phật Giáo như thế nào và nhất là kiểm điểm những hình thức và môi trường
nào đã tạo ra Thượng Tọa Trí Quang ngày nay.
Tóm lại Bác Sĩ Trương Khuê Quan hoàn toàn dè dặt và không trả
lời vào câu hỏi của Tổng Thống Diệm.
Tổng Thống Diệm yên lặng suy nghĩ lao lung. Sau đó, Tổng Thống
Diệm hỏi ông đại cương về môi trường đã đào tạo nên một Thích Trí Quang. Bác Sĩ
Quan đáp:
- Thầy Trí Quang cũng như một số Thầy khác được đào tạo trong
một lớp Phật Học tại Chùa Bảo Quốc mà Bác Sĩ Lê Đình Thám, Bác Sĩ Thám lúc ấy
(1940) là Chủ Tịch Hội Nghiên Cứu Phật Học Trung Việt (Societé dé Etudes et
Exercices Budhistes d'Anam) Tổng Thống Diệm đáp ngay:
- Tôi biết, Lê Đình Thám hiện thời đi đàng kia.
- Thưa Tổng Thống có lẽ như vậy e không được rõ. Xin Tổng Thống
cho tìm hiểu thêm một chút nữa may ra có thể giải quyết được.
Ông Nhu ngồi lim dim, từ nãy giờ ông vẫn im lặng không nói lấy
một câu. Khi nghe nhắc đến Lê Đình Thám, Ông Nhu nhắn trán rồi bỗng dưng đứng
lên vẻ giận dỗi nói trống không:
- Phải chứ! Điều đình với họ phải chứ nếu không như vậy thì
người ta lại đổ thừa cho mình là đàn áp.
Đây chỉ là lời nói giận lẫy của Ông Nhu, mọi người đều cảm thấy
không khí nặng nề khó thở. Ông Nhu đứng lên đi thẳng một mạch, không nói thêm một
câu. Trong phòng Tổng Thống Diệm chỉ còn lại Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương,
Bác Sĩ Trương Khuê Quan, Bác Sĩ Tuyến.
Tổng Thống Diệm vẫn bình tĩnh và như không để ý đến thái độ
giận lẫy của Ông Nhu. Tổng Thống Diệm bảo Bác Sĩ Quan:
- Tôi nhờ Trung Tá ra ngoài đó coi như thế nào. Trung Tá nói
với các Thầy ấy ngưng tuyệt thực đi dân chúng đừng có làm gì phiền nhiễu quá
đáng. Cứ từ từ rồi mọi việc sẽ được thu xếp ổn thỏa.
Cuộc yết kiến Tổng Thống Diệm kéo dài trên 40 phút. Sau buổi
chiều đó, Bộ Quốc Phòng lo giấy tờ Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế. Bộ Trưởng
Nguyễn Đình Thuần trao cho Bác Sĩ Trương Khuê Quan hai lá thư viết tay phong
kín. Lá thơ gửi riêng cho Đại Biểu Chánh Phủ Nguyễn Xuân Khương. Một lá yêu cầu
trao tận tay cho Đại Tá Đỗ Cao Trí Tư Lệnh Sư Đoàn I. Nội dung lá thư đó vừa giới
thiệu Bác Sĩ Trương Khuê Quan vừa chỉ thị một số điều căn bản về việc giải quyết
vụ Phật Giáo tại Huế và Quảng Trị.
Ông Ngô Đình Nhu chống lại phương thức giải quyết của Tổng Thống
Diệm. Ông vẫn có định kiến: Mấy Thầy đó tu hành khi được cái này sẽ đòi cái
khác...có chiến lược trường kỳ mà... Ai còn lạ gì Lê Đình Thám...Hắn là
Marxiste mà...Phật Giáo nhà nước cộng sản mà “tuy vậy Ông Nhu không thể chinh
phục được Tổng Thống Diệm”. Tổng Thống Diệm cũng có biết ít nhiều về Giáo Sư Lê
Đình Thám. Nhưng có lẽ không được hiểu rõ lắm.
Ở đây tưởng cũng nên nhắc lại sơ qua “khung cảnh” Phật Giáo
trước năm 1945, với sự ra đời của tổ chức hội nghiên cứ Phật Học Trung Việt mà
ông Lê Đình Thám là một sáng lập viên, một kiện tướng của hội. Ông Thám muốn hiện
đại hóa Phật Giáo, muốn nâng cao trình độ học vấn của dân chúng cho thích hợp với
trào lưu tiến hóa của thế giới và điểm quan trọng nữa là tập hợp Phật Tử dưới một
tổ chức để chuyên tâm và thống nhất trong việc nghiên cứu kinh sách và hoằng
dương Phật Pháp. Trước năm 1937 khi Hội Seeraba được thành lập thì Phật Giáo Việt
Nam tuy là một thực thể trong quần chúng nhưng không tổ chức hay đúng hơn phi tổ
chức, “sư đâu thì Chùa đó và có Chùa là có Phật có Tăng Ni Phật Tử”.
Năm 1945, Trần văn Giàu làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ
đã thanh toán ngay các phần tử quốc gia và một lãnh tụ quan trọng như Đức Thầy
Huỳnh Phú Sổ, nhà cách mạng Phan Văn Hùm...Trong khi Lê Đình Thám lại được Trần
văn Giầu o bế. Sau ông Thám gia nhập mặt trận Liên Việt và trở thành một trong
mấy đại diện Phật Giáo. Năm 1954, Lê Đình Thám tập kết ra Hà Nội rồi tham gia mặt
trận Tổ Quốc. Bác Sĩ Thám nổi tiếng là con người liêm khiết và say mê Phật
Pháp. Ông là một Phật Tử thuần thành hiếm có.
Hòa Thượng Tố Liên cũng như Thượng Tọa Trí Độ cũng như Bác Sĩ
Thám đều được nhà nước cộng sản Bắc Việt o bế. Riêng Thượng Tọa Trí Độ được
trưng dụng như một cán bộ cao cấp như của nhà nước, tuy Thượng Tọa không phải
là người cộng sản nhưng mà nhà nước cộng sản Bắc Việt đã biến Thượng Tọa thành
một thứ đại diện Phật Giáo Bắc Việt qua tổ chức Tổng Hội Phật Giáo (một tổ chức
làm vì để trình diễn khuôn mặt tôn giáo tại Miền Bắc cũng tương tự như tổ chức
Công Giáo ly khai tại Trung Hoa Lục và Bắc Việt). Trong các hội nghị Phật Giáo
thế giới, Thượng Tọa Trí Độ cũng có mặt để đại diện Phật Giáo Miền Bắc. Trường
hợp Thượng Tọa Trí Độ cũng tương tự như Nhà Sư Shirob Gyaldso của Trung Cộng chỉ
là đại diện Phật Giáo qua tổ chức Phật Giáo nhà nước chứ không có một thực quyền
tôn giáo nào cả.
Căn cứ theo tài liệu của Phòng Nhì Pháp thì các Thượng Tọa
Trí Quang, Thiện Minh v.v...có liên hệ mật thiết với Thượng Tọa Trí Độ cũng như
Bác Sĩ Lê Đình Thám. Năm 1952, Cơ Quan An Ninh đã không cho phép Thượng Tọa Trí
Quang qua Nam Vang tham dự Đại Hội Phật Giáo Thế Giới cũng có mặt của Nhà Sư
Shirob Gyaldso (theo tài liệu trong cuốn The long charade của Chiritfield thì
Thượng Tọa Trí Quang có một huyền thoại khả nghi về phía bên kia). Nhưng tài liệu
của Phòng Nhì Pháp cũng như nhà báo Chiritfield không tin được vì chỉ có một
chiều méo mó và nặng tính chất xuyên tạc.
Khoảng năm 1956, trong một cuộc hành quân tại mật khu việt cộng
tại Thừa Thiên (phần đầu đã viết) Quân Đội có bắt được một tài liệu thuộc loại
“tài liệu chiến lược” (chỉ cán bộ cộng sản cao cấp mới được giữ tài liệu này)
Tài liệu liên quan đến công tác tôn giáo vận tại Miền Nam và những dự định tổ
chức các Hội Đoàn Phật Giáo theo công thức và chủ đích của đảng cộng sản Bắc Việt.
Tài liệu này được trao cho ông Cẩn và nó lại dính dáng tới Thượng Tọa Trí Quang
cũng như Thượng Tọa Thiện Minh sau đó ông Cẩn có mời quý Thầy đến tư thất để
tìm hiểu và thông cảm. Ông Cẩn giữ tài liệu này như một bửu bối. Trường hợp ông
Cẩn người ta nói rằng “chơi dao có ngày đứt tay” thì quả có đúng như vậy.
Thượng Tọa Trí Quang được Phật Giáo Miền Trung nhất là Phật Tử
giới trẻ tôn sùng như thần tượng. Trước vụ Phật Giáo 1963 không có một dấu hiệu
nào khả nghi về hoạt động chính trị của Thượng Tọa Trí Quang. Riêng Thượng Tọa
Thiện Minh lại có những giao hảo rất tốt đẹp với phía ông Cẩn.
Bỗng dưng biến cố bùng nổ và mỗi ngày càng lớn dần càng lan rộng
tại Huế. Giới chức an ninh lại có báo cáo gửi về Sài Gòn cho biết Lãnh Sự và
Phó Lãnh Sự Mỹ tại Huế đã liên lạc mật thiết với các Thầy tại Chùa Từ Đàm. Sở
dĩ biết được như thế vì giới an ninh ở đây đã móc nối với một nhà sư trẻ ở An Cựu
đệ tử của Thầy Thiện Minh về sống rất gần các Thầy...cho nên nhiều kế hoạch của
Từ Đàm đã bị phát giác trước khi thực hiện.
Chính quyền Trung Ương mắc một lỗi lầm lớn là chỉ nhìn tình
hình qua báo cáo của địa phương mà báo cáo của giới chức an ninh thời nào cũng
vậy bị méo mó nghề nghiệp và bị ám ảnh nặng nề bởi cái bóng ma cộng sản. Có lẽ
ông Ngô Đình Nhu có dịnh kiến về mấy Thầy Trí Quang và Thiện Minh qua những báo
cáo địa phương chăng?
Dù Ông Nhu không tán trợ việc dàn xếp với mấy Thượng Tọa Chùa
Từ Đàm nhưng ông cũng không ngăn cản (Ông Nhu chỉ quyết liệt vào trung tuần
tháng 7).
Ngày 6.6.1963 Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế đi chuyến máy
bay đầu tiên. Không khí Huế lúc ấy nặng nề lắm. Chùa Từ Đàm bị phong tỏa, Thành
Phố mang vẻ ốm đau. Ông Nguyễn Xuân Khương đã chính thức nhận Đại Biểu Chánh Phủ
và ăn ở ngay trong căn phòng thuộc lầu 2 của Tòa Đai Biểu, cho đến ngày Bác Sĩ
Trương Khuê Quan ra Huế thì ông Nguyễn Xuân Khương có vẻ lạc quan cho rằng
chính quyền sẽ thắng thế. Nhất là nhờ biện pháp cúp điện cúp nước và phong tỏa.
Chùa Từ Đàm bắt đầu mỏi mệt. Nhưng ông Khương lại không hiểu qui luật tranh đấu
và phương thức giải quyết đó phù hợp với những đòi hỏi xuất phát từ qui luật
này. Giả xử như cúp điện nước và phong tỏa Chùa có thể giúp cho chính quyền thắng
thế nhưng chỉ là cái thằng thế nhất thời và chỉ tạo thêm cho phía tranh đấu có
cớ để hòa quang hóa dối tượng tranh đấu.
Từ đầu tháng 6, Phật Tử Sài Gòn càng thêm nôn nao bất mãn về
việc chính quyền cúp điện nước và phong tỏa Chùa Từ Đàm. Từ đó, dư luận lại
càng thêm sôi nổi và càng được bi đát hóa, báo chí Mỹ-Pháp lại càng có dịp khai
thác thổi phồng. Nhưng tình hình tại chỗ thì lại không bi đát như vậy.
Các Thượng Tọa Chùa Từ Đàm bắt đầu muốn nhượng bộ nhưng dù
sao vẫn còn tự ái và không thể làm mất hào quang cho cuộc tranh đấu được. Trong
cái thế kẹt đó thì sự thành lập Ủy Ban Liên Bộ để cùng với Ủy Ban Liên Phái giải
quyết song phương được coi như một lối thoát tốt đẹp mà không còn lối thoát nào
khác hơn ngoài việc sử dụng biện pháp mạnh.
Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế thi hành sứ mạng móc nối cho
đường lối giải quyết này. Bác Sĩ Trương Khuê Quan khi đến Huế thì vội vã gặp
ngay ông Nguyễn Xuân Khương. Ông Khương còn đang trong phòng riêng với bộ quần
áo ngủ tiếp “sứ giả” Sài Gòn. Theo Lương Khải Minh thuật lại thì khi Bác Sĩ
Quan trao thư của Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần cho ông Khương, ông Khương vừa
xem xong đổi hẳn sắc mặt, thái độ thật tức giận, ông đập mạnh lá thư xuống bàn
và nói với sự đau khổ của người thất bại: “thế này thì chính phủ thua họ rồi
còn gì”. Ông Khương nhăn nhó rồi nói với Bác Sĩ Trương Khuê Quan: “Ở đây đã giải
quyết gần xong họ đã xin chịu thua rồi. Họ đã chịu điều kiện tổ chức một buổi lễ
rồi mời Tổng Thống ra để họ tạ tội rồi. Bây giờ như thế này thì chính phủ thua
rồi...chúng tôi còn làm gì được nữa”.
Bác Sĩ Trương Khuê Quan chỉ có nhiệm vụ thi hành chỉ thị của
Tổng Thống Diệm. Ông không góp thêm một ý kiến nào. Khi Bác Sĩ Trương Khuê Quan
đến gặp Đại Tá Đỗ Cao Trí trao thư của ông Thuần, Đại Tá Đỗ Cao Trí coi xong
cũng lộ vẻ giận dỗi hoàn toàn không đồng ý. Đại Tá Trí than trời như bọng: “Thế
này thì làm sao mà dẹp cho êm được”. Ông Trí tâm sự với Bác Sĩ Trần Kim Tuyến:
“Anh nghĩ coi...khó lắm anh ơi. Mấy cái ông Thầy bên đó ngang ngược còn
hơn...anh ơi...” Ông Trí lại than vắn thở dài: “Nhưng thôi mình là nhà binh thì
thượng cấp chỉ dâu làm đó biết sao bây giờ”. Đại Tá Đỗ Cao Trí vừa hứa với Bác
Sĩ Trương Khuê Quan: “trong khả năng của tôi, tôi xin giúp cho anh mọi phương
tiện anh cần”. Vẫn theo Lương Khải Minh sau đó là Đại Tá Đỗ Cao Trí tự lái xe
đưa Bác Sĩ Quan đến Chùa Từ Đàm và tự tay ông nhấc hàng rào kẽm gai để Bác Sĩ
Quan vượt “bức tường” phong tỏa.
Bên trong các thanh nữ Phật Tử đang lo phận sự bố phòng canh
gác. Không khí rất yên tĩnh. Các Tu Sĩ vẫn sinh hoạt bình thường.
Khi vào nhà Trai thì Thượng Tọa Trí Quang đang ngồi đánh cờ.
Vừa trông thấy Bác Sĩ Quan Thượng Tọa Trí Quang tươi cười: “à chào Sứ Giả Hòa
Bình từ Sài Gòn ra”. Sau khi đôi bên thi lễ vấn an Bác Sĩ Quan đi thẳng vào câu
chuyện. Ông trình bày thiện trí giải quyết của Tổng Thống Diệm với Thượng Tọa
Trí Quang và mấy Thượng Tọa chủ chốt. Không khí thật vui vẻ hòa hoãn. Thượng Tọa
Trí Quang yêu cầu Bác Sĩ Quan can thiệp để nhà cầm quyền ngưng cúp điện nước
nhưng lúc đó thì ông Nguyễn Xuân Khương đã ra lệnh giải tỏa vấn đề điện nước
bay giờ chỉ còn hàng rào dây kẽm gai phong tỏa.
Buổi tối hôm ấy, Bác Sĩ Trương Khuê Quan lưu tại Chùa Từ Đàm
sau khi từ Quảng Trị trở về. Đây là một sứ giả duy nhất của Sài Gòn có dịp gần
mấy Thượng Tọa trong một thời gian 2 ngày để tìm sự thông cảm hai phía. Bác Sĩ
Quan cho Thượng Tọa Trí Quang biết rõ ý của Tổng Thống Diệm là muốn các Sư Sãi
ngưng ngay tuyệt thực trở về nếp sống bình thường sau đó Phật Giáo sẽ cùng
chính quyền giải quyết. Thượng Tọa Trí Quang yên lặng một cách khó hiểu. Tuy
nhiên ông cũng viết một lá thơ trao cho Bác Sĩ Quan đưa ra Quảng Trị chỉ thị
cho Chùa Tỉnh Hội ở đây ngưng tuyệt thực.
Từ Huế ra Quảng Trị, Đại Tá Đỗ Cao Trí phải cho xe gắn đại
liên hộ tống Bác Sĩ Quan mặc dù đường Huế-Quảng Trị lúc ấy vẫn còn an ninh, xe
cộ có thể đi lại suốt ngày đêm nhưng chuyến hành trình của Bác Sĩ Quan có vẻ
gian nan và ông cũng linh cảm thấy sự ngột ngạt khó chịu, khi đến Quảng Trị
không khí còn ngột ngạt hơn.
Tại Quảng Trị, tình hình trong mấy ngày 4, 5, 6 càng trở nên
sôi bỏng. Chùa Tỉnh Hội cũng như tại Từ Đàm đều bị phong tỏa. Các Tăng Ni vẫn
tiếp tục tuyệt thực. Không khí hết sức giao động.
Nhưng khi Bác Sĩ Quan trao thư tay của Thượng Tọa Trí Quang
thì cuộc tuyệt thực được chấm dứt ngay. Sứ giả Sài Gòn đã làm xong nhiệm vụ.
Nhưng tình hình có thay đổi không hay chỉ tạm thời an bình để sửa soạn cho một
kế hoạch mới?
Giới chức ở Huế lúc bấy giờ không tin rằng phía các Thượng Tọa
có đủ lực lượng để làm lớn chuyện và cũng tin rằng có thể thu xếp xong bằng biện
pháp mạnh. Tất cả đều chú ý đặc biệt đến Thượng Tọa Trí Quang. Vì cho rằng vị
Thượng Tọa này mới là người chủ động, linh hồn của cuộc tranh đấu. Nhưng sự thực
Thượng Tọa Thiện Minh mới là người chủ chốt hành động. Thượng Tọa Trí Quang chỉ
là khuôn mặt có tính cách tiêu biểu lãnh đạo Phật Tử về mặt nổi. Mặt chìm với
phương tiện và cán bộ hành động đều do Thượng Tọa Thiện Minh với tất cả phương
thức tranh đấu của một người thâm sâu, bí hiểm.
Khi được Tổng Thống Diệm chấp thuận hòa giải trực tiếp với
các Thượng Tọa Từ Đàm, phía Thượng Tọa Thiện Minh đã thắng được một hiệp đầu và
gỡ được lối thoát cho các nhà lãnh đạo Phật Giáo tại Huế đang bị bế tắc.
Khi Bác Sĩ Trương Khuê Quan từ Quảng Trị trở lại Huế, ông Ngủ
lại Chùa Từ Đàm một đêm. Trước đó, Đại Biểu Nguyễn Xuân Khương có đưa ông lại
tư thất Đức Cha Ngô Đình Thục ông Quan ngồi đợi ngoài phòng khách.
Đại biểu Khương vào trình bày với Đức Cha Thục lâu cả 2 giờ đồng
hồ về những chỉ thị hòa giải của Sài Gòn. Nhưng ông Quan vẫn không được Đức Cha
Thục tiếp kiến và cũng không cho biết ý kiến của Đức Cha Thục như thế nào. Sau
đó Bác Sĩ Quan cùng Đại Biểu Khương đến tư dinh ông Cẩn và ở đây ông Quan cũng
phải chờ đợi lâu cả giờ đồng hồ vẫn không được ông Cẩn tiếp.
Tuy vậy, cho đến lúc ấy, ông Cẩn vẫn một lòng bênh vực giải
pháp điều đình trực tiếp với Huế.
Điều mà trước đây ông đã thỉnh thị Sài Gòn và chính ông đã
cho chuyển lá thư tay của Thượng Tọa Trí Quang lên Tổng Thống Diệm, lá thư ấy
được viết ngay tại nhà ông Cẩn với lời lẽ hết sức khiêm nhường và chỉ yêu cầu
giải quyết 2 nguyện vọng mà thôi. Đến nay, Tổng Thống Diệm chấp thuận điều đình
thẳng với Thượng Tọa Từ Đàm tức ông Cẩn đã toại nguyện vì từ 7, 8 năm qua, ông
Cẩn tự hào về mối liên hệ chặt chẽ giữa ông và các Thượng Tọa Trí Quang, Thiện
Minh cho nên biến cố xảy ra ngoài ý muốn của ông, ông cũng một lòng bênh vực
các Thượng Tọa cũng là điều dễ hiểu.
Bác Sĩ Quan đã thành công một phần nhiệm vụ nhưng Sài Gòn lại
đánh điện gọi ông Quan về gấp.
Trong thời gian Bác Sĩ Trương Khuê Quan ở Huế có nhiều truyền
đơn được tung ra “tố cáo một Trung Tá từ Sài Gòn đã âm mưu với các Thượng Tọa
Chùa Từ Đàm”.
Không khí thật ngột ngạt, ông Quan nhờ chiếc xe Cammontette của
chi cuộc quân tiếp vụ để ra phi trường Phú Bài cùng với Thượng Tọa Thiện Minh về
Sài Gòn. Viên Thượng Sĩ chỉ cho ông mượn xe mà không dám tự lái vì trên đó còn
Thượng Tọa Thiện Minh, ông cho mượn xe rồi chuồn lẹ. Lúc ấy, kể cả xe đò xa ca
của Air Vietnam đều không chịu chở các Thượng Tọa nhất là Thượng Tọa Thiện
Minh. Tình cờ Bác Sĩ Quan gặp ông Cao Xuân Vỹ và Trung Tá Huỳnh (Phó Giám Đốc
Nha Công An Quân Đội ) ra công cán tại Huế và cùng về Sài Gòn một chuyến với
ông Quan. Hai ông đi nhờ xe quân tiếp vụ ra Phú Bài. Nhưng mặc dù cùng phục vụ
một chế độ nhưng mỗi người lại thi hành cho một đường lối khác nhau.
Trên chuyến xe đó có cả Thượng Tọa Thiện Minh. Nhịp cầu Phật
Giáo Huế và Sài Gòn bắt đầu bắt nhịp.
Khi trở về, Bác Sĩ Quan mới giật mình về chuyến đi quá nguy
hiểm của ông mà chính Bộ Quốc Phòng cũng không tiên liệu được. Không hiểu những
tính toán như thế nào của giới chức tại Huế nhưng đã hoàn toàn bất lợi cho Bác
Sĩ Quan.
Do đó, Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần phải đánh điện khẩn cấp gọi
Bác Sĩ Quan về ngay vì e ngại “có thể nguy đến tánh mạng”.
Riêng Thượng Tọa Thiện Minh, khi vào đến Sài Gòn lần này, ông
lại tiếp xúc một lần nữa với Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần. Bác Sĩ Tuyến cũng đến
thăm.
Thượng Tọa Minh tại một nhà người quen. Qua cuộc mạn đàm với
Bác Sĩ Tuyến, Thượng Tọa Thiện Minh tỏ ra rất cởi mở và ôn hòa, có thể nói Thượng
Tọa Thiện Minh đã mền dẻo ngoài sự mong muốn của chính quyền.
Ngày 5.6.1963, Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo nhóm họp lần
thứ nhất tại Hội Trường Diên Hồng. Về phía chính phủ có Phó Tổng Thống Thơ, Bộ
Trưởng Nguyễn Đình Thuần và Bùi Văn Lương. Về phía Phật Giáo có các Thượng Tọa
Tâm Châu, Thiện Minh, Thiện Hoa, Huyền Quang, Đức nghiệp. Đại Đức Đức Nghiệp là
phát ngôn viên của phái đoàn Phật Giáo.
Phiên họp đầu tiên mới chỉ có tính cách giới thiệu và nghi lễ
cùng thảo luận một số vấn đề liên quan đến thủ tục và phương thức thảo luận.
Cho đến ngày 5.6 hiệu lực của Ủy Ban Liên Phái chưa có gì
đáng kể nếu không muốn nói là quá lỏng lẻo. Ngay trong Ủy Ban Liên Phái cũng có
ba khuynh hướng. Khuynh hướng Phật Giáo trong Nam vẫn còn dè dặt, e ngại vì sự
hiện diện của Thượng Tọa Thiện Minh, mà khuynh hướng này vẫn có định kiến “người
của ông Cẩn”.
Khi Thượng Tọa Thiện Minh vào Nam lãnh một vai trò quan trọng
như vậy nhưng vẫn chưa có hậu thuẫn quần chúng, chưa có cán bộ, phần lớn cán bộ
trong giai đoạn này đều thuộc ảnh hưởng của các Thượng Tọa Tâm Châu, Tâm Giác,
Đức Nghiệp. Mà những cán bộ này (nói cán bộ không đúng danh nghĩa) hầu hết thuộc
thành phần đảng phái Quốc Gia có kinh nghiệm hành động và vốn bất mãn với chính
quyền. Tuy không phải là Phật Tử thuần thành nhưng cũng vẫn có danh nghĩa Phật
Tử và nhân cơ hội ngàn vàng một thuở này thì họ tạm thời đứng cùng với Phật
Giáo để tranh đấu.
Đáng kể nhất là một số cán bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng (thuộc
thế hệ trẻ) Miền Bắc di cư cũng như hai Miền Nam Ngãi , giai đoạn đầu đã góp
công không nhỏ làm hậu thuẫn cho các Thượng Tọa trong Ủy Ban Liên Phái. Sau nữa
là một số nhỏ trong hàng ngũ Đảng Duy Tân.
Lớp cán bộ trẻ này, vì nhiệt huyết vì lòng trung kiên với Đảng
và đồng thời cũng bị thúc đẩy bởi khát vọng cách mạng (họ có biết đâu chỉ là ảo
tưởng)... cho nên nhân cơ hội “biến cố Phật Giáo” thì vùng dậy.
Hầu hết lớp trẻ đã tin vào lãnh tụ, tan tác mỗi người một nơi
không tổ chức nhưng vẫn còn truyền thống kết hợp. Mà Phật Giáo với hình ảnh một
Tiêu Sơn Tráng Sĩ cũng là động cơ làm sống động truyền thống của Đảng...Với những
lãnh tụ già nua hủ hóa đã không kết hợp được giới trẻ không đủ khả năng vận động
giới trẻ cho một công trình tranh đấu lớn lao. Bỗng nhiên một số Thượng Tọa đứng
lên lãnh đạo tranh đấu lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam sau Nhà Lý. Chính
các Thượng Tọa này đã trở thành thần tượng thu hút hầu hết đảng viên trẻ của Việt
Nam Quốc Dân Đảng cũng như Đại Việt (nhóm Tự Quyết và Ba Lòng) và một số nhỏ đảng
viên Duy Dân.
Giai đoạn đầu từ tháng 6, cộng sản chưa kịp trở tay chưa xâm
nhập vào được hàng ngũ tranh đấu (hoặc nếu có cũng chưa dám ra mặt) nhưng chính
thành phần đảng phái quốc gia mới là yếu tố chủ động (tất nhiên là thành phần
trẻ). Ngay từ đầu tháng 6, dù không có lệnh ai (bởi không còn lãnh tụ hay đã phủ
nhận lãnh tụ) các đảng viên Việt Quốc cũng như Đại Việt Duy Dân (thuộc hàng ngũ
tiến bộ và trong sạch) đều tự động đứng lên hoạt động theo từng nhóm và tự động
đứng vào Phong Trào đấu tranh của Phật Giáo. Các nhóm đảng kể như nhóm Yên Bái
(Đại Học Văn Khoa, Sư Phạm và Luật) gồm những cán bộ cốt cán như nữ sinh viên
Uyển, sinh viên Đỗ Tấn Phú...cùng những Đỗ Đình Duyệt (Công Giáo) Đỗ Đức Thịnh
(Công Giáo) cùng với nhóm Nguyễn Thường Bá, Uyên Thao (một cán bộ trẻ cốt cán của
một hệ phái Việt Nam Quốc Dân Đảng và đã góp không nhỏ trong cuộc tranh đấu của
Phật Giáo 1963) Và Thế Uyên. Các đảng viên trẻ Duy Dân thì quy tụ quanh qua Thượng
Tọa Tâm Châu như nhóm Vỵ Ý. Miền Trung nhóm trẻ Việt Quốc cũng vùng dậy và đóng
vai trò quan hệ trong giới sinh viên Huế.
Giới Đảng Viên kỳ cựu cũng tích cực dấn mình vào cuộc tranh đấu
như nhóm Việt Quốc của Cụ Bạch Vân (Công Giáo), nhóm ông Đĩnh (tự Đính Cụt,
Công Giáo), nhóm Việt Quốc Miền Nam, nhóm Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn, nhóm Việt
Quốc Như Phong, Nguyễn Hoạt (tờ Tự Do).
Có thể nói giai đoạn đầu tại Sài Gòn con số 5, 7 Tăng Sĩ nếu
không có sự tham gia tích cực của các đảng viên trẻ thuộc đảng phái quốc gia
thì Phật Giáo cũng chưa thể tạo được một thanh thế to lớn. Rồi những huyền thoại
lan truyền mau chóng trong giới trẻ này để tạo dựng khí thế như là “Thượng Tọa
Tâm Châu, thuộc Đảng Duy Tân, Thượng Tọa Minh Hòa, Thượng Tọa Quảng Đức cũng
như một cảm tình viên Việt Quốc” cứ như thế...như thế...giới trẻ lao vào cuộc
tranh đấu không cần biết cuộc tranh đấu đi đến đâu.
Thành phần đảng phái Quốc Gia thuộc giới trẻ kể trên thành thực
lực đầu tiên của Phong Trào Tranh Đấu Phật Giáo tại Sài Gòn. Nhưng họ chỉ là
cán bộ bậc trung còn ít tuổi không có lãnh đạo cho nên khi cùng đứng trong
Phong Trào Tranh Đấu Phật Giáo thì lẽ tự nhiên họ tự đặt mình trong sự lãnh đạo
của các Thượng Tọa và rồi đồng hóa bản chất “đảng Quốc Gia” của mình với bản chất
của Phong Trào Tranh Đấu Phật Giáo lúc ấy. Ngoại trừ mấy nhóm đảng viên kỳ cựu
như đã viết ở trên, hoạt động lẻ tẻ ủng hộ cuộc đấu tranh bằng tinh thần và hỗ
trợ theo cách riêng. Hầu hết thành phần trẻ tạm thời tự động thoát ly Đảng để tự
đặt mình trong cuộc tranh đấu với hy vọng cuộc tranh đấu thành công thì họ sẽ
là những thành phần cốt cán chủ động phục hồi đảng.
Vốn lãng mạn từ bản chất qua tinh thần cách mạng Tự Lực, lớp
trẻ lại không được đào tạo theo một kỹ thuật đấu tranh, cũng không biết về qui
luật đấu tranh cho nên vô tình họ trở thành con tốt trong một ván cờ, mặc dầu
khi dấn thân vào cuộc họ dâng cả trái tim, cả bầu nhiệt huyết, cả cuộc đời. Những
Uyên Thao, Vỵ Ý là một thí dụ. Đầu tháng 7.1963 khi cộng sản đã điều nghiên
xong, đã dự trù mọi kế hoạch hành động thích nghi và nhảy vào cuộc, thâm nhập ồ
ạt vào ngay trong lòng cuộc tranh đấu thì thế lực Quốc Gia dần dần bị giảm sút
hoặc lại bị chính cộng sản giật giây và núp bóng. Nhưng có điều quan trọng khi Ủy
Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ nhóm họp tại Hội Trường Diên Hồng thái độ người
Mỹ như thế nào?
Qua Văn thư của chính phủ Mỹ do Phó Đại Sứ Truheart trao cho
Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần để trình lên Tổng Thống Diệm thì chính phủ Mỹ nóng
lòng thúc đẩy Tổng Thống Diệm giải quyết vụ Phật Giáo, vì cho rằng báo chí và
dư luận Mỹ đang gặp bất lợi cho chính phủ Việt Nam nói riêng, và Tổng Thống
Kennedy đang gặp khó khăn tại quốc nội do cuộc khủng hoảng tôn giáo tại Việt
Nam. Từ Ngoại Trưởng Mỹ đến Tổng Thống Kennedy đều cùng một lập trường thúc đẩy
chính quyền Việt Nam giải quyết mau lẹ vụ Phật Giáo. Đại Sứ Nolting vẫn là người
bạn tri giao của Ông Nhu và rất cảm phục Tổng Thống Diệm. Quan điểm của ông lúc
ấy là tế nhị và dè dặt nhưng tích cực ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm.
Nhưng ngay trong Tòa Đại Sứ Mỹ lại có một khuynh hướng chống
đối tích cực chế độ Ngô Đình Diệm. Khuynh hướng này được ngấm ngầm hỗ trợ bởi
ông Phó Đại Sứ Truheart. Phía CIA (mặt nổi) đại diện là Đại Tá Richardson lại
là người ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm nhưng phụ tá của ông tức Smith lại có nhiều
liên lạc ngầm với một số chính khách thuộc nhóm Phan Huy Quát lại muốn nhân cuộc
khủng hoảng Phật Giáo đòi áp lực đòi Tổng Thống Diệm cải tổ nội các và thay đổi
một số cơ chế trong guồng máy công quyền.
Phía CIA chìm (đây mới là yếu tố quan hệ) đã tìm mọi cách móc
nối với một vài nhân vật thuộc phe tranh đấu Phật Giáo (Đại Đức Đại Nghiệp với
tư cách phát ngôn viên, giao tiếp với ký giả Mỹ và CIA đã trá hình móc nối qua
ngã này). Do đó, ngay khi phía Phật Giáo và chính quyền ngồi vào bàn hội nghị
thì đã có những bàn tay thứ ba quấy phá. Vì nếu chính quyền và Phật Giáo đi đến
một ổn thỏa tốt đẹp thì họ không lợi dụng được gì.
Từ cuối năm 1962 tại Mỹ đã có một khuynh hướng hỗ trợ nhóm
Phan Huy Quát và đòi chánh quyền Ngô Đình Diệm phải cải tổ, đặt thêm chức Thủ
Tướng với quyền hạn rộng rãi. Phan Huy Quát và xa hơn là Vũ Quốc Thúc có nhiều
triển vọng được giới chức Mỹ áp lực với Tổng Thống Diệm đặt vào chức vụ Thủ Tướng
này.
Nhưng với một người ngang bướng và cương quyết như Tổng Thống
Diệm thì không bao giờ Mỹ có thể thành công trong những toan tính như vậy. Sự
hiện diện diện của Ông Nhu lại càng tạo thêm khó khăn, vì không thể nào một Ngô
Đình Nhu chấp nhận một Thủ Tướng có quyền hành rộng rãi như kiểu Thủ Tướng Phan
Huy Quát cho nên từ Harriman đến Hilsman và Truheart đều cho rằng muốn cải tổ nội
các và cơ chế dân chủ tại Việt Nam thì phải trục xuất vợ chồng Ông Nhu. Tổng Thống
Diệm sẽ không thể làm gì khác hơn là cai trị trên uy quyền tượng trưng.
Nhưng toan tính đó không qua khỏi cặp mắt Ông Nhu.
Cuộc hòa giải giữa chánh quyền và Phật Giáo qua Ủy Ban Liên
Phái và Liên Bộ đang tiến hành tốt đẹp thì bỗng nhiên gặp trở ngại.
ĐỔ THÊM DẦU VÀO LỬA
Vào buổi sáng thứ bảy sau phiên họp ngày 5.6 giới chức Phủ Tổng
Thống lại muốn điên đầu về bản thông cáo của Hội Phụ Nữ Liên Đới (tất nhiên do
Bà Nhu soạn thảo). Trước đó Bà Nhu triệu tập Hội Đồng Ban Chấp Hành Trung Ương
để thảo luận và tỏ thái độ về hòa giải trên.
Trong bản thông cáo ấy Bà Nhu gay gắt lên tiếng phản đối với
phương thức giải quyết của Tổng Thống và nặng lời công kích một số nhà lãnh đạo
Phật Giáo. Bà Nhu lấy lý do rằng Phật Giáo cũng là một hội đoàn, Phong Trào
Liên Đới cũng là một hội đoàn, và như vậy Phong Trào Liên Đới có quyền lên tiếng
không ai có quyền cấm đoán kể cả chánh quyền. Cái lý do của Bà Nhu thì rất đúng
không ai chối cãi được vì trong một cộng đồng quốc gia các đoàn thể đều được đối
xử ngang nhau trước pháp luật và đều được quyền tỏ thái độ bất bình đối với một
đoàn thể khác miễn sao không xâm phạm đến an ninh quốc gia. Nhưng sự việc đâu
có giản dị như vậy nhất là trong thực tại xã hội Miền Nam vốn đầy ngộ nhận ganh
ghét và hận thù. Bà Nhu cho rằng lên tiếng công kích Phật Giáo theo tư cách Chủ
Tịch Phong Trào Liên Đới tức là không dính dáng gì đến chánh phủ và chánh phủ
phải coi đó là điều tối cần phải ủng hộ. Bởi vì khi chính phủ đang có chuyện rắc
rối với một hội đoàn khác lên tiếng công kích hội đoàn này và hỗ trợ chính phủ
như vậy chính phủ còn có cái may mắn nào hơn.
Nhưng thực tế đâu có giản dị như vậy và nhất là thực tế xã hội
Việt Nam thì không thể dùng một thứ “logique” nào phân tách được. Bà Nhu là em
dâu một vị Tổng Thống, uy quyền của bà trên thực tế ai cũng thấy và nhất là bản
thông cáo của bà lại do một phiên họp tổ chức ngay trong Dinh Gia Long thì bản
thông cáo ấy đã mặc nhiên là tiếng nói bán chánh thức của chính quyền dù cho biện
minh khéo léo thế nào thì cũng không ai nghe.
Vẫn biết rằng Bà Nhu được nghe người ta kể lại đầy đủ về đời
sống thâm cung bí sử của Thầy Thiện Minh, Bà Nhu có định kiến về mấy thầy ấy là
“sư hổ mang” (ngôn ngữ của Bà Nhu thường dùng trong cuộc đàm đạo) nhưng tâm lý
quần chúng khó có thể chấp nhận cho một người đàn bà lên tiếng công kích mạt
sát các vị lãnh tụ tinh thần dù các vị ấy thế nào chăng nữa...Rồi một điểm sai
lầm quan trọng hơn là Bà Nhu đã tổng quát hóa Phật Giáo tuy là chiếm đa số
trong quần chúng nhưng số Phật Tử thuần thành lại không bao nhiêu.
Bà Nhu thường viết diễn văn thông cáo bằng Pháp Văn, có nhẽ bản
thông cáo do người dịch thiếu sự am tường và tế nhị của Việt Ngữ nên bản Pháp
Văn đã nặng dịch ra Việt Ngữ lại càng nặng hơn.
Bà Nhu quyết định phổ biến bản thông cáo đó trên báo chí.
Cũng vào sáng thứ bảy hôm ấy trong một bài nói về Phật Giáo
Việt Nam xướng ngôn viên đã không tiếc lời ca ngợi công đức Tổng Thống đối với
sự phát huy Phật Giáo và đưa ra thống kê: Số Chùa trong toàn quốc có 4776. Khi
Tổng Thống Diệm chấp chánh từ năm 1954 đến 1963 thì Phật Giáo đã xây thêm được
1275 ngôi Chùa mới và trùng tu được 1295 ngôi Chùa đã hư hại vì thời gian chiến
tranh.
Sự thực thì Tổng Thống Diệm đã giúp rất nhiều tài chánh và
phương tiện để xây cất Chùa. Đó là điều Tổng Hội Phật Giáo biết rõ. Thế nhưng
khi cao trào tranh đấu đang lên thì dân chúng lại không tin những con số thống
kê về thành tích của chính phủ đối với Phật Giáo. Con số thống kê mà dân chúng
không tin huống chi thông cáo của Bà Nhu thì không ai có thể tin rằng đó là
thái độ trung trực. Nhất là bản thông cáo ấy lại nói trùm lấp cả một tập thể lớn
như Phật Giáo. Phương thuật chính trị dùng để phản đối phe “đối lập” không dùng
cách này.
Khoảng sáng thứ bảy Bác Sĩ Tuyến vào Dinh và đến phòng ông Đổng
Lý Lý Đoàn Thêm ngồi nói chuyện trăng gió nước non thì ông Phan Văn Tạo Tổng
Giám Đốc Thông Tin bước vào, ông Tổng Giám Đốc Thông Tin đang muốn “điên đầu”
vì bản thông cáo mà Bà Nhu làm áp lực phải phổ biến trên báo chí.
Giới cao cấp trong chánh quyền lúc đó đã có hơn hai khuynh hướng
một muốn hòa giải cho êm một muốn làm mạnh. Tổng Thống Diệm đứng về phía hòa giải.
Bà Nhu là một trong những người không chấp nhận phương thức hòa giải của Tổng
Thống một phần do bà ta thích làm chuyện khác lạ. Hơn nữa Bà Nhu cũng như Ông
Nhu không bị mặc cảm Thiên Chúa Giáo trong khi đó thì Tổng Thống Diệm bị dày vò
bởi mặc cảm này.
Trong thông cáo tỏ thái độ của Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới đến
nay đọc lại thì kể ra cũng không có gì gọi là quá nặng nề nếu xét toàn bộ văn bản.
Nhưng nếu cắt xén từng câu thì quả là ngột ngạt.
Ông Phan Văn Tạo trao bản thông cáo ấy cho Bác Sĩ Tuyến và
ông Đổng Lý Đoàn Thêm coi. Bác Sĩ Tuyến cũng phải giật mình vì nếu phổ biến
thông cáo này sẽ hoàn toàn bất lợi trong dư luận và gây nên sự hiểu lầm giữa
chánh quyền và Ủy Ban Liên Phái trong khi cuộc hòa giải đang tiến hành tốt đẹp.
Ông Tổng Giám Đốc Thông Tin cho biết Bà Nhu có gọi điện thoại
thẳng cho ông hỏi tại sao không cho phổ biến thông cáo ấy vào các số báo xuất bản
sáng thứ bảy. Ông Tạo phải tìm cách nói khéo để kéo dài thời gian hầu có thể tiếp
xúc thẳng với Phủ Tổng Thống. Với nội dung bản thông cáo ấy ông Phan Văn Tạo
cũng cảm thấy sẽ gây nên phản ứng bất lợi trong dư luận.
Từ ông Đoàn Thêm đến Bác Sĩ Tuyến đều đồng ý như vậy. Nhưng
làm thế nào để ngăn chặn nổi khi Bà Nhu muốn. Quyết định ra sao chỉ có Tổng Thống
Diệm mới dứt khoát được.
Thời nào cũng vậy, đảm trách Ngành Thông Tin ở một xứ chậm tiến
quả thực vạn phần khó khăn nhất là khi gặp những biến cố lớn.
Nhưng đó cũng là cách góp công vào việc làm thế nào để giết một
Tổng Thống.
Ông Phan Văn Tạo cùng Bác Sĩ Tuyến đành ngồi tán chuyện đời tại
phòng ông Đổng Lý Đoàn Thêm trong lúc chờ đợi ông Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần
đang họp ở Hội Trường Diên Hồng.
Khoảng 11 giờ 30, ông Thuần trở về văn phòng. Xem xong bản
thông cáo thì ông cũng đồng ý ngay không thể phổ biến ngay được và phải trình
lên Tổng Thống Diệm.
Khi lên yết kiến Tổng Thống và trình bày lợi hại, Tổng Thống
Diệm cũng đồng ý với ông Thuần không thể phổ biến thông cáo này được.
Chiều hướng giải quyết tranh chấp nội bộ bao giờ cũng đòi hỏi
sự tế nhị khôn khéo và nhất là phải tránh ngộ nhận một khi đã tạo nên ngộ nhận
thì khó lòng có thể giải quyết êm xuôi, giải quyết những tranh chấp không thể sử
dụng những hình thức thông cáo tuyên ngôn khi mà những hình thức này chỉ tạo
thêm sự rắc rối.
Bà Nhu lý luận rằng: Bà không chống lại Phật Giáo mà bà chỉ
lên tiếng chống lại phần tử lợi dụng Phật Giáo. Nhưng vì không có căn bản và
kinh nghiệm chính trị nên bà đã quên yếu tố này: Dù là một thiểu số cá nhân
nhưng cá nhân đó khi tạo được danh nghĩa để nhân danh tập thể và mặc nhiên đại
diện cho danh dự và chính nghĩa mà họ đang lôi kéo quần chúng ủng hộ. Quần
chúng có là cái gì đâu, chỉ là đám đông dễ tin dễ phẫn nộ và quần chúng không
biết phê bình.
Nếu quần chúng phê bình thì chỉ phê bình một chiều và do một
thiểu số lãnh đạo quần chúng chỉ dẫn sách động. Bản thông cáo của Bà Nhu chỉ cần
xén một vài câu vài lời cũng đủ vốn liếng để phẫn nộ trong quần chúng (thực tế
đã xảy ra như vậy).
Khi giải quyết các biến cố người cầm quyền dù có thiện chí giải
quyết thì bao giờ cũng phải chú trọng đến mấy điểm sau đây:
1/ Quyền lợi đòi hỏi của những người đại diện phe tranh đấu.
2/ Khối trầm lặng chưa có thái độ mà bao giờ cũng đông đảo.
3/ Phải khám phá và đề phòng kịp thời những phần tử phá hoại
hòa giải để kéo dài cuộc tranh đấu cho mục tiêu xa hơn. Tiếc thay, bản thông
cáo của Bà Nhu trở thành một động cơ xáo trộn cuộc hòa giải và chính nó đã làm
cho khối trầm lặng bất mãn...và đó cũng là dịp may cho các phần tử khuấy động
(cộng sản và ngoại bang) tạo cơ hội kéo dài cuộc tranh đấu. Khối trầm lặng đã bất
mãn thì nguy cơ không xa.
Khi được biết ý kiến của Tổng Thống Diệm và ông Bộ Trưởng Thuần,
ông Giám Đốc Thông Tin yên trí có thể dẹp bản thông cáo của Bà Nhu. Nhưng Bà
Nhu đâu có chịu thua một cách dễ dàng như vậy.
Bà Nhu lại gọi điện thoại cho Phan Văn Tạo lần nữa và cất vấn
tại sao không cho phổ biến.
Ông Tạo thực tình trình bày sở dĩ không cho phổ biến là ý
nghĩ của Tổng Thống. Với giọng nói giận tức Bà Nhu bảo ông chờ máy để bà hỏi lại
Tổng Thống. Cuộc hội kiến giữa Bà Nhu và Tổng Thống Diệm như thế nào không được
rõ nhưng sau đó, Bà Nhu cho ông Tạo Biết Tổng Thống đã đồng ý. Tuy vậy ông Phan
Văn Tạo vẫn chưa tin nên không dám phổ biến ngay. Ông lại thỉnh ý kiến của Bộ
Trưởng Thuần.
Ông Thuần đem tự sự trình bày lại Tổng Thống Diệm thì ông Tổng
Thống tỏ vẻ khó chịu lắm và vẫn giữ ý kiến cũ không cho phổ biến thông cáo này.
Thảng hoặc tìm cách phổ biến một cách hạn hẹp. Trùng vào ngày các báo Việt Ngữ
nghỉ hàng tuần nên bản thông cáo ấy chỉ phổ biến trên bản tin của Việt Tấn Xã (ấn
bản ngoại ngữ) và tờ Journal Extrême Orient Time of Vietnam có đăng lại.
Trước đó, trưa thứ bảy khi ông Thuần vào gặp Tổng Thống ông
Thuần tỏ vẻ buồn phiền nói với Bác Sĩ Tuyến và ông Đoàn Thêm: “phổ biến thông
cáo này thì bất lợi cho cuộc hòa giải lắm. Bà Nhu bảo Tổng Thống đã đồng ý như
vậy không hiểu chính phủ dứt khoát vấn đề này như thế nào?”
Nhưng Tổng Thống Diệm đã xác định rõ với ông Thuần “Chính
sách của chính phủ không có gì thay đổi cả”.
Chiều chủ nhật, ông Bộ Trưởng Thuần lại một lần nữa vào Dinh
xin gặp Tổng Thống nhưng ông Tổng Thống mắc bận.
Cuối cùng ông Tạo đành phổ biến và nói với Bác Sĩ Tuyến:
“không biết làm sao hơn”. Cũng như trước đó, ông phải trả lời Bà Nhu: “Tổng Thống
đã đồng ý như vậy thì tôi xin tuân theo ý Tổng Thống”.
Sáng thứ hai thông cáo trên đươc phổ biến thì chiều đã được
đăng tải hầu hết các báo Việt Ngữ (ra vào thứ ba).
Kết quả đúng như sự tiên liệu: Bản thông cáo ấy với lời lẽ cứng
rắn (nếu không muốn nói là lớn tiếng cao ngạo cùng lập trường chống lại phương
thức hòa giải qua Ủy Ban Liên Bộ và Liên Phái đã tạo nên một phản ứng mạnh về
phía Phật Giáo. Dư luận chung cũng tỏ ý bất mãn. Nghĩa là bản thông cáo của Bà
Nhu hoàn toàn bất lợi cho phía chánh quyền và đối với cuộc tranh đấu của Phật
Giáo thì bản thông cáo ấy được coi như một sự thóa mạ và chỉ như một thùng dầu
lớn đổ vào ngọn lửa đang cháy to. Như trên đã viết, trong cuộc tranh đấu nào
cũng vậy vẫn có một khối trầm lặng rất đông đảo...khi thấy một tập thể nào đứng
lên chống chính quyền thì cũng lấy làm vui thích và chỉ hưởng ứng trong lòng mà
thôi. Họ thực sự trầm lặng như một khách bàng quan. Nhưng sau cái thông cáo của
Bà Nhu thì bỗng dưng khối quần chúng đông đảo đó nghiêng dần về phía Phật Giáo.
Ủy Ban Liên Phái cho rằng với bản thông cáo ấy chính quyền tỏ
ra thiếu thành tín, phản ứng như vậy cũng rất phải. Bởi vì Tổng Thống Diệm tỏ
bày lập trường hòa giải tột bậc em dâu của Tổng Thống lại lên tiếng công kích
như thế thì hẳn nhiên phía Ủy Ban Liên Phái phải nghĩ rằng có sự tráo trở và
hòa giải chỉ là cách chính quyền cố kéo dài để tìm cách ứng phó. Do đó mâu thuẫn
và hiểu lầm giữa đôi bên mỗi ngày một lớn một sâu cuộc hòa giải có thể tan vỡ.
Phía Ủy Ban Liên Phái thấy rằng đã đến lúc phải ra tay gây một
tiếng vang lớn để mở đầu cho một giai đoạn tranh đấu quyết liệt.
Phải công nhận rằng trong cuộc tranh đấu của Phật Giáo 1963,
các vị Tăng Sĩ lãnh đạo đã có nhiều sáng kiến và kỹ thuật tranh đấu mới lạ và
hiệu quả.
LỬA ĐÃ THỰC SỰ BÙNG LÊN
Hòa Thượng Quảng Đức là Nhà Tu tự nguyện mở đường cho giai đoạn
này. Sáng ngày thứ ba nhằm ngày 11.6 Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu tại Ngã Tư
Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng. Một tiếng sét lớn. Cơn giông tố thực sự bắt đầu.
Tiếng sét làm rung chuyển con người Tổng Thống Diệm. Cuộc hy sinh tự thiêu để
hiến thân cho dân tộc và đạo pháp của Hòa Thượng Quảng Đức có phải là một phản ứng
đột ngột trước bản thông cáo của Bà Nhu hay không ? Sự hy sinh tự thiêu của Hòa
Thượng thự sự được sửa soạn bố trí nhiều ngày.
Sáng ngày 11.6 hồi 9 giờ 30, Một lễ cầu siêu được tổ chức tại
Chùa Phước Hòa với hàng trăm Tăng Ni tham dự.
Sau đó, các Tăng Ni tiến về phía Ngã Tư Lê Văn Duyệt-Phan
Đình Phùng và ở đây Hòa Thượng Quảng Đức đã tự thiêu.
Hòa Thượng đi trên một chiếc xe Austin (chiếc xe này của ông
Trần Quang Thuận, rể của cụ Tôn Thất Hối)...
Cũng vào giờ này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đang dự lễ Cầu Hồn
cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tại Vương Cung Thánh Đường do Đức Cha Nguyễn Văn
Bình chủ đại lễ. Tham dự có đông đủ bá quan văn võ từ Phó Tổng Thống Thơ đến Chủ
Tịch Quốc Hội, Bộ Trưởng. Ngoại Giao Đoàn và đặc biệt giới ngoại giao Pháp cũng
có mặt đông đủ.
Khi vừa tan lễ thì Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương đến bên
Tổng Thống Ngô Đình Diệm báo cho ông biết về vụ tự thiêu tại Đường Phan Đình
Phùng. Tổng Thống Diệm đứng khựng lại mặt đỏ bừng rồi biến sắc. Ông nói: “có gì
mà phải làm như vậy” Tổng Thống Diệm lật đật về Dinh.
Theo Sĩ Quan Tùy Viên Lê Công Hoàn có thể nói từ sáng hôm ấy
Tổng Thống Diệm bắt đầu cho một chuỗi dài những ngày lầm lì, ít nói có khi ngồi
lặng thinh hút thuốc lá lâu cả giờ đồng hồ.
Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần vào yết kiến ông ngay sau đó. Tổng
Thống Diệm lừ đừ mặt cúi gầm.
Ông ngồi lặng thinh cả nửa giờ hết điều thuốc lá này đến điếu
khác, ông thả vài đợt khói rồi lại dụi tàn. Một lát sau, Tổng Thống Diệm bảo
ông Thuần: “Việc gì rồi thu xếp có gì mà phải làm như vậy” (ý nói vụ tự thiêu).
Giới thân cận nhất của Tổng Thống Diệm đều xác nhận: Thái độ
của Tổng Thống Diệm lúc ấy thật bàng hoàng. Nét mặt ông đau xót trông thấy. Vụ
tự thiêu tạo nên một xúc động quá lớn đối với Tổng Thống. Tại sao vậy? Điều dễ
hiểu vì ông là một tín đồ Thiên Chúa Giáo rất là ngoan đạo, là một Nhà Nho cai
trị dân theo quan niệm “thừa thiên hành đạo” cho nên trước biến cố như vậy tự
nhiên là ông xúc động. Lương tâm Thiên Chúa Giáo cũng dày vò ông vì Giáo Lý
không cho phép tự hủy mình, ông người gây nên sự tự hủy mình của kẻ khác cũng
là một trọng tội. Tổng Thống Diệm chắc chắn bị xúc động từ một mặc cảm này mặc
dù người trong cuộc ai cũng biết ông không có trách nhiệm nhưng ở phương vị
lãnh đạo với quan niệm của Nho Gia thì tự ông lại thấy mình có trách nhiệm.
Vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức có kết quả đầu tiên và mạnh
mẽ là trước hết đã tạo được sự xúc động trong lương tâm của một vị Tổng Thống.
Ngay buổi chiều hôm đó, Tổng Thống cho soạn thảo một bản hiệu
triệu quốc dân trong đó Tổng Thống Diệm nói rõ với quốc dân rằng “sự hòa giải
đang tiến hành tốt đẹp thì sớm nay do sự tuyên truyền quá khích che dấu sự thật
gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ khiến một số người bị đầu độc gây một
án mạng oan uổng làm tôi rất đau lòng” (nguyên văn).
Phía Phật Giáo bước qua một giai đoạn mới. Trước vụ tự thiêu
thì chỉ có một số Phật Tử ruột các Thượng Tọa tích cực tham gia cùng với các
thành phần đảng phái quốc gia đối lập, nhưng sau vụ tự thiêu khối quần chúng trầm
lặng đông đảo vốn tiêu cực trong bao lâu nay cũng bị xúc động mạnh và bắt đầu
nghiêng hẳn về hàng ngũ tranh đấu.
Dầu cứ đổ thêm vào lửa...Phía tranh đấu khai thác triệt để bản
thông cáo của Bà Nhu...
Như trên đã viết đọc đầy đủ văn bản đó thì không có gì nặng nề
nhưng quả tình có những từ ngữ rất dễ gây nên sự bất mãn.
Mở đầu bản thông cáo , Bà Nhu viết “Xét rằng, toàn dân Việt
Nam dầu thuộc tôn giáo nào vẫn tôn trọng giáo lý Đạo Phật và luôn luôn tôn kính
Đức Phật Tổ một bậc đại thánh hiền vì lẽ đó một số người Việt đã tự nhận mình
là Phật Tử mặc dù đa số không theo môn phái nào mà chỉ thành tâm và hồn nhiên
thi hành đức từ bi”.
Sau đó, Bà Nhu lại phê bình chính phủ: “Xét rằng chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa dầu đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ trong cuộc chiến đấu chống
phá hoại nhưng đôi khi vẫn còn thiếu phòng xa trong nhiệm vụ giữ gìn trật tự công
cộng, bảo vệ luật pháp và như vậy chẳng khác nào mở cửa cho sự lạm dụng trắng
trợn”.
Sau đó, Bà Nhu nhân danh phụ nữ Việt Nam “thành khẩn yêu cầu
những vị Tăng Ni chân chánh tránh tuyệt thực với dụng ý công kích đả phá vì như
vậy tức là phản lại giáo lý của Đức Phật đã dạy nên kiềm chế những đòi hỏi của
thể xác như sự đói bằng cách không thỏa mãn để nó đạt đến Niết Bàn” (nguyên
văn)
Bà Nhu lại yêu cầu quí vị Tăng Ni “giữ thái độ bình tĩnh trước
hành động của những kẻ núp sau bóng từ bi để gây rối loạn lột mặt nạ những kẻ
có hành động phá hoại nhằm mục đích làm giảm uy tín của Phật Giáo và khuynh đảo
quốc gia do sự xúi dục của ngoại bang” Rồi Bà Nhu lại yêu cầu chính phủ ra lệnh
trục xuất những người ngoại quốc gây rối (nguyên văn).
Dạo năm 1963 người Việt Nam mọi giới chưa có kinh nghiệm về
người Mỹ Lúc ấy 16.000 Cố Vấn Mỹ thì hình bóng người Mỹ còn tương đối dễ thương
và chưa tác hại lớn lao đến mọi sinh hoạt quốc gia và xã hội. Người Việt cũng
chưa bị ám ảnh về tổ chức CIA và cũng chưa hiểu rõ sức mạnh của tổ chức này
(ngoại trừ giới Chính Khách và Quân Nhân cao cấp). Thế nên khi Bà Nhu nói rằng
các Nhà Sư bị ngoại bang xúi dục thì đối với quần chúng còn quá mơ hồ và người
ta tự hỏi ngoại bang ở đây là ai? Nếu nói là Mỹ thì quần chúng sẽ không tin vì
Mỹ đang ủng hộ chính quyền do đó sự tố cáo của Bà Nhu dù cho là thực thì dân
chúng vẫn cho là điều vu cáo. Dân chúng Việt Nam lại không bao giờ chấp nhận một
người đàn bà (dù ở địa vị nào) lớn tiếng vu cáo các nhà tu hành và tổ chức tôn
giáo. (bằng chứng Bà Nhu đã mất nhiều cảm tình của tín đồ Thiên Chúa Giáo khi
công kích một số Linh Mục mà bà cho rằng chuyên môn chạy affaire. Cũng như trước
đó năm 1954, giáo dân Phát Diệm di cư dù tích cực ủng hộ Tổng Thống Ngô Dình Diệm
nhưng cũng tỏ ra phẫn nộ khi đài phát thanh công kích Cha Hoàng Quỳnh và gọi
Cha
Quỳnh là “Đại Úy Hoàng Quỳnh”.
Theo giới thân cận thì trong mấy ngày liền ông Tổng Thống vẫn
lầm lì, đôi lúc không có chuyện gì đáng kể ông Tổng Thống vẫn “quắc mắt nhìn lừ
đừ” rồi lại cúi xuống dụi tàn thuốc lá liên miên.
Điều làm cho Tổng Thống Diệm tức giận hơn là vụ chiếc xe
Austin của Trần Quang Thuận. Lúc ấy Trần Quang Thuận đang là Quân Nhân. Sau khi
điều tra, Cơ Quan An Ninh báo cáo cho Tổng Thống Diệm chiếc xe Austin chở Hòa
Thượng Quảng Đức và bình xăng đến địa điểm tự thiêu là của Trần Quang Thuận.
Ông Tổng Thống nổi giận và cho gọi Tôn Thất Thiết, Chánh Sở Nội Dịch lên rầy rà
(mặc dù ông Thiết không dính dáng vào nội vụ). Và biểu Tôn Thất Thiết về nói với
cụ Tôn Thất Hối sao lại để con rể làm như vậy. Ai cũng biết rằng Tổng Thống Ngô
Đình Diệm với cụ Tôn Thất Hối coi nhau như người trong nhà. Cụ Hối vẫn tỏ lòng
thầm phục vị cựu Thượng Thư của triều đình Nguyễn. Tuy Trần Quang Thuận bị thượng
cấp gọi lên rầy rà nhưng cũng không sao cả (sau này ông ta mới bị bắt). Ông Thuận
thanh minh rằng tình cờ cho người ta mượn xe mà thôi.
Chiếc xe của Trần Quang Thuận cũng là một trong những vết
thương nội tâm của Tổng Thống. Một người như Tổng Thống Diệm không thể nào chịu
kẻ “nội thù” của chế độ lại là người trong nhà, người của chế độ, vì ông Thuận
vẫn giáo tế tốt đẹp với một vài nhân vật cao cấp của chế độ thuộc ngành an
ninh.
Ngoài ra khi báo chí Mỹ càng công kích chính quyền bao nhiêu
thì Tổng Thống Diệm càng giao động vì bản tính của ông trong bấy lâu rất thận
trọng và e ngại các vụ “sì căng đan...” Mặt khác, Ông Nhu đã thầm cảm thấy rằng
bang giao Việt-Mỹ đang rạn nứt trầm trọng. Nắm chính quyền trong tay hẳn nhiên
Ông Nhu biết rõ thực lực của Ủy Ban Liên Phái. Điều mà chính quyền e ngại là
cao trào đấu tranh sẽ bộc phát trong giới Sinh Viên và Học Sinh vì đây mới là
thành phần quan trọng và chính tập thể Sinh Viên và Học Sinh đã đóng vai trò chủ
động trong vụ Phật Giáo. Nhưng trung tuần tháng 6 thì giới Sinh Viên và Học
Sinh vẫn chưa tham gia tích cực rộng rãi ngoại trừ một số sinh viên đảng phái
như trường hợp nhóm Nguyễn Tường Bá, Nguyễn Hữu Doãn, Nguyễn Hữu Đống. Ông Nhu
vẫn chủ quan tin tưởng chính quyền đang nắm vững Sinh Viên Học Sinh và giáo chức
qua ba tổ chức Tổng Hội Sinh Viên, Tổng Liên Đoàn Học Sinh và Tổng Hội Giáo Giới.
Tóm lại điều quan trọng đối với Ông Nhu lúc ấy là bàn tay Mỹ
và cộng sản. Vụ Phật Giáo chỉ là cơ hội tốt đẹp nhất để Mỹ và cộng sản nhảy vào
vòng quật ngã chính quyền theo sách lược riêng.
Ông Nhu chủ trương áp dụng biện pháp mạnh đối với thiểu số
tranh đấu sách động tức là triệt hạ được cái căn mà từ đó Mỹ cũng như cộng sản
không có đối thượng để khuynh đảo khuấy động.
Phía Tổng Thống Diệm lại chủ trương triệt để hòa giải thu xếp
làm sao cho êm đẹp. Bởi vậy trong thời gian thi hài Cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức
còn quàn tại Chùa Xá Lợi thì Tổng Thống Diệm luôn luôn thúc dục ông Nguyễn Đình
Thuần phải tìm cách nối tiếp cuộc thương nghị với Ủy Ban Liên Phái đã có đủ thì
giờ trắc nghiệm lòng dân đối với cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Theo sự thỏa thuận
chung giữa Đại Đức Đại Nghiệp, Phát Ngôn Viên của Ủy Ban Liên Phái và ông Trần
Văn Tư Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành thì Phật Tử đến viếng cố Hòa Thượng Thích
Quảng Đức đều tập trung tại Chùa Giác Minh, theo lịch trình luân phiên 9 Chùa lớn
trong Sài Gòn Gia Định sẽ lần lượt từng 400 người được trở đến Chùa Xá Lợi do
xe Cảnh Sát hướng dẫn. Những chuyến xe đi lại không ngừng nhất là trong ngày 14
ước lượng có đến 5.000 Phật Tử được chuyên chở đến Chùa Xá Lợi.
BẢN THÔNG CÁO CHUNG
Ngày 14.6 Ủy Ban Liên Phái lại cùng Ủy Ban Liên Bộ tiếp tục
thương nghị. Cũng ngày hôm ấy, Hội Đồng các Tướng lãnh ra thông cáo kêu gọi
nhân dân đoàn kết tránh hiểu lầm gây hoang mang và đặt quyền lợi quốc gia lên
trên hết. Khi chỉ thị cho các Tướng lãnh họp Hội Đồng và ra thông cáo như vậy,
dù có lợi cho chánh quyền nhưng Ông Nhu bắt đầu đi vào một nước cờ sai lầm hệ
trọng. Trước năm 1963, số Tướng lãnh tuy còn ít ỏi (18 vị) nhưng là 18 ốc đảo
do quyền lợi cá tính địa vị họ không thể nào ngồi cùng với nhau được để bàn
tính đại sự nhưng Ông Nhu đã tính sai khi qui tụ Tướng lãnh lại để cùng bàn luận
và ra thông cáo. Kết quả phiên họp ngày 14.6 được coi là tốt đẹp, Ủy Ban Liên
Phái ôn hòa đến mức độ phía chánh quyền không ngờ (ngoại trừ phía ông Ngô Đình
Nhu) Các Thượng Tọa Tâm Châu cũng như Thiện Minh đều tỏ ra có thiện chí hòa giải
và thông cảm Ủy Ban Liên Bộ trong khi đó thì ngay Ủy Ban Liên Phái lại có một
vài vị Thượng Tọa Đại Đức tỏ ra tích cực và quyết liệt với chính quyền. Đáng kể
là Thượng Tọa Trí Quang và Đại Đức Đại Nghiệp.
Lúc ấy hai vị này đang được giới Phật Tử nhất là thành phần
trẻ hết sức mến mộ.
Lễ an táng Hòa Thượng Quảng Đức ấn định vào ngày chủ nhật. Một
số đông cán bộ trẻ quyết liệt thì chủ trương phải biến đám tang thành một cuộc
tuần hành vĩ đại. Đứng đầu chủ trương này trước sau vẫn là Thượng Tọa Thích Trí
Quang cũng như Đại Đức Đại Nghiệp. Nhưng sáng thứ bẩy thì Đô Trưởng Sài Gòn lại
gửi cho một Văn Thư qua Đại Đức Đại Nghiệp lưu ý về vấn đề an ninh và đặt vấn đề
trách nhiệm những bất trắc rối loạn có thể xảy ra. Văn thư ấy do Tòa Đô Chánh
đơn phương gửi đi. Thực tình ông Đô Trưởng chỉ là một nhà hành chánh, quen với
lề lối làm việc theo kiểu thư lại chủ nghĩa cho nên gửi Văn Thư ấy cũng chỉ là
cách đề phòng nếu có gì xảy ra thì còn có cớ để trình lên thượng cấp. Nhưng
phía Đại Đức Đại Nghiệp lại nghĩ rằng đây là cách đe dọa cố ý. Nhưng cuối cùng
Tòa Đô Chánh cũng như Đại Đức Đại Nghiệp đồng thỏa thuận tạm thời dời đám tang
lại. Đây là đề nghị của Đại Đức Đại Nghiệp. Vì không phải là nhà chánh trị nên
Đô Trưởng và giới chức liên hệ vui vẻ đồng ý ngay. Nhưng xét về kỹ thuật tranh
đấu và chống tranh đấu thì Tòa Đô Chính hố to thua đậm.
Tuy Đại Đức Đại Nghiệp và Đô Trưởng Sài Gòn đã đồng ý rời đám
tang Hòa Thượng Quảng Đức đến ngày 10 nhưng Phật Tử trong Đô Thành và Gia Định
đã sửa soạn đi đưa đám tang vào sáng ngày chủ nhật. Bây giờ phải làm thế nào?
Phía Phật Giáo đồng ý đưa ra một thông cáo về quyết định rời ngày an táng mà do
chính Đại Đức Đại Nghiệp thỉnh cầu. Nhưng đã quá gấp, tối thứ bảy mới có thông
cáo này. Phía Phật Giáo nhờ chánh quyền phổ biến giúp, chính quyền vui vẻ nhận
lời ngay.
Nội tối thứ bảy, ngoài việc nhờ Radio liên tiếp phổ biến, giới
chức Đô Thành lại còn huy động hàng chục xe phát thanh chạy đến khắp nơi trong
Đô Thành từ hang cùng ngõ hẻm đến những đường phố lớn để loan báo thông cáo của
Ủy Ban Liên Phái. Dân chúng nghe tin này rất đỗi ngạc nhiên về sự thay đổi như
vậy. Trong không khí lúc ấy, không ai tin nơi thiện chí của chính quyền và lại
nghi ngờ rằng chắc hẳn chính quyền định chơi trò thủ đoạn nào đây và có lẽ gây
áp lực với Ủy Ban Liên Phái buộc phải dời đám tang lại. Dân chúng nghi ngờ như
vậy cũng có lý. Nhưng quả thực thì oan cho giới chức Đô Thành chỉ vì đã không đủ
kinh nghiệm chính trị lại quá câu nệ về biện pháp hành chánh mà thực ra không
có hiệu lực gì cả chỉ tạo thêm ngộ nhận. Hơn nữa, biện pháp hành chánh đó (kết
quả của thói quen thư lại chủ nghĩa) đã phạm vào một lỗi lầm quan trọng về chiến
thuật chính trị mà nhà cầm quyền nào khi muốn đương đầu với biến cố không thể
nào bỏ qua được. Đó là một “định luật” sơ đẳng về việc sách động một “đám tang
chính trị”... Một đám tang có tầm mức quan trọng và đang gây xúc động lớn như
đám tang Hòa Thượng Quảng Đức thì càng kéo dài trì hoãn bao lâu càng thắng lợi
cho phía đấu tranh. Thi hài cố Hòa Thượng Quảng Đức quàn tại Chùa Xá Lợi trong
vòng năm ngày đã là một thời gian khá dài, khí thế tranh đấu mỗi ngày mỗi giờ
càng lên cao...Dân chúng càng giao động...thi hài cố Hòa Thượng càng kết đọng
thành một biểu tượng ngào ngạt hương hoa của khí thế như một phiến nam châm thu
hút quần chúng...Trong tình thế sôi bỏng như vậy, giới chức Đô Thành bỗng nhiên
tự giăng một chiếc bẫy tự ném mình vào chiếc rọ lớn mà chỉ ngày hôm sau (tức
sáng chủ nhật) đã nhận ngay ra hậu quả. Phía Ủy Ban Liên Phái tự nhiên thắng lợi
và có thể mạnh miệng qui hết trách nhiệm cho nhà cầm quyền với những lý do rõ rệt.
Theo đúng ngày giờ đã định dù đã có thông báo của Ủy Ban Liên
Phái hủy bỏ, Phật Tử vẫn cứ tấp nập kéo nhau đến Chùa Giác Minh để tập trung
theo lịch trình đã ấn định đến Chùa Xá Lợi đưa đám cố Hòa Thượng. Như đã viết,
trong không khí sôi động lúc ấy thì Phật Tử đâu có tin vào bản thông cáo của Ủy
Ban Liên Phái do nhà cầm quyền phổ biến khi đám đông đã tập thành một khối cả
ngàn người thì đám đông đó sẽ làm chủ tất cả vượt trên cả lề luật nguyên tắc và
chỉ còn một sức mạnh bị điều động bởi lòng hăng say và sẵn sàng phẫn nộ đúng
như vậy, dù các nhà sư đến tận nơi nói rõ cho đồng bào rõ, đồng bào vẫn không
tin và chuyển hướng luôn “nếu không đi đưa đám tang thì chúng tôi sẽ đến Chùa
Xá Lợi viếng nhục thể cố Hòa Thượng”.
Đồng bào ùn ùn kéo đi...đến Ngã Tư Phan Thanh Giản, Lê Văn
Duyệt thì bị chận lại.
Sự hiện diện của Cảnh Sát và Cảnh Sát chiến đấu trước mặt đám
đông càng tăng cường khí thế của đám đông ấy và sự hiện diện này như một sự
khiêu khích (cho dù Cảnh Sát không khiêu khích). Thượng Tọa Tâm Giác và mấy Đại
Đức lại phải dùng loa kêu gọi đồng bào giữ trật tự, trở về Chùa Giác Minh.
Nhưng lúc ấy dù là một Thượng Tọa uy quyền nào cũng khó lòng nói lọt tai đám
đông...
Thế là đám đông tràn lên. Cảnh Sát đối phó, lựu đạn cay vùn vụt...lại
xô xát...một số thanh niên bị bắt...Thêm một đổ vỡ. Vậy thì dù không chủ trương
đàn áp nhưng chỉ vì sơ hở không hiểu qui luật tranh đấu phía chánh quyền bỗng
dưng mang cái vạ đàn áp, kết quả chưa thu xếp chuyện này xong thì lại tạo ra một
chuyện khác.
Mà oán thì nhân viên công lực trực tiếp lãnh đủ nên sau ngày
đảo chánh ông Kính Quận ba đi tù trước tiên chứ ông Đô Trưởng thì không sao cả
được coi nhu người vô can.
Bởi vậy một Thành Phố Sài Gòn gặp những tháng năm đầy biến cố
mà lại gặp viên Đô Trưởng thiếu khả năng chính trị, không ý thức nổi vai trò
hay chỉ biết chỉ đâu đánh đấy thì thiết tưởng đó là cái họa cho một chế độ.
Đám tang cố Hòa Thượng Quảng Đức dời lại thêm 4 ngày nữa...Thật
là 4 ngày giông bão đối với Cảnh Sát Quận III và giới an ninh Đô Thành. Nhưng
kéo thêm 4 ngày nữa Ủy Ban Liên Phái có lợi từng giờ từng phút. Đó cũng là cơ hội
để chuẩn bị tinh thần tranh đấu dài hơn và một dịp ngàn vàng để biểu dương lực
lượng với khí thế dâng cao. Mỗi buổi chiều hàng trăm nam nữ công chức đi làm về
đều ghé qua Chùa Xá Lợi tập trung trên vỉa hè cạnh Trường Gia Long để nghe thuyết
pháp. Ngày đầu, một số công chức còn e dè sau thấy chính quyền có vẻ yếu thế,
tuy một số bị theo dõi nhưng không phải tất cả nên công chức nam nữ càng kéo
nhau đến đông. Công chức còn tham dự can đảm như thế huống chi sinh viên học
sinh và lao động do có sự tham dự của thành phần công chức nên lại càng hăng
hái kéo nhau đến tham dự cứ như thế...như thế theo xúc cảm dây chuyền số quần
chúng tham dự càng đông. Còn một điều quan trọng nữa là các bài thuyết pháp của
một số Thượng Tọa Đại Đức như Thượng Tọa Trí Quang, Quảng Đức, Đại Đức Nghiệp... Đây
là lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam và có lẽ trên cả thế giới (ngoại
trừ trường hợp Ấn Độ với Thánh Gandhi nhưng Thánh Gandhi không thuyết pháp như ở
xứ ta) các Nhà Sư thuyết pháp chỉ đề cập đến thời sự chính trị bất công và kỳ
thị tôn giáo. Trong 8 năm và trải qua bao kìm kẹp dân chúng ai cũng hoan hỉ được
nghe hay đọc những lời công kích chính quyền càng kịch liệt càng dễ thu hút.
Dân chúng thời nào và ở đâu cũng vậy nhất là khu vực Á Phi đầy thống khổ nhục
nhằn, dân chúng vẫn không ưa gì chính quyền, ai công kích chống đối chánh quyền
đều được dân chúng tán thưởng đến dộ khâm phục. Trong 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm
đây là lần đầu tiên dân chúng được nghe những lời công kích nảy lửa ngay trước
cửa chùa.
Nếu công kích Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì chưa chắc đã đạt
được kết quả mong muốn như công kích vợ chồng Ông Nhu nên quả phía các Thượng Tọa
Ủy Ban Liên Phái đã đánh trúng cảm quan của dân chúng nhất là đối với lời công
kích Bà Nhu, dân chúng lại rất tán thưởng. Đó cũng chỉ là tâm lý bình thường của
dân chúng ngoài phố. Ở Pháp thời Nappoléon dân chúng rất khoái nghe lời bàn tán
công kích Hoàng Hậu Joséphine và mấy cô em của Nappoléon hơn là chế độ quân chủ
chuyên chế của Nappoléon.
Phía Bà Nhu lại càng sôi nổi tức giận...
Thuyết pháp nảy lửa vẫn tiếp tục thì cuộc thượng nghị của Ủy
Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ tại Hội Trường Diên Hồng tự nhiên không đủ hiệu
lực để thu hút sự chú ý của dân chúng.
Ngày 16.6 Bản Thông Cáo Chung được ký kết.
Thời gian giải quyết dù mới chỉ là giấy tờ và nguyên tắc
chung được coi là quá mau lẹ. khi bản thông cáo được ký kết giới quan sát chính
trị tại Sài Gòn lúc ấy cũng bất ngờ và cả phía Ông Nhu cũng bất ngờ nữa. Riêng
Ông Nhu tự coi như đã xong chuyện và đó là quyền của ông anh Tổng Thống. Nhưng
bản thông cáo ấy ra đời thì bị các biến cố khác vượt qua và tràn ngập. Ngay
phía Phật Giáo cũng không mấy ai quan tâm đặc biệt đến Bản Thông Cáo Chung vì mọi
người còn đang đổ dồn mọi nỗ lực trong việc an táng Hòa Thượng Quảng Đức và động
viên tinh thần Phật Tử. Nếu bản thông cáo ấy được ký kết trước vụ tự thiêu của
Hòa Thượng Quảng Đức hoặc sau ngày 19.6 thì chắc chắn sẽ có hiệu lực tác động
được sự lưu tâm của dân chúng. Bởi vậy sự giải quyết của chính quyền dù thiện
chí đến đâu nếu không chọn lựa thời gian và không gian nếu không đáp đúng đòi hỏi
của thực tế trong thời gian ấy thì sẽ trở nên phù phiếm bởi nó không có hiệu lực
gây nên sự lưu ý đặc biệt của dân chúng để dễ dàng sáng tỏ thiện chí giải quyết.
Họp liên tiếp 3 ngày cho đến 1 giờ 30 ngày chủ nhật (16.6)
hai Ủy Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ đã ký kết Bản Thông Cáo Chung gồm 5 điểm
để giải quyết 5 nguyện vọng do Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đề ra. Phái đoàn Phật
Giáo do ba Thượng Tọa Tâm Châu, Thiện Minh, Thiện Hoa đồng ký tên.
Phía chính quyền gồm Phó Tổng Thống Thơ, Bộ Trưởng Nguyễn
Đình Thuần, Bùi Văn Lương. Dưới Bản Thông Cáo Chung, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết
“khán” với tư cách Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Khi đưa bản thông cáo
này về Dinh Gia Long, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho ông Thuần biết là tốt đẹp.
Nhưng Tổng Thống lại ngần ngại về điểm ông sẽ ký ở chỗ nào trong bản thông cáo.
Trong văn phòng Tổng Thống lúc ấy có mặt Ông Nhu, ông Thuần.
Cả ba người đều không tìm được cách giải quyết về điểm nhỏ này nhưng đối với Tổng
Thống Diệm là một sự quan hệ. Theo ông Thuần thì không lẽ Tổng Thống với tư
cách Quốc Trưởng lại ký ngang hàng với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết.
Dù vị Hòa Thượng là thủ lãnh tối cao của Tổng Hội Phật Giáo
Việt Nam nhưng Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam cũng chỉ là một đoàn thể trong Cộng
Đồng Quốc Gia. Tổng Thống Diệm cũng suy luận như vậy cho nên ông ngần ngại
không chịu ký. Ông Nhu vẫn lạnh lùng không có một ý kiến nào.
Ba người ngồi im lặng tìm cách giải quyết cả giờ đồng hồ
nhưng vẫn bế tắc.
Tổng Thống Diệm bảo ông Thuần “cho mời Bà Nhu xem bà có ý kiến
nào không”.
Đã từ lâu Tổng Thống Diệm vẫn thường nói với Bác Sĩ Tuyến
cùng mấy cộng sự viên thân cận “đàn bà họ kém về lý luận nhưng trực giác của họ
thì hay lắm”. Riêng Bà Nhu đã nhiều lần chứng tỏ trực giác nhạy bén. Khi Bà Nhu
vào văn phòng Tổng Thống xem Bản Thông Cáo Chung rồi nói:
- Như thế này đâu có được Tổng Thống làm sao lại ký tên ngang
hàng với ông cụ ấy được (tức Hòa Thượng Khiết).
Bà Nhu lắc đầu có vẻ chê bai và nói:
- Nếu mai mốt Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới có chuyện tranh chấp
với chánh phủ đòi chánh phủ phải giải quyết nguyện vọng rồi thì chính phủ cũng
ra thông cáo chung rồi Tổng Thống cũng ký với tôi hay sao ? Một quốc gia trong
một quốc gia không có được.
Tổng Thống Diệm vẫn ngần ngại, không nói gì. Ông Thuần trình
bày về sự khó khăn không biết Tổng Thống phải ký ở chỗ nào mà không ký cũng
không được, Tổng Thống Diệm hỏi Bà Nhu:
- Vậy ý của bà thế nào?
Bà Nhu đáp ngay:
- Có gì đâu mà khó khăn. Bây giờ hai bên đã ký cả rồi. Cụ Tịnh
khiết cũng ký khán như thế này rồi thì Tổng Thống ký ở ngoài lề như là bút phê
vậy.
Tổng Thống Diệm cho là phải và đồng ý ngay. Ông Tổng Thống cầm
bút phê phía ngoài lề Bản Thông Cáo: “Những điều ghi trong Bản Thông Cáo chúng
này thì đã được tôi chấp thuận trên nguyên tắc ngay từ lúc đầu” dưới hàng chữ
này, Ký tên: Ngô Đình Diệm.
Bản Thông Cáo Chung vẫn không gây được sự chú ý đặc biệt của
dư luận. Nhưng phía chánh quyền Mỹ thì hoan hỉ cho rằng, chính quyền Việt Nam
và Phật Giáo đạt được một thỏa hiệp cuộc khủng hoảng có thể sớm giải quyết.
Nhưng ngay chiều 16.6, hơn 100 Tăng Ni trong đó có Hòa Thượng
Tâm Châu đã biểu tình trước Tư Dinh Đại Sứ Mỹ để yêu cầu chính quyền Mỹ và các
nước Khối Tự Do phải dùng áp lực thuyết phục chính quyền Việt Nam thực thi đứng
đắn Bản Thông Cáo Chung. Cũng vào giờ đó, tức 19:20 thì Bản Thông Cáo Chung vẫn
còn nằm trên bàn Tổng Thống Diệm. Sau cuộc biểu tình, một số Tăng Ni lại kéo
nhau về Chùa Xá Lợi mở đầu cuộc tuyệt thực.
Mỗi lần biểu tình tuyệt thực như vậy lại cung cấp thêm cho
báo chí ngoại quốc những đề tài hấp dẫn mới lạ. Bản Thông Cáo Chung không còn
là đề tài hấp dẫn đối với báo chí ngoại quốc.
Cuộc khủng hoảng Phật Giáo trở thành vấn đề số một đối với Tổng
Thống Kennedy cho nên trong những ngày 13, 14, 15 và sáng ngày 16 Phó Đại Sứ Mỹ
liên tiếp ra vào Dinh Gia Long. Ký Giả David Halbeitam viết: Phật Giáo thương
thuyết về 5 điểm. Ngày 16.6 hai bên đã ký một văn bản kỳ dị về quan điểm của 2
phía. Phật Giáo được nhượng bộ một vài điểm nhưng chính phủ không nhìn nhận có
trách nhiệm về “biến cố Huế”. Tầm nhìn của ký giả Mỹ như vậy nếu không có ý
xuyên tạc thì cũng không nắm vững tinh thần văn bản như dư luận Mỹ lại luôn
luôn bị kích động và hướng dẫn bởi báo chí mà báo chí Mỹ được coi như một tập
thể tạo áp lực (pressure group) đối với chính quyền và quốc hội Mỹ. Thực ra, điều
5 của Bản Thông Cáo Chung đã ghi rõ: “những cán bộ có trách nhiệm về các vụ xảy
ra ngày 8.5.1963 bất kỳ thuộc thành phần nào cũng sẽ bị nghiêm trị nếu cuộc điều
tra đang tiến hành chứng tỏ lỗi của họ”. Dư luận Mỹ trong nhưng ngày 13, 14 đến
15 đều đổ dồn vào vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức cùng các vụ xô sát vào
ngày 16 và cuộc biểu tình của Tăng Ni vào chiều 16. Báo Mỹ như tờ New York
Time, New York Herald Tribune, Chritian Science Monitor phát hành ở Mỹ vào hôm
trước thì chỉ vài ngày sau lọt vào mấy tay Thượng Tọa, Đại Đức của Ủy Ban Liên
Phái và được dịch ra ngay Việt ngữ và quay ronéo phổ biến bí mật trong đô
thành. Đây cũng là một động cơ thúc đẩy đám đông như từng cục than hồng.
Tháng 5.1960 những nhân vật thân cận của Tổng Thống Diệm cũng
đã hội lại để đồng thanh yêu cầu Tổng Thống Diệm duyệt xét lại chế độ. Nhưng kết
quả chỉ là những chuỗi ngày im lặng rồi mọi việc lại trôi qua. Cũng nên nhắc lại,
tháng 5.1960, Đại Tá Đỗ Mậu, Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội (người theo Tổng Thống
Diệm từ năm 18 tuổi và trở thành cán bộ giao liên giữa Hoàng Thân Trang Liệt và
Tổng Thống Diệm) đã cùng với Cha Thính, ông Võ Văn Hải, Tôn Thất Trạch và một
“đồng chí” khác đã họp bàn và dự định đồng loạt từ chức để Tổng Thống Diệm lưu
ý duyệt xét lại những sai làm của chế độ. Đại Tá Đỗ Mậu cũng như Võ Văn Hải,
Tôn Thất Trạch đều là những người theo phò Tổng Thống Diệm từ Tiền Chiến cũng
như vụ đảo chính hụt 11.11.1960, chính những nhân vật quan trọng của chế độ Ngô
Đình Diệm đã thỉnh cầu Tổng Thống Diệm cũng như Ông Nhu là nên nới rộng thể chế
dân chủ, chấp nhận một lực lượng quốc gia đối lập. Nhưng đều vô hiệu.
Chỉ một lá thư của Bác Sĩ Tuyến gửi riêng cho Ông Nhu phê
bình một số sai lầm của chế độ và cái áo dài của Bà Nhu không nhưng không được
lưu ý mà còn bị gạt ra ngoài nguyên nhân cũng từ lá thư đó...Vì lá thư Ông Nhu
để ngỏ trên bàn làm việc và Bà Nhu đã được coi. Có lẽ đó cũng là cách Ông Nhu
gián tiếp cho bà vợ thấy rõ những điểm nhận định của người cộng sự thân tín.
Tuy nhiên Bà Nhu không phản ứng gì nhưng dần dần lạnh nhạt với vợ chồng Bác Sĩ
Tuyến. Năm 1963 mâu thuẫn nội bộ càng thêm trầm trọng. Chẳng hạn như con người
Phạm Ngọc Thảo, Tướng Huỳnh Văn Cao thì nhất định cho rằng Thảo là cộng sản.
Đai Tá Đỗ Mậu, nắm Ngành An Ninh Quân Đội lại cả quyết là không. Bác Sĩ Tuyến
cũng nghĩ như vậy và là bạn thâm tình của Thảo.
Từ một vấn để nhân sự nhỏ bé như vậy cũng đã chứng tỏ chế độ
càng ngày càng phân hóa. Phe nhóm tuy chưa công khai xuất hiện nhưng âm thầm
công kích và nghi ngờ lẫn nhau. Ngay trong lòng chế độ mà chưa phân biệt ai là
bạn ai là thù thì trách chi người ngoài!
Kể từ tháng 6.1963 những thành phần trụ cột của chế độ không
keo sơn gắn bó với chế độ nữa. Từ những nhân vật trụ cột đều thâm cảm thấy rằng
chế độ lâm nguy nếu không kịp thời tìm biện pháp cứu đỡ thì vô phương. Nhưng họ
không còn thẩm quyền. Thế lực của vợ chồng Ông Nhu mỗi ngày một lớn dần.
Tổng Thống Diệm càng ngày càng cô đơn nhất là sau cái chết của
Nhà Văn Nhất Linh thì hầu như Tổng Thống Diệm buông tay. Vụ mưu sát Tổng Thống
Diệm ngay trong Dinh Gia Long lại làm cho ông cô đơn hơn nữa. Có nhẽ đó cũng là
những lý do khiến Tổng Thống Diệm quyết định sẽ trở về hưu dưỡng khi Nhiệm Kỳ
II chấm dứt.
Trong vụ tranh đấu Phật Giáo không rõ từ phía nào chủ trương
mưu sát Tổng Thống Diệm và họ đã móc nối được với ủy viên Chuẩn Úy hướng dẫn và
nghi lễ của Văn Phòng Tổng Thống. Viên sĩ quan này đã phục vụ lâu năm trong
Dinh Gia Long và trực thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Nhiệm vụ
của ông ta không có gì quan trọng nhưng lại là người dễ dàng thi hành mưu đồ ám
sát Tổng Thống. Hàng ngày viên Chuẩn Úy hướng dẫn, mũ áo đại lễ chỉ có nhiệm vụ
hướng dẫn quan khách đến Văn Phòng Tổng Thống. Ông ta cũng như các Sĩ Quan Tùy
Viên và hầu cận hàng ngày đều giáp mặt Tổng Thống Diệm. Tất nhiên là họ thuộc
thành phần được tin cẩn. Tổng Thống Diệm vẫn tự hào về sự trung thành tuyệt đối
của các Quân Nhân lo việc an ninh cho ông.
Đặc biệt những sĩ quan thân cận như Lê Công Hoàn, Đỗ Thọ, Huỳnh
Văn Lạc, Lê Châu Lộc, ông Tổng Thống coi như con cái trong nhà. Vậy mà lại có một
sĩ quan hướng dẫn âm mưu giết hại ông và vợ chồng Ông Nhu. Âm mưu này phát giác
được do một sự tình cờ.
Số là trong khi cuộc tranh đấu của Phật Giáo đang sôi động
thì thân phụ của Trung Úy Kiệt bị bắt giam (ông là một địa diện thuộc Phật Giáo
Tỉnh Gia Định) Trung Úy Kiệt lại là một Sĩ Quan Truyền Tin cũng là một trong số
Quân Nhân trung thành tuyệt đối của Tổng Thống Diệm. Khi thân phụ ông bị bắt
giam vì lý do tranh đấu Phật Giáo thì kẻ chủ mưu ám sát Tổng Thống Diệm đã nắm
ngay cơ hội này để móc nối. Nhưng sự việc xảy ra lại khác nên âm mưu này bất
thành. Bởi vì khi thân phụ Trung Úy Kiệt bị bắt ông đã trình bày ngay với Thiếu
Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn, ông Duệ trình bày thẳng với Trung
Tá Khôi Tư Lệnh và cho rằng: “Kiệt nó là một sĩ quan phục vụ đắc lực như vậy
bây giờ Công An lại bắt ông già của nó thì còn ra cái gì, xin Trung Tá can thiệp
gấp”. Sau đó, Trung Tá Khôi cũng như Thiếu Tá Duệ liên lạc thẳng với Ty Công An
Gia Định và Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Hai cơ quan
liên hệ này đều đồng ý trả tự do ngay.
Về những tin đồn mưu sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì nhiều lắm
song phần lớn đều là tin vịt. Phía Ông Nhu thỉnh thoảng cũng bắn ra một vài tin
như vậy với chủ ý thăm dò phản ứng của dân chúng hoặc là để tìm các “con mồi” đối
lập những vụ mưu sát này được dấu kín sau ngày 21.11.1963 viên Chuẩn Úy được tự
do ông ta mới tiết lộ. Ngay những nhân vật cao cấp tại Dinh Gia Long cũng không
hay biết gì cả.
Khi thân phụ của Trung Úy Kiệt đang được Thiếu Tá Duệ và
Trung Tá Khôi can thiệp để được trả tự do thì viên sĩ quan hướng dẫn lại tìm đến
Trung Úy Kiệt, sau khi tác động tinh thần về công cuộc tranh đấu của Phật Giáo,
viên sĩ quan này ngỏ lời yêu cầu Trung Úy Kiệt tham dự cuộc mưu sát mà ông ta
đã bố trí từ lâu, đương sự tiết lộ một lần viên sĩ quan hướng dẫn đã thủ sẵn
trái lựu đạn trong người và định lấy ra thanh toán song lần ấy chỉ Tổng Thống
Diệm mà không có vợ chồng Ông Nhu nên đương sự đành chờ cơ hội khác nghĩa là
khi nào thấy có mặt đầy đủ, vợ chồng Ông Nhu và Tổng Thống Diệm thì lúc ấy mới
hành động.
Trung Úy Kiệt là một sĩ quan tin cẩn của một Lữ Đoàn Liên
Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống nên ông đã đem ngay câu chuyện mưu sát này báo cáo
với Thiếu Tá Duệ. Sau cuộc họp bí mật với Tư Lệnh Lữ Đoàn, ông Duệ ra lệnh giam
lỏng viên Chuẩn Úy hướng dẫn. Công việc diễn tiến hoàn toàn kín. Thiếu Tá Duệ
trình bày với Trung Tá khôi: “Nếu tin này tiết lộ ra ngoài thì mất hết uy tín của
Lữ Đoàn. Lữ Đoàn từ lâu vẫn có tiếng là trung thành tuyệt đối vời Tổng Thống
nay lại có một sĩ quan ở ngay trong Dinh định mưu đồ như vậy thì nguy, tin này
nếu tiết lộ ra ngoài sẽ làm hoang mang Lữ Đoàn”. Trung Tá Khôi cũng đồng ý như
vậy. Ngay buổi chiều hôm ấy Thiếu Tá Duệ triệu tập một phiên họp các sĩ quan của
Lữ Đoàn và cho biết: “Hiện nay bên lực lượng đặc biệt, Đại Tá Tung đang cần một
sĩ quan liên lạc với Lữ Đoàn vậy anh em nào có thể tình nguyện sang bên đó làm
việc?”
Trước khi lên tiếng như trên Thiếu Tá Duệ đã dặn Đại Úy Ngân,
Sĩ Quan An Ninh của Lữ Đoàn “khi tôi lên tiếng hỏi anh em có ai tình nguyện qua
lực lượng đặc biệt không thì Ngân phải đứng lên ngay và đề nghị Chuẩn Úy Thành
tức viên sĩ quan hướng dẫn” Được dặn trước nên Đại Úy Ngân giơ tay trả lời
ngay: “Tôi xin đề nghị Chuẩn Úy Thành, Chuẩn Úy có đủ khả năng là liên lạc cạnh
lực lượng đặc biệt” Thiếu Tá Duệ chấp thuận liền, “được lắm thôi để Thành sang
bên đó tôi sẽ xin một người khác làm sĩ quan hướng dẫn”. Một lát sau Thiếu Tá
Duệ bảo Đại Úy Ngân: “bây giờ hết giờ làm việc rồi, anh đưa anh Thành qua ngay
lực lượng đặc biệt đi, không họ cứ hối thúc mình mãi”. Câu nói này là một mật lệnh
bảo Đại Úy Ngân lái xe chở viên sĩ quan vào Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, ông
Duệ đã chỉ thị cho Đại Úy Ngân “Tôi đã điện thoại qua bên ấy rồi”.
Anh dặn thêm bên ấy là phải đối xử với hắn như một sĩ quan
hơn nữa Cụ dặn (tức Tổng Thống Diệm) không được “đụng chạm” gì tới hắn cả. Đại
Úy Ngân không quên mua tặng “người anh em” một tút thuốc Ruby.
Trước khi đưa viên sĩ quan hướng dẫn qua giam lỏng bên Lực Lượng
Đặc Biệt, Trung Tá Khôi và Thiếu Tá Duệ đã trình bày tự sự với Tổng Thống Diệm.
Nghe tin này ông Tổng Thống ngồi lặng một hồi lâu. Ông nói có vẻ than thở: “Những
người ở gần tôi còn không hiểu tôi huống chi dân nó ở xa” Tổng Thống Diệm chỉ
thị cho Trung Tá Khôi không trừng phạt kẻ mưu sát ông, ông nói: “Phải giảng dạy
cho nó, nói cho nó biết lẽ phải trái. Cái lỗi là vì mình không chịu tổ chức học
tập”.
Kể từ đó, Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ được chỉ thị tổ chức các
buổi học tập hàng tuần. Giới thân cận đều xác nhận rằng Tổng Thống Diệm mỗi
ngày càng thêm cô đơn và ông trở thành người trơ trọi gần như buông tay để mặc
Ông Nhu nắm quyền chủ động. Có lẽ Tổng Thống Diệm đã bị ám ảnh bởi số mệnh.
Ngoài ra cái thú nghe ca Huế và đàn tranh hoặc ngồi xem đánh cờ nghiên cứu bản đồ
vẽ tranh và làm thơ, ông Tổng Thống còn say mê món tử vi và địa lý.
Ông gần như thuộc nằm lòng “cái đất có hàm rồng, mảnh đất kia
hãm địa”. Chẳng hạn như Dinh Độc Lập ông băn khoăn đầu Rồng là Dinh nhưng cái
đuôi lại ở chỗ Công Trường Chiến Sĩ, bởi vậy có nhiều đề nghị phá Đài Chiến Sĩ
để chứng tỏ bài phong phản thực (chống Pháp) và xây một công viên tạo cho Tòa
Viện Trưởng có một khuôn mặt tươi mát.
Ông Tổng Thống có vẻ thuận tai nhưng sau thì không chấp nhận
vì dù sao cái Đài Chiến Sĩ cũng có tác dụng đè cái đuôi con Rồng xuống. Tuy vậy
không ai thấy ông Tổng Thống cho gọi thầy bói vào Dinh. Đại Tá Đỗ Mậu thường được
gọi vào Dinh mạn đàm với Tổng Thống Diệm về khoa tử vi lý số. Có khi Tổng Thống
Diệm và Đại Tá Mậu ngồi nói chuyện về tử vi lý số đến 1, 2 giờ khuya. Ông Tổng
Thống nói một cách say mê nào là cung mệnh có sao Phục Binh thì, vì thế cung
này có sao La Hầu thì sẽ thế kia...Năm 1963 Đại Tá Mậu đã trình bày với Tổng Thống
Diệm tử vi của Cụ năm nay xấu. So với những năm trước thì năm 1963 Tổng Thống
Diệm ít đi kinh lý. Nhưng sau cái chết của Nhà Văn Nhất Linh tuần nào ông Tổng
Thống cũng lên Đà Lạt đi săn...Theo Tùy Viên Lê Công Hoàn thì đúng ra ông Tổng
Thống đi tìm một quên lãng phá tan nỗi niềm cô đơn. Theo như Đại Tá Mậu thì giữa
năm 1963 hai ông Thầy Minh Lộc và Đa La đã tiên đoán Tổng Thống Diệm gặp đại nạn
có thể mất mạng. Riêng Tổng Thống Diệm có nhẽ cũng đã linh cảm được cơn hoạn nạn
của số mệnh đang đến với ông.
Tuy rất ham thích môn tử vi lý số nhưng Tổng Thống Diệm không
tỏ lộ cho ai biết món sở thích này ngoài một vài người tâm giao. Ông Tổng Thống
vẫn tự hào về quê hương Quảng Bình của ông nhất là Huyện Lệ Thủy và Tổng Đại
Phong. Riêng Tổng Đại Phong được coi là phát vì Võ nguyên Giáp thì làm đến Đại
Tướng Tổng Tư Lệnh của quân đội Miền Bắc và gia đình họ Ngô mấy đời tế thế công
danh. Võ nguyên Giáp (con cụ Cửu Sinh, một địa chủ, người An Xá) vốn cùng một Tổng,
một Huyện với với Tổng Thống Diệm. Các bậc Tú Nho ở Lệ Thủy thì đầu thế kỷ 20
đã khám phá ra rằng, ngôi Đình của Xã Đại Phong (thuộc Tỉnh Đại Phong) “kết”.
Vì mái ngói đã bao nhiêu đời nhưng màu nắng vẫn phản chiếu màu trắng bạc như
kim cương. Con Hói (tức con ngòi nhỏ) chảy vào Thôn Tây Hà (Làng Tổng Thống Diệm)
có Long mạch nên nếu con hói cạn, dân làng chỉ vét mà không dám đào. Vì đào sẽ
động mạch, nước đỏ phun lên. Nói ra thì cho là dị đoan nhưng năm 1963 sau hai
cái chết rung động tột độ (Hòa Thượng Quảng Đức và Nhà Văn Nhất Linh) cũng có
thêm hai điềm lạ, một là cọp sở thú sinh 3 con (27.3) hai là thay đổi Huy Hiệu
Quân Đội (cấp sĩ quan). Đúng ngày 7.7.1963 kỷ niệm 9 năm chấp chánh. Tổng Thống
Diệm quyết định thay đổi Huy Hiệu Quân Đội. Riêng huy hiệu trên mũ của Lục Quân
đáng cho ta suy nghĩ. Dưới hình khóm trúc (Quốc Huy của Đệ I Cộng Hòa) là một
ngọn lửa thiêng. Dạo ấy nhiều người rỉ tai bàn phiếm “như thế này thì lửa sẽ
thiêu rụi khóm trúc”. Rồi không hiểu sao lại có sự trùng hợp thế này: Bộ Tổng
Tham Mưu ra quyết định buộc các Quân Nhân phải mang Huy Hiệu mới trên mũ kể từ
ngày 1.11.1963. Ngày đó đúng là ngày ngọn lửa cháy bùng thiêu rụi khóm trúc, Quốc
Huy của Đệ I Cộng Hòa. Rồi Huy Hiệu mới này cũng bị bãi bỏ luôn.
CÁI CHẾT CỦA MỘT NHÀ VĂN
Trên đây chỉ là một vài chi tiết xin bàn phiếm. Bây giờ xin
trở lại cái chết của Nhà Văn Nhất Linh ngày 7.7.1963. Được tin này, Tổng Thống
Diệm sửng sốt và xúc động mạnh như tin Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu. Ông nói với
Bộ Trưởng Thuần: “việc có gì đâu mà phải làm như vậy... ra Tòa rồi thì cũng tha
bổng cho ông ấy...”
Trong các chính khách tại Miền Nam thì Nhất Linh Nguyễn Tường
Tam được Tổng Thống Diệm kính trọng hơn cả. Chưa bao giờ Ông Nhu có một lời chỉ
trích nặng nhẹ nào một khi Bác Sĩ Trần Kim Tuyến có dịp đề cập đến ông Nguyễn
Tường Tam.
Theo Bác Sĩ Tuyến thì đối với các chính khách, Ông Nhu tỏ vẻ
khinh thường và hay nặng lời chê bai, riêng Nhất Linh Ông Nhu không khen không
chê thì phải là trong thâm tâm ông đã dành cho Nhất Linh một sự kính nể nào đó.
Từ Bác Sĩ Tuyến đến Cha Jaegher, ông Võ Văn Hải đều có lòng cảm
phục và kính trọng nhân cách của Nhất Linh. Riêng Bác Sĩ Tuyến cũng có nhiều dịp
đàm đạo với Nhà Văn Nhất
Linh trong những bữa cơm có tính cách gia đình thân mật. Bữa
cơm đầu tiên tổ chức tại Trụ Sở Trung Tâm Bút Việt, chính Bác Sĩ Trần Kim Tuyến
nói: “dạo cụ ra nghỉ mát ở Sầm Sơn thì tôi đang đi học lúc ấy ái mộ cụ lắm và
có viết thư xin cụ dạy cho cách viết văn”. Nhất Linh tỏ vẻ cảm động. Điều quan
hệ là trong suốt 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm, Nhất Linh không hề dan díu gì đến
tiền bạc với chính quyền. Bác Sĩ Tuyến gặp gỡ Nhà Văn Nhất Linh cũng chỉ là tâm
tình giao tế. Nhất Linh không hề cầu cạnh gì cả. Khi Nhất Linh ra lại tờ Ngày
Nay (1955) là do tiền túi của ông, chính quyền không hề tài trợ. Bác Sĩ Tuyến
cũng xác nhận. Nhất Linh thật là con người ái quốc, có tư cách, có phong độ rất
mực đường hoàng. Điều đặc biệt là Nhất Linh không có sự giao tế liên lạc nào đối
với các nhân vật Mỹ tại Sài Gòn cho đến ngày ông chết.
Vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức còn có những lời chỉ
trích nặng nhẹ. Nhưng khi nghe Nhất Linh tự tử ông Bà Nhu lại yên lặng...Ông
Nhu chỉ nói vắn tắt: “coi xem có âm mưu nào ám sát ông ấy không” Tổng Thống Diệm
cũng lo ngại như thế nên nội ngày 8, Tổng Thống ra lệnh cho giới chức an ninh
phải điều tra phúc trình ngay xem có thật Nhà Văn Nhất Linh tự tử, Tổng Thống
Diệm tỏ ra xúc động hơn cả tin Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu. Ông lầm lì cả
ngày, bẳn gắt và hút thuốc lá hết điếu này đến điếu khác.
Tổng Thống Diệm rất có cảm tình với gia đình Nguyễn Tường nhất
là Hoàng Đạo. Vào dạo năm 1959, một lần đàm đạo với Tổng Thống Diệm và nhắc đến
Nhà Văn Hoàng Đạo, Tổng Thống Diệm bỗng ngắt lời Bác Sĩ Tuyến và hỏi thăm:
- Bây giờ vợ con ông ấy sống như thế nào?
Bác Sĩ Tuyến cho hay hiện bà Hoàng Đạo mở cửa hàng bán chả
cá. Ông Tổng Thống Dặn: “Anh xem bà ta có túng thiếu thì tìm cách giúp đỡ, khi
nào có dịp cho tôi có lời hỏi thăm”.
Rồi Tổng Thống Diệm không tiếc lời ca ngợi: “Nguyễn Tường
Long khá lắm. Ông ta đối với tôi tốt lắm”.
Đại cương giữa Tổng Thống Diệm và Nhà Văn Nhất Linh đều có sự
tương kính. Điểm đặc biệt khác, lúc còn sinh thời Nhà Văn Nhất Linh cũng không
có một lời nào công kích nặng nề đối với cá nhân Tổng Thống Diệm và Ông Nhu. Bộ
Giáo Dục thời đó lại có sáng kiến đưa nhóm Tự Lực Văn Đoàn vào chương trình học
hàng năm, có những đề thi Quốc Văn Tú Tài I. Đề thứ nhất thí sinh phải bình luận
về sự nghiệp của Nhất Linh hoặc Hoàng Đạo...Đề thứ hai thí sinh lại phải bình
luận về lời nói của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (trích trong các bài diễn văn).
Trước vụ đảo chánh hụt 11.11.1960 chính quyền Ngô Đình Diệm không có một sự
theo dõi nào đối với Nhà Văn Nhất Linh. Việc ông trở thành Cố Vấn của Hội Bút
Việt, chính quyền dạo ấy cũng không can dự vào.
Hơn nữa, Hội Bút Việt lại do một đồng chí của ông điều khiển
trong đó có Hiếu Chân, Như Phong.
Đúng vào ngày Song Thất kỷ niệm 9 năm chấp chánh của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, Nhà Văn Nhất Linh uống thuốc độc tự tử với lời di chúc: “Đời tôi
để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội các phần tử
đối lập Quốc Gia là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản”.
Nhất Linh có tham dự trực tiếp vào cuộc đảo chánh hụt
11.11.1960 trong đó có một số Quân Nhân trẻ là cán bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nói
là trực tiếp cũng không đúng. Nhất Linh chỉ đứng tên trong tờ truyền đơn lên án
chế độ Ngô Đình Diệm và ông có tham dự vài phiên họp cùng với Cụ Phan Khắc Sửu
và một số Nhân Sĩ khác.
Cuộc đảo chánh bất thành thì ngày 13.11.1960, Nhất Linh vào tỵ
nạn tại Tòa Đại Sứ Trung Hoa Quốc Gia. Đại Sứ Trung Hoa Quốc Gia lúc ấy là ông
Viên Tử Kiên, một người bạn thân của Nhất Linh. Sáng 14 một Trung Đội Cảnh Sát
Dã Chiến có đến bao vây Tòa Đại Sứ nhưng sau được lệnh rút đi ngay. Việc tỵ nạn
bất thần của Nhất Linh đã làm cho Đại Sứ Viên Tử
Kiên lâm vào thế kẹt. Một mặt Trung Hoa Quốc Gia đang ủng hộ
triệt để Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Mặt khác, Nhất Linh không những là bạn của Đại
Sứ Viên Tử Kiên mà còn là bạn của Phó Tổng Thống Trần Thành cùng một số viên chức
cao cấp của chính phủ Đài Loan. Quả thực chưa có một chánh khách nào tại Miền
Nam chống chính quyền mà lại được các nhân vật nòng cốt của chính quyền ưu ái
và tận tình che trở như trường hợp Nhất Linh.
Đại Sứ Viên Tử Kiên, có điện thoại báo tin cho Dinh Độc Lập biết
và ông cũng báo tin cho Cha Jaegher, Linh Mục Dòng Tên rất có uy tín với Tổng
Thống Tưởng Giới Thạch và Ngô Đình Diệm lại là người mến mộ Nhất Linh coi ông
như bạn tâm giao.
Sáng 14.11, Cha Jaegher điện thoại cho ông Võ Văn Hải nói về
tình trạng tỵ nạn của Nhất Linh và yêu cầu ông Võ Văn Hải tìm cách nào dàn xếp
êm đẹp. Đồng thời Bác Sĩ Tuyến gặp riêng Ông Nhu trình bày về trường hợp Nhất
Linh. Sau đó Bác Sĩ Tuyến lại qua Phòng Tổng Thống Diệm thỉnh cầu Tổng Thống
thu xếp vụ ông Nguyễn Tường Tam...Buổi chiều 14.11, chính Cha Jaegher thân hành
vào Dinh xin gặp Tổng Thống Diệm để can thiệp cho Nhất Linh.
Tổng Thống lúc đầu còn do dự sau ông quyết định để cho ông
Tam thong dong. Nhưng giải quyết như thế nào để cho hai bên cùng vui vẻ? Nếu cứ
để Nguyễn Tường Tam rời khỏi Tòa Đại Sứ Trung Hoa về nhà thì cũng kẹt cho cái
thế của chính quyền. Cuối cùng Dinh Độc Lập thỏa thuận để Viên Tham Vụ Tòa Đại
Sứ lái xe đưa Nhất Linh về Tổng Nha Cảnh Sát và ở đấy lấy lời khai Nhất Linh
cho nó phải phép. Trước sau ông tạm ở Nha Cảnh Sát lâu hơn 1 giờ. Mấy ngày sau
Cảnh Sát lại mời ông ra một lần nữa để kết thúc hồ sơ. Từ đó cho đến ngày tạ thế,
Nhất Linh được thong dong. Tuy nhiên có một điều như thế này: Nhất Linh được tự
do nhưng phần những ai ra vào nhà ông lúc về đều bị Cảnh Sát chím theo dõi.
Nhất Linh tự tử làm cho cả Tổng Thống Diệm lẫn Ông Nhu đều ngỡ
ngàng, Tổng Thống Diệm có chỉ thị đi tìm mấy người con Nhất Linh vào Dinh để gặp
ông. Nhưng không hiểu vì lẽ gì không có cuộc tiếp xúc này.
Có thể nói trọn ngày 8.7, Tổng Thống Diệm dành cả thì giờ
theo dõi vụ Nhất Linh tử tự. Theo các Sĩ Quan Tùy Viên như Đại Úy Lê Công Hoàn
thì ông Tổng Thống xem xét hồ sơ rất kỹ và ông chỉ thị phải chứng minh cho mọi
người thấy đây là một vụ tự tử, chính quyền không có âm mưu nào. Tổng Thống Diệm
và Ông Nhu băn khoăn nhất là sơ mang tiếng chính quyền có can dự vào cái chết của
Nhất Linh.
Nhất Linh tự tử đã gây xúc động sâu xa trong giới trí thức
văn nghệ báo giới và sinh viên vì ảnh hưởng tinh thần đối với các giới này thật
lớn lao. Chế độ Ngô Đình Diệm nhận lãnh một thất bại bất ngờ.
Tại sao vụ 11.11.1960 kéo dài cho đến năm 1963 mới đem ra xét
xử ?
Nếu đem vụ 11.11.1960 ra xử ông Tổng Thống lại e ngại sẽ làm
hoang mang Quân Đội nhất là phía Nhảy Dù chiếm đa số. Trường hợp Thiếu Tá Phan
Trọng Chinh ông Tổng Thống vốn có cảm tình đặc biệt với Binh Chủng này. Mặc dầu,
một số đơn vị này và sĩ quan Nhảy Dù tham dự cuộc đảo chính nhưng dịp thăng thưởng
cuối năm 1960, sĩ quan Dù lại chiếm một tỷ số cao. Riêng Tiểu Đoàn 1 Nhẩy Dù,
vì có chiến công lớn trong trận Kiến Phong vào cuối tháng 11.60, nên một lúc 7
Sĩ Quan được thăng cấp. Tổng Thống Diệm vẫn yên trí Đại Tá Thi bị lôi kéo và
ông không có âm mưu tạo phản. Tổng Thống Diệm lưu luyến đặc biệt Đại Tá Thi
nguyên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù. Ông Tổng Thống cũng đặc biệt lưu ý
khi Phan Trọng Chinh còn là Đại Úy chỉ huy Tiểu Đoàn 3 đánh dẹp Bình Xuyên. Dù
chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ nhưng Phan Trọng Chinh cũng đã lọt vào “mắt xanh” của
vị Tổng Thống vốn coi Nhảy Dù như sức mạnh của chế độ.
Ông Tổng Thống vẫn cảm phục binh chủng này nhất là những sĩ
quan trẻ đã biểu dương khả năng của họ trong cuộc dẹp loạn Bình Xuyên và Tiểu
Đoàn 3, 5 và 1 Nhẩy Dù là những đơn vị hiển hách. Năm 1960, khi Binh Chủng Biệt
Động Quân được thành lập, Thiếu Tá Phan Trọng Chinh được đề bạt làm Chỉ Huy Trưởng.
Thời đó với chức vụ này phải hiểu là người quan trọng và nếu không phải là người
trong Đảng thì cũng phải là tay có khả năng được Tổng Thống Diệm tin yêu. Kể từ
năm 1958 khi chế độ Ngô Đình Diệm bắt đầu vững mạnh, Ông Nhu cũng như Tổng Thống
Diệm bắt đầu lưu ý đến thành phần sĩ quan trẻ, ông Ngô Đình Nhu cho rằng: “bọn
trẻ dù sao cũng có học, trong sạch không có máu Lê Dương”. Đó cũng là trọng tâm
của Sở Nghiên Cứu Chánh Trị trong công tác “móc nối” với những sĩ quan trẻ này,
Phan Trọng Chinh cũng như các sĩ quan trẻ trong vụ 11.11.1960 vốn được coi như
“tương lai của Miền Nam”. Đùng một cái, như xét đánh...hàng hai chục sĩ quan trẻ
tham dự đảo chánh. Sau vụ 11.11.60, Tổng Thống Diệm vẫn yên trí vụ này có bàn
tay Pháp dính vô. Căn cứ theo báo cáo, ông Tổng Thống cho rằng “mấy đứa nhỏ bị
nó lôi kéo. Tất cả do Vương Văn Đông nó bị Pháp mua chuộc”.
Sở dĩ chúng tôi phải dài dòng ở phần này vì cuộc đảo chánh 63
được mô tả như một “cú ngoạn mục” với âm mưu sắp đặt của Hoa Kỳ thì cú “60” được
mô tả như một cuộc nổi loạn bất thường của một số tuổi trẻ trong Quân Đội. Cú
60 mang mầu sắc tình cảm và Quốc Gia cực đoan hơn là cú “63” mang tính chất cơ
hội và hoạt đầu.
Ngoại trừ Trung Tá Đông có liên hệ rõ rệt với Pháp còn các sĩ
quan tham dự như Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu, Nguyễn Mạnh Tường, nghĩa là từ
Thiếu Tá đến Đại Úy, Trung Úy đều xuất thân từ các gia đình đảng phái Quốc Gia
không Việt Nam Quốc Dân Đảng thì cũng Đại Việt Quốc Dân Đảng và họ được công nhận
là trong sạch chỉ huy nổi tiếng và có thực tài. Như trường hợp Đại Úy Nguyễn Mạnh
Tường khi còn là Trung Úy đã nổi tiếng là một vị Trưởng Phòng 3 giỏi của Sư
Đoàn 5 (dưới thời Tôn Thất Đính) tốt nghiệp Đại Học Quân Sự đứng số I và cũng
vì đứng số I nên được lưu lại Bộ Tổng Tham Mưu và theo luôn phe đảo chánh
11.11.1960 có tính chất Quốc Gia thuần túy, trẻ và nhiệt thành.
Tuy vậy, dù là con người quốc gia đứng lên đảo chánh lật đổ
đương tại hợp pháp khi thất bại phải ngồi tù ra tòa là lẽ đương nhiên. Vì giản
dị “được làm vua thua làm giặc”.
Những người chủ chốt trong nội vụ thì đã cao chạy xa bay như
Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Hoàng Cơ Thụy... còn lại được coi là tòng phạm.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ông Nhu, Bác Sĩ Tuyến cũng không tỏ vẻ “tức giận đến
độ phải ngược đãi trả thù” những Quân Nhân tòng phạm này. Đó cũng là một trong
những lý do không đưa vụ 11.11.1960 ra xét ngay. Ông Nhu cũng như giới cộng sự
viên của ông và Tổng Thống Diệm đều lưu ý đến Vương Văn Đông còn Hoàng Cơ Thụy
cũng không phải là kẻ chủ mưu chính yếu. Bác sĩ Phan Quan Đán thì rõ ràng chạy
theo cơ hội.
Tại sao Vương Văn Đông lại là chủ chốt trong vụ 11.11.1960 và
có dính dáng đến hoạt động của Phòng Phản Gián Pháp không ? Vương Văn Đông là một
Trung Tá trẻ của Quân Đội lúc bấy giờ, thông minh và có khả năng nhưng bản chất
cũng là một thứ “con tây”. Trước năm 1960, giới cao cấp tại Dinh Độc Lập không
ai để ý đến Đông. Năm 1954 Đông đứng về phe
Hinh, và hoạt động cho biệt đội Con Ó thuộc Phòng 6 của Trung
Tá Trần Đình Lan.
Giữa hai vị Trung Tá trẻ Vương Văn Đông và Nguyễn Triệu Hồng
thì Trung Tá Hồng có tư cách hơn có học vấn cao và là một sĩ quan thuộc loại cự
phách có thực tài (Trung Tá Hồng bị bắn ngay tại Tổng Nha Cảnh Sát đêm
11.11.1960) còn Đông nhiều tham vọng lại bị chi phối bởi nếp sống “Tây” của gia
đình nhà vợ.
Năm 1957, Trung Tá Đông được gởi qua Mỹ tu nghiệp. Ngay thời
gian này Đông đã tỏ ra bất mãn. Trong suốt khóa huấn luyện viên Mỹ hỏi câu gì
Đông chỉ đáp vỏn vẹn “I don't know”.
Khi về nước, Trung Tá Đông được bổ nhậm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 7
(do Trung Tá Huỳnh Văn Cao làm Tư Lệnh). Vốn thông minh, có tài lại kiêu ngạo,
Đông rất coi thường Trung Tá Huỳnh Văn Cao. Đông đã công khai nói lên điều này.
Thực ra thì Đông kiêu ngạo cũng có lý, ông ta vốn là một sĩ quan tác chiến xuất
sắc, đeo lon Thiếu Tá năm 23, 24 tuổi... Đáng lý ra thì không nên để Đông làm Tư
Lệnh Phó dưới quyền Huỳnh Văn Cao vì sự cách biệt về khả năng giữa hai người
quá rõ rệt. Đông bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm cũng có nhiều nguyên nhân
nhưng hợp tình hợp lý và đó cũng là nguyên nhân đẩy ông ta vào thế chống đối.
Khi Trung Tá Đông làm Tư Lệnh Phó thì Thiếu Tá giả định Phan Minh Thọ làm Tham
Mưu Trưởng nhưng thuộc quyền của Sư Đoàn lại nằm trong tay Phan Minh Thọ.
Nguyên nhân lớn nhất là vì Đông bị chèn ép quá nhiều, có tài
(theo Đông nghĩ) lại bị xử ức, Đông vẫn cho rằng mình vượt Trung Tá Huỳnh Văn
Cao về thâm niên cấp bậc cũng như khả năng chỉ huy và tác chiến.
Đã thế, Sư Đoàn 7 lại bị thao túng bởi viên Tham Mưu Trưởng.
Dạo ấy, các sĩ quan ở Sư Đoàn 7 ai cũng ngán. Đây cũng là một kinh nghiệm đáng
cho người lãnh đạo Quốc Gia bất cứ thời nào cũng phải suy ngẫm. Người lãnh đạo
Quốc Gia thì ở xa nhưng cán bộ thì lại ở gần quần chúng. Quần chúng sẽ nhận định
và phê phán người lãnh đạo quốc gia qua đám cán bộ. Trong Quân Đội cũng vậy, sĩ
quan không biết rõ tấm lòng Tổng Thống Diệm như thế nào, không rõ con người ông
Cẩn ra sao nhưng họ luôn luôn nhận định và phê phán qua những con người ruột của
chế độ. Không hiểu Phan Minh Thọ có phải là con ruột của chế độ hay không nhưng
khi về làm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 7 thì ông ta có thể gọi là quá hăng hái phục
vụ cho Đảng (hệ phái ông Cẩn). Phàm những sĩ quan nào ghé thăm Vương Văn Đông đều
có người theo dõi và báo cáo với Thượng Cấp. Thiếu Tá Thọ lại quá “hăng hái” phục
vụ chế độ bằng cách công khai “tấn công” Tư Lệnh Phó Vương Văn Đông. Trong văn
phòng Tư Lệnh Phó của Đông có một bộ salon rất đẹp, nhưng cũng bị lấy đi. Bàn
giấy của Đông có 2 cái ghế để tiếp khách cũng lấy đi hết...mỗi lần khách tới, một
là đứng hai là ngồi trên mặt bàn. Do đó, sự bất mãn của Đông mỗi ngày càng lớn.
Đông thù ghét Đảng Cần Lao mà thực sự là thù ghét ông Cẩn qua con người Thọ.
Cái nguy cơ làm tan vỡ chế độ bắt nguồn từ những sự lạm dụng của cán bộ hạng
trung như vậy. Một chế độ muốn được lòng dân, muốn giảm thiểu được bất mãn
trong quần chúng thì người lãnh đạo tối cao có tài đức chưa đủ mà còn phải có
đôi mắt sáng nhìn rõ từ những lạm dụng của những thuộc cấp vì thuộc cấp vẫn
nhân danh chế độ trong một khu vực nào đó.
Không ai nói rằng Thiếu Tá Thọ thế này thế nọ nhưng quả thực
chế độ Ngô Đình Diệm có nhiều cán bộ trung cấp như Thọ tuy có hăng say hết lòng
phục vụ nhưng hành xử nhiều điều quá đáng ấu trĩ lại bảo hoàng hơn Vua. Tệ hại
hơn nữa là dùng cái uy danh của đàn anh để tạo uy thế cho mình. Dù là một người
bình thường không thuộc một khuynh hướng nào chống đối chính quyền nhưng gặp cảnh
ngộ lại chèn ép và xử ức như Vương Văn Đông cũng dễ dàng bất mãn và sẵn sàng chống
đối chính quyền nếu có dịp thuận tiện. Vương Văn Đông bị đổi về Trường Đại Học
Quân Sự tuy không còn bị xử ức và chèn ép như ở Sư Đoàn 7, song Đông lại có nhiều
cơ hội tốt kết giao với một số sĩ quan trẻ.
VỤ ÁN 11.11.1960
Cuộc đảo chánh 11.11.1960 không phải chỉ có nhóm Vương Văn
Đông, Nguyễn Triệu Hồng nhưng còn vô số sĩ quan được coi là nòng cốt của chế độ
cũng trở cờ đón gió hoặc án binh bất động chờ thời cơ. Ngay Sư Đoàn 7 đóng tại
Biên Hòa, kế cận Thủ Đô từng phút đầu vẫn giữ thái độ “wait and see”. Sau đó,
Trung Đoàn 12 nóng ruột mới kéo quân trực chỉ Thủ Đô. Sư Đoàn 22 mà vị Tư Lệnh
được coi là “người trong nhà” của chế độ cũng do dự. Đúng hơn là hoàn toàn im lặng
chờ lệnh thượng cấp. Ngay tại Thủ Đô, nhiều Tướng Tá cũng im lặn chờ đợi cơ hội.
Cuộc đảo chánh bất thành, nhiều người lanh chân lẹ miệng lại
được tưởng thưởng trái lại một số sĩ quan lại gặp tai bay vạ gió hết sức oan ức.
Trường hợp Trung Tá Nguyễn Khương, Chỉ Huy Trưởng Truyền Tin, suốt ngày 11 đến
sáng 12 trốn thật kỹ nhưng khi quân Đại Tá Trần Thiện Khiêm, tiến vào Thủ Đô
thì bấy giờ Trung Tá Khương mới lộ diện rồi lại còn lập công bằng cách cho một
Tiểu Đoàn Truyền Tin ra tay chống đảo chánh vào ngày 13 (nghĩa là tàn cuộc rồi
chính ông lại trận xe của Đại Tướng Lê Văn Tỵ không cho vào Dinh gặp Tổng Thống
Diệm).
Thực ra thì cả ngày 11 Trung Tá Khương cho người móc nối với
phe đảo chánh nhưng phe đảo chánh bất thành ông trở thành người chống đảo chánh
hăng hái nhất. (nhiều Tướng Tá khác tương tự như Trung Tá Khương). Trong đó nhiều
người bị tố cáo rất oan ức. Chẳng hạn như Thiếu Tá Liên Đoàn trưởng Truyền Tin
thuộc Bộ Tư Lệnh Hành Quân.
Lính trong Liên Đoàn của Thiếu Tá chỉ vì tình đồng đội tiếp tế
cơm nước cho một số binh sĩ Nhảy Dù sau này Thiếu Tá Nguyễn Đình Tài bị tố cáo
theo phe đảo chánh rồi mất chức, bị câu lưu và bị ra khỏi Ngành Truyền Tin. Một
Đại Úy Chỉ Huy Trưởng một đơn vị biệt lập tại ven đô, không có tội gì cả chỉ có
tội “vô tình xóa khẩu hiệu suy tôn Ngô Tổng Thống” nhưng cũng bị phạt 40 ngày
trọng cấm. Số là thế này, bức tường ở doanh trại kẻ khẩu hiệu “Ngô Tổng Thống
muôn năm” lâu ngày bị nước mưa làm ố nhòe trông rất lem nhem, viên Đại Úy sốt sắng
ra lệnh cho Thượng Sĩ Thường Vụ phải cho lính quét lại tường vôi và kẻ lại khẩu
hiệu cho đàng hoàng. Nhưng không may tường quét vôi trắng xóa, xóa nhòa khẩu hiệu
vào ngày 10 thì đúng ngày 11 xảy ra đảo chánh. Ấy vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu vẫn
phổ biến một văn thư đi khắp các đơn vị về việc phạt viên Đại Úy này 40 ngày trọng
cấm với lý do ở trên.
Nhiều đơn vị một số sĩ quan bị câu lưu bị điều tra hoặc
thuyên chuyển chỉ vì phát ngôn bừa bãi trong ngày 11.11.1960.
Thực tế thì cuộc đảo chánh 60 như đã viết trên phát sinh do
tình thần quốc gia cực đoan cùng với tâm trạng nổi loạn của một số sĩ quan trẻ.
Về phương diện hành quân đảo chánh thì phải nói là hoàn hảo
nhưng ai cũng nhận rằng, cuộc đảo chánh đó bị một số chánh khách hoạt đầu đón
gió và làm mất đi rất nhiều ý nghĩa Quốc Gia chân chính và tiềm ẩn khát vọng
cách mạng thật sự của một số sĩ quan trẻ tham dự với tất cả hăng say. Số chánh
khách này gọi là chánh khách cũng chưa được đúng lắm, đứng đầu là Hoàng Cơ Thụy
theo sau là Phan Quang Đán.
Trở lại trường hợp Trung Tá Nguyễn Khương, ông này được coi
là Vua của Ngành Truyền Tin, bao sĩ quan ngành này đã khổ vì ông Khương qua những
báo cáo xuyên tạc bậy bạ. Trung Tá Khương với nhãn hiệu “Cần lao ông Cậu” dễ
xưng hùng xưng bá. Tư cách của Nguyễn Khương đã tỏ rõ khi Nguyễn Khương qua Mỹ
du học cùng với một số sỹ quan cao cấp trong đó có Đại Tá Đỗ Cao Trí. Thay vì
lo học Trung Tá Khương lại chỉ lo theo dõi đồng đội rồi viết riêng thư về báo
cáo với Cậu Cẩn, chẳng hạn như Nguyễn Khương viết thư tố cáo ông Cậu là Đỗ Cao
Trí sang Mỹ chẳng lo học chỉ lo chơi bời (trong khi đó thì Đại Tá Đỗ Cao Trí
cũng viết thư tố Nguyễn Khương học hành bê bối)
Trọn ngày 11 và ngày 12, Trung Tá Khương trốn lủi lại tìm
cách móc nối với Đại Tá Thi tối 12, Nguyễn Khương mặc thường phục lên Catinat
quan sát tình hình. Lúc ấy, phe chính phủ đã thắng thế, Trung Tá Khương cấp tốc
về Bộ Tư Lệnh huy động lực lượng truyền tin rồi trao cho Đại Úy Đỗ Như Luận “thống
xuất” tiến vào Bộ Tổng Tham Mưu (sáng 13) để gọi là giải vây nhưng kỳ thực lúc ấy
Bộ Tổng Tham Mưu không còn một lực lượng Nhảy Dù nào...Nhưng Trung Tá Khương vẫn
coi như ta là người hùng chống đảo chánh rồi lại “hộ tống” Đại Tướng Lê Văn Tỵ
vào Dinh lập công với Tổng Thống.
Sau đó, Trung Tá Khương lại lập báo cáo xuyên tạc Thiếu Tá
Nguyễn Đình Tài, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Truyền Tin thuộc Bộ Tư Lệnh hành
quân. Trong bản báo cáo Trung Tá Khương cho rằng Thiếu Tá Tài đã tiếp tay với
phe đảo chánh rằng khi quân đảo chánh chiếm được Đài Phát Thanh thì Thiếu Tá
Tài có ý định ngăn cản không cho Trung Tá Khương sử dụng chiếc máy phát tin cao
xuất để thay Đài Phát Thanh.
Dinh Tổng Thống từ phút đầu ngày 11 đã trao cho Khương với mật
lệnh liên lạc với Trung Tá Huỳnh Văn Cao nhưng Trung Tá Khương đã không chuyển
mật lệnh này.
Hơn tháng sau thì Dinh Tổng Thống cũng rõ lòng dạ của Khương
và bị thất sủng từ đó.
Trong 2 ngày 11 và 12, một số các nhân vật tai to mặt lớn đều
lẩn mặt nhưng trong ngày 13 đồng loạt xuất hiện, tranh nhau nhảy vào ban chống
đảo chánh để lập công rồi cố làm sao diện kiến được Tổng Thống để ông Cụ thấy mặt.
Một người có công thực sự là Võ Văn Hải. Trong việc tiếp xúc dàn xếp với phe đảo
chánh, đều một tay ông Hải lo toan, thế nhưng sau đó lại bị nghi kỵ, bị các phe
nhóm dèm pha là Võ Văn Hải đi nước đôi. Ngày 11 và 12 Bác Sĩ Tuyến cùng một số
cộng sự viên lập “bộ chỉ huy” tại nhà Huỳnh Thành Vị.
Tại đây, Bác Sĩ Tuyến trực tiếp liên lạc với Đại Úy Bằng cùng
với một số đơn vị lớn có Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Theo Bác Sĩ Tuyến thì người có
công lớn trong vụ 11.11.1960 trước hết phải kể đến bà Ngô Đình Nhu và sau nữa
là Đại Úy Bằng, một tay kiên trì chống đỡ phe đảo chánh mà lực lượng không hơn
một Đại Đội.
Nhưng Tổng Thống Diệm lại bị huyền hoặc bởi một số người cơ hội
chuyên môn “bốc” thành ra người có công thì không được lưu ý hoặc bị phe phái
khác dèm pha, có tội khi khéo chạy tội thì trở thành người có công. Đám người
này tìm mọi cách để làm đẹp lòng ông Tổng Thống và để ông Tổng Thống yên trí rằng:
“Dân chúng luôn luôn trung thành và ủng hộ Tổng Thống”. Kỳ thực lúc ấy dân
chúng đã bắt đầu bất mãn trước những lạm dụng và hống hách của những nhân vật
được coi là lương đống của chế độ. Đáng lý ra nhân cơ hội này, Tổng Thống Diệm
phải làm một cuộc xét lại những sai lầm của chế độ và nếu cần phải thanh trừng
những thành phần bất lực, tham nhũng, nịnh bợ nhưng Tổng Thống Diệm không làm
như thế...Rồi kế tiếp đến vụ bỏ bom Dinh Độc Lập ngày 27.2.1962 chế độ Ngô Đình
Diệm bắt đầu sa sút trông thấy, nội bộ càng thêm phân hóa. Vụ 11.11.1960 thì một
số phe phái dèm pha ông Võ Văn Hải, vụ ngày 27.2 ông Tổng Thống cũng nghi ngờ
Bác Sĩ Tuyến. Vụ Phật Giáo năm 63, kể từ tháng 5, Tổng Thống Diệm lại không tin
ông Cẩn nốt. Chế độ đang lúc phân hóa, đầy mâu thuẫn nội bộ lại phải đương đầu
với áp lực Mỹ và vụ tranh đấu của Phật Giáo. Với một tình hình rối ren như vậy
đáng lý phải xếp vụ án 11.11.1960 lại nhưng không hiểu sao, Tổng Thống Diệm lại
cho đem xử. Cái chết của Nhất Linh là một bất lợi lớn lao cho vụ án.
Chánh Án Huỳnh Hiệp Thành được chỉ định làm Chánh Thẩm. Trung
Tá Quân Pháp Lê Nguyên Phu ngồi ghế Ủy Viên Chánh Phủ. Sau 1963, Trung Tá Lê
Nguyên Phu bị công kích dữ dội, bị kết án là tay sai của chính quyền Ngô Đình
Diệm đã hạ nhục xỉ vả chánh khách quốc gia. Điều công kích có đúng hay không chỉ
là phản ứng nhất thời do tự ái bồng bột của người bị kết án.
Theo giới Thẩm Phán thuộc Nha Quân Pháp (trước 63) và giới Hiến
Binh thì Trung Tá Lê Nguyên Phu người thay thế Trung Tá Nguyễn Quang Sanh chỉ
huy lực lượng Hiến Binh, ông Phu có sự ngay thẳng, có lương tâm của một Thẩm
Phán tốt nhưng giao tế hơi vụng về, nói năng không được khéo léo. Đó cũng là một
điểm thất bại của một Ủy Viên Chánh Phủ của một Tòa Án vốn được là công cụ của
chính quyền. Giám Đốc Nha Quân Pháp lúc ấy là Đại Tá Nguyễn Văn Mầu, Trung Tá
Phu nắm quyền Giám Đốc phân Nha Hiến Binh kiêm Ủy Viên Chính Phủ Tòa Án Quân Sự
Đặc Biệt. Trung Tá Lê Nguyên Phu được Phủ Tổng Thống chỉ thị đem gấp vụ
11.11.60 ra xét xử. Một vụ án thật rắc rối. Khi nhận chỉ thị, Trung Tá Quân
Pháp Lê Nguyên Phu đã thấy rõ những khó khăn này.
Trên mặt pháp lý, đưa vụ 11.11.1960 ra xét xử tại Tòa Án Quân
Sự là đúng vì thủ phạm cũng như các tòng phạm đều là Quân Nhân tại ngũ và chứng
cớ phạm pháp rất hiển nhiên (sử dụng quân lực để lật đổ chế độ đương nhiệm và hợp
pháp). Lý thì như vậy nhưng tình lại khác. Nhưng nhiệm vụ của Thẩm Phán chỉ dựa
theo lý dù cái lý của chính quyền nhưng vẫn là cái lý của luật pháp hiện hành.
Trung Tá Lê Nguyên Phu được Tổng Thống Diệm chỉ thị đến tìm Bác Sĩ Tuyến để tìm
hiểu rõ đầu đuôi nội vụ (lúc ấy Bác Sĩ Tuyến không còn làm việc ở Sở Nghiên Cứu
Chính Trị nữa). Với tình hình đang sôi động như vậy từ Bộ Trưởng Thuần đến Bác
Sĩ Tuyến đều cảm thấy nan giải nhưng ai là người có thể cản ngăn khi Tổng Thống
Diệm đã quyết định như vậy?
Vấn đề khó khăn nhất đối với Trung Tá Phu là Tổng Thống Diệm
chỉ định: “anh phải lấy cho tôi 2 cái án tử hình”. Ông chỉ thị vắn tắt vậy thôi
mà không nói kết tội cho ai tử hình. Trước mặt Tổng Thống Diệm ngay Phó Tổng Thống,
Bộ Trưởng, Tướng lãnh còn vâng lời tuân theo răm rắp huống chi một Trung Tá,
ông Lê Nguyên Phu đem vấn đề này hội ý với Bác Sĩ Trần Kim Tuyến. Vụ án làm cho
ông Phu muốn điên đầu. Ai ở vào địa vị của ông Phu cũng không thể làm sao hơn!
Trung Tá Phu nghiên cứu sơ đồ mấy ngày...chỉ thị của Phủ Tổng Thống là phải làm
sao lấy 2 án tử hình để làm gương. Có nhẽ Tổng Thống Diệm coi đó là cách biểu
dương uy quyền và sự cứng rắn của chính quyền? Trung Tá Phu lo lắng nói với
Bác Sĩ Tuyến: “Theo lương tâm Thẩm Phán, sau khi cứu xét kỹ hồ sơ thì thấy
không ai trong vụ án đáng lãnh án tử hình cả”. Nhưng lệnh của Tổng Thống bây giờ
làm thế nào. Trước sự khó khăn nan giải này, Bác Sĩ Tuyến và Trung Tá Phu đã đi
đến một giải pháp: “tìm trong số những người đào tẩu như Vương Văn Đông, Nguyễn
Chánh Thi, Hoàng Cơ Thụy để buộc tội thật nặng quy hết trách nhiệm cho những
người này và làm thế nào để Tòa Án kết án tử hình những người tại đào, có như
thế mới có thể cứu nổi những người đang bị giam giữ”. Trung Tá Phu coi giải
pháp này như một lối thoát tốt đẹp nhất cho chính ông ở tư thế một Ủy Viên
Chính Phủ (cái nghề chỉ có buộc tội ít khi xin tòa dễ dãi cho các bị can). Ông
Phu cho đó là một lối thoát tốt đẹp bởi vì ông vẫn lo lắng tâm sự với Bác Sĩ
Tuyến “Nếu không khéo Tòa lại xử một bị can nào tử hình thì tôi chẳng biết phải
làm thế nào, lương tâm thật không cho phép”. Thường tình các vị Chánh Án của
Tòa Án Quân Sự đặc biệt hay mặt trận có “thói quen” xét xử bị can theo lời buộc
tội của Ủy Viên Chính Phủ, khi một Ủy Viên Chính Phủ đại diện thật sự cho Hành
Pháp mà lại là Hành Pháp trước năm 1963. Nếu “cảm thấy” Ủy Viên Chính Phủ muốn
bị can X bị can Y bao nhiêu năm tù, tử hình hay khổ sai thì thông thường các vị
Chánh Án cũng sẽ tuyên xử như vậy một là lấy lòng Tổng Thống hai là quá nhát sợ
hoặc muốn tránh sự lôi thôi phiều nhiễu.
Khi đem vụ 11.11.1960 ra xử, Trung Tá Phu cũng như Bác Sĩ Tuyến
và Bộ Trưởng Thuần đều phập phồng lo sợ “mật lệnh 2 án tử hình”. Biết đâu trong
lúc cao hứng hoặc thiếu quân bình hoặc quá “sốt sắng” với chế độ vị Chánh Thẩm
lại xử Phan Trọng Chinh hoặc Cụ Phan Khắc Sửu hay một vài bị can nào khác tử
hình thì lúc ấy sẽ ra sao ? Trong tình hình đầy biến động và bất thường như trạng
thái tâm lý chính trị bất thường năm 1963 biết đâu vì một lý do bất thường thì
lúc đó quả thực lương tâm của một người bình thường cũng không thể yên ổn được.
Do đó, sau nhiều lần hội ý cùng nhau, Trung Tá Phu đã đi đến một giải pháp là
trong lời buộc tội sẽ đánh mạnh vào điểm là các bị can đều tòng phạm, a dua.
Tóm tắt lại, trước khi đưa ra Tòa xét xử vụ 11.11.1960, Tòa
Án Quân Sự đã có sự bố trí cẩn thận để làm thế nào giảm thiểu hình phạt đối với
tòng phạm và lấy án tử hình dành cho các chánh phạm tại đào. Tổng Thống Diệm
không ra chỉ thị xử tử hình đích danh ai cho nên đó là điều dễ dàng cho Ủy Viên
Chánh Phủ có thể nhắm vào Nguyễn Chánh Thi, Hoàng Cơ Thụy, Vương Văn Đông.
Thành phần can phạm hết sức phức tạp tuy nói là những Nhân Sĩ
Quốc Gia nhưng danh xưng tốt đẹp này chỉ nên dành cho vài ba người. Ngoài những
Quân Nhân can phạm có thể thuần nhất còn các Nhân Sĩ chỉ là sự kết hợp tạm thời
từ năm bè bảy mối, tạm đồng ý với nhau trong một giờ, một phút để cùng đứng lên
lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Quả thực thì phần nhiều các vị Nhân Sĩ này là hữu
danh vô thực, không có lực lượng hậu thuẫn đáng kể mà uy tín các vị đó đối với
quốc dân cũng chỉ là sự “nghe nói như vậy”. Nhưng vụ án đã gây nên dư luận sôi
nổi tại quốc nội cũng như quốc ngoại.
Vụ án đem ra xét trong một hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi cho
chính quyền. Nói là hoàn toàn vì trong một cuộc đấu tranh chính trị thì pháp luật
chỉ có thể là một khí giới giúp cho chính quyền có cái để nhân danh áp đảo đối
phương.
Đằng này, pháp luật được sử dụng không hợp với thời gian và
không gian nên không được hiệu lực, giảm thiểu được khí thế đấu tranh của phe
chống chính phủ, trái lại, vụ án 11.11.1960 lại trở thành khí giới của phe chống
chính phủ.
Như trên đã viết về vụ Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu tương đối
đã lắng dịu, tình hình tại Huế ít nhất đã ổn định dù là bề mặt. Phía Ủy Ban
Liên Phái đang khủng hoảng vì nội bộ bắt đầu phân hóa. Trong khi đi tìm phương
thức đấu tranh mới làm thế nào hiệu quả hơn, có tác dụng mạnh hơn là 5 nguyện vọng
đề ra. Vì sự kiếm tìm phương thức mới, các vị lãnh đạo trong Ủy
Ban Liên Phái bắt đầu xung đột.
Xung đột giữa phe ôn hòa và phe quyết liệt. Phe quyết liệt từ
ngày 20.6 trở đi cũng bắt đầu hoang mang...Vì khó lòng có thể tập trung được Phật
Tử và khó lòng tạo được sự sôi động.
Đối với thị hiếu quần chúng lại luôn thay đổi. Mục tiêu tranh
đấu nào bất luận chánh đáng và lý tưởng cũng phải đánh trúng được thị hiếu đám
đông. Khi thu hút được thị hiếu của đám đông thì mới dễ dàng sách động được họ
và đưa họ vào con đường hăng say tranh đấu cho mục tiêu của người lãnh đạo.
Vụ án 11.11.1960 đem ra xét xử dân chúng lại được dịp theo
dõi vì hẳn nhiên là vụ án đó vẫn còn vang dội trong lòng dân. Dân chúng ở đâu
và thời nào cũng có khuynh hướng bênh kẻ yếu và ngưỡng mộ người chiếc bại và
không cần tìm hiểu gì khác hơn.
Thất bại lớn của chính quyền Ngô Đình Diệm là đem vụ này ra
xét xử. Một lần nữa chính quyền lại đổ cả một thùng dầu vào ngọn lửa tranh đấu
của Phật Giáo mà ngọn lửa đang leo lét... ngay các nhà lãnh đạo Phật Giáo cũng
đang hoang mang không biết làm thế nào cho ngọn lửa bùng to.
Dù Phật Giáo đã có một danh sách tự thiêu nhưng vẫn chưa thể
áp dụng. Bởi vì dù ai tự thiêu đi nữa thì cũng không thể nào tạo được xúc động
như vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức. Bỗng nhiên, vụ án 11.11.1960 cùng với
cái chết của Nhất Linh đã cung hiến cho Ủy Ban Liên Phái một cơ hội tốt nhất.
KHI HUYỀN THOẠI NHƯ CÁT GẶP MƯA
Đem vụ 11.11.1960 ra xử là một lỗi lầm chiến thuật vì không
thuận tình thuận cảnh. Nhân vụ án, chính quyền Ngô Đình Diệm muốn biểu dương uy
quyền, muốn nói thẳng với người Mỹ là áp lực của họ không thể làm suy giảm sự
cương quyết của Tổng Thống Diệm. Nói được như thế là bởi vì vụ án 11.11.1960 và
cái chết của Nhất Linh, giới chúc Mỹ đã áp lực mạnh mẽ buộc Tổng Thống Diệm xếp
lại. Nhưng áp lực của Mỹ từ phía Harriman, Hilsman, Fistel chỉ là tạo cơ hội để
xen lấn vào nội tình Việt Nam chứ thật tình cũng không có một chút thành ý nào
đối với những phần tử quốc gia. Vụ án kết thúc thì giới chức Mỹ lại có thêm một
cơ hội tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm đán áp các phần tử quốc gia đối lập.
Tóm lại vụ án 11.11.60, không đem lại kết quả như Tổng Thống Diệm mong muốn.
Trái lại từ phía Phật Giáo tranh đấu đến Mỹ và Đảng phái đối lập kể cả cộng sản
lại có thêm một lợi điểm to lớn để tấn công chính quyền. Giả dụ trong tình thế
lúc ấy Tổng Thống Diệm một là xếp lại nội vụ nếu không thì ân xá để gọi là tạo
sự đoàn kết hào đồng (dù chỉ là chiến thuật).
Như vậy các phía đối lập đã mất hẳn một mục tiêu tốt.
Bỏ ra ngoài các Quân Nhân trẻ, một số “Nhân Sĩ trong vụ
11.11.60” được đưa ra Tòa là một chiến thắng. Tự nhiên chính quyền lại góp công
tạo cho họ được thêm rất nhiều thanh thế trong quần chúng mà đáng lý ra đa số họ
không thể nào tạo được nổi thanh thế như vậy.
Cụ Phan Khắc Sửu cũng như Nhà Văn Nhất Linh thì uy tín đối với
quốc dân là một điều hiển nhiên rõ rệt song những Hoàng Cơ Thụy, Hoàng Hồ, Phan
Quang Đán...chỉ là uy tín vay mượn hết sức bấp bênh. Những người này nếu chính
quyền cao tay thì nên khoan hồng cho họ là phải vì thực tình nếu không có Quân
Nhân tham gia vụ đảo chánh thì riêng họ cũng chẳng thể làm nên trò trống gì cả.
Trái lại, chính sự tham dự của những Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán chỉ làm lem
nhem nhiệt huyết của các Quân Nhân trẻ trong vụ đảo chánh.
Nội một chuyện Đài Phát Thanh bỏ trống trong hai ngày 11 và
12 đã nói lên sự bất tài của một số tự mệnh danh là chính khách. Ngoài Bản
Tuyên Cáo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và Bản Tuyên Bố của Bác Sĩ Phan Quang
Đán thì Đài Phát Thanh không còn mục gì hơn là bản nhạc quân hành. Chính những
lời tuyên bố của Bác Sĩ Phan Quang Đán trên Đài Phát Thanh đã làm hầu hết dân
chúng thất vọng. Rồi một mặt Đài Phát Thanh kêu gọi dân chúng biểu tình sau đó
lại phổ biến thông cáo cấm dân chúng ra ngoài đường. Cứ xem như thế cũng đủ hiểu
tài năng của mấy chính khách được coi là nòng cốt trong nội vụ.
Trong phiên Tòa xử ngày 5.7.1963 kéo dài đến ngày 12 (với 19
Quân Nhân và 34 Nhân Sĩ) qua lời buộc tội, Trung Tá Lê Nguyên Phu cho rằng các
Nhân Sĩ này chỉ “a dua chạy theo đón gió”.
Khi Nhất Linh nằm yên trong lòng đất thì vụ án 11.11.60 cũng
hoàn tất. Hai án tử hình mà Tổng Thống Diệm đòi hỏi vẫn chỉ dành riêng cho cáo
chính phạm còn tại đào. Cháy nhà mới ra mặt chuột...Câu phương ngôn này quả
không sai khi nhận định về bản chất thực của một số Nhân Sĩ trong vụ án, các
Quân Nhân trẻ tuổi như Phan Trọng Chinh, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Vũ, Từ Thức...đã
chứng tỏ được phong độ đường hoàng và khí phách khi ở trong tù cũng như ra trước
tòa. Ngược lại một số Nhân Sĩ tự nhận có thành tích cách mạng thì quả là yếu
kém về đường nhân cách. Nhất cử nhất động của mấy vị này đều không qua khỏi con
mắt của mấy tay An Ninh chìm rồi cuối cùng cũng lọt vào tai vợ chồng Ông Nhu và
Tổng Thống Diệm. Chẳng hạn như Bác Sĩ nọ đã từ chối cả một chút dầu cù là khi một
người đồng thuyền đồng hội bất thần bị đau yếu giữa cảnh giam cầm. Cũng vị Bác
Sĩ trên đã quá cẩn thận dùng dây treo cá khô ngay phía trên đầu mình để “canh
phòng”. Rồi nhiều vị gọi là Nhân Sĩ nhưng vào tù đã không thương nhau lại còn tị
hiềm gành ghét nhau kể cả gây lộn thưa kiện nhau đến Phòng chuyên môn (Cơ Quan
An Ninh của Khám Chí Hòa). Riêng Bác Sĩ họ Phan thì được coi là một can phạm
chính trị rất khôn khéo mềm dẻo. Khi bị đày ra Côn Sơn ông đã không quản công
viết thư về đất liền xin Tổng Thống Diệm khoan hồng. Bác Sĩ họ Phan một mực kêu
oan và minh xác ông luôn luôn khâm phục Ngô Tổng Thống (rất tiếc những lá thư
trên lại không được gửi về đất liền nên không đến tay Tổng Thống Ngô Đình Diệm
và chỉ có Thiếu Tăng Tử, tự Sao (Tỉnh Trưởng Côn Sơn) là người được đọc đầy đủ
những lá thư đó. Như vậy thì ông Ngô Đình Nhu tỏ vẻ khinh thị coi thường một số
“chính khách” cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng năm 1963, Ông Nhu đánh
giá sai lạc thực chất của lớp người trẻ lúc bấy giờ. Chính lớp người này mới là
thực lực đáng kể và trở thành lực lượng nóng cốt đứng lên chống chế độ Ngô Đình
Diệm. Như trên đã viết ngày 13.7 ngày đưa đám Nhất Linh chính là ngày mở đầu
cho sự tham dự tích cực của giới sinh viên học sinh. Ủy Ban Liên Phái lại có
thêm một đồng minh vô cùng bén nhọn và mạnh mẽ.
Trước khi trình bày rõ về vụ xử án này, xin nói qua cuộc
tranh đấu Phật Giáo kể từ ngày 19.6 (ngày đưa đám tang Hòa Thượng Quảng Đức)
cho đến ngày 7.7 tức ngày Nhất Linh quyên sinh.
Sau đám tang cố Hòa Thượng Quảng Đức thì cơ hồ phía Ủy Ban
Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo như đã cạn đề tài để kích thích sinh viên học sinh
và quần chúng Phật Tử.
Tình thế cứ kéo dài như vậy thì Ủy Ban Liên Phái khó lòng tạo
thêm được cơ duyên vận động mạnh cuộc đấu tranh. Nhưng cái chết của Nhất Linh
cũng như vụ án 11.11.1960 bỗng dưng chính quyền lại cung cấp cho Phật Giáo thêm
một số chất liệu để làm ngọn lửa đấu tranh càng cao hơn mặc dầu đang lúc gần
tàn (sự thực là như vậy) Trong những ngày 7, 8, 9 Ủy Ban Liên Phái lại vô cùng
bận rộn để vận động sinh viên học sinh tham dự đám tang của Nhất Linh và nhất
là hướng dư luận Phật Tử tập trung về vụ án. Ủy Ban Liên Phái không còn công
khai bênh vực vụ án nhưng vẫn phổ biến tài liệu để lên án chính quyền Ngô Đình
Diệm đàn áp những người quốc gia chống cộng.
Ngày 7, 8, 9 tháng 7 nỗ lực của Ủy Ban Liên Phái đều đổ dồn
vào đám tang Nhà Văn Nhất Linh, phía Ngô Đình Nhu chỉ thị cho Cơ Quan An Ninh
phải làm mọi cách canh chừng quan tài của Nhất Linh vì có tin tình báo cho biết,
phía Ủy Ban Liên Phái đang tìm cách thuyết phục gia đình Nhất Linh đem quan tài
về quàn tại Chùa Xá Lợi.
Nếu quan tài Nhất Linh đem về đấy thì lại có một vụ Quảng Đức
thứ hai nghĩa là phía Phật Giáo tranh đấu sẽ lợi dụng cơ hội này để sách động
Phật Tử và rồi sẽ có thuyết pháp liên miên. Hậu quả sẽ không biết thế nào. Nhất
Linh nằm xuống, Tòa Quân Sự vẫn tiếp tục xử vụ 11.11.1960 nhưng vụ đấu trí giữa
chính quyền và Ủy Ban Liên Phái càng thêm quyết liệt.
Ủy Ban Liên Phái lại kéo thêm được một số đống minh.
Từ khi ký Bản Thông Cáo Chung đến ngày Nhất Linh tạ thế thì Ủy
Ban Liên Phái trải qua một cuộc khủng hoảng nội bộ (dĩ nhiên bên ngoài không ai
biết được). Thượng Tọa Thiện Minh tuy bên ngoài nói mạnh miệng nhưng vẫn liên lạc
với phía chính quyền thực lòng muốn hòa giải. Phía ngoài Trung ông Cẩn lại biết
dùng tiền (như ông vẫn thường dùng) để lung lạc mấy vị chủ chốt (văn phòng ông
Cẩn có ghi nhận ông Cẩn có trao cho ông Luyện một lần 300.000 đồng để đem đến
cho mấy Thầy gọi là cúng đường tam bảo). Riêng Thượng Tọa Trí Quang được coi là
người không nhúng tay vô vụ tiền bạc này nhưng nhờ tiền bạc và nhờ “một số hồ
sơ mật” về đời tư cá nhân mà Thượng Tọa Thiện Minh một cách âm thầm đã ngã hẳn
về phía chính quyền. Trái lại phía Thượng Tọa Tâm Châu cương quyết giữ vững lập
trường. Thực ra Thượng Tọa Tâm Châu lúc ấy vẫn được coi là người ôn hòa mềm dẻo
nhưng sau Thượng Tọa có một số chính khách am tường về kỹ thuật tranh đấu cho rằng,
thời cơ đã đến thì phải làm tới ngay. Càng do dự chính quyền càng dễ mua chuộc
và phân hóa hàng ngũ tranh đấu. Phía tu sĩ người hăng hái nhất phải kể đến Đại
Đức Đại Nghiệp nắm vững được dư luận Mỹ, biết thế nào là Mỹ cũng lật đổ chế độ
Ngô Đình Diệm.
Điện thoại của Chùa Xá Lợi bị kiểm xoát cẩn thận thế nhưng Ủy
Ban Liên Phái vẫn được những nguồn tin nhanh nhất sớm nhất. Một là do báo chí
ngoại quốc. Hai là do mấy bà vợ của các viên chức “đi nước đôi” một mặt ủng hộ
chính quyền một mặt ủng hộ Ủy Ban Liên Phái qua trục giao liên vợ con. Nhưng
sau đám tang cố Hòa Thượng Quảng Đức các viên chức bắt đầu chồn chân và rút về ốc
đảo “nhiệt liệt ủng hộ chế độ” Đó là trường hợp ông Vũ Văn Mẫu. Công An Cảnh
Sát và Mật Vụ bắt đầu làm quen với kỹ thuật tranh đấu của Ủy Ban Liên Phái và
ít nhất có hàng loạt nhân viên vào nằm vùng. Nhờ vậy gần nửa tháng chính quyền
nắm lại thế chủ động.
Cái chết đột ngột của Nhà Văn Nhất Linh đã đưa chính quyền
vào thế bị động trong khi Ủy Ban Liên Phái lại lấy được thế chủ động.
Ngày 13.7 là ngày đưa đám tang Nhất Linh từ bệnh viện Đồn Đất
qua Chùa Xá Lợi rồi trở về nơi yên nghỉ ngàn thu tại nghĩa trang Bắc Việt.
Nhưng đó cũng là ngày đầy sôi nổi và bận rộn cho các Cơ Quan An Ninh chìm nổi của
Đô Thành và Tổng Nha Cảnh Sát Công An.
Ngày 13.7 cũng là ngày đánh dấu một khúc quanh lớn trong cuộc
tranh đấu của Phật Giáo. Hàng ngàn sinh viên thuộc nhiều Phân Khoa Đại Học đã tự
động đến Chùa Xá Lợi đón linh cữu Nhất Linh. Rất nhiều sinh viên đeo băng đen.
Đám tang của Hòa Thượng Quảng Đức cũng không đông đảo như đám tang Nhất Linh và
hầu hết đều thuộc giới Phật Tử.
Đám tang Nhất Linh thì lại khác, qui tụ nhiều thành phần Công
Giáo cũng có, Phật Giáo cũng có. Tuy nhiên phía Phật Giáo, một số lãnh tụ trẻ lại
khéo lanh lợi biến đám tang này thành mầu sắc tôn giáo. Cuối cùng Nhất Linh được
an táng cùng với Đảng Kỳ của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Từ đây giới sinh viên Sài Gòn mới thực sự dấn mình vào cuộc
tranh đấu...Một số sinh viên trẻ thuộc thành phần đảng phái cũng muốn lợi dụng
chiêu bài Phật Giáo với hy vọng tiến xa hơn, mạnh hơn nghĩa là đạt một cuộc
cách mạng ấy dù họ chưa biết cuộc cách mạng như thế nào.
Phía Phật Giáo nếu chỉ có một lực lượng Phật Tử cũng chưa đủ
nên đã tìm mọi cách lôi cuốn sinh viên học sinh.
KHI MỸ VÀ CỘNG SẢN QUYẾT TÂM NHẢY VÀO CUỘC
Biến cố dồn dập và bao trùm... Tổng Thống Diệm càng ngày càng
thúc thủ trong những mâu thuẫn nội bộ mâu thuẫn Mỹ Việt...mâu thuẫn anh em. Kể
từ trung tuần tháng 7 năm 1963 thì người Mỹ cũng như về phía cộng sản đã thực sự
nhẩy vào cuộc cố bám vào biến cố, giành phần chủ động biến cố. Trong khi Phật Tử
cũng như sinh viên học sinh hăng say quyết tranh đấu cho mục tiêu cao đẹp của tập
thể mình thì trong lòng Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo đã nứt rạn...chính sự
nứt rạn đó đã nói lên sự sự xâm nhập của những thế lực ngoại lai (cộng sản cũng
như Mỹ).
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo lại bắt đầu bừng dậy vào ngày
17.7. Trước đó, Ủy Ban Liên Phái liên tiếp nhận được những nguồn tin cho biết
là chính quyền sẽ áp dụng biện pháp mạnh.
Đồng thời cũng vào thời gian này, dư luận lại đồn đại sắp đảo
chánh. Phía Ủy Ban Liên Phái đã khai thác triệt để nguồn tin đảo chánh. Hơn nữa
Ủy Ban Liên Phái lại nắm được nhược điểm của chính quyền là sự phân hóa và mâu
thuẫn trầm trọng ngay từ phía anh em Tổng Thống Diệm. Ngoài Trung, ông Cẩn chỉ
còn là hư vị...Tại Sài Gòn quyền bính nằm trọng trong tay Ông Nhu đang chuyển
hướng để tìm thế liên minh mới. Một sự liên minh theo Ông Nhu trước hết phải đặt
trên căn bản một quốc gia chậm tiến đứng giữa hai thế lực Cộng Sản-Tư Bản. Từ
bao lâu rồi, theo Bác Sĩ Tuyến Ông Nhu vẫn mơ ước thực hiện được một “triết
thuyết chính trị” trong khung cảnh một quốc gia chậm tiến đứng trong khối thứ
ba. Ước mơ này của Ông Nhu chính nó lại trở thành khí giới tiêu diệt ông và hẳn
người Mỹ không thể nào để cho ông thực hiện được ước mộng đó.
Đầu tháng 7 Ông Nhu đã có những cuộc tiếp xúc bán chính thức
với đại diện Bắc Việt qua trung gian của Ủy Hội Quốc Tế và Giáo Sư Bửu Hội trở
thành một nhân vật quan trọng bày một nhịp cầu mới giữa Pháp và Việt. Đại Sứ
Goburdhun cho biết về sự tiếp xúc với Hà Nội, Ông Nhu vẫn còn dè dặt. Ông Nhu
chưa tính đến chuyện hòa giải với Miền Bắc ngay trong lúc này (1963) nhưng Ông
Nhu thành thật muốn hai bên mở cuộc tiếp xúc để dọn đường cho cuộc ngưng bắn và
thiết lập quan hệ bình thường giữa hai Miền Nam Bắc. Đại Sứ Ấn nhắc đi nhắc lại
nhiều lần với Cha Francois (MEP) “Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu là một người đặc biệt.
Trong cuộc tiếp xúc với nhà cầm quyền Bắc Việt họ vẫn coi Ông Nhu là một lãnh tụ
nguy hiểm”. Đại Sứ Goburdhun nhắc đi nhắc lại: “Bắc Việt coi Ông Nhu như một
tippe lãnh tụ đặc biệt và nguy hiểm vì Ông Nhu hiểu rõ chiến lược chiến thuật của
họ”.
Nhân chuyến trở lại thăm Việt Nam cha Francois xin gặp riêng
Ông Nhu để nhờ cậy một vài việc riêng đây cũng là dịp mà Cha Francois ghé qua
thăm Đại Sứ Ấn tại Ủy Hội Quốc Tế. Lần gặp gỡ này, Cha Francois thấy Ông Nhu
già đi rất nhiều, mệt mỏi và chán nản. Ông Nhu hỏi thăm Cha Francois: “Cha thấy
dư luận của Pháp và La Mã như thế nào đối với Việt Nam?”
Cha Francois dè dặt: “Có nhiều dư luận trái ngược nhưng nói
chung thì báo chí Tây phương tỏ ra phẫn nộ...không thuận lợi cho chính phủ Việt
Nam...Hiện Ông Cố Vấn đã có biện pháp như thế nào với vụ tranh đấu của Phật
Giáo?”
Ngô Đình Nhu yên lặng một lúc lâu. Ông bẻ đôi điếu thuốc Job
hút một nửa cho vào ngăn kéo bàn, Ông Nhu “tặc lưỡi”:
- Chính phủ đã xử rất ôn hòa, bây giờ thì không có chuyện nhượng
bộ nữa.
Cha Francois lo ngại: Ông Cố Vấn nói như vậy có nghĩa chính
phủ sẽ sử dụng biện pháp mạnh để dẹp cho yên?
Ông Nhu đáp: “Thưa Cha không còn lựa chọn nào khác hơn”.
Cha Francois: “Nếu như vậy sẽ vô cùng nguy hiểm. Đây là vấn đề
tế nhị tôi nghĩ chính phủ Việt Nam cần kiên nhẫn hơn nữa”.
Ông Nhu lắc đầu: “chỉ còn có hai cách lựa chọn: Một là tình
trạng rối loạn kéo dài và chính phủ sẽ đổ một nửa, phải vãn hồi an ninh trật tự
và chính phủ sẽ chịu một số thiệt thòi đổ vỡ”. Ông Nhu cho Cha Francois biết:
“Trong một tháng nay, việt cộng xâm nhập ồ ạt vào các Đô Thị để ngụy trang dưới
chiêu bài tranh đấu của Phật Giáo. Nếu chánh phủ không áp dụng biện pháp mạnh
thì một buổi sáng nào đó Cha sẽ thấy Sài Gòn tràn ngập cờ đỏ sao vàng”.
Cha Francois hỏi Ông Nhu: “Như vậy có nghĩa là cuộc tranh đấu
của Phật Giáo đã bị cán bộ cộng sản tràn ngập và khống chế?”
Ông Nhu đáp: “Đúng, Cơ Quan An Ninh đã thâu lượm được rất nhiều
bằng chứng”.
Cha Francois dè dặt: “Thưa Ông Cố Vấn, tôi vẫn nghĩ là các
Thượng Tọa đều là những nhà tu hành thuần túy. Như ông Mai Thọ Truyền tôi có dịp
gặp ông nhiều lần...ông làm sao có thể để cho cộng sản mua chuộc được ?”
Ông Nhu nói như phân trần: “Thưa Cha, tôi cũng nghĩ như Cha vậy
nhưng phương thức tranh đấu của họ là những phương thức học được của cộng sản.
Dù các Nhà Sư không phải là cộng sản nhưng cán bộ hạ tầng của họ là cộng sản
cũng không thể tha thứ được. Một là chính phủ phải thua cộng sản một cách nhục
nhã hai là ra tay đối phó. Tôi đã cân nhắc chính phủ phải đối phó vì cuộc rối
loạn càng kéo dài càng bất lợi nguy cơ càng tới gần...”
Qua giọng nói cương quyết của Ông Nhu Cha Francois thấy rằng
không thể ai ngăn cản ông được và ông ấy đã lựa chọn phương thức “được ăn cả
ngã về không”.
Ông Nhu nhấn mạnh với Cha Francois: “Đứng sau Phong Trào Phật
Giáo không phải chỉ có cộng sản mà còn người bạn đồng minh của chính phủ Việt
Nam nữa. Họ muốn sử dụng Phong Trào này để làm áp lực và “sa tăng” với chúng
tôi”. Cha Francois nhìn Ông Nhu dò xét rồi mỉm cười: “Nước Pháp trước đây cũng
chịu một áp lực như vậy và bị là “sa tăng” quá nhiều nhưng theo tôi, người Mỹ
cũng cần Việt Nam chứ ?”
Ông Nhu đáp: “Dĩ nhiên là như vậy nhưng tất nhiên Việt Nam cần
họ nhiều hơn...”
Ông Nhu bỏ lửng cấu nói rít một hơi thuốc rồi đứng lên tìm một
tập hồ sơ trao cho Cha Francois: “Cha có thể xem qua một số hình ảnh này, Cha sẽ
thấy...chính phủ Việt Nam khổ tâm biết bao nhiêu...”
Ông Nhu chỉ vào người Mỹ mặc áo sơ mi cụt tay: “ông ta chỉ là
nhân viên thường của Cơ Quan USAID nhưng là viên chức lớn của CIA” Ông Nhu lại
chỉ tay vào người Mỹ thứ hai: “ông ta là một Mục Sư trước đây hoạt động truyền
giáo tại Darlac, nhưng trở về Mỹ cách đây 4 năm và mới qua Việt Nam với tư cách
phóng viên...” Ông Nhu chỉ vào người Việt Nam gương mặt rất trẻ khôi ngô tuấn
tú đội mũ “phớt” mặc âu phục, cổ hở... Ông Nhu hỏi: “Cha biết ai đây không?” Cha
Francois chưa nhận ra ai thì Ông Nhu nhún vai: “ông ta là một nhà sư hiện đang ở
Chùa Xá Lợi”.
Cha Francois nhìn tấm hình có hai người Mỹ và người Việt (được
Ông Nhu gọi là nhà sư) Cha chỉ mỉm cười, không nói vì không biết phải nói như
thế nào. Cha Francois quen biết Ông Nhu từ lâu nên hiểu rõ con người ông tuy
thông minh xuất chúng nhưng cố chấp và nhiều thiên kiến, Cha Francois lại có rất
nhiều liên hệ và thân thiện với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết cũng như Hòa Thượng
Quảng Độ và Bác Sĩ Lê Đình Thám. Cha Francois tìm cách nói khéo với Ông Nhu là
cho đến lúc này (1963) cha vẫn tin rằng các nhà sư không thể là cộng sản cũng
như không thể để cộng sản lôi kéo. Ông Nhu tỏ vẻ khó chịu, nói: “cộng sản giống
như con quỷ có trăm đầu, một thứ Mêcamorphose... cộng sản len lỏi vào khắp nơi
ngay trong giới Công Giáo”.
Có lẽ không thuyết phục được Cha Francois về lập trường cứng
rắn của mình đối với Phật Giáo nên Ông Nhu lảng qua chuyện khác, lại chuyện người
Mỹ. Ông Nhu nói với giọng gay gắt: “Chúng tôi có nhiều kinh nghiệm với ngoại
bang... Người Mỹ dù mạnh thế nào cũng không thể qua mắt nổi chính phủ này. Tôi
trả lời thẳng cho người Mỹ rõ, họ muốn rút hết cố vấn cứ việc rút, cả viện trợ
Mỹ chúng tôi cũng không cần, Mỹ có thể cúp viện trợ ngay lúc này Việt Nam vẫn đủ
sức tự túc để chống cộng”.
Cha Francois nghe giọng của Ông Nhu như một người phẫn uất sống
chìm đắm trong thế giới ảo tưởng. Cha Francois hỏi:
- Ông nghĩ thế nào về việc đề cử ông Cabot Logde làm Đại Sứ?
Suy nghĩ một lát, Ông Nhu đáp: “Cũng thế thôi nhưng Tổng Thống
không có thiện cảm với ông ta vì ông ta có một quá khứ bất chánh”. Cha Francois
hỏi: “Hình như Đức Hồng Y Spellman có khuyến cáo Tổng Thống nên mở rộng chính
phủ và chấp nhận đối lập?”
Ông Nhu gật đầu: “Điều đó có, Tổng Thống cũng đang cứu xét
nhưng với một nước chậm tiến như Việt Nam không thể áp dụng chế độ tự do dân chủ
như Tây phương... Như Cha đã am tường lịch sử Việt Nam. Đất nước chúng tôi truyền
thống dân chủ từ cả ngàn năm trước, dân chủ từ hạ tầng, từ xã ấp. Ở thượng tầng
phải làm thế nào giữ được uy quyền tối thượng của quốc gia... Thưa Cha, Ấp Chiến
Lược chính là con đường xây dựng cơ sở dân chủ từ hạ tầng...”.
Dịp này Ông Nhu tâm sự với Cha Francois: “Mỹ có thói quen bắt
buộc các đồng minh phải dập khuôn như họ...nhưng ở Mỹ khác, ở Á Châu này
khác... trong một quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia đang
có chiến tranh. Tổng Thống Kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ cơ chế dân chủ có
nghĩa là phỏng cơ chế dân chủ của Mỹ. Nhưng Cha nghĩ coi, ông cha chúng tôi đã
có nhiều kinh nghiệm về nạn chia rẽ, nạn kỳ thị phe phái...nếu ở Việt Nam áp dụng
dân chủ như ở Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hỗn loạn. Mà Việt Nam thì không thể
chấp nhận được tình trạng hỗn loạn”. Cha Francois hỏi: “Hình như Tổng Thống
Kennedy muốn Miền Nam có sự canh tân Hiến Pháp ?”
Ông Nhu mỉm cười đáp: “Không chính thức khuyến cáo như vậy
nhưng Hoa Thịnh Đốn gián tiếp muốn chúng tôi làm như vậy”. Cha Francois: “Tôi
có dịp gặp một vài Thượng Nghị Sĩ Mỹ như Nghị Sĩ Morse” Ông Nhu “à” một tiếng lớn
và ngắt lời: “Tôi biết ông Morse, hắn ta chỉ là tên cao bồi say khói súng và chỉ
là tên dô kề, nhưng phe hắn ta khá mạnh”. Ông Nhu hỏi Cha Francois: “Cha thấy
người Mỹ họ nhận định về chế độ này như thế nào?” Cha Francois đáp: “Hầu hết
người Mỹ đứng đắn đều không muốn Việt Nam bị xáo trộn nhưng họ muốn một chế độ
cởi mở”. Ông Nhu gật đầu: “Vâng họ đang lên án chúng tôi là độc tài cũng như
trước đây họ đã lên án Tưởng Giới Thạch và Lý Thừa Vãn... Người Mỹ đã lầm giữa
chế độ độc tài với sự bảo vệ uy quyền quốc gia tối thượng”. Ông Nhu ngừng một
lúc lại tiếp tục phân trần. “Thưa, chẳng hạn họ bảo chúng tôi là độc tài vì cho
rằng không có Tối Cao Pháp Viện nên Hành Pháp điều khiển Tư Pháp. Họ cũng kết
án chúng tôi là độc tài vì cho rằng Quốc Hội chỉ có một viện và do Quốc Hội
không kiểm soát được Hành Pháp”.
Nhân dịp gặp Ông Nhu Cha Francois có phàn nàn về việc chính
phủ Việt Nam trục xuất Bác Sĩ Erie Wuff một y khoa Bác Sĩ Đức giảng dạy tại Trường
Đại Học Y Khoa Huế. Ông Nhu lặng thinh một lúc lâu và đáp: “Ông ta là một điệp
viên”. Cha Francois ngạc nhiên buộc miệng: “Ông ta là một điệp viên?”. Ông Nhu
lạnh lùng gật đầu. Một lát sau Ông Nhu đáp: “Wuff là một Agent double của
CIA... Trước khi trục xuất ông ta, chính phủ Việt Nam đã có bằng cớ”.
Gặp Ông Nhu, Cha Francois càng tỏ ra thất vọng về tình hình
đen tối tại Miền Nam. Cuộc bất hòa giữa Việt Mỹ mỗi ngày thêm sâu xa và gần như
không còn cách gì hàn gắn cho được. Cuộc tranh đấu Phật Giáo mỗi ngày một lan rộng,
càng tăng cường độ. Cha Francois đi đến đâu cũng nghe tin đồn đảo chánh. Sau cuộc
biểu tình lớn của Phật Giáo ngày 17.7, Ông Nhu đã đổi thái độ và quyết một lần
ăn thua...ông đang dự trù một kế hoạch lớn.
Trong khi đó Tổng Thống Diệm vẫn chủ trương ôn hòa và tìm mọi
cách hòa giải với Phật Giáo. Một số Tướng lãnh đều hết lòng chạy theo Ông Nhu
đáng kể là Tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Huỳnh Văn Cao, Trần Tử Oai. Tổng
Thống Diệm buông tay trước biến chuyển của thời cuộc. Khi đọc thấy báo chí Mỹ
trước kia ca tụng ông bây giờ nhân vụ Phật Giáo lại công kích ông rất thậm tệ,
Tổng Thống Diệm coi đó như sự lật lọng trắng trợn của chính phủ Mỹ. Sự thật với
chế độ báo chí như Mỹ chính phủ Mỹ nhiều khi trở thành nạn nhân và bị báo chí dẫn
dắt chi phối.
Thái độ ôn hòa và hòa giải của Tổng Thống Diệm được ghi nhận
vào ngày 24.7 khi Tổng Thống Diệm quyết định cách chức Trung Tá Chiêu Giám Đốc
Nha Thanh Tra Dân Vệ khi ông này tổ chức một số Thương Phế Binh và Quả Phụ biểu
tình trước Chùa Xá Lợi sáng ngày 23.7.
Chiều thứ bảy 22.7 Tổng Thống Diệm lên Đà Lạt nghỉ cuối tuần.
Theo Sĩ Quan Tùy Viên Lê Công Hoàn trong 5 năm phục vụ bên cạnh Tổng Thống Diệm,
gần như không mấy khi Tổng Thống Diệm đi nghỉ xả hơi cuối tuần. Nhưng sau cái
chết của Nhà Văn Nhất Linh và những biến chuyển dồn dập của tình hình, Tổng Thống
Diệm tuần nào cũng lên Đà Lạt đi săn, cỡi ngựa. Trước khi đi Đà Lạt, Tổng Thống
Diệm gọi ông Bộ Trưởng Thuần vào văn phòng chỉ thị một số điều. Ông Tổng Thống
nói: “Ông và Cụ Phó xem xét còn điều chi chưa giải quyết thì giải quyết cho nó
xong”. Khi Tổng Thống Diệm lên máy bay đi Đà Lạt, các Sĩ Quan trong Lữ Đoàn
Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống thấy Thiếu Tướng Tôn Thất Đính vào Thành Cộng
Hòa hội họp riêng với Trung Tá Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn và Trung Tá Chiêu Giám Đốc
Nha Thanh Tra Dân Vệ. Tướng Đính lúc ấy coi như người ruột thịt của chế độ và cột
trụ của Quân Ủy Đảng Cần Lao. Cuộc hội họp này có mục đích nhằm đối phó với phe
tranh đấu của Phật Giáo, với sự hoàn toàn tán đồng và thúc đẩy của vị Tư Lệnh
Quân Đoàn III. Trung Tá Chiêu thực hiện một cuộc biểu tình của Thương Phế Binh
và quả phụ 8 giờ ngày 23.7. Đại Đức Đại Nghiệp đã được mật báo là có một số
Thương Phế Binh kéo đến “ăn vạ” tại Chùa Xá Lợi. Ủy Ban Liên Phái cấp tốc bố
trí đề phòng. Cũng vào chính giờ đó Sư Bà Diệu Huệ, thân mẫu của Giáo Sư Bửu Hội
mở cuộc họp báo với sự hiện diện của Sư Bà Diệu không (cả hai vị Sư Bà đều có
con cháu trong hàng ngũ Tướng Tá và nhân vật lương đống của chế độ Ngô Đình Diệm).
Cuộc họp báo có rất đông ký giả ngoại quốc. Dịp này Sư Bà Diệu Huệ tuyên bố một
câu nảy lửa là “sẽ tự thiêu noi gương Hòa Thượng Quảng Đức để cúng đường Phật
Pháp để phản đối chế độ Ngô Đình Diệm”. Chính giai đoạn này Giáo Sư Bửu Hội sẽ
là Sứ Giả của chính quyền đi “giải độc” tại một số quốc gia Phi Châu và ông
cũng có nhiệm vụ tiếp xúc với Uthant, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Ủy Ban Liên
Phái đưa Sư Bà Diệu Huệ vào cuộc tranh đấu và ở hàng đầu quả là cao kiến và đó
là một đòn sâu hiểm khiến chính quyền Ngô Đình Diệm không thể không bối rối.
Đúng 9 giờ, hơn 100 Thương Phế Binh và quả phụ trương biểu ngữ
kéo đến trước cổng Chùa Xá Lợi. Trước Ban Tổ Chức dùng máy phát thanh đặt trên
xe lam chõ vào Chùa đọc lá thư được gọi là huyết lệ thư với nội dung kêu van
các vị tu hành nên lo Phật sự kinh kệ và “đừng mắc mưu cộng sản thông đồng với
ngoại bang cõng rắn cắn gà nhà”. Lá thư trên được đọc đi đọc lại nhiều lần,
trong Chùa các Nhà Sư và Phật Tử vẫn tiếp tục tụng kinh, gõ mõ, thỉnh chuông.
11 giờ thì số Thương Phế Binh náo động, Ban Tổ Chức đòi gặp đại diện Ủy Ban
Liên Phái để trao huyết lệ thư.
Không được trả lời, họ đòi mở cổng chùa sau tự động nhảy qua
hàng rào tràn vào bên trong tung truyền đơn và các bức hình về chiến sĩ.
Xét về kỹ thuật chống phe tranh đấu thì đây là một “cú” hơi
thấp quá lộ liễu.
Vụ biểu tình của Thương Phế Binh và Quả Phụ tạo cho Ủy Ban
Liên Phái có cơ hội gây xì căng đan chính trị. Đại Đức Đại Nghiệp thảo văn thư
lên án vụ biểu tình này và cho rằng chính quyền không thành tín.
Qua văn thư gửi cho Tổng Thống Diệm, Ủy Ban Liên Phái lại qui
lỗi cho phía Tổng Thống mà kỳ thực Tổng Thống Diệm không hề hay biết gì cả.
Đoàn tùy tùng của Tổng Thống trở về Sài Gòn vào chiều chủ nhật.
Theo thông lệ mỗi lần đi và về đều có các nhân viên chính phủ
và Tướng lĩnh ra tận Phi Trường đón đưa. Hôm ấy Phó Tổng Thống Thơ tỏ ý buồn
phiền không ít về sự biểu tình của Thương Phế Binh vì nó không tạo được thông cảm
cho việc hòa giải mà chỉ tăng thêm hố sâu chia rẽ giữa chính quyền với Phật
Giáo.
Khi Tổng Thống Diệm trên phi cơ bước xuống thì Bộ Trưởng Nguyễn
Đình Thuần chạy lại báo cáo ngay vụ biểu tình của Thương Phế Binh và Quả Phụ.
Ông Tổng Thống mặt đỏ như gấc, đập chiếc ba toong xuống sân năm bảy lần và nói
như quát:
- Đứa nào làm như rứa ? Ai biểu chúng nó làm như rứa ?
Bộ Trưởng Thuần thưa lại: “Làm như thế này con không biết phải
trả lời ra sao với Ủy
Ban Liên Phái”.
Ông Tổng Thống nổi giận hầm hầm đi vào phòng khách danh dự.
Ông không nói một lời. Kinh nghiệm nhiều năm phục vụ bên Tổng Thống Diệm đã báo
cho Sĩ Quan Tùy Viên Lê Công Hoàn biết, “khốn khổ với Ông Cụ rồi đây”. Thường
thường sự nóng giận như vậy ông Tổng Thống đều đổ vào đầu 6 Tùy Viên thân cận.
Từ Phi Trường về Dinh Gia Long Ông Tổng thồng không nói một câu. Tại Phi Trường
ông ra lệnh cho Bộ Trưởng Thuần: “Cách chức nó ngay, bỏ tù” Sự thực, lỗi không
phải do nơi Trung Tá Chiêu. Cuộc biểu tình kể trên được sự đồng ý của Thượng Cấp
là Thiếu Tướng Tư Lệnh Vùng III nhưng cuối cùng Trung Tá Chiêu lãnh đủ. Ông Tổng
Thống quyết định cách chức Trung Tá Chiêu và phạt 40 ngày trọng cấm. Hôm sau
Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi Tư Lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống vào phòng Tổng
Thống hết lời năn nỉ Tổng Thống khoan hồng cho Trung Tá Chiêu. Ông Khôi trình
bày đại ý đây chỉ là do sự quá hăng say phục vụ của Chiêu và ông Chiêu cũng là
anh em trong nhà nên xin Tổng Thống miễn cho Chiêu khỏi bị phạt quá nặng như vậy
và cũng xin Tổng Thống đừng cách chức Chiêu. Lúc đầu Tổng Thống Diệm có vẻ siêu
lòng nhưng sau đó ông giữ quyết định cũ. Trung Tá Chiêu đươc coi như nạn nhân của
tình thần phục vụ quá hăng say.
Hơn nữa, vụ này không chỉ một mình Chiêu mà do ý kiến và sự
tán đồng của Thiếu Tướng Đính. Trước đó, Thiếu Tướng Đính cũng vào Dinh xin cho
Chiêu nhưng Tổng Thống nhất định không tha thứ.
Sự tranh đấu của Phật Giáo vẫn âm ỉ kéo dài đến ngày 20.8 tức
ngày Cảnh Sát Chiến Đấu được lệnh bố ráp các Chùa Sài Gòn và trên toàn quốc.
Sau vụ biểu tình lớn ngày 17.7, Ủy Ban Liên Phái lại bắt đầu
vận động cho một cuộc biểu tình khác. Phía Phật Giáo cố duy trì tính chất bất bạo
động trong các cuộc xuống đường. Phía chính quyền trước sau chỉ ở thế thụ động
và đề phòng. Tuy giới chức an ninh đã tung một màng lưới lớn vào các trung tâm
tranh đấu của Phật Giáo nhưng màng lưới này chỉ đạt được kết quả thu lượm các
tin tức trong lòng Ủy Ban Tranh Đấu của Phật Giáo. Nếu nói đơn thuần về kỹ thuật
tranh đấu thì kỹ thuật của Ủy Ban Liên Phái có nhiều điểm mới lạ với những phát
kiến đáng kể dù rằng kỹ thuật đó đã đạt tới 80% kỹ thuật mà cộng sản thường sử
dụng. Chiến dịch rỉ tai tung tin giật gân thả từng trái ballon đảo chánh nhất
là tạo dư luận xấu xa về ông Bà Nhu thì có thể nói phía tranh đấu đã được kết
quả tuyệt hảo. Nếu đứng trên mặt chánh quyền mà phê phán thì chánh quyền Ngô
Đình Diệm lúc ấy quả là quá yếu luôn luôn bị động và chỉ có chống đỡ vì không nắm
được qui luật tranh đấu của Phật Giáo để tìm phương thức đảo ngược lại qui luật
bất bạo động. Giả như một tay “cao thủ” sẽ tìm mọi cách công phá từ bên trong để
làm sao bất bạo động, thành bạo động.
Việc Tổng Thống Ngô Đình Diệm cách chức Trung Tá Chiêu tuy chứng
tỏ sự thành tín của ông đối với Ủy Ban Liên Phái nhưng tạo nên sự bất mãn trong
tinh thần phục vụ của cấp bộ thừa hành. Trong khi đó Ủy Ban Liên Phái vẫn không
thừa nhận sự thành tín này và cho rằng, Tổng Thống Diệm chỉ phạt Trung Tá Chiêu
một cách giả vờ và có cớ tuyên truyền rằng chính quyền vô tư nghiêm trị phần tử
vô kỷ luật. Ông Ngô Đình Nhu là người thứ nhất đã bất mãn và nói với cộng sự
viên: “Ông Cụ làm như vậy thì từ nay trở đi còn đứa nào dám hăng hái. Chiêu nó
có tội gì mà phạt nó như vậy”. Vụ phạt và cách chức Trung Tá Chiêu Ông Nhu cho
rằng: “Ông Cụ chỉ làm cho họ (Ủy Ban Liên Phái) mỗi ngày càng thêm quá khích”.
Ngày 30.7, Ủy Ban Liên Phái tổ chức lễ chung thất cố Hòa Thượng
Quảng Đức với hàng ngàn Phật Tử tham dự. Điều đáng kể là trong số Phật Tử lại
có rất nhiều vợ con của các nhân vật cao cấp trong chánh quyền. Số người này trở
thành những cán bộ hoạt động đắc lực trong việc thông tin, tạo dư luận tác động
tinh thần chồng và cha của họ. Trong buổi lễ này dĩ nhiên lại có chuyện thuyết
pháp. Ủy Ban Liên Phái đưa ra một Bản Tuyên Ngôn mới xác định lập trường đấu
tranh bất bạo động cho những muc tiêu thuần túy tôn giáo... Kiểm điểm lại cuộc vận
động nói trên đến nay mới chỉ được giải quyết trên giấy tờ (thông cáo chung) và
bằng lời nói (hiệu triệu của Tổng Thống)
Trước đó Đại Sứ Nolting tuyên bố với phái viên của Hãng Thông
Tấn UPI là “Ở Việt Nam không có vấn đề kỳ thị tôn giáo và ngược đãi Phật Giáo đồ”.
Phản ứng lại, ngày 1.8 Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết gửi điện văn qua Tổng Thống
Kennedy với nội dung: “Thay măt toàn thể Phật Giáo đồ Miền Nam Việt Nam chúng
tôi cực lực phản đối cùng Tổng Thống lời tuyên bố của Đại Sứ Nolting qua Hãng
Thông Tấn UPI... Chúng tôi nghĩ rằng dân chúng Hoa Kỳ phải thấu rõ nỗi phẫn uất
của Phật Giáo đồ đến 80% dân số. Lời tuyên bố của ông Nolting không phù hợp với
sự thật luôn cả thiện chí và sự hiểu biết của người Hoa Kỳ”.
Kể từ cuối tháng 7 Cơ Quan An Ninh Phủ Tổng Thống cũng như Cảnh
Sát Đặc Biệt đã nắm được kế hoạch tự thiêu trường kỳ của Phật Giáo tranh đấu,
nhưng tài thánh cũng không có gì ngăn chặn nổi. Ngoài ra Cơ Quan An Ninh còn nắm
được kế hoạch của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam nhằm lũng đoạn cuộc tranh đấu của
Phật Giáo trong đó có công tác tuyển mộ một số thanh niên cuồng nhiệt ở miền
quê cho học tập rồi trở về xâm nhâp tại các Đô Thị, cải trang nhà sư và họ sẽ sẵn
sàng tự thiêu vì Đạo Pháp.
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo lên như diều gặp gió và mỗi ngày
càng bị tràn ngập bởi những “yếu tố tác ngoại”. Các vị trong Ủy Ban Liên Phái
lúc ấy tựa hồ như diều mà quần chúng Phật Giáo lại là cơn gió mạnh. Lúc đầu khi
cuộc tranh đấu vừa bộc phát thì các ngài vừa là diều vừa là giây diều và nắm được
đầu giây. Từ tháng 8 năm 1963, Phong Trào Tranh Đấu càng lan mạnh, vì thế các vị
lãnh đạo càng lên cao thì lúc ấy các vị chỉ ngồi thu gọn trên cánh diều và diều
gặp gió lên cao mãi các vị không còn nắm đầu giây nữa và lúc đó chính những yếu
tố ngoại tại “nắm đầu giây với một chiếc kéo để áp dụng đúng phương lược”. Muốn
được quần chúng tuân theo thì phải tuân theo kỷ luật quần chúng. Ở đây phải được
hiểu là một nhóm người nào đó có kỹ thuật và kỷ luật tranh đấu và nắm được quần
chúng trong một danh nghĩa thuận lợi. Câu: “Muốn được quần chúng tuân theo thì
phải tuân theo kỷ luật quần chúng”. Tuy là sáo ngữ và nặng phần “đảng tính”
trong một tập thể đấu tranh trường kỳ và mai phục trường kỳ. Nhưng câu nói trên
có ý nghĩa như thế này: Nếu Tổng Thống không theo “chúng tôi” thì chúng tôi cắt
giây...Đã lên như diều gặp gió hẳn tâm lý con người không ai dám can đảm để cho
kẻ cầm đầu giây đưa nhát kéo cắt ngang giây! Đó cũng là cái thế của nhiều vị
lãnh tụ Phật Giáo trong bối cảnh sôi động vào tháng 7 và tháng 8 năm 1963.
Ngày 4.8 tại Phan Thiết, trước Dinh Tỉnh Trưởng Bình Thuận, Đại
Đức Thích Nguyên Hương nổi lửa tự thiêu vào đúng lúc tan sở.
Đại Đức Thích Nguyên Hương được 23 tuổi thọ. Mấy giờ sau, Tổng
Thống Diệm được báo cáo nội vụ. Ông bỏ ăn cơm chiều và 1 giờ đêm lại thơ thẩn
xuống vườn đi tản bộ ngắm trăng sao. Đó là điểm thành công của Ủy Ban Liên Phái
vì gây xúc động lớn ngay trong đầu não của chế độ. Hôm sau Ủy Ban Liên Phái Bảo
Vệ Phật Giáo lại phản đối chính quyền địa phương cướp xác Đại Đức Nguyên Hương.
Bình Thuận là một trong mấy Tỉnh Miền Trung vốn bình lặng từ bao năm và đây
cũng là nơi 30 năm về trước Tổng Thống ngồi ghế Tri Phủ Hòa Đa rồi Tuần Vũ Bình
Thuận, nơi mà Tổng Thống Diệm tự hào có nhiều Tổng Lý trung thành với ông.
Không khí tranh đấu ở Bình Thuận lại bốc bừng và dâng cao. Trọng tâm của Tỉnh
Giáo Hội ở đây là nhằm vào việc Tỉnh Trưởng Trung Tá Nguyễn Quốc Hoàng một giáo
dân mà thân phụ ông (Cụ Án Mẫu) vốn là bạn đồng liêu của Tổng Thống Diệm.
Một số cán bộ của Tỉnh Giáo Hội vận động dư luận tấn công thẳng
vào cá nhân Thiên Chúa Giáo của Trung Tá Nguyễn Quốc Hoàng. Dư luận ấy nhắm vào
sự kỳ thị tôn giáo hơn là mục tiêu của Ủy Ban Liên Phái. Một số Ty Trưởng vì tự
ái tôn giáo thay vì đứng về phía chánh quyền theo vị trí của họ thì họ lại âm
thầm tham dự cuộc tranh đấu. Chính quyền địa phương này phải hứng chịu trận
đánh nội công ngoại kích mặc dầu ông Tỉnh Trưởng là tín đồ Thiên Chúa Giáo nên
bị mặc cảm tôn giáo từ lúc khởi đầu cuộc tranh đấu và chống tranh đấu thì cả
phía chính quyền Bình Thuận và Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo đều có lý. Đại Đức
Nguyên Hương tự thiêu dù tinh thần hy sinh này xúc động bao nhiêu thì cũng chỉ
có tác dụng trong một phạm vi và một khối lượng nào đó vậy cho nên Tỉnh Giáo Hội
phải lấy được Giác Linh, vì có Giác Linh mới có đối tượng qui tụ đám đông...rồi
từ lễ cầu siêu thuyết pháp đến ngày an táng sẽ là một khoảng thời lượng vô giá
để vận động và khích động đám đông. Không lấy được xác Đại Đức thì kỹ thuật
tranh đấu cho một chiến thuật đã trở nên vô hiệu. Mà chính quyền (nếu ai ở thế
chính quyền cũng đều như vậy) phải có bổn phận đạt được sự vô hiệu hóa mọi kỹ
thuật tranh đấu của phe đối nghịch.
TỪ CHIẾN DỊCH TỰ THIÊU ĐẾN KẾ HOẠCH NƯỚC LŨ
Qua tháng 8, tự thiêu được trở thành một chiến dịch. Nhà cầm
quyền đành bó tay trước chiến dịch này.
Tổng Nha Cảnh Sát cũng như Cơ Quan Tình Báo Phủ Tổng Thống nhận
được báo cáo đầy đủ về chiến dịch tự thiêu. Thượng Tọa Trí Quang được coi là
tác giả của chiến thuật tuyệt diệu này. Mỗi địa phương (Miền Trung) theo sự sắp
xếp và bố trí đã có sẵn một số ứng viên tự thiêu cùng với kỹ thuật làm thế nào
gây được xúc động trong quần chúng và tạo được sự hoang mang trong Quân Đội nhất
là giới Quân Nhân Phật Tử thuần thành. Hầu hết các ứng viên tự thiêu đều dưới
25 tuổi và thời gian vào Chùa đi tu không quá 5 năm.
Sau vụ tự thiêu của Đại Đức Nguyên Hương, ngày 13.8 Đại Đức
Thanh Tuệ, 18 tuổi lại tự thiêu tại Huế. Đại Đức Thanh Tuệ mới vào Chùa tu được
3 năm, tháng 6.1963 Đại Đức đậu bằng Trung Học Phổ Thông, Đại Đức Thanh Tuệ tự
thiêu lúc 2 giờ đêm tại cửa Tam Quan Chùa. Vụ tự thiêu của Đại Đức Thanh Tuệ
vào lúc 2 giờ đêm đã nêu lên một dấu hỏi lớn, một nghi vấn về phía chính quyền.
Theo báo cáo của Cơ Quan An Ninh Thừa Thiên thì Đại Đức Tuệ là một Nhà Sư trẻ, hiền
hòa rất chăm học. Nhưng Đại Đức Thanh Tuệ đã bị một nhóm người thúc đẩy tự
thiêu. Đó chỉ là báo cáo của An Ninh. Tất nhiêu nhiều lắm thì ta chỉ có thể tin
được 40% . Bản báo cáo nêu rõ Bà Vãi Cao Thị Dõ, trên 60 tuổi sống tại Chùa đã
lâu năm và chuyên lo về việc nấu ăn, dọn dẹp. Bà Dõ không biết gì về việc Đại Đức
Thanh Tuệ tự thiêu. Khoảng nửa đêm, bà thấy có một số người lạ mặt vào Chùa và
cùng hội họp với Đại Đức Thanh Tuệ rất lâu. Bà không để ý gì cả...Khoảng 2 giờ
sáng, bà nghe tiếng la hét thất thanh ghê rợn...bà hoảng hồn chạy ra hiên thì
lúc đó ngọn lửa đã bùng lên ở Cửa Tam Quan.
Ngày 15.8.1963 Ni Cô Diệu Quang lại tự thiêu trước Trụ Sở Chi
Hội Phật Học Ninh Hòa. Ni Cô Diệu Quang nguyên quán tại Huế. Tuy tu ở Chùa Vạn
Thạnh nhưng Ni Cô lại không tự thiêu ngay tại nha thành mà bất thần đáp xe đò
ra tận Ninh Hòa và nổi lửa tự thiêu tại đây.
Trước đó ít ngày Cơ Quan Tình Báo Phủ Tổng Thống phát giác có
một nhóm người chủ động trong chiến dịch tự thiêu và sẽ tung ra từng loạt ứng
viên tự thiêu về các địa phương để nổi lửa đấu tranh. Đại Tá Lê Quang Tung Tư Lệnh
Lực Lượng Đặc Biệt cấp thời trình với Ông Cố Vấn Nhu đầy đủ hồ sơ và tin tức về
chiến dịch kỳ hiệu này. Ông Nhu ra lệnh:
1.- Phải dập tắt chiến dịch này ngay.
2.- Làm thế nào bắt Trí Quang, người bị Cơ Quan Tình Báo nghi
là tác giả chiến dịch tự thiêu.
3.- Khi xảy ra vụ tự thiêu nào thì chính quyền địa phương phải
lập tức lấy xác đem vào nhà thương thông báo cho tang gia và chính quyền giúp đỡ
họ trong việc tống táng.
Cơ Quan Tình Báo Phủ Tổng Thống còn bắt được Binh Nhì Ngô Văn
Nghĩa phục vụ tại Quân Đoàn II. Binh Nhì Nghĩa đào ngũ từ tháng 2.1963, anh vào
Sài Gòn làm đạp nghề xích lô. Binh Nhì Ngô Văn Nghĩa sinh quán tại Bồng Sơn dưới
30 tuổi. Khi bắt được Nghĩa ngoài bản tài liệu gồm một số chỉ thị về kỹ thuật tự
thiêu Cơ Quan Tình Báo còn tịch thu một số thuốc mê
Chloroforme... Và một số chai thuốc chích loại an thần cực mạnh.
Nhờ vụ bắt được Ngô Văn Nghĩa Cơ Quan Tình Báo nắm được đầu
dây mối nhợ của chiến dịch tự thiêu. Binh Nhì Nghĩa cho biết anh ta sắp xuống Mỹ
Tho đem theo một Đại Đức, theo kế hoạch này sẽ nổi lửa tự thiêu trước Tòa Tỉnh
Trưởng Định Tường. Qua lời khai của Nghĩa Cơ Quan Tình Báo bắt thêm một số người
trong đó có cụ già người Miền Bắc vào Nam trước năm 1940, cụ già này tục danh
ông Sáu Bắc từ đồn điền cao su Hớn Quảng về Sài Gòn trung tuần tháng 7, khi
nhân viên tình báo ập vào căn nhà ở Đường Tháp Mười (Chợ Lớn) giữa đêm đầu
tháng 8 thì lúc ấy ông già Sáu Bắc đang ở trần mặc quần sà lỏn và đang nhậu ba
xị đế với gà luộc cùng 3 thanh niên. Khám chiếc rương của ông già Sáu Bắc nhân
viên Tình Báo tịch thu được một số bạc khoảng bẩy chục ngàn đồng.
Ông già Sáu Bắc bị bắt đã khai đại cương rằng, ông không biết
Thượng Tọa Trí Quang cũng như Thượng Tọa Tâm Châu là ai cả, ông chỉ nghe chính
quyền đàn áp Phật Tử và Sư Sãi. Khi được hỏi ai đưa ông già về Sài Gòn để tự
thiêu thì ông già khai là Sáu Trừng. Một cái tên lạ hoắc đối với Cơ Quan An
Ninh. Nhưng dần dần Cơ Quan Tình Báo cũng tìm ra đầu dây mối nhợ. Sáu Trừng là
bí danh tạm thời của một cán bộ cao cấp thuộc tổ chức tôn giáo vận của Đặc Ủy
Sài Gòn, Gia Định. Từ đầu tháng 8 Đặc Ủy Sài Gòn, Gia Định của Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam đã được Trung Ương chỉ thị phải đẩy mạnh Phong Trào Đấu Tranh của
Phật Giáo và Sinh Viên Học Sinh đồng thời phải xâm nhập vào hàng ngũ Phật Giáo
để nắm thế chủ động. Ông già Sáu Bắc là một trong hàng chục ứng viên tự thiêu
mà Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuẩn bị cho chiến dịch tự thiêu nhằm đẩy mạnh
Phong Trào Tranh Đấu của Phật Giáo. Thực sự thì các lãnh đạo Phật Giáo lúc ấy (trừ
một vài vị có kinh nghiệm và sách lược về tranh đấu) còn hầu hết chưa có kinh
nghiệm về tranh đấu cũng như kỹ thuật nắm quần chúng. Cán bộ hạ tầng thì hết sức
phức tạp các vị lãnh đạo trong Ủy Ban Liên Phái không nắm vững được. Ngay một số
cán bộ Phật Tử cấp Trung Ương cũng phức tạp, tuy nhiên cán bộ cấp Trung Ương hầu
hết là lớp người trẻ có tinh thần quốc gia như Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho,
Nguyễn Hữu Đống. Nhóm Nguyễn Hữu Đống, Lê Hữu Bôi, Tôn Thất Tuệ, Nguyễn Trọng
Nho, Nguyễn Hữu Doãn đóng một vai trò quan trọng trong việc vận động Sinh Viên ở
hai Trường Luật Khoa và Quốc Gia Hành Chánh. Bôi không được huấn luyện về kỹ
thuật tranh đấu nhưng rất có tài và tỏ ra là người quyền biến. Nguyễn Hữu Đống
thuộc Trường Cao Đẳng Kiến Trúc tuy thâm trầm, nghệ sĩ nhưng lại trở thành một
lãnh tụ sinh viên gan dạ, có nhiều sáng kiến. Ngoài ra có nhóm của Triệu Bá Thiệp
(Luật Sư) và Nguyễn Mạnh Cường (Giáo Sư)... nhóm này kết với sinh viên với trí
thức. Đại để, các nhóm này đều thuộc thành phần trẻ, trong sạch và đầy nhiệt
huyết. Tại Huế ngoài phe Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ngọc Phan còn phần đông vẫn là
lớp trẻ tuy được gọi là quá khích cực đoan nhưng lại là những Phật Tử thuần
thành.
Những quy luật tranh đấu cho biết cuộc tranh đấu cũng bộc phát
mạnh và càn lan rộng thì cán bộ trung ương càng dễ bị đẩy vào thế bị động và
lúc ấy ai nắm được cán bộ hạ tầng và ở địa phương cục bộ thì kẻ ấy nắm được
Phong Trào Tranh Đấu. Qua kỹ thuật tranh đấu cách mạng trường kỳ của Lénine và
Mao trạch Đông thì cuộc tranh đấu nào bộc phát ở trong lòng đất địch, người cán
bộ cộng sản phải tàng hình biến hóa và để thích hợp ngay với môi trường tranh đấu
và thực tại khách quan đòi hỏi, và hòa vào với thực tại khách quan (như đóng
vai trò một Phật Tử chân chính thuần thành). Khi xâm nhập vào Phong Trào
Tranh Đấu ở trong lòng địch, người cán bộ cộng sản không bao giờ đứng hàng đầu
(ler Plan) tức ở cương vị lãnh đạo trung ương và mặt nổi.
Sau khi tàng hình và thích nghi với thực tại khách quan thì
lúc ấy người cán bộ cộng sản rất sở trường về chiến thuật “muợn đấu heo nấu
cháo” sử dụng kỹ thuật “gậy ông đập lưng ông”...
Đến nay vẫn chưa có bằng chứng nào để nhất đán cho rằng, Thượng
Tọa này Thượng Tọa kia là tác giả chiến dịch tự thiêu và thúc đẩy Tăng Sĩ và Phật
Tử tình nguyện tự thiêu vì nếu có như vậy quả là đã trái với đức hiếu sinh của
nhà Phật.
Nhưng ít nhất thì các vị lãnh đạo Phật Giáo lúc ấy đã theo
nhu cầu đòi hỏi của cuộc tranh đấu tất nhiên đã chấp nhận dễ dàng mọi sự tình
nguyện hy sinh dù sự tình nguyện đó được thúc đẩy từ một động cơ nào thì ai ở
trong cương vị lãnh đạo một cuộc tranh đấu như cuộc tranh đấu của Phật Giáo 63,
cũng không thể mất thì giờ để cân nhắc, truy tầm nguyên nhân. Lúc ấy Cơ Quan
Tình Báo Phủ Tổng Thống dù có nắm được đầy đủ tài liệu về sự xâm nhập của cộng
sản thì Ông Nhu hay Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng khó lòng trình bày cho quốc
dân thấy rõ, dân chúng sẽ cho ngay rằng chính quyền chụp mũ. Trường hợp ông già
Sáu Bắc bị Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cưỡng bách tình nguyện tự thiêu cho Phật
pháp, “ông khai là cộng sản cho gia đình ông năm chục ngàn đồng và hứa sẽ
cho người con trai út của ông về Hà Nội du học). Ví dụ một vị lãnh tụ Phật
Giáo có tinh ý biết được nhưng trong tình thế cấp bách của cuộc tranh đấu thì
không ai dại gì chống lại sự “tình nguyện cấp bách” này. Các vị lãnh đạo
trong Ủy Ban Liên Phái 1963 chưa có kinh nghiệm chính trị từ một thực tại tranh
đấu (vì mới nhảy vào cuộc lại lãnh đạo một Phong Trào Đấu Tranh quá lớn rộng) nên
hẳn nhiên chưa phân định rõ thế nào là chiến thuật chiến lược, trong những cái
thế và điều kiện mà cộng sản hết sức mong muốn. Với cộng sản thì cuộc tranh đấu
của Phật Giáo chỉ là chiến thuật của một giai đoạn nằm trong một chiến lược trường
kỳ ngay trong lòng đất địch và do đó sự tự thiêu đối với cộng sản chỉ là phương
tiện đấu tranh. Lénine đã dạy người cộng sản “Trong cuộc tranh đấu chánh
trị thì phương tiện nào cũng tốt”. Phương tiện biện minh cho cứu cánh của
cộng sản lúc ấy là làm sao lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm để tạo nên một tình trạng
hỗn loạn tại Miền Nam. Cứu cánh của một số cán bộ Phật Giáo (phe quốc gia hữu
phái và tả phái) là lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm nhưng để có một chế độ tốt
đẹp hơn trong đó Phật Giáo đóng vai trò hàng đầu (như Thượng Tọa Trí Quang
đã nuôi hy vọng Phật Giáo trở thành quốc giáo). Còn Ông Nhu ở thế chánh
quyền thì cứu cánh của ông là phải bảo vệ và giữ vững chế độ (ai nắm chính
quyền mà chẳng như vậy). Trong cuộc đấu tranh của Phật Giáo đã có hai con
đường đi song song. Con đường bên đây là cộng sản, con đường bên kia là Phật
Giáo...giữa hai con đường cộng sản đã tạo ngay ra lối tắt để giao liên, rồi hóa
trang con đường của họ như con đường của Phật Giáo làm cho chính quyền ở thế kẹt
cứng và Ông Nhu chỉ còn một thế duy nhất là phong tỏa ngay cả hai con đường và
bịt lối tắt giao liên. Đó cũng là lý do khiến Ông Nhu phải ra tay hành động vào
ngày 20.8.
CHUẨN BỊ DƯ LUẬN RA TAY
Trước khi ra tay hành động, Ông Nhu đã khôn khéo chuẩn bị dư
luận. Nhưng cuộc chuẩn bị của ông không thành công vì thiếu quần chúng tính và
cán bộ thừa hành (cấp Bộ Trưởng) đã không đủ khả năng thực hiện một
cuộc phản tuyên truyền và tuyên truyền “đen” để tạo dư luận thuận lợi
cho kế hoạch hành động.
Thanh Niên Cộng Hòa ra Tuyên Cáo số 2 và số 3 cũng như những
lời tuyên bố nảy lửa của Bà Nhu đã không tác động được tâm lý khối quần chúng
trầm lặng, vì giản dị tổ chức Thanh Niên Cộng Hòa với Tổng Thủ Lãnh Ngô Đình
Nhu và tập trung hầu hết các công chức nam nữ thì tổ chức này dưới mắt quần
chúng chỉ là công cụ của chính quyền. Còn kỹ thuật phản tuyên truyền và tuyên
truyền đen (propag endenoire) đã không được sử dụng và nếu có thì lại quá yếu
và lộ liễu (như truyền đơn của một số Thương Phế Binh và mấy tổ chức khác)
Bà Ngô Đình Nhu thay vì nên im lặng và nếu có chống thì chống
bằng cách khác (có thể sử dụng tuyên truyền đen) nhưng đằng này bà lại quá
hăng say phát ngôn bừa bãi và hậu quả là chỉ tạo cho phía tranh đấu có thêm khí
thế và có thêm cơ hội phản công chính quyền.
Buổi Đại Hội của Phụ Nữ Liên Đới tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn vào
thượng tuần tháng 8, Bà Nhu lại dùng ngôn ngữ “nướng sư” để nói với các vụ
tự thiêu của Tăng Sĩ. Dư luận Phật Giáo lại phẫn uất...trong khi cuộc hòa giải
đang có chiều hướng tốt đẹp.
Ông Mai Thọ Truyền cũng không mong muốn gì hơn là thu xếp cho
êm đẹp càng sớm càng hay. Các lời tuyên bố của Bà Nhu giúp cho phe “tích cực” (gồm
Thượng Tọa Trí Quang, Đại Đức Đức Nghiệp, Giác Đức và các sinh viên Phật Tử) có
cớ để chinh phục và chế ngự khuynh hướng ôn hòa khi khuynh hướng này muốn hào
giải với chính quyền.
Để phản ứng lại thái độ và ngôn ngữ của bà Ngô Đình Nhu, ngày
12.8 nữ sinh Mai Tuyết An nữ Phật Tử Chi Hội Phật Tử Thị Nghè đã dùng búa chặt
cánh tay trái để cúng đường Phật Tử và kêu gọi tinh thần tranh đấu của hàng ngữ
Sinh Viên Học Sinh. Hành động chặt tay của nữ sinh Mai Tuyết An đã có tác dụng
lớn trong sinh viên và học sinh nhất là phía nam sinh viên học sinh thì hành động
của Mai Tuyết An trở thành biểu tượng hy sinh và khích động mạnh vào lòng tự ái
của Nam sinh viên học sinh. “Phận gái còn như vậy huống chi nam nhi”.
Giới hầu cận của Tổng Thống Diệm cho biết cứ mỗi lần nhận
đươc tin tự thiêu hay chích máu chặt tay, Tổng Thống Diệm lại lầm lì một cách
khôn tả. Hôm Bà Nhu tuyên bố ở Tòa Đô Chánh với ngôn ngữ “nướng sư” đã làm cho
Tổng Thống Diệm đùng đùng đập bàn nổi giận. Giới hầu cận cho biết, khi ông
Dương Văn Hiếu nghe Bà Nhu nói như vậy (được trực tiếp truyền thanh). Ông
Dương Văn Hiếu chạy lẹ vào Dinh cấp báo với Tổng Thống Diệm: “Bẩm Cụ Bà Cố Vấn
nói như vậy làm hỏng hết kế hoạch của chúng con. Chúng con đang tiếp xúc bí mật,
bên ấy (Phật Giáo) họ đã siêu lòng bây giờ Bà Cố Vấn lại nói như vậy làm hư hết
kế hoạch hòa giải”. Ông Hiếu thuật lại đại cương về lời tuyên bố của Bà
Nhu...Nhất là ngôn từ nướng sư, Tổng Thống Diệm mặt đỏ như gấc...ông hầm hầm nổi
giận. Sau đó khi Bà Nhu về Dinh, ông Tổng Thống gọi điện thoại, đập tay vào bàn
nói như hét: “Mụ nói cái chi lạ rứa...” Phía đầu giây bên kia không biết Bà Nhu
trả lời ra sao Tổng Thống Diệm la mắng: “tui đã biểu Mụ im ngay đi”. Tổng
Thống Ngô Đình Diệm nói vu vơ: “Nói năng chi mà lạ rứa người ta đang hòa
giải phá thế này rồi nói với người ta thế” Bà Nhu bị Tổng Thống Diệm la lối
như vậy lại mách chồng, Ông Nhu rất tức giận vì không hiểu ai vào “tâu” với
ông Cụ. Ông Nhu phải truy tầm ra thủ phạm. Mà suốt buổi sáng không có mặt nào
quan trọng vào yết kiến ông Cụ...Sau ông mới khám phá ra là khoảng 10 giờ sáng
Dương Văn Hiếu có vào phòng Tổng Thống. Ông Nhu gọi điện thoại bảo Dương Văn Hiếu
vào Dinh gặp ông gấp. Linh tính báo trước là sẽ có chuyện chẳng lành và đúng là
Ông Nhu biết rõ mình báo cáo trước ông Cụ nên ông Hiếu thay vì vào thẳng gặp
Ông Nhu, ông đến phòng Tổng Thống Diệm trước để cầu cứu. Giới Tùy Viên cho biết
ông Hiếu xanh mặt về vụ này và ông nói với Tổng Thống Diệm: “Bẩm Cụ ông Cố
Vấn cho gọi con vào...ông Cố Vấn biết là con báo cáo với Cụ về lời tuyên bố của
bà Cố Vấn... Bẩm Cụ... con chết với ông Cố Vấn”. Tổng Thống Diệm trầm tư rồi
hỏi: “Bây giờ anh tính thế nào?” Dương Văn Hiếu thưa ngay: “Trình Cụ,
nếu ông Cố Vấn có hỏi con xin nói là Cụ nghe qua radio và Cụ hỏi con có biết gì
về lời tuyên bố của bà Cố Vấn thì con nói là có biết”. Tổng Thống Diệm “Thôi
được, anh cứ lên gặp ông Cố Vấn, đã có tôi”. Dương Văn Hiếu lò dò lên
phòng Ông Nhu. Tổng Thống Diệm có mấy khi nghe radio bao giờ đâu. Nhưng trong
Dinh lại có một số radio nhiều cái rất tối tân do các Đại Sứ tặng. Tổng Thống
Diệm bảo ông già Ẩn lấy cho ông một cái và đặt ngay trên bàn. Ông Tổng Thống hỏi:
“Cắm điện ở mô?” Ông già Ẩn thưa: “Bẩm cái này chạy pin” Ông Tổng Thống
mỉm cười: “Ờ ờ... tìm cho ta cục pin”.
Dương Văn Hiếu vào trình diện Ông Nhu. Với vẻ lạnh lùng Ông
Nhu hỏi: “Ai báo cáo cho ông Cụ?” Dương Văn Hiếu trả lời: “Thưa
ông Cố Vấn chuyện đó con không được rõ”. Ông Nhu nói: “Ngoài ông ra thì
không có đứa nào báo cáo với ông Cụ”. Ông Hiếu đáp: “Thưa ông Cố Vấn,
sáng nay con có việc vào trình Cụ, có nhẽ Cụ nghe qua radio nên hỏi con có hay
biết gì về lời tuyên bố của bà Cố Vấn không, con ngay tình không biết nên trả lời
Cụ là có nghe qua radio” Ông Nhu nhìn Dương Văn Hiếu mỉm cười, biết là
Dương Văn Hiếu nói không trúng vì mấy khi Tổng Thống Diệm nghe radio.
Tổng Thống Diệm trong phòng chờ mãi không thấy Dương Văn Hiếu
trở lại thì nóng lòng đi về phía phòng Ông Nhu. Tổng Thống Diệm cầm chiếc radio
mở thật to có ý chứng tỏ cho ông em thấy là Tổng Thống nghe lời tuyên bố của Bà
Nhu qua radio chứ không phải do Dương Văn Hiếu báo cáo lại. Dáng điệu Tổng Thống
không được tự nhiên vì Ông Nhu trông thấy bào huynh tay cầm radio đi qua khẽ mỉm
cười nên biết được ông anh “nói dối” để che trở cho Dương Văn Hiếu rồi Ông
Nhu cũng lờ luôn mà không phiền trách gì Dương Văn Hiếu.
Có thể nói Bà Nhu trở thành diều hâu số một đối với Phong
Trào Tranh Đấu của Phật Giáo 1963. Bà Nhu mạnh miệng có lẽ cũng là tâm lý không
bị mặc cảm tôn giáo. Bà Nhu công khai bày tỏ: “Bộ họ mới là Phật Tử hay sao, ba
má tôi và cả họ ngoại nhà tôi đều theo Phật Giáo. Ai đàn áp ai” Chính Ông
Nhu cũng bị bà vợ lôi cuốn vào con đường “diều hâu”...
Trung tuần tháng 8 tức là trước ngày bố giáp Chùa khoảng 5, 6
ngày. Ông Nhu gặp riêng các nhân vật thân tín Dương Văn Hiếu, Đại Tá Y, Thiếu
Tướng Đính cùng với Lê Quang Tung. Rồi một cuộc họp mật kéo dài trong ba giờ.
Trước hết là nghe Đại Tá Tung báo cáo tình hình trong Quân Đội về tinh thần của
Binh Sĩ, Sĩ Quan và Tướng lãnh. Ông Nhu hỏi: “Đôn thế nào?” Đại Tá
Tung đáp: “Trung Tướng Đôn bây giờ khá lắm, biết cư xử và hăng say làm việc”.
Ông Nhu gật đầu: “Đôn nó biết nghe”. Đại Tá Lê Quang Tung dè
dặt: “Con nghe hình như ông Cụ muốn cử Trung Tướng Nguyễn Ngọc Lễ là Tổng
Tham Mưu Trưởng ?” Đại Tá Tung vừa dứt lời thì Ông Nhu xua tay: “Già Lễ
thì còn mần được cái gì...cho già làm thanh tra là quá mức”. Ông Nhu lại hỏi: “Cao
dạo này sao bết quá vậy ?” Đại Tá Tung hỏi: “Thưa về vấn đề gì
?” Ông Nhu đáp nhát gừng: “Tình hình quân sự Vùng IV bết bát lắm...có nhẽ
phải cho Khánh nó về dưới đó”. Đai Tá Tung bênh vực Tướng Cao: “Anh Cao chịu
khó lắm, anh ấy coi bộ phàn nàn vì bị phá”. Ông Nhu hỏi: “Ai phá ?” Đại
Tá Tung đáp: “Anh Cao có ý nghi ngờ Phạm Ngọc Thảo”. Ông Nhu cười khẩy,
không đáp. Ông Nhu tỏ ý khen ngợi Tướng Đôn đã cố gắng học tập và bỏ tính bay
bướm rồi ông lại hỏi: “Oai nó ở Tâm Lý Chiến có làm được cái gì không ?” Ông
Nhu hỏi như vậy là ý thăm dò. Sự thực từ ngày Thiếu Tướng Trần Tử Oai làm Giám
Đốc Nha Tâm Lý Chiến, Tướng Oai đã có nhiều dịp gặp Ông Nhu từ chỗ “năng đi
năng lại”. Tướng Oai được Ông Nhu đem lòng tin cẩn sủng ái. Đại Tá Tung và một
số Ủy Viên Quân Ủy khen ngợi Tướng Oai: “Anh Oai ở Ngành Tâm Lý Chiến là hợp
với khả năng anh ấy lắm. Con thấy từ tháng 5 đến giờ anh Oai làm việc hết sức cực
nhọc”. Ông Nhu khẽ gật đầu. Sau khi mạn đàm thăm dò “lai rai” Ông Nhu đi
thẳng vào hai chủ điểm chính: Kiểm điểm một lần chót cùng về thành phần một số
Tướng lãnh sẽ đứng sau lưng Ông Nhu để ra tay hành động vào đêm 20.8.
Ông Nhu chỉ thị cho Tướng Đôn, Tướng Đính cũng như Đại Tá
Tung những điều căn bản phải thực hiện để dẹp Phong Trào đấu tranh. Ông Nhu đã
có sẵn hai kế hoạch thuộc loại tối mật. Kế hoạch A sẽ được đưa ra thi hành vào
đêm 20.8. Trong kế hoạch này có điểm phải cắt đứt mọi liên lạc giữa Chùa Xá Lợi
và các nhân vật Mỹ qua ngả Usom... và bắt cho bằng được Thượng Tọa Trí Quang.
Ông Nhu nhắc nhở: “Trí Quang type Dangereux”
Kế hoạch A cũng như B hoàn toàn do phía Ông Nhu và một số Tướng
lãnh soạn thảo trong đó có Đại Tá Lê Quang Tung cũng như hai Tướng Đôn, Đính đã
đóng một vai trò quan trọng.
Thiếu Tá Trần Ngọc Châu, Sĩ Quan Thuyết Trình Viên của Phủ Tổng
Thống cũng góp rất nhiều sáng kiến. Trong cuộc họp mật giữa ông Cố Vấn Nhu, Đại
Tá Lê Quang Tung cùng cơ quan đầu não đều cho rằng vấn đề chính yếu vẫn là làm
thế nào triệt hạ nhóm Thượng Tọa Trí Quang, Đức Nghiệp và Thiện Minh. Đại Tá
Tung thuyết trình một lần chót về vai trò của mấy nhà sư này. Theo Đại Tá Tung,
Thượng Tọa Trí Quang có nhiều liên hệ với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam còn Thượng
Tọa Thiện Minh theo một nhân vật an ninh tình báo trình bày:
- Thưa ông Cố Vấn, cho đến lúc này tôi vẫn tin ông Thiện Minh
không phải là cộng sản, tôi gặp Bác Sĩ Tuyến, anh Tuyến cũng đồng ý như vậy và
anh Tuyến cho biết ông Thiện Minh, muốn thông cảm và hòa giải với chính quyền.
Ông Nhu hỏi: “Cơ sở làm Tàu Vị Yểu của ông ấy ở Huế có liên hệ
gì với tổ chức kinh tài của cộng sản không ?”
Đương sự đáp: “Con không rõ về vụ này nhưng ông Thiện
Minh cũng có một số vốn. Ông Cậu ngoài đó (tức ông Ngô Đình Cẩn) cho biết, có
giúp Tổng Hội Phật Giáo một số tiền rất lớn và thường trao thẳng cho ông Thiện
Minh”.
Ông Nhu tỏ vẻ khó chịu: “Ông Cậu ngoài đó thì nói làm cái gì,
ông ấy nuôi óng tay áo... Còn ông Tâm Châu thì sao ?”
Đương sự đáp: “Khi còn ở ngoài Bắc, ông Tâm Châu có tham
gia Phong Trào liên tôn chống cộng và là bạn của Cha Hoàng Quỳnh”.
Nghe nhắc đến Cha Hoàng Quỳnh, Ông Nhu lắc đầu: “Nghe nói Cha
Quỳnh và Cha Oánh ủng hộ mấy ông Thầy Chùa dữ lắm mà. Tôi chỉ thị cho mấy anh nếu
từ nay Cha Cố nào lộn xộn cứ việc thẳng tay nhưng đừng cho ông Cụ biết”. Ông
Nhu lại hỏi: “Me Sừ Đức Nghị hắn thế nào?”
Phần này Đại Tá Tung trả lời. Ông Tung lấy trong cặp ra một sấp
hình mới nhất chụp bằng “vi phim” và vừa được phóng lớn.
Ông Tung trao cho Ông Nhu và nói: “Đây là một số hình mới nhất
chụp tại Chùa Xá Lợi và Chùa Giác Minh”
Ông xem rồi lắc đầu: “Thế này thì tranh đấu cái gì...?” Ông
Nhu mỉm cười: “Nếu cần các toa cứ cho báo nó đăng lên để đồng bào thấy
rõ”. Ông Tung nói: “Ông Cụ biết thì chết bọn con, hôm nọ có mất tấm hình
“sét” lắm. Con và Hiếu trình lên Cụ. Cụ đỏ mặt bắt đem đi đốt”. Ông Nhu hỏi:
“Các Toa có theo dõi thằng Rufno Philipo không ?” Đại Tá Tung đáp: “Rufno
Philipo vẫn bí mật liên lạc với Chùa Xá Lợi”. Ông Nhu chỉ thị: “Tìm cho đủ bằng
chứng, phải trục xuất thằng này”. Rufno Philipo sang Việt Nam phục vụ từ năm
1955. Ông ta là một trong những người Mỹ ủng hộ chính phủ Ngô Đình Diệm và khuyến
cáo chính phủ Ngô Đình Diệm phải quyết liệt với Pháp và các giáo phái, Rufno
Philipo là nhân vật số 2 của Usaid, tuy bên ngoài Rufno Philipo là một viên chức
cao cấp của Usaid nhưng bên trong Rufno Philipo lại phục vụ cho Cơ Quan Tình
Báo CIA. Đại Tá Tung đã quăng một màng lưới quanh Rufno Philipo và sử dụng cả Mỹ
nhân kế...cho nên nhất cử nhất động của Rufno Philipo đều lọt vào tai của Đại
Tá Tung. Ông Nhu nhấn mạnh: “Các Toa phải tìm cho được bằng chứng, phải trục xuất
ngay mấy thằng ở SAID. Còn thằng Richardson thế nào ?”
Ông Tung đáp: “Tuần trước ông ta ăn cơm với con và tối mới tối
qua Richardson đi ăn cơm ở Đồng Khánh với tụi con”. Dương Văn Hiếu đáp: “Cho
đến nay, con thấy Richardson không có gì đáng ngại ông ta rất thông cảm với
mình. Có điều đáng ngại là thằng Smith”.
Ông Nhu bảo lấy bản đồ Sài Gòn và ghi dấu mỗi ngôi chùa. Ông
chỉ vào khu vực Chùa Xá Lợi: “Làm thế nào phải isolé ngay” Ông quay sang hỏi:
“Chùa này thế nào... Chùa kia thế nào? Đại Tá Tung đáp: “Quan trọng
nhất là Chùa Xá Lợi, mấy ngôi chùa kia đều là phụ. Con thấy nên tách rời Chùa Ấn
Quang và Chùa Kỳ Viên. Cần phải bố ráp Chùa Từ Quang và Chùa Giác Minh”. Ông
Nhu hỏi: “Sao lại như vậy?” Đương sự giải thích: “Chùa Ấn Quang do
Sư cụ Thiện Hòa trụ trì. Sư cụ Thiện Hòa là người Nam hiền đức lắm... Xin ông Cố
Vấn nên tách rời chùa của các Sư người Nam” Một vị Tướng cắt ngang: “Đã
làm thì làm hết, bất kể Trung Nam Bắc” Ông Hiếu không muốn nói thêm vì biết
Tung là người quá khích Tướng Đính lại quá nóng nảy và ít lâu nay Tung có ý
nghi ngờ Hiếu đi với Bác Sĩ Tuyến song Ông Nhu lại có vẻ lưu tâm đặc biệt đến ý
kiến này, Ông Nhu nói: “Làm cách nào để tách rời mấy Chùa này?” Đại
Tá Tung đáp: “Con thấy không cách nào làm được cả” Ông Nhu hỏi: “Theo anh thì
thế nào?” Nhân vật trách nhiệm về tình báo mật vụ đáp: “Theo phúc trình của
Cảnh Sát Đặc Biệt thì Chùa Ấn Quang hiện nay cũng bị các phần tử qua khích xâm
nhập và trong nửa tháng nay xuất hiện nhiều kẻ lạ mặt từ dưới quê lên. Nhưng
theo con đầu não là Chùa Xá Lợi, ở Huế là Chùa Từ Đàm nếu “bố ráp” hai đầu não
này xong thì các Chùa khác không quan hệ” Ông Nhu cho biết ông vẫn băn
khoăn về ngôi Chùa Xá Lợi tuy là đầu não của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo
nhưng Chùa Xá Lợi tiêu biểu cho Phật Giáo Miền Nam mà khối Phật Giáo này vẫn tỏ
ra ôn hòa, hơn nữa Ông Nhu không muốn vì Chùa Xá Lợi mà làm phật lòng Phó Tổng
Thống Thơ vì có liện hệ mật thiết với Hội Phật Học Nam Việt (Chùa Xá Lợi). Đại
Tá Tung cương quyết: “Nếu không kiểm soát được Chùa Xá Lợi thì không làm thế
nào dẹp được Phong Trào Tranh Đấu”. Ông Nhu lại nhìn vào bản đồ suy nghĩ rồi gật
đầu: “Tung nói đúng. Vùng này đông dân lại ở trung tâm Đô Thành, gần một số trường
học, ở ngay sát bên USOM. Tình hình mấy ngày nay ở trong ấy (tức Chùa Xá Lợi),
như thế nào?” Đại Tá Tung đáp: “Dương Văn Hiếu nắm vững tin tức Cảnh Sát
Đặc Biệt gài thêm được một số người trong đó. Về phía con thì có 5 agent (điệp
viên), tụi nó rất đắc lực... Các tấm hình vừa rồi là do tụi nó chụp được. Một đứa
hiện nay là hộ vệ của Đức Nghiệp”. Ông Nhu mỉm cười, chưa bao giờ ông có nụ
cười tươi như vậy, Đại Tá Tung còn khoe: “Con có trao cho nó một trăm ngàn đồng
để đưa cho Đức Nghiệp” Ông Nhu ngạc nhiên: “Để làm cái gì?” Đại
Tá Tung đáp: “Nó (tức hộ vệ viên) đóng vai Phật Tử con nhà giầu và đưa tiền
cúng dường Phật Pháp...” Cả ba người cùng cười vui vẻ, Ông Nhu nói: “Coi
chừng không có nó lại cho vào túi riêng của nó” Đại Tá Tung quả quyết “thằng
này tin cẩn lắm, trước nó phục vụ ở 707” Ông Nhu hỏi: “Các Toa tính sao nữa
đây?” Ông Nhu nói thêm: “Mọi việc phải tuyệt đối bí mật, điều cần là
không nên cho ông Cụ biết (tức Tổng Thống Diệm) sau nữa là bọn CIA” Sau
cùng Ông Nhu quyết định sẽ “bố ráp” tất cả mọi ngôi chùa nào khả nghi ngoại
trừ các Chùa tại miền Tây. Ông Nhu căn dặn: “Chùa nào không có khả nghi thì cứ
để nguyên, không được xâm nhập...” Đại Tá Tung trình bày thêm một số chi tiết:
“Thưa ông Cố Vấn kế hoạch A phải có sự phối hợp chặt chẽ của Lực Lượng Đặc Biệt,
Cảnh Sát, An Ninh Quân Đội và các cơ quan bán quân sự...” Ông Nhu đáp: “Không
cần thiết, Lực Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát là đủ rồi, Quân
Đội được sử dụng ở kế hoạch B”. Ông Nhu nhấn mạnh: “Mọi
việc phải thi hành và kết thúc nội trong 1 giờ và phải chớp nhoáng...Giờ nào
thuận lợi nhất ?” Nhân vật an ninh tình báo đáp: “Khoảng 12 giờ đêm”
Đại Tá Tung nói: “Hơi sớm, độ 1:30 sáng là vừa” Ông Nhu hỏi: “Bên trong
các Chùa họ có võ trang đề phòng gì không?” Đại Tá Tung đáp: “Chùa Từ Đàm
và Diệu Đế bây giờ giống như Ấp Chiến Lược”. Ông Nhu cả cười hỏi: “Có súng đạn
gì không?” Đại Tá Tung đáp: “Dạ thưa không nhưng có gạch đá, săng, gậy, vỏ
chai...” Ông Nhu hỏi: “Chùa Xá Lợi, Ấn Quang thì sao?” Ông Tung đáp:
“Cũng như vậy. Riêng Chùa Xá Lợi tin tức cho biết hiện nay họ không đề phòng gì
cả chỉ có một số thanh niên giữ trật tự và kiểm soát an ninh” Một vị Tướng
lên tiếng bảo Đại Tá Tung: “Toa và Dương Văn Hiếu phải coi chừng chuông
mõ” Ông Nhu tỏ vẻ ngạc nhiên đương sự đáp: “Khi mình tiến vô kiểm
soát thì thế nào họ cũng khua chuông gõ mõ để báo động” Đại Tá Tung đáp không
thể làm thế nào được hơn. Moa sẽ nói với Hiếu để Lũy gài thêm người vào để tụi
nó lo phần mõ. Ông Nhu đắc ý: “Ờ ờ đúng... mà họ có thể dùng chậu phèng
la”. Đại Tá Tung nói: “Tụi con sẽ nghiên cứu kỹ việc này. Nhưng nếu tiến
vô họ chống đối thì làm sao?” Ông Nhu trầm ngâm rồi đáp: “Tuyệt đối
không được gây đổ máu”.
Khi Ông Nhu chỉ thị phải tránh đổ máu thì Đại Tá Tung thắc mắc:
“nếu họ chống cự họ ném gạch đá thì làm sao tránh cho được?” Ông Nhu lắc
đầu: “Bằng mọi cách phải tránh đổ máu”. Ông Nhu bèn qua kế hoạch B, phần
này, Ông Nhu nói giản dị: “Để cho Đôn và Đính nó lo. Các Toa lo phần đầu...” Sự
thực thì cả hai kế hoạch đều do Tướng Đính điều động.
GIẢI PHÁP CUỐI CÙNG
Ngày 20.8, Hội Đồng Tướng Lãnh nhóm họp tại Bộ Tổng Tham Mưu
để thảo luận về vụ tranh đấu của Phật Giáo và tìm biện pháp đối phó để ngăn chặn
cộng sản và đồng thời tái lập trật tự an ninh tại Đô, Thị Tỉnh. Ông Nhu không
trực tiếp chỉ thị cho Hội Đồng Tướng Lãnh phải có thái độ thế nào, hành xử thế
kia. Nhưng xuyên qua cuộc tiếp xúc riêng giữa Ông Nhu với các Tướng Đôn, Đính,
Oai, Khánh, Trí...thì những ý kiến đưa ra thảo luận lại là chính ý kiến của Ông
Nhu nằm trong kế hoạch A và B. Trước một quyết định quá ư quan trọng đối với lịch
sử và nhất là Phật Giáo, Ông Nhu cố ẩn mình trong bóng tối giật giây cho Hội Đồng
Tướng Lãnh hành động.
Kết quả, Hội Đồng Tướng Lãnh quyết định, Quân Đội phải ra
tay. Có một số ý kiến chống lại việc bố ráp Chùa chiền trong đó có ý kiến của
Tướng Khánh nhưng thực ra Tướng Khánh chỉ phát ngôn theo sự chỉ dẫn của Ông
Nhu. Trước đó, Tướng Khánh từ Pleiku về Sài Gòn được gọi vào Dinh gặp riêng Ông
Nhu. Cuộc tiếp xúc kéo dài hai tiếng đồng hồ. Lúc trở ra, Tướng Khánh lộ vẻ
tươi vui hớn hở. Không hiểu nội dung cuộc tiếp xúc như thế nào nhưng Tướng
Khánh tiết lộ với Đại Tá Tung và một số sĩ quan cao cấp của Quân Ủy rằng, ông
chống lại việc bố ráp Chùa chiền để thăm dò thái độ của các Tướng như thế nào,
thì hầu hết các Tướng nhất là ba Tướng Đôn, Đính, Oai không đồng ý và chủ
trương phải áp dụng biện pháp mạnh đối với phe đấu tranh.
Ông Nhu đã thành công trong việc hướng dẫn Hội Đồng Tướng
Lãnh qua Tướng Đôn và Oai. Ông Nhu chỉ thị không nên để Quân Đội trực tiếp hành
động qua quyết định của Hội Đồng Tướng Lãnh và làm thế nào để Hội Đồng Tướng
Lãnh có chung một thái độ còn phương thức hành động ra sao thì để tùy quyền các
Tướng Tư Lệnh Vùng. Kết quả, Hội Đồng Tướng Lãnh đã đi đến một quyết định như vậy
sau lời tuyên bố của Tướng Đôn “Bây giờ các toa ai nấy trở về vùng mình và
tùy nghi quyết định lấy. Nhưng 12 giờ đêm nay, các Toa đợi lệnh Thượng Cấp” Vùng
IV được coi như vô sự, Vùng II riêng Thành Phố Nha Trang phải ban hành lệnh giới
nghiêm từ ngày 15.8. Linh Mục Cao Văn Luận bị chấm dứt nhiệm vụ Viện Trưởng Đại
Học Huế kể từ ngày 16.8 và Giáo Sư Trần Hữu Thế, nguyên Bộ Trưởng Giáo Dục và Đại
Sứ Việt Nam tại Phi Luật Tân được triệu hồi về nước thay thế Linh Mục Luận.
Tình hình ở Huế tuy bên ngoài có vẻ lắng động về phía Phật Tử nhưng hàng ngũ
sinh viên bắt đầu dấy động mạnh mẽ. Nhưng thủ lãnh của họ như Ngô Kha, Nguyễn
Diễn đã thực sự lao đầu vào cuộc.
Ngày 20.8, Đà Nẵng lại có biểu tình lớn. Phong Trào Tranh Đấu
của Phật Giáo lan rộng vào học đường và biến thái để trở thành cuộc tranh đấu của
tuổi trẻ, giáo giới hầu hết cũng thay đổi thái độ do dự trước đây...Mọi người
thao thức “phải làm một cái gì đó...” Lúc ấy không ai dự đoán một cái gì
đó sẽ đem lại cho quê hương kết quả như thế nào?
Sinh viên Đại Học Sài Gòn, giới trí thức và văn nghệ sĩ đã
nghiêng hẳn về phía Phật Giáo. Nhóm Nguyễn Mạnh Cường khuấy động mạnh mẽ tại
hai Trường Luật và Văn Khoa. Nhóm Nguyễn Hữu Đống đi sát với Ủy Ban Liên Phái
Phật Giáo và mỗi ngày nhóm này càng phát triển và thanh thế lan rộng, thu hút
khối Học Sinh đông đảo tại mấy trường lớn như Chu Văn An, Gia Long, Trưng
Vương, Võ Tường Toản, Pétrust Ký, Cao Thắng. Chính điều này đã làm cho Ông Nhu
lo lắng. Ông Nhu nói vói Cao Xuân Vỹ cũng như Lê Quang Tung: “Mấy ông thầy
chùa tranh đấu dẹp lúc nào là xong lúc ý nhưng các chú coi chừng mấy thằng sinh
viên” Ông Nhu cũng nhấn mạnh: “Bọn trẻ nó nổi loạn thì khó cho mình lắm!”
Nếu phân tách Phong Trào Tranh Đấu 63, bỏ ngoài những khuấy động
ngoại tại, thì Phong Trào đó kể từ đầu tháng 8 đã biến thái trở thành Phong
Trào Tranh Đấu của tuổi trẻ. Đây là lần thứ nhất kể từ 19.8.1945, tuổi trẻ đã
vùng dậy với tất cả khí thế và nhiệt huyết, tranh đấu để mà tranh đấu thế
thôi. Phải làm một cái gì. Một cái gì đó đẹp như mơ. Đó là tiếng gọi thống
thiết của tuổi trẻ 63. Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo đã có cái may lớn nhất
là dựa vào lực lượng lớn lao của tuổi trẻ lúc đó. Ông Nhu nhận định rõ tầm quan
trọng của hàng ngũ Sinh Viên Học Sinh nên phải tìm cách đối phó ngay. Khi thấy
Học Sinh Sinh Viên tham dự biểu tình tuyệt thực, Tổng Thống Diệm trách cứ Bộ
Giáo Dục thì Ông Nhu xác định rõ như thế này: “Cứ để mấy ông thầy chùa kéo
dài dài như rứa thì chỉ còn cách đóng hết các cửa trường mà thôi”. Trong kế hoạch
A và B trọng tâm của Ông Nhu là tách rời cuộc tranh đấu của Phật Giáo với tập
thể sinh viên học sinh và trí thức. Bản chất của trí thức thành phố vốn lè phè
cầu an, do dự đắn đo vị kỷ nhưng không phải là không nguy hiểm nếu giới này
xoay lưng lại chống đối chính quyền và sáp vô tập thể sinh viên học sinh khi
trò tranh đấu mà có Thầy đứng đằng phía sau hỗ trợ thì đó mới là điều nguy hiểm
đối với bất cứ một chính quyền nào.
Ông Nhu đã đứng vào thế chân tường: Một là để chế độ sụp đổ
hai là phải dẹp Phong Trào Đấu Tranh. Muốn dẹp Phong Trào Tranh Đấu mà sinh
viên và học sinh đã trở thành tiềm lực thì phải đánh bật cái khối địa hình chỉ
đạo (tức Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo). Khi cái khối này tan vỡ thì các khối
vô định hình khác như sinh viên và học sinh cũng tan vỡ theo và lúc đó thì cộng
sản cũng như các thành phần chống đối khác sẽ không còn đất để tổ chức và lãnh
đạo quần chúng hầu tranh đấu cho các mục tiêu của họ ẩn nấp qua chiêu bài Phật
Giáo Tranh Đấu.
Thế của Ông Nhu lúc ấy chỉ còn một chọn lựa: Một mất một
còn, được ăn cả ngã về không. Ai ở cái thế chính quyền như trường hợp Ông Nhu
cũng phải chọn lựa như vậy.
Các lực lượng chống đối mỗi ngày mỗi tăng triển mau lẹ và nhất
là thành phần quốc gia bấy lâu bị tan rã nhưng nhờ biến cố Phật Giáo đã tạo được
cơ hội kết hợp cùng nhau. Thành phần quốc gia ở đây không phải do một số lãnh tụ
già nua mà hầu hết đều thuộc giới trẻ với tất cả khí thế và khát vọng thực hiện
một cuộc cách mạng xã hội tận gốc tận ngọn tại Miền Nam. Khát vọng đó mới chỉ
thành ý niệm mơ hồ nhưng gặp môi trường thuận lợi ý niệm kia bỗng dưng trở
thành ngọn lửa mỗi ngày một bốc cao theo cơn giông bão của thời cuộc. Ông Nhu
không phải là không nhận thức rõ tầm quan trọng và nguy hiểm của cái thành phần
chống đối này.
Cuộc thương nghị giữa chánh quyền và Phật Giáo vẫn bế tắc. Cộng
sản và các thành phần đối lập chỉ mong duy trì sự bế tắc này. Càng bế tắc càng
thuận lợi cho mục tiêu riêng của họ Riêng mục tiêu tranh đấu đòi quyền bình đẳng
tôn giáo của Ủy Ban Liên Phái Ông Nhu bảo với Cao Xuân Vỹ: “đòi như rứa thì làm
sao mà thỏa mãn cho được. Mục tiêu chiến lược mà...” Ông Nhu ở cái thế hai
chân bị đặt vào chậu nước sôi.
Quần chúng ở đâu và ở bất cứ thời nào cũng chỉ là tập thể bị
thống trị. Tập thể bị thống trị ấy tuy chỉ là khối vô định hình nhưng luôn luôn
tiềm ẩn cái mầm công phẫn chống đối cái thiểu số thống trị (tức nhà cầm quyền)
Phong Trào Tranh Đấu của Phật Giáo kể từ đầu tháng 8 đã gây được niềm phấn khởi
trong khối quần chúng đông đảo kia. Phong Trào Tranh Đấu của Phật Giáo được
lòng đa số quần chúng thì đồng thời cũng dễ dàng gây xúc động và thu hút được
giới trí thức, văn nghệ, báo chí và sinh viên. Nhất là giới văn nghệ và sinh
viên cũng như báo chí luôn luôn có khuynh hướng nghiêng hẳn về phía bị thống trị
(trừ quần chúng) để chống lại thiểu số thống trị. Sau cái chết của Nhất Linh và
nhất là qua thái độ kiêu căng quá lố của Bà Nhu cùng ngôn ngữ sỗ sàng của bà đối
với các nhà lãnh đạo Phật Giáo và Nhân Sĩ , hầu hết văn nghệ sĩ nếu không công
khai thì cũng âm thầm ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Đáng kể là thái độ của
Hội Bút Việt với Linh Mục Thanh Lãng và Nhà Thơ Vũ Hoàng Chương. Nhóm trẻ với
những Thế Phong (Đại Nam Văn Hiến) Khải Triều, Đỗ Ngọc Trâm và những Thế
Nguyên, Diễm Châu, Nguyễn Khắc Ngữ...Tuy họ chỉ là một tối ư thiểu số nhưng chính
thành phần trẻ đã trở thành hấp lực thu hút đám đông và gây thêm phần phấn khởi
cho cuộc tranh đấu.
Ông Nhu phải chọn lựa như một giải pháp cuối cùng. 9 giờ đêm
ngày 20.8, ông gặp Đại Tá Lê Quang Tung để xét duyệt kế hoạch lần chót và suốt
buổi chiều ông đã thảo luận tỷ mỷ với Tướng Đôn, Đính, Oai...Tối hôm ấy Tổng Thống
Diệm đi ngủ sớm hơn thường lệ. Ông Nhu chỉ thị cho ông Tung và mấy viên chức
cao cấp của Cảnh Sát và tình báo: “Thận trọng tối đa nhất là đối với ông cụ Tịnh
Khiết...phải “sole” ngay mấy đứa quá khích, phải phối hợp chặt chẽ với
Đính...Thắc mắc thêm cứ hỏi Đôn hay Đính”.
Cuộc hành quân bố ráp Chùa chiền tuần tự tiến hành kể từ lúc
11 giờ đêm sau khi các viên chức cao cấp đã lãnh đầy đủ những chỉ thị của Tướng
Đính tại Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Đại Tá Tung được viên chức cao cấp của
Cảnh Sát Đặc Biệt thông báo riêng như sau: “Tôi không hiểu như thế nào, tụi
nói mới ở trong Xá Lợi về cho biết, mấy ông thày chùa hội họp liên miên từ hồi
chiều đến giờ. Trong chùa đã có lệnh báo động họ đang bố trí để chống lại” Ông
Tung đáp: “không sao, một lát sẽ hốt hết!” Viên chức này cho biết
thêm: “lúc 9 giờ, tụi nó ghi được số xe của Mai Thọ Truyền...ở trong chùa
đi ra, hình như có một người nằm phía sau xe”.
Ông Tung kinh ngạc: “Sao không cho bám sát ngay và chặn lại...Thích
Trí Quang lọt lưới thì hỏng hết”...
Thực ra thì từ sáng ngày 20, Đại Đức Thích Đức Nghiệp qua một
đường giây đặc biệt đã nhận đươc nguồn tin chính quyền sẽ tần công Chùa Xá Lợi
và Ấn Quang nội trong ngày 20 và 21. Cũng 8 giờ tối ngày 20, ông Smith, Phó
Giám Đốc CIA đến trụ sở USOM có lẽ để quan sát tình hình và chính ông Smith đã
gọi điện thoại cho Đại Tá Tung hỏi: “Đêm nay hình như Đại Tá phải đi hành
quân?” Ông Tung chột dạ đem chuyện này báo cáo với Ông Nhu. Ông Nhu mỉm
cười: “Hồi chiều Truheart có hỏi moa... Không sao, chắc chắn là tụi nó biết
rồi nhưng cứ việc tiến hành. Cần mần răng Thích Trí Quang không thoát khỏi ra
Sài Gòn” Đại Tá Tung quả quyết: “Ông Cố Vấn cứ yên tâm Trí Quang không thể
nào thoát khỏi”. Ông Nhu dặn thêm: “Phải biệt lập ông ta một nơi giao cho
chú mày phải trực tiếp khai thác... đối xử với ông ta như sĩ quan cấp Tướng” Ông
Nhu lại bảo ông Tung: “phúc trình ngay vào chiều mai. Vụ cháu ông Sinh như
thế nào ? Nó tiết lộ gì thêm không?” Đại Tá Tung cho biết: “cháu
đang khai thác, những điều hắn tiết lộ đem đối chiếu với diễn tiến thì
đúng” (cũng nên ghi thêm: Ông Cửu Sinh là thân phụ của Đại Tướng Võ Nguyên
Giáp (một kỳ hào đại chủ ở làng An Xá thuộc Tổng Đại Phong cùng một Tổng với
gia đình Tổng Thống Diệm) thời Pháp ông Sinh được hàm Cửu Phẩm Văn Giai).
12 giờ đêm ấy, Đại Đức Đức Nghiệp được điện thoại bí mật báo
cho biết Cảnh Sát sắp sửa tấn công Chùa. Xá Lợi náo động. Hàng trăm Tăng Ni tín
đồ tuy giao động mà thêm phấn khởi. Ông Nguyễn cho biết: “Chúng tôi quyết một
lòng tử thủ số gạo dự trữ trong chùa có thể ăn được hơn một tuần. Chúng tôi dự
trữ đầy đủ tương, chao, muối, và nước. Hàng chục thùng đèn cày và dầu để đề
phòng một khi chính quyền cúp điện nước. Một số các Phật Tử trẻ yêu cầu các Thượng
Tọa Đại Đức lãnh đạo tìm đường rút ra khỏi chùa nhưng Thượng Tọa Tâm Châu quyết
định ở lại, chính sự có mặt của các Thượng Tọa Đại Đức làm cho khí thế càng
thêm mạnh. Chúng tôi chuyển các chậu kiểng lên lầu và đó là khí giới tử thủ”.
12 giờ 30, Cảnh Sát đã hoàn toàn phong tỏa quanh vùng Xá Lợi.
Ông Trần Văn Tư làm Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành trực tiếp nhận chỉ thị của Đại
Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia cũng như hai Tướng Đôn và
Đính. Dưới quyền ông gồm có lực lượng Cảnh Sát của Quận III (Cò Kính) và Quận I
(Đại Úy Quyền) cùng lực lượng Cảnh Sát Chiến Đấu của Thiếu Tá Dần. Mấy ông Cò
nhìn nhau một thoáng lo ngại. Trong thoáng chốc, Khu Xá Lợi bỗng nhiên huyên
náo, tiếng máy xe nổ, tiếng người lao xao, tiếng la hét thất thanh, chuông mõ
khuya rầm rĩ. Hơn nửa giờ, toán Cảnh Sát Chiến Đấu tiền phương không thể nào tiến
vào được Chùa... Gạch đá ném dữ dội quá. Đại Úy Quyền bị chậu kiểng ném trúng,
thương tích khá nặng. Hơn 10 Cảnh Sát chiến đấu bị loại khỏi trận. Qua máy, Tướng
Đính hối thúc ông Tư: “Làm gì mà lúng túng vậy, sáp đại vô”. Rồi đợt thứ 2, lại
trận mưa gạch đá và chậu kiểng, ghế, kể cả cánh cửa. Chuông mõ vẫn vang rền, những
tiếng hò hét thất thanh kêu cứu trong tuyệt vọng. “Bớ người ta Cảnh Sát phá
Chùa... Bớ người ta Cảnh Sát giết thầy chùa chúng tôi”... Từng loạt đạn mã tử nổ
càng làm tăng không khí cực kỳ máu lửa, giao động... ông Nguyễn nói: “Lúc ấy
tôi không còn nghĩ gì hơn là chiến đấu cho đến chết để bảo vệ các thầy” Trong
tiếng la hét vẫn thỉnh thoảng xen lẫn tiếng tụng niệm của các vị sư già và nữ
Phật Tử. Lần này Cảnh Sát chiến đấu lọt vào sân chùa. Hơn một nửa giờ chiến đấu,
sức chống cự của những người cố thủ kiệt dần... kiệt dần... Rồi từng loạt nổ chát
chúa... khói tỏa mù mịt. Ông Nguyễn nói: “Một trái lựu đạn cay liệng vào đúng
chân tôi... chịu không thấu, tôi quỵ ngay từ lúc ấy... Nước mắt dàn dụa... mọi người
kêu khóc”...
1g30 thì Cảnh Sát hoàn toàn làm chủ tình thế. Cảnh Sát viên
Quý cho biết: “Tôi thuộc toán có phận sự chiếm phương trượng (nơi có tượng Đức
Thế Tôn) Ông Giám Đốc Tư chỉ thị cho bọn tôi phải chiếm ngay phương trượng và đứng
dàn bao quanh, cấm không được một ai lai vãng. Không được sờ mó đến bất cứ một
thứ gì”. Cảnh Sát viên Quý cho biết thêm: “Toán chúng tôi rút lui sau
cùng, sau khi ông Giám Đốc Tư khen ngợi bọn tôi và chính tôi được lệnh lấy
hương đốt rồi vái Phật cho đến lúc ấy đèn nến vẫn sáng trưng”.
Các Thượng Tọa, Phật Tử đều ngất ngư... Nhiều người ngất xỉu
vì hơi cay. Hòa Thượng Hội Chủ Tịnh Khiết bị mảng của chậu kiểng bắn vào mắt.
Ông Nguyễn nói: “Chúng tôi bị lùa lên xe Camion. Nhiều người bị xỉu không đi nổi
thì Cảnh Sát khiêng bỏ lên xe... Từ đó tôi càng thêm căm thù chế độ Ngô Đình Diệm”.
Cuộc lục soát chấm dứt lúc 2g10. Tướng Đôn khen ngợi Giám Đốc
Cảnh Sát Đô Thành và một số viên chức cao cấp. Ông nói: “Lúc đầu moa tưởng
các toa không vô được chậm 15 phút nữa thì moa phải cho bọn Dù và Thủy Quân Lục
Chiến thay thế các toa”.
Bác Sĩ Lê Văn Triều được chỉ định đặc biệt để trông nom về phần
y vụ đối với các Thượng Tọa và Phật Tử bị Cảnh Sát giam giữ tại bót Quận 7.
Cùng một giờ với Xá Lợi, Chùa Từ Đàm, Diệu Đế tại Huế cũng
như Ấn Quang và một số Chùa trên toàn quốc đều bị kiểm soát như vậy. Nhưng chỉ
có Chùa Từ Đàm, Ấn Quang, Xá Lợi sức chống cự của Phật Tử được coi là gay cấn mạnh
mẽ.
Sau cuộc hành quân Cảnh Sát này, Đại Tá Tung cũng như hai Tướng
Đôn, Đính đều hốt hoảng vì không bắt được Thượng Tọa Thích Trí Quang. Cảnh Sát
Đặc Biệt của ông Dương Văn Hiếu trong khi lục xoát chỉ tìm được một tấm căn cước
của Thượng Tọa Thích Trí Quang cùng một số tài liệu và rất nhiều thư từ. Ông
Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành báo cáo cho biết, riêng khu vực Xá Lợi có 30 Cảnh
Sát bị thương vì gạch đá và chậu kiểng từ phía trên lầu ném.
Cùng lúc xảy ra cuộc lục xoát Chùa Xá Lợi và Ấn Quang, Bộ Tư
Lệnh Lực Lượng Phòng Vệ Thủ Tổng Thống nhận dược báo cáo: “có lính Lực Lượng
Đặc Biệt sâm nhập yếu khu I và đã chiếm Bưu Điện” Thiếu Tá Duệ xin chỉ thị
của Tư Lệnh và mọi người tưởng có binh biến. Sĩ Quan Tùy Viên báo cho Thiếu Tá
Duệ “giờ Tổng Thống đang ngủ” Sau đó Bộ Tư Lệnh mới được biết, Lực Lượng Đặc Biệt
chiếm Bưu Điện để kiểm soát các đường giây ra ngoại quốc.
3 giờ đêm, Tổng Thống Diệm bị đánh thức vì có điện thoại của
Phó Đại Sứ Mỹ. Không hiểu ông Phó Đại Sứ Mỹ nói những gì, Tùy Viên chỉ nghe thấy
Tổng Thống Diệm dằn giọng “Tôi rất tiếc, tôi chịu trách nhiệm. Đó là việc nội bộ”
Ông Tổng Thống buông máy đứng lên buộc lại chiếc cạp quần rồi mở cửa đi ra bao
lơn.
4 giờ 30 ngày 21, Hội Đồng Nội Các được triệu tập. Tất cả im
lặng. Không khí nặng nề khó thở. Tổng Thống Diệm lên tiếng. Ông tường trình về
biến cố vừa qua. Không một ai lên tiếng phản đối ngoại trừ bộ Trưởng Ngoại Giao
Vũ Văn Mẫu thì cho rằng biến cố hồi đêm tạo thêm khó khăn cho các vấn đề bang
giao quốc tế đối với Việt Nam. Phó Tổng Thống Thơ phàn nàn, biến cố hồi đêm đã
cắt đứt mọi cố gắng dàn xếp của Ủy Ban Liên Bộ. Tổng Thống Diệm tuyên bố: “Vì
có tin việt cộng sắp tràn vào Thủ Đô và tình hình an ninh mỗi lúc một nguy,
chính phủ phải hành động cương quyết và lãnh trách nhiệm trước lịch sử”.
Tổng Thống Diệm ký sắc lệnh 84/Tổng Thống Phủ ban hành lệnh
giới nghiêm trên toàn quốc và giao cho Quân Đội trách nhiệm bảo vệ an ninh trật
tự. Thiếu Tướng Đính được cử làm Tổng Trấn Sài Gòn Gia Định.
Ngày 21.8, Đại Sứ Trần Văn Chương từ chức Đại Sứ Việt Nam tại
Mỹ nhưng ngày 22 chính quyền Việt Nam thông báo Đại Sứ Chương bị chấm dứt nhiệm
vụ. Cũng vào ngày hôm đó, Ông Nhu sửa soạn một chuyến đi săn tại Bình Tuy nhưng
phút chót bãi bỏ vì phải có mặt tại Sài Gòn để đối phó với Tân Đại Sứ Mỹ Cabot
Lodge.
Ngày 24 Bộ Trưởng Nguyễn Quang Trình ký nghị định tạm thời
đóng cửa các Trường Đại Học, Trung Học và Tiểu Học tại Sài Gòn Gia Định nhưng
chỉ một hôm sau trên 2000 sinh viên Học Sinh lại biểu tình trước Chợ Bến Thành.
Vụ này, một thiếu nữ tên Quách Thị Trang bị bắn chết. Hơn 1000 thanh niên bị bắt
và đưa xuống Quang Trung.
Được tin, Tổng Thống Diệm lại nổi giận vì trước đó ông Lodge
nói với Tổng Thống Diệm rằng: “Cái chết này thêm một bằng chứng để cộng sản tấn
công Hoa Kỳ và cằng làm khó khăn cho chính phủ Kennedy trong việc trợ giúp
Chính Phủ Việt Nam chống lại cộng sản” Ông Tổng Thống chỉ thị cho Đại Úy Bằng: “Mi
xem ai giết nó” Phía Tòa Tổng Trấn thì đổ tội cho Cảnh Sát nhưng Tướng Đôn cho
rằng không thể biết rõ ai bắn. Có thể là Quân Đội. Trong phần phúc trình trước
Hội Đồng Tướng Lãnh, Tướng Đôn cho rằng đó chỉ là một cô gái quê. Tướng Oai
cũng nói: “Chắc nó đi Chợ Bến Thành chẳng may gặp đám biểu tình rồi bị đạn lạc” Quách
Thị Trang được đưa vào bệnh viện Đô Thành rồi đưa lên nhà thương Cộng Hòa cấp cứu.
Nàng tắt thở tại đây. Trong một tuần lễ, Cảnh Sát Đặc Biệt của ông Dương Văn Hiếu
không tìm ra xuất xứ của Trang cũng không rõ lý lịch của Trang nữa.
Nhưng từ đó, Quách Thị Trang trở nên thần tượng để gây thêm
phấn khởi và tạo dựng khí thế tranh đấu trong hàng ngũ sinh viên học sinh.
Cũng từ đây, cuộc đấu trí giữa ông Ngô Đình Nhu và Cabot
Lodge đã thực sự mở màn, gay cấn sôi nổi từng ngày và qua từng pha “vật lộn” với
ngôn ngữ đối thoại và “Cách chơi” không kém tân kỳ. Nhưng ngay từ lúc mở
màn trận đấu nghĩa là từ khi Cabot Lodge đặt chân xuống Phi Trường Tân Sơn Nhứt,
phía Ông Nhu đã thua thiệt vì lỗi lầm từ căn bản chiến lược đối với cộng sản
cũng như đối với Mỹ qua Cabot Lodge, Harriman-Hilsman.
Đối với cộng sản cũng như đối với các phần tử CIA Mỹ (chống
chính quyền Ngô Đình Diệm) “Vụ Phật Giáo” với “danh nghĩa Phật Giáo” chỉ còn là
một cái chiêu bài quy tụ để thu hút “quảng đại quần chúng ngoài đường”
cái “lý luận tự nhiên” của sự việc, bắt các biến cố phải mỗi ngày gia
tăng trầm trọng. Cộng sản cũng như Mỹ qua Cabot Lodge đã thành công trong việc “xoay
thế” tìm “quyết định chiến lược” bằng chính trị “tập hậu” sau lưng chánh quyền
Ngô Đình Diệm! Chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ còn hai ngả đường: Một là tìm kế dập
tắt mau chóng nội vụ, hai là sụp đổ! (hoặc dập tắt không khôn khéo, và sụp đổ
theo sự vụng về của mình).
Đứng về phương diện chiến tranh cách mạng cộng sản và kể cả
mưu đồ theo chiến lược của Mỹ qua nhóm “Việt Nam Task Force” mà xét thì thử
xem chánh quyền Ngô Đình Diệm đã đối phó ra sao, với sự “xoay thế” của địch.
Chính quyền đã lỗi lầm ra cái lệnh “cấm treo cờ” bất thích thời. Chính cái lỗi
lầm mà bất cứ chánh quyền nào thiếu sự cảnh giác, cũng có thể mắc phải với một
bộ máy hành chánh quen chiếu lệ (routinier). Điều đó không đáng trách lắm. Điều
đáng trách là, khi đã lỗi lầm rồi, không biết kịp thời khôn ngoan sửa lại, để đến
nỗi bị tràn ngập bởi các biến cố. Trước hết, chánh quyền không có một đường hướng
dứt khoát trong việc giải quyết vì không dựa vào sự phân tách thực tế khách
quan, mà chỉ dựa vào ý kiến (và cảm xúc) chủ quan của mình! Đầu tiên quen lệ
khiển chế các “tổ chức quần chúng” theo quan điểm chiến thuật, chánh
quyền cho là phải cương quyết bảo vệ uy tín, nếu cần bằng biện pháp mạnh. Rồi
vì áp lực của dư luận Quốc Tế, nhất là Hoa Kỳ, chính quyền đã nhượng bộ điều giải.
Nhưng trong lúc ấy thì một “tập thể quần chúng” của chính quyền (mà dư luận có
lý để đồng nhất dễ dàng với chánh quyền) Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới bằng tiếng
nói căm thù của Bà Ngô Đình Nhu lại công khai thóa mạ đối phương. Cuộc điều giải
tất nhiên thất bại: Và dư luận bênh kẻ yếu, tất nhiên kết án chánh quyền là lừa
gạt, giả dối! Tình trạng không thể kéo dài: Một thứ Quốc Gia trong Quốc
Gia. Chánh quyền Ngô Đình Diệm đã chọn biện pháp dứt khoát thanh toán nội vụ
vào cuối tháng 8.1963.
Về phương tiện thuần chiến lược chiến tranh cách mạng cộng sản,
biện pháp thanh toán ấy có thể biện minh được dễ dàng: Phải phá tan âm mưu của
cộng sản “xoay thế” đang đi đến “quyết định chiến lược” bằng đòn chiến
thuật “tập hậu” như đã nói. Nhưng về phương diện trách nhiệm tinh thần, thì
chính quyền phải chịu trách nhiệm vì đã để cho “vụ Phật Giáo” phát khởi,
vì đã để cho nó biến chuyển trầm trọng đến tình trạng nọ! Và tự nhiên dư luận sẽ
dễ dàng đặt câu hỏi: Phải chăng chánh quyền đã cố ý cho “vụ Phật Giáo” xảy ra
như vậy để lấy cớ “đàn áp Phật Giáo?” Sau nữa về phương diện kỹ thuật của
biện pháp thanh toán, chánh quyền đã lầm lẫn tai hại. “Kỹ thuật hành quân” có
thể nói là hoàn hảo, nhưng kỹ thuật bố thí chánh sự thực là thấp kém. Trước hết
là vì chính quyền đã công khai và chính thức tự mâu thuẫn, tố cáo mấy nhà
sư “là cộng sản” (những người cộng sản mà chính quyền đã nuôi dưỡng,
o bế trong suốt 6 năm, mà chánh quyền mới mời ngồi cùng bàn họp!) nhưng nhất là
vì chánh quyền đã biện minh hành động của mình, căn cứ trên một “kiến nghị” của
một Hội Đồng Tướng Lãnh Quân Đội qua các phiên họp (chiều 19 cũng như 20.8) yêu
cầu chánh phủ hành động (cái kiến nghị đó chính quyền tổ chức cho họ ký!) Hậu
quả, của sự vận dụng thiếu sáng suốt đó là chánh quyền đã vô hình kéo trở về
chánh trường, một số Quân Nhân còn nhiều đầu óc phong kiến, mà trong 8 năm trời,
khó khăn lắm mới tạo cho họ được một truyền thống quân sự mong manh: Tuân theo
mệnh lệnh và thi hành mệnh lệnh của uy quyền chính trị?
Như thế chính quyền đã mở đường cho mọi tham vọng và mưu đồ
chính trị của một số người mang nhiều bất mãn cá nhân với chính quyền một số
người tư tưởng nghèo nàn, ý thức thấp và lương tâm mong manh.
Hơn nữa chính quyền còn tạo cho họ cơ hội “đoàn kết chống lại
chính quyền”, khi dồn họ vào chỗ cùng mang một mặc cảm tội lỗi (ký kiến nghị) một
cơ hội đoàn kết mà thực sự, tự họ, vì những mâu thuẫn tranh chấp cá nhân, họ
không tài nào tạo ra được mà có nhẽ họ cũng không dám hi vọng bao giờ có thể
có.
Việc đến đã phải đến, họ đã lật đổ chánh quyền Ngô Đình Diệm.
Biến cố ấy, trên lý thuyết, có thể có hại cho Việt Nam Cộng Hòa, lợi cho cộng sản,
mà ngược lại cũng có thể hại cho cộng sản và rất lợi cho tiền đồ Việt Nam nói
chung, và chiến lược chống cộng sản nói riêng, tùy theo sự sáng suốt hay ấu trĩ
của lớp người lãnh đạo mới. Thực tế đã trả lời chúng ta từ ngày 1.11.63 cho đến
hết thời với Nội Các Chiến Tranh Nguyễn Cao Kỳ.
CHƯƠNG IX
DIỄN TIẾN CỦA MỘT CUỘC BINH BIẾN
BA PHIÊN HỌP LỊCH SỬ
Kể từ phiên họp lịch sử tại Câu Lạc Bộ Bộ Tổng Tham Mưu vào
ngày 20.8, Tướng lãnh đã chính thức nhảy vào cuộc. Cũng từ đó, Ông Nhu chấp nhận
đề nghị của Tướng Đôn để cho các Tướng lãnh hội họp hàng tuần để thảo luận và
trao đổi ý kiến về các vấn đề quân sự. Đó cũng là cơ hội vàng son giúp cho các
Tướng có cơ hội ngồi gần nhau mà trước đó họ hoàn toàn phân hóa. Mỗi ông Tướng
là một ốc đảo biệt lập, không những không thuận nhau mà còn kính chống nhau vì
quyền lợi và địa vị. Bây giờ thì ít nhất mỗi tuần các Tướng đều có lý do hội họp
mà không ai nghi ngờ gì cả. Đại Sứ Catbot Lodge vẫn bí mật liên lạc với một số
Tướng lãnh không qua ngả CIA mà do một số Tướng Tá Cố Vấn Mỹ. Đại Sứ Catbot
Lodge trong cuộc gặp gỡ riêng với Ông Nhu vào đầu tháng 9 tại Đà Lạt đã đưa ra
2 đề nghị:
1- Yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tổng cải tổ và tiến
dần lên một cơ chế dân chủ rộng rãi như nền dân chủ tự do của Mỹ.
2- Điều cấp thiết là chính quyền Ngô Đình Diệm phải cải tổ
chính phủ có nghĩa là phải mở rộng chính phủ để các Nhân Sĩ quốc gia đối lập
tham chánh. Trước 2 đề nghị đó.
Ông Nhu trả lời ông Lodge về đề nghị một Việt Nam Cộng Hòa
đang có chiến tranh cách mạng của cộng sản và Việt Nam hiểu rõ chiến lược chiến
tranh cách mạng của cộng sản hơn bất cứ một quốc gia Tây Phương nào. Để đối phó
với cuộc chiến tranh đó, Việt Nam Cộng Hòa không thể thực thi một nền dân chủ
theo kiểu Mỹ. Nhưng theo Ông Nhu, Việt Nam Cộng Hòa đang thực thi dân chủ từ hạ
tầng thôn ấp qua tổ chức Ấp Chiến Lược. Truyền thống xã hội Việt Nam và thực tại
Miền Nam không thích hợp với dân chủ ở Mỹ và dân chủ ở xứ này phải hạ tầng đi
lên chứ không thể chỉ có những cơ chế dân chủ kiểu Mỹ ở thượng tầng. Đề nghị 2:
Ông Nhu phúc đáp rằng: Tổng Thống Diệm đang cứu xét. Tòa Án Quân Sự tha bổng 29
Nhân Sĩ thuộc nhóm Caravelle ngày 13.7.63 là một thiện chí chứng tỏ chính phủ
muốn dung hợp đối lập hợp pháp.
Đại Sứ Catbot Lodge lại khuyến cáo: Vì chiến tranh mỗi lúc một
gia tăng, an ninh mỗi ngày một thêm xáo trộn và để đẩy mạnh nỗ lực chiến tranh,
ông yêu cầu chính phủ Ngô Đình Diệm giành 3 bộ là Nội Vụ, Quốc Phòng, Công Dân
Vụ cho 3 Tướng lãnh. Những điều Catbot Lodge khuyên cáo chỉ một ngày sau đã lọt
vào tai một số Tướng lãnh. Chính viên Phó Giám Đốc CIA Smith đã kín đáo tung
tin này để thăm dò phản ứng các giới chính quyền cũng như đối lập.
Trung tuần tháng 9, giới thân cận Dinh Gia Long xì xầm to nhỏ
về nguồn tin Tướng Trần Văn Đôn sẽ nắm Bộ Quốc Phòng. Tướng Tôn Thất Đính nắm Bộ
Nội Vụ và Tướng Trần Tử Oai nắm Bộ Công Dân Vụ (Bộ này sẽ cải danh) Riêng Tướng
Nguyễn Ngọc Lễ sẽ được thăng Đại Tướng nắm quyền Tổng Tham Mưu. Đây chỉ là dư
luận và do chính Tòa Đại Sứ thả trái Ballon để thăm dò nhưng Tướng Lễ và Quân Ủy
Đảng Cần Lao (Do Tướng Đính làm Chủ Tịch) lại tin là thực. Không hiểu Tướng Lễ
có khoe với ai không thì không rõ nhưng ông Lễ bị Tổng Thống gọi vào Dinh rầy
la: “Anh nói cái gì nghe lạ rứa. Ai biểu cho anh làm Tham Mưu Trưởng” Tướng
Lễ bị cụt hứng.
Đại Sứ Catbot Lodge đánh mạng vào tham vọng chính trị của một
số Tướng lãnh và gián tiếp cho các Tướng biết rằng: Hoa Kỳ hoàn toàn ủng hộ một
cuộc cải tổ như vậy. Do đó, sau nhiều lần hội họp một số Tướng lãnh bị mê hoặc
vì ba cái ghế Quốc Phòng-Nội Vụ-Công Dân Vụ.
Tương kế tựu kế, Ông Nhu gián tiếp cho các Tướng Đôn Đính biết
rằng, Tổng Thống Diệm muốn trao trọng trách cho “các toa” (Tướng
lãnh) nắm giữ ba bộ quan trọng trong chính phủ. Một lần Ông Nhu nói với Tướng
Đính: “Mấy Bộ Trưởng Dân Sự chỉ ăn hại mập xác chẳng làm được cái trò trống
gì. Lúc này các toa phải giúp moa dẹp bớt mấy thằng ăn hại”. Lộng giả thành
chân, mấy Tướng lãnh lại tin là sự thực mà sự thực Ông Nhu cũng trình bày với Tổng
Thống Diệm “Đính hay Lương giữ Bộ Nội Vụ thì cũng thế ăn thua là ở mình” Nhưng
Tổng Thống Diệm lại cương quyết không đồng ý vì ông cho rằng “Bộ Trưởng
chi...Bộ Trưởng thì phải có văn tự dân nó mới nghe, nó mới phục”.
Sau một phiên họp quan trọng đầu tháng 8, Hội Đồng Tướng Lãnh
đã gửi lên Tổng Thống Diệm một kiến nghị mệnh danh “Phiếu đệ trình Tổng Thống
Việt Nam Cộng Hòa-Tối Mật” ngày 3.9.1963 với một số đề nghị cải cách chính
trị của chế độ qua 3 đề nghị:
1.- Đòi hỏi một sự hy sinh nhỏ của gia đình Tổng Thống. Xin Tổng
Thống gởi ông Bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu ra ngoại quốc hoặc vì lý do công vụ
(nghiên cứu tình hình Việt Nam). Sau đó vấn đề trở về sẽ do tình hình chính trị
định đoạt.
2.- Xin thả ngay Sư Sãi Tăng Ni Sinh Viên Học Sinh do các lực
lượng Cảnh Sát Chiến Đấu và Lực Lượng Đặc Biệt bắt giữ vì xét thấy tình hình trở
lại yên tĩnh sau khi đã loại trừ các phần tử cộng sản.
3.- Cho tự do tín ngưỡng: Tuyên bố và thực thi các điểm yêu cầu
của Phật Giáo bằng hành động. Cấm chỉ mọi bắt bớ giam cầm. Thực thi khoan hồng
toàn diện vô điều kiện với đoàn thể chánh trị, tôn giáo sinh viên, học sinh
tranh đấu Phật Giáo.
Điều lạ là phiếu đệ trình tối mật này lại đặt ngay trên bàn
Ông Nhu. Ông Nhu tỏ vẻ hài lòng chiến thuật giai đoạn đầu đã có kết quả tốt đẹp.
Một cách gián tiếp Ông Nhu đã thúc đẩy một số Tướng lãnh theo ông hoàn thành
văn bản “phiếu đệ trình tối mật” này với mục đích:
1.- Làm một cú trắc nghiệm thăm dò thái độ của một số Tướng
lãnh mà ông nghi ngờ có thể đứng lên đảo chánh.
2.- Làm một “cú” xả hơi để giải tỏa những bất mãn dồn
nén trong một số Tướng lãnh.
3.- Làm một “cú” thăm dò phản ứng của Đại Sứ Catbot Lodge.
Kể từ ngày “phiếu đệ trình tối mật” gửi lên Tổng Thống
Diệm, các Tướng Đôn, Đính, Oai, Khánh thường xuyên tiếp xúc với Ông Nhu và
chính các Tướng này trở thánh hậu thuẫn cho Ông Nhu và Ông Nhu sử dụng phiếu đệ
trình tối mật như một áp lực tinh thần để thỉnh cầu ông anh Tổng Thống chấp thuận
một số cải tổ quan trọng mà ông đã đề nghị trên căn bản của chánh sách Ấp Chiến
Lược.
Đại Sứ Catbot Lodge bằng cách này hay cách khác thúc đẩy các
Tướng lãnh Việt Nam đòi hỏi Tổng Thống Diệm phải thực hiện ngay phiếu đệ trình
tối mật và có nghĩa chính phủ phải trao cho Tướng Đôn Bộ Quốc Phòng và Tướng
Đính Bộ Nội Vụ. Tướng Đính cũng như Đôn trong các lần tiếp xúc với Ông Nhu vào
cuối tháng 9 đều nhắc khéo Ông Nhu về mấy điểm yêu cầu kể trên. Tổng Thống Diệm
do dự không quyết định. Cũng từ đầu tháng 9, Ông Nhu bắt đầu nghi ngờ Bộ Trưởng
Nguyễn Đình Thuần vì cho rằng ông Thuần thân Mỹ và trở thành con bài của Mac
Namara để thực hiện chánh sách mới của Mỹ tại Việt Nam.
Ngày 10.9, Bà Nhu cùng phái đoàn Quốc Hội lên đường xuất ngoại
để gọi là “giải độc” về vụ Phật Giáo. Cũng thời gian này, Bác Sĩ Trần Kim
Tuyến, nguyên Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị được cử qua Ai Cập nhận chức vụ
Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại đây. Nhưng khi đến Le Caire thì gặp trắc trở vì Ai
Cập đã công nhận Đại Diện Bắc Việt và Việt Nam Cộng Hòa từ chối không thiết lập
bang giao trên cấp bậc Tổng Lãnh Sự.
Do đó Bác Sĩ Tuyến trở về Hồng Kông. Gia đình ông ở Sài Gòn bị
nhóm Trần Văn Khiêm (em ruột Bà Nhu) gây khó dễ và hăm dọa ném lựu đạn ám hại vợ
con ông. Cuối tháng 10 Cơ Quan Tình Báo Trung Ương nhận được một tài liệu tối mật
của Mặt Trận Giải Phóng Miềm Nam, tài liệu này thu lượm được ở Cà Mau. Trong
đó, đầu não của Mặt Trận Giải Phóng Miềm Nam đã phân tích và điều nghiên nội
tình chế độ Ngô Đình Diệm nhất là sự ra đi của Bác Sĩ Tuyến người nắm tất cả
các đầu giây thuộc hệ thống Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Bác Sĩ Tuyến rời khỏi cơ sở
này từ tháng 2 năm 1963 nhưng ở ngoài không một ai hay biết kể cả Tướng lãnh Bộ
Trưởng ngoại trừ môt số người thân tín. Qua tài liệu của Mặt Trận Giải Phóng Miềm
Nam kể trên, cộng sản đã điều nghiên tình hình và sửa soạn phải làm gì và ta
làm như thế nào khi Sài Gòn có đảo chánh.
Chiều ngày 5.10.1963 Ông Nhu vào tận Bộ Tổng Tham Mưu để tham
dự Hội Đồng Tướng Lãnh. Dịp này Ông Nhu đề cập đến vai trò quan trọng của Ấp
Chiến Lược và Quân Đội là một khả năng hữu hiệu nhất để hoàn thành vai trò của Ấp
Chiến Lược. Ông Nhu cũng “tâm sự” với Tướng lãnh là hiện thời Tổng Thống
Diệm đang bị một số Bộ Trưởng thối nát bao vây làm cản trở công trình phát triển
Ấp Chiến lược. Ông Nhu nói giọng nửa đùa nửa thực: “Như rứa thì làm được chi.
Các Toa phải đảo chánh chơi một đêm cho mấy tay ăn hại mập xác đó cho nó sợ”
Tuy nhiên, theo Tướng Huỳnh Văn Cao thì Ông Nhu đã gằn giọng
nói: “nếu Tướng nào muốn đảo chánh chế độ này thì quân đội phải bắt treo cổ ông
ấy lên” Dịp này, Ông Nhu đã công khai tiết lộ cho Hội Đồng Tướng Lãnh biết
là một số đại diện cao cấp của chính quyền Bắc Việt vào Sài Gòn và yêu cầu gặp
riêng Ông Nhu để nói chuyện.
TỪ BRAVO I ĐẾN BRAVO II
Sau khi tham dự Hội Đồng Tướng Lãnh Tướng Nguyễn Khánh vào gặp
riêng Ông Nhu cùng một nhân vật thân tín nắm Ngành Tình Báo. Tướng Khánh cho biết:
Đang có một số Tướng Tá âm mưu đảo chánh Tướng Khánh lưu ý Đại Tá Tung phải hết
sức coi chừng Tướng Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn và Trần Tử Oai. Ông Nhu chỉ thị
cho Tướng Khánh, nếu bất cứ Tướng nào móc nối thì cứ nhảy vô. Đó cũng là điều
mà Ông Nhu căn dặn Tướng Đính.
Trung tuần tháng 10 tại Đà Lạt, Ông Nhu cùng Tướng Khánh và một
số cộng sự viên thân tín cùng hoạch định một kế hoạch chống đảo chánh. Theo kế
hoạch này, nếu Sài Gòn có đảo chánh, Tướng Đính bị cô lập thì Quân Đoàn II với
Sư Đoàn 23 do Đại Tá Lê Quang Trọng làm Tư Lệnh và Sư Đoàn 22 do Đại Tá Nguyễn
Bảo Trị sẽ là thành phần chủ lực, cắt đứt liên lạc giữa Cao Nguyên và Sài Gòn.
Tổng Thống Diệm sẽ ẩn ở một nơi nào kín đáo ở Sài Gòn. Ông Nhu sẽ theo lộ trình
hoạch định sẵn tìm lên Cao Nguyên. Sau đó, Quân Đoàn II sẽ phản công, phối hợp
với Quân Đoàn IV trở về giải phóng Thủ Đô.
Riêng tại Sài Gòn, Ông Nhu trao cho Tướng Đính được toàn quyền
hành động. Tướng Đính đệ trình kế hoạch hành động chống đảo chánh được thực hiện
theo ý Ông Nhu. Đây là kế hoạch phá tan âm mưu đảo chánh và thực hiện một cuộc
đảo chánh giả mệnh Bravo I. Lực lượng gồm có 3000 quân, 40 thiết giáp, 6 Đại Đội
Lực Lượng Đặc Biệt. Tướng Đính chính thức điều động lực lượng này kể từ sáng
31.10.1963, dưới quyền là Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi và Đại Tá Lê Quang Tung. Về
Thiết Giáp có Trung Tá Nguyễn Văn Thiện.
Ngày 23.10 tại phòng khách Dinh Gia Long, có Đại Úy Minh, Đại
Úy Hoàn, Đai Úy Bằng, Tướng Đính với vẻ lo âu nói với số anh em này: “Nếu có đảo
chánh thì Ba Đính này phải nhảy vô không thì Mai Hữu Xuân nó giết hết anh em bọn
mình”.
Nhưng thay vì thực hiện cuộc hành quân chống đảo chánh, Tướng
Đính đảo chánh luôn và cuộc hành quân này lại mệnh danh Bravo II thay cho Bravo
I.
NGÀY N VÀ GIỜ G
Ngày 1.11.1963 nhằm phiên trực của Trung Sĩ Thái. Không khí Bộ
Tổng Tham Mưu ngay từ sáng sớm đã có vẻ bất thường. Một số sĩ quan nói nhỏ với
anh, sắp có chuyện nghe. Lực lượng bố phòng tại Bộ Tổng Tham Mưu không quá một
Đại Đội và hầu hết là lính văn phòng. Khoảng 10 giờ ông Thái để ý thấy một số
binh sĩ thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung về tăng cường. Rồi xe jeep nườm
nượp đi về phía tiền đình. Một điều lạ đối với Trung Sĩ Thái là Đại Úy Nguyễn
Văn Chuân ra khẩu lệnh: Các sĩ quan chỉ được vào mà không được ra kể cả Tướng
lãnh. Gặp người tài xế của Đại Tá Lê Quang Tung, Thái hỏi nhỏ: “mấy trự
hôm nay họp hành cái gì mà quan trọng vậy” Người tài xế nháy nháy cặp mắt
ra vẻ bí mật rồi rồi nói nhỏ với Thái: Coi bộ không êm mấy ông Tướng muốn
làm tới ta, khoảng 11 giờ, vị sĩ quan trực thuộc Phòng 4 đi tới cùng với Đại Tá
Chuân ra tận ngoài cửa rồi gọi Thái dặn dò. Bất cứ một xe nào vượt qua phải ra
lệnh tốp lại nếu cưỡng ra lệnh bắn bỏ kể cả xe Tướng. Cùng giờ đó, một đoàn 4
chiếc thiết giáp đi qua cửa chính Bộ Tổng Tham Mưu lên thẳng Tân Sơn Nhất rồi
quay trở lại án ngữ phía cây săng bên kia Đường Võ Tánh Bộ Tổng Tham Mưu. Khoảng
nửa giờ, bốn chiếc xe thiết giáp lại chuyển bánh trực chỉ Phú Nhuận.
Khoảng 12 giờ, viên tài xế của Đại Tá Tung tìm đến Thái, nói
nhỏ: “Cậu giúp tớ việc này nếu xong sẽ có công lớn”. Nhìn quanh không thấy
ai, viên tài xế nói: “Đây số điện thoại đây cậu gọi dùm tớ Trung Tá Huỳnh
hay Thiếu Tá Triệu cũng được hoặc sỹ quan trực của Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt
cũng được. Cậu cấp báo cho họ biết Đại Tá Tung mắc kẹt ở đây rồi” Trung Sĩ
Thái thắc mắc: “Kẹt là kẹt thế nào ?” Viên tài xế nói: “Kẹt là kẹt chứ
còn kẹt gì nữa...mấy cha đang tính chuyện gì đó”. Trung Sĩ Thái tìm cách
liên lạc với Thiếu Tá Lê Quang Triệu, em ruột Đại Tá Tung và là Tham Mưu Trưởng
Lực Lượng Đặc Biệt.
Cũng vào thời khắc đó, Hội Đồng Tướng Lãnh nhóm họp. Đại Tá
Nguyễn Văn Chuân được chỉ định phụ trách an ninh tổng quát trong vòng thành Bộ
Tổng Tham Mưu. Mở đầu buổi họp, Trung Tướng Dương Văn Minh với vẻ mặt giao động
nhưng cương quyết lên tiếng tuyên bố lý do buổi họp nghĩa là giờ hành động đã đến...Kế
hoạch đảo chánh nhằm vào ngày N (1.11) và giờ G (13 giờ) đã thực sự mở màn.
Trung Tướng Minh dứt lời, phòng họp yên lặng như tờ, thứ yên lặng nghẹt thở. Từng
khuôn mặt Tướng Tá đổi mầu. Những nụ cười tắt hẳn trên môi. Mọi người đều ngỡ
ngàng. Một số Tướng Tá trong cuộc ghé tai nhau xầm xì to nhỏ.
Tướng Minh cũng lên tiếng kêu gọi tình chiến hữu nơi các Tướng
Tá và mọi người vì quyền lợi chung đối với Đất Nước này hãy gạt bỏ tình cảm
riêng tư để cùng nhau đoàn kết lật đổ chế dộ hữu hiệu. Ông cũng nhấn mạnh nếu
chiến hữu nào chống lại, Hội Đồng Tướng Lãnh phải tạm thời cô lập ngay.
Đại Tá Lê Quang Tung đứng lên phản đối mưu đồ của Hội Đồng Tướng
Lãnh và ông cương quyết chống lại mưu đồ đó. Tướng Dương Văn Minh gõ tay vào
bàn rồi một cái lừ mắt của Tướng Kim, Đại Tá Tung liền bị Đại Úy Nhung và hai
nhân viên an ninh mời ra khỏi phòng họp. Ông Tung bị Nhung dẫn ra khỏi tòa nhà
lớn Bộ Tổng Tham Mưu. Đến lượt Đại Tá Huỳnh Hữu Hiển, Tư Lệnh Không Quân phát
biểu ý kiến. Ông cho biết ông luôn trung thành với chế độ Ngô Đình Diệm vì theo
ông, Tổng Thống Ngô Đình Diệm do dân cử và chính phủ Diệm hợp pháp hợp hiến,
ông chống lại việc lật đổ chính phủ. Tức thì, Đại Tá Hiển bị nhân viên an ninh
mời ra khỏi phòng họp và tạm giam trong phòng “cô lập các sĩ quan chống đối”.
Sau đó, Đại Tá Hiển cùng ông Trần Văn Tư Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành bị Thiếu
Tá Thiệt (Quân Cảnh) giải vào Khám Chí Hòa. Riêng cuộc thuyết phục Đại Tá Cao
Văn Viên là gay hơn cả kéo dài cả nửa giờ song Đại Tá Viên không lay chuyển
(Viên Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù) đã trả lời Tướng Minh đại cương, là một sĩ quan,
ông không muốn dính líu đến chính trị hơn nữa ông chưa nhận được lệnh của Thượng
cấp nên đứng ngoài vụ này. Ông cũng lưu ý ông không chống lại Hội Đồng Tướng
Lãnh nhưng theo đảo chánh thì ông không theo. Tức khắc, Tướng Minh ra lệnh cho
Đại Úy Nhung giải Đại Tá Viên ra khỏi phòng họp và cô lập ngay.
Buổi họp bế mạc 1g30, tiếng súng nổ sau phía Tổng Nha Cảnh
Sát Quốc Gia từ giờ phút đó. Trung Tướng Trần Văn Đôn trở thành nhân vật chủ động
số một. Đường giây điện thoại giữa Tướng Đôn và Đính hoạt động không ngừng. Từng
phút từng giây...tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Tướng Đính thực hiện toàn bộ kế
hoạch hành quân đảo chánh mang tên Bravo II.
Thời khắc này, Bộ Tổng Tham Mưu qui tụ đầy đủ các Tướng lãnh
và một số sĩ quan cao cấp nhưng lực lượng bảo vệ vẫn không hơn một Đại Đội với
sự tăng cường một đơn vị tân binh của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Thiếu Úy Chỉnh thuộc Bộ Tư Lệnh Đặc Biệt được tin Đại Tá Tung
bị bắt giam nên tức tốc kéo một đại đội đến cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu rồi dàn
quân bố trí.
Với một lực lượng thiện chiến như vậy nếu tràn vào Bộ Tổng
Tham Mưu và tốc chiến tốc thắng thì lực lượng phòng vệ ở đây không thể đương đầu
nổi. Đại Tá Chuân được cấp báo đến nơi để dàn xếp. Thiếu Úy Chỉnh cho biết, ông
đến đây để kiếm Đại Tá Tung đang bị giam giữ. Đại Tá Chuân dùng lời ngon ngọt dụ
dỗ...Rồi bất thần viên Thiếu Úy này bị đoạt súng... Đại Đội Lực Lượng bộ binh bố
trí phía ngoài định khai hỏa làm dữ nhưng nhờ lời nói ngọt ngào của Đại Tá
Chuân, Viên Thiếu Úy rút lui êm đẹp. Sau đó, Đại Đội lên xe trở về căn cứ 77.
Một lát sau, Thiếu Tá Lê Quang Triệu (em ruột Đại Tá Tung)
Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, được tin cấp báo đã cùng một Trung Đội võ
trang đến Bộ Tổng Tham Mưu xem sự thể ra sao hầu có thể giải cứu được Đại Tá
Tung. Nhưng khi đoàn tùy tùng của Thiếu Tá Triệu lọt vào vào cửa chính Bộ Tổng
Tham Mưu thì bị giải giới toàn bộ. Thiếu Tá Triệu quay xe định vọt, tìm đường tẩu
thoát. Xe ông bị bắn nổ lốp sau. Nhờ một sĩ quan thân thiết, Thiếu Tá Triệu trốn
thoát.
13 giờ hơn, từng loạt súng nổ chát chúa ở phía Bộ Tư Lệnh Lực
Lượng Đặc Biệt (trong vòng thành Bộ Tổng Tham Mưu). Đó là loạt súng đầu tiên của
đơn vị truyền tin do Đại Úy Đỗ Luận chỉ huy tiến chiếm Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc
Biệt. Nhưng không đổ máu nhờ cuộc dàn xếp qua điện đàm giữa Đại Tá Chuân và
Trung Tá Huỳnh (Tư Lệnh Phó Lực Lượng Đặc Biệt).
Kể từ phút đó, Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt bị giải giới. Cả
khu vực Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng Tham Mưu lọt vào tay phe đảo chánh.
Cuộc đảo chánh hụt ngày 11.11.1960, lực lượng đảo chánh (ngoại
trừ Đại Tá Thi) hầu hết do sĩ quan cấp Tá và Úy trực tiếp điều động chỉ huy.
Các sĩ quan này đều thuộc thành phần trẻ, trên dưới 30 tuổi và được coi là có
tư cách, can đảm và đầy nhiệt huyết. Trong phút đầu “ra quân” dù chỉ có mấy
Tiểu Đoàn Nhảy Dù, lực lượng đảo chánh cũng làm chủ tình hình và làm tê liệt lực
lượng phòng bố của Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Lực lượng đảo
chánh không sử dụng hỏa lực của Pháo Binh cũng không có lực lượng Thiết Giáp
nào tham dự.
Cuộc đảo chánh ngày 11.11.1963 lại hoàn toàn khác, phe đảo
chánh sửa soạn từ lâu có đầy đủ phương tiện lại được lãnh đạo bởi Hội Đồng Tướng
Lãnh.
Lực lượng của phe cách mạng gồm Bộ Binh, Pháo Binh, Thiết
Giáp, Công Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù và Không Quân. Tất cả đều thuộc cấp
đại đơn vị và các mục tiêu chính mà đơn vị này phải thanh toán là thành Cộng
Hòa và Dinh Gia Long.
Lực Lượng Phòng Vệ Thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long tuy nói là
một Lữ Đoàn song quân số không quá 800 người, gồm 6 Đại Đội Bộ Binh, 4 Chi Đội
Thiết Giáp. Sáu Đại Đội Bộ Binh kể cả đội Quân Nhạc cùng các binh sĩ tạp dịch,
lính văn phòng thì đã có 3 Đại Đội phận sự giữ Dinh Gia Long. Thành Cộng Hòa chỉ
còn 3 Đại Đội, trong đó có Đại Đội chỉ huy. Sĩ quan chỉ huy gồm 3 Thiếu Tá trên
dưới 30 tuổi và một số sĩ quan cấp Úy khác. Tất cả đều đặt dưới quyền chỉ huy của
Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ Tư Lệnh kiêm Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn, Thiếu Tá Nguyễn
Văn Hưởng, Tham Mưu Phó và Thiếu Tá Huỳnh Hữu Lạc Chỉ Huy Đoàn Cận Vệ đều ở
trên Dinh Gia Long.
Trung Úy Bảo Trưởng Phòng V, Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng
Thống và nhiều chứng nhân khác trong hàng Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ có mặt từ đầu
cho đến kết thúc đều cho rằng chuyện diễn ra bình thường không có gì gọi là ác
liệt. Nếu nói là ác liệt thì chỉ có pháo binh “tấn công” ác liệt nhất (pháo
binh thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh)
Ngày 1.11 là ngày nghỉ, Trung Úy Bảo đang ở nhà bỗng trong Lữ
Đoàn cho gọi vào gấp. Lúc ấy vào khoảng 9 giờ sáng. Nhân chứng được Trung Tá
Khôi Tư Lệnh Lữ Đoàn giao phó cho công tác soạn bài học tập và thuyết trình vào
lúc 2 giờ cùng ngày. Trong Lữ Đoàn đều có chương trình học tập vào mỗi buổi thứ
ba và thứ sáu. Nhân chứng được Trung Tá Khôi cho biết: “Chiều nay nếu 2 giờ tôi
đi họp chưa về thì anh cứ cho tập họp ở Hội Trường rồi mời Thiếu Tá Duệ xuống
làm chủ tọa”.
Lúc ấy Trung Tá Bảo ngồi ở ngoài nhìn vào phòng trông thấy
Trung Tá Khôi và Thiếu Tá Duệ đang to nhỏ bàn bạc với một vẻ khác lạ. Nhân chứng
tự nghĩ: “Chắc có chuyện gì quan trọng đây”. Tình hình Sài Gòn lúc ấy thật ngột
ngạt. Nay có tin đảo chánh mai có tin lật đổ Tổng Thống Diệm. Nhất là Đài VOA
luôn luôn có những bài bình luận và tin tức hoàn toàn bất lợi cho chính quyền
Ngô Đình Diệm và càng làm tăng không khí giao động bất trắc vốn âm ỉ trong lòng
Thủ Đô Sài Gòn.
Sau khi soạn xong các tài liệu học tập, Trung Úy Bảo xách
radio ra hành lanh nhìn trời vu vơ không hiểu mai đây tình hình biến chuyển như
thế nào. Đã có bao nhiêu dấu hiệu báo trước cơn giông bão sắp bùng dậy. Nhưng
bao giờ, như thế nào, sẽ tàn phá ra sao và làm sụp đổ những gì ?
Một số sĩ quan trẻ trong Lữ Đoàn thuộc thành phần thân cận của
Tổng Thống Diệm và Ông Nhu cũng cảm thấy sự ngột ngạt bất trắc nào đó. Vị Tư Lệnh
và Tư Lệnh Phó của họ mấy tháng gần đây lo lắng trông thấy và nhiều đêm mất ngủ
cho nên họ cũng phập phồng hoang mang.
Ngày 27.10, Dại Úy Hoàn tháp tùng Tổng Thống Diệm lên Đà Lạt
cùng đi có vợ chồng ông Đại Sứ Cabot Lodge và Đại Tá Lu Conein.
Nhân chứng đi theo sau ông Lodge, ông ta đội chiếc nón lá Việt
Nam, Tổng Thống Diệm vận complet mầu nâu nhạt, cầm can, đi trước ông Lodge đến
thăm một Ấp Chiến Lược kiên cố.
Dịp này Tổng Thống Diệm đã tặng Đại Tá Lu Conein chiếc gậy do
một nông dân trong ấy tặng Tổng Thống. Tối hôm đó Tổng Thống thết cơm vợ chồng
ông Lodge tại Dinh ở Đà Lạt. Trong cùng thời khắc, Đại Úy Hoàn nghe Đài VOA vẫn
một luận điệu công kích kịch liệt chế độ Ngô Đình Diệm.
Nhân chứng hồi tưởng lại cách đó không bao lâu, trong chuyến
kinh lý tại Cam Ranh, trước mặt Tướng Khánh và một số viên chức cao cấp, Tổng
Thống Diệm chỉ vùng núi non và bãi biển Cam Ranh rồi nói với mọi người (trong
đó có Thiếu Tướng Khánh, Trung Tá Nguyễn Viết Khánh Tỉnh Trưởng Phan Rang): “Mỹ
nó thích căn cứ này lắm, nhưng tôi không chịu”. Lời nói ấy cứ mỗi ngày vang động
trong ký ức nhân chứng và tạo nên bao nhiêu nghi vấn.
Dạo này, nhân chứng quan sát thấy Tổng Thống Diệm có vẻ hốc
hác, đăm chiêu và càng khắc khổ. Thường lệ, Ông Diệm đi ngủ lúc 1 giờ đêm và 5
giờ sáng đã dậy. Nhưng từ đầu năm 1963 có nhiều đêm nhân chứng thấy Tổng Thống
Diệm trằn trọc thức gần trắng đêm. Ông hút thuốc liên miên.
Nhân chứng nhớ lại, vào cuối tháng 7.1963 nhân chứng đã được
tai nghe mắt thấy Tổng Thống Diệm lẩm bẩm nói chuyện một mình. Ông Diệm nhiều lần
độc thoại như vậy nhưng lần này thì khác, khiến nhân chứng càng thêm xao xuyến.
GIẤC MƠ TRỞ VỀ
Lần ấy, vào khoảng 2 giờ đêm, nhân chứng đang thiu thiu ngủ
(vì Đại Úy Hoàn phải trực đêm) bỗng viên cận vệ chạy vào phòng gọi: “Thưa Đại
Úy Tổng Thống đi...” Vì ở trong Dinh đã lâu năm nên nhân chứng không lấy
gì làm ngạc nhiên. Lâu lâu, Tổng Thống Diệm lại làm một chuyến du ngoạn trong
đêm như vậy.
Vẫn theo thường lệ Đại Úy Hoàn đi dép mặc quần jean, áo bỏ
ngoài quần. Nhân chứng dắt khẩu rouleau vào lưng... rồi theo sau Tổng Thống Diệm
cùng với viên cận vệ (có phận sự ngồi gác ở phòng riêng của Tổng Thống)... Lâu
nay Tổng Thống Diệm không đi đâu xa. Ông ra đứng trước bao lơn Dinh Gia Long,
nhân chứng và viên cận vệ đứng sau lưng Tổng Thống chừng vài ba bước. Đó là
thông lệ của Sĩ Quan Tùy Viên và cận vệ của một Tổng Thống trong thời buổi lộn
xộn. Như mọi lần, Tổng Thống Diệm xuống vườn xem cây cối và hoa hoặc đi thơ thẩn
ngắm cảnh thiên nhiên. Nhưng lần này lại không như vậy, Tổng Thống Diệm chỉ đứng
ngước mắt nhìn trời mây, Ông đứng như chôn chân trên thềm bao lơn. Ông đứng lâu
chưa từng thấy. Nhân chứng lấy làm lạ vì: “Tổng Thống đứng như vậy đến 40 phút
và ông chỉ nhìn trời rồi miệng lẩm bẩm”. Nhân chứng và viên Cận Vệ càng phải đứng
im phăng phắc không dám gây một tiếng động nào. Nhưng nhân chứng nghe câu được
câu chăng. Nhân chứng cũng chả quan tâm vì 5 năm sống cạnh Tổng Thống Diệm,
nhân chứng đã quá quen thuộc với nếp sống riêng tư của Tổng Thống. Nhưng có câu
này Tổng Thống Diệm nói khá lớn, cả nhân chứng và Cận Vệ đều nghe rõ. Câu nói
được ghi lại như sau: “Thôi, sang năm thì mình xin về, mệt quá rồi...mình xin về
phụng dưỡng bà cố. Nhưng muốn xin về Ông Nhu lại cứ bắt mình phải làm”.
Câu nói trên đây được Tổng Thống Diệm nhắc đi nhắc lại rồi
ông lại lẩm bẩm, mắt nhìn trời xa xăm.
Rồi khi quay lại phía sau lưng, Tổng Thống Diệm giật mình
tròn mắt nhìn Sĩ Quan Tùy Viên và viên Cận Vệ. Ông có vẻ kinh ngạc trước sự hiện
diện của hai người thân cận. Nhưng không nói gì, rồi lặng lẽ về phòng riêng. Đại
Úy Đỗ Thọ cũng bắt gặp một lần Tổng Thống Diệm độc thoại tương tự như vậy vào một
đêm tháng 7.
BẮT ĐẦU NỔ SÚNG
Hồi tưởng lại như vậy rồi qua dư luận qua Đài VOA, Tùy Viên
Lê Công Hoàn linh cảm thấy một cơn giông bão nào đó sắp bùng lên.
Cơn giông bão đó đã đến. Khoảng 1 giờ 15 trưa ngày 1.11, Thượng
Sĩ Thám đang sửa soạn lên giường ngủ, nhắm mắt cho qua ít phút. Bỗng Thiếu Tá
Duệ nói lớn: “Quan sát lại xem thế nào?” Theo phản ứng tự nhiên, nhân chứng
vùng dậy chạy ra hành lang.
Thành Cộng Hòa vẫn im lìm trong buổi trưa nắng gắt. Lúc ấy
Thiếu Tá Duệ vẫn còn mặc may ô, chân đi dép. Ông đang đứng trước cửa phòng
riêng của ông (sau này trở thành trụ sở Wud thuộc Khu Đại Học Cường Để) chỉ một
lát sau, Thượng Sĩ Thám thấy một sĩ quan từ lầu trên chạy xuống báo cáo với Thiếu
Tá Duệ: “Từ phía Ngã Tư Đinh Tiên Hoàng, Phan Đình Phùng (Dakao) tôi thấy lố nhố
chúng đang đi lom khom tiến theo vỉa hè...Có đứa thì nằm súng chỉa về
thành”. Viên sĩ quan xác nhận: “đây là lính Thủy Quân Lục Chiến” Thiếu
Tá Duệ nhún vai “làm gì có chuyện lạ” Ông trở vào phòng mặc vội quần áo rồi đặt
khẩu Ruouleau bên lưng. Từ lúc đó Trung Úy Bảo, Thượng Sĩ Thám luôn luôn có mặt
bên ông Duệ. Việc đầu tiên các nhân chứng thấy Thiếu Tá Duệ quan sát lại cho kỹ,
ông cũng nhận ra như vậy nghĩa là Thủy Quân Lục Chiến đang tiến về Thành Cộng
Hòa. Thiếu Tá Duệ nhăn trán, lắc đầu: “Chuyện lạ nhỉ. Giờ này làm gì có lính
tráng nào tập dượt”.
Hơn nữa khu vực này được coi là yếu khu số 1, không một lực
lượng nào được lai vãng đến đây mà không phải thông báo cho Lữ Đoàn biết trước.
Ông Duệ quay máy gọi Biệt Khu Thủ Đô. Phía bên đầu giây kia là Thiếu Tá Dụ. Thiếu
Tá Duệ hỏi: “Đằng Biệt Khu có lệnh cho đơn vị nào di chuyển ở Đặc Khu 1 không?” Đặc Khu 1 tức là vùng Dakao và thuộc phạm vi Thành Cộng Hòa. Thiếu Tá
Duệ lắc đầu nói với nhân chứng: “Lạ nhỉ, Biệt Khu Thủ Đô Thiếu Tá Dụ cũng không
hay biết gì cả”. Sau khi quan sát lại một lần nữa với nhiều dấu hiệu khả
nghi, Thiếu Tá Duệ ra lệnh báo động. Từ lúc ấy Thành Cộng Hòa thức giấc trong
cơn nôn nóng của buổi trưa. Sài Gòn nắng như thiêu. Tiếng còi vang lên khua động
doanh trại...Khoảng 15 phút sau, tất cả đều ở thế tác chiến. Quân Nhân ở Trại
Gia Binh kế cận cũng lần lượt trở vào thành gần đủ mặt. Những khẩu đại liên 30
nòng đen ngòm đều chĩa về phía Đinh Tiên Hoàng-Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tất cả đều
chuyển dịch.
Đằng xa Thủy Quân Lục Chiến vẫn lố nhố vào gốc cây hay tiến
bên vỉa hè và mỗi lúc càng di chuyển lại gần hơn.
Một sĩ quan bảo ông Duệ: “Mục tiêu ngon lành quá. Cứ thế
mà cho đại liên quạt thì đi đời hết cả bọn”. Một sĩ quan đứng chép miệng: “tụi
này sao ngu quá vậy, không biết thằng nào chỉ huy mà sao ngu quá ta!”.
Trong lúc đó Thiếu Tá Duệ cầm máy gọi về Dinh Gia Long.
Ông quay lại mỉm cười nói với mọi người: “lạ nhỉ trên đó
cũng không biết gì hơn”. Ông cho gọi Đại Úy Nuôi Trưởng Phòng III đến
trình diện. Và cùng ông xem xét tình hình. Từ phía xa, Thủy Quân Lục Chiến vẫn
theo đội binh hàng dọc đang tiến lên. Chẳng bao lâu toán tiền phương đã lô nhô ở
phía sau sân Hoa Lư. Có biến thật rồi.
Trong Thành tất cả chỉ còn chờ lệnh nẩy cò. Lính trong Thành
có đủ lợi điểm nhất. Chỉ cần 2 khẩu đại liên bắn chéo cánh sẻ thì toàn tiền
phương của Thủy Quân Lục Chiến sẽ gục hết ngay phút đầu. Trung Úy Bảo thấy anh
em Thủy Quân Lục Chiến vẫn đi khơi khơi như không có vẻ gì đi hành quân tác chiến
cả.
Ngay lúc ấy, Thiếu Tá Duệ ra lệnh cho một số sĩ quan chỉ huy
hai xe thiết giáp tiến ra bọc phía sau, ông nói: “anh bắt sống mấy thằng chỉ
huy mang về đây cho tôi”.
Giữa lúc ấy một Tiểu Đội Thủy Quân Lục Chiến vẫn tiến lại. Tiếng
loa trong Thành hô đứng lại...Toán lính này nằm rạp xuống rồi khom lưng, bò tiến
lên. Tiếng hô vang lên lần nữa rồi 1, 2, 3... môt loạt súng đại liên nổ chát
chúa. Ngay trong loạt súng đầu có 4 Thủy Quân Lục Chiến gục ngã. Đám còn lại chạy
dạt vào phía bên trong thành tường sân Hoa Lư.
GIỜ ĐÃ ĐIỂM
Rồi 1g30 ngày 1.11.1963 giờ phút quan trọng của lịch sử đã điểm.
Một loạt đại bác 105 nổ vàng rền và rất trúng mục tiêu. Có viên nổ giữa sân, có
viên nổ trúng một phía doanh trại. Tiếp theo là 4 chiến khu trục tới bắn hỏa tiễn.
Lúc ấy binh sĩ trong Thành Cộng Hòa bắt đầu cảm thấy thực sự
đang có biến động. Rồi lại từng loạt nữa...tiếng nổ chát chúa vang rền. Trong
Thành vẫn chưa có ai bị thương.
Từ lúc ấy Thiếu Tá Duệ mới xuống phòng chỉ huy để điều động.
Ông nói với các sĩ quan: “Có đảo chánh thật các cậu ạ...không hề gì...người nào
có nhiệm vụ nấy...” Ông ra lệnh cho Trung Úy Bảo theo chân hai thiết giáp
tiến ra khỏi Thành. Ông Bảo yêu cầu: “Thiếu Tá cho quạt vài ba tua nữa...bọn nó
đang lố nhố đầy ở sân Hoa Lư mục tiêu ngon quá đi”. Ông Duệ không cho khai hỏa
tiếp rồi bảo nhân chứng ra tìm cách thuyết phục và hỏi nguyên do xem sao! “Anh
em nhà cả mà!”
Nhân chứng đứng bên đây đường, vác loa gọi đại cương: “A
lô! A lô...Tôi Trung Úy Bảo đây nguyên Trưởng Phòng II Trường Võ Bị Quốc Gia Đà
Lạt đây”.
Nói như vậy vì ông biết chắc thế nào trong đám sĩ quan đó
cũng có chàng là bạn ông hoặc cựu Sinh Viên Trường Võ Bị Đà Lạt.
Ông Bảo lại lên tiếng một lần nữa: “A lô! Bảo đây xin
các anh đừng có dại dột, nghe theo ai, đừng có dại dột chết oan uổng cho một
mưu đồ nào”. Quả nhiên khi nhân chứng ngưng lời thì từ phía bên kia sau sân Hoa
Lư có một sĩ quan lên tiếng: “A lô... Trung Úy Bảo phải không? A lô thinh
đây” Rồi có tiếng nổ phía xa.
Có tiếng hô ngưng bắn, Trung Úy Bảo liền băng qua Đường Hồng
Thập Tự về đi về phía Thinh. Theo sau ông là một người lính. Nhân chứng đến gặp
Đại Úy Thinh Đại Đội Trưởng Thủy Quân Lục Chiến. Nhân chứng hỏi Thinh: “Các
anh được lệnh của ai về đây?” Đại Úy Thinh nói: “Tôi nghe Lữ Đoàn
Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống làm phản nên bọn này kéo quân về cứu ông Cụ”. Nhân
chứng lắc đầu cười: “Nhầm to rồi Thinh ơi... Làm gì có chuyện đó. Ai bảo với các
anh thế?” Thinh im lặng.
Lúc ấy có một Thủy Quân Lục Chiến chết 3 bị thương trong loạt
nổ thứ nhất của Lữ Đoàn. Trung Úy Bảo đề nghị với Thinh: “Cậu thấy không chung
quanh đây toàn là lực lượng của Lữ Đoàn hết. Chỉ cần mấy khẩu đại liên đặt trên
lầu kia quạt một lần các cậu sẽ đi đời hết. Thôi bây giờ bỏ khí giới hàng đi rồi
hạ hồi phân giải”.
Đại Úy Thinh không chịu và nói: “Hàng thì tôi không thể hàng
được. Cấp chỉ huy ra lệnh như thế nào thì làm như thế. Tuy vậy, bọn tôi có thể
giá súng ngồi chơi được không ?” Một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến khác phàn
nàn: “Bọn tôi hành quân ở Tây Ninh về thì được lệnh di chuyển về đây ngay.
Bọn này có biết mẹ gì đâu. Cấp trên bảo sao nghe vậy. Đang mệt thấy bà nội” Đại
Úy Thinh cương quyết chỉ giá súng mà không chịu hàng.
Hai bên đều đồng ý an binh bất động. Đại Đội Thủy Quân Lục
Chiến của Đại Úy Thinh rút sâu vào sân Hoa Lư và giá súng. Theo lệnh của Thiếu
Tá Duệ, Trung Úy Bảo mời Đại Úy Thinh vào gặp ông Duệ để hai bên cùng sáng tỏ đầu
đuôi câu chuyện. Đại Úy Thinh từ chối, ông viện lý do đơn vị không được phép bỏ
đơn vị đang ở tình trạng tác chiến. Tuy nhiên Đại Úy Thinh vẫn cử 2 sĩ quan đi
theo, một Thiếu Úy một Chuẩn Úy. Qua sự điều tra tại chỗ, được biết chỉ có hai
Đại Đội Thủy Quân Lục Chiến. Ngoài Đại Đội của Thinh, còn Đại Đội của Châu đang
dàn binh bố trận phía sau. Một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến nói với Trung Úy Bảo: “Chuyện
rắc rối thấy mẹ... bọn này vừa đi hành quân về mệt chết cha... Làm gì có đảo
chánh. Trung Tá Khang được Tổng Thống cưng nhất... có lẽ bọn tôi về đây để chống
đảo chánh”.
Từ phút đó, phía bên Thành Cộng Hòa cũng án binh để “chờ
xem”. Việc cấp thiết là phải tản thương. Trung Úy Bảo đề nghị với Đại Úy
Thinh tạm thời đưa 3 Thủy Quân Lục Chiến vào Bệnh Xá của Lữ Đoàn để cấp cứu
(trong đêm mùng một cả 3 thương binh đều chết vì trúng đạn 105 của quân cách mạng...trái
đạn rớt trúng Bệnh Xá).
MỜI CỤ XUỐNG HẦM
Tại Bộ Chỉ Huy của Lữ Đoàn, Thiếu Tá Duệ đang liên lạc với Bộ
Tổng Tham Mưu. Tiếng ông Duệ: “Tôi muốn gặp ngay Trung Tá Khôi...chú phải
tìm cho bằng được. Ông ấy đang ở phòng Hội...” Ông Duệ chờ mãi. Trên Dinh
Gia Long lại gọi xuống: “Hoàn đây... không có chuyện gì quan trọng chứ?”.
Ông Duệ trao máy cho một sĩ quan để liên lạc với Bộ Tổng Tham
Mưu rồi tiếp chuyện với Gia Long. Ông Duệ bảo Đại Úy Hoàn: “Mời Cụ xuống hầm gấp... Thiếu
Tá Hưởng có ở đấy không... Tại sao đến bây giờ mà chưa mời Cụ xuống hầm. Tại sao
Cụ lại không chịu... Phải nói rõ cho Cụ biết... Không có gì nguy nhưng phải đề
phòng...”.
Ông Duệ lại quay sang “tiếp chuyện” Tổng Tham Mưu. Phía đầu
giây bên kia là Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn. Lát sau ông Duệ
quay lại nói với mấy sĩ quan: “Trung Tá Khôi không về được. Bây giờ vẫn chưa họp.
Lạ thật. Trung Tá Khôi cho moa biết trên ấy hoàn toàn yên tĩnh”. Một lát
sau ông Duệ gọi lại lên Gia Long và được trả lời: “Mời Cụ xuống hầm nhưng không
thấy Cụ nói gì...Trên này hoàn toàn yên tĩnh... Thiếu Tá Lạc hiện đang có mặt
trong Dinh, có cả ông Bí Thư Trần Sử”.
Kế hoạch đảo chánh đã được hoàn tất trong vòng hơn một tuần lễ
mà đầu não vẫn là
Trung Tướng Trần Văn Đôn, Đại Tá Nguyễn Hữu Có lãnh nhiệm vụ
giao liên, tổ chức và móc nối. Với cương vị Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, phụ tá
cho Tướng Đính nên mọi sự giao tiếp và di chuyển của Đại Tá Có trong phạm vi
Quân Đoàn III đều được dễ dàng. Hơn nữa, Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội thì đã
theo phe đảo chính rồi nên vấn đề tổ chức càng thêm dễ dàng và bảo mật đến mức
độ tối đa. Theo tiết lộ của Trung Tướng Nguyễn Hữu Có trên Nhật Báo Công Luận số
đặc biệt cách mạng 1.11.1970 thì ngày 15.10.1963 ông đã hỏi thẳng Trung Tướng
Dương Văn Minh về kế hoạch đảo chánh và xin chỉ thị thì Trung Tướng Minh trả lời: “Anh
có quân, có tổ chức thì nắm cho được các đơn vị đó đi”. Vẫn theo Trung Tướng Có
vì biết ông chống Tổng Thống Diệm từ lâu nên khi đến thăm Tướng Đính, Tướng
Đính đã bất ngờ hỏi: “Toa chịu thề với moa không? Hễ moa chết thì toa phải
chết theo, còn toa có chết thì moa cũng chết theo” Khởi điểm từ bất ngờ
đó, hai ông Đính, Có kết hợp cùng nhau để thực hiện kế hoạch.
Đại Tá Có xuống Bình Dương, Bản Doanh Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5,
móc nối được với Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu. Ông lại xuống Mỹ Tho, Bản Doanh Sư
Đoàn 7 móc nối được với Đại Tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn này cùng một số sĩ quan thuộc
khu chiến thuật Tiền Giang, trong đó có Thiếu Tá Nguyễn Viết Thanh, Trung Đoàn
Trưởng Trung Đoàn 10 trú đóng tại Cao Lãnh, Kiến Phong, Thiếu Tá Lý Tòng Bá,
Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn Thiết Giáp.
Theo bút ký của Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, trong bữa cơm trưa
tại Dinh Tỉnh Trưởng Định Tường ngày 20.10 vì sơ xuất nên tin đảo chánh bay về
Sài Gòn.
Đêm ngày 28.10, Ông Nhu đã biết được đầy đủ chi tiết về Đại
Tá Có bay lên Bình Dương và xuống Mỹ Tho âm mưu móc nối đảo chánh. Một phiên họp
khẩn cấp được triệu tập trong văn phòng Ông Nhu với sự tham dự của Đại Tá Tung
và hai viên chức cao cấp của Ngành Tình Báo và Cảnh Sát Đặc Biệt. Ông Nhu nghe
các viên chức liên hệ kiểm điểm tình hình và đi đến một kết luận vững chắc: Phe
đảo chánh không có quân không thể làm gì nổi. Cho đến lúc này thì Ông Nhu có đủ
dữ kiện để biết rõ phe đảo chánh gồm Tướng Đôn, Kim, Minh, Xuân và một số sĩ
quan mà Ông Nhu cho rằng họ thuộc thành phần Đại Việt.
Biết rõ Đại Tá Có cùng Tướng Đôn, Kim âm mưu đảo chánh nhưng
Ông Nhu vẫn không ra tay trước. Có lẽ ông muốn quăng một mẻ lưới lớn. Đại Tá
Tung cũng như Cơ Quan Tình Báo được chỉ thị của Ông Nhu là phải yên lặng tuyệt
đối làm như không hề hay biết việc Đại Tá Có xuống Mỹ Tho và lên Bình Dương móc
nối 2 Sư Đoàn 5 và 7 Bộ Binh để đảo chánh.
Ngày 31.10, Tổng Thống Diệm và Ông Nhu mới chính thức báo tin
cho Trung Tướng Đính biết là Đại Tá Có âm mưu đảo chánh và chỉ thị phải điều
tra ngay để tìm ra manh mối hầu có thể ra tay hành động theo kế hoạch hành quân
Bravo mà Tướng Đính vẫn nắm trọn quyền.
Nhưng Tướng Đính đã chính thức tham gia phe đảo chánh kể từ
ngày 25.10.
Tướng Đính cũng như Tướng Đôn đều báo cáo với Tổng Thống Diệm
và Ông Nhu là đã biệt giam Đại Tá Có và đang tra khảo nhưng thực ra, Đại Tá Có
được giữ kín trong văn phòng Tư Lệnh Quân Đoàn III. Đại Tá Có trải qua một ngày
một đêm trong cảnh toát mồ hôi lạnh. Văn Phòng Tư Lệnh Quân Đoàn III được canh
phòng nghiêm mật, nột bất xuất ngoại bất nhập 11 giờ đêm 31.10, Tướng Đôn đến
Quân Đoàn III gặp Tướng Đính và Đại Tá Có, ông cho biết vì Đại Tá
Có làm lộ bí mật tại Mỹ Tho cho nên phải hành động gấp vào
ngày mai, tức 1.11.
Trung Tướng Có qua thiên bút ông đã mô tả: “Thứ sáu
1.11.1963: Sau một đêm thức trắng, Tôn Thất Đính có vẻ mệt mỏi. Tôi cũng không
khỏe gì hơn. Nhưng thì giờ càng quá mau thì tôi càng mừng. Ăn điểm tâm xong là
7g tôi vui vẻ nói với Tướng Đính: Chỉ còn 6 giờ nữa thôi mong rằng mọi việc sẽ
êm đẹp”. 8 giờ, Trung Tướng Đôn lại tới gặp Tướng Đính và tôi. Thấy tôi
ông lại cười rồi chỉ mặt nói: “Tổng Thống bảo tôi lại coi ông Đính đập thằng
Có ra sao”. Tướng Đính dặn Tướng Đôn về trình là đã đập gần chết rồi, hiện
còn nhốt trong nhà tắm, đợi tỉnh lại sẽ tiếp tục khai thác.
Tướng Đính cũng trực tiếp báo cáo như vậy với Tổng Thống Diệm
và Ông Nhu.
12 giờ, Đại Tá Có từ biệt Tướng Đính ra Phi Trường Tân Sơn Nhất
và ở đây ông dùng trực thăng của Quân Đội Mỹ bay xuống Mỹ Tho. Cũng từ giờ đó,
Tướng Đính bắt tay vào việc đảo chánh. Quân Đoàn III bị cấm trại 100%. Kế hoạch
Bravo I biến thành Bravo II. Nhưng 6 Đại Đội của Lực Lượng Đặc Biệt đi hành
quân tại Long Thành, theo kế hoạch Bravo I Lực Lượng này sẽ quay về Sài Gòn
nhưng với Bravo II thì Lực Lượng nòng cốt này bị cô lập ngay.
Rồi một loạt đại bác nổ vang, rất trúng đích. Tiếng gạch ngói
đổ vỡ, tiếng người nói lao xao. Rồi một loạt khác... Tiếng nổ xé tan bầu không
khí oi ả của buổi trưa. Trung Sĩ Hòa ước lượng ít nhất lần này Thành Cộng Hòa
phải ăn 20 trái. Từ phía xa một vài loạt tiểu liên nổ. Quanh Thành Cộng Hòa vẫn
yên tĩnh ngoài tiếng đại bác nổ và tiếng chân người chạy.
Đại Bác nổ rát quá. Thiếu Tá Duệ hét, Anh em Thủy Quân Lục
Chiến tìm chỗ ẩn núp cứ đứng khơi khơi như thế chết hết bây giờ. Một toán Thủy
Quân Lục Chiến chạy băng qua đường tìm chỗ núp đại bác trong mấy tòa nhà thuộc
Tổng Nha Cải Huấn và Bộ Xã Hội hiện nay. Trong sân Hoa Lư, Thủy Quân Lục Chiến
tụ tập cả trên khán đài. Súng vứt ngổn ngang trên cỏ, Thiếu Tá Duệ nói với
Trung Úy Bảo: “Cậu sang bảo tụi nó tìm chỗ an toàn mà nấp. Vô phước tụi nó ăn
phải đại bác thì tôi sẽ lãnh đủ”.
Một Chuẩn Úy Thủy Quân Lục Chiến từ bên Hoa Lư băng qua, ông
này nói: “Ông già của tôi có đây không?” Thì ra, ông già của vị sĩ
quan này là Thượng Sĩ trong Ban Quân Nhạc của Lữ Đoàn. Viên Chuẩn Úy nói: “Trung
Đội của em ở bên kia đường coi bộ nguy hiểm quá”. Trung Úy Bảo đề nghị: “Cậu
cho Trung Đội qua đây. Ở đây nếu pháo binh mần dữ như vừa rồi cũng không sợ,
thiếu gì chỗ an toàn”. Viên chỉ huy nghe có lý, ông trở lại vị trí cũ dẫn
cả Trung Đội vào Thành Cộng Hòa (sau khi thành này thất thủ Trung Đội của ông
ta được đồng hóa với Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ và bị coi là thành phần chống
cách mạng).
Trong giờ phút đó Thiếu Tá Duệ cố tìm cách bắt liên lạc với
Trung Tá Khôi nhưng không có kết quả. Ông Duệ lại gọi về Dinh Gia Long. Trên
Dinh cho biết vắn tắt: “Các Tướng lãnh có lẽ bị phe đảo chánh bắt cóc...trên
này đủ mặt Châu, Lộc, Hoàn, Thọ, Bằng. Ông Võ Văn Hải cũng vừa tới, ông đang ở
trong phòng Cụ”...
Từng loạt đại bác nổ vang rền. Lần pháo kích này được coi là
ác liệt nhất. Lính của Lữ Đoàn có 5, 6 người bị thương, hai chết. Đại Đội Thủy
Quân Lục Chiến lúc ấy đã tản mát sang phía bên kia đường hay nấp sau bờ tường
sân Hoa Lư. Trung Úy Bảo gọi Đại Úy Thinh: “Toa cho lính của toa di tản đi chỗ
khác, nấp ở sau bờ tường như thế kia chết cả lũ bây giờ”. Đại Úy Thinh ra lệnh
cho di tản ngay...Khoảng 15 phút sau khi phi cơ bay tới rà qua sân Hoa Lư rồi
quạt đại liên ào ạt về phía bờ tường mà vừa rồi toán Thủy Quân Lục Chiến dùng
làm nơi ẩn nấp. Trung Sĩ Hòa nói: “Hú vía... chút xíu nữa thì chết gọn”. Thinh
nói với Trung Úy Bảo: “Cảm ơn Trung Úy không lanh trí thì bọn này bỏ mạng
hết”. Phi cơ xuất hiện oanh kích có một lần đó.
ĐÁNH NHAU BẰNG MỒM
Trung Úy Bảo đã có thể yên tâm và vững tin vào Đại Đội Thủy
Quân Lục Chiến của Thinh.
Nhưng vẫn còn một Đại Đội nữa. Lữ Đoàn Liên Binh cho 2 xe thiết
giáp tiến về phía Ngã Tư Đinh Tên Hoàng-Phan Đình Phùng, Trung Úy Bảo đi sau
cùng với 2 Hạ Sĩ Quan Thủy Quân Lục Chiến...Nhân chứng dùng 2 Thủy Quân Lục Chiến
này cốt để làm nản lòng Đại Đội của Châu. Lúc ấy Đại Úy Châu đang đứng ở gốc
cây ngay trước cư xá Air Việt Nam hiện nay.
Đại Úy Châu cầm khẩu súng lục trong tay còn tay kia cầm trái
lựu đạn. Lính của Đại Úy Châu đều chĩa thẳng mũi súng về phía nhân chứng. Tuy vậy,
Trung Úy Bảo rất bình tĩnh và đằng sau nhân chứng là 2 thiết giáp và lính của Lữ
Đoàn. Trung Úy Bảo lên tiếng: “Tất cả binh sĩ phải quay mũi súng ra ngoài
không bị tiêu diệt ngay”. Nhân chứng hỏi Đại Úy Châu: “Ai bảo các anh
về đây? Các anh về đây để làm gì?” Trung Úy Bảo nghĩ trong bụng, Đại Úy
Châu cũng sẽ trả lời như Thinh. Nhưng không, Đại Úy Châu lại nói lớn tiếng: “Chúng
tôi về đây để lật đổ chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm. Chúng tôi không thể chịu
được áp bức”.
Trung Úy Bảo nói gay gắt: “Anh lại đây”. Đại Úy Châu
cũng gay gắt không kém: “Anh lại đây”. Châu vẫn cầm nhăm nhăm trái lựu đạn.
Nhân chứng thì cầm chiếc loa. Bảo nói: “Anh muốn chết bỏ mạng à”. Châu lại
nói: “Anh định tự tử hay sao”. Hai bên vẫn lời qua tiếng lại. Đúng
lúc đó phi cơ bay xẹt qua quạt từng loạt đạn (như trên đã viết) Trung Úy Bảo tiếp
tục tấn công bằng lời: “Anh coi Đại Đội của Thinh hàng rồi. Chung quanh đây là
quân của Lữ Đoàn. Anh nhìn coi...chỉ cần có khẩu đại liên trên lầu kia làm một
loạt cánh chéo cánh sẻ cũng cho các anh đi đời” Nhân chứng lại nhấn mạnh:
“Tốt hơn hết các anh hàng đi cho yên chuyện”. Một sĩ quan khác lên tiếng: “Hàng
thế nào được. Tụi tôi về đây lật đổ chế độ độc tài gia đình trị” Nhân chứng
đáp: “Muốn gia đình trị hay cái gì cũng được. Bây giờ không nói chuyện đó muốn
sống thì hàng đi”.
Lúc đó Đại Úy Châu bắt đầu dịu giọng: “Hàng thì tôi không
hàng nhưng tôi sẽ tập trung lính lại. Được không ?” Trung Úy Bảo vui vẻ trả lời: “Thế
cũng được. Bây giờ anh cho lính của anh tập trung tất cả vào Khu Hàng Không Việt
Nam”. Châu lại hỏi: “Còn các anh thì sao?” Nhân chứng cho biết thiếp giáp
và lính của Lữ Đoàn sẽ lui về vị trí cũ tức là phía bên kia đường Hồng Thập Tự.
Thế là hai Đại Đội của Thủy Quân Lục Chiến đếu án binh bất động.
Phía Lữ Đoàn giải giới chờ khi hữu sự sẽ ra tay. Bộ chỉ của Lữ Đoàn Phòng Vệ hoạt
động không ngừng.
Cho đến lúc ấy Thành Cộng Hòa đã ăn hàng trăm trái 105 ly. Bộ
chỉ huy Lữ Đoàn Phòng Vệ không thể nào liên lạc được với Bộ Tổng Tham Mưu. Thượng
Sĩ Nguyễn thuật lại: “Ông Duệ phải gọi qua Phòng Quân Cảnh của Tổng Tham Mưu nhờ
liên lạc vì ông có người bạn thân ở phòng này nên mới nắm được “đầu giây” liên
lạc. Thiếu Tá Duệ hỏi qua về tình hình trên đó ra sao.
Phía đầu giây trả lời rõ rệt: “Không thấy có gì quan trọng cả.
Các ông Tướng đang họp. Hiện giờ Bộ Tổng Tham Mưu không có lực lượng nào khác
hơn mấy chú tân binh ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung”. Thượng Sĩ Nguyễn
báo cáo lại và đề nghị: “Làm tới đi Thiếu Tá. Hốt về đây cho xong chuyện” Các
Sĩ Quan Tham Mưu bàn định: “Nếu được lệnh thì chỉ cần một Chi Đội Thiết
Giáp, một Đại Đội ta sẽ tiến dọc theo đường Công Lý. Thủ thì nguy công mới
thành”...Ông Duệ gật đầu cho là phải. Ông gọi lên Dinh Gia Long xin lệnh Tổng
Thống. Phía đầu giây bên kia Đại Úy Tùy Viên Lê Công Hoàn đáp: “Cụ không trả lời.
Cụ ra lệnh chỉ được phép nổ súng khi nào bị tấn công. Cụ cấm không được gây đổ
máu”...Ông Duệ và một số Sĩ Quan Tham Mưu đành thở dài lắc đầu, ông lại tiếp tục
cuộc điện đàm: “Toa thưa lại với Cụ cứ cho phép tụi moa đem lực lượng lên đó hốt
cho hết, như thế là xong”...Bên đầu giây kia Đại Úy Hoàn trả lời: “Cụ nhất định
không chịu”...Thượng Sĩ Nguyễn lắc đầu quay sang bảo ông Duệ:
“Thiếu Tá thử nói lại lần nữa xem sao...Thiếu Tá nói với Đại
Úy Hoàn trình bày rõ với Cụ là bọn mình chỉ xin lên Bộ Tổng Tham Mưu mời các Tướng
về Dinh để họp mà thôi...” Lúc ấy vào quãng 5 giờ.
DƯỚI HẦM
Vào giờ này tại Dinh Gia Long, mấy Sĩ Quan Tùy Viên vẫn ngồi
kế bên Tổng Thống Diệm. Trong Dinh còn có 3 đường giây liên lạc, Tổng Thống Diệm
ở dưới hầm...Ông Nhu sai người đem radio mang xuống cho Tổng Thống nghe để cho
Cụ được rõ thực hư (lời Ông Nhu). Nhưng radio mang xuống dưới hầm lại không
nghe được vì không có giây antenne từ trên xuống. Rồi nhạc quân hành vang vang.
Các Tướng lãnh lần lượt xướng danh. Nhưng giọng phát ngôn viên nhấn mạnh từng
điệp khúc “lật đổ chế độ độc tài gia đình trị”...Tổng Thống Diệm im lặng lắng
nghe. Rồi Ông Nhu trên lầu bước xuống. Hai anh em Ông Diệm đều im lặng.
Sĩ Quan Tùy Viên vặn cho nhỏ hơn. Nhạc quân hành mỗi lúc một
dồn dập. Bốn Sĩ Quan Tùy Viên có mặt ở Dinh lúc ấy đều là những người quanh năm
suốt tháng trong Dinh và đã trải qua nhiều biến cố như vụ ám sát hụt ở Hội Chợ
Kinh Tế Ban Mê Thuột, vụ đảo chính 11.11.1960, vụ ném bom ngày 27.2.1962... Do
đó, không lấy gì làm sao xuyến cho lắm. Trái lại mỗi lần như vậy họ cảm thấy sống
gần Tổng Thống Diệm hơn. Nhạc quân hành vẫn vang lên dồn dập. Ông Nhu thì trầm
ngâm nhát gừng: “Mỹ nó bảo làm vậy thì làm vậy...”
Nói xong Ông Nhu lại trở lên lầu. Trong khoảng thời gian đó,
Đại Sứ Cabot Lodge gọi điện thoại nói chuyện riêng với Tổng Thống Diệm. Đây là
lần thứ hai kể từ lúc 2 giờ. Bốn Sĩ Quan Tùy Viên vẫn đứng ngồi bên cạnh Tổng
Thống Diệm. Không ai nghe rõ ông Lodge nói những gì...Tổng Thống Diệm trả lời bằng
tiếng Pháp đại cương: “Tôi không chấp nhận...Cảm ơn...Cảm ơn...chúng tôi sẽ
thu xếp với nhau... Tôi không tin các Tướng đòi hỏi như thế. Cảm ơn. Tôi không
nhận điều kiện nào hết... Tôi là Tổng Thống của nước Việt Nam Cộng Hòa!!” Trước
khi buông máy, Tổng Thống Diệm nói rất chậm, nhấn mạnh từng tiếng một “Je
vousremercie sincèrement...Je ne quite jamais mon Peuple”
Tổng Thống Diệm buông máy nhìn một lượt 4 Sĩ Quan Tùy Viên rồi
mỉm cười. Ông lại châm thuốc hút. Ông nhìn Đại Úy Hoàn khẽ gật đầu đắc ý về một
việc gì rồi lại cười. Ông vẫn ngồi trên chiếc ghế tựa hiệu Marconi.
Trước đó Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn tại Thành Cộng Hòa, Thiếu Tá Duệ
nhận được lệnh từ Dinh Gia Long phải chiếm cho kỳ được Đài Phát Thanh.
ĐẢO CHÁNH GIẢ
Từng loạt đại bác nổ rồi im. Ông họ Trần (cựu Bộ Trưởng) mở cửa
sổ nhìn ra đường... một vài chiếc taxi lướt qua. Con Đường Hồng Thập Tự vẫn im
vắng, không có một bóng dáng Quân Nhân nào. Vợ của nhân chứng nói: “đảo
chánh giả mình ạ. Cứ mặc người ta, anh đừng xớ rớ”. Cách đó hơn một tuần ông Trần
có vào Dinh Gia Long thăm riêng Tổng Thống Diệm, lấy cớ đến chúc mừng Tổng Thống
nhân ngày 23.10. Ông Trần có gặp Tướng Đôn ở hành lang Dinh. Ông hỏi Tướng Đôn
“Tình hình quân sự dạo này có khá không ông Tướng?” Ông Đôn ghé tai nói
nhỏ: “Thưa ông bi quan lắm...việt cộng mở mặt trận khắp nơi. Người Mỹ hình
như muốn bỏ rơi chúng ta”. Nhân chứng khẽ nhún vai mỉm cười. Hôm ấy ông Trần
có gặp cả Tướng Đính, vẫn vẻ vồn vập niềm nở, Tướng Đính nắm chặt hai tay ông.
- Tình hình Vùng 3 thế nào? Nhân chứng hỏi. Ông Đính khoa
tay: “khả quan lắm. Còn
Ba Đính ở đây thì việt cộng không có làm ăn gì được hết. Đàn
anh cứ tin lời Ba Đính nói đi”.
Ông Trần trở vào phòng nghe radio. Bỗng nhiên chuông điện thoại
reo vang. Đầu giây bên kia ông Smith một viên chức CIA của Tòa Đại Sứ Mỹ gọi
nhân chứng và nói: “Tình hình rất nguy hiểm tuy nhiên ông Đại Sứ Lodge sẽ tìm mọi
cách để tránh đổ máu. Ông Đại Sứ muốn tôi “arangé” một cuộc tiếp xúc
riêng giữa ông Đại Sứ với ông ngay chiều nay”. Viên chức Mỹ cho biết sẽ đến
gặp nhân chứng.
Súng vẫn nổ lẻ tẻ. Tiếng xe thiết giáp chuyển dịch rất gần.
Nhân chứng gọi điện thoại cho ông Nguyễn Đính Thuần 2, 3 lần, người nhà nói ông
đi vắng. Lúc sau ông Smith đến thăm ông.
Câu đầu tiên của ông: “Thế nào có đảo chánh thật hay sao?” Viên chức này đáp: “Làm thế nào được hơn, cho đến giờ này ông vẫn chưa được
biết?” Ông Trần rút thuốc hút đáp: “Tôi làm sao có thể biết được.
Ông Minh và ông Đôn làm vụ này? Ông có tin là thành công không?” Viên chức
Mỹ nói giọng cả quyết: “Tôi không tin họ đủ yếu tố thành công. Bây giờ chỉ
còn vấn đề thu xếp cho anh em ông Ngô Đình Diệm qua Nhật và Ông Nhu đi Âu
Châu”.
PHÁ ĐỔ TIÊN TỤC
Sau đó viên chức Mỹ đi thẳng vào vấn đề:
- Đây là vấn đề nội bộ của Việt Nam tôi nghĩ rằng cuộc cách mạng
sẽ mang lại phép lạ giúp cho nước ông chiến thắng cộng sản và giải quyết môt lần
cho xong vụ khủng hoảng Phật Giáo đã kéo dài quá lâu.
Ông Trần hỏi:
- Khi cuộc đảo chánh thành công sẽ có một chánh phủ Quân Nhân
ra đời, các Tướng lãnh sẽ trực tiếp lãnh đạo chính phủ?
Viên chức Mỹ im lặng một lúc lâu rồi mới gât gù đáp:
- Đó mới là vấn đề số 1. Theo tôi các Tướng lãnh Việt Nam chỉ
có thể hoàn thành được vai trò quân sự của họ. Người Mỹ như tôi đều chủ trương Việt
Nam phải có một chính phủ dân sự mở rộng tiếp nhận nhiều khuynh hướng nhất là
khuynh hướng Phật Giáo.
Nhân chứng mỉm cười:
- Ông Đại Sứ Lodge muốn gặp riêng tôi để làm gì? Tôi không
còn ham thích làm chính trị.
Smith nói:
- Mỹ quốc muốn thấy Việt Nam Cộng Hòa ổn định, có một nền dân
chủ để chiến thắng cộng sản, có một xã hội no ấm và tự do. Cuộc cách mạng của
Tướng lãnh Việt Nam là một cơ hội tốt...nhưng chính phủ phải do phía dân sự
lãnh đạo và phải do người Miền Nam.
Nhân chứng không nói gì. Cuộc đối thoại cắt đứt vì có chuông
điện thoại. Nhân chứng cầm máy nghe. Một Bộ Trưởng phía đầu giây bên kia nói với
nhân chứng: “Thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long bị vây cả rồi. Lúc này ông Quách
Tòng Đức (Đổng Lý Văn Phòng Phủ Tổng Thống) cũng có vào Dinh. Nhưng không gặp Tổng
Thống ông có gặp Võ Văn Hải và thấy không cần thiết phải có mặt ở Dinh nên ông
Hải lại về... ông ấy có điện thoại cho tôi... Tình hình nguy rồi, anh tính sao?” nhân chứng lắc đầu: “biết làm thế nào?”
Quay sang phía viên chức Mỹ, ông hỏi: “Người Mỹ thật
tình muốn có một chính phủ mở rộng?” Viên chức Mỹ đáp: “Tôi bảo đảm
với ông như vậy. Một chính phủ có sự tham dự của đảng phái, Phật Giáo. Bộ Quốc
Phòng sẽ trao cho Quân Nhân rồi mở đầu cho giai đoạn mới: Phát triển các cơ sở
dân chủ và cách mạng xã hội” Viên chức Mỹ ra vẻ tâm sự tha thiết: “Cuộc
cách mạng sẽ thành công nhưng Phật Giáo vẫn là một vấn đề. Tôi nghĩ rằng Tướng
lãnh của nước ông sẽ không đủ uy tín nắm vững khối quần chúng. Nếu không có một
chính phủ dân sự mở rộng thì tình hình sẽ bị lật ngược và vô cùng rối loạn. Tôi
nghĩ rằng phải có một nhân vật Miền Nam đứng ra lãnh đạo chính phủ và chính phủ
này sẽ đảm bảo tính cách liên tục của guồng máy hành pháp”. Nhân chứng hỏi: “Người
Mỹ không tin vào khả năng lãnh đạo của hai ông Minh và Đôn?” Viên chức Mỹ mỉm
cười không đáp. Ông bất thần hỏi: “Chắc chắn ông là người biết rõ khả năng
lãnh đạo của Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ?” Nhân chứng chưa kịp đáp thì
viên chức Mỹ đã hỏi: “Ông có thể giúp Phó Tổng Thống Thơ hoàn thành được
vai trò ấy chứ?”
Có một tiếng nổ lớn, ông Trần nhìn qua cửa sổ. Phía bên kia
đường lính đứng lố nhố ở sau gốc cây. Một chiếc Thiết Giáp đậu ngay trước cửa
nhà nhân chứng. Rồi tiếng đại bác lại nổ chát chúa. Người nhà nhân chứng, một
sĩ quan trong Đại Đội Cận Vệ từ Dinh Gia Long gọi điện thoại về cho biết: “Tình
hình rất yên. Chỉ có Thành Cộng hòa bị pháo kích. Tổng Thống đang ngồi hút thuốc
lá bàn chuyện với mấy tay Sĩ Quan Tùy Viên”.
Viên chức Mỹ lại tiếp tục cuộc mạn đàm (có chủ ý). Ông ta
nói: “Hai ông ấy (Diệm và Ông Nhu) đã di quá sâu vào đường trung lập. Tôi sẽ
cho ông coi hồ sơ để xem Ông Nhu đã móc nối với Nguyễn hữu Thọ và Phạm văn Đồng
như thế nào”. Nhân chứng lắc đầu, khẳng định: “Tôi không bao giờ tin như vậy. Tổng
Thống Diệm là một người chống cộng” Viên chức Mỹ lại hỏi: “Nếu nói rằng Tổng
Thống Diệm là một người chống cộng sao có những cán bộ ở ngay bên cạnh Tổng Thống
?” Nhân chứng hỏi: “Đó là những ai xin ông cho biết ?” Smith
nói: “Tôi không cần nói chắc ông cũng hiểu”. Nhân chứng thở dài, ông
hoàn toàn không thể hiểu người Mỹ đang tính toán những gì. Nhưng chắc chắn Tổng
Thống Diệm đã làm phật lòng người Mỹ không ít. Vào cuối năm 1961, Tổng Thống Diệm
đã lấy làm khó chịu khi có một giới chức Mỹ thuộc cơ quan USOM đã đề nghị với
chính quyền Việt Nam nên thu hồi Bệnh Viện Grall còn trong tay người Pháp. Rồi
lại cho một giới chức Mỹ khác đề nghị cải tổ giáo dục Việt Nam theo chiều hướng
Mỹ. Tổng Thống Diệm đã khước từ những đề nghị như thế. Và Ông Diệm đã khước từ
trước một “đề nghị” về phía Mỹ: Yêu cầu chính quyền Việt Nam cho Mỹ sử
dụng căn cứ Cam Ranh. Đề nghị này không chính thức nhưng Đại Sứ Nolting cũng
đã “ướm lời dò ý” trong các cuộc đi viếng Vùng Tràm Chim với Tổng Thống Diệm
cùng một số Bộ Trưởng như Giáo Sư Trương Công Cừu. Tháng 3.1963, Đại Tướng
Harkins lại một lần nữa ngỏ lời qua Tướng Khánh. Nhưng Tổng Thống Diệm trước
sau đều khước từ.
Viên chức Mỹ và ông Trần tiếp tục nói chuyện. Phe cách mạng
tiếp tục tiến hành công cuộc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Nhu vẫn trông đợi
Sư Đoàn 7 Bộ Binh của Đại Tá Bùi Đình Đạm và Quân Đoàn IV của Tướng Cao. Sáng
1.11.1963, Tướng Cao đang thị sát cuộc hành quân tại vùng Bạc Liêu, Sóc Trăng.
Khi nghe tin Sài Gòn có biến ông vội vã bay về Cần Thơ. Nhưng tại bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn, phe cách mạng đã ra tay từ trước. Có thể nói cuộc đảo chánh đã diễn
ra ngay Bộ Tư Lệnh. Tướng Cao ngồi tại Bộ Tư Lệnh lúc ấy chỉ làm vì. Vì quyền
bính thực sự của Quân Đoàn đã nằm trong tay Trung Tá Hạnh (nguyên Tham Mưu Trưởng
của Tướng Big Minh trong Chiến Dịch Rừng Sát) Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn cùng với
Thiếu Tá Tuấn Trưởng Phòng II Quân Đoàn đã được phe cách mạng móc nối từ trước.
Khi Tướng Cao về thì sự đã rồi. Ông bị cô lập ngay phút đầu tuy nhiên sĩ quan kể
trên vẫn để ông thong dong nhưng không xảy ra việc gì. Từ Sài Gòn, Đại Úy Bằng
có cấp báo cho Tướng Cao nhưng ông Cao lảng đi... Rồi án binh bất động lúc ấy chỉ
còn Sư Đoàn 9 Bộ Binh của Đại Tá Bùi Dinh nhưng Sư Đoàn này đang hành quân tại
Kiến Hòa, một số quân còn lại tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn từ Sa Đéc kéo về tiếp cứu
Sài Gòn nhưng về đến Bắc Mỹ Thuận thì bị Trung Đoàn 10 (Sư Đoàn 7) của Thiếu Tá
Nguyễn Viết Thanh cầm chân.
Về Sư Đoàn 7, có thể nói Sư Đoàn được Ông Nhu chú trọng bậc
nhất. Đại Tá Đạm đã bị thay, theo dự định thì ngày 2.11 sẽ bàn giao chức vụ cho
Đại Tá Lâm Văn Phát. Lấy cớ Trận Ấp Bắc bị thua (sự thực thì trận ấy tuy lớn
nhưng thiệt hại của đôi bên tương đương nhau) nhiều người đã dèm pha và ngỏ ý với
Tổng Thống Diệm thay thế Đại Tá Đạm. Tướng Đôn cũng nhiều lần đề nghị với Tổng
Thống Diệm như vậy. Một vài nhân viên tình báo Mỹ cũng cố ý dèm pha để Tổng Thống
thay ông Đạm vì họ tin rằng ông Đạm là người sống chết với chế độ nếu loại được
ông Đạm thì Sư Đoàn 7 không có gì đáng lo ngại.
Cũng như trước đó, Sư Đoàn 7 thuộc quyền Quân Đoàn IV của Tướng
Cao, một số giới chức Mỹ tìm mọi cách đề nghị với Tổng Thống Diệm chấp thuận
cho Tướng Đôn tách Sư Đoàn 7 ra khỏi Quân Đoàn IV và đặt Sư Đoàn này dưới quyền
của Tướng Đính thuộc Quân Đoàn III đó là một xếp đặt mưu tính khá công phu (từ
ngày 30.10 Sư Đoàn 7 và Khu Chiến Thuật Tiền Giang giã từ Quân Đoàn IV). Khi cử
Đại Tá Phát thay Đại Tá Đạm, Ông Nhu không nghi ngờ gì cả vì Đại Tá Phát cũng
là chỗ “người trong nhà”
Sáng ngày 1.11 Đại Tá Lâm Văn Phát chưa nhậm chức mới vì theo
dự định ngày 2, ông mới phải có mặt ở Mỹ Tho.
Sự thực thì Đại Tá Có cố tìm cách trì hoãn ngày nhận nhiệm Tư
Lệnh Sư Đoàn của Đại Tá Phát để dễ dàng nhảy xuống nắm Sư Đoàn này. Đáng lý Đại
Tá Phát xuống Mỹ Tho từ ngày 31 sau khi ông từ Huế về, ông ra Huế để chúc mừng
sinh nhật ông Cậu nhưng Đại Tá Có cho biết, trước khi xuống Mỹ Tho Đại Tá Phát
phải vào trình diện Tướng Đính nếu không thì kẹt lắm! Mặt khác Tướng Đính cố
kéo dài thời gian không cho ông Phát trình diện trước ngày 1.11.63.
Đại Tá Có đặt chân xuống Phi Trường Tân Hiệp lúc 12g30. Trung
Tá Tư đã túc trực tại đây và đưa thẳng ông về Sư Đoàn. Trước đó Bộ Chỉ Huy nhẹ
cùng với bộ phận an ninh có Quân Cảnh tháp tùng đã xuống Mỹ Tho bố trí sẵn. Đại
Tá Có mang theo thư tay của Tướng Đôn gửi cho Đại Tá Đạm, ông Có mời ông Đạm vô
Bộ Tư Lệnh...ông Đạm bị bắt giữ ngay lúc đó. Cuộc đảo chánh tại Sư Đoàn thế là
xong...Đại Tá Có gọi gấp Thiếu Tá Lộ, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 12 (ở Gò
Công) về Mỹ Tho trình diện. Thiếu Tá Vũ Lộ đều không hay biết gì cả. Khi về Bộ
Tư Lệnh trình diện ông mới vỡ lẽ Đại Tá Nguyễn Hữu Có thay thế Đại Tá Đạm chứ
không phải là Đại Tá Phát. Đại Tá Có chỉ thị cho Thiếu Tá Lộ điều quân về Mỹ
Tho nhưng các Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 10 đã biệt phái qua Kiến Hòa nên quân số
Trung Đoàn chỉ còn hơn một Đại Đội, mặt khác Trung Đoàn II của Thiếu Tá Lến
cũng nhận được lệnh án ngữ từ Cầu Bến Lứt trở lên (mãi tối ngày 2.11 Trung Đoàn
này mới kéo quân về Sài Gòn để giữ an ninh Thủ Đô).
Như vậy Sư Đoàn 7 đã nằm gọn trong tay Đại Tá Có. Riêng ông Tỉnh
Trưởng Mỹ Tho, Thiếu Tá Đinh Khắc Bình bị cô lập ngay lúc đó (vì ông Bình đã từ
chối khi ông Có móc nối vào cuối tháng 10).
Tại Dinh Gia Long, ngay từ lúc 2 giờ 1.11.1963 đã tìm cách
liên lạc với Sư Đoàn 7. Sài Gòn ra lệnh gọi thẳng cho các Thiếu Tá Thanh, Lộ, Lến
nhưng đều vô hiệu, đường giây đứt rồi. Dinh Gia Long vẫn còn hy vọng nơi Thiếu
Tá Nguyễn Ấm, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 7 mà trước đây khi ở Miền Trung vào nhậm
chức, ông Ngô Đình Cẩn đã dặn kín viên bí thư Đảng Cần Lao tại Lữ Đoàn Liên
Binh Phủ Tổng Thống: “Nếu Sài Gòn có biến gọi Đạm không được thì phải tìm mọi
cách liên lạc với Ấm” Nhưng ông Ấm hoàn toàn bất lực vì Sư Đoàn nằm hoàn
toàn trong tay Đại Tá Có.
Những người trong cuộc từ hai phía đều cho rằng, nếu Đại Tá
Có không lẹ tay quyền chỉ huy Sư Đoàn 7 thì chỉ nội buổi chiều ngày 1, Sư Đoàn
7 với 2 đường tiến quân. Một từ Mỹ Tho- Sài Gòn, một từ Gò Công-Chợ Lớn băng
qua cầu Nhị Thiên Đường. Với sự có mặt của 2 Trung Đoàn 11 và 12, phe đảo chánh
khó lòng thành công. Đại Tá Có đã đóng một vai trò quyết định về về mặt trận
phía Tây. Chính mặt này Tổng Thống Diệm cũng như Ông Nhu luôn quan tâm và cho rằng
Sư Đoàn 7 Bộ Binh là một sức phản công hữu hiệu nhất khi Sài Gòn có biến. Phe đảo
chánh cũng quan tâm như vậy cho nên ông Có được lệnh phải tốc chiến tốc thắng.
Khi cô lập được Đại Tá Đạm, ông Có ra lịnh cho tất cả các phà phải tập trung
sang phía Bắc bên Mỹ Tho để các đơn vị Sư Đoàn 9 và Trung Đoàn 12 không còn
phương tiện để băng sông, Hải Quân ở Mỹ Tho cũng được lệnh rút hết về các tầu tập
trung tại đây. Ngoài ra, Đại Tá Có còn nắm thêm được Trung Đoàn 2 Thiết Giáp do
Thiếu Tá Lý Tòng Bá chỉ huy. Khoảng 3 giờ Dinh Gia Long gọi Trung Đoàn này về
tiếp cứu thì Trung Đoàn đã nằm gọn trong tay phe đảo chánh.
Cả buổi chiều tại Dinh Gia Long, Ông Nhu vẫn tin ở thế khả thắng
của mình nhưng có điều, không biết Ông Nhu mưu lược thế nào song mỗi lần gặp biến
(như vụ 11.11.1960) khi phải lựa chọn một quyết định cuối cùng, Tổng Thống Diệm
quay sang hỏi Ông Nhu: “chú tính thế nào?” Ông Nhu liền đáp: “Anh
làm Tổng Thống thì anh quyết định chứ. Tôi có làm Tổng Thống đâu”.
Chiều 1.11.1963 tuy Ông Nhu đóng vai chủ động song ông vẫn
không có một quyết định nào dứt khoát... Ông Nhu lại nhận được tin Trung Đoàn II
Bộ Binh từ Long An sẽ về tiếp cứu. Cho đến lúc này, Ông Nhu vẫn chưa biết Đại
Tá Có đã nắm Sư Đoàn 7. Trong khi đó, Tổng Thống Diệm lại cho ghi âm lời hiệu
triệu đại cương trong đó nói rằng, đồng bào hãy bình tĩnh, Quân Đội tránh đổ
máu, luôn luôn phải đề phòng cộng sản. Các Đơn Vị Quân Đội và địa phương đâu cứ
ở đó để lo công việc chống cộng, tuyệt đối phải dồn mọi nỗ lực đề phòng cộng sản
xâm nhập và tất cả phải bình tĩnh đợi lệnh của Thượng Cấp.
Một chiếc xe Jeep phóng như lao trên Đường Thống Nhất, quặt
vào Thành Cộng Hòa. Viên Sĩ Quan đến gặp Thiếu Tá Duệ trao cho cuộn băng ghi âm
bản hiệu triệu của Tổng Thống Diệm. Viên sĩ quan này nói: “Cụ ra lệnh bằng
cách nào cũng phải chiếm lại Đài Phát Thanh và Thiếu Tá cho phát thanh ngay bản
hiệu triệu của Tổng Thống”. Thành Cộng Hòa lại gọi lên Dinh cho biết đã nhận
được cuộn băng và thi hành lệnh ngay. Trước đó Trung Úy Xuân cũng đã đem quân
lên chiếm Đài cùng với một Chi Đội Thiết Giáp và một Đại Đội Bộ Binh. Hạ Sĩ Lễ
trong Chi Đội Thiết Giáp cho biết: “Gần đến nơi, tụi tôi thấy Trung Tá Thiện
Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp, bọn này mừng quá, tưởng là Trung Tá Thiện mang quân
đến tiếp ứng”.
Trung Tá Thiện vẫn được coi là “người trong nhà” của chế
độ nên còn ai dám nghi ngờ (ông Thiện vốn là Bí Thư Đảng Cần Lao tại Binh Chủng
Thiết Giáp thuộc Quân Ủy) “Trung Tá Thiện dơ tay vẫy chúng tôi lại...Ai dè mắc
mưu, mãi sau mới biết mình “hố” to. Nếu không có cái vẫy của ông ta chúng tôi
đã lấy được Đài”.
Vì nghe theo lời Trung Tá Thiện nên cả hai Chi Đội cùng sáp
vô đoàn Thiết Giáp của phe cách mạng. Sau đó, Chi Đội này được lên xa lộ. Không
biết nghĩ sao, đêm mùng 1, hai chiếc Thiết giáp tự động xé lẻ tiến về Sài Gòn với
ý định tiếp cứu Dinh Gia Long.
Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn ra lệnh hối thúc Trung Úy Xuân phải chiếm
cho kỳ được Đài Phát Thanh. Ông Xuân vẫn không dám tiến hơn, xin tiếp ứng.
Trung Sĩ Lung thuật lại: Mục tiêu chính yếu của bọn tôi lúc ấy là chiếm Đài.
Anh em Thủy Quân Lục Chiến kể như là bạn rồi, Thiếu Tá Duệ gọi Trung Úy Bảo vào
nhận lệnh và trao cho ông Bảo cuộn băng “Dầu anh có phải hy sinh cũng phải đi
ngay bây giờ” Xuân nó lo việc chiếm Đài xong việc đầu tiên là anh cho phát
thanh ngay. Tôi cho Trung Sĩ Trí theo anh.
Trung Úy Bảo đáp: “Từ đây lên Đài gay quá, xin Thiếu Tá cho
tôi vài thiết giáp mở đường”.
Thiếu Tá Duệ trả lời: “Anh vào Sở Thú hỏi Đại Úy Lễ, Thiết
giáp ở trên ấy cả, còn chần chờ gì?” Chiếc xe jeep của Trung Úy Bảo lại rồ
ga qua sân ra Đường Thống Nhất rồi vào Sở Thú. Lúc ấy trong Thành Cộng Hòa quân
số chưa tới 100 lính.
Để tránh pháo kích, Bộ Chỉ Huy cho một Đại Đội qua đóng ở
Dinh Đại Tướng Tỵ. Hạ Sĩ Lễ nói: “ở đây là an toàn nhất vì chắc chắn phe
cách mạng sẽ không dám pháo kích vào Tư Dinh của Đại Tướng” Một Đại Đội
khác lúc ấy đóng ở Sở Thú, chung quanh Trường Trưng Vương, Võ Trường Toản và
Nha Trung Tiểu Học.
Sau khi chỉ thị cho Trung Úy Bảo đưa cuốn băng hiệu triệu lên
Đài Phát Thanh, Thiếu Tá
Duệ liên lạc thẳng với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7.
Cuộc điện đàm giữa Thành Cộng Hòa và Sư Đoàn 7 chỉ có vắn tắt
mấy lời:
- Thành Cộng Hòa: Anh Ấm đấy à! Duệ đây...Anh cho quân về
gấp.
- Sư Đoàn 7: Vâng Ấm đây...Tôi không biết làm thế nào nữa
anh ạ! Lúc này khó lắm.
Điện thoại cúp ngang. Cũng vào khoảng thời gian này Trung Tướng
Đôn điện thoại cho Đại Tá Có gởi quân tăng cường cho phe đảo chánh. Ông Có cấp
tốc gởi Trung Đoàn 12 và Trung Đoàn 11 Bộ Binh về Sài Gòn. Đại Tá Có tuy nắm được
Trung Đoàn 11 Bộ Binh nhưng vẫn còn nghi Thiếu Tá Lến Trung Đoàn Trưởng nên đường
tiến quân về Sài Gòn, Thiếu Tá Lến phải ngồi chung xe với Thiếu Tá Bá và ông Bá
mới là Chiến Đoàn Trưởng.
ĐÀI PHÁT THANH SÀI GÒN
Khi Trung Úy Bảo đến Sở Thú gặp Đại Úy Lễ và xin cho Thiết
giáp đi theo lên Đài. Ông Lễ cho biết: “Ở đây bọn này làm gì có thiết giáp. Vỏn
vẹn có 80 mạng thiết giáp ở đâu ra?” Trung Úy Bảo gọi về Bộ Chỉ Huy xin
chỉ thị mới nhưng Thiếu Tá Duệ dằn giọng: “Dù không có thiết giáp cũng phải liều
mạng mà đi. Phải sống chết với cuộn băng đó”. Cũng giờ phút này trên Dinh Gia
Long chia thành ba bộ phận. Bộ Chỉ Huy quân sự đứng đầu là Thiếu Tá Lạc, Thiếu
Tá Hưởng. Bộ phận đầu não vẫn là Ông Nhu bên cạnh ông là Cao Xuân Vỹ. Bộ phận
khác bên Tổng Thống Diệm có vẻ bình thường. Theo Đại Úy Hoàn “bọn tôi vẫn
vui như tết...quây quần quanh Tổng Thống có tôi, 3 Sĩ Quan Tùy Viên và ông già Ẩn”. Lúc
đầu thì có Y Sĩ Đinh Xuân Minh, Trung Tá Kỳ Quan Liêm, ông Võ Văn Hải đến thăm
Ông Diệm rồi ra về, ông Quách Tòng Đức cũng thế. Tổng Thống Diệm hút thuốc liên
miên. Theo nhân chứng, lúc đầu Tổng Thống Diệm giao động sau bình tĩnh ngay.
Ông Nhu thì trầm ngâm, mặt đem xạm, trán nhăn nheo. Ông gọi điện thoại cho Bộ
Trưởng Công Dân Vụ Ngô Trọng Hiếu: “Toa liên lạc ngay với các ông Bộ Trưởng,
dặn các ông Bộ Trưởng phải ẩn đi một nới đứng lên Bộ Tham Mưu tụi nó đánh lừa
đó”.
Việc chiếm Đài Phát Thanh thì Trung Úy Bảo, Trung Úy Trí liều
mạng vọt xe qua ngã Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhìn từ xa Trung Úy Bảo đã thấy một nòng
khẩu đại bác chúc xuống ở thế bắn ngang... khẩu đại bác này đặt trong vòng Thành
Nha An Ninh Quân Đội. Bảo biết ý nên ra lệnh cho tài xế rồ hết ga vọt bạt mạng.
Một tiếng nổ véo, chiếc xe jeep của ông Bảo bị bắn nổ lốp sau. Chiếc xe chao đi
chao lại như con hổ bị thương. Nhờ tài xế vững tay lái nên xe không bị lật, ông
Bảo và Trí nhẩy xuống xe và chạy thục mạng về phía Đài Viễn Thông. Hai người
leo qua tường nhảy bắn vào cây chuối, ông Bảo té nhào nằm ngất xỉu ít phút. Hai
người lại hè nhau chạy thục mạng về phía Đài rồi lẩn mình vào phía cửa sau. Cửa
vẫn đóng kín mít. Hai người lộn lại cửa sau chạy vượt ra cửa trước. Một sự im lặng
ghê rợn chết chóc. Một vài người lính của Lữ Đoàn giơ tay vẫy ông Bảo chạy về
phía đó. Trung Úy Xuân đang đứng trước cửa tiệm phở 44, phố xá vắng teo.
Một vài cánh cửa sổ hé mở, dân chúng ngấp nghé quan sát. Hai
thiết giáp của Lữ Đoàn đậu phía trước Đài khoảng cách khá xa.
Trung Úy Bảo chưa hiểu rõ tình hình. Ông Xuân nói: “Tụi nó
đang ở trên đó”. Bảo hỏi: “Sao không đánh vô, còn chờ gì?” Xuân ngập ngừng,
lắc đầu... Cánh quân của Trung Úy Xuân trước đó đã lấy được Đài một cách ngon
lành, nhưng lại chỉ chiếm được tầng dưới.
Sau này, Đại Tá Phạm Ngọc Thảo thuật lại: Lúc ấy ông chỉ có
vào khoảng trên dưới một Tiểu Đội. Khi Thiết giáp và lực lượng của Lữ Đoàn kéo
tới, lính của ông Thảo rút hết lên lầu. Ông Thảo kể lại với Bảo: “thấy các toa
đến tụi này hoảng quá đi. Lúc ấy chỉ cần một Trung Đội cứ xông vô đại, tụi moa
đánh khoanh tay chịu chết”.
TRÊN LẦU, DƯỚI NHÀ
Lúc ra đi, Trung Úy Xuân cũng như ông Bảo, ông Trí đều được dặn
dò:
- Thay đổi được tình hình hay không là do chỗ chiếm được hay
không chiếm được Đài Phát Thanh.
Từ Dinh Gia Long, Ông Nhu bóp đầu nhăn trán vì Đài Phát Thanh
vẫn chưa chiếm lại được. Ông bảo một Sĩ Quan Tùy Viên: “Phải làm mọi cách chiếm
cho bằng được...Nếu không các địa phương sẽ mất hết tinh thần. Cứ để nó phát
thanh mãi như thế các đơn vị rồi đây sẽ theo nó hết”.
Trung Úy Xuân gọi về Thành Cộng Hòa cho biết: “Bọn nó
rút hết lên lầu rồi. Tầng dưới bỏ không”. Một sĩ quan đề nghị dùng hỏa lực
tấn công trước bắn cho sập lầu 2. Trung Úy Bảo không đồng ý: “Mục đích của
mình là chiếm Đài để cho phát thanh lời hiệu triệu của Tổng
Thống. Bắn sập, hư hết máy móc thì còn làm được cái gì”.
Mọi người cứ dùng dằng mãi, Ông Nhu thì trông ngóng. Giữa lúc
ấy tại góc Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm-Phan Đình Phùng có hai ba xe jeep của Trung
Tâm Vạn Kiếp (Vũng Tàu) thuộc quyền Trung Tá Vĩnh Lộc. Trung Úy Bảo thấy khả
nghi, tiến lại hỏi: “Trung Úy Thơm phải không? Đi đâu mà coi bộ quân lương
mang theo đầy đủ vậy”. (Thơm là Sĩ Quan Phòng V của Trung Tá Vĩnh Lộc) Ông
Thơm nói:
- Bọn này đi công tác...
Sau này nhân chứng mới biết, toán quân của Thơm cũng có phận
sự về chiếm Đài Phát Thanh. Lúc ấy Bộ Chỉ Huy Thành Cộng Hòa, Thiếu Tá Duệ nhận
được lệnh từ Dinh Gia Long: “Phải hết sức bình tĩnh tránh đổ máu với Thủy Quân
Lục Chiến...Phải chờ lệnh Cụ... Cụ đang thu xếp, điều cần là phải lấy lại Đài
Phát Thanh”. Bộ Chỉ Huy Thành Cộng Hòa gọi về Dinh Gia Long: “Xin Tổng Thống
qua Dinh Độc Lập...Tránh pháo kích. Nếu Tổng Thống cho lệnh xin bỏ ngỏ Thành Cộng
Hòa và rút về Dinh Độc Lập”.
Đại Úy Lê Công Hoàn tại Dinh Gia Long cho Thiếu Tá Duệ biết:
“kể từ 5 giờ chiều trong
Dinh không còn một nhân vật dân sự nào. Theo lời Tổng Thống,
mấy nhân vật dân sự đều rút hết sau khi vấn an Tổng Thống”.
TRONG CƠN ĐAU
Đại Úy Lê Công Hoàn hỏi Đại Úy Thọ: “Ông chú của cậu (Đại Tá
Đỗ Mậu) đã theo đảo chánh rồi mà... cậu tính thế nào?” Thọ còn ngơ ngẩn
chưa biết nói sao thì Đại Úy Hoàn lên tiếng: “việc đó xảy ra như thế, thôi
bây giờ mày về nhà đi. Nếu đảo chánh thành công thì không nói làm gì. Nếu thất
bại mày yên trí có tao ở trong này bảo đảm cho mày”. Đại Úy Đỗ Thọ suy
nghĩ một lát rồi nói: “Tôi chả đi đâu hết sống chết cũng ở bên cạnh Cụ. Chú tôi,
ông phản Cụ thì mặc ông ấy, tôi đâu có dính dấp gì. Mỗi người mỗi phận” Thọ
nói tiếp với Hoàn: “Chị ruột của tôi theo cộng sản tôi còn chả bị Tổng Thống
nghi ngờ huống chi ông Đỗ Mậu... Tôi không làm chính trị cũng chẳng đảng phái
chi hết. Tôi theo Tổng Thống là tôi theo trung thành đến phút chót” Đỗ Thọ
mồ côi mẹ, có hai người em trai mà anh ta phải nuôi dưỡng. Chị ruột Đỗ Thọ là một
người có nhan sắc thì đã trở thành cán bộ cộng sản.
Lúc đầu, khi súng nổ, người trong Dinh đã có nghi ngờ Đỗ Thọ
nhưng sau đó thì không ai quan tâm. Thọ tâm sự với Hoàn: “nếu tôi theo phe
đảo chánh thì tôi ở nhà chứ mang thân vào đây làm gì”...
Cũng vào giờ này (5 giờ ngày 1.11) Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 34 Biệt
Động Quân đang tập trung ở Bến Tầu Sài Gòn đợi lên đường đi Dục Mỹ, bất ngờ nhận
dược lệnh của Dinh Gia Long phải cấp tốc đem quân về bảo vệ Tổng Thống. Nhằm
vào ngày lễ, đơn vị lại ở trong tình trạng chờ ngày lên đường nên các sĩ quan
không có mặt tại Bộ Chỉ Huy ngoài Chuẩn Úy Anh. Nhận được lệnh Chuẩn Úy Anh
hoàn toàn bối rối vì không biết phải làm thế nào? Tiểu Đoàn Trưởng là Đại Úy
Sơn Thương lại không có mặt tại đơn vị. Rồi muốn tiến quân thì xe đâu mà chuyển.
Dinh Gia Long lại ra lệnh: “Phải tìm mọi cách, hãy trưng
dụng tất cả các xe cộ của Thông Vận Binh hiện nay đang có mặt ở Bến Tầu. Nếu
không thì trưng dụng xe taxi, xe vận tải...” Chuẩn Úy Anh vác súng đến Thông Vận
Binh, mặt khác cho Tiểu Đoàn tập hợp.
Do một tình cờ hiếm hoi, ông Anh là một Chuẩn Úy lại trở
thành đơn vị trưởng “tạm thời” của Tiểu Đoàn. Chuẩn Úy Anh cảm thấy vô cùng hào
hứng vì bỗng nhiên anh lại được cơ hội ngàn vàng để thi thố tài năng. Sau khi
đã trưng dụng xe và tập hợp xong Tiểu Đoàn, Chuẩn Úy Anh gọi lên Dinh Gia Long.
Sơn Thương nguyên là một sĩ quan Nhảy Dù và rất quen với chiến trận cho nên, cuộc
tiến quân đối với ông được xem là như đi dạo. Viên Hạ Sĩ Cận Vệ của một Đại Đội
Trưởng, tay cầm súng chạy lao lên hàng đầu.
Cánh quân lặng lẽ nép vào hai bên hè phố tiến về phía Đường
Lê Thánh Tôn. Viên Hạ Sĩ nói với Trung Úy Đại Đội Trưởng: “Lần này cứu được
Tổng Thống thế nào thầy trò mình cũng có cái mề đay đeo chơi”.
Hạ Sĩ Bồng tâm sự, làm lính trong Dinh cực lắm ông ơi. Người
anh tôi cũng ở trong đó... chỉ muốn xin ra đơn vị chiến đấu mà không được.
Mỗi tháng cho tôi thêm mấy ngàn tôi cũng xin chịu...Ai dại gì
chôn chân trong bốn bức tường. Lại không được một ân huệ gì. Tôi thí dụ trường
hợp anh chàng Thượng Sĩ Vệ bạn của anh tôi... Viên Hạ Sĩ Bồng tiếp lời: “Cái
luật gia đình của Bà Nhu gì mà kỳ cục quá. Thượng Sĩ Vệ trong Lữ Đoàn Phòng Vệ
Tổng Thống lại là nạn nhân của luật gia đình. Nhân dịp biệt phái ra Huế anh
chàng Vệ tằng tịu với một cô gái Sông Hương. Nói đúng hơn anh ta bị người đẹp
cho vào mê trận hồn. Sau đó, gia đình nàng bắt lập hôn thú nếu không sẽ làm lớn
chuyện. Lính trong Dinh rất sợ những vụ như vậy sẽ đến tai Tổng Thống cho nên
anh chàng Thượng Sĩ Vệ phải nhắm mắt. Rồi ít lâu sau đổ bể, anh bị truy tố ra
Tòa Án Quân Sự Huế về tội song hôn. Tòa phạt
3 tháng tù và bị giam ở quân lao Mang Cá Nhỏ. Mãn tù trở về Lữ
Đoàn Phòng Vệ Tổng Thống, Lữ Đoàn cho giải ngũ lập tức. Hiện giờ Vệ đang bị thất
nghiệp giải ngũ lại mang án làm sao kiếm lại việc!” Hạ Sĩ Bồng đang trò
chuyện thì có lệnh di chuyển, một toán Biệt Động Quân tiến lên...rẽ vào Đường
Lê Thánh Tôn để tiếp ứng Dinh Gia Long. Bỗng một loạt đại liên nổ vang. Bốn Biệt
Động Quân ngã quị.
Thấy lính trong Dinh nổ bất tử làm thiệt 4 mạng. Đại Úy Sơn
Thương nhào lên vẫy tay. Phía bên Biệt Động Quân hô lớn: “Quân mình đó đừng có
nổ súng, Biệt Động Quân về cứu Tổng Thống” Lúc ấy lính trong Dinh mới vỡ lẽ.
Tiểu Đoàn Biệt Động Quân của Sơn Thương được chỉ định về bố
trí tại Bưu Điện. Cả đêm 1.11, Tiểu Đoàn này bất động vì không có lệnh đánh ai
cả. Phía quân cách mạng cũng không tấn công. Phía Dinh Gia Long cũng chỉ cho biết “cứ
nằm đó đợi lệnh”. Phe cách mạng được mật báo có Tiểu Đoàn 34 Biệt Động
Quân đang án ngữ vùng Bưu Điện cho nên tờ mờ sáng, Tướng Đôn viết thơ tay gửi
cho Đại Úy Sơn Thương. Đại Úy chiêu hồi Sơn Thương đứng về phe cách mạng, dĩ
nhiên lúc ấy Tiểu Đoàn Biệt Động Quân theo ngay vì mọi sự đã xong. Sau này, các
Tướng Tá tham gia đảo chánh đều được tưởng thưởng mỗi người một cấp. Sơn thì
không. Trong thư gửi cho Đại Úy Sơn Thương Tướng Đôn có hứa tưởng thưởng cho Biệt
Động Quân nếu Tiểu Đoàn này theo phe cách mạng do đó Sơn Thương khiếu nại. Đại
Úy Sơn Thương được thỏa mãn ngay để gọi là công lao cách mạng được chia đều.
Riêng Chuẩn Úy Anh thì lao đao...Sau phải lãnh mấy chục ngày trọng cấm vì tội
dùng khí giới áp đảo và trưng dụng xe Thông Vận Binh.
8 giờ tối, Thiếu Tá Duệ ở Thành Cộng Hòa nhận được cú điện
thoại của Tổng Thống Diệm. Đại ý Tổng Thống ngỏ lời cảm ơn sự trung thành của
Quân Nhân thuộc Lữ Đoàn. Tổng Thống Diệm nói: “Vào giờ phút quyết liệt này Tổng
Thống mới biết rõ ai là người tốt ai là kẻ xấu. Tổng Thống hết lòng cảm ơn các
con đã bảo vệ Tổng Thống”. Sau đó Thành Cộng Hòa nhận được tin Tổng Thống Diệm
và Ông Nhu đã ra đi.
Bây giờ thì như rắn mất đầu, biết nghe lệnh ai ? Trước đây sĩ
quan cao cấp trong Lữ Đoàn đã hỏi Tổng Thống Diệm nếu khi có biến, gặp đến lúc
không có Tổng Thống và Ông Nhu thì hỏi lệnh ai, họ được chính Tổng Thống căn dặn:
“Khi có biến không có Tổng Thống và Ông Nhu thì xin lệnh của Tướng Đính hay Tướng
Khiêm”.
Khoảng 9 giờ Thành Cộng Hòa bị pháo kích như mưa. Con số bị
thương đã lên 30 người tức là gần nửa số quân chiến đấu. Thượng Sĩ Nguyễn cho
biết: “Thiếu Tá Duệ cho họp các sĩ quan lại tại Bộ Chỉ Huy và hỏi ý kiến nên giữ
Thành hay bỏ Thành” Một số khác yêu cầu rút lên Dinh Gia Long. Nhân chứng
thì cho rằng: “Cứ ở mãi trong Thành thì sẽ chết hết vì pháo kích”.
Một Sĩ Quan Phòng III lên tiếng: “Nếu ở lại cố thủ chiến đấu
thì cũng được nhưng cho đến giờ phút này có đạo quân nào của phe đảo chính tấn
công mình đâu? Vậy thì đánh với ai chi bằng “chém vè” để tránh pháo kích. Hơn
nữa Tổng Thống đã đi rồi còn giữ Thành làm chi”. Mấy Hạ Sĩ Quan khác lại
cho rằng: “Tuy Tổng Thống đã ra đi nhưng vẫn chưa có lệnh cho bọn mình rút lui,
xin Thiếu Tá cứ để chúng tôi lo cố thủ”.
Vào khoảng 11 giờ, Thành Cộng Hòa đã ăn khoảng 400 trái 105
ly.
Con số bị thương tăng lên 40 người. Bộ Chỉ Huy quyết định: “Bỏ
ngỏ Thành Cộng Hòa tìm cách di tản thương binh, còn ai muốn đi đâu thì đi. Nếu
tìm cách lên được Dinh Gia Long thì tốt nhất”. Lúc ấy mọi người đã kiệt sức vì
chưa ai ăn uống gì, không có cả nước uống. không có cả nước để uống.
Khoảng 12 giờ, Thành Cộng Hòa bỏ ngỏ. Từng tốp nối đuôi nhau
chạy thoát thân dưới làn đạn trọng pháo. Duy có Y Sĩ Trưởng tức Bác Sĩ Nguyễn
Tuấn Anh cùng mấy Y Tá, một số thương binh ở lại. Cũng có một số Quân Nhân và Hạ
Sĩ Quan gan dạ nhất quyết không chịu ra đi. Tổng kết từ 13g30 đến khoảng 9, 10
giờ tối có khoảng 45 Quân Nhân bị thương và 6 người thiệt mạng vì trọng pháo
trong suốt trận đánh.
TỪ ĐÀ LẠT ĐỢI LỆNH
1 giờ 30 ngày 1.11 súng nổ tại Sài Gòn thì cũng ngay giờ đó tại
Dinh số 1 và số 2 ở Đà Lạt vẫn yên tĩnh như thường lệ. khi biết tin Sài Gòn có
đảo chánh, Đại Úy Nguyễn Ngọc Hạp cho biết: “Những người gần Ông Nhu nhận
được tin này không một ai ngạc nhiên. Có thể nói chúng tôi chờ đợi đã cả
tháng”. Đại Úy Hạp Sĩ Quan Tùy Viên của ông Cố Vấn Nhu gọi điện thoại về
thẳng Sài Gòn, hỏi Ông Nhu: “Bây giờ chúng cháu ở trên này phải làm thế nào ?”
Đại Úy Nguyễn Ngọc Hạp buông máy gật gù “Đợi lệnh!” ông
Hạp nói với một sĩ quan: “Ông Cố Vấn bảo tôi, mọi sự cứ làm như thuờng lệ”. Tuy
nhiên, lực lượng Lữ Đoàn Phòng Vệ trên Đà Lạt cũng lo việc bố trí canh phòng.
Buổi chiều ông Hạp lại gọi điện thoại về Sài Gòn lần nữa. Lần này Ông Nhu chỉ
nói vắn tắt: “Mọi việc cứ như thường”. Trong tay Đại Úy Hạp lúc ấy có 4 thiết
giáp với quân số khoảng 50 người.
Ông Hạp mới lên Đà Lạt từ sáng 30 cùng đem theo 3 người con của
Ông Nhu gồm Trác, Quỳnh, Lệ Quyên và một chiếc valise. Chiếc valise ấy sau này
trở thành một “trung tâm” thu hút bao nhiêu cặp mắt tinh đời.
Đại Úy Nguyễn Ngọc Hạp cũng như Trung Úy Sung, sĩ quan hầu cận
được coi là những người sống gần Bà Nhu hằng ngày trong nhiều năm.
Vào ngày 22.10 do một ”đường giây” đặc biệt, Ông Nhu được
loan báo khá đầy đủ về kế hoạch đảo chánh do bộ ba Đôn, Kim, Xuân. Đường giây
này còn cho biết ngày giờ nào, Cabot Lodge sẽ gặp một Tướng lãnh ở đâu. Người
chung quanh ông cũng lấy làm lạ tại sao Đại Tá Tung đã báo cáo: “Phải coi
chừng Phạm Ngọc Thảo và Đỗ Mậu” song Phạm Ngọc Thảo vẫn ra vào văn phòng
Ông Nhu hàng ngày nhất là từ trung tuần tháng 10. Một lần Ông Nhu nói chính với
Trung Tá Phạm Ngọc Thảo “Bọn họ thì biết cái gì mà làm. Mỹ nó bảo sao nghe
vậy”. Trung Tá Phạm Ngọc Thảo ngồi nói chuyện với Ông Nhu hàng giờ và một ngày
có khi Trung Tá Thảo xin gặp Ông Nhu hai ba lần.
Giới thân cận có nghe tin Trung Tá Phạm Ngọc Thảo sắp thay Đại
Tá Mậu làm Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội mà trước đây đáng lẽ do Trung Tá Huỳnh
được cử thay thế. Giới chức thân cận Ông Nhu vẫn thường nhắc nhở với nhau: “Coi
chứng ông Mậu nghen. Khả nghi”. Khi nghe thuộc cấp báo cáo về Đại Tá Mậu Ông
Nhu chỉ nói nhát gừng: “Nó thì mần ăn được cái gì. Lo là lo ba cái thằng Mỹ
đó”.
Kể từ trung tuần tháng 10, Cabot Lodge gặp Ông Nhu luôn. Có
khi cuộc hội kiến kéo dài 1, 2 giờ. Những lần hội kiến như vậy, Ông Nhu đều cho
ghi âm một cách kín đáo. Sau đó cho người dịch lại để ông phân tách, đắn đo từng
lời của Cabot Lodge. Ông Nhu vẫn thường nói với một số sĩ quan thân cận như
Trung Tá Đằng, Trung Tá Khôi, Đại Tá Tung...“Cabot Lodge nguy hiểm lắm. Coi chừng
bọn CIA... bây giờ đâu cũng có lận”. Rồi mỗi khi nhắc đến Hilsman, người đầu
não của cơ quan “Việt Nam Task Force” Ông Nhu thường nói với mấy Bộ Trưởng như
ông Ngô Trọng Hiếu, Trương Công Cừu: “Cái thằng con nít đó (chỉ Hilsman) coi chừng
có ngày mình chết với nó đấy nghe! Kể cả Kennedy nữa. Kennedy cũng vẫn bị CIA sỏ
mũi dắt đi”.
Vào khoảng tháng 9, tháng 10, Ông Nhu gặp Đại Sứ Lalouette
luôn luôn. Cuộc gặp gỡ chỉ có hai người và kéo dài cả 2, 3 giờ đồng hồ.
Cách đó ít lâu, khi săn cọp ở Phan Rang, Ông Nhu nói với Trần
Văn Phước, thị trưởng Đà Lạt:
- Cabot Lodge sang đây mình sẽ mất đi nhiều viện trợ. Mình phải
lo mà tự lực càng sớm càng tốt. Người Pháp hứa sẽ viện trợ cho Việt Nam. Từ dạo
đó, Đại Sứ Lalouette hay đến thăm
Ông Nhu. Mỗi lần gặp nhau, hai người tỏ vẻ tương đắc như đôi
bạn tâm giao.
Thường hay tháp tùng Ông Nhu đi săn cọp tại khu rừng già Phan
Rang, chưa có lần nào Đại Úy Hạp thấy ông Cố Vấn Nhu tiếp xúc với việt cộng tại
vùng này. Song sự tiếp xúc với cộng sản Bắc Việt đã diễn ra ngay tại Sài Gòn và
trong mấy tháng liền. Cuộc tiếp xúc gần như định kỳ mỗi tháng 2, 3 lần. Có lần
khi trở về Dinh Ông Nhu rất tươi vui. Có lần ông đăm chiêu cau có.
Lần tiếp xúc cuối cùng với đại diện của Bắc Việt đã diễn ra
vào ngày 21, 22 tháng 10.1963. Khoảng 7 giờ tối hôm đó, ông Cố Vấn Nhu cho gọi
Đại Úy Hạp vào Dinh bảo sửa soạn để ông đến dùng cơm chiều với ông Đại Sứ Ấn Độ
Ram Chundur Goburdhun tại Ủy Hội Quốc Tế. Ông Goburdhun khoảng 50 tuổi (người Đảo
Maurice Ấn Độ tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa tại Đại Học Lille, cùng là bạn học
cũ của Ông Nhu khi hai người còn du học tại Pháp) Đại Sứ Ấn Độ vốn là một nhà
ngoại giao không khéo, lanh lợi, ăn nói rất bặt thiệp đã từng phục vụ tại Rabat
(Maroc) Tunis (Tunisie) cũng như tại Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.
Từ khi đến Sài Gòn, tân Đại Sứ Ấn trở thành trục nối giữa Hà
Nội và Sài Gòn. Mỗi khi đi Hà Nội về, có tin tức gì, ông Đại Sứ Ấn lại vội vã đến
thông báo cho Ông Nhu. Hoặc mỗi lần có mang theo “khách lớn” từ Hà Nội thì
ông Đại Sứ Ấn Độ lại tổ chức bữa cơm chiều tại Tư Dinh, ông Cố vVấn Nhu trở
thành thượng khách.
Đại Úy Hạp tò mò theo dõi thì lần nào cũng chỉ có ba người
dùng cơm với nhau: Ông Nhu, Đại Sứ Ấn và một nhân vật quan trọng theo Đại Úy Hạp.
Nhân vật này, mặt mũi rất sáng sủa, rất trí thức, có lấn mặc
complet, có lần mặc áo lãnh tụ cộng sản song lần nào ông ta cũng gài ở trên túi
áo ngực một ngôi sao vàng trên nền đỏ.
Bữa cơm vào cuối tháng 10 kéo dài đến 11 giờ khuya, khi ômg
Nhu ra về thì chỉ có Đại Sứ Ấn ra tiễn chân ông ở cửa.
Trước đó trong dịp đi săn cọp ở Phan Rang, Ông Nhu đã nói thẳng
với ông Phước mà Đại Úy Hạp nghe được đại khái: “Mỹ họ gây cho mình nhiều
khó khăn quá. Ngoài Bắc Việt họ tính chuyện hòa hoãn với mình. Mình cũng nên
tìm cách hòa hoãn với họ trong một giai đoạn xem sao”. Ông Cố Vấn Nhu cũng
tỏ ý như vậy với Trung Tá Đường vào một lần giữa năm 1963 khi ông đến Bình Tuy
săn cọp.
Ngày 26.10.63, phe đảo chánh không ra tay được vì Ông Nhu đã
được báo trước, Ông Nhu phàn nàn: “Cứ dùng dằng mãi nó làm tới bây giờ đây này.
Nó làm tới thì trở tay không kịp chết hết cả đám” Ông Nhu lại uống từng ly
Martell, lạnh lùng: “Tất cả những người chung quanh mình yếu quá”. Rồi Ông
Nhu lại phàn nàn: “Nói mãi mà ông Cụ không nghe, biết làm thế nào?”
Một số kế hoạch của Ông Nhu đệ trình lên Tổng Thống Diệm
không được chấp thuận kể cả việc thay thế Đại Tá Đỗ Mậu, Tổng Thống Diệm cũng
không chịu.
Về việc này Tổng Thống Diệm nhăn mặt nói với mấy người thân cận
như Đại Úy Bằng:
“Các người chỉ lắm chuyện... Đỗ Mậu nó có lỗi gì đâu” Về kế hoạch
hòa hoãn với Bắc Việt, Tổng Thống Diệm vì nể Ông Nhu tuy công khai phản đối
song Tổng Thống Diệm lại nói “Cứ để đấy xem tình hình như thế nào hẵng hay”.
Sau ngày 26.10.1963, Ông Nhu quyết định xuất ngoại, ông bắt đầu
uống nhiều Martell trong một đêm, một hiện tượng chưa từng thấy. Mặt ông nặng
chĩu lo âu và bẳn gắt. Vẫn đường giây đặc biệt đã gửi đến ông một bản báo cáo đặc
biệt và khá đầy đủ trong đó khuyến cáo ông nên tạm thời xuất ngoại. Những ngày
cuối chế độ, giới thân cận chưa từng thấy Ông Nhu lầm lì như vậy. Bao nhiêu
toan tính song vẫn đành khoanh tay trước cơn bão táp.
Cuối tháng 10.1963, nhân ngày lễ, các con ông như Trác và Quỳnh,
nội trú trường D'Adran Lasan về Sài Gòn nghỉ. Sáng 30 thì chúng phải trở lại Đà
Lạt.
Trong khi đó, Ông Nhu cũng sủa soạn xong hành lý để ra đi,
không hiểu lộ trình của ông sẽ đi đến đâu. Ấn Độ, Tunis, Rabat... Luân Đôn rồi
Paris, Ông Nhu đã sắm sửa 12 bộ quần áo mới kể cả áo pardesssue.
Nếu không có sự cản trở của Tổng Thống Diệm vào phút chót, có
thể ông đã lên đường vào ngày 28. Theo Đại Úy Hạp cũng như một số người thân cận
quanh ông, Ông Nhu bắt đấu lo lắng, kể từ giữa tháng 10, ông thường nói với một
số Bộ Trưởng thân tín như Bộ Trưởng Công Dân Vụ Ngô Trọng Hiếu: “Bọn Mỹ nó muốn
mình như Cao Ly. Âm mưu của nó là dựng lên một chính phủ quân sự. Nếu đảo chánh
thì nó sẽ cho mấy anh tướng lên cầm quyền từ đây đến 15 năm sau là ít. Nếu có
khá lắm thì cũng như chế độ của Phibul Songram của Thái Lan. Rồi các anh
coi”. Những ngày cuối cùng, Ông Nhu bắt đầu cởi mở.
Đêm 30.11, Trung Úy Sung thuật lại: Ông Nhu bảo gọi Đại Úy Hạp
vào ngay để ông biểu. Khi nhân chứng gọi điện thoại cho ông Hạp, ông này còn lừng
khừng “Cơm đã chứ, tôi ăn xong vào được không?” Hỏi lại ý Ông Nhu,
ông bảo phải vào ngay, khỏi cần ăn cơm nhà.
DÙNG DẰNG NỬA Ở NỬA ĐI
Khi Hạp cùng mấy anh em vào phòng riêng của Ông Nhu thì ông
chỉ ghế mời ngồi rồi gọi ông già Tường, quản gia:
- Làm hai ly Martell cho các chú ấy uống đi. Tay Ông Nhu vẫn
cầm ly rượu. Trán ông thỉnh thoảng nhăn lại, cằm ông bạnh ra. Đây là lần thứ nhất,
nhân chứng cũng như Đại Úy Hạp được cái hân hạnh cụ Nhu chỉ ghế mời ngồi và
cùng nhay “cụng ly”. Chưa ai dám lên tiếng. Ông Nhu đã than thở: “Quyết
định đi thì ông Cụ không cho đi. Giữ ở lại thì ông cũng không chịu nghe...”
Rồi Ông Nhu yên lặng một lúc lâu. Đại Úy Hạp lên tiếng: “Ông
Cố Vấn kêu chúng cháu vô đây có việc gì?” Ông Nhu khẽ thở dài rồi yên lặng
nhìn hai người một lúc lâu, mới nói:
“Sáng mai, các anh đưa mấy đứa nhỏ lên Đà Lạt dùm tôi”. Hạp
hỏi: “Ông Cố Vấn không đi?” Suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Chắc là
không đi được”. Rồi lại yên lặng hàng 10 phút Ông Nhu mới lên tiếng, bảo Đại Úy
Hạp: “Lấy hết quần áo về chưa? Cứ sắp xếp sẵn... khi nào cần thì bảo”.
Đại Úy Hạp hỏi: “Bao giờ chúng cháu đưa hai cậu và em
Quyên về?” Ông Nhu thủng thẳng đáp nhát gừng: “Bao giờ gọi điện thoại thì về”.
Rồi lại yên lặng...lát sau ông nói một mình vu vơ: “Nghe thì
không nghe, đi thì không cho đi. Tụi nó làm tới bây giờ rồi tính sao. Khó cho
tao quá đi”.
Đại Úy Hạp ngồi yên lặng vì không biết phải nói gì hơn. Ông
Nhu ngồi lặng thinh khoảng 0 phút như một pho tượng. Tay vẫn cầm ly Martell.
Ông Nhu nằm ngả người ra ghế tựa, uống đến ly Martell thứ ba, ông ngồi như thế
lặng lẽ từng giờ.
Bỗng Ông Nhu ngồi nhổm dậy, nét mặt chảy dài nói vu vơ: “Chà...mẹ
con nó đi hết rồi”. Ông Nhu quay lại hỏi Đại Úy Hạp:
- Mười ngàn tôi đưa Đại Úy còn không? Hạp đáp: “Thưa Ông Cố
Vấn đã hết từ lâu rồi”. Đại Úy Hạp vẫn thường tâm sự với ông già Tường, Trung
Úy Sung: “Ông Cố Vấn tiêu xài kỹ quá đi. Từ khi bà đi ngoại quốc thì ông ở nhà
lo việc chi tiêu. Đưa cho ai đồng nào, ông Cố Vấn bắt ghi từng mục”. Đưa
cho Hạp mười ngàn. Hạp tiêu xong lại phải trình bản kết toán đầy đủ chi tiết.
Ông Nhu hỏi Hạp:
- Bây giờ đưa bọn nhỏ lên Đà Lạt thì cần bao nhiêu mới đủ chi
dùng? Hỏi rồi Ông Nhu đáp liền: “Thôi đưa Đại Úy 15 ngàn đủ chứ?”
Hạp hỏi Ông Nhu: “Thưa ông các cậu đi bằng máy bay nào? Đi
Air Việt Nam cho tiện được không?” Ông Nhu trầm ngâm rồi lắc đầu: “Đi Air
Việt Nam nguy hiểm lắm. Nó đi thẳng, bắt mấy đứa nhỏ làm con tin thì sao?”
Ông Nhu bảo Hạp liên lạc với Đại Tá Hiển để lấy máy bay của
Không Quân Việt Nam cho chắc chắn.
Lặng thinh một lúc lâu bỗng Ông Nhu đứng lên lấy hai khẩu
súng kiểu 22 loại không gây tiếng nổ trao cho Hạp, Ông Nhu khoe: “Họ mới biếu
moa. Cho Hạp một khẩu. Loại súng này đặc biệt lắm. Để ở nhà sợ thằng Trác nó bắn
bậy bạ”. Rồi Ông Nhu lại con cà con kê một lúc lâu.
ĐỨA TRẺ THƠ
Tình hình Đà Lạt vào ngày 1.11 vẫn như vô sự. Đại Úy Hạp và Hữu
vẫn di phố xem xét tình hình như thường lệ. Ông Hạp cho 4 chiếc Thiết Giáp đi
tuần tiễu quanh phố. Tình hình biến chuyển đột ngột. Sáng ngày 2, Trường Võ Bị
Đà Lạt trở thành Tổng Hành Dinh của phe đảo chánh gồm Trung Tá Trần Ngọc Huyến
và Thiếu Tá Ngô Như Bích. Ông Trần Văn Phước vẫn trung thành với chế độ Ngô
Đình Diệm.
Rút kinh nghiệm vụ đảo chính hụt 11.11.1960, ông Huyến chỉ “ra
tay” khi được tin Thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long thất thủ. Ngay sau đó,
ông Trần Văn Phước, Thị Trưởng Đà Lạt bị phe Trung Tá Trần Ngọc Huyến bắt giữ tại
Trường Võ Bị. Điều quan trọng đối với phe ông Huyến là làm thế nào bắt được ba
đứa con của Ông Nhu. Một vài người khác thì có máu tham thì lại đặc biệt lưu ý
đến chiếc valise mà Đại Úy Hạp mang từ Sài Gòn lên từ ngày 30.
Phía đầu giây bên kia ông Phước gọi cho Đại Úy Hạp: “Anh
mang Quỳnh, Trác, Quyên vào đây cho tôi” Ông Hạp quay lại nói với Đại Úy Hữu:
“Không hiểu như thế nào, giọng ông Phước lại hơi run run, ngắt quãng. Có lẽ đã
bị bắt”. Tuy vậy, ông Hạp cũng hứa sẽ đưa ba đứa nhỏ vào ngay. Mặt khác,
ông Hạp lại cho người lên Trường Võ Bị dò thám và xin gặp ông Phước thì ở đây
cho biết không thể gặp ông Phước được. Đại Úy Hạp bắt đầu nao núng.
Đại Úy Hạp và Hữu cùng quyết định đem 3 đứa nhỏ con Ông Nhu
đi trốn. Để làm kế nghi binh, nhân chứng cho xe Mercedes chạy vòng quanh Thành
Phố cứ làm như trên xe có ba đứa nhỏ. Trong khi đó, Hạp, Hữu cùng đoàn cận vệ
đem 3 đứa nhỏ con Ông Nhu tẩu thoát, lẩn trong rừng thông đi từ Dinh số 1 về
Dinh số 2 rồi men theo đường rừng xuống Đơn Dương. Đại Úy Hạp định tâm xuống
Phan Rang tìm đến Trung Tá Khánh Tỉnh Trưởng Tỉnh này.
Lặn lội trong rừng suốt buổi chiều cho đến đêm, nhân chứng và
đoàn tùy tùng mới đến vùng Danhim. Phần thì đói, khát...lại mệt mỏi vì đường
trường.
Đoàn lữ hành cả bọn phải dừng lại cho dựng lều và phân phối
lo cận vệ lo việc bố phòng. Lúc ấy, Đại Úy Hạp lo ngại nhất là đám người chung
quanh và việt cộng trong vùng. Nhưng biết làm thế nào hơn. Các con Ông Nhu vẫn
chưa được tin báo về cha mình bị giết. Đi mỗi ngày đường lại trải qua một đêm nằm
giữa rừng nên con bé Quyên chịu không nổi, bắt đầu đau. Đại Úy Hạp cố tìm
cách bắt liên lạc với Sài Gòn nhưng đều bặt tin.
Phe đảo chánh cũng đang xua quân đi lùng bắt đám con Ông Nhu.
Trưa ngày mùng 3, máy bay của Quân Đoàn II lượn quanh vùng Danhim phát thành
kêu gọi Đại Úy Hạp đem theo 3 đứa bé về trình diện Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Đại Úy Hạp và Hữu đều lo ngại.
Tổng Thống Diệm và Ông Nhu còn bị giết huống chi 3 đứa nhỏ. Đại
Úy Hạp đề nghị đoàn lữ hành sẽ băng qua rừng xuống Phan Rang rồi một là tìm
cách về Xuân Lộc ấn náu nếu thuận tiện thì về thẳng Sài Gòn nếu không sẽ qua
Phước Long và rồi sang Cao Miên.
Nhưng cuối cùng, đoàn lữ hành phải khoanh tay vì hết tiền. Mấy
bữa liền, bọn con Ông Nhu phải ăn đồ hộp và uống nước lạnh. Con bé Quyên đã đuối
sức. Quyên cũng như Quỳnh tỏ ra ngạc nhiên trên bước đường lưu lạc. Cận Vệ thì
anh nào cũng tay cầm súng, sẵn sàng đối phó.
Hai ông Hạp và Hữu không dám dời bọn nhỏ một phút.
Mãi đến ngày 3, Đại Úy Hạp mới cho Trác biết tin Bác và Ba của
Trác đã chết. Lúc đầu Trác không tin. Sau cho Trác theo dõi radio, bấy giờ Trác
mới tin. Đôi mắt chú bé rưng rưng nhưng không nói một lời nào.
SĂN ĐUỔI
Phi cơ vẫn bay lượn trên nền trời Danhim, phát thanh kêu gọi
Hạp và Hữu đưa bọn nhỏ trở về Đà Lạt. Trác nói với Đại Úy Hạp: “Đại Úy đưa
các em tôi về” Hạp nói: “Cậu và các em về thì không sao nhưng còn bọn
chúng tôi, họ đâu có tha”. Trác lại nói: “Hai em tôi nó mệt quá, ở trong rừng
lạnh chết mất. Đi làm sao được nữa...” Đại Úy Hữu đáp: “Nếu ý cậu muốn như
vậy cũng được. Đại Úy Hạp sẽ tìm cách thu xếp để cậu về”.
Sau đó “đoàn lữ hành” kéo nhau băng rừng trở về Thành Phố.
Cho chắc hơn, ông Hạp vẫn để bọn nhỏ ở trong rừng thông. Ông cho người về phố
quan sát đồng thời gọi cho phe đảo chánh báo tin với một điều kiện ông Hạp chỉ
nộp 3 đứa nhỏ cho Tướng Khánh. Gọi máy xong, ông Hạp lại cho di chuyển 3 đứa nhỏ
đến một địa điểm khác sợ bị lộ mục tiêu. Phe đảo chánh vẫn xua quân đi tìm rất
ráo riết.
Ngày 3.11, Tướng Khánh đã có mặt ở Đà Lạt nhận lãnh ba đứa con
Ông Nhu. Tướng Khánh nắm tay Đại Úy Hạp, giọng buồn: “Tụi nó làm không có ra
cái gì hết. Giết người ta, thảm hại quá!”.
Sài Gòn, Mùa Đông 1970Lương Khải Minh vàVị Hoàng Cao Thế Dung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét