Duyên Anh và tôi 1
Những Chuyện Bên Ly Rượu
Định mạng đưa tôi đến với Duyên Anh và trở thành người em kết
nghĩa được anh tin cậy và yêu mến nhất. Trong những năm tháng cuối đời Duyên
Anh, tôi được may mắn gần gũi anh một thời gian, được chuyện trò, học hỏi, vui
đùa với anh như với một người bạn thiết. Chẳng biết có phải vì linh cảm lần gặp
gỡ tháng 8, 1995 sẽ là lần cuối cùng hai anh em sống gần nhau không, Duyên Anh
bảo tôi thu băng lại những điều anh tâm sự, và dặn tôi “mai đây, anh có chết,
em đừng buồn, vì lời anh nói vẫn còn ở bên em”. Những cuốn băng ấy là kỷ vật vô
giá anh để lại cho tôi. Mỗi lần nghe lại, tôi còn thấy như thoáng đâu đây hình ảnh
của một Duyên Anh tràn đầy sức sống, mái tóc bồng bềnh, da mặt hồng hào, nụ cười
rạng rỡ, với tiếng cười ngạo nghễ, pha lẫn những câu chửi thề dòn dã bên ly rượu,
trong phòng khách, ngoài vườn sau...
Duyên Anh đã có lần nói với tôi:
- Thiên hạ chẳng mấy ai hiểu được anh. Có lẽ, phải đến lúc anh chết rồi, người
ta mới hiểu và thương anh.
Duyên Anh qua đời đã ba năm rồi. Tôi nghĩ, đã đến lúc ghi lại những kỷ niệm với
Duyên Anh, những điều chính tai tôi đã nghe anh nói, mắt tôi đã thấy anh làm, cả
những cái hay lẫn những điều dở; để cho những người yêu mến Duyên Anh, cũng như
những ai chưa từng gặp anh, có được một bức tranh trung thực về con người đặc
biệt này.
Có lẽ, đến quá nửa câu chuyện trao đổi giữa hai chúng tôi, đều được ghi lại
trong những lần uống rượu với nhau. Những khi ấy, Duyên Anh bốc đồng, nói vung
vít, rút hết ruột gan ra với tôi, phô bày trọn vẹn con người thật của anh. Rất
có thể, vì quá yêu, hoặc quá ghét, một số nhân vật nào đó, anh đã có những nhận
xét rất chủ quan, có khi khắt khe, có khi lại rất dễ dãi, đối với những người
này. Duyên Anh gọi những người anh không ưa bằng ông, hoặc bằng thằng. Và cũng
dùng chữ thằng đối với những người bạn, anh thực sự yêu mến. Độc giả sẽ nhận ra
ngay, Duyên Anh là người yêu ghét rất phân minh. Anh chẳng bao giờ cần che đậy
khía cạnh tình cảm ấy của mình.
Những điều Duyên Anh nói với tôi, và tôi đã trực tiếp nghe từ nơi anh, rất có
thể, sẽ không hoàn toàn đúng, hoặc thiếu chính xác, về một số phương diện nào
đó. Thậm chí, có khi còn sai lầm nữa. Nhưng điều tôi có thể đoan chắc với người
đọc, đó chính là những gì anh đã nói; tôi đã nghe, và ghi chép lại.
Một vài thân hữu, xem qua bản thảo, đã đề nghị tôi bỏ bớt những chỗ Duyên Anh
chửi thề trong đó. Tôi cám ơn các vị này, nhưng để giữ sự trung thực, tôi quyết
định để nguyên những chỗ ấy (Duyên Anh nói chuyện, mà không chửi thề, câu chuyện
sẽ mất hay đi rất nhiều, những bạn thân của Duyên Anh đều đồng ý với tôi như vậy).
Tôi cũng để nguyên cả những chỗ, tôi biết anh nói không đúng.
Mục đích của tôi, không nhằm mô tả Duyên Anh như một thần tượng đã từng được
hàng triệu độc giả, trong số đó có tôi, ngưỡng mộ. Tôi chỉ muốn vẽ lại Duyên
Anh, như một con người. Một con người rất người, với một số thói hư tật xấu,
sôi động thất tình, cũng như những ý nghĩ thật đẹp của anh. Tôi biết rất rõ, bức
tranh ấy không thể nào vẽ lại được hoàn toàn con người Duyên Anh. Nhưng có một
điều chắc chắn: những điều tôi sẽ viết ra đây là những gì chân thành nhất tôi
có thể nhớ và nghĩ được về Duyên Anh Vũ Mộng Long, như một nguời anh kết nghĩa
đã thương yêu tôi như đứa em ruột; và như một người bạn thân thiết đã chia xẻ với
tôi không biết bao nhiêu là kỷ niệm.
Ít nhất, xin hãy cứ coi như đây như đóa hoa tâm tưởng tuyệt vời nhất tôi dâng
lên hương hồn Duyên Anh Vũ Mộng Long.
Ước mong quý vị độc giả thân mến, những anh em, bè bạn của Duyên Anh hãy cùng
tôi nhóm một lò trầm tưởng niệm. Hãy cùng tôi chia xẻ kỷ niệm, kỷ niệm tha thiết
cuả tôi. Để tưởng nhớ Duyên Anh Vũ Mộng Long. Mãi mãi.
Vũ Trung Hiền
Chương 1
Mệnh phụ có cái mốt đi vào bệnh viện Cộng Hòa “ủy lạo” chiến
sĩ bị thương nằm trong đó. Một bữa kia, bà thủ tướng đi thăm thương bệnh binh;
chuyến đi thăm này đã được Duyên Anh tường thuật và ca tụng trên báo. Bài báo kết
thúc bằng câu hát nhái theo bài hát trẻ con Frères Jacques, thường được các cô
mẫu giáo dạy các em hát thành Giờ Chơi Đến Rồi.
Bà thiếu tướng ..., bà thiếu tướng…
Giầu tình thương, giầu tình thương
Công đức kia, ai hơn bà, công đức kia ai hơn bà
Công bà to, Ơn bà to !
Sau hôm báo ra chừng một tuần, Duyên Anh cười khà khà, bảo tôi:
- Anh nghe tụi nó nói, vợ chồng K. khoái lắm, tưởng anh khen thật. Chúng nó đâu
có biết là anh xỏ lá!
Tôi nói:
- Anh muốn chơi chữ công đức, như ngày xưa cụ Nguyễn Khuyến dùng để ca tụng một
bà Me Tây ở Hà nội, nhân dịp bà này được vua ban bốn chữ Tiết Hạnh Khả Phong,
và bà tổ chức khao vọng tưng bừng phải không ?
Duyên Anh gật gù, vừa nói vừa cười:
- Phải rồi, mẹ chúng nó, ngàn năm công đức của bà to. Nó to như vậy đó!
Mùa hè 1970, Duyên Anh thụ huấn quân sự mấy tuần ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang
Trung, sau đó, được trở về Saigon tiếp tục viết báo. Trong thời gian ở Quang
Trung, Duyên Anh làm bài thơ Em 16, theo trường phái Hồ Xuân Hương, để vừa nói
tới khẩu súng cá nhân ngày đêm gần gũi bên mình, vừa mô tả rất gợi cảm những
hành động âu yếm với người yêu. Rất tiếc, tôi đọc qua một lần, không còn nhớ được
câu nào trong bài thơ ấy. Thời gian này, anh cũng kéát thân với nhạc sĩ Thục
Vũ, tác giả những ca khúc Tình Mùa Chinh Chiến, Đàn Thu Tay Ngọc,…người đã phổ
nhạc một số bài thơ cuả Lệ Khánh, tác giả thi tập Em Là Gái Trời Bắt Xấu. Thực
ra, người nữ thi sĩ này không xấu như chị đã khiêm tốn nói về mình đâu. Tôi đã
được gặp Lệ Khánh hai lần: lần đầu, trên Đà Lạt, trước 75, khi cùng đi với Vũ Đức
Nghiêm; lần thứ nhì, khoảng 77, 78, khi chị ghé nhà tôi với cháu Vũ Khánh Thục.
Một trong những bài thơ Lệ Khánh, Thục Vũ phổ nhạc, khá thành công trên thị trường
âm nhạc lúc ấy, vì dễ hát, và được nữ ca sĩ Thanh Tuyền hát nhiều lần trên đài
phát thanh. Bản nhạc này mở đầu và kết thúc bằng mấy câu thơ năm chữ giản dị
Hôm nay trời vào thu
Đà lạt lắm sương mù
Cây khô buồn trút lá
Gió ven hồ bay xa
Mây thu lờ lững trôi
Nhè nhẹ gió lưng đồi.
Xin anh đừng giận dỗi
Viết thư về thăm em
Viết thư về thăm em
…
Mai đây tàn chinh chiến
Áo em mầu mô-sa
Đón anh về hoan ca
Bấy giờ, Thục Vũ đang làm Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị tại TTHL Quang
Trung.
Sau Tết 1971, đến phiên tôi thụ huấn giai đoạn một, khóa 1/1971 SQTB Thủ Đức, đại
đội 1, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng, cũng tại Quang Trung. Duyên Anh viết mấy chữ
giới thiệu tôi với Thục Vũ, đại khái “Người cầm giâáy này, Vũ Trung Hiền, là em
Vũ Đức Nghiêm, và cũng là em của moi nữa. Thục Vũ có thể giúp gì cho Hiền thì
giúp nhé. Cám ơn bạn. Thân. Duyên Anh.”
Một buổi chiều, tôi mang giấy này đi tìm Thiếu Tá Vũ Văn Sâm, tên thật của Thục
Vũ. Nhà anh ở rất gần cổng trại. Thục Vũ tiếp tôi khá niềm nở, và có cảm tình
ngay, khi tôi hát cho anh nghe mấy bài nhạc anh làm, tôi đã thuộc từ trước. Thục
Vũ bảo, khi nào rảnh, ghé chơi với anh. Nhưng tôi chỉ ghé thăm anh có một lần,
buổi sáng, tuần lễ không ai được về phép. Căn nhà anh ở, khu dành cho sĩ quan,
bày biện giản dị. Phòng khách kê bốn ghế bành, chiếc bàn gỗ tròn đặt ở giữa. Đặc
biệt, ở chỗ dựa mỗi ghế, phủ tấm vải vuông trắng, viền đăng ten, trên các tấm vải
này, thêu những hàng chữ mầu, tên các sáng tác ưng ý của anh. Thục Vũ pha cà
phê sữa nóng, đãi tôi. Tôi mượn anh chiếc guitar, hát cho anh ca khúc Đàn Thu
Tay Ngọc, anh phổ thơ Đinh Hùng
Trong vắt lời ca phảng phất nhung
Lòng như mưa lạnh, nhớ lưng chừng
Lưng chừng nỗi nhớ thu đi lạc
Bước nhỏ trăng soi gót rụng hồng
Ôi phím đàn hoa rộn ngón tay
Làn môi mê dại tóc buông dài
Em cười thoảng gió lên cung bậc
Tiếng thở dài vương thương nhớ ai
Tay ngọc tà thu ngón tuyéát sa
Gió mưa tình ý lệ chan hòa
Bốn giây tuyệt vọng đau hàng phím
Hoa dịu làn môi nghẹn khúc ca
Anh nắm bàn tay nhịp xuống em
Bàn tay dạ nhạc mướt tơ mềm
Tơ mê lùa gió lên cung ngọc
Cánh nhạc hồn anh nhập bóng em
Xin em đưa nhạc lên trời xanh
Ý đẹp tay thơm kết mộng lành
Anh gục đầu lên trang sách ước
Chờ nghe máu chuyển một dư thanh
Tôi xin phép Thục Vũ cho tôi để nhờ chiếc xe Honda 50 ở nhà anh, trong lần trả
phép tuần kế tiếp. Anh bằng lòng. Nhờ đó, trong ba tháng tập tành ở Quang
Trung, thay vì phải đi bộ vài ba cây số mới đón được xe đò về Saigon, tôi chỉ mất
năm mười phút, là đã ngồi lên xe của mình, tiết kiệm được vài ba tiếng đồng hồ
quý báu của 24 giờ phép.
Sau 1975, Thục Vũ đi tù cải tạo. Vì sức yếu, anh qua đời tại trại tù Sơn La, miền
Bắc, tháng 11, 1976.
Bản nhạc sau cùng, Thục Vũ để lại cho đời, Anh Ở Đây, lời 2 Vũ Đức Nghiêm viết,
mô tả cuộc sống ngục tù buồn chán, khốn nạn, ở các trại Tân Hiệp, Suối Máu, và
Sơn La. Bài này đã được nhóm Hưng Ca phổ biến rộng rãi ở hải ngoại.
Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây,
áo rách xác xơ vai gầy, cùng chung kiếp sống lưu đầy
Anh ở đây, ngày ngày cơm chia vài chén
Chiều chiều ra trông đàn én kiếm mồi thâáp thoáng bay nhanh
Toa liền toa, tầu đi trong bóng hoàng hôn, tiếp nối những dư âm buồn….
thành thơ day dứt tâm hồn….
Anh đẩy xe, bạn bè anh cũng đẩy xe
dưới nắng gắt gay trưa hè, lòng đau viễn xứ ê chề
Mưa chiều đông nhạt nhòa, mưa rơi lạnh giá
ngậm ngùi trông nhau lặng lẽ, chân buồn đếm bước lê thê…
° ° °
Tháng 4, 1972, tại trường Trung Học Tổng Hợp Thoại Ngọc Hầu,
Long Xuyên, Nguyễn Thiện Cơ và tôi tổ chức một buổi cho Duyên Anh nói chuyện với
các độc giả trẻ tuổi của anh. Hội trường chật ních người tham dự. Hiệu Trưởng
và các giáo sư Thoại Ngọc Hầu ngồi hàng ghế đầu; học sinh đứng cả lên dãy bàn
cuối hội trường, một số em đến sau phải đứng ngoài cửa, hoặc trèo lên cửa sổ mắt
cáo bên hành lang, nhìn vào.
Hôm ấy, Duyên Anh khuyên những độc giả trẻ tuổi của anh, nếu yêu thích văn
chương và muốn bước vào con đường viết lách, hãy có cam đảm đi ngược chiều: phải
tạo cho mình một lối viết, một cách suy nghĩ riêng biệt, đừng rập khuôn theo một
ai, ngay cả bắt chước cách hành văn của nhà văn mình ái mộ, cũng không nên.
Duyên Anh nêu ra những cuốn Luận Đề về Nguyễn Công Trứ, Luận Đề về Trần Tế
Xương, v.v., do các giáo sư Việt Văn viết, và học sinh phải học thuộc, để khi
đi thi, gặp đề tài tương tự, sẽ dựa vào những gì đã học trong mấy cuốn luận đề ấy
mà viết lại. Anh đọc thuộc lòng bài thơ tả cảnh mùa hè của Nguyễn Khuyến, “ cái
nóng nung người, nóng nóng ghê”, trích dẫn phần bình luận trong cuốn Luận Đề về
Nguyễn Khuyến, rằng Nguyễn Khuyến có tư tưởng cách mạng, mong có cuộc nổi dậy
đuổi giặc Pháp, để toàn dân được sống trong cảnh thanh bình.
Duyên Anh cho đây chỉ là một lời bàn nhảm, đem ý riêng của kẻ hậu sinh gán ghép
vào tư tưởng bậc tiền bối. Duyên Anh cũng không đồng ý với những người ca tụng
Trần Tế Xương. Theo anh, nhà thơ trào phúng đất Nam Định, với thành tích cao
lâu thường ăn quịt, thổ đĩ lại chơi lường, chỉ là một “kẻ sĩ bệ rạc trong thời
buổi đất nước bị đô hộ”, không có gì đáng ca ngợi cả.
Buổi nói chuyện cũng là dịp ra mắt tác phẩm Phượng Vĩ của Duyên Anh. Mấy chồng
sách anh mang theo, chỉ trong chốc lát, những độc giả trẻ tuổi ấy mua hết sạch.
Những ngày cuối tháng tư, 1975, tôi hay đến thăm Duyên Anh ở tòa soạn đường Bùi
Thị Xuân. Có lần, anh chở tôi trên chiếc xe Ford Pinto đời 74 gắn máy lạnh, màu
xanh cánh chả, đi một vòng Saigon xem thiên hạ chộn rộn bán đồ, chuẩn bị cho việc
ra đi. Anh cho tôi biết tình hình lúc ấy rất bi đát, nhưng vẫn trông chờ một cuộc
chiến đấu bảo vệ Sài gòn, mà anh ước ao được tham dự, để có thể viết một tác phẩm
lớn về cuộc chiến đấu đó. Anh bàn với tôi, nếu tình hình nguy ngập, không còn
hy vọng gì nữa, và bất đắc dĩ phải ra đi, chúng tôi nên để lại gia đình, mới dễ
tìm cách thoát thân được.
Anh vẽ ra những cảnh sống rất nghệ sĩ ở Paris, nơi anh dự tính sống với tôi và
vài người tuổi trẻ cùng chí hướng khác.
Dự tính ấy bất thành. Chúng tôi đều bịn rịn vợ con, không dứt áo ra đi một mình
được.
30 tháng 4, 1975, miền Nam thua trận. Duyên Anh đến thăm tôi một sáng giữa
tháng 5. Anh nói:
- Có lẽ, anh sẽ vào chiến khu. Người ta vừa liên lạc với anh.
Tôi ngạc nhiên:
- Thế còn chị và các cháu ?
- Anh có hỏi. Tổ chức sẽ đưa chị và mấy đứa nhỏ ra ngoại quốc. Đàn ông ở lại, dễ
làm việc hơn.
Tôi tò mò, hỏi thêm. Duyên Anh không giấu gì tôi, kể lại đầu đuôi việc chính phủ
của thủ tướng Đinh Xuân Cầu mời anh tham gia với chức vụ bộ trưởng thông tin
tuyên truyền. Ông Đinh Xuân Cầu là anh ruột giáo sư ĐXT dạy Anh văn ở Đại Học
Văn Khoa Saigon, cuối thập niên 1960, đầu 1970. Duyên Anh cả tin, nghe họ nói mọi
thứ đã chuẩn bị xong, chỉ chờ ngày đưa gia đình anh đi xong, là anh sẽ vào bưng
với tổ chức ngay. Anh có vẻ phấn khởi, vì sẽ có dịp thi thố sở trường của mình.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, Duyên Anh tâm sự với tôi: “Ông Đinh Xuân Cầu
và tổ chức của ông chỉ là những người mắc chứng hoang tưởng, không có thực lực
gì hết.”
Hơn mười năm sau, khi viết Hồn Say Phấn Lạ, có lẽ Duyên Anh đã xây dựng nhân vật
Phan Thức, một phần nào dựa trên kinh nghiệm cá nhân của anh đối với nhân vật
Đinh Xuân Cầu có thực ở ngoài đời. Duyên Anh cho tôi biết, anh cũng liên lạc với
nhóm chống cộng của bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Bs Quế, lúc ấy vẫn còn làm việc ở bệnh
viện Chợ Rẫy. Dĩ nhiên, những điều anh thổ lộ với tôi, trong hơn hai mươi năm
qua, tôi chưa hề kể lại với một người nào khác.
Những ngày sau 30 tháng 4, 1975, Duyên Anh ở nhà thường xuyên. Thỉnh thoảng,
tôi ghé 225B Công Lý thăm anh. Có bữa, tôi đến nhằm lúc anh đang ngồi rửa chén
bát ở dưới mái hiên bên phải, cạnh chỗ trước đây, anh hay đậu chiếc xe Pinto.
Bên cạnh anh, một người phụ nữ trẻ, rất trẻ, đang rửa phụ với anh. Duyên Anh giới
thiệu:
- Chú Hiền, em của cậu. Còn đây là T., cháu gái anh.
Người phụ nữ chào tôi bằng “chú”, giọng nói miền Bắc rặt. Tôi hỏi:
- Cháu từ Hà nội vào, phải không?
- Vâng, cháu mới vào thăm cậu cháu đây.
Tôi nhìn Duyên Anh vừa nói chuyện với tôi, vừa chậm rãi dùng búi xà phòng rửa
thật kỹ từng chiếc bát ăn cơm. Anh nói:
- Làm việc gì cũng thế, mình cứ thích làm cho kỹ, cho sạch và đẹp mới được.
Cô cháu gái Duyên Anh có nước da trắng, nụ cười và hàm răng rất giống anh. Cô
ta làm cán bộ ngân hàng nhà nước, vừa vào Nam công tác, tiện thể đến thăm cậu
ruột mình.
Mấy hôm sau, Duyên Anh đến nhà tôi chơi. Anh bảo:
- Cái con cháu hôm nọ, thật ra, là con gái anh đấy. Anh dặn nó gọi anh bằng “cậu”.
Chị ấy với mấy đứa nhỏ không biết đâu.
Tôi nói:
- Gọi bằng “cậu” thì cũng đâu có khác gì? Ở nhà em, mọi người đều gọi bố em bằng
“cậu”. Hôm nọ, lúc anh giới thiệu, chính em cũng hơi ngờ ngợ. Bởi vì T. giống
anh quá.
Duyên Anh nói:
- Tội nghiệp con bé! Hai mươi hai năm rồi mới gặp lại bố. Hồi anh rời miền Bắc,
nó chưa được một tuổi. Anh đang cố gắng bù đắp lại cho nó, nhưng không dám làm
gì lộ liễu, sợ chị ấy biết.
Tôi hỏi:
- Như vậy, mẹ của T. là thế nào?
- Thì là vợ trước của anh. Em biết, anh là con cả trong nhà. Ông cụ anh muốn có
cháu nội sớm, nên dàn xếp với gia đình bên kia để làm đám cưới. Hồi ấy, mình mới
có mười mấy tuổi, có biết gì đâu.
- Lúc anh bỏ đi rồi, chắc mẹ con vất vả lắm nhỉ?
- Dĩ nhiên rồi. Mẹ con cháu phải về sống với ông bà ngoại một thời gian, rồi
sau đó, bà ấy lấy chồng khác. Cháu kể lại với anh, nghe thương lắm! Có lần cháu
sốt, lúc ấy nó chỉ chừng ba bốn tuổi, mẹ đang ôm dỗ cháu ngủ thì phải để nó nằm
một mình, để quay sang “chiều” ông bố ghẻ đến cơn đòi hỏi.
(Khi tôi viết những dòng này, con gái Duyên Anh, VTMT, đã là một thiếu phụ bốn
mươi sáu tuổi. MT hiện đang sống với chồng con ở Hà nội.)
Bất chợt, Duyên Anh quay sang chuyện khác:
- Thôi, không nói chuyện cũ nữa. Đem guitar ra đây, anh hát cho nghe mấy bài
này, vui lắm.
Rồi vừa đệm đàn, anh vừa hát nho nhỏ cho tôi nghe bài Như Có Bác Hồ
Trong Ngày Vui Đại Thắng, mà anh đã sửa lời thành
Như có ông già trong nhà thương Chợ Quán
Vừa bước ra bị con nít đánh lên đầu…
Bài Thành Phố Mang Tên Người, Duyên Anh hát
Từ thành phố này Người đã ăn khoai, ăn xong hết khoai ăn đến củ mì, ăn hết mì rồi,
đến tối Người về húp cháo trừ cơm...;
và ...
Bác đã đến từng nhà , bắt các cụ già, cầm tay chúng con, Bác dắt vào nhà lao
Chí Hòa..
Hai bản nhạc này, tôi đem xuống Trường Phổ Thông Cấp 3 Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai,
hát cho mấy đồng nghiệp trẻ tuổi nghe trong những đêm mưa chúng tôi tạm trú tại
cư xá giáo viên của trường, một lớp học trống, với hai mặt bàn kê sát làm giường
ngủ; chiếc bếp dầu hôi kê gần cửa sổ là chỗ nấu ăn của bốn năm nhà giáo thiếu
nhiệt tình với chế độ mới.
Dĩ nhiên, với tâm trạng và suy nghĩ bơi ngược chiều như thế, tôi không thể tồn
tại lâu dài trong môi trường giáo dục xã hội chủ nghĩa được. Chưa xong một niên
khóa, tôi nhận giấy của Tỉnh Ủy Đồng Nai tuyên dương “toàn thể gia đình làm tay
sai cho Ngụy, bản thân không tán thành chế độ mới, sa thải vĩnh viễn khỏi ngành
giáo dục, đề nghị địa phương quản lý đương sự”.
° ° °
Duyên Anh và tôi, kẻ trước người sau, đều đi tù. Ngẫu nhiên,
chúng tôi cùng được thả đầu tháng 9, 1981. Lại gặp nhau, thân thiết như xưa.
Hôm đầu tiên đến thăm Duyên Anh sau ngày ra tù, tôi thấyanh đang tiếp Tạ Tỵ,
Doãn Quốc Sỹ, và ông Nguyễn Hùng Trương, giám đốc nhà sách Khai Trí. Sau khi giới
thiệu tôi với các vị này, Duyên Anh đọc cho tất cả nghe mấy bài thơ anh vừa
làm. Tạ Tỵ cao giọng ngâm bài thơ Tiếng Hát Trong Tù của anh. Sau đó, tôi hát
cho tất cả nghe Mưa Long Giao và Mai Em, Anh Về, thơ Hà Thượng Nhân, Vũ Đức
Nghiêm phổ nhạc, vừa lén gửi về cho tôi.
Những tuần lễ kế tiếp, chúng tôi gặp nhau thường xuyên. Có hôm, tôi chở Duyên
Anh bằng xe đạp đi Xóm Mới, Gò Vấp thăm gia đình một vài người bạn tù Xuyên Mộc
của anh, những người đã giúp đỡ anh trong thời gian ở đó. Duyên Anh biếu tiền vợ
con bạn tù của anh, và mời họ đến nhà anh ở 225B Công Lý, đểù nhận những vật dụng
có thể dùng được, vì chị Duyên Anh với mấy cháu sắp sửa đi Pháp. Có bữa, Duyên
Anh nhờ tôi đưa anh đến một biệt thự trên đường Phan Thanh Giản. Anh dặn tôi
đúng hai tiếng sau, trở lại đón anh .
Trên đường về, chúng tôi ghé lại một quán cà phê vỉa hè gần góc Công Lý-Yên Đổ.
Quán vắng, chỉ có hai chúng tôi ngồi riêng biệt sát bờ tường. Duyên Anh mở lời,
như đoán biết thắc mắc của tôi:
- Mỗi tuần, anh phải đến đó hai lần để “làm việc”.
Tôi ngạc nhiên:
- Làm việc? Anh làm việc với cơ quan nào?
Duyên Anh bật cười:
- Làm việc chó gì đâu. Anh dùng chữ của chúng nó. Đây là một cách để chúng kiểm
soát anh thôi.
Tôi hỏi:
- Vậy thì mỗi lần vào đó, anh làm những gì?
- Cũng nhẹ nhàng thôi. Kiểu mạn đàm thân mật, có cà phê, thuốc lá, hoặc trà
nóng. Những thằng công an văn hoá này, đa số từ miền Bắc vào, đều thuộc loại có
trình độ đại học, tương đối lịch sự. Chúng nó đọc các tác phẩm trước 75 của anh
kỹ lắm, nhất là cuốn Mây Mùa Thu. Đại khái, chúng muốn biết anh làm những gì,
đi lại những đâu, giao du với ai…Nhưng cái điều chính chúng nhắm là muốn thuyết
phục anh hợp tác với chúng nó.
- Hợp tác như thế nào?
- Chúng nó muốn anh viết lại. Viết toàn truyện cho tuổi thơ thôi. Chúng nó bảo ở
ngoài Bắc lẫn trong Nam không có thằng nào viết về tuổi thơ cự phách như anh
đâu. Chúng nó bảo, việc bắt giam những nhà văn miền Nam hồi 1976 là một sai lầm
lớn.
Tôi nói:
- Họ bốc anh như vậy, chắc là có dụng ý gì rồi. Đời nào có chuyện anh hợp tác với
họ, phải không?
Duyên Anh gật gù:
- Hợp tác thế nào được với chúng nó? Ở cái đất này thêm ngày nào, mình chết dần
chết mòn ngày ấy thôi. Anh chỉ đang chờ cơ hội để dzọt đây.
Tôi hỏi:
- Nhưng anh sẽ không nói gì để cho họ nghi ngờ anh có ý định ấy chứ?
Duyên Anh cười trấn an tôi:
- Dĩ nhiên rồi. Anh nói chuyện đó riêng với em thôi. Trước mặt chúng nó, anh bảo,
chỉ ước ao được về lại quê nhà Thái Bình, sống với ông bố anh, chứ chẳng còn
tham vọng gì nữa cả.
Những tuần lễ kế tiếp, Duyên Anh chạy xe đạp mini, rủ tôi đi uống cà phê ở mấy
biệt thự biến thành quán giải khát dọc đường Trương Minh Giảng. Chúng tôi nhậu
thịt chó với nhau mấy lần, khu Ngã Ba Ông Tạ, Ngã Tư Bảy Hiền. Có sáng, Duyên
Anh đến nhà lúc tôi đang kèm trẻ, rủ tôi đi ăn điểm tâm. Tôi cho học trò về sớm,
sang bên kia đường, ăn phở gà Nam Xuyên với anh. Thời gian ở tù về, Duyên Anh nằm
nhà nhiều hơn ra đường. Trong lúc rỗi rảnh, anh làm nhiều thơ bảy chữ và tám chữ,
mỗi lần tôi ghé chơi, anh đều lấy ra khoe, và đọc cho tôi nghe.
Có dạo, tôi vui bạn bè, đi buôn than củi chơi. Một tối mưa, tôi theo chuyến xe
than từ Long Khánh về, ghé nhà Duyên Anh, nhờ anh cho để nhờ khoảng bảy tám bao
than ở dưới mái hiên bên phải, hôm sau tôi sẽ đến lấy, đem giao cho người mua.
Duyên Anh kéo tôi vào phòng khách, đọc cho tôi bài thơ Saigon Ra Đường anh mới
làm, và đưa luôn tờ giấy cho tôi:
- Em giữ đi. Anh tặng em đấy.
Bài thơ khiến tôi xúc động, và trong một sáng ảm đạm của Saigon xơ xác, tháng
10, 1981, trong lúc đứng núp mưa trên đường Trương Minh Giảng, chờ chuyến xe
than đi Long Khánh, những nốt nhạc đầu tiên của Saigon
Ra Đường cũng thánh thót rơi, vang vọng trong lòng tôi
Saigon ra đường không áo dài
Em sợ đang mùa gió chướng bay
Gió bay cuốn hút mùi hương cũ
Chỉ để riêng mình ta ngất ngây
Saigon ra đường không phấn son
Em sợ rừng sâu gỗ giận hờn
Chinh phu gió cát nghìn phương lạnh
Chinh phụ nào ham chuyện lược gương
Saigon ra đường không thích cười
Em sợ đèo cao lệ đá rơi
Nên mãi mùa Đông về tạm trú
Đã về sương tuyết phủ niềm vui
Saigon ra đường không giống ai
Tóc mây lớp lớp khói u hoài
Mắt chim khuyên đã diều hâu hết
Cúi xuống nhìn lên vẫn ngậm ngùi
Suốt trên đường đi, tôi cứ lẩm nhẩm mãi những câu nhạc của bài hát này, cho đến
lúc thuộc lòng. Mất cả buổi với cây guitar, tôi mày mò ghi lại bản nhạc trên
khung nốt, đem tới nhà Duyên Anh, hát cho anh nghe. Trí nhớ Duyên Anh quả thật
phi thường! Anh nghe tôi hát có vài lần thôi. Vậy mà hai năm sau, sang Paris,
anh ghi lại thật chính xác bài Saigon Ra Đường, nhờ Bạch Yến hát, thu vào băng
Ru Đời Phù Ảo.
Tháng 6, 1982, sau nhiều lần thất bại trong toan tính đi bằng đường thủy, tôi
vượt biên đường bộ đến biên giới Thái Miên, và một năm sau, có mặt ở Hoa Kỳ. Thời
gian đầu, bận rộn học hành, làm việc, và cố gắng thích nghi với cuộc sống mới,
tôi không còn thì giờ tìm hiểu, nên chẳng biết chuyện gì đã xảy đến cho Duyên
Anh. Những gì tôi thỉnh thoảng nghe nói về anh, thì cũng chỉ là tin đồn. Có người
bảo Duyên Anh vẫn còn ở Việt Nam, kẻ thì nói có gặp anh ở trại tị nạn. Có người
còn nói Duyên Anh vượt biên, và đã mất tích rồi.
Mãi hai năm sau, một người quen từ Pháp qua cho tôi biết Duyên Anh trở thành
thuyền nhân tị nạn ở Mã Lai, và đang sống tại Paris. Tôi viết thư nhờ anh tôi,
Vũ Đức Anh, hỏi thăm địa chỉ Duyên Anh để tôi liên lạc, nhưng anh tôi không thuộc
giới văn nghệ, nên không biết ai mà hỏi cho được.
Mấy tháng sau, một hôm ghé thăm phố Bolsa, tình cờ đọc tạp chí Đời do Nguyên Sa
chủ trương, tôi mừng vô kể khi thấy chương mở đầu hồi ký Cõi Không Tưởng của
Duyên Anh. Tôi viết thư ngay về tòa soạn, nhờ chuyển cho tác giả. Ba tuần sau,
tôi nhận thư Duyên Anh.
Paris ngày 25 tháng 8 năm 1986
Em Hiền ,
Vừa nhận thư em, anh vui mừng quá, viết ngay cho em khỏi mong. Tháng 6, 1982,
ghé thăm em, gặp cô Cúc bảo em đi sang Miên rồi, chưa có tin, anh lo và nhớ
thương em thật nhiều. Tuần sau trở lại hỏi thăm, biết em đã tới biên giới, anh
mừng chảy nước mắt, nhưng vẫn lo chẳng biết chỗ em tạm trú có yên ổn không. Về
phần anh, sau một thời gian trốn tránh, sống lây lất, anh vượt biển qua Mã Lai,
ở đó bảy tháng, và trở thành dân tị nạn tại Pháp từ tháng 10, 83.
Cuộc sống anh tương đối tạm yên, hơi chật vật một chút, nhưng cũng chẳng sao.
Mình vẫn còn sướng hơn hàng vạn đồng bào và bè bạn đang nằm trong tù ngục bên
nhà.
Gia đình anh vẫn thường. Các cháu cuả chú lớn hết rồi. Sơn Đốm đã 21. Cháu Ki sắp
lập gia đình. Hôn phu của cháu dân xứ Tô Cách Lan, biết nói tiếng Việt, và rất
yêu mến quê hương Việt Nam.
Rất mong nhận thư em. Khi nào rảnh, nhớ viết cho anh.
Thương yêu,
Anh
Duyên Anh
Dĩ nhiên, tôi viết thư sang cho anh ngay. Vài tuần sau, tôi nhận thư thứ nhì của
Duyên Anh.
Paris 11 tháng 9, 1986
Em Hiền ,
Anh vừa về đến nhà, khoái quá, không thể không viết ngay để báo cho em biết tin
vui: Un Russe à Saigon đã ra đời, sau chín tháng chờ đợi. Tuần trước, Ghislain
Ripault, thằng agent littéraire của anh, đưa anh dến thăm nhà xuất bản Belfond,
một trong ba nhà xuất bản lớn nhất Âu Châu, để xem mặt thằng con mới sinh. Trước
khi ra về, họ trao cho anh tấm jaquette bọc Un Russe à Saigon và bảo anh trong
suốt năm 86 này, chỉ cuốn sách của anh là có jaquette thôi. Như vậy, anh của em
cũng hách đấy chứ! Hôm nay, trong căn phòng trải thảm đỏ, anh ngồi ký tặng sách
cho khoảng ba trăm người trong giới văn học Pháp và Âu Châu. Ký mỏi tay luôn.
Nhưng mà khoái lắm, em ạ! Không ngờ thằng bé thất học thuở nào của làng Tường
An lại có ngày ngồi ở chỗ ngồi của các nhà văn tài danh hiện đại, ký sách tặng
thiên hạ. Như vậy, anh đã là quốc tế rồi đấy. Em có mừng không?
Hẹn gặp em, sẽ nói chuyện nhiều.
Anh của em,
Duyên Anh
° ° °
Từ đó, cứ tháng tháng, tôi lại nhận thư Duyên Anh. Có tháng
nhận được hai lá. Duyên Anh cho biết anh cư ngụ ở ngoại ô Paris, trong một
chung cư dành cho giới thợ thuyền và những người có lợi tức thấp. Khu vực Ivry
sur Seine, nơi anh ở, là vùng đất của Georges Marchais, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản
Pháp.
Đầu năm 1987, Duyên Anh gửi sang tôi mấy chục tình khúc anh vừa viết, nhờ tôi
liên lạc với nữ danh ca Mai Hương để xin chị hát cho mười bài trong số đó. Phải
công nhận, nhạc Duyên Anh làm, thật không giống ai cả. Và nhất là, nhiều bản
không dễ hát chút nào. Muốn trình bày thành công ca khúc Duyên Anh, người hát
phải có giọng khoẻ, giỏi xướng âm, và thật vững nhịp mới được. Theo tôi, về các
giọng nữ, ngoài Mai Hương, chỉ những tiếng hát Bạch Yến, Châu Hà, Quỳnh Giao,
Kim Tước, và Julie, mới thích hợp và đủ khả năng phô diễn nét tài hoa trong nhạc
Duyên Anh. Nhạc Duyên Anh là thứ nhạc kỳ lạ, nghe một vài lần chưa thể cảm thấy
hết cái hay của nó. Phải nghe đi nghe lại, nghe cho tới khi thuộc lòng, những lời
nhạc trau chuốt, đẫm ướt chất thơ ấy mới thấm đượm hồn ta, như một thứ men nhẹ
làm ta ngây ngất. Nhạc Duyên Anh không phải là loại nhạc để cho ca sĩ trình diễn
trên sân khấu đại nhạc hội ồn ào. Càng không phải là thứ nhạc, ca sĩ vừa hát vừa
uốn éo, vừa cười tình, nhìn ngang liếc dọc để câu khán giả.
Muốn nghe nhạc Duyên Anh cho tới, lý tưởng nhất là nghe một mình, hoặc cùng lắm
là với một hai người bạn tâm đầu ý hợp, để hồn chùng xuống, yên lặng mà nghe.
Không bàn tán, không cả nhận xét nữa. Chỗ nào tuyệt vời nhất, chỉ một cái gật đầu,
một cái chớp mắt, là bạn mình đủ hiểu. Bạn ơi, nếu có một phút nào đó nhớ đến
Duyên Anh, bạn hãy rót một ly rượu vang đỏ, mở băng nhạc, vừa nhấp từng ngụm nhỏ,
vừa nghe anh tâm sự :
Ta xin gần đời, đời chẳng dung ta
Ta xin gần người, người đuổi xua ta
Ta đi tìm em, hoàng hôn bóng gẫy, mịt mù chân mây, hiu hắt đường gầy...
Ta xin vì đời, chìm nổi phong ba
Ta xin vì người, mòn mỏi phôi pha
Ta xin vì em, quạnh hiu thánh giá, mời gọi thương yêu khắp cõi người ta.
Tâm sự ấy càng não nùng hơn, khi Duyên Anh giàn trải nỗi cô đơn khôn cùng của
mình:
Rồi tôi đi đâu, đầm đời đầy cá sấu?
Rồi tôi về đâu, ác thú vẫn theo sau?
Nọc rắn xâm lăng từng mạch máu, quỉ sứ đâm thêm nhầu đường dao,
tôi nghe mình đã hư hao...
Trở lại việc Duyên Anh nhờ tôi mời Mai Hương hát, anh nói trước là không được
dư giả, nên chỉ có thể trả thù lao tượng trưng, theo tôi, rất tượng trưng, cho
Mai Hương thôi.
Mai Hương quả là một người đầy ắp tâm hồn nghệ sĩ. Không coi thù lao là chuyện
quan trọng, chị bằng lòng hát mười bản chọn lọc của Duyên Anh. Theo dự tính,
Mai Hương sẽ thu giọng hát của mình, với phần nhạc đệm keyboard riêng rẽ. Gửi
sang Paris, Duyên Anh sẽ nhờ Bernard Gerard tách phần keyboard ra, cho piano,
violon và cello vào.
Tôi có dịp tham dự mấy buổi tập dượt với Mai Hương và Đặng Ngọc Quốc. Mười bài
hát của Duyên Anh, tôi đã đệm guitar và hát trước ở nhà, nên trong lúc nghe Mai
Hương hát thử, đôi khi, tôi có góp ý vớùi chị về cao độ của vài nốt nhạc. Một
danh ca như Mai Hương, nghe một thứ tay mơ về âm nhạc nhận xét, góp ý, có khó
chịu không? Làm việc với Mai Hương, tôi khâm phục đức khiêm tốn của chị. Nghe
tôi trình bày, chị vui vẻ xem lại bản nhạc và hát cho đúng với cao độ của mấy nốt
nhạc đó.
Sau một vài buổi hát thử, chúng tôi đến thu băng tại studio Lê Đức Cường. Thời
gian này, Lê Đức Cường còn làm việc ở nhà; trung tâm Người Đẹp Bình Dương của
anh chưa ra đời. Theo tôi nhớ, phải thu liên tiếp hai buổi tối, mới xong mười
tình khúc Duyên Anh. Tôi nhờ Cường in từ Master ra ba copy, một cho Mai Hương,
một cho tôi. Copy thứ ba gửi chung với Master Mai Hương đem sang Pháp cho Duyên
Anh. Nhận Master, Duyên Anh giữ mãi cho đến ngày sang Mỹ lần cuối, vì không đủ
tiền thuê hòa âm và ban nhạc chơi phụ hoạ theo tiếng hát Mai Hương.
Suốt mấy tuần lễ tháng 3, 1987, Duyên Anh chuẩn bị tổ chức một đêm nhạc để Mai
Hương trình bày những sáng tác của anh. Vào tuần lễ chót, việc chuẩn bị gặp trở
ngại, vì cũng trong dịp này, Hội Y Sĩ VN tại Pháp phối hợp với Hội Y Sĩ Thế Giới
tổ chức đêm hát tại rạp Maubert lấy tiền giúp con tàu Rose Schiaffino cứu người
vượt biển. Ngoài ra, cả hai trung tâm băng nhạc Thúy Nga và Phượng Hoàng, trong
mấy tuần lễ đó, liên tiếp mời Khánh Ly, Thanh Tuyền, Giao Linh, Duy Quang,
Linda Trang Đài… sang hát đại nhạc hội.
Một số thân hữu ở Paris khuyên Duyên Anh nên dời ngày tổ chức đêm nhạc lại một
vài tuần, vì sợ làm cùng ngày với các đại nhạc hội kể trên, khán giả sẽ phân
tán. Riêng Duyên Anh, anh rất sợ Mai Hương sẽ buồn nếu thấy khán giả thưa thớt.
Anh viết cho tôi: “Mình không thể để một danh ca buồn được”. Duyên Anh nhờ tôi
hỏi Mai Hương có thể sang Paris hát ngày 9 tháng 5, 1987 được không. Trong trường
hợp không được, anh dự tính mời Mai Hương hát nhạc của anh ở San Francisco,
nhân dịp anh qua Mỹ. Duyên Anh đã rất ngây thơ và chủ quan khi tin tưởng vài
người “bạn” anh ở vùng San José, San Francisco thực lòng giúp đỡ trong việc đưa
nhạc Duyên Anh ra mắt thính giả Bắc Cali. Rốt cuộc, đã không có một buổi nào để
Mai Hương hát nhạc Duyên Anh ở Paris. Tháng 5 năm ấy, Mai Hương có đi lưu diễn
Âu Châu, cùng với một phái đoàn nghệ sĩ do Lê Văn của VOA làm trưởng đoàn.
Nhưng chị không lưu lại thủ đô Pháp quốc lâu, kịp cho Duyên Anh kịp tổ chức đêm
hát nhạc của anh. Mai Hương chỉ có đủ thì giờ trao lại cho Duyên Anh cuốn
master ghi mười bản nhạc chị đã thu vài tháng trước. Cuốn master ấy, Duyên Anh
giữ mãi, cho đến ngày sang Los Angeles lần cuối cùng, đưa cho tôi cất. Ước mơ của
Duyên Anh, là thực hiện được một băng nhạc Mai Hương hát mười tình khúc của
anh. Kèm theo cuốn băng, là tập nhạc in mười bản ấy thật đẹp, với bài viết
trang trọng của Duyên Anh về Mai Hương. Đã hơn một lần, Duyên Anh tâm sự với
tôi:“Nghe Mai Hương phải đi hát phòng trà, anh thương Mai Hương quá! Giọng ca ấy
không thể đứng trên bục hát, trong lúc thực khách ăn uống ồn ào bên dưới được.”
Tháng 2, 1987, Duyên Anh đã viết Mai Hương, Thiên Đường Tìm Lại, đăng trên tạp
chí Ngày Nay của Lê Hồng Long, để ca tụng giọng hát Mai Hương:
“…Giọng hát của Mai Hương đôn hậu, thuần khiết. Không hề có làm dáng trong cách
truyền đạt ca khúc của nàng. Chất lãng mạn ở giọng hát Mai Hương bảng lảng lãng
mạn dân tộc. Ngay cả lối tỏ tình qua lời ca cũng là tình tự dân tộc. Đừng mất
công tìm kiếm sự rã rượi ở Mai Hương. Quê hương Việt nam đau khổ thì có, nhưng
rã rượi thì không…Giọng hát Mai Hương là giọng hát nguyên chất dân tộc. Bởi vì,
nghe nàng hát là thấy vùng đời cũ hiện ra. Nghe nàng hát là nhớ từng miếng nắng,
từng hàng cây, từng viên gạch, từng khúc sông, từng ngọn suối… Như thế, Mai
Hương, con chim họa mi ngậm hồi tưởng, đậu trên ngọn cao lưu vong, mỗi ngày mỗi
hót “Giấc Mơ Hồi Hương”. Có lần, giọng hát truyền cảm tột độ của nàng đã làm
tôi xao xuyến khôn cùng. Cơ hồ tôi trở về quê hương tuổi nhỏ và cổ tích của tôi
vào một đêm xuân. Tôi đứng ngoài vườn giữa đêm trăng. Ngẩn ngơ…”
Nữ danh ca Châu Hà cũng là người diễn tả ca khúc Duyên Anh thật tuyệt vời!
Duyên Anh cho tôi nghe cassette thu mấy bản nhạc của anh, Châu Hà hát. Tôi hỏi
anh đã từng gặp Châu Hà bao giờ chưa. Duyên Anh nói: “Sự đồng cảm của nghệ sĩ,
nó lạ lắm, em ạ. Anh chưa gặp Châu Hà lần nào cả.”
Những bản nhạc Châu Hà hát trong băng, Yêu Em, Hôn Em Kỷ Niệm, Tình Sử, có lẽ,
chưa từng ai hát. Và theo tôi, cho dù sau này, ca sĩ nào hát, khó có giọng ca
nào diễn tả mấy ca khúc đó tha thiết, và đẫm ướt cảm xúc, như tiếng hát Châu
Hà. Duyên Anh đã cho tôi nghe tiếng hát tuyệt vời của Châu Hà trình bày bản nhạc
Yêu Em, một ca khúc mà lời hát từng câu, từng chữ bàng bạc chất thơ; ý nhạc lạ
lùng, độc đáo, không giống bất cứ bản nhạc nào
Yêu em thuở còn hư vô
Yêu em thuở còn thô sơ
Yêu em thuở trăng mới ló, thuở sao mới rõ, thuở chưa đất vỡ, thuở trời thiếu nhớ,
thuở người bỡ ngỡ, tháng ngày vu vơ
Yêu em địa đàng xôn xang
Yêu em rộn ràng nhân gian
Yêu em vàng ngon trái cấm, bùi tai lưỡi rắn, ngọt thơm chất đắng, lòng bừng nắng
ấm, hồn ngời ánh sáng, thắp đẹp ái ân
Yêu em nồng nàn núi sông
Yêu em đường vui khôn cùng
Yêu em mây dệt thương mong, biển đợi gió trăng, xao xuyến thời gian, cỏ lá hân
hoan, bờ hoang bãi vắng, náo nức mùa sang
Yêu em gọi về chiêm bao
Yêu em gọi về trăng sao
Yêu em gọi về quá khứ, thời xưa đất vỡ, trời xưa bão nhớ, người buồn héo úa,
tình buồn trót lỡ, tháng ngày hư hao
Yêu em dù hồn lao đao
Yêu em dù hồn xanh xao
Yêu em dù tim móng cấu, dù môi ứa máu, dù đêm bão tố, dù ngày sóng gió, dù đầy
khốn khó, nỗi người bơ vơ
Yêu em chập chùng thiên tai
Yêu em sầu dài chân mây
Yêu em quạnh hiu cuốn xoáy, dạt trôi cuối bãi, mộng phơi nắng cháy, ngậm ngùi đếm
mãi từng cành tóc gẫy, xuống tình đắng cay
Yêu em lạnh ngời nghĩa trang
Yêu em mộ bia điêu tàn
Yêu em trên vòng hoa tang, lời nào dối gian, tê buốt niềm oan, buồn nối nhau
đan, buồn hơn dĩ vãng, tiếng nấc lìa tan
Yêu em nhạc đầu non reo
Yêu em ngọn dòng cô liêu
Yêu em lạc theo lối khói, bình minh khuất lối, hoàng hôn chói vói, cuộc trần mắc
lưới, cuộc tình bối rối, xế đời em ơi.
Trong thời gian sống ở Paris, Duyên Anh gặp nhạc sĩ Lương Ngọc Châu, và đã cùng
Lương Ngọc Châu sáng tác Hồn Muôn Năm Cũ, nhạc Lương Ngọc Châu, lời Duyên Anh.
Nhạc sĩ Lương Ngọc Châu sáng tác cùng thời với Văn Cao và Phạm Duy. Ông viết rất
nhiều ca khúc, cuối thập niên 40, trong đó có bài Lô Giang rất hùng tráng, mô tả
chiến thắng của quân đội Việt Minh trong trận đánh với quân Pháp trên giòng sông
này.
Tôi hỏi Duyên Anh về ngôn ngữ lạ lùng của Hồn Muôn Năm Cũ. Duyên Anh bảo, anh
hy vọng ca khúc này sẽ trở thành một bài hát chiêu hồn, ở các buổi lễ tưởng niệm,
trong một nước Việt Nam mới, thời hậu Cộng Sản. Cho đến nay, Châu Hà vẫn là giọng
hát duy nhất trình bày tuyệt diệu Hồn Muôn Năm Cũ.
Hồn muôn năm cũ, tâm hồn biển dâu
Người muôn năm cũ, vẫn thương đời sau
Đi về một lối có nhau, cùng chia sầu đau
Hồn muôn năm cũ, đã buồn chiều nay
Người muôn năm cũ, ngất ngư cuộc say
Thôi rồi trần thế ngất ngây, ngày tháng hao gầy
Ôi, non nước xưa đó, nghe xót xa tim già
Ôi, non nước xưa đó, bao hồi kinh qua
Ôi, non nước xưa đó, ai đã thêu gấm hoa
Ai phơi xác cho khải hoàn ca
Nghe gương tốt đã vỡ, nghe máu xương mênh mông
Nghe vang tiếng ca huy hoàng, trời Đông bùng gió
Bằng nước mắt sông dài, bằng cay đắng muôn đời
Và sông núi còn lại đây
Người xưa vẫn sống trong lòng người nay
Hồn xưa lay bóng phất phơ cờ bay
Hương trầm tỏa khói ngất ngây, nhạc ấp u hoài
Trong Ngược Giòng Chữ Nghĩa, Duyên Anh đã viết những lời như sau, ca tụng tiếng
hát Châu Hà:
“….Nàng là nghệ sĩ đúng nghĩa, sống như hát, ta pi hồn mình lên mặt cuộc đời,
chung thủy và đôn hậu. Điều làm người ta yêu quý Châu Hà là nàng biết giữ giá
trị tài năng của mình….Chưa hề nghe Châu Hà hát một ca khúc thấp kém cả âm điệu
lẫn lời ca….Ở một hoàng hôn luân lạc, sỏi đá học đòi khen chê ngọc ngà, cỏ rác
nhởn nhơ lênh đênh trên dòng thơ, Châu Hà cứ nhún vai, cứ mỉm cười, cứ làm
thinh…Khi Châu Hà hát nhạc tình, suối đắng bỗng ngọt ngào, rừng khô mọc đầy chồi
ao ước, sông núi đổi mầu sắc, hoa bướm dạt dào, cỏ cây thầm thĩ, trời đất gần
nhau…”
Ngoài ra, Duyên Anh còn soạn riêng mười ca khúc, ghi rõ ràng “Những bài dành
cho danh ca Kim Tước”. Chẳng biết có lần nào, Duyên Anh gặp Kim Tước, để nhờ giọng
ca vàng này hát mấy bản đó chưa?
Cũng trong thư viết cho tôi, tháng 3, 1987, Duyên Anh dự tính làm chuyến Mỹ du
trong mấy tháng tới. Anh viết:
“ Anh đi Mỹ chỉ với mục đích đẩy cuốn An American Prisoner in Vietnam vào một
nhà xuất bản lớn ở New York. Khi em gặp đại diện cựu chiến binh Mỹ, đừng quên
giới thiệu anh là tác giả A Russian in Saigon (đã và đang bị Cộng Sản Việt Nam
đưa lên télé, radio, báo chí…mổ xẻ, tơi bời, khiến dân chúng hả hê lắm), và cho
họ biết An American Prisoner in Vietnam là cuốn sách phục hồi danh dự cho lính
Mỹ. Thực ra, anh chỉ viết về một người Mỹ đích thực, dũng cảm và biết chịu đựng,
a real American”.
Trong thư kế tiếp, Duyên Anh nhờ tôi liên lạc với Hồ Văn Xuân Nhi để việc giấy
tờ đi Mỹ của anh được dễ dàng hơn . Việc xin nhập cảnh từ Pháp đến Hoa Kỳ gặp
khó khăn. Tòa Đại Sứ Mỹ ở Paris đòi hỏi người muốn vào Mỹ phải có thân nhân bảo
lãnh chuyện đi lại, ăn ở…v.v, vì sợ dân tị nạn Việt Nam ở Pháp đến Mỹ, sẽ ở lại
luôn.
Theo tôi hiểu, Hồ Văn Xuân Nhi sẽ nói với dân biểu Robert Dornan gửi một thư mời
Duyên Anh, với tư cách một nhà văn Việt Nam tị nạn tại Pháp, sang thăm Hoa Kỳ.
Trong thư này, dân biểu Dornan hứa sẽ đài thọ vé máy bay khứ hồi, ăn ở, và di
chuyển trong suốt thời gian Duyên Anh ở Mỹ. Một bản sao của thư này sẽ được gửi
cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Paris. Dĩ nhiên, đây chỉ là hình thức thôi. Duyên Anh và bạn
bè anh sẽ lo liệu những chi phí kể trên.
Tháng 6, 1987, Duyên Anh gửi bản thảo Một Tù Binh Mỹ Ở Việt Nam sang cho Phạm
Kim Vinh xem, và nhờ anh Vinh góp ý về một số chi tiết viết về quân đội Mỹ, chẳng
hạn chế độ quân dịch, tình nguyện như thế nào, nên cho nhân vật chính mang cấp
bậc gì…
Duyên Anh nhờ tôi, sau khi xem bản thảo tiểu thuyết này, xúc tiến việc tìm người
dịch sang Anh Ngữ. Anh nói, cần dịch xong trước tháng 9, để khi anh sang đến
nơi, có sẵn để thương lượng với nhà xuất bản Mỹ.
Tôi viết cho Duyên Anh, nói qua tình hình xuất bản ở Mỹ, rằng hàng năm, có tới
cả chục ngàn bản thảo gửi đến cho các nhà xuất bản Mỹ, và tác giả các bản thảo
này không hề nhận được một dòng chữ cám ơn chiếu lệ của mấy ông chủ nhà xuất bản
nào hết. Hầu hết, bị quăng vào sọt rác. Tôi cho anh biết, muốn cho sách mình được
lọt vào một nhà xuất bản Mỹ, cần phải tìm được một người đại diện văn chương
thích tác phẩm của mình đã. Người đại diện này phải có uy tín đối với nhà xuất
bản, mới giới thiệu thành công tác phẩm của mình được. Tôi muốn Duyên Anh hiểu,
nhờ người dịch qua tiếng Anh mà không đưa tiền trước cho họ, chẳng ai chịu làm
hộ mình đâu, dù cho mình có hứa khi nào nhà xuất bản nhận in tác phẩm của mình,
mình sẽ trả 50 phần trăm cho họ, họ cũng không dám phiêu lưu với mình.
Duyên Anh bảo tôi, như vậy, anh sẽ nhờ một người bạn ở miền Đông Hoa Kỳ dịch Một
Tù Binh Mỹ Ở Việt Nam sang Anh Ngữ. Ông bạn này, theo anh, rất giỏi tiếng Anh,
đã hứa sẽ dịch cho anh. Cho tới ngày Duyên Anh sang Mỹ, nửa năm sau đó, vẫn chẳng
thấy ông bạn quý của anh nhúc nhích gì hết. Tôi hỏi Duyên Anh chuyện này, anh bảo
“có lẽ nó bận”. Mấy tháng sau, tôi hỏi, lần thứ nhì, chừng nào ông bạn anh dịch
xong, Duyên Anh có vẻ bực bội, bảo tôi: “Quên nó đi. Em đừng nhắc tới thằng ấy
nữa!”
° ° °
Lúc Duyên Anh ở nhà tôi, một hôm có ông khách đến chơi. Ông
này vốn là sĩ quan bên nhà, theo Nguyễn Khánh rời VN từ 1965. Qua Mỹ, ông ta đậu
Ph.D, và đang là giáo sư môn khoa học chính trị ở một đại học taị tiểu bang
Colorado. Chuyện trò một hồi, ông khách phấn khởi lắm. Ông bảo Duyên Anh, ông sẽ
dịch Môt Tù Binh Mỹ Ở Việt Nam, “có lẽ chừng ba bốn tháng là xong ngay.”
Ba tháng sau, ông giáo sư tiến sĩ chính trị đại học Mỹ gửi trả lại bản thảo, cho
biết không ông đủ khả năng phô diễn văn chương Duyên Anh trong tác phẩm này bằng
Anh Ngữ. Ít nhất, theo tôi, ông giáo sư cũng đáng khen ở chỗ ông dám thành thật
xác nhận khả năng giới hạn của mình.
Cũng trong thư tháng 6, Duyên Anh viết:
“….Trong khi viết cho em, anh vừa nhận từ Belfond cái contrat mới cho The Fanta
Hill. Có lẽ, tháng giêng 1988 sẽ xuất bản. Năm nay hơi bận, vì thằng Ghislain
Ripault sửa bản dịch chậm quá. The Fanta Hill hay lắm, nên Belfond ký luôn giao
kèo gọi là Contrat de cession des droits d’adaptation audiovisuelle. Anh đầy đủ
tư cách nhà văn quốc tế rồi hả ?…”
Quả nhiên, mấy năm sau, tiểu thuyết Đồi Fanta, viết về một trại tập trung các
trẻ em bụi đời ở Phước Long, được một hãng phim Pháp , phối hợp với hãng phim
Algérie, đạo diễn Youcef Sahraoui, thực hiện dưới tên Poussières de Vie . Phim
dài 87 phút, nói tiếng Pháp và Việt, phụ đề Anh ngữ, quay tại Mã Lai, hầu hết
tài tử là người Pháp, Mã Lai và Algérie.
Phim đã được chiếu ở Paris và nhiều thành phố bên Pháp. Ở Hoa Kỳ, Poussières de
Vie ra mắt khán giả trong một đại hội phim ảnh tại thành phố New York, khoảng
tháng 6, 1997. Duyên Anh, trước khi trở về Paris lần cuối, có cho tôi xem video
cuốn phim này. Thật sự, Duyên Anh không được hài lòng cho lắm về việc các nhà
làm phim phóng tác tiểu thuyết Đồi Fanta của anh. Duyên Anh nói với tôi:
- Đ.m, mấy anh đạo diễn này, chúng nó hiếp dâm tác phẩm của anh kỹ quá. Chúng
nó thêm vào những chi tiết không hề có trong nguyên bản. Ví dụ, cảnh nhân vật của
anh giết thằng tù bắt nạt nó, cảnh bọn trẻ con trốn trại, đóng bè xuôi về thành
phố, cảnh thằng cai tù tốt bụng tặng giấy viết nhật ký cho thằng bé… Tuy nhiên,
xem phim này, nhiều bà đầm cảm động khóc sướt mướt. Ít ra, Đồi Fanta và cuốn
phim cũng thành công ở chỗ cho người ta thấy được sự tàn ác của cái gọi là Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đối với đám trẻ bụi đời.
Duyên Anh viết tiếp, trong lá thư tháng 6, 1987:
Sẽ photocopie cho em 14 bài thơ Độc Ngữ (Duyên Anh mới), đọc xong em sẽ nghẹn
ngào rồi bốc lửa. Anh của em lúc nào cũng tỏ ra xứng đáng với gia đình, bằng hữu,
quê hương.
Hôm nay, gửi em đọc chơi bài thơ 100 câu 1 vần của anh.
Về nhạc Vũ Đức Nghiêm, em lựa cho anh vài bài viết về Chúa thật hay. Đó cũng là
một khía cạnh của tù nhân: Đức Tin . Mỗi bài anh sẽ giải thích, em ạ.
Anh hỏi thăm Hồ Văn Xuân Nhi. Chúc em mạnh giỏi.
Anh của em,
Duyên Anh
TB: Hãy quan tâm về translator cho A Just American. Anh em mình sẽ trúng mối nhờ
cuốn này đấy. Và ta sẽ có nhiều phương tiện làm việc cho quê hương.
Bài thơ 100 câu, Bài Lưu Đầy, Duyên Anh làm tặng Kiều Vĩnh Phúc, bạn anh, là
tâm sự lưu vong não nề của Duyên Anh. Anh mở đầu bằng một lời than thở
Ta đến đây đành ở lại đây
Cuối đời thấm thía kiếp lưu dầy
Nghẹn ngào sách vở từng trang mục
Chữ nghĩa vèo bay như lá bay
Thơ Độc Ngữ là loại thơ viết bằng máu hừng hực cảm xúc bốc lên từ trái tim của
một con người chưa bao giờ chịu cam đành ngậm miệng trước những nhố nhăng, áp bức,
bất công trên cõi đời này. Duyên Anh là thế đó. Bằng thứ ngôn ngữ riêng của
anh, có đoạn thật tha thiết, tình cảm; đoạn khác thật độc địa, tàn nhẫn, Duyên
Anh đã viết bài thơ Nhân Danh Những Điều Tôi Biết, mô tả cảnh sống khốn nạn của
người vợ một chiến sĩ miền Nam tử trận, tiền tử tuất không đủ nuôi bốn con dại,
đã phải làm nghề bán thân xác mình. Trong khi ấy, một vài cấp chỉ huy quân đội ở
trung ương, không phải xông pha trận mạc, lại sống xa hoa “sáu bảy vi la, ba bốn
vợ”, với tiền tham nhũng, bằng cách
“… mở lò bánh mì đồ sộ
Tiền điện tính vào kinh phí Bộ Quốc Phòng
tính vào
máu lính tiền đồn bảo vệ biên cương
tính vào
xương chiến sĩ xông pha trận mạc
tính vào
quả phụ đêm dài nước mắt
tính vào
cô nhi ngày muộn thèm cơm..”
Cũng trong Nhân Danh Những Điều Tôi Biết, Duyên Anh kể lại trường hợp một người
lính đi phép, bịn rịn vợ con, trở lại đơn vị trễ mất mấy ngày, bị khép tội đào
ngũ, đưa đi lao công đào binh, và chết ở mặt trận. Anh phẫn uất, tự hỏi ai sẽ xử
tội những ông tướng rời đơn vị trước 30 tháng 4, 1975, bỏ thuộc cấp ở lại?
Nhớ lại những ngày tháng tư 1975, Duyên Anh đã ngậm ngùi. Rồi phẫn nộ
“…Chúng nó trốn
khi kẻ thù
còn xa lắm
còn Khánh Dương
nhảy dù
đánh thật hăng
còn Thị Nghè
lính văn nghệ
diệt xe tăng
Trước giờ ban lệnh
đầu hàng
tướng hèn đã
đào ngũ…”
Duyên Anh nhắc lại chuyện một ông tướng đứng ở xứ đạo Tân Sa Châu tuyên bố :
“Không đi. Đứa nào đi
sang Mỹ làm cu li
còn vợ nó thì xoay nghề đĩ.
Vài hôm sau, nó âm thầm sang Mỹ…”
Bài thơ vừa kể, đăng trên tờ Quan Điểm của Phạm Kim Vinh năm 1987, đã khiến một
số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa thâm thù Duyên Anh. Họ thù hận đến độ, tháng
12, 1999, gần ba năm sau ngày anh qua đời, khi biết một nhà báo ở miền Đông Hoa
Kỳ sắp phổ biến một bài viết ghi lại kỷ niệm với Duyên Anh, mấy ông cựu tướng
trong vùng đã áp lực, bằng nhiều cách, để nhà báo phải bỏ ý định cho đăng tải
bài viết này!
Tôi muốn xác nhận ở đây, Duyên Anh có thể đã chỉ trích, và coi thường một số cấp
chỉ huy trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, nhất là những người đã, vì nhiều lý
do khác nhau, rời khỏi đất nước trước ngày cộng sản chiếm trọn miền Nam.
Nhưng Duyên Anh chưa bao giờ dám viết lên, hay nói ra một điều gì bất kính đối
với những vị tướng miền Nam đã ở lại chiến đấu tới giờ phút cuối cùng, và sau
đó, đã tự kết liễu đời mình để giữ tròn khí tiết, hay những vị tướng đã trải
qua hàng mười mấy năm ê chề trong tù ngục.
Duyên Anh không bao giờ dám nhục mạ tập thể quân đội miền Nam. Xin đừng ai hiểu
lầm, hoặc gán cho Duyên Anh cái tội đó. Bởi vì gán ghép như vậy, là việc làm
thiếu công bằng, nếu không muốn nói là gian trá.
Chiều 30 tháng 4, 1975, chứng kiến cảnh thua trận đau đớn của miền Nam, Duyên
Anh đã kể lại
“…Em ơi, chiều ba mươi tháng tư
Tâm hồn tôi chít mảnh khăn sô
Tôi đứng giữa hoàng hôn nào đó
như ngày xửa ngày xưa bé nhỏ
Đếm xác người chết đói ngổn ngang
Ôi xác ngày xưa
Hôm nay
súng ngắn súng dài mũ sắt quân trang
Nằm rên rỉ dưới giép râu cộng sản…”
Duyên Anh mô tả cảnh sống cơ cực, nhục nhã của dân chúng miền Nam sau ngày cộng
sản miền Bắc chiếm đóng
“…Tôi đã thấy con người và con chó
cùng mưu sinh trên đống rác Sài gòn
chó và người đòi đoạn nguồn cơn
Bởi xã hội chủ nghĩa chỉ giầu khẩu hiệu
Tôi đã thấy đồng bào ta xếp hàng bán máu
máu đỏ tươi đổi gạo trắng chợ đen
Bán máu nhanh, phải hối lộ chút tiền
phải giữ chỗ từ đêm hôm trước…
…Tôi đã thấy sản phụ mất sữa nuôi con
ra phường, xuống quận, lên thành
ba lần bị cởi trần nhay vú
khi hội đủ chỉ tiêu dã thú
mới được mua sữa rẻ quốc doanh…”
Cuối cùng, Duyên Anh xác nhận đường hướng sáng tác mới của anh.
Em hiểu không, tôi độc hành đơn kiếm
Chẳng báo nào chứa nổi thơ tôi
Nhưng vẫn làm thơ dán khắp tường đời
Dẫu kẻ thù vằm băm nát ngực
Dẫu lưới thép bủa lên tôi oan khiên ngộ nhận
Vẫn làm thơ can đảm Trần Dần
Vẫn phóng ra những chiêu thức tuyệt luân
Vẫn nhảy múa trên đầu Cộng Sản
Tôi vẫn làm thơ cho đêm đen bừng sáng
Tôi vẫn làm thơ đánh thức mặt trời
Tôi vẫn làm thơ ca ngợi Con Người
Dẫu rắn độc chụp đầu trăm kiểu mũ
Dẫu bạo lực gài mìn bức tử
Vẫn làm thơ, còn hơi thở vẫn làm thơ
Tôi làm thơ không gióng trống phất cờ
Không thủ bút triện son và không dự thi ăn giải
Tôi làm thơ vì Công Bằng Lẽ Phải
Thơ nâng niu nỗi khổ mủ sưng.
Thời gian ấy là lúc Duyên Anh bị kẻ thù xông hãm tứ phía. Một vài người trong
giới văn nghệ, vì đố kỵ tài năng, rơi vào bẫy Cộng Sản, viết bài trên báo, vu
cáo Duyên Anh làm ăng ten trong tù, làm tay sai cho cộng sản, bác xác anh em..
Cộng Sản Việt Nam thâm hiểm biết rất rõ, không một nhà văn Việt Nam nào, trong
nước cũng như hải ngoại, trước và sau 1975, chống cộng mãnh liệt và có hiệu quả
như Duyên Anh. Cho nên, trước khi, vì một số vận động và trao đổi quốc tế, phải
trả tự do cho anh, họ đã bày trò dựng nên những tin bẩn thỉu, rỉ tai, mớm lời
cho một số người ghen ghét Duyên Anh, trong tù cũng như ở bên ngoài. Mục đích của
cộng sản là triệt hạ uy tín chống cộng của Duyên Anh, để khi thả anh ra, chữ
nghĩa của anh không còn hiệu lực nữa. Cộng Sản Hà nội quỷ quyệt ở chỗ họ dùng bọn
nằm vùng miệng lưỡi xảo trá, rỉ tai bôi lọ Duyên Anh. Họ mượn tay chính những
người ở trong hàng ngũ quốc gia tấn công Duyên Anh. Và điều đáng buồn là một số
người trong chúng ta đã mắc mưu cộng sản. Kẻ thù chính của chúng ta là cộng sản
Hà nội, chúng ta không đánh; lại nhè anh em trong nhà mà đánh dập đánh vùi.
Một số người, tài năng không bằng Duyên Anh, mừng rỡ chụp lấy cơ hội bằng vàng,
viết những bài báo vu cáo anh. Bất đắc dĩ, Duyên Anh phải phản công. Vì mất tâm
sức và thì giờ phản công những bài báo vu khống đó, sức công phá của Duyên Anh
vào thành trì Cộng Sản Hà nội bị suy giảm ít nhiều.
Trong Bài Lưu Đầy, Duyên Anh dàn trải nỗi đau đớn của người biệt kích văn nghệ
cô đơn bằng hai câu :
…Đường người, chó sói nhe răng nhọn
Nghe buốt đau thương cả đế giầy…
Cuối tháng 6, 1987, Duyên Anh gửi cho tôi bản thảo Trại Tập Trung, nhờ tôi đọc
lại, sửa những lỗi chính tả do người đánh máy bản thảo đánh lầm. Anh cũng cho
tôi địa chỉ nhà xuất bản Xuân Thu, nhờ tôi giao bản thảo cho Phạm Công Danh.
Trong thư, ngoài những việc nhờ tôi làm cho anh, Duyên Anh tâm sự :
“…Cuộc sống của anh rất đỗi chật vật. Luôn luôn anh bị gây bực mình…. Cảm hứng
sáng tác cũng mất mát nhiều. Đã nhiều lần, anh định dứt khoát sống cho riêng
anh cuối đời, nhưng tình nghĩa làm anh không thể, không nỡ. Anh sẽ khó mà lên
ngọn đỉnh…. Đôi khi, anh muốn tự tử, hoặc xin về Việt Nam vào tù. Đó là tâm sự,
và tâm trạng buồn bã của anh. Rốt cuộc, vẫn phải sống, vẫn phải ngoi lên…”
Cuộc sống gia đình của Duyên Anh, tôi đã biết từ những lần đến thăm anh ở
Saigon, dĩ nhiên, đã có những ngày tháng hạnh phúc; nhưng cuộc sống hôn nhân êm
đềm này không được dài lắm. Tôi cũng phải nói ngay, tình trạng này, một phần,
do anh gây ra. Duyên Anh không phải là một người chồng tốt, nếu dựa trên những
tiêu chuẩn bất cứ người vợ nào cũng mong muốn nơi chồng mình: cơm nhà quà vợ,
không bê tha rượu chè, bài bạc, trai gái…
Duyên Anh đã, ít nhiều, vướng vào mấy thứ này, gây buồn phiền cho vợ con anh.
Những lúc gây buồn khổ cho gia đình, đôi khi Duyên Anh cũng biết ăn năn, dùng
văn thơ, và cả âm nhạc nữa, để xin lỗi vợ con. Điển hình là ca khúc Về Với Em,
anh nhờ Mai Hương hát để bày tỏ lòng yêu thương và ân hận của mình đối với chị
Duyên Anh, sau một lần bỏ nhà đi hoang :
…Bước phiêu du trầy máu, bước phiêu du quặn đau
Yêu em gọi dĩ vãng ngọc châu
Về với em, về với em kỷ niệm êm
Về với em, về với em quên buồn phiền
Theo cuộc chơi, hạt tim rơi, hoàng hôn úa sân đời,
rồi sẽ ai với ta chiều côi?
Mãi vì em, Ngọc Phương, anh về. Nhớ lòng tê, nhớ hồn mê,
nhớ hao gầy giọt lệ em nỗi khuya.
Hãy vì anh đóa hôn nồng nàn. Môi kề gần trong mật nắng,
nghe trời đất xôn xang chuyện trần gian…
Tôi biết, chị Duyên Anh rất thương yêu anh, và có lẽ, cũng là người oán ghét
anh nhất đời. Tôi đã chứng kiến sự tận tụy, lo lắng của chị đối với anh thời
gian anh vừa bị bắt, sự chu đáo của chị những lần chuẩn bị đi thăm anh ở các trại
tù, và cũng được nghe chị kể nỗi đau khổ, cả tinh thần lẫn thể xác, chị đã chịu
đựng, trong đời sống hôn nhân với anh. Nhưng đó là cái giá một số bà vợ lấy chồng
nghệ sĩ phải trả. Nhất là, một nghệ sĩ có quá nhiều tài năng như Duyên Anh. Nguời
ta đã chẳng từng nói lắm tài lắm tật hay sao?
Đầu tháng bảy, tôi nhận tiếp một thư nữa của Duyên Anh
Em Hiền
Không nhớ thư trước anh đã báo tin mừng Belfond vừa ký thêm với anh một contrat
về La Colline de Fanta chưa? Trí nhớ của anh suy sụp lắm rồi… Đàn bà họ không
nhớ những điều tốt đẹp mình làm cho họ, mà chỉ nhớ đến những sai lầm của mình
thôi.
Anh đang nghĩ xem đã đến lúc mình buông trôi, sống một mình cho yên lặng để dễ
làm việc chưa. Anh sợ hãi đàn bà quá rồi. Tháng 9 này không kịp ra La Colline
de Fanta. Phải đợi tháng 1-1988.
Belfond ngửi thấy Fanta dễ làm phim hay, nó ký thêm “Hợp đồng nhượng bộ quyền
phóng tác thính thị”. Anh lại lo cuốn thứ 3. Anh hy vọng, vài năm nữa thôi, anh
sẽ thực sự nổi tiếng thế giới.
Em nghĩ xem, sau khi Robert Dornan viết thư mời anh, anh có nên tặng ông ta cuốn
Un Russe à Saigon? Anh đã gửi Nhà Tù, hồi ký, cuốn 1 gồm 3 phần viết về Sở công
an, đề lao Gia Định, khám Chí Hòa, 600 trang, cho Xuân Thu, gần chỗ em ở. Nó trả
anh khoản tiền nhỏ về sách cũ rồi, và sách mới cũng ứng trước 2000 đôn). Nếu em
rảnh, ghé sửa bản cuối cùng trước khi chạy máy giùm anh nhé! Cuốn 2 gồm 2 phần,
viết về Sa Ác và Rừng Lá, mang tên Trại Tập Trung, 600 trang. Em có loan tin
The Fanta Hill, nhớ nói anh ký giao kèo ngày 23-6-1987. Anh có contrat 5 cuốn,
mỗi cuốn lại một contrat riêng. Độ rày anh ốm đau hoài, ăn ít. Rượu đã giới hạn
tối đa. Đổi sang hút pipe, mà vẫn hút Gauloises khi ngồi viết. Đôi khi, anh rối
tinh như hẹ, cái gì cũng muốn viết, và cái gì cũng chán viết. Anh mong xa nhà 6
tháng. Và chỉ có dịp qua Mỹ là anh thảnh thơi. Ít ra cũng… Bây giờ anh mới thấy
chân lý: Ở tù là hạnh phúc.
Vài hàng thăm em.
Anh,
Duyên Anh
Đầu tháng 8, tôi nhận thêm một thư nữa
Em Hiền,
Anh đã nhận thư của Robert Dornan, Hồ Văn Xuân Nhi. Họ cũng gửi cho Tòa Đại Sứ
Mỹ ở Paris. Thư nồng nhiệt lắm. Tuy nhiên, anh vẫn chưa thích thú lắm sang Mỹ dịp
này. Bị xếp hàng xin visa, anh càng nản. Vậy Mỹ du, có thể là không. Anh trả lời
em những điểm em nêu trong thư:
· David McAree không dịch Fanta Hill. Mới chỉ có bản dịch La Colline de Fanta
thôi, và sẽ xuất bản Janvrier 1988. David dịch được 5 chương A Russian in
Saigon. Nó không thích A Just American. Theo nó, truyện sẽ thành công, nhưng nó
sợ cộng sản kết tội anh nói láo! Vả nữa, nó phải đánh vật với tự điển vài năm.
Nó lại bận đi cứu đói thế giới.
· Em đừng vì A Just American mà nghỉ việc. Đừng, anh xin em.
· Đồng ý. Diều hâu sẽ đổi thành kên kên.
· Em tóm tắt lại A Just American cho anh, thật trung thực.
· Em bỏ Télévision là đúng.
· Rất cảm động về sự tự nguyện của em, vì anh, cho anh. Nay mai Thúy Nga sẽ qua
California. Anh gửi hắn cầm bản thảo:
- Nhà Tù: 200 trang viết tay của anh, đã đưa Xuân Thu xuất bản. Bản thảo này,
em giữ lấy. Cần thì photocopy cho PKV xem trước.
- Trại Tập Trung: 150 trang viết tay của anh. Em photocopy cho em một bản, có
vài trang anh quạt bọn NQL và tụi báo L. Còn bản anh gửi, khi Xuân Thu đến lấy,
thì em đưa cho nó.
- Hồn Say Phấn Lạ: 300 trang viết tay của anh. Em photocopy cho em một bản. Bản
anh gửi, em giữ cho anh. Khi nào anh bảo đưa cho ai hãy đưa.
Thúy Nga sẽ gặp em nói chuyện thực hiện băng nhạc Vũ Đức Nghiêm. Em chép sẵn:
1. Mưa Long Giao
2. Xin Làm Cỏ Biếc Vương Chân Em Đi
3. Giả Sử Mai Ta Về
4. Khóc Đi Em Giọt Lệ Tủi Mừng
5. Khúc Thần Ca Năm Xưa
6. Nước Mắt Chảy Xuôi
7. Gọi Người Yêu Dấu
8. Em Có Hay Chăng
9. Người Xa, Người Xa Mãi
10. Trong Ngục Tù Bao La
Mỗi bài đều có lời giới thiệu giải thích của anh. Anh VĐA của em có bà vợ không
nghệ sĩ tí nào. Đến thì ngồi dưới xe chờ. Lên thì chưa ngồi đã dục chồng về.
Thành ra, anh chưa nói chuyện lâu với anh của em được. Bà này có vẻ như là rất
“thương hại” anh nghèo nàn và qua Tây tị nạn kinh tế. Em biết vậy thôi nhé!
Thân nhiều,
Duyên Anh
4-8-87
16 tháng 8, 1987, tôi viết thiệp sang, mừng sinh nhật thứ 52 của anh, kèm theo
mấy tờ giấy ghi những lỗi chính tả trong bản thảo Trại Tập Trung, và mấy chỗ
tôi đề nghị anh sửa. Gần cuối tháng, tôi nhận bức thư đề ngày 24 tháng 8 của
anh
Em Hiền,
Sáng nay, Sơn lấy thư lên đưa cho anh.
Nếu anh đi Mỹ, có lẽ, anh sẽ không trở lại Paris nữa. Tụi nhóc lớn cả rồi. Anh
cần sống cho anh vài năm để hoàn tất vài tác phẩm lớn.
Em tóm tắt kỹ lưỡng Một Tù Binh Mỹ ở Việt Nam thì đỡ bị hiểu lầm là anh
pro-Américain như Ghislain Ripault đọc xong bản tóm tắt quá sơ lược của anh V.
Anh rất hy vọng cuốn này. Ít ra, nó cũng giải quyết cơm áo cho anh, để yên tâm
viết bộ truyện vinh tôn tổ quốc, dân tộc: Người Việt Nam. Nếu tháng 9 anh không
đi Mỹ, chắc chắn, anh phải rời Paris lên vùng Bretagne ẩn thân. Ở đó, anh có
nhà ở, có việc làm tại trang trại. Đây là nhà của một trong những thành viên
Amnesty International đã bảo trợ anh…
Anh vẫn giữ ý định in chung tập nhạc của hai anh em mình. Nhạc thì anh có sẵn.
Nhưng ai chịu in có 10 bài thôi? Họ in 36 bài. Nếu Xuân Thu chịu in 58 bài của
anh, em tuyển chọn 10 bài của em đi, anh nhờ Võ Đức Tuyết kẻ và in chung. Âm nhạc
đối với anh là trò chơi mới, và cũng là hệ lụy mới. Rồi có dịp, anh sẽ kể “ hệ
lụy”. Nó dính vào đàn bà, và tiền của đàn bà. Không bao nhiêu, 6 ngàn đôn thôi,
mà cũng mang tiếng. Tưởng vớ được bà bá tước yêu nghệ thuật, ai dè đồ bỏ!
10 giờ đêm qua, 23 tháng 8, Vĩnh Phúc (BBC) gọi cho anh. Anh ta bảo BBC tiếc em
lắm. Em viết hay, đọc hay, kể như thí sinh trúng tuyển thượng ngoại hạng. Anh
Phúc nói, nếu em làm cho BBC, em sẽ làm suốt đời. BBC mới là tương lai rực rỡ của
em, là nơi em thường xuyên về Việt Nam, là nơi em có thể đưa vợ con em qua dễ
dàng. Judy Stowe không đẹp lắm, nhưng trí thức, sang trọng, duyên dáng, lịch sự.
ĐV bình dị, hiền hòa. Chưa có con, và sẽ không có con. Vợ chồng già cả rồi, sắp
về hưu.
Cuốn băng Ru Tình Ngất Ngây sẽ nhờ Võ Đức Tuyết viết hòa âm và chơi nhạc. Trục
trặc kỹ thuật là nhạc đệm cũ…lệch nhịp hết. Ngày mai, anh đến studio hỏi xem có
thể cắt giọng Mai Hương ra, chơi nhạc trước, rồi thu lời sau? Chứ đánh nhạc để
xóa nhạc cũ, e gặp trở ngại.
Thư hoài cho anh nhé! Và đừng đề cập chuyện buồn của anh.
TB: Anh phone cho Vĩnh Phúc lúc 10 giờ tối 24, sau khi viết thư cho em xong.
Vĩnh Phúc và Đỗ Văn chấm bài của em. Anh ta bảo, giá em làm cho BBC, sau
contrat 4 năm 2 tháng, em sẽ trở thành chính ngạch. Anh Phúc rất tiếc, rất tiếc…
° ° °
Đầu tháng 9, 1987, Thiên Hương, con gái duy nhất của Duyên
Anh, lập gia đình. Chú rể David McAree, dân Tô Cách Lan, rất giỏi tiếng Việt,
là thành viên Amnesty International, chạy tới chạy lui, lo thủ tục giấy tờ bảo
lãnh của cơ quan này cho Duyên Anh, nên quen biết Thiên Hương. Trong ba người
con của Duyên Anh, Thiên Hương thừa hưởng nhiều tài năng của bố nhất. Cô bé
thông thạo Anh văn, Pháp văn, chơi piano hay; và viết văn tiếng Việt cũng giỏi
nữa.
Trong thư 9 tháng 9, 1987, Duyên Anh viết
Anh vừa nhận thư mới của em. Đám cưới Thiên Hương, David đã xong. Kết quả tốt đẹp,
về tổ chức. Anh Vũ Đức Anh đến dự, cùng chị Anh và cháu gái, từ nhà thờ tới chỗ
làm hôn lễ theo phong tục cổ truyền Việt Nam. Tân khách quốc tế: Tô Cách Lan,
Anh, Pháp, Ý, Mỹ, Nam Tư, Việt Nam…
Kể như anh đã nhẹ nhàng.
Trả lời thư em:
· Khi anh sang, anh em mình sẽ có nhiều đêm tâm sự.
· Vụ nhà xuất bản và nhà sách, chờ anh sang sẽ thảo luận.
· Cám ơn em đã lo vụ Mai Hương giúp anh. Đi Mỹ về, có tiền, anh sẽ thuê Bernard
Gérard ( 17,000 F ), không có, thì nhờ Võ Đức Tuyết chơi đàn điện hết, trừ
piano ( violon, violoncelle…), mất 5,000 F thôi. Và đợi mùa thu 1988, mời Mai
Hương qua hát, ra mắt băng nhạc. Và chỉ cần bán ở Paris là hòa sở hội: tiền ca
sĩ + nhạc sĩ + studio…
· Những trang ở Nhà Tù do anh sửa bỏ, không phải Xuân Thu. Đoạn V.P., anh bỏ,
vì đ. cần nó ca tụng. Đúng, anh đã gửi qua những trang bỏ vợi chỗ chửi TT. Nó đề
nghị hay. Tác phẩm không nên “trả thù” nhiều.
· Em đúng. Nền đỏ chữ vàng, vậy sửa lại.
· Thằng đó là bác sĩ N.N.T, chủ tịch đảng Dân chủ, Trưởng ty y tế P.Y..
· Anh không thua thằng nào cả, nếu thua là chỉ vì mình là dân tộc nhỏ bé, và
trót sống với bọn hèn mạt (không dùng chữ hèn mọn nữa).
· Anh sẽ viết tóm tắt lại A Just American.
· Hy vọng anh em mình sẽ gặp nhau trong tháng 9. Vậy không viết nhiều nữa.
Thương yêu
Anh
TB: Em đưa Hồn Say Phấn Laï cho Xuân Thu dùm anh. Nhớ photocopy lại 1 bản để
dành thủ bút của anh.
Duyên Anh
Cuối tháng 9, tôi lại nhận thêm một thư nữa của anh
Em Hiền,
Trước hết, về những chữ anh sai ở Trại Tập Trung và Hồn Say Phấn Lạ, hoàn toàn
em đúng. Anh có thói xấu, viết xong không bao giờ chịu đọc lại. Vậy em sửa
giùm:
Phạm văn Phú thay vì Nguyễn văn Phú
kho đạn Long Bình thay vì Long Thành
Đỗ Hữu Cảnh thay vì (vài chỗ) Nguyễn Hữu Cảnh
đã ở đề lao 17 tháng thay vì 18 tháng
co quắp thay vì co coắp
gươm giáo thay vì gươm dáo
hủ hóa thay vì hủ quá
Trần Hữu Thanh thay vì Nguyễn Hữu Thanh
Souvana Phouma thay vì Soupha Phuma. Chỗ này thận trọng, nếu là chủ tịch nhà nước
Lào thì Souvana Nouvong (?) trang bao nhiêu ? Sách nào ? ( Duyên Anh nhớ gần
đúng. Thực ra, tên ông chủ tịch nhà nước Lào thời ấy là Souphanouvong.)
vô tuốt thay vì vô tút
Trần Ngọc Châu thay vì Nguyễn Ngọc Châu
Đặng Võ vì ngại động chạm Đặng Vũ. Nữ chúa tên thật là Đặng Vũ thị Thanh Lan
(xì ke ở Trại Long Thành) mà anh đã viết ở Sỏi Đá Ngậm Ngùi.
……..
Còn gì em thấy sai nữa thì cứ tự ý sửa. Ở Trại Tập Trung, phần thứ 1, anh có sửa
và bỏ đi nhiều lắm. Em thấy những chỗ anh đóng khung mầu là anh sửa bỏ hết (mới
gửi sang) và phần thứ 2 anh thêm (từ dứt chương 13) 3 chương mới về suy tư của
anh về tuổi trẻ. Anh đã giao hẹn với Xuân Thu, cấm nó tự ý sửa. Anh thấy bỏ vợi
phần chửi cu TT và đồng bọn, Trại Tập Trung giá trị hơn. Mình hơn chúng nó, chả
cần thèm chửi nữa. Ô kê. Thế nào cũng gặp em trong tháng mười.
Anh
Vũ Mộng Long
Duyên Anh đề nghị tôi dựng lại Nhà Xuất Bản Tuổi Ngọc, do tôi và Hồ Văn Xuân
Nhi trông coi. Duyên Anh nghĩ Hồ Văn Xuân Nhi là người có lòng, nhiệt tình, và
đông anh em. Duyên Anh dự tính viết mỗi tháng một cuốn truyện thiếu nhi, loại
Dzũng Đakao; thoạt đầu có thể cứ hai tháng phát hành một cuốn, dần dần sẽ mỗi
tháng một cuốn. Duyên Anh bảo, cứ mỗi trang viết tay của anh là 4 trang in, như
vậy viết đều đặn 30 trang sẽ được một cuốn truyện thiếu nhi loại này. Duyên Anh
nói, sẽ gửi một cuốn truyện thiếu nhi của nhà xuất bản Poléo cho tôi làm mẫu.
Tôi sẽ phải tìm họa sĩ giỏi, nhờ họa sĩ vẽ khoảng năm sáu bức tranh cho mỗi cuốn
truyện. Chúng tôi sẽ in ở Mỹ 1000 cuốn, và ở Pháp 500 cuốn. Trong dự tính của Duyên
Anh, việc tiêu thụ sẽ rất dễ dàng: Xuân Thu 200 cuốn, Ngày Nay 100 cuốn, nhóm bạn
bè của Hồ Văn Xuân Nhi bán qua bưu điện 200 cuốn, các tiệm sách khắp tiểu bang
500 cuốn…Rồi thì Làng Văn Canada và các nơi khác nữa.
Duyên Anh gợi ý tôi về Bolsa mở một hiệu sách. Nam Á sẽ cung cấp sách cho tôi
bán, điều kiện rất dễ dàng, bán sách trước rồi cuối năm trả tiền cũng được.
Theo Duyên Anh nghĩ,
“…Nếu em có tiệm sách, bán sách do mình xuất bản, làm từ A đến Z; được 500 cuốn
là đủ sở hụi và tác quyền . Nghề xuất bản mau giầu lắm. Chúng ta cần nhiều tiền
để làm việâc lớn. Đi làm công chức không thể phục quốc kiểu Do Thái được.
Anh nghĩ một mình em cũng đủ dựng bảng hiệu Tuôåi Ngọc. Nhóm bạn Hồ Văn Xuân
Nhi sẽ giúp em việc phát hành, cổ động.
Nhà Xuất Bản TUỔI NGỌC
Giám Đốc: Vũ Trung Hiền
Chuyên Xuất Bản Truyện Tuổi Thơ
Tác giả cột trụ: DUYÊN ANH
Sau 5 cuốn mới, sẽ xen kẽ 1 cuốn cũ của anh. Rồi em sẽ khám phá những tài năng
mới mà khuyến khích, nâng đỡ. Một việc làm có ý nghĩa cho cuộc đời mà ra nhiều
tiền, tại sao không thực hiện nhỉ? Chả lẽ anh đi viết truyện tuổi thơ cho bọn
lái sách? Em và Anh là lý tưởng. Cho anh biết ngay. Cuốn thứ nhất sẽ tuyệt diệu
và anh sẽ…
Không làm việc ngay cho thiếu niên và thanh niên thì nguy lắm.
Có anh viết, em không lo tác quyền, anh sẽ viết cả 100 cuốn, đến già.
Anh,
Duyên Anh
Duyên Anh vẽ ra một tương lai rực rỡ như thế đân biểu Robert Dornan vừa gửi
sang Pháp, giấy tờ nhập cảnh Mỹ của Duyên Anh được Tòa Đại Sứ chấp thuận ngay.
Anh sang Texas trước, ở với gia đình anh Đặng Xuân Côn một thời gian, trước khi
qua Cali.
° ° °
Cuối 1987, Duyên Anh đến Los Angeles lần đầu tiên. Ra đón anh
ở phi trường có khá đông bạn hữu. Cả Phạm Duy cũng ra đón Duyên Anh. Trong lúc
ngồi chờ máy bay đáp xuống, tôi gợi ý với Phạm Duy đứng ra hòa giải trận đánh đấm
tàn khốc trên báo giữa Duyên Anh và Tạ Tỵ. Tôi nhớ tháng 10, 1981, khi đến thăm
Duyên Anh ở 225 B Công Lý, tôi gặp ông Khai Trí, Tạ Tỵ và Doãn Quốc Sỹ đang trò
chuyện thân mật với Duyên Anh . Không hiểu sau đó, sang Mỹ rồi, nghe ai mớm lời,
Tạ Tỵ viết bài trên tạp chí VĂN của Mai Thảo, tố cáo Duyên Anh “ đầu hàng cộng
sản, bán xác anh em.” Duyên Anh phản công dữ dội. Ngoài một số bài trên các
báo, Duyên Anh còn nhắc tới Tạ Tỵ khá kỹ ở trong hồi ký Nhà Tù và Trại Tập
Trung về “ thành tích vẽ ảnh Hồ Chí Minh, ăn vụng thịt, ăn tranh phần cơm cháy
của heo...”
Theo Duyên Anh kể cho tôi nghe, sau lần tôi gặp Tạ Tỵ và Doãn Quốc Sỹ, Tạ Tỵ trở
lại một lần nữa, dắt theo Lê Ngộ Châu, chủ nhiệm tạp chí Bách Khoa. Vì Duyên
Anh biết Lê Ngộ Châu chơi thân với Huy Khánh, bí danh Hai Khuynh, một cán bộ Việt
Cộng; nên khi Tạ Tỵ yêu cầu Duyên Anh đọc thơ tù cho Lê Ngộ Châu nghe, Duyên
Anh từ chối, và tiếp đãi nhạt nhẽo. Cũng theo Duyên Anh, có thể Tạ Tỵ mất mặt với
Lê Ngộ Châu, nên để bụng thù hận Duyên Anh từ đó…
Phạm Duy nghe tôi đề nghị, tỏ vẻ lạnh nhạt:
- Hơi đâu mà làm chuyện đó. Hai người ấy, họ lớn cả rồi...
Duyên Anh từ hành lang phía trong đi ra, bạn bè bao lấy. Anh hớt tóc cao, và
không chải đầu gì cả. Duyên Anh cười lớn khi có người nhận xét về tóc tai của
anh:
- Để tóc kiểu này là kiểu chiến đấu. Bây giờ là lúc phải cho lửa vào thơ văn cuả
mình mới được.
Phạm Duy hỏi:
- Tôi nghe chúng nó bảo lúc này cậu cũng làm nhạc nữa phải không?
Duyên Anh cười ha hả:
- Có chứ. Đứa nào thắc mắc, ông bảo chúng nó là tôi còn sắp sửa VẼ nữa, cho
chúng nó sợ.
Tôi xách hộ Duyên Anh chiếc xắc tay, đinh ninh anh sẽ về nhà tôi, như anh đã hứa
trong điện thoại mấy hôm trước. Mẹ tôi biết anh sang, đã làm cơm sẵn chờ tôi
đưa anh về cùng ăn.
Ra khỏi khu lấy hành lý, Duyên Anh bảo tôi, anh sẽ về khu Bolsa, có một đám bạn
đang chờ anh dưới đó, và rủ tôi đi cùng. Tôi từ chối, không muốn la cà trong
lúc mẹ đợi cơm ở nhà.
Tôi hơi giận Duyên Anh, nên mấy hôm sau, khi anh gọi, rủ tôi đi với anh đến ăn
cơm tối ở nhà Mai Hương, tôi lấy cớ đang phải học thi, không đi được. Tôi cũng
không hỏi anh đang ở đâu.
Nhưng tôi không giận Duyên Anh lâu được. Vài tuần sau, Duyên Anh gọi tôi xuống
Orange County chơi với anh. Tôi hỏi anh đang ở đâu. Duyên Anh nói, anh đang ở
nhà CTB. Tôi hỏi địa chỉ, và tìm đến thăm anh. Tới nơi, tôi thấy anh đang nói
chuyện với TMC, cựu đại tá cảnh sát. Biết Duyên Anh sắp đi chơi với tôi, TMC
ngôài lại thêm mấy phút nữa, rồi cáo từ. Duyên Anh rủ tôi đi gặp Hồ Văn Xuân
Nhi, Nguyễn Ý Thuần, Nguyễn Đức An, Trần Nghi Hoàng tại một quán Bò 7 Món khu
Bolsa. Duyên Anh uống khá nhiều, càng uống nói càng hay. Anh kể chuyện viết
văn, làm báo, và tỏ ý muốn cho sống lại tờ Con Ong. Trong gần ba tiếng đồng hồ,
Duyên Anh chia xẻ với những người viết trẻ này kinh nghiệm văn chương của mình.
Trên đường tôi đưa Duyên Anh về, anh cho tôi biết, sang Mỹ chuyến này dễ dàng
nhờ thư mời của dân biểu Robert Dornan. Lúc ấy, Hồ Văn Xuân Nhi đang làm phụ tá
cho dân biểu Dornan, nên Nhi đã sắp đặt tất cả chuyện giấy tờ, để việc nhập cảnh
Mỹ của Duyên Anh được nhanh chóng.
° ° °
Ngày 2 tháng giêng, 1988, Duyên Anh ra mắt Nhà Tù tại Embassy
Room, khách sạn Disneyland, thành phố Anaheim, phía Bắc Westminster. Đây là lần
đầu tiên, và có lẽ cũng là lần duy nhất, nhà xuất bản Xuân Thu tổ chức ra mắt
sách cho tác giả ở một địa điểm sang trọng như thế. Duyên Anh rủ tôi xuôáng
tham dự. Anh nói, sẽ có Mai Hương hát nhạc của anh; và Kiều Chinh sẽ lên phát
biểu về cuốn hồi ký độc đáo này.
Phòng họp bề thế, trải thảm, trang hoàng rực rỡ. Khách tham dự khoảng gần hai
trăm người, nhưng đặc biệt, không có mááy nhà văn. Chẳng biết vì thiệp mời
không gửi, hay có gửi, mà vì những lý do nào đó, các vị ấy không đến. Hồ Văn
Xuân Nhi giới thiệu chương trình. Anh nói về tác phẩm của Duyên Anh với một sự
trang trọng đặc biệt. Hồ Văn Xuân Nhi cho biết, chỉ trong vòng bốn năm, từ ngày
tị nạn tại Pháp, Duyên Anh đã hoàn thành hai mươi tác phẩm. Tiếp theo, Phạm
Công Danh trình bày đường hướng xuất bản mới của anh, và nói sơ qua về mấy tác
phẩm sắp xuất bản. Duyên Anh được giới thiêäu liền sau đó. Anh nói, Nhà Tù là
phần đầu trong bộ hồi ký hai tập, ghi lạïi những đau thương, hệ lụy anh đã trải
qua trong hơn năm năm ở tù cộng sản. Theo Duyên Anh, Nhà Tù tượng trưng cho cái
tĩnh của đời sống tù ngục, khác với cái động của trại tập trung lao cải.
Sau khi một bé gái bước lên, tặng hoa cho tác giả, nhạc sĩ Lê Văn Khoa ngồi vào
piano, đệm cho Mai Hương hát hai bản nhạc tiêu biểu của Duyên Anh. Tôi chờ,
nhưng không thấy Kiều Chinh lên nói. Cũng không thấy có mặt chị trong buổi ra mắt
này. Trong lúc Duyên Anh ngồi ký sách cho độc giả và thân hữu, khách tham dự
thưởng thức vài món ăn nhẹ và giải khát ở một góc khác của phòng họp.
Như mọi lần, Duyên Anh dành một bản đặc biệt, đề tặng tôi.
Chương 2
Ở Orange County một thời gian, Duyên Anh về Pasadena, sống với
gia đình tôi hơn một tháng. Thời gian này, tôi chưa có nhà riêng, vẫn còn ở
chung với cha mẹ tôi tại nhà anh chị cả tôi, mục sư Vũ Đức Chang. Lúc đó khoảng
tháng 2, 1988. Duyên Anh đang cặm cụi viết cho xong hồi ký văn nghệ Nhìn Lại Những
Bến Bờ .
Lúc ấy, tôi vừa bắt đầu làm cho Los Angeles County, đang còn trong tình trạng tạm
tuyển, không thể xin nghỉ để có nhiều thì giờ ở nhà với anh.
Sáng nào cũng vậy, tôi thức dậy, ra phòng khách, Duyên Anh đã ngồi ở bàn, bút BIC
trên tay, cắm cúi viết; ấm trà nóng và gói thuốc Marlboro đặt trước mặt.
Đều đặn, đúng giờ, chăm chỉ như một viên công chức là Duyên Anh, ít nhất cũng
là Duyên Anh cuả một tháng ròng rã, cặm cụi viết cho xong Nhìn Lại Những Bến Bờ,
phần đầu của bộ hồi ký Nhìn Lại Mình , ghi lại cuộc đời làm thơ, viết báo, viết
văn của anh.
Duyên Anh thường bảo anh vừa rong chơi vừa viết. Thực ra, đó chỉ là một cách
nói thôi. Nhu cầu văn chương, đối với Duyên Anh, quả là một thôi thúc mãnh liệt.
Đến nỗi, một khi đã đặt bút viết, anh viết say sưa, mê mệt. Bao nhiêu suy tư,
mơ ước, tâm huyết từng ấp ủ trong lòng. Bao nhiêu kinh nghiệm, cả lúc thành
công lẫn khi thất bại, vấp váp, lầm lỗi, Duyên Anh đều muốn dàn trải trong tác
phẩm này, với hy vọng giúp ích phần nào cho những người trẻ đang muốn bước vào
con đường anh đã đi qua. Vì thế, Duyên Anh, trong suốt một tháng ở Pasadena, đã
chỉ ngồi yên trong nhà, dệt những sợi tơ tâm tưởng của mình trên từng trang giấy,
chứ chẳng rong chơi chút nào cả. Những ngày cuối tuần, tôi rủ anh đi chơi núi,
anh không chịu đi; muốn đưa anh ra ngắm biển, anh bảo cũng chẳng khoái gì; đề
nghị đi Disneyland, Universal Studio, Huntington Library cho biết, anh đều lắc
đầu:
- Chán lắm , chẳng có gì đâu.
Đối với Duyên Anh, ít nhất là trong khoảng thời gian này, chẳng có ai, và chẳng
có gì, hấp dẫn anh cho bằng xấp giấy trắng , cây viết BIC mực đen, chiếc gạt
tàn đầy ắp tàn thuốc, và bình nước trà trước mặt. Một lần, tôi hỏi tại sao anh
không chịu để tôi đưa đi chơi chỗ này chỗ nọ, Duyên Anh bảo:
- Viết văn rồi, mình đâm ra nghiện, em ạ. Không viết, không chịu được. Khi nào
em cảm thấy nếu em không cầm bút viết xuống một điều gì đó, em sẽ mất ăn mất ngủ;
khi nào em cảm thấy mình cần viết hơn cần ngủ với vợ, chơi với con, thù tạc với
bạn bè, hoặc rong chơi phù phiếm như những con người bình thường chung quanh,
lúc ấy, em đã trở thành một thằng nhà văn rồi đó.
Nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên sao Duyên Anh viết được nhiều như thế. Chính Duyên
Anh cũng hay tự hào mình là kẻ nghĩ nhanh viết vội. Nhưng riêng tôi, tôi có thể
quả quyết số lượng hai mươi tác phẩm Duyên Anh hoàn thành trong vòng bốn năm, từ
1984 đến 1988, chỉ là kết quả của sự làm việc bền bỉ và hết sức cần mẫn của
anh: 11 giờ đêm, tôi đi ngủ, ở ngoài phòng khách, Duyên Anh vẫn cắm cúi viết. 6
giờ sáng thức dậy, tôi đã thấy anh ngồi ở bàn viết tự lúc nào rồi.
Tốc độ viết của Duyên Anh trung bình từ năm đến bảy tám trang viết tay mỗi
ngày. Khổ giấy 8x11, anh viết được tới gần 60 dòng, chữ lại bé và sát vào nhau,
nên cứ mỗi trang như vậy tương đương với ba trang in. Hôm nào tinh thần thơ thới
và viết hết mình, Duyên Anh có thể viết được tới ba, bốn chục trang sách in.
Thói quen Duyên Anh không thể bỏ được : hút thuốc lá trong khi viết. Ở Paris,
anh hút Gauloises. Theo Duyên Anh mô tả, Gauloises không phải là thuốc lá thơm,
có vị nặng, gần giống mùi vị Bastos xanh của Việt Nam trong thập niên 60, 70.
Sang Mỹ, anh dùng Marlboro Lights đầu lọc, hoặc ba số 5. Duyên Anh hút khá nhiều,
trung bình 2 gói một ngày. Điếu thuốc lá được đốt lên, nhưng có khi chỉ được
hút có vài hơi thôi. Lúc Duyên Anh say sưa viết, anh thường viết luôn một mạch
cho tới khi điếu thuốc tàn. Khi nào cần dừng lại suy nghĩ, anh mới thong thả đốt
điếu khác, lim dim đôi mắt, môi dưới hơi trề ra, đưa khói thuốc cho chui lại
vào mũi. Đó cũng là lúc anh thường rót trà, uống từng hớp nhỏ.
Duyên Anh không khó tính như một số người khi uống trà. Lại càng không ưa những
cái gọi là “nghệ thuật uống trà”, hay “trà đạo”...Anh có vẻ ưa hương vị trà Thiết
Quan Âm, nhưng khi hết trà tàu, pha một vài gói Lipton cho anh cầm cự cả buổi,
Duyên Anh cũng cứ vui vẻ như thường.
Thứ bảy, chủ nhật, nghỉ làm, tôi pha cà phê phin, hai anh em uống, nói chuyện
cà kê cả buổi. Duyên Anh rất ghét cà phê bột instant, loại khuấy vội uống
nhanh. Anh bảo, thà nhịn cà phê, chứ đã uống là phải uống thứ cà phê xay, pha
thật đậm, lọc từ từ qua phin, nước sôi thật già; tách cà phê cũng phải tráng
cho nóng mới được.
Duyên Anh có một thói quen rất hồn nhiên và dễ thương : Mỗi lần viết xong một
đoạn vừa ý, anh hay gọi tôi ra, đọc lớn tiếng cho tôi nghe. Những lúc ấy, khuôn
mặt anh thật rạng rỡ, và câu văn cuối cùng bao giờ cũng nối tiếp bằng chuỗi cười
thật sảng khoái, hết sức dòn dã của anh.
Nhưng đôi khi, có bữa đi làm về, tôi nghe anh than thở:
- Mẹ nó, hôm nay không hiểu sao, ngồi mãi mà viết được có hai trang. Như thế
này thì không đáng ăn cơm rồi!
“ Bản thảo cuả Duyên Anh sạch và đẹp nhất thế giới”, Duyên Anh đã thường tự hào
như thế. Là người đầu tiên được vinh dự đọc Nhìn Lại Những Bến Bờ khi còn là bản
thảo, tôi có thể xác nhận niềm tự hào ấy của anh. Hơn một trăm trang viết tay gọn
gàng, nắn nót, hầu như không một gạch bôi xoá. Khi cần sửa một chỗ nào, Duyên
Anh dùng LIQUID PAPER tô thật sạch, viết đè lên, hoặc có khi dùng kéo cắt dán lại
cả đoạn.
Nhìn Lại Những Bến Bờ đưa người đọc cùng đi, cùng sống với Duyên Anh qua những
chặng đời gian nan, khốn khó của tác giả, thuở mới tập tễnh nuôi mộng làm nhà
báo, với những đoạn văn, những bài thơ hồn nhiên thời mới lớn. Độc giả sẽ theo
anh từ Thái Bình lên Hà nội, vào Saigon, cùng cười với anh trong những ngày tạm
trú ở Nhà Hát Tây, tháp tùng anh ngược Ban mê Thuật, chia xẻ nỗi ngậm ngùi với
Duyên Anh sau những tháng “đi làm cách mạng”, xuống miền Tây, rồi qua miền
Đông; cùng anh bùi ngùi nỗi lưu lạc trên đường bán thuốc dạo với con người bí mật
Lý Vô Danh. Duyên Anh, qua phần cuối của Nhìn Lại Những Bến Bờ , đã khiến người
đọc xúc động trước tấm chân tình của những tấm lòng vàng trong manh áo rách,
khi người đạp xích lô và cô gái giang hồ bày tỏ lòng thương xót, cưu mang Duyên
Anh trong lúc anh đói khát, ngặt nghèo.
Điều quan trọng Duyên Anh muốn trao gửi đến những người bạn nhỏ thân mến của
anh là: để có thể theo đuổi giấc mộng văn chương, người ta cần phải có tấm lòng
yêu văn chương thật tha thiết. Lời khuyên thứ nhì, nếu có thể coi đó như lời
khuyên, là người mới tập viết chỉ nên viết về những đề tài gì gần gũi nhất với
mình, chứ đừng bắt chước rập theo khuôn mẫu của bất cứ ai, kể cả những tác giả
mình yêu mến nhất. Điều thứ ba Duyên Anh muốn nhắc nhở những người viết mới: hãy
cố viết sao cho thật giản dị, trong sáng. Giản dị và trong sáng cỡ như lối hành
văn trong “Quốcï Văn Giáo Khoa Thư” , “Luân Lý Giáo Khoa Thư”, là kể như đã “đạt”.
*
* *
Một chiều thứ sáu, Duyên Anh cao hứng đề nghị:
- Anh em mình làm món giả cầy ăn chơi đi.
Tôi ra chợ xách về một gói giò heo, vài chiếc bánh đa vừng, gói bún tươi, thêm
ít riềng, và lọ mắm tôm. Không cần mua mẻ, vì ở nhà đã có sẵn. Trong lúc tôi cạo
rửa sạch sẽ những chiếc giò heo, ngoài cửa bếp, Duyên Anh nhóm bếp than, quạt
cho lửa đỏ hồng, đặt vỉ sắt lên.
Những chiếc giò heo cạo rửa xong, tôi đưa cho Duyên Anh nướng kỹ từng miếng cho
chín đều. Xong, anh bảo tôi rửa lại, rồi chặt nhỏ trong khi anh xắt vụn mấy củ
riềng, trộn với mắm tôm, mẻ, chút bột ngọt. Tôi đổ chỗ giò heo vừa chặt vào nồi,
Duyên Anh dốc hết chỗ gia vị vào, rồi dùng tay trộn đều, vừa trộn vừa nói:
- Phải trộn đều như thế này, nó mới thấm vào trong.
Tôi toan bắc nồi lên bếp, Duyên Anh ngăn lại:
- Khoan đã, mình để chừng một tiếng nữa, cho dậy mùi, rồi xào, mới ngon được.
Một lát sau, lửa thật già, anh bắc nồi lên bếp, dùng đũa đảo đều, cho những miếng
giò heo săn lại, tới khi những vụn riềng cháy xém cạnh, mới bảo tôi đổ nước sôi
vào, đun lên chừng hai mươi phút, rồi vặn nhỏ lửa, đậy nắp nồi lại, cứ mươi
phút lại mở ra canh chừng cho tới khi nước vừa cạn thì đảo đều thêm một lần nữa,
và đậy vung, tắt lửa.
Mười lăm phút sau, đặt nguyên cả nồi lên bàn, chúng tôi mở nắp. Món giả cầy bốc
khói nghi ngút, kéo theo mùi thơm ngào ngạt tỏa khắp gian phòng. Bên chai
Martel, chúng tôi cho giả cầy thơm phức phối hợp với bánh đa vừng dòn tan và những
ngọn bún mềm mại, mát rượi. Duyên Anh ăn ít, dành cho tôi quyền ưu tiên phá mồi.
Uống ở nhà cũng như ở bất cứ chỗ nào, tôi đều chỉ uống một ly là đủ. Uống cho
vui câu chuyện, chứ nhất định không để cho say. Về phần Duyên Anh, anh cạn ly
này xong là tiếp tục rót ly khác, vừa uống vừa kể đủ thứ chuyện trên trời dưới
đất, chuyện trong nước, ngoài nước, chuyện trước 75, chuyện vừa xảy ra, nhớ
chuyện gì anh nói chuyện ấy. Bất chợt tôi hỏi chuyện gì, anh mở ngăn kéo ký ức,
thao thao bất tuyệt cho đến khi tôi hết thắc mắc mới thôi.
Biết anh vừa sang London chơi, tôi hỏi:
- Anh có tới thăm BBC không?
Duyên Anh gật:
- Có. Bạn anh, Kiều Vĩnh Phúc, có cho anh tới thăm.
- Cơ sở của họ có lớn không? Tối tân không?
Duyên Anh phá lên cười:
- Chẳng ra cái con c. gì hết. Ở bên nhà, nghe nói BBC, mình cứ tưởng là ghê gớm
lắm. Cơ sở khác của họ ra sao, anh không biết. Nhưng cái chỗ mà anh đến, nó
cũng chỉ rộng bằng cái phòng khách nhà mình thôi, mà còn chung với mấy chương
trình khác nữa.
- Thế còn số nhân viên Ban Việt Ngữ. Được chừng bao nhiêu người ?
- Cũng chẳng biết chính xác. Nhưng chắc không đến mười mạng đâu.
- Mỗi người có bàn làm việc riêng không ?
Duyên Anh cười ngất:
- Anh đã nói rồi mà. Trông nó y như cái tòa soạn Nhật Báo Trắng Đen ở Saigon hồi
xưa thôi. Có khi còn bé hơn nữa. Ở bên nhà, mình nghe “Đây là đài BBC, phát
thanh từ Luân Đôn”, úi dào, nghe sướng quá đi mất thôi, có ngờ đâu, trước mặt
mình, nó chẳng ra cái gì cả. Người ngợm chán lắm cơ ! (Sau này, khi có dịp nói
chuyện với nhà văn Vĩnh Phúc, người đã đưa Duyên Anh tới thăm BBC, tôi được biết
chỗ anh đến chỉ là phòng phát thanh chương trình Việt Ngữ. Vì Thế Giới Vụ của
BBC có tới bốn mươi ngôn ngữ khác nhau, mỗi chương trình chỉ phát thanh troụi
tư nhân mà.
- Đường lối của đài dường như thân cộng phải không ?
- Không phải. Tụi nó đứng trung lập.
- Còn Ban Việt Ngữ thì sao ?
- Nói riêng em biết, chỉ có mấy ngoe thôi mà cũng chia ra ba phe: Bọn thân cộng,
phe chống cộng, và nhóm trung lập.
- ĐV thuộc phe nào ?
- Trung lập.
- Thế còn anh Vĩnh Phúc ?
- Dĩ nhiên là chống Cộng rồi. Nhưng cũng chỉ thỉnh thoảng mới đánh du kích,
phang cho Việt Cộng một cú thôi.
- Sang London, anh ở đâu ?
- Ở nhà anh Vĩnh Phúc. Anh ấy vốn là giáo sư, trước đây tu nghiệp ở Tân Tây
Lan. Sau 75, trở thành thuyền nhân, và được BBC tuyển thẳng từ Pulau Bidong,
năm 1979. Vĩnh Phúc ở chung với vợ con, hai trai một gái dễ thương lắm, và bà mẹ
vợ. Nhà anh ấy có một phòng nhỏ để tiếp đón bạn bè từ xa tới. Năm ngoái, nếu em
bằng lòng qua BBC làm, anh đã giới thiệu em với Vĩnh Phúc để em ở trọ nhà anh ấy
trong thời gian đầu rồi.
- Vĩnh Phúc nhỏ tuổi hơn anh ?
- Kém anh vài ba tuổi gì đó. Con người tốt bụng, hào sảng và phóng khoáng lắm.
Cái mà anh khoái nhất ở thằng này là lòng chân thật của nó. Nó là một thằng quốc
gia, cô đơn giữa một bọn thân cộng và những thằng ươn hèn đứng giữa. Thằng Vĩnh
Phúc, anh thương nó lắm.
- Anh gặp Judy Stowe không ?
- Có. Người phụ nữ này có vẻ lịch thiệp và trí thức.
- Ngoài BBC ra, anh còn đi thăm những đâu nữa ?
- Úi dào, anh đi có một hôm thôi, mấy bữa còn lại chỉ nằm nhà uống rượu. Đ.m,
nước Anh chán lắm, chẳng có gì đâu!
Thấy tôi nhíu mày, Duyên Anh giải thích, giọng nói đã bắt đầu nhừa nhựa:
- Sông Thames nước rút, bẩn lắm, còn thua cái rạch Thị Nghè của mình nữa...Waterloo
Bridge thì như con c. ấy. Ngày xưa mình xem phim Robert Taylor đóng với Vivian
Leigh, cứ tưởng Waterloo Bridge là ghê gớm lắm !
- Lại còn mấy cuốn L’Anglais Vivant nữa chứ ?
- Ừ. Dạo ấy, mình cứ tưởng nước Anh là đệ nhất hoàn cầu. Anh nhớ, năm 1946, anh
học đệ nhất niên, tức là lớp đệ thất, lần đầu tiên nhìn thế giới qua cuốn
L’Anglais Vivant, mình phục tụi ăng lê quá đi chứ...
Duyên Anh bỗng nhiên đổi đề tài:
- Em biết, năm 1946 anh đã học đệ thất rồi nhé. Bây giờ, tính nhẩm xem, nếu anh
cứ học đều đặn thì 1947 lên đệ lục, 1948 lên đệ ngũ, 1949 thi Trung Học Phổ
Thông, 1950 vào đệ tam, 1951 thi Tú Tài 1, 1952, đỗ Tú Tài 2, 1953 làm sinh
viên, cũng ngon lành đấy chứ?
- Nhưng mà anh bỏ học?
- Ừ, mẹ nó ! Học đâu có hết niên khoá, anh bỏ ngang về làng, rồi lêu lổng suốt
ba năm ở quê nhà, có học hành gì đâu. Suốt ngày cứ theo trẻ con trong làng đi
câu cá, đơm đó, làm ống bắt lươn, cất vó..., thôi thì đủ mọi trò...
Nâng ly rượu uống một hơi hết một phần ba còn lại, Duyên Anh cười
khanh khách:
- Kể cũng lạ! Nhiều khi anh cứ tự hỏi tại sao Thượng Đế giao cho mình cái sứ mạng
ấy; tại sao mình lại trở thành một thằng nhà văn nhỉ. Lạ lắm cơ! Nhưng mà, nghĩ
đi nghĩ lại, anh cũng phải công nhận là chẳng đứa nào chịu khó làm việc như
anh...
- Dĩ nhiên. Em đã từng nói anh làm việc như một ông công chức có kỷ luật...
Duyên Anh ngắt lời tôi:
- Kỷ luật và đam mê.
- Thận trọng nữa chứ? Cứ xem những chữ, những đoạn anh bôi xóa trên bản thảo...
- Những chỗ nào viết chưa chỉnh thì phải tẩy xóa nó đi chứ. Đâu có thể múa bút
như hồi viết báo được.
Ngừng một lát, anh tiếp tục, giọng nói có vẻ trầm ngâm hơn:
- Thượng Đế đã phó thác cho mình những khả năng nào thì mình phải biết dùng nó
sao cho thích hợp...À này, có hàng nghìn đề tài đáng viết sau năm 1975 mà anh
chưa khai thác được: chuyện cuộc chiến tàn chưa, chuyện có hòa bình rồi mà anh
em trong nhà vẫn thù hận lẫn nhau, chuyện người dân liều chết vượt biên tìm tự
do... Cái nước Việt Nam mình lạ lùng lắm, em ạ. Việt Nam soi sáng cho toàn thế
giới. Thế mà không có Nobel, thì mình chỉ đáng ăn cứt thôi!
Rồi đột ngột, anh chuyển qua đề tài khác:
- Em biết không, ngày còn bé, anh mê Vũ Trọng Phụng lắm, coi ông ấy như thần tượng
vậy. Sau này, xem lại những sách ông ấy viết, có nhiều câu cũng bất thành cú,
và rải rác lỗi chính tả nữa. Nhưng dù sao, mình không thể phủ nhận ông ta là một
trong những bến bờ chính của giòng sông văn học quê hương.
- Tiếc là ông ấy chết trẻ quá nhỉ?
- Cuộc đời Vũ Trọng Phụng khổ lắm. Một người có tài. Làm thư ký ở Godard, nuôi
mẹ già, vợ dại con thơ; bệnh lao phổi nặng mà vẫn phải viết, viết thật nhiều.
Thỉnh thoảng, Lan Khai dẫn Vũ Trọng Phụng đi ăn cơm Tây. Họ Vũ ngậm ngùi bảo
Lan Khai: “Đời tôi, nếu mỗi tuần được đi ăn cơm Tây thế này thì đâu đến nỗi...”
Tôi hỏi:
- Về sau, con của Vũ Trọng Phụng, có ai theo đuổi nghiệp viết lách như ông ta
không?
Duyên Anh đáp:
- Sau ngày 30 tháng tư chừng vài tháng, anh đi chơi với Hoàng Hải Thủy. Hôm ấy
là một ngày mưa. Đi chơi về, ông bố anh ra ngoài cổng đón, bảo anh: “ Con trai
Vũ Trọng Phụng muốn gặp mày đó. Anh ta chờ hơn một tiếng đồng hồ rồi.”
- Như vậy là nhận bà con hay sao?
Duyên Anh cười:
- Không phải. Anh chàng này muốn gặp anh, chỉ vì anh ta biết Duyên Anh là
Thương Sinh.
- Anh ta có viết lách gì không?
- Anh cũng không kịp hỏi nữa. Nhưng có lẽ, cũng phải là dân yêu mến chữ
nghĩa...
- Có thể, anh ta khoái Thương Sinh vì lối viết Thương Sinh gợi nhớ lối viết của
bố anh ta?
- Có thể lắm. Nhưng tội nghiệp thật, phải chờ hơn một tiếng chỉ để thấy mặt
Thương Sinh thôi!
Duyên Anh lại đổi câu chuyện:
- Mấy hôm nay, anh đang nghĩ đến đoạn mở đầu quyển sách anh sẽ viết về ông cụ
anh.
- Ông cụ được tám mươi chưa ?
- Cũng sấp sỉ thôi.
Tôi nhớ, khoảng tháng 5, tháng 6, 1975, đến nhà Duyên Anh, tôi được gặp cụ thân
sinh của anh. Ông cụ năm ấy, có lẽ chừng 70, dáng người nhỏ nhắn, có vẻ khoẻ mạnh.
Đặc biệt, hàm răng và nụ cười Duyên Anh giống hệt bố anh.
Duyên Anh nói tiếp:
- Tội nghiệp ông cụ anh, ngày ngày cong mình thái dao cầu, đạp thuyền tán, bốc
thuốc cho thiên hạ, cứ tưởng thằng con mình gửi lên Hà Nội chăm chỉ học hành và
sắp trở thành bác sĩ. Ông cụ đâu có ngờ thằng qúy tử ham chơi hơn là ham học.
Ngay cả khi biết anh vào Nam rồi, cụ vẫn cứ trông mong thằng con sẽ thành bác
sĩ...
- Thế cụ có biết anh trở thành nhà văn không?
Duyên Anh lắc đầu:
- Không, cụ chẳng biết gì hết. Nhưng dù không trở thành bác sĩ để cho bố anh
hãnh diện, rốt cuộc mình cũng còn được chữ “sĩ” của một thằng văn sĩ. Có lẽ ông
bố anh cũng không đến nỗi thất vọng lắm về anh đâu...
Chúng tôi chuyển sang nói về việc Duyên Anh dự tính xuất bản những tiểu thuyết
mới viết xong của anh. Tôi nêu ra một vài tên tuổi, đề nghị Duyên Anh nhờ họ lo
dùm công việc đó. Anh lắc đầu, châm điếu thuốc mới, trầm ngâm:
- Nếu phải nhờ, thì anh chỉ tin cậy em và một người nữa thôi.
Tôi im lặng. Duyên Anh thở khói thành vòng tròn, ngậm ngùi:
- Rốt cuộc, anh chỉ còn có một thằng bạn, cho đến giờ này, vẫn còn trung thành
với anh mà thôi. Có những đứa, anh cứ tưởng là bạn. Chúng nó sang Paris, mình
đưa đón, đãi đằng chúng nó. Về lại Mỹ, chúng nó gang họng chửi mình.
Duyên Anh nói tiếp:
- Thằng Côn , nó thương anh lắm! Suốt đời, nó chỉ hy sinh cho anh thôi. Tháng
trước, ở nhà nó, nó cản không cho anh sang đây...
Tôi ngắt lời Duyên Anh:
- Chắc anh ấy lo ngại cho anh...
Duyên Anh gật đầu:
- Đúng vậy, nó lo cho anh. Nó bảo anh về Cali này là vùng có nhiều đứa thù ghét
anh. Nhưng anh bảo nó “Tao phải đi”. Đ.m, anh sợ gì chúng nó chứ.
Duyên Anh quay sang chuyện trước ngày rời Việt Nam:
- Không ngờ, ở Saigon mình có những thằng em vẫn quý mến mình như xưa. Thằng Từ
Kế Tường ở Tuổi Ngọc, em biết chứ? Nó làm chủ nhiệm Nhà Văn Hóa Quận 4, hồi anh
đi tù về. Nghe anh về, nó đến thăm. Cháu Ki, con gái anh, ra bảo Tường “Bố cháu
đi vắng rồi”. Thằng Tường có vẻ buồn, phàn nàn với Đinh Tiến Luyện. Anh nói với
Luyện “ Mày bảo thằng Tường đến gặp tao. Hôm ấy tao đi vắng thật. Nó làm chủ
nhiệm Nhà Văn Hóa thì kệ nó chứ. Đâu có phải vì thế mà tao không thèm tiếp nó.
Nó vẫn là em tao thôi.” Mấy con nhà thằng Phạm Đình Thống, Hoàng Ngọc Tuấn,
Nguyễn Thanh Trịnh đều tốt với anh cả. Thằng Thống lo tìm thuốc men cho anh lúc
anh bị ốm. Thằng Mường Mán thì ở xa, anh không gặp lại. Nói chung, mấy thằng em
ấy vẫn quý anh. Thằng Nguyễn Thanh Trịnh vẫn viết đều. Có hôm, nó đi họp với bọn
Tuổi Trẻ. Một thằng cán bộ văn hóa miền Bắc phát biểu: “ Kể cũng lạ, bao nhiêu
năm rồi mà chúng ta chưa có được một nhà văn nào quyến rũ tuổi trẻ cho bằng thằng
Duyên Anh”. Nguyễn Thanh Trịnh bảo anh: “ Em ngồi nghe chúng nó nói về anh như
thế, em sướng quá!” Thằng Trịnh bảo anh: “ Em vẫn nhớ, anh là người đầu tiên giới
thiệu em với độc giả trẻ tuổi thời ấy. Bây giờ, một năm chúng nó chỉ đăng cho
em có hai truyện, làm sao độc giả biết đến em được.”
Tôi hỏi:
- À, thế trên tờ Tuổi Trẻ, thằng nào vẽ anh đang chụm củi nồi nước sôi, luộc
đám nhi đồng?
- Mẹ nó. Một thằng nhóc tên là Vũ.
- Nó là bạn cháu Chương?
- Không, bạn cái con mẹ gì. Nó là con thằng C. ở đây này. Con riêng của vợ lớn
nó. Thực ra, nó vẽ thì cũng chỉ vì theo lệnh của mấy thằng to đầu thôi. Hôm biết
anh về rồi, nó bảo với thằng Thống: “ Tôi không dám đến gặp ông Duyên Anh đâu.
Tôi xấu hổ lắm.” Thằng Thống bảo: “ Không, mày cứ gặp ông ấy chứ. Ông ấy coi
mày ra cái đ. gì. Con cháu mà.”
Duyên Anh “hừ“ một tiếng:
- Đ.m nó, cuộc đời anh nghĩ lại, thật trầm luân đủ thứ. Chán lắm cơ! Nhiều lúc
khổ vì …, anh phải nghĩ, có lẽ đó là cái thắng để thắng bớt mình lại, cho mình
khỏi đi quá đà...
- Hoặc là để cho anh tập rèn luyện một đức tính gì anh vẫn còn chưa có, hay có
mà chưa đủ,...đức nhẫn chẳng hạn...
- Nhẫn?
- Vâng, em thấy lúc này, anh có vẻ biết nhẫn nhịn hơn rồi đó. Ít nhất, có thể
nói, tương đối là như vậy. Hồi xưa, trên mặt báo, ai đụng anh một chút là phải
biết nhé.
Duyên Anh cười:
- Bây giờ thì anh có thể nói với em rằng, chúng nó có chửi anh trên báo, thì
chúng nó cứ tha hồ. Thứ nhất, anh không có thì giờ đọc. Thứ nhì, có đọc thì anh
cũng kệ mẹ chúng nó thôi. Ngu đâu mà mình mất thì giờ trả lời, hay đôi co với
những đứa chẳng ra gì ấy ? Chúng nó in lậu sách của anh, ăn cắp bao nhiêu công
trình tim óc của mình mà lại còn bảo “ Sách của Duyên Anh chỉ đáng vứt vào sọt
rác” thì lạ quá, anh chẳng thể hiểu nổi ! Nhưng thôi, chúng mày nói gì thì nói,
tao không thèm nói lại. Tao khinh bỉ chúng mày, chẳng thèm để ý đến chúng mày nữa,
chúng mày đ. xứng đáng để tao phải mất công nhắc tới nữa...
- Cứ giữ thái độ ấy đi, coi như là “đạt” rồi đó. Coi như Duyên Anh đã “đắc đạo”,
thoát khỏi cái vòng “thất tình” luẩn quẩn.
- Đ.m, còn lâu mới “đắc đạo”. Còn phải xét lại đã. Để từ từ, còn lâu mà...
- Bây giờ, ví dụ thôi nhé, nếu Tạ Tỵ muốn làm hoà....
- À, Tạ Tỵ hả. Được chứ. Nếu Tạ Tỵ gọi cho anh, bảo “ Ê, Duyên Anh, ngày mai đi
uống rượu với tao”, thì anh ô-kê liền thôi.
- Như vậy, kể ra anh cũng cao cả lắm đấy chứ. Anh biết làm theo lời Chúa Jesus,
tha thứ cho kẻ thù...
- Ối dào, anh tha thứ cho nhiều đứa khác nữa đấy chứ. Ngay thằng cộng sản, mình
còn tha thứ được nữa mà? Có lần, sau khi đi tù về, anh gặp lại một thằng công
an coi tù. Hồi ở trong trại, nó hành bọn tù chúng anh ghê lắm cơ. Anh vừa chào
nó “Thưa cán bộ...”, thằng nhỏ đã rối rít “anh anh, em em” ngọt xớt. Nó bảo nó
hết làm công an rồi. Anh cũng chẳng hỏi vì sao, nhưng anh đoán cu cậu phạm lỗi
gì, bị sa thải rồi, vì trông nó có vẻ đói rách lắm. Nói chuyện qua quít một hồi,
anh móc túi cho nó ít tiền, cu cậu cảm động, cám ơn cám huệ mãi. Xét cho cùng,
chỉ có chủ nghĩa cộng sản và bọn thiểu số lãnh tụ chóp bu là kẻ thù để mình chống
thôi. Những thứ cắc ké như bọn cán bộ quản giáo, công an coi tù...chúng nó có
ra cái gì, mà mình phải coi chúng là kẻ thù?
- Mình chỉ chống chủ nghĩa thôi, chẳng nên chống con người?
Duyên Anh gật gù:
- Đúng vậy. Như thế mới là nhân bản chứ. Nhưng cũng vì thế mà anh vướng vào những
hệ lụy mới.
Tôi nhìn anh dò hỏi:
- Nghĩa là ...
- Thì cũng vì anh tội nghiệp những thằng công an con nít, cho chúng nó thuốc
lá, lạp xưởng, dạy chúng nó làm thơ tán gái , một số bạn tù cho rằng anh khiếp
nhược, sợ bọn cai tù, đầu hàng cộng sản. Thậm chí, có người còn bảo anh làm việc
cho cộng sản nữa. Nhưng không sao, anh bằng lòng chịu những hệ lụy đó. Để khỏi
phải a dua với chúng nó.
Tôi hỏi:
- Như vậy, quan niệm của anh giống NT?
Duyên Anh có vẻ không bằng lòng về sự so sánh đó:
- Ông NT thì làm sao thù hận cộng sản được. Như mình đây này, bị chúng nó nhốt
gần sáu niên, thì mới nói chuyện thù hận hay không thù hận chứ. Còn ông ấy,
chúng nó không thèm bắt ông ấy, chẳng thèm nhốt ông ấy ngày nào, cũng chẳng chửi
rủa ông ấy dòng nào trên sách báo của chúng, thì nói chuyện không thù hận cộng
sản cũng chỉ bằng thừa thôi. Nếu anh là ông ấy, thì anh cứ làm chuyên viên
computer thôi, không viết văn chống cộng nữa. Vì cộng sản nó có coi ông ấy ra
cái gì đâu mà phải viết chống chúng nó?
Ngừng lại một vài giây, Duyên Anh tiếp:
- Ông NT và mấy nhà văn cùng quan điểm với ông ta, trong thời gian gần đây, có
vẻ muốn tôn vinh chủ nghĩa Mác xít. Họ lầm tưởng chủ nghĩa này sẽ đưa họ lên một
đỉnh cao nào đó của nghề viết. Nhưng mà, em phải biết, ngay cả Thượng Đế cũng
không tạo ra nổi một thằng nhà văn cự phách. Thế thì một cái chủ nghĩa vớ vẩn
như Mác xít, làm sao mong làm được chuyện đó? Những ai nghĩ rằng Đảng xây dựng
họ, Đảng đẻ ra họ, là láo toét hết. Chẳng có thứ uy quyền linh thiêng nào trên
trời dưới đất có thể đẻ ra nhà văn hết. Nhà văn, trước hết, phải có chút tài
Thượng Đế ban cho. Nhưng nó đâu có thể ngồi không? Nó cũng phải cố gắng làm việc
hết mình, mới tạo ra tác phẩm được chứ. Thế thì làm sao chủ nghĩa tạo ra chúng
nó được? Anh cho là, chỉ những anh nhà văn hết thời, những anh viết lách chẳng ra
gì, mới mang ảo tưởng dựa dẫm vào chủ nghĩa, và vào Đảng, để mong vớt vát chút
danh thừa mà thôi.
Tôi hỏi:
- Anh căn cứ vào tác phẩm hay phát biểu nào gần đây của NT để nhận xét như vậy?
Ít ra, NT cũng chiếm giải văn chương toàn quốc thời cụ Ngô?
Duyên Anh nói ngay:
- Chẳng dựa vào phát biểu nào cả. Anh nhận thấy vậy thôi. Ông NT viết văn, và dự
giải thi văn chương rất sớm, khi miền Nam mới có rất ít người viết thôi.
Bất chợt, Duyên Anh lại chuyển qua câu chuyện khác:
- Hôm nọ, ông Đ. dẫn anh đi xem bói...
- Bác sĩ HVĐ ấy hả ?
- Ừ. Mẹ, thằng thầy bói này ở Santa Ana. Nó bảo để cho nó photocopy lá số tử vi
của anh. Nó bảo “ông là bậc chính nhân quân tử, tới năm 1992, ông sẽ được một
giải thưởng”. Anh hỏi giải thưởng gì, thì nó không nói. Nhưng mà nó nói trúng
phong phóc những chuyện gì đã xảy ra cho anh hồi còn ở Việt Nam. Rồi nó nhìn mặt
anh, bảo anh có một nốt ruồi cần phải tẩy đi, nếu không thì công danh sẽ chậm,
và gia đạo cứ xào xáo hoài...
- Thế anh có tin lão thầy bói này không ?
- Không. Anh đếch thèm tẩy. Nó là cái đ. gì mà bảo anh làm theo ý nó. Mẹ thằng
thầy bói ấy, anh không chửi thẳng vào mặt nó là may ấy chứ. Anh định bảo nó: “
Anh tưởng nói như thế là tôi sướng à ? Tôi tin c. gì anh ? Anh cũng là con người
như tôi chứ thầy tướng thầy bói cái đ. gì...”
- Thế sao anh bảo hắn nói đúng mấy chuyện quá khứ?
- Thì có thể Thượng Đế bảo cho nó nói như vậy. Thượng Đế sinh ra mình, tóc tai,
râu ria như thế này, ông ấy cho cái gì, mình nhận cái đó, cho mình cái nốt ruồi
thì mình giữ lấy, chứ tẩy xoá làm cái gì? Tẩy xoá như thế tức là chống Thượng Đế.
Vậy thì mày muốn ông chống Thượng Đế để ông chết à?
Duyên Anh cười khà khà rồi tiếp:
- Mày hơn Thượng Đế không? Mày cũng là con người như tao mà mày xúi tao chống
Thượng Đế à? Mà nếu không có Thượng Đế thì cha mẹ tao sinh ra tao. Tao nghe mày
để chống cha mẹ tao à? Tao đ. vào. Nó bảo anh “ Tôi cam đoan với ông, ông cứ tẩy
đi, mọi việc sẽ hanh thông ngay thôi”. Anh hỏi lại nó “Ông thầy lấy cái gì để
cam đoan với tôi?“ nó bảo “ Ông muốn tôi lấy cái gì cũng được”. Anh không nói
gì thêm nữa.
Tôi hỏi:
- Anh có giữ một bản sao những gì hắn đoán cho anh không?
- Có chứ được không ? Tao tin ở tài năng của tao thôi. Tài năng ấy, Thượng Đế
cho tao. Ông ấy cho tao cái hình hài này, đ.m, tao phải giữ chứ ? Mày chỉ là
cái thằng thầy bói cắc ké, mày dám ngon hơn Thượng Đeá à ? Mày chỉ nói ra cái
điều tao biết chắc chắn là sẽ xảy ra, đấy là cái giải thưởng. Cần chó gì mày phải
nói ra điều ấy. Tao tin tao là đủ rồi.” Mẹ nó, anh đ. tin, Duyên Anh mà, chướng
lắm cơ!
- Thế rồi hắn nói gì nữa không?
- Nó bảo “ Ông mà không nghe tôi thì gia đạo bất an, sự nghiệp công danh sẽ hỏng
đấy.” Anh muốn nói với nó: “ Mày nhầm rồi, tao không chửi mày là may cho mày
đó. Bởi vì, tao đi xem bói đ. mất tiền, đã có người trả tiền cho tao rồi. Cha mẹ
sinh ra tao, tẩy xoá cái gì cha mẹ cho mình đã là phạm tội bất hiếu rồi. Mà nếu
Trời sinh ra mình, mình không bằng lòng cái của Trời cho, tẩy xoá đi, ông ấy nổi
giận thì chỉ có nước chết với ông ấy thôi. Đ.m, mày doạ tao, tao không sợ đâu.
Đã có ông ấy che chở tao rồi. Tao chỉ sợ ông Trời thôi. Tao mà chống ông ấy,
ông ấy bảo thằng Vũ Mộng Long này hỗn quá, ông ấy đập cho một phát là đời tao
khốn nạn ngay. Mẹ anh thầy bói, tôi nhờ anh tí. Anh chưa có đủ tư cách để dọa
tôi đâu. Tôi còn đẻ ra các anh thầy bói ấy chứ.
Hít một hơi thuốc, Duyên Anh cười khà khà, rồi tiếp:
- Rốt cuộc, chỉ có những người như ông anh HVĐ của chúng mình mới đi tin thầy
bói thôi. Đ.m, thiên hạ điên hết rồi. Trên đời này, có lẽ chỉ có hai anh em
mình là chưa điên thôi. Mình không tin mình mà lại đi tin mấy thằng thầy bói!
Tin cái con c.. Mất vài ba chục nghe chúng nó nói cho sướng tai vậy thôi. Mất
tiền cho mày để mày nịnh ông cho ông sướng chốc lát. Có vậy thôi. Nhất là, nếu
nghe nịnh mà không mất tiền thì thỉnh thoảng cũng nên nghe chơi cho biết.
- Như vậy, anh tin cái gì?
Duyên Anh thôi cười. Suy nghĩ vài giây, anh chậm rãi:
- Anh tin nơi một Đấng nào đó che chở cho anh. Và anh cũng tin nơi những việc tốt
đẹp mình đã và sẽ làm. Anh tin là mình sẽ không làm những điều xấu…
Tôi ngắt lời anh:
- Chứ nhất định không tin thằng thầy, con bà nào hết phải không?
Duyên Anh lại bật cười ha hả:
- Đúng vậy. Chúng nó có phải thánh thần do Trời sai xuống đâu? Rặt một bọn mồm
mép, dùng trò bói toán làm kế sinh nhai thôi. Thế mà cứ làm như có sứ mạng cứu
nhân độ thế vậy đó...Anh có bao giờ thèm tin chúng nó đâu...
Nhìn nồi giả cầy mới vơi đi một góc, Duyên Anh bảo:
- Mình ăn tối nay, chưa ngon đâu. Giả cầy này, phải hâm lại lần thứ nhì, thứ
ba, càng hâm lại càng ngon hơn lúc mới nấu xong.
Đúng như anh nói, chúng tôi chỉ dùng muôi múc ra bát vừa đủ ăn thôi. Tối hôm
sau, hâm lại, hương vị giả cầy đậm đà hơn nhiều.
Câu chuyện không đầu, không đuôi giữa hai anh em tôi lại tiếp tục, bên ly rượu,
mãi đến quá nửa đêm...
Chương 3
Một buổi tối cuối tháng hai, 1988, chúng tôi ngồi bên hai
phin cà phê, dưới hàng hiên nhìn ra con đường Lake. Duyên Anh đốt thuốc liên tục,
nuốt khói, rồi ngửa cổ thả những vòng tròn hình chữ “ O”. Tôi hỏi anh về thời kỳ
làm báo Xây Dựng. Duyên Anh cười vui:
- Thú vị lắm em ạ, là cái thời kỳ này! Mình có cảm tưởng công việc viết lách của
mình cũng giúp ích được cho một số người đáng được giúp đỡ. Anh muốn nói đến những
người thấp cổ bé miệng, không có tiền hối lộ viên chức chính quyền hay thuê luật
sư. Họ biết trông cậy vào ai nữa, ngoài mấy thằng nhà báo như bọn anh?
- Trong thời gian viết báo này, có vụ nào anh cho là ngoạn mục nhất?
- Vụ đồn điền cao su Xuân Lộc.
Tôi nói:
- Anh kể đầu đuôi vụ này em nghe coi.
Duyên Anh chậm rãi:
- Như thế này nhá…Thật ra, cũng chẳng có gì ghê gớm cả. Đồng bào di cư Nùng được
phép canh tác trên đất của đồn điền cao su từ thời ông Diệm. Bọn Tây đồn điền
muốn bán đất, nên hối lộ cho chính quyền tỉnh Long Khánh và tòa án Biên Hòa, để
ra án lệnh trục xuất đồng bào di cư. Mọi thứ đã xong xuôi cả rồi. Coi như đồng
bào chỉ còn có việc thu dọn đồ đạc, đi kiếm chỗ khác sinh sống thôi.
- Anh có lên tận nơi quan sát không?
- Có. Ông Lãm bảo anh lên. Có cả phóng viên mấy tờ báo khác nữa. Lúc mới xuống
đến nơi, anh nghĩ ông Lãm gửi anh đi làm một chuyện thừa thãi. Vì tụi nó dàn xếp
với nhau cả rồi mà. Giấy tờ chúng nó ký cả rồi.
- Anh có tiếp xúc với đồng bào chứ?
- Dĩ nhiên. Hôm ấy, phe Tây đồn điền dẫn theo một thằng thừa phát lại. Thấy nó
cứ xum xoe với mấy thằng Tây, anh đã bực mình rồi. Chính cái thằng thừa phát lại
mất dạy này mới là cảm hứng cho mấy bài báo của anh trên Xây Dựng.
- Mất dạy như thế nào?
- Anh hỏi nó là tòa đã ra án lệnh chưa, và có thể cho chúng tôi xem không. Nó bảo
“Anh là cái gì mà đòi xem án lệnh?” Anh bảo “ Chúng tôi là nhà báo”. Nó đòi anh
trình thẻ nhà báo cho nó xem. Anh bảo “Ông không có quyền gì xem thẻ ký giả của
tôi cả. Ông không muốn cho xem, thì chúng tôi đi về”. Thế là anh đi về. Và sáng
hôm sau, Xây Dựng chơi một bài tám cột anh viết, ký tên Mõ Báo. Cái tựa nghe nổ
như tạc đạn “Toà Án Biên Hòa và Chính Quyền Xuân Lộc Cấu Kết với Thực Dân Tây Đồn
Điền Tiêu Diệt Đồng Bào Di Cư Nùng”
Duyên Anh cười phá lên rồi tiếp:
- Đ.m, thế là ta đặt lên thành vấn đề chính trị. Ngay lập tức, cha con chúng nó
hoảng mẹ nó lên! Nguyên do cũng chỉ vì thằng thừa phát lại hỗn với anh thôi.
Giá mà nó khiêm tốn hơn một tí, bảo anh “ Dạ đây, án lệnh đây, mời ông xem” thì
đã đâu có chuyện gì. Bọn Tây đồn điền gọi điện thoại thương lượng với ông Lãm.
Anh có mặt ở tòa soạn lúc chúng nó gọi…
- Họ đề nghị những gì?
- Chúng nó bảo, nếu anh bằng lòng ngưng loạt bài chửi chúng nó, chúng nó sẽ tặng
cho anh hai trăm ngàn…
- Hai trăm ngàn vào thập niên 60 cũng khá lớn đấy chứ? Anh còn nhớ năm nào
không? Và hồi đó, lương tháng anh được bao nhiêu?
- Dĩ nhiên. Năm 1964. Hàng tháng, ông Lãm trả anh mười lăm ngàn. Hai trăm ngàn
là đủ để mua một căn nhà rồi…
- Lúc ấy, anh đã mua nhà chưa?
- Chưa, anh còn đang ở nhà thuê.
- Cám dỗ cũng mạnh đấy. Ông Lãm có bảo gì anh không?
- Ông ấy hỏi anh nghĩ sao. Anh nghĩ, mình mà nhận lời, nó có thể lừa, và cho
mình vào tròng; thân bại danh liệt là cái chắc. Ngu gì chơi trò thả mồi bắt
bóng? Mình đang thắng thế mà? Em phải nhớ, lúc ấy anh mới hai mươi chín tuổi
thôi. Vẫn còn ăm ắp lý tưởng về thiên chức làm báo của mình. Anh nói với ông
Lãm “Ngài cứ cúp máy xuống, phải chơi tiếp mới được”. Mình đã nhập cuộc chơi,
đâu có thể đánh trống bỏ dùi được. Sau đó, anh đi một lúc ba bài báo ký tên
Thương Sinh, trong lúc Mõ Báo tiếp tục chửi thằng thừa phát lại hít tô phe (
hút thuốc phiện ). Rốt cuộc, tòa xé án lệnh, quyết định cho xử lại. Bọn lâu la
của Tây đồn điền phá rẫy của đồng bào Nùng. Chúng dùng máy cày đào tung khoai
lang, khoai mì, và mùa màng của đồng bào, chất đầy trước trụ sở xã ấp. Đ.m nó,
đâu có thể để cho con người ta vỡ đất hoang, khai khẩn hằng chục năm, tới khi đất
tốt, trồng trọt được thì lại đuổi người ta đi chỗ khác? Thế là tòa án Biên Hòa
phải hủy bỏ án lệnh, đồng bào di cư được bồi thường số hoa mầu bị phá hoại, và
được tiếp tục canh tác như cũ.
Duyên Anh cười sảng khoái:
- Đ.m, mình cũng sướng nữa! Đồng bào Nùng treo biểu ngữ trước cửa báo Xây Dựng,
cám ơn mình. Mấy ông chức sắc Công Giáo, Phật Giáo, và đại diện đồng bào Nùng,
cả ông đại tá Wòng A Sáng nữa, mời Xây Dựng dự tiệc mừng ở nhà hàng Đồng Khánh.
Một ông đại diện đồng bào Nùng đọc diễn văn, ca tụng “ Ba bài báo sấm sét của
ông Thương Sinh giống như ba nhát búa của Trình Giảo Kim!” Họ làm anh vừa sung
sướng vừa xấu hổ.
Tôi nói:
- Như vậy, có thể coi như anh là con gà nòi của Xây Dựng?
Duyên Anh gật gù:
- Nói như vậy cũng không phải là quá đáng. Anh vừa làm phóng viên, vừa viết
feuilleton, vừa viết phóng sự hài hước. Sau này, ông Lãm còn giao cho anh viết
phim trang ngoài nữa…
- Anh viết phóng sự nào vậy?
- Kép Cũ Tuồng Mới. Lấy bút hiệu Thương Sinh.
- Tại sao lại là Thương Sinh?
- Lúc ấy mình có để ý chó gì đâu! Cứ nghĩ nôm na, Thương là thương yêu, Sinh là
chúng sinh. Thương Sinh là thương người, yêu người vâäy thôi. Về sau, tra tự điển
Hán Việt, mới biết Thương Sinh nghĩa là đau ốm, bệnh hoạn. Hình như bút hiệu
này nó vận vào người hay sao đó. Trong thời gian làm báo, anh cứ hết bệnh nọ đến
tật kia hoài.
- Anh viết những gì trong Kép Cũ Tuồng Mới ?
- Anh chửi bọn lãnh tụ đảng phái, bọn chính trị gia hoạt đầu, bọn chủ nhiệm báo
chí vô lương: Thời Ngô Đình Diệm thì hèn mạt suy tôn Ngô Tổng Thống. Ông Diệm vừa
đổ thì gang họng lên án Ngô triều, và bịa đặt đủ thứ chuyện tồi bại để lăng nhục
gia đình họ Ngô. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn thôi. Ông Lãm thâáy mục này
đụng các đảng phái kỹ quá, đề nghị anh ngưng viết, thay bằng film du jour.
- Viết phim, anh lấy bút hiệu gì?
- Mục phim này, anh đặt tên Trong Họ Ngoài Làng, nên dùng bút hiệu Mõ Báo.
- Còn feuilleton?
- Ảo Vọng Tuổi Trẻ.
- Đây là cuốn viết về thời anh theo Duy Dân lên Ban Mê Thuật làm cách mạng?
- Dựa trên một số chi tiết về thời gian ấy thôi. Tiểu thuyết mà.
- Chắc ông Lãm thấy ngay được sở trường của anh là ở phóng sự tiểu thuyết?
- Có lẽ như vậy. Vì thế, lúc anh đề nghị làm phóng sự Chợ Người, ông ấy bằng
lòng ngay…
- Chợ Người?
- Ừ. Sau khi bắt buộc phải ngưng Kép Cũ Tuồng Mới, anh nẩy ra ý định viết một
phóng sự về những phụ nữ từ các vùng quê nghèo lên Sài gòn kiếm sống, phải đi ở
mướn thời ấy. Mỗi lần đi qua bùng binh chợ Bến Thành, nhìn những phụ nữ nghèo
khổ, ngồi buồn chờ thiên hạ tới mặc cả, thuê mướn về làm người ở đợ, anh thấy dậy
lên một niềm bất nhẫn, không viết không chịu được.
Tôi hỏi:
- Thời gian ở Xây Dựng, anh làm việc với những ai?
- Anh khá thân với Vũ Bình Nghi, Tường Tuấn, và Triều Khê.
- Họ làm công việc gì cho Xây Dựng?
- Triều Khê là họa sĩ, phụ trách trang thanh thiếu niên. Vũ Bình Nghi cũng là họa
sĩ, trình bày báo, thỉnh thoảng có viết tin. Còn Tường Tuấn là Tổng Thư Ký.
- Tường Tuấn, em có gặp mấy lần ở khu nhà thờ Ba Chuông, khoảng cuối 1981. Anh ấy
mở một quán cà phê trên vỉa hè. À, anh còn nhớ vụ Nguyễn Văn Trỗi không?
- Cái thằng “liệt sĩ” của Hà nội ấy à? Bấy giờ là thời Nguyễn Khánh. Thằng đặc
công nhóc con bị Việt Cộng dụ dỗ làm Kinh Kha đi giết Mc Namara.
- Thằng này có hô “Hồ Chí Minh Muôn Năm” ba lần, như chúng nó kể lại trong Sống
Như Anh không?
Duyên Anh cười khẩy:
- Muôn năm cái con mẹ gì! Vãi đái ra quần thì có. Thằng NTL đi xem xử bắn về, kể
lại cho anh em nghe: “… Khi bị dẫn ra sân bắn, trong nhà tù Chí Hòa, ông liệt
sĩ Nguyễn Văn Trỗi một mực kêu oan và khóc như di ấy. Nó bảo nó không biết gì cả,
chỉ bị mấy thằng Việt Cộng dụ dỗ, xúi đi đặt chất nổ thôi. Nó có biết Mc Namara
là thằng quái nào đâu?…”
Một buổi tối khác, uống rượu với nhau, tôi hỏi Duyên Anh:
- Anh có biết vụ Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn?
Duyên Anh gật đầu:
- Lúc Nguyễn Khánh cho bắn Trưởng Ty Công An Phan Quang Đông ở sân vâän động Huế,
anh cũng đang ở đó, nhưng không đi xem. Buổi trưa, xử bắn Phan Quang Đông. Đến
chiều thì bắn Ngô Đình Cẩn.
- Phan Quang Đông bị bắn vì tội mật vụ?
- Mật vụ cái chó gì! Tội công giáo thôi. Để xoa dịu Phật giáo, thực ra là xoa dịu
nhóm Phật giáo quá khích phe TTQ.
- Còn Ngô Đình Cẩn? Ông ta có “lãnh chúa ác ôn” như thiên hạ đồn không?
- Ngô Đình Cẩn chỉ là một ông nhà quê nhí nhố, đáng tội nghiệp thôi. Tội nghiệp
vì bị ĐM lừa cho sập bẫy.
- Lừa như thế nào?
- ĐM vào thăm Ngô Đình Cẩn trong khám Chí Hòa, bảo Ngô Đình Cẩn cứ nhận tội cũ
đi, không sao đâu; rồi lúc ra tòa, ông ta sẽ dùng uy tín cá nhân, bảo tòa xử
cho trắng án. Cậu Út Trầu ngây thơ, tin vào lời hứa nhảm. Thế là bị chúng nó
lôi ra bắn. Ở sân sau khám Chí Hòa, đối diện một ngôi chùa. Cũng chỉ để xoa dịu
bọn quá khích thôi.
- Ông Diệm, ông Nhu bị giết rồi. Bắn thêm Ngô Đình Cẩn ích lợi gì đâu?
- Thì vậy. Buổi tối xem bắn ông Cẩn về, anh viết một bài tường thuật vụ xử tử
cho Xây Dựng. Sáng hôm sau, đưa cho ông cha Lãm. Nhưng ông ấy không dám đăng.
- Anh viết những gì? Vì sao ông ấy không đăng?
- Đại khái, anh nêu ra những nghi vấn về sự hồ đồ trong việc vội vã kết án tử
hình Ngô Đình Cẩn. Anh kết luận “Nhưng dù thế nào đi nữa, Ngô Đình Cẩn đã chết,
đã chết thật rồi! Chúng ta còn lý do gì để tiếp tục thù hận nữa không?” Trong một
ngày, hai cái chết, hai vụ xử bắn. Như thế là quá đủ rồi. Sau đó, anh bảo ông
Lãm “Để tường thuật mấy vụ giết người này, Ngài sai đứa khác đi”. Em biết
không, hồi mười tuổi, anh đã bị chứng kiến vụ xử tử tên Việt gian Ban ở Vọng
Cung.
- Anh có nhắc tới trong Con Thúy phải không?
- Ừ. Xem bắn người, ghê bỏ mẹ! Nhưng mà điều đặc biệt ở Ngô Đình Cẩn là ông ta
có vẻ rất bình tĩnh trước cái chết. Ông ta mặc áo dài đen, quần trắng. Mắt bị bịt
chặt; hai tay bị trói vào cột. Một tiểu đội hành quyết cùng bắn. Ông ta khụy xuống.
Được thêm một phát súng lục ân huệ vào đầu cho chết hẳn.
- Người ta đồn Ngô Đình Cẩn có cả trương mục ở ngoại quốc?
- Không phải đâu. Ngô Đình Cẩn chẳng có gì hết. Ông ta chỉ là một anh già trầu
nhí nhố, thích quyền bính thôi.
- Còn Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục? Ông tướng Nguyễn Chánh Thi viết trong hồi ký
là ông Thục cho người ký hợp đồng khai thác gỗ với Việt Cộng. Khu rừng đang
khai thác, không ai được bén mảng tới. Những xe chở gỗ này của Đức Cha, không
ai được phép xét hỏi. Nhờ đó, Việt Cộng cải trang thành thợ rừng, xâm nhập vào
các đô thị của mình…
- Ông Nguyễn Chánh Thi nói như vậy là quá. Anh biết ông Ngô Đình Thục. Ông ấy
chỉ có cái tham vọng lớn nhất là trở thành Hồng Y thôi. Muốn như vậy, ông ta phải
làm sao cho có thêm thật nhiều người tân tòng. Dĩ nhiên, ông ấy có cậy thế ông
Diệm làm một số điều phiền lòng những người theo Phật giáo ở Huế.
Tôi hỏi:
- Thế còn vụ xử Đặng Sĩ, sự thực như thế nào?
- Sự thực, là vụ này do TTQ đạo diễn, áp lực Nguyễn Khánh đưa Đặng Sĩ ra xử, để
dằn mặt Công Giáo thôi. Thiếu Tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh Trưởng Nội Anh Thừa Thiên, bị
chúng nó tố cáo dùng xe tăng xích sắt đàn áp đồng bào Phật Giáo biểu tình ở Đài
Phát Thanh Huế, và cho lính ném lựu đạn vào đám đông…
- Tố cáo tầm bậy! Ít nhất là cái vụ ném lựu đạn. Mới đây, báo chí Mỹ tiết lộ một
thằng CIA Mỹ tên là Scott đã đặt chất nổ trước Đài Phát Thanh Huế, hôm ấy. Và tại
sao lại xử một mình Đặng Sĩ? Không nhận lệnh của Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, làm
sao Phó Tỉnh Trưởng Đặng Sĩ dám đem xe và lính đến dẹp biểu tình?
- Thì đấy mới là chuyện khôi hài. Lý do chính: Tỉnh Trưởng là người của Tư Lệnh
Vùng 1. Cả hai đều là người của Phật Giáo. Chúng nó phải đưa Đặng Sĩ ra làm vật
tế thần chứ?
- Hồi ấy Tư Lệnh Vùng 1 là ai, anh còn nhớ không?
- Nguyễn Chánh Thi. Ông này viết hồi ký, tự đề cao mình quá xá. Ông Thi dùng cuốn
hồi ký này để kể tội bọn Thiệu Kỳ buôn lậu, và chửi những thằng đã đá ông ấy khỏi
Việt Nam. Ông ấy không hề dám nhận mình đã có trách nhiệm gì trong vụ Thanh Bồ,
Đức Lợi…
- Vụ này như thế nào?
- Hai làng Công Giáo Thanh Bồ và Đức Lợi nằm gần Đà nẵng, nơi đặt Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn 1 và Vùng 1 Chiến Thuật của ông Thi. Bọn lâu la của Hội Đồng Nhân Dân
Cứu Quốc, tay sai TTQ, đã đốt rụi hai làng này…
- Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc? Họ gồm những ai?
- Mấy thằng trí thức miền Trung, Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, và mấy
thằng nữa, anh không nhớ tên. Chúng nó làm tờ Lập Trường ngoài Huế…
- Anh có thấy tận mắt cảnh điêu tàn ở hai làng này sau vụ đốt phá không?
- Có. Anh đi theo phái đoàn Công Giáo của Tổng Giám Mục Saigon ra tận nơi…
- Anh thấy những gì?
- Nhà tranh , nhà gỗ, cháy rụi hết. Nhà gạch chỉ còn trơ nền và mấy bức tường.
Có chỗ, than lửa vẫn còn âm ỉ. Nhà thờ cũng cháy tiêu. Dân làng phải tản cư qua
các làng lân cận lánh nạn…
- Anh có dự phiên tòa xử Đặng Sĩ không?
- Anh có mặt từ đầu đến cuối.
- Rồi về tòa soạn viết bài tường thuật?
- Không. Anh chỉ ghi chép các chi tiết. Giờ nghỉ trưa, ông Lãm ra quán ăn, chỗ
anh ngồi, lấy những trang ghi chép, đem về cho người khác viết. Ở Saigon thời ấy,
báo nào cũng tường thuật vụ Đặng Sĩ. Nhưng chỉ Xây Dựng là dám đi những bài thật
bốc lửa cũng chưa từng nhận một ân huệ nào của ông ta. Nhưng phải công nhận,
ông ta là một người trí thức có tầm vóc, một sĩ quan can đảm (Tháng 7, 1999, gặp
cựu đại tá quân pháp NVQ, tôi hỏi thăm, được biết đại tá Nguyễn Văn Đức, giám đốc
Nha Quân Pháp, đã qua đời năm ông vừa đúng 49 tuổi ).
- Vậy thì những bài báo nặng ký bênh vực Đặng Sĩ là do ai viết?
Duyên Anh yên lặng một vài giây trước khi trả lời:
- Loạt bài ký bút hiệu Lê Thượng Hòa, một tên tuổi hoàn toàn xa lạ với làng báo
thời đó. Lúc đầu, ông Lãm giấu, không cho biết Lê Thượng Hòa là ai cả. Về sau,
ông ấy cho anh và vài người thân tín biết, Lê Thượng Hòa chính là bác sĩ Trần
Kim Tuyến…
- Ông Trần Kim Tuyến, giám đốc mật vụ thời cụ Diệm?
Duyên Anh gật đầu:
- Miền Nam chỉ có một Trần Kim Tuyến thôi.
- Rốt cuộc, họ xử Đặng Sĩ như thế nào?
- Ông ấy bị đày ra Phú Quốc. Tội nghiệp, gia đình ông ấy bị ly tán: con cái phải
gửi cho họ hàng nuôi dùm!
Duyên Anh ngưng một lát, chép miệng:
- Rốt cuộc, chung qui cũng lại thằng Mỹ thôi. Không có Mỹ yểm trợ ngầm, sức mấy
các ông sư lật nổi ông Diệm. Thời Nguyễn Văn Thiệu, các ông ấy cũng chống Thiệu
tưng bừng đấy. Nhưng Thiệu được Mỹ tin dùng, các ông ấy có làm quái gì được Thiệu
đâu? Ông sư Thích Trí Quang, ông ấy cứ việc tuyệt thực 100 ngày để ăn vạ. Tuyệt
thực chán, rồi cũng phải về chùa thôi. Làm chó gì được ai đâu? Còn về cái gọi
là nhân chứng lịch sử nữa. Đ.m, lịch sử viết bởi những thằng ngu! Lịch sử, nếu
cứ tin vào mấy cái hồi ký vớ vẩn của những anh võ biền kiểu Đỗ Mậu, Đỗ Miếc, mà
bảo đấy là lịch sử thì nên coi chừng đấy. Mấy tay này, viết hồi ký chỉ là một
cách để giải tỏa những ẩn ức của họ thôi. Mấy ông tướng kiểu Nguyễn Chánh Thi,
những ông từng đi lính cho Tây, anh hùng cái đ. gì mà học đòi viết hồi ký? Anh
hùng quân đội hả? Theo anh, chỉ những sĩ quan trẻ từ các trường Đà Lạt, Thủ Đức,
tung hoành chiến địa trong các thập niên 50, 60, 70, mới là những kẻ thực sự
góp công xây dựng quân đội miền Nam. Anh hùng quân đội, nếu có thể gọi là những
anh hùng, thì chỉ những thành phần này xứng đáng thôi. Mấy ông tướng già, từng
đi lính cho Tây, coi như vứt đi hết, chẳng được cái tích sự gì hết! Kể cả mấy
ông lãnh tụ chính trị, những ông đàn anh văn nghệ già lọm khọm cứ thích ngồi
chiếu tiên chỉ, bắt những người đi sau tung hô mình. Ngay từ hồi còn ở nhà,
trong Sa Mạc Tuổi Trẻ, Ảo Vọng Tuổi Trẻ, anh đã chửi bọn này nhiều rồi. Đâu có
phải đến bây giờ anh mới chửi họ? Nhân danh một thằng không có tuổi trẻ, anh chống
bọn họ. Chống lại những người ấy, anh có được gì đâu, chỉ tổ bị chúng ghét
thôi. Giá anh cong lưng, cúi mặt xu phụ chính quyền, anh đã sướng. Việc đ. gì
mình phải viết báo chửi bới chống chính quyền? …
Tôi hỏi:
- Nhưng mà anh chửi thì chửi, bộ quốc gia giáo dục vẫn cho Hoa Thiên Lyù vào
chương trình Việt văn bậc trung học? Có phải vì biết như vậy nên ông Khai Trí
mua đứt bản quyền cuốn này, và anh bán luôn không?
Duyên Anh cười, gật đầu:
- Hồi ấy, cần tiền mua nhà, nên anh bán ngay. Giữ làm chó gì? Nhưng mà như thế
đã thấm gì? Có thằng trong nội các còn bảo với thằng bạn anh là “ Thằng Duyên
Anh có tài lắm. Lẽ ra, người ta đã mời nó ra làm tổng trưởng rồi. Nhưng mà,
đ.m., nó chửi quá, người ta chán! Giá mà nó chỉ là thằng Duyên Anh thôi, thì được
quá rồi. Khổ nỗi, nó lại là thằng Thương Sinh nữa…” Nghe xong, anh bảo thằng bạn:
“Đ. m., tao đ. cần. Tao đ. cần chúng nó cho sách tao vào bộ giáo dục. Tao đ. cần
chúng nó mời tao làm tổng trưởng. Có mời, chưa chắc tao đã bằng lòng. Tao chỉ
muốn tao là tao thôi.” Và anh tiếp tục chửi chúng nó vung xích chó lên…Anh xử sự
rất ư là kiếm hiệp Kim Dung, nghĩa là, người quân tử nhìn lên không thẹn với Trời,
ngó xuống không thẹn với Đất, xét lòng mình không thẹn với lương tâm. Là được rồi.
- Khoái Kim Dung, nên hình như một dạo, anh có ký bút hiệu Lệnh Hồ Xung?
- Có chứ. Hồi anh viết trên tờ Con Ong… Nhiều lúc, anh thấy mình rơi vào những
hoàn cảnh rất giống với hoàn cảnh nhân vật này đã trải qua….
- Nghĩa là…?
- Nghĩa là anh bị cả tà phái lẫn chính phái chúng nó ghét, hợp sức tấn công
mình….
- Và anh trở thành….tên biệt kích cô đơn?
Duyên Anh có vẻ hài lòng về sự so sánh này. Anh cười ha hả:
- Em chơi với anh hơn hai mươi năm rồi, em biết tính tình anh ra sao. Thằng
Duyên Anh nó vẫn cứ thế thôi. Nó vẫn cứ như thế thôi, không khác xưa chút nào cả.
Bây giờ, chúng nó có chửi anh, anh cũng mặc thôi. Anh nhắn chúng nó: Đ.m, chúng
mày tiếp tục chửi ông nữa, mai đây ông VẼ nữa, thì chúng mày chỉ có nước chết
thôi.
Ngừng một lát, Duyên Anh nói:
- Em thử nhìn quanh xem, có thằng nhà văn nào mặt mũi sáng sủa như anh không.
Chúng mày cứ chửi ông đi. Nhưng mà đố chúng mày tìm được thằng nhà văn nào kẻng
trai như ông đấy…
Tôi phì cười, ngắt lời anh:
- Có chứ. Hoàng Hải Thủy mà không kẻng trai à?
Duyên Anh nói ngay:
- Hoàng Hải Thủy làm sao đẹp giai bằng Duyên Anh được? À, nhưng mà thằng Hoàng
Hải Thủy này cũng hay lắm cơ. Hồi thằng Hoàng Anh Tuấn làm đạo diễn, mời nó
đóng phim, có cảnh quay nó ngồi ngoài phòng khách, mà lại mặc pyjama mới chết
người chứ! Khi chiếu thử, hàng họ của nó trình làng nguyên một đống. Thằng Hoàng
Hải Thủy xấu hổ quá, từ đó hết đóng phim luôn. Nhưng mà không nói chuyện đẹp
giai xấu giai nữa. Thử hỏi thằng nào ăn nói duyên dáng, thằng nào lịch sự, thằng
nào dáng dấp thư sinh nho nhã như thằng Duyên Anh nào? Em cứ thử nói cho anh
nghe coi?
Cất tiếng cười ngạo mạn, anh tiếp:
- Nhưng mà chúng mày đừng chọc ông thôi. Chọc ông, ông sử dụng chữ nghĩa, là bỏ
mẹ ngay…Đừng, đừng chọc ông. Chứ còn bình thường, thì ông rất nhã nhặn, rất lịch
sự….Chữ viết ông lại đẹp, mới chết người chứ! Đố em tìm được một thằng nhà văn
nào có bản thảo sạch và đẹp như bản thảo của anh đấy…
Tôi ngắt lời anh:
- Em biết rồi. Trên tờ bìa bọc bản thảo Một Tù Binh Mỹ ở Việt Nam, anh đã chẳng
viết “ Bản thảo của Duyên Anh đẹp và sạch nhất thế giới” hay sao?
Duyên Anh lại cười sảng khoái:
- Đ.m, văn hay, chữ tốt; bản thảo sạch và đẹp nhất thế giới! Thế thì ông Trời
ông ấy cũng ban cho mình nhiều thứ quá đi ấy chứ?
Ngừng lại, rít vài hơi Marlboro, anh nói tiếp:
- Thượng Đế tước đoạt của mình nhiều thứ, nhưng ông ấy cũng ban lại cho mình
nhiều thứ quá. Cho mình trùm hết mọi cái. Càng ngày càng trùm. Mẹ, xưa đã hơn
nhiều thằng rồi. Nay, vẫn tiếp tục hơn chúng nó….Mẹ, thằng Duyên Anh, mày hỗn
quá, ông cho mày tù dăm sáu năm đâáy. Nhưng mà, ông vẫn thương mày. Ông cho mày
vào trong đó, thử sức chịu đựng của mày, và để xem mày còn tin ông không…
- Và anh tin không?
- Tin mạnh đi ấy chứ! Em biết không, hồi ở trong tù, anh cầu nguyện ghê lắm. Tự
nhiên mình có đức tin thôi, chứ chẳng có ai thúc giục gì anh cả. À, mai đây,
anh còn lại vào đạo nữa đấy…
- Vào đạo gì?
- Công Giáo, dĩ nhiên. Em biết, chị ấy theo Công Giáo mà. Vào đạo cho bà ấy
vui.
- Anh tin ai?
- Thì tin Chúa, tin Đức Mẹ…
- À, anh có nói về mảnh đá đen khắc hình bà Maria trong cuốn Trại Tập Trung .
Anh còn giữ mảnh đá này không?
- Có. Anh để trong va li. Sáng mai, anh lấy cho em xem.
- Anh kể là anh có nhờ linh mục Chân Tín làm phép cho mảnh đá ấy; và cũng nhờ
nó, anh đã vượt biển thành công?
- Ừ, hồi vượt biên sang Mã Lai, anh đeo mảnh đá mầu nhiệm này trên ngực….
- Anh tin là một mảnh đá vô tri cũng có phép mầu nhiệm?
- Bình thường, thì anh không tin đâu. Nhưng mà cái này lạ lắm, em ạ. Nếu anh
không cầu nguyện, và không nhận được những điều anh cầu xin, thì chắc anh cũng
không tin đâu.
- Những điều anh cầu xin?
- Đây nhé, nhận được mảnh đá một thời gian ngắn, anh được thả; rồi vượt biển
thành công này. Bây giờ, cứ mỗi lần viết một cuốn sách mới, anh đều có thói
quen treo mảnh đá hình Đức Mẹ trước mặt. Và nhờ đó, anh viết rất nhanh….
Tôi cười, tỏ vẻ không tin:
- Nhưng trước đây, hồi chưa đi tù, hồi chưa nhận được miếng đá đen, anh cũng đã
viết rất nhanh rồi cơ mà. Em không ngờ một gã nghịch thiên như anh mà cũng tin
mấy chuyện như vậy đó.
Tôi muốn nhắc anh nhớ lại mấy hàng chữ anh viết trên bài thơ gửi cho tôi một
năm trước đó:
Vũ Mộng Long + Vũ Trung Hiền = Vũ Nghịch Thiên
Tôi nói:
- Anh còn nhớ anh đã từng viết “Không ai có thể giết được tài năng đích thực,
dù là Thượng Đế” chứ? Và trong bài thơ Em, Anh Đã Đến Paris, anh cũng đã chê
Thượng Đế kiêu căng, Thượng Đế nghèo nàn, không thể bố thí cho anh một tổ quốc
mà?
Duyên Anh lắc đầu:
- Nghịch Thiên đâu có phải là chống lại ông Trời. Mà Thượng Đế đâu có phải là Đức
Mẹ. Đức Mẹ còn là con của Thượng Đế cơ mà?
Tôi bật cười:
- Như vậy là anh chưa thuộc kinh Kính Mừng của Công Giáo rồi. Làm sao mà người
ta cho anh vào đạo được? Anh không nghe người Công Giáo, họ vẫn đọc kinh “Thánh
Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi là kẻ có tội…” hay sao? Người Công
Giáo tin bà Maria là mẹ Đức Chúa Trời, tức là mẹ của Thượng Đế…
Duyên Anh cũng cười:
- Đức Mẹ đâu có phải là mẹ của Thượng Đế….
- Thế thì anh giải thích thế nào cái câu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời?”
- Bố láo! Mẹ của Đức Chúa Trời sao được? Đức Mẹ chỉ là mẹ của ông Chúa Giê Xu
thôi. Đức Chúa Trời, hay Thượng Đế, là một cái gì ghê gớm lắm cơ. Đức Mẹ chỉ có
công đẻ ra ông Chúa Giê Xu thôi.,,,
- Vậy, thì theo anh, Ông Trời mà nhân gian thường nói đến, và Đức Chúa Trời mà
mấy người theo Đạo Chúa vẫn nhắc tới, hai ông đó là một, hay là hai? Giống nhau
hay khác nhau ở chỗ nào?
- Hai ông đó khác nhau chứ…
- Thế còn Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê Xu?
Duyên Anh nói ngay:
- Hai ông này cũng khác nhau luôn.
- Anh có tin ông này là cha ông kia không?
- Ông nào là cha ông nào?
Tôi bật cười:
- Thì Đức Chúa Trời là cha của Đức Chúa Giê Xu…
- Không. Đức Chúa Trời là Giê Hô Va trong Cựu Ước của người Do Thái. Còn Đức
Chúa Giê Xu mãi tới thời Tân Ước mới xuất hiêän. Đức Chúa Giê Xu đâu có phải là
con Đức Chúa Trời? Em cứ thử truy nguyên xem thủy tổ của ông Chúa Giê Xu từ đâu
ra.
- Con cháu vua Đa vít…
- Thì đấy. Có vậy thôi. Chúa Giê Xu đâu có phải là Đức Chúa Trời. Đúng không
nào?
Tôi phá lên cười:
- Em hỏi thử anh, cho vui vậy thôi. Chứ em thấy, anh hiểu chưa mấy sát về giáo
lý Cơ Đốc. Điều anh vừa nói về Chúa Giê Xu rất giống sự tin tưởng của những người
theo Do Thái Giáo…
- Không, anh không cần hiểu theo giáo lý của ai cả. Anh cứ hiểu theo giáo lý của
anh thôi. Vì anh có phải là người theo đạo Thiên Chúa đâu? Đâu có ai được quyền
bắt anh phải đọc, phải tin, phải cầu kinh, theo y như cách của họ được…
Tôi vẫn muốn câu chuyện của anh em tôi không bao giờ trở thành một cuộc tranh
cãi về bất cứ vấn đề gì. Cho nên, dù biết anh hiểu chưa đúng về Cơ Đốc Giáo,
tôi nghĩ, không nên “dồn” Duyên Anh nhiều quá. Chứ vặn vẹo một hồi, không chừng
anh đâm ra mâu thuẫn với chính anh. Bởi vì bắt đầu câu chuyện, anh khoe là sắp
vào đạo Công Giáo, và tin Đức Mẹ đã phù hộ anh trong nhiều trường hợp… Nhưng dần
dần,….
Cho nên, tôi khôi hài hóa đề tài tôn giáo:
- Hầu hết các tôn giáo tin vào một Thượng Đế sinh ra con người. Anh nghĩ sao?
Duyên Anh trầm ngâm một thoáng chốc, rồi cười khinh bạc:
- Nếu như phải lý luận, thì anh sẽ nói như thế này: Anh bảo Thượng Đế sinh ra
loài người à? Chúng tôi suy nghĩ rất là trần tục, nên chúng tôi hỏi anh tại sao
chúng tôi chưa bao giờ nghe nói tới một Bà Thượng Đế, một Bà Trời? Tại sao lại
chỉ Ông Trời mà không có Bà Trời? Như vậy thì chỉ hoặc là lại cái, hoặc là quái
đản lắm mới có chuyện không phải đàn bà mà sinh đẻ được thôi…
Tôi phì cười vì ý nghĩ lạ lùng của anh. Duyên Anh nói tiếp:
- Mẹ, tôi tin Thượng Đế, Ông Trời, hay Ông gì gì đó, cũng là do lòng tin của
tôi thôi. Anh cũng chẳng chứng minh gì được, mà tôi cũng chẳng chứng minh gì được.
Tôi tin là tin vậy thôi. Thì anh đâu có thể bắt tôi phải tin giống y hệt như
anh cho được?
- Thế nếu có ai hỏi, anh là một kẻ Nghịch Thiên mà tin vào Chúa Trời sao được,
anh sẽ nói thế nào?
- Em phải biết, đôi khi những kẻ Nghịch Thiên cũng có cái niềm tin của nó…
- Và có khi, những kẻ ấy lại tin mạnh hơn ai hết…
- Bởi vì khi nó nói tôi không tin, tức là nó đã tin…Nó tin ở cái sự không tin của
nó…Và đó cũng là niềm tin của nó…
- Và khi nó xác nhận mình là kẻ Nghịch Thiên, nó cũng đã khẳng định sự hiện hữu
của một Ông Trời, để cho nó nghịch lại chứ…
Duyên Anh gật gù:
- Ngày anh gặp Ghislain Ripault, thằng agent littéraire của anh đó, nó đang làm
chủ bút tờ Contre Ciel, anh hỏi nó: Đ.m mày, mày dám chống cả Thượng Đế à?
- Thế nó nói sao?
- Nó bảo anh “Tu ne sais pas. Contre Ciel, c’est tout près Ciel” (tạm dịch “Anh
không hiêåu gì cả. Nghịch Thiên, nghĩa là gần sát với Trời đó”). Nó lấy thí dụ
Je suis contre le mur, nghĩa là tôi đứng, tôi ngồi, tôi ở sát bên tường, chứ
đâu có phải tôi chống lại bức tường. Nó bảo “Contre, c’est tout près.”
Duyên Anh tiếp:
- Nói chuyện đạo này, đạo kia thì nó vô cùng lắm. Ai cũng có thể cho đạo của
mình là nhất hết. Thực ra, anh cũng chẳng có tin gì mấy đâu. Anh quyết định vào
đạo Công Giáo, cũng để làm trọn một lời hứa thôi.
- Anh hứa với ai?
- Một tu sĩ Công Giáo trẻ, tên là thầy Bảy.
- Anh hứa vào thời gian nào?
- Hồi em đi rồi, anh sống vất vưởng, nay chỗ này, mai chỗ nọ, chỉ chờ ngày vượt
biên thôi. Tu sĩ Bảy này giúp sắp xếp chuyến đi cho anh. Còn chuyện cầu nguyện
khấn hứa, thì hồi còn ở tù, anh cũng cầu khấn đủ thứ hết, từ Chúa Trời, Chúa
Giê Xu, đến Đức Mẹ; ngay cả Ma Hô Mết, đ.m, cũng khấn luôn…Hễ cứ ông nào mình
nghĩ có quyền một tí, là mình khấn. Khấn có một tí, mà được ra tù, ngu chi
không khấn? Lẽ ra, anh vào đạo từ hồi còn ở Paris đấy chứ…
- Vì chị ấy là Công Giáo?
- Dĩ nhiên. Lại cả hai đứa con anh nữa chứ. Con Ki, thằng Tí cũng vào Công Giáo
cả rồi. Nhưng cái chính, là mình hứa, thì mình phải làm thôi. Để xem ở đây, có
ông cha nào coi được, thì mình nhờ ông ấy cho mình vào. Không, thì để về Paris,
rồi vào, cũng chẳng sao.
Duyên Anh cười:
- Nhưng mà, vào đạo hay không vào đạo, Công Giáo hay không Công Giáo, mình vẫn
chỉ là mình thôi…
- Nghĩa là tôi vẫn chỉ tin tôi mà thôi?
- Đ.m, nghiã là vẫn tiếp tục Nghịch Thiên. Thế thôi. Và Nghịch Thiên không có nghĩa
là chống lại ông Chúa Giê Xu. Bằng chứng là chưa bao giờ có ai tìm thấy được
trong tiểu thuyết đứng đắn của Duyên Anh chỗ nào anh phủ nhận Thượng Đế. Ngạo mạn
ông ấy một tí, trong mấy cái phóng sự khôi hài láo lếu thì có. Chứ còn chân
tình mà nói, thì anh vẫn tin Thượng Đế thôi. Chẳng thế mà, có một ông linh mục,
thuộc Dòng Chúa Cứu Thế, đã từng nói với anh: “ Tôi đi giảng đạo hai mươi năm,
không bằng mấy trang tiểu thuyết của Duyên Anh ở trong Trần Thị Diễm Châu!”
- Và chỉ cần như thế, anh tin là mình sẽ được Thượng Đế thương?
Duyên Anh gật đầu:
- Dĩ nhiên. Và em cũng phải biết, anh nói về đạo cũng hay lắm đấy nhé. Cứ thử mở
bất cứ một trang Thánh Kinh nào ra, rồi lấy giấy bút, cho một ông linh mục, hay
một ông mục sư, viết bài giảng thi với anh. Chưa chắc các ông ấy đã viết bài
thuyết giảng Thánh Kinh hay hơn anh đâu…
- Chắc chắn rồi. Vì anh là Thợ Viết mà?
- Không phải thế. Đó là vì cách nhìn và diễn giảng Thánh Kinh của anh nó rộng,
nó xa, nó thoát khỏi cái đạo. Hơn các ông ấy ở chỗ đó. Họ bị trói buộc, bị hạn
chế trong hệ thống suy nghĩ của Giáo Hội. Như thế thì làm sao mà hay cho được?
- Anh cũng áp dụng lối nhìn này trong văn học?
- Ừ. Thì em xem hồi ở Việt Nam, các ông thầy Việt Văn hay viết mấy sách luận đề
về các tác giả này nọ. Họ vẫn không sao thoát khỏi quỹ đạo của hành tinh Dương
Quảng Hàm.
- Hồi nói chuyện ở trường Thọai Ngọc Hầu, anh đã từng khuyên học sinh hãy suy
nghĩ độc lập, đừng để bị ảnh hưởng mấy cuốn sách luận đề ấy. Anh còn nhớ anh đã
nói về Trần Tế Xương như “ một kẻ sĩ bệ rạc trong thời buổi mất nước” không? Từ
đó đến nay đã mười sáu năm rồi đó…
- Nhớ chứ. Anh vẫn trung thành với những gì anh đã nói, đã viết. Thời gian, ngục
tù có làm mình già đi đôi chút, nhưng bên trong anh, nó vẫn cứ như thế thôi. Có
thằng đã nói rằng: “Lúc này, Duyên Anh đã thay đổi bút pháp, và triển khai tư
tưởng”….
- Nghĩa là anh viết không “mướt” như xưa nữa, mà dùng văn chương như một thứ võ
khí. Để chiến đấu?
Duyên Anh gật đầu:
- Đúng. Chiến đấu; nhưng chiến đấu để kêu gọi thương yêu, không để cổ võ hận
thù, chém giết. Thế mà chúng nó chửi anh “Thằng Duyên Anh không chống Cộng nữa,
thằng Duyên Anh kêu goị thương yêu mấy thằng Cộng sản.” Chính các anh cũng chủ
trương “Lấy Đại Nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, thế mà các
anh lại chửi tôi. Đ.m, chửi ở chỗ nào? Các anh chửi Phạm Duy “ Việt Nam không
đòi xương máu…. chỉ đáng vứt vào thùng rác” chỉ vì các anh đố kỵ thiên tài Phạm
Duy thôi. Anh không bênh gì Phạm Duy cả. Anh viết Phạm Duy, Ai Giết Nổi Anh?
cũng chỉ vì anh tin vào lẽ phải thôi. Một thằng nhà văn, một thằng cầm bút, trước
lẽ phải bị chà đạp, mà không nhìn thấy, hoặc nhìn thấy mà không dám lên tiếng,
thì chỉ nên quẳng bút đi thôi.
Uống cạn ly Rémy Martin pha soda, Duyên Anh nói tiếp:
- Như em thấy đó, vụ mặt trận HCM dối gạt đồng bào hải ngoại, ngoài anh ra, có
mấy thằng cầm bút nào dám lên tiếng đâu. Vậy mà cũng chỉ có tờ Ngày Nay dám tiếp
tục đăng bài của anh. Đ.m, anh nói ra điều gì, một số thằng ghét, nhưng cũng có
rất nhiều thằng khoái nghe anh đấy chứ? Mẹ, chúng mày chống ông, mà thằng Xuân
Thu vẫn in sách của ông; độc giả vẫn thích mua sách của ông, thì ông cóc sợ
chúng mày. Mà, cho dù chúng mày cấm người Việt Nam mua sách của ông, chúng mày
đâu có thể cấm độc giả Tây mua sách cuả ông?
- Và mai mốt đây, độc giả Mỹ nữa chứ?
- Mới có thế thôi, mà chúng nó đã ghen tức, đã điên mẹ chúng nó lên rồi. Các
anh tử tế, thì tôi chơi. Không tử tế thì thôi, tôi đ. cần. Mà nói thật, các anh
chưa đủ tư cách để chơi với tôi đâu. Tôi đã lên tới ngọn núi rồi. Các anh thì vẫn
còn mon men, chưa tới được chân núi. Tôi đã là international rồi! Văn của tôi,
bọn Tây nó in rồi. Thơ của tôi, bọn Thụy Sĩ nó in. Chừng nào thơ văn của các
anh được bọn Tây, bọn Thụy Sĩ in xong, các anh hãy đến nói chuyện với tôi. Tôi
chấp cả hai ngọn núi văn học Nguyên Sa Mai Thảo nữa đấy. Cả thơ với văn, tôi
cũng đều hơn hai anh rồi.
Duyên Anh cười sảng khoái:
- Anh nói thế đấy. Đố thằng nào dám bắt bẻ, dám chửi anh nào?
Mân mê ly rượu trên tay, Duyên Anh trầm ngâm:
- Em phải sang Luân Đôn, làm cho BBC mới được.
Tôi cười:
- Thế sao anh bảo BBC đ. ra cái gì cả?
- Đấy là anh nói cái trụ sở xập xệ, cái phương tiện èo ọt của nó thôi. Về
phương diện khác, đó là chỗ cho em học hỏi kinh nghiệm, mở rộng tầm nhìn của
mình ra khắp thế giới. Em chỉ cần làm với tụi nó bốn năm thôi; sau đó, làm việc
khác…Hôm gặp Judy Stowe và Vĩnh Phúc ở bên ấy, biết em không sang làm, họ tiếc
lắm. Nhất là Vĩnh Phúc, khi nó biết em là em của anh. Vĩnh Phúc bảo giá em sang
đó, nó sẽ truyền hết kinh nghiệm nghề nghiệp cho em.
- Anh gặp Vĩnh Phúc mấy lần?
- Chỉ có lần ấy thôi. Nhưng mà sau đó, nói điện thoại nhiều lâàn. Có hôm, nó gọi
cho anh, bảo “ Duyên Anh ơi, tôi buồn quá! Tôi đang khóc đây.” Anh nói chuyện với
nó cả giờ, cu cậu mới nguôi ngoai. Thằng này tình cảm lắm. Tội nghiệp! Nó cô
đơn, vì muốn làm một cây trúc giữa một bọn cỏ rác ươn hèn, xu nịnh. Nó mời anh
sang chơi, anh hứa sang, rồi không sang được. Nó gọi điện thoại, trách anh: “Tưởng
ông sang, tôi xin phép nghỉ mấy ngày, nằm nhà chờ ông. Rốt cuộc, phải uống rượu
một mình!”
Tôi hỏi:
- Vì sao anh không sang chơi với Vĩnh Phúc?
- Anh kẹt vụ ra băng thất bại, phải đi tị nạn ít hôm.
- Anh kể đầu đuôi em nghe, được không?
Duyên Anh chậm rãi:
- Như đã hứa kể cho em nghe trong thư viết năm ngoái, anh được một nữ độc giả
khoái nhạc của mình, đề nghị anh cứ ra băng đi, bà ta sẽ yểm trợ. Anh gọi cho
Vĩnh Phúc, định mượn nó ít tiền, thuê ban nhạc chơi; bán băng xong sẽ trả. Nó bảo,
“không có mượn gì cả, tôi sẽ gửi tặng ông ít tiền làm băng. Khỏi lo chuyện trả
lại.” Và rồi Vĩnh Phúc gửi cho anh một nghìn đôn. Bà mạnh thường quân, dĩ
nhiên, giữ lời hứa, góp vốn chung với anh thực hiện cuốn băng này. Dĩ nhiên,
chuyện làm băng nhạc, anh giấu, không nói gì với bà vợ anh hết. Không ngờ, ngay
trong buổi ra mắt, bà ấy xuất hiện. Thế là hỏng hết! Bà mạnh thường quân trốn
ra cửa sau. Anh sợ bà vợ anh gây chuyện, nên không dám về nhà nữa. Mấy trăm cuốn
băng nhạc, bà ấy tịch thu hết. Đó là lý do anh không sang Luân Đôn thăm Vĩnh
Phúc như đã hứa. Về sau, anh phải viết thư, xin lỗi nó.
- Và đó là hệ lụy kèm theo cuộc chơi âm nhạc của anh?
Duyên Anh gật đầu, không nói gì.
Tôi tiếp tục câu chuyện về BBC:
- Làm với BBC, hay với VOA, mình cũng chỉ là cái loa, qua đó mình loan đi dùm họ
những quan điểm, chủ trương, chính sách nào đó thôi. Chứ mình đâu có thể đưa ra
quan điểm riêng của mình?
- Dĩ nhiên. Nhưng hãy coi đó như một môi trường để mình tu luyện, mài dũa khả
năng. Chuẩn bị cho công việc trong tương lai, thông tín viên cho một tờ báo quốc
tế Washington Post, New York Times chẳng hạn. Ít nhất, em cũng có được cái mác
Cựu Biên Tập Viên đài BBC. Anh tin em thừa sức làm việc đó. Bọn thông tín viên
ngọại quốc đến Việt Nam hồi xưa có ra cái đ. gì đâu? Quốc tế gì chúng nó? Anh
có dự mấy cuộc họp báo với chúng nó. Anh khinh bỉ mấy thằng phóng viên ấy.
Chúng nó chỉ toàn bôi bác những gì xảy ra trên đất nước mình. Vậy mà chính phủ
mình sợ chúng nó! Anh thì đ. sợ chúng nó. Có bữa, đi Huế về Saigon bằng máy
bay, anh đi chung với hai thằng phóng viên Mỹ. Trên máy bay lạnh quá, thèm hút
một điếu thuốc, mà anh lại hết thuốc, mới đểu chứ! Anh quay sang, hỏi xin thằng
phóng viên ngồi cạnh một điếu thuốc. Đ.m nó, nó thản nhiên hút, thản nhiên lắc
đầu khi nghe anh xin. Đến phi trường Tân Sơn Nhất thì đã khuya, không còn tắc
xi nữa. Ra bãi đậu xe, thấy anh mở cửa chiếc xe ô tô riêng của anh, hai thằng
phóng viên Mỹ chạy tới, xin đi nhờ. Đ.m. chúng nó! Anh bảo, “lúc nãy trên máy
bay, ông thèm thuốc, xin mày một điếu, mày không cho. Bây giờ, ông đ. cho mày
đi nhờ, thì cũng đâu có gì là quá đáng? Chúng mày ngủ lại phi trường, chờ sáng
mai hãy về…”
Một buổi tối khác, tôi hỏi:
- Anh viết Điệu Ru Nước Mắt lần đầu tiên trên báo nào?
- Cũng trên Xây Dựng. Hồi ấy, anh vừa kết thúc Ảo Vọng Tuổi Trẻ. Nhìn khắp các
nhật báo thời đó, anh thấy trang trong toàn là tiểu thuyết đồng quê, ma quái,
ái tình lẩm cẩm. Anh tự hỏi tại sao mình không viết một tiểu thuyết thật lạ,
không giống bất cứ ai; cho du đãng làm nhân vật chính, biến du đãng thành thần
tượng của độc giả. Bấy giờ, thiên hạ đang vinh tôn mấy thằng tướng thoán nghịch
làm thần tượng. Thế thì tại sao mình không thể xây dựng những nhân vật du đãng
có học, đầy ắp lương tri, thật tài hoa, nghĩa hiệp, cho chúng nó làm thần tượng
chơi?
- Anh có triết lý con gọng vó ngay từ thời ấy?
Duyên Anh cười:
- À, con gọng vó bơi ngược dòng nước. Ở bến sông Ray, thời tù ngục. Cũng gần giống
như vậy. Nhưng vào giai đoạn 64-65, anh thích nghĩ mình là một thằng đi xe đạp
ngược chiều…
- Đi ngược chiều, chọc cho cảnh sát chặn lại phạt vi cảnh?
- Phạt hay không, chưa cần biết. Cái chính là mình làm một việc độc đáo, không
giống ai hết.
- Như vậy, có thể nói, mà không sợ lầm, anh là nhà văn đầu tiên viết tiểu thuyết
du đãng?
- Chắc chắn là như vậy rồi.
- Nguyễn Thụy Long viết Loan Mắt Nhung, Kinh Nước Đen, có lấy hứng khởi từ Điệu
Ru Nước Mắt không?
- Không biết. Nhưng chắc chắn, tiểu thuyết du đãng của Nguyễn Thụy Long xuất hiện
sau mấy truyện anh viết.
- Khi viết Điệu Ru Nước Mắt, anh có tính trước là sẽ xây dựng cốt truyện như thế
nào không?
Duyên Anh lắc đầu:
- Hoàn toàn không. Anh chỉ xem lại những đoạn vừa viết hôm trước, rồi mới nghĩ
xem phải viết gì hôm nay. Nghĩ xong, là cắm cúi viết thôi.
- Anh vẫn tự hào mình là kẻ nghĩ nhanh viết vội?
- Đúng rồi. Nhưng chỉ lúc viết phóng sự trên báo thôi. Với tiểu thuyết, anh viết
chậm lắm.
- Độc giả đón nhận Điệu Ru Nước Mắt ngay từ buổi đầu chứ?
- Ừ. Thiên hạ thích lắm. Ngay ông cố đạo chủ báo cũng phải khen nữa. Điều buồn
cười, ông ấy cứ tưởng trước đó, anh đã từng là du đãng! Thật ra, đích thị du
đãng thứ thật phải là Nguyễn Thụy Long. Mình phải cám ơn thằng này mới được!
Chính Nguyễn Thụy Long đã kể chuyện đời nó cho anh nghe. Anh dựa vào những chi
tiết nó kể, tưởng tượng thêm, để xây dựng những nhân vật của anh…
- Hình như có lần anh gặp du đãng Đại Cathay?
- Có. Một lần thôi. Đại Cathay tưởng nhân vật Trần Đại trong tiểu thuyết là anh
viết về nó. Nó hỏi anh “Sao trong đoạn ấy, đoạn ấy, anh viết về tôi, chẳng giống
tôi chút nào?”. Anh trả lời nó “Tôi có viết về anh đâu. Nhân vật Trần Đại, hoàn
toàn do tôi tưởng tượng ra thôi.”
- Thực ra, ngoài đời, Đại Cathay là người như thế nào?
- Cá nhân anh không rõ về nó. Nhưng theo anh Nguyễn Mạnh Côn kể cho anh nghe,
nó là cháu của Quốc Vụ Khanh Lê Văn Hoạch. Nó học trường Tây đàng hoàng. Một
hôm đi chơi, bị cảnh sát hay quân cảnh đánh đập, và bắt nhốt oan uổng. Nó hận đời,
bỏ học đi làm du đãng…
- Có đứa gọi anh là nhà văn du đãng?
- À, tụi văn nô Việt Cộng. Anh là nhà văn viết về du đãng thôi. Và viết truyện
du đãng thành công nhất nước. Du đãng, trong tiểu thuyết anh, đâu có phải bọn
côn đồ cướp giật, bắt nạt người lương thiện, bọn đá cá lăn dưa trộm căép ngoài
chợ. Nhân vật du đãng của anh là những đứa có tâm hôàn, tha thiết muốn làm đẹp
cuộc đời…
- Và đều giống nhau ở chỗ hận đời đen bạc?
- Không hẳn là như thế. Thực ra, anh mượn những nhân vật của anh để nói lên sự
ghê tởm của anh đối với lũ tướng lãnh thoán nghịch, bọn sư hổ mang lộng quyền,
lũ cố đạo tham lam hợm hĩnh, bọn trí thức giả hình xu phụ chính quyền, bọn trọc
phú làm giầu trên nỗi đau khổ của dân đen…
- Anh vừa nói bọn trí thức giả hình?
- Ừ, tiêu biểu cho bọn này là những thằng chánh án, dự thẩm, luật sư, bác sĩ,
giáo sư đại học, suốt đêm thứ bảy, chúa nhật ngồi sát phạt nhau bên bàn mạt chược;
sáng thứ hai ra toà, ngồi xử những người bị bắt về tội chơi tứ sắc, xập xám, bài
cào…
- Mạt chược, tứ sắc, bài cào, xì dách, hay bầu cua cá cọp, khác gì nhau đâu? Hễ
cứ chơi ăn tiền, có hơn thua sát phạt trong đó, thì đều là cờ bạc hết…
- Đ.m chúng nó! Thế mới đáng chửi thề chứ. Bọn trí thức chó đẻ vừa kể cho rằng
chúng nó chơi mạt chược là để giải trí thôi, không phải là cờ bạc. Cho nên
chúng nó có quyền ngồi trên cao, xử án người khác.
- Xã hội cho họ cái quyền đó. Họ may mắn được ngồi vào những địa vị có quyền giải
thích luật pháp theo ý họ. Thế còn mấy ông linh mục, họ đã làm gì khiến anh phẫn
nộ?
- Đã nói, phải nói cho công bằng. Về phía Phật Giáo, anh không vơ đũa cả nắm,
mà lên án tất cả các ông sư, bà vãi. Phật Giáo có rất nhiều vị chân tu đáng
kính trọng. Anh chỉ ghét bọn trọc đầu làm tay sai cho cộng sản, bọn đối lập với
tổ quốc mà thôi. TTQ là kẻ anh ghét nhất. Bên Công Giáo, anh không bao giờ dám
động tới các ông cha hết lòng vì Chúa, vì con chiên. Anh chỉ không ưa mấy ông
linh mục nhí nhố, dùng con chiên tạo thế chính trị cho riêng mình. Anh gọi họ
là bọn quạ đen. Khi anh chửi bọn quạ đen, và bọn trọc đầu, là chửi mấy thằng khốn
nạn ấy thôi, không phải chửi Công Giáo và Phật Giáo đâu.
Tôi hỏi:
- Dường như, anh là người đầu tiên dám dùng hai từ ngữ ấy để gọi mấy ông linh mục
và thượng tọa?
Duyên Anh lắc đầu, cười:
- Không, em lầm rồi. Anh có phải là người đầu tiên đâu. Anh chỉ bắt chước Bà
Huyện Thanh Quan thôi. Em còn nhớ bài thơ bà ấy tả cảnh chùa Trấn Quốc chứ?
Trong đó, câu kết là “Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu” mà? Còn quạ đen, là do mấy
ông Duy Dân dùng đầu tiên. Hồi đi theo các ông ấy lên Ban mê thuật, anh được học
tập như thế này “Việt Minh là cộng sản đỏ, quạ đen là cộng sản đen.”
( Sau này, đọc Hơn Nửa Đời Hư của học giả Vương Hồng Sển, tôi thấy cụ Vương có
dùng chữ “ quạ áo đen” để nói về một ông linh mục dạy ở Đại Học Văn Khoa
Saigon, thập niên 60. Xin xem sách đã dẫn, trang 429.)
Duyên Anh chợt nghĩ ra một chuyện kể cho tôi. Anh hỏi:
- Em còn nhớ Tô Văn không?
- Ông Tô Văn “ Cậu Chó” ấy hả?
- Ừ, hôm qua, anh đến thăm ông ấy…
- Bây giờ ông ấy đang ở đâu?
- Ở với bà vợ. Nhà gần tiệm ăn Nam Phương…
- Em nghe nói ông ấy đau nặng, phải ngôài xe lăn….
- Ừ. Không nói được…Thực ra, vẫn nói, mà mình không hiểu ông ta nói gì. Phải có
bà vợ thông dịch, mình mới hiểu được. Nhưng vẫn còn tỉnh táo lắm. Anh sờ đầu Tô
Văn, nói “Lúc này mọc tóc rồi hả? Hết mông Thẩm Thúy Hằng rồi hả?”, ông ta cười
khoái chí…
- Như vậy là ông ấy nhận ra anh?
- Dĩ nhiên.
- Anh bảo mọc tóc là thế nào?
- Ngày xưa, đầu ông ta nhẵn thín, vì thế mới có hỗn danh Mông Thẩm Thúy Hằng.
Bây giờ không hiểu bác sĩ chúng nó cho ông ấy chích thuốc gì mà tóc lại thấy
lún phún mọc…Ông ta bảo anh: “Bây giờ mày ở đây, mày muốn cái gì cũng có. Mày
muốn đi chơi, tao bảo thằng con tao đưa mày đi chơi. Chỗ nào cũng được”…
- Ông ấy nói đúng đấy. Con trai ông ấy là một tay chơi ngon lành lắm.
Duyên Anh cười:
- Ông ấy bảo “ Thằng con trai tao có một nhà nhảy đầm. Mày đến đâáy chơi với
tao, muốn cái gì, nó cho mày chơi cái đó. Anh hỏi Tô Văn “ Anh còn nhớ lần anh
dẫn tôi vào cái bar ở đường Hai Bà Trưng đãi tôi uống rượu, tôi nói điều gì đó
phật ý anh, rồi anh đập vỡ cái ly đang cầm trên tay không?”, ông ấy gật đầu, bảo
“ Nhớ chứ”. Anh hỏi” Anh còn nhớ, anh bảo trong làng báo Việt Nam, tao chẳng sợ
ai, chỉ sợ một mình thằng Thương Sinh thôi, anh nhớ không?”, ông ấy cười bảo
“Nhớ chứ. Tao vẫn sợ mày mà”.
- Mấy năm trước, khi chưa bị đau, ông ấy làm tờ Thức Tỉnh, ký bút hiệu mới, dường
như là Minh Đạo. Ông ấy cổ võ cho giải pháp Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng….Ông
Tô Văn là một trong rất ít người hồi 81, 82, dám nêu những thắc mắc về mặt trận
Hoàng Cơ Minh…
- Dĩ nhiên. Mấy chục năm trước, ông ta đã từng là một tay sừng sỏ lắm! Anh hỏi
“Anh có định viết hồi ký về thời gian anh làm quân sư cho tướng Nguyễn Sơn ở
Thanh Hóa, và lúc anh làm tỉnh trưởng Hà Đông không?” ông ta chỉ cười, rồi lắc
đầu thôi. Anh hỏi “Anh còn nhớ anh viết “ Cậu Chó” rồi bị thiên hạ chửi quá xá
không?” ông ta gật đầu “ có, có” …
- Cuốn “Cậu Chó” ký tên Trần Đức Lai của Tô Văn, vẫn thấy bầy bán ở các tiệm
sách dưới khu Bolsa.
Duyên Anh tiếp:
- Bà vợ ông ta bảo” Bọn Đại Nam in lậu cuốn ấy, bán khắp thế giới; mà mình có
làm gì được chúng nó đâu!” Anh nói với Tô Văn “ Anh thấy không, anh ở ngay đất
Mỹ này mà chúng nó vẫn cứ ngang nhiên ăn cắp tim óc của anh. Thế thì tôi ở xa,
bị chúng nó ăn cắp cũng là chuyện tự nhiên thôi! Tội nghiệp anh, viết “ Cậu
Chó”, bị cả nước chửi, nay chúng nó không chịu trả cho anh đồng nào!”
Tôi ngạc nhiên:
- Ông ấy không dám đòi mấy nhà xuất bản ấy à?
Duyên Anh chợt nổi giận:
- Đòi c. gì được chúng nó? Mấy thằng khốn nạn ấy chỉ cần nói “ Tôi đ. cần biết
sách của anh hay của ai. Tôi in lại sách của Saigon hồi xưa thôi” là hòa cả
làng! Chẳng ai làm gì chúng nó được. Mẹ, ông Tô Văn ngày trước cũng dữ dằn lắm
đấy chứ. Mà có làm đ. gì được bọn chó đẻ ấy đâu? Chẳng lẽ xách súng đi cho mỗi
thằng ăn cắp ấy một viên à?
Tôi hỏi:
- Tên thật của Tô Văn là Bùi Bá Nhân, phải không anh?
Duyên Anh cười dòn tan:
- Ừ. Nhưng anh hay gọi đùa ông ấy là Bùi Bất Nhân….
- Ông ấy không giận?
- Giận cái chó gì. Anh còn gọi ông ấy là Ma Vương Trần Đức Lai, hỗn danh Cậu
Chó nữa. Tô Văn cũng chỉ cười hề hề thôi. Mấy lần Tô Văn ứng cử nghị viên, anh
đều viết phiếm, phá ông ấy. Tô Văn tức mình lắm, hỏi anh “ Sao mày cứ phá tao
hoài vậy?”, anh bảo “ Ông đắc cử làm nghị viên rồi, tôi đâu còn có thể chửi bọn
nghị viên được nữa? Vì thế, tôi phải phá, để ông khỏi phải đắc cử, để tôi có thể
tiếp tục chửi chúng nó chứ.”
- Anh có đọc mấy bài thơ tù cho Tô Văn nghe không?
Duyên Anh lắc đầu:
- Vội quá, không kịp. Với lại, thấy mình, ông ấy cảm động quá, cứ nắm tay anh
hoài. Còn anh, anh cứ xoa đầu ông ấy, nói “ Bây giờ hết Mông Thẩm Thúy Hằng rồi
nhé.” Cho ông ấy cười. Anh hỏi Tô Văn “ Anh còn nhớ hồi tụi mình thức suốt đêm
làm báo, buổi sáng cả bọn đi uống cà phê với nhau, anh bảo “ Lúc này, tao thua
chúng mày thật rồi”, anh nhớ không?, ông ấy cười, gật đầu. Anh hỏi: “ Nghe nói,
hồi anh mới qua đây, không có tôi, anh môt mình một chợ, tung hoành ghê lắm phải
không?”, ông ấy cười hề hề, khoái lắm. Tô Văn cũng bảo anh “ Tao biết hết những
việc mày làm ở Paris”.
Tôi hỏi:
- Anh nghĩ thế nào về Tô Văn?
Duyên Anh suy nghĩ vài giây rồi đáp:
- Ở đời, có hai loại người mà anh thích; Chính nhân quân tử và chân tiểu nhân.
Chính nhân quân tử thì khỏi phải nói rồi nhé. Còn chân tiểu nhân là thế nào? Đấy
là những người vì quyền lợi, dám làm những gì người khác chê bai, không dám,
hay không chịu làm. Và khi làm những điều này, các ông chân tiểu nhân làm công
khai, không coi dư luận ra cái gì hết. Theo anh, Tô Văn là một chân tiểu nhân
mà anh khoái. Nguyễn Tú A cũng xứng đáng là một chân tiểu nhân mà anh khoái. Nó
về Việt Nam làm ăn, quay video lung tung; và dám công khai, thẳng thắn nhận việc
làm này. Chỉ bọn ngụy quân tử là anh không ưa thôi…
Tôi hỏi:
- Anh xếp những ai vào loại này?
Duyên Anh cười:
- Úi giào, đ.m, nhiều lắm cơ. Nhưng kể sơ sơ thì N.S. là một thứ ngụy quân tử.
V.P. cũng là một ông ngụy quân tử khác….
- Tại sao anh không ưa N.S.? Anh đã từng cho đăng CKT, tiền thân của Nhà Tù,
trên báo của ông ta mà?
- Thì cũng chính vì vậy anh mới biết rõ ông ta.
- Nghĩa là…?
- Ông ta không trả nhuận bút gì cả. Chỉ gửi báo tặng thôi. Vì thế, anh không
cho đăng CKT trên báo ông ta nữa.
Tôi hỏi:
- Còn ông V.P., ông ấy có ân oán giang hồ gì với anh đâu mà anh có vẻ không
thích ông ta?
- V.P. là một ông lý trưởng văn nghệ. Anh xếp ông ta vào loại những người làm
văn chương thư lại, văn chương nhai lại, thích nằm một chỗ làm công việc xếp đặt
những người văn nghệ đi sau ông ta vào chiếu trên, chiếu dưới.
Duyên Anh đột nhiên ngưng ở đây. Tôi quên, không hỏi anh xếp những ai vào hạng
chính nhân quân tử. Tuy nhiên, tôi thấy, trong một số bài viết của anh, Duyên
Anh đã từng nhắc đến “người quân tử Phạm Kim Vinh”.
*
* *
Một buổi tối khác, Duyên Anh lấy tập thơ làm ở Paris ra, đọc cho tôi nghe. Sau
khi đọc xong bài Cuồng Ngâm, anh bắt đầu giảng cho tôi về thơ lục bát:
- Em phải nhớ, làm thơ lục bát tưởng rằng dễ, nhưng thực ra khó lắm chứ không
phải chơi đâu. Lục bát, làm không khéo, nó trở thành vè. Vì thế, muốn làm thơ lục
bát cho hay, mình phải khó với chính mình.
- Nghĩa là…
- Phải khó trong lúc chọn chữ. Đừng dùng những từ ngữ thiên hạ dùng đã mòn teo
rồi. Phải chếâ ra những từ ngữ mới, mới nhưng đừng làm dáng, đừng bí hiểm kiểu
mấy anh thi sĩ “khều mặt trời” , và quái thai như cậu thi sĩ đòi “ hiếp dâm Thượng
Đế, đẻ ra mặt trời”. Chữ dùng mới, nhưng cũng phải giản dị nữa…
- Theo anh, những thi sĩ Việt nam nào sử dụng lục bát hay nhất?
- Thứ nhất là những thi sĩ vô danh đã góp phần vào kho tàng ca dao vô giá của
dân tộc mình. Tuy nhiên, họ chỉ làm được những câu ngắn thôi, chứ dài thì không
hay. Người thứ hai làm thơ lục bát hay là Nguyễn Du. Nguyễn Du đưa lục bát lên
mức thượng thừa, cao sang, trau chuốt. Lục bát của Nguyễn Du cho ta thấy sự
khác biệt giữa thơ và vè. Vè là thế nào? Đọc Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
đi, ta sẽ thấy nó rất gần với vè. Nghệ thuật lục bát trong Truyện Kiều vượt xa
Lục Vân Tiên. Người thứ ba làm lục bát hay là Huy Cận. Huy Cận là kẻ đưa lục
bát lên mức độ cổ điển…
- Thế còn Nguyễn Bính?
- Thơ Nguyễn Bính cũng hay, rất gần với ca dao. Nhưng lục bát ông ấy làm không
dài hơi, chưa thể sánh với Nguyễn Du được. Nguyễn Du là người làm thơ lục bát
kinh khủng lắm!
- Cái hay của Nguyễn Bính, theo anh là gì?
- Ông ấy làm thơ rất dễ dàng, như người dân quê nói ca dao ấy. Thơ Nguyễn Bính
mang nhiều nhạc tính, ý tứ lạ lắm. Hai thứ rất cần thiết trong thi ca là chữ
nghĩa và hình ảnh. Hai thứ này, Nguyễn Bính có cả. Một bài thơ hay, phải nói
lên một điều gì đó. Nói xong điều đó, là đủ rồi. Đừng nên kéo cho dài thêm. Sáu
câu đã là hay rồi. Ba mươi sáu câu lại càng khó hay hơn nữa. Đừng cố ép thêm
vài ba câu làm gì. Làm như vậy, có khi lại hỏng bài thơ đi. Chẳng hạn như bài
Cô Hàng Xóm của Nguyễn Bính đó…
- Bài ấy hay chứ?
- Hay lắm. Tình tứ và cảm động lắm. Nhất là hai câu Đêm qua nàng đã chết rồi,
Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng. Giá mà như thế, là hay tuyệt! Ngưng ở chỗ
ấy là vừa rồi. Nhưng không hiểu sao, Nguyễn Bính lại thêm vào hai câu nữa “Hồn
trinh còn ở trần gian, Nhập vào bướm trắng mà sang bên này”, làm hỏng cả bài thơ
đi. Anh nói lại, muốn làm thơ cho hay, mình phải khó với chính mình mới được. Bởi
vì thơ là gì? Thơ chính là tinh túy của văn chương, là tổng hợp của tinh hoa
văn chương, âm nhạc, và triết học. Cho nên, làm thơ dễ mà khó; khó nhưng không
có nghĩa là không thể làm được. Làm thơ được hay không, là ở chỗ mình có thích
làm thơ không đã. Nếu thích thì có thể làm thơ hay được. Miễn là mình phải chịu
khó học hỏi, tìm tòi, suy nghĩ, và tập khó với chính mình. Thích làm thơ mà
không làm thơ được, là lỗi chỉ tại mình không chịu khó thôi. Bây giờ, nếu giả dụ
có ai cắt tay ông Nguyễn Du, ráp vào tay mình, mà mình không thích làm thơ, thì
cũng chẳng ra nổi bài thơ nào hết đâu. Còn khi mình đã say mê làm thơ, thì một
ngày nào đó, sẽ làm thơ hay được như Nguyễn Du thôi. Khi đam mê thơ ca đã đến một
độ nào đó, nó sẽ phát ra ngoài thôi. Thơ sinh ra thơ. Thi sĩ dạy thi sĩ. Nghĩa
là cứ làm thơ đi, rồi thơ mình sẽ hay thôi. Chẳng ai có thể dạy ai cách làm thơ
hết…
- Như vậy, nếu thích làm thơ, mình nên bắt đầu bằng thể lục bát phải không?
- Không. Nên bắt đầu bằng loại thơ năm chữ trước. Rồi đến loại bảy chữ, tám chữ.
Cho đến khi nào trong người em đầy những hình ảnh và nhạc điệu rồi, lúc ấy, em
sẽ chuyển qua lục bát…
- Nhưng lục bát có vẻ dễ gieo vần hơn mấy thứ kia?
- Đúng vậy. Lục bát, tự nó, đã có nhạc điệu rồi. Gieo trật vần một cái, là kể
như hỏng hết nhạc điệu. Cũng chỉ vì nó dễ làm như thế, nên nhiều người lầm tưởng
lục bát cứ gieo vần đúng, là xong một bài thơ. Và họ đâm ra dễ dãi với chính
mình. Họ không biết rằng đặt những chữ nào vào trong câu, cho nó phát ra nhạc
điệu cao sang, mới là chuyện khó. Và nghệ thuật, tài năng là ở chỗ đó…
- Anh vừa nói thi sĩ dạy thi sĩ, nghĩa là trăm hay không bằng tay quen?
- Phải rồi. Em cứ thử đi. Cứ làm khoảng năm bảy chục bài thơ các loại đi, rồi
sau đó, trở về với lục bát. Cam đoan, lục bát của em sẽ tuyệt lắm.
Tôi nói:
- Anh thí dụ về cách dùng chữ mới đi.
- Này nhé, em có biết ở ngoài Bắc, khi thuyền bị mắc cạn, không đi tiếp được
thì người ta gọi là gì không?
Tôi suy nghĩ một vài giây rồi lắc đààu. Duyên Anh nói:
- Người ta gọi là thuyền khê. Em nghe mấy câu thơ này nhé
Mùa Riêng
Giấc thu lay động hôn mê
Lá từng chiếc thả, thuyền khê, sông buồn
Cây già còn nỗi cô đơn
Vòng tay ôm khít sợ cơn gió lùa
Ngập ngừng mùa tiễn đưa mùa
Bây giờ lại vẫn bao giờ quẩn quanh
Trời xê đất dịch tuần hoàn
Sao ta chỉ có một lần đến đi?
Đến, ta dằng dặc não nề
Đi, ta côi cút nẻo về hư vô
Ôi, cây già đứng ngẩn ngơ
Hình như ta đó, đợi mùa riêng ta.
Tôi nhìn Duyên Anh, ngậm ngùi:
- Tâm sự gì não nề quá vậy? Nhất là câu “ Đi, ta côi cút nẻo về hư vô”. Dường
như anh muốn nói là sau khi chết, người ta sẽ về cõi hư vô, chứ không có lên
Thiên Đàng hay xuống Địa Ngục gì, phải không?
Duyên Anh nghĩ ngợi một vài giây rồi chậm rãi:
- Thiên Đàng, Địa Ngục, Niết Bàn, hay chốn Âm Ty, nó đều hiện diện trong tâm tưởng
người ta mà thôi. Nhưng mà đừng nói chuyện ấy nữa. Để anh đọc tiếp hai bài lục
bát này, đều làm trong những lúc anh chán chường nhất.
- Chán chường?
- Ừ. Nhưng cũng chính những lúc đó, lại làm thơ được nhất. Những câu lục bát ấy
giúp mình có thêm can đảm và nghị lực để vượt lên trên mọi thù hận, đố kỵ của kẻ
thù.
Bia Da
Hồn ta căng rộng bia da
Nghìn tên tẩm độc thối tha bắn vào
Có sao đâu, chẳng sao đâu
Thơ ta nghe vẫn dạt dào kiêu sa
Duyên Anh cười khà khà sảng khoái, rồi đọc tiếp
Trái Núi
Núi cao, trái núi thật cao
Không nghe giun dế lao xao điệu hèn
Núi im, trái núi thật im
Không nghe cú rúc, rắn gầm, sói tru
Núi to, trái núi thật to
Một hôm, bắt tiếng hư vô gọi mình
Duyên Anh nói:
- Bài này, lúc vừa làm xong, anh gửi sang Luân Đôn, tặng thằng Vĩnh Phúc.
- Chắc Vĩnh Phúc biết ngay đây là loại thơ khẩu khí?
- Dĩ nhiên rồi. Vài tuần sau, anh nhận được bài thơ Vĩnh Phúc làm tặng anh. Nó
viết như thế này. Và Duyên Anh cất tiếng đọc
Nhắn Núi
Núi ơi, núi đứng đã cao
Hãy vui gió mát trăng sao một mình
Quạ kêu, cú rúc, cũng im
Thị phi, núi hãy nhận chìm dưới chân
Đổi thay mặc đám phù vân
Ngàn năm núi vẫn hiên ngang với đời
Tôi hỏi:
- Anh biết Vĩnh Phúc muốn nhắn anh điều gì không?
- Có chứ. Nó biết anh cao ngạo, tự nhận mình là một ngọn núi. Vĩnh Phúc có ý
khuyên anh đừng chấp bọn lau nhau bên dưới, bọn tài năng không bằng anh, bọn
văn nghệ phì nọc rắn.
Duyên Anh cười buồn:
- Đ.m, nhiều lúc chán lắm cơ! Sống, mà cứ phải nghĩ cách đối phó với bọn rắn rết
hèn mọn, thì chán lắm. Chán đến nỗi chỉ muốn tự tử cho rồi! Nhưng mà khoan đã,
phải in xong một tập thơ nữa rồi hãy tính.
Tôi bàn với anh về sự khác nhau giữa hai chữ hèn mọn và hèn hạ. Theo tôi, hai
chữ này hoàn toàn khác nhau. Một người có thể tự xưng mình là kẻ hèn mọn, nhưng
người đó rất có thể không hèn hạ chút nào. Duyên Anh không đồng ý. Theo anh,
hèn mọn và hèn hạ chung một nghĩa, và đều có nghĩa xấu, tuy rằng hèn mọn không
đến nỗi tệ như hèn hạ.
Tôi hỏi anh:
- Trong những bài viết của anh Phạm Kim Vinh, anh ấy dùng mấy chữ kẻ hèn mọn
này để nói về mình, như vậy không được sao?
Duyên Anh chắc nịch:
- Người ta thường nói kẻ hèn này, chứ không nói kẻ hèn mọn này. Hoa hèn, chứ
không phải hoa hèn mọn.
Duyên Anh rất tự ái mỗi khi nghe ai góp ý phê bình những gì anh viết. Khi được
anh nhờ xem lại bản đánh máy Trại Tập Trung trước khi đưa cho Nhà Xuân Thu in,
tôi góp ý với Duyên Anh về việc anh cứ nhắc đi nhắc lại những chuyện Tạ Tỵ làm ở
nhà bếp, và coi đó như những điều xấu xa.
Tôi nói:
- Em nghĩ, Tạ Tỵ kể lại mấy chuyện đó một cách chân thành như vậy, như một cách
lên án chế độ lao tù dã man của Việt Cộng. Có lẽ, anh không nên dùng những chi
tiết ấy để đánh lại ông ta thì hay hơn.
Duyên Anh nghe tôi nói, chỉ yên lặng. Chắc chắn, vào thời điểm đó, anh còn hận
mấy bài viết của Tạ Tỵ, và chưa sẵn sàng bỏ qua.
Sau một lúc im lặng, Duyên Anh nói:
- Anh dự tính cho Nhà Xuân Thu in một tập nhạc và một tuyển tập thơ của anh. Tập
thơ gồm tám bài sáng tác ở Saigon, trước tháng tư năm 75, một bài làm trong trại
tập trung, ba bài sáng tác sau khi đi tù về. Còn lại, là những bài anh làm ở
Paris từ tháng 10 năm 83, cho tới tháng 10 năm 87.
Tôi hỏi:
- Anh làm nhiều thơ nhất vào thời gian nào?
- Tháng 6, năm 87. Đó là thời gian anh gặp lại Hà Huyền Chi, sau mười hai năm
xa cách. Đêm cuối cùng, ngồi uống rượu với Hà Huyền Chi, nó làm một bài thơ tặng
anh. Bài thơ tên là Duyên Anh Ở Lại. Anh xúc động lắm, làm luôn một bài tiễn
nó. Để anh lấy cho em xem.
Duyên Anh rút trong phong bì vàng ra một bản photocopy, đưa cho tôi:
- Em giữ làm kỷ niệm.
Hai bài thơ của Hà Huyền Chi và Duyên Anh được chụp lại trên một tờ giấy. Theo
tôi, một kẻ không sành thơ, cái hay của hai bài này là ở chỗ chúng đã thành
hình ngay trong xúc cảm của cả hai thi sĩ; người này hiểu rõ tâm sự và hoài bão
của người kia.
Duyên Anh Ở Lại
Ta trên núi hận mù sương
Vết đau vỡ đá nỗi buồn xanh cây
Vỡ trong ta nỗi đọa đầy
Mất quê thiếu bạn từ ngày xa quê
Ngươi trong tù ngục ê chề
Oan khiên đội đá trở về nhân gian
Thế nhân tim sắt mạ vàng
Mũi tên đố kỵ bẽ bàng văn chương
Ta mang kiếm gẫy lên đường
Chia ngươi ngàn nỗi đoạn trường hôm nay
Thả đời vào một cơn say
Đạp trên sóng cả bão đầy mà đi
Ta về hồn ở Pa-ri
Ta về ngươi cũng hồn chia nỗi mừng
Mai kia lở núi tan rừng
Vẫn trong nỗi nhớ chập chùng hôm nay.
HÀ HUYỀN CHI
Tiễn Hà Huyền Chi
Mai ngươi trở gót phiêu bồng
Biết bao giờ mới dậy lòng viễn du?
Chửa hè đã ngỡ vàng thu
Chập chùng lá rụng mơ hồ sương rây
Mười năm tưởng vụng cuộc say
Tháng ngày tình ủ tháng ngày rượu ngon
Gặp ngươi tâm điểm vuông tròn
Biển dâu dâu biển chỉ buồn phồn hoa
Vẫn còn ta, mãi còn ta
Cái hôm nay sẽ lại là ngàn sau
Ngươi về đâu, ta ở đâu?
Về hay ở cũng chiêm bao gọi chiều
Ngựa đi nhạc tủi chân đèo
Vó hồi rã rượi hắt hiu cuối rừng
Thôi ngươi trở gót phiêu bồng
Dễ gì vụt thức dậy lòng viễn du?
Duyên Anh
(Rất tiếc, đầu tháng 5, 1988, sau ngày Duyên Anh bị nạn, Hà Huyền Chi viết một
bài báo ngắn, chẳng những không bênh vực Duyên Anh mà còn thòng thêm một câu, nếu
tôi nhớ không lầm, “Tao với mày không phải là bạn thân”. Qua bài báo này, người
đọc thấy rõ ràng, Hà Huyền Chi quyết định tách mình thật xa khỏi Duyên Anh, có
thể, để tránh bị liên lụy.
Từ khi Duyên Anh hồi phục, cho đến ngày anh qua đời, theo tôi biết, anh không
còn liên lạc với Hà Huyền Chi nữa.)
Duyên Anh cũng cho tôi bản photocopy bài báo anh viết bằng tiếng Pháp, về trường
hợp nhà văn Doãn Quốc Sĩ, đăng trên báo LA CROIX, tháng 11, 1987, trong đó anh
giới thiệu Doãn Quốc Sĩ như một trong mười tên biệt kích văn nghệ, một người quốc
gia chống cả cộng sản lẫn tư bản, bị Việt cộng bắt giam từ 1976 đến 1979, được
thả, rồi lại bị bắt lại năm 1984, vì nhà cầm quyền tố cáo ông làm gián điệp.
Duyên Anh mô tả cách giam giữ và đối xử tàn tệ của chế độ đối với nhà văn Doãn
Quốc Sĩ, và kết luận bằng cách đặt câu hỏi trước lương tri những người yêu chuộng
tự do “Không một tiếng kêu thống khổ nào có thể thoát ra khỏi nhà tù cộng sản
được. Liệu chúng ta có để cho Doãn Quốc Sĩ chết mòn trong quên lãng chăng?”
Tôi hỏi:
- Dường như Nhà Nam Á đã có in tập Thơ Tù của anh rồi mà?
- Đúng rồi. Đó là hồi năm 84. Bây giờ, trong tập thơ sắp in này, chỉ in lại bài
Saigon Trường Ca đã in trong cuốn Thơ Tù, nhưng bài này anh sửa một số câu; còn
lại toàn là thơ chưa in ở đâu thôi. Khoảng năm chục bài gì đó.
- Còn nhạc thì sao?
- Xuân Thu cũng sẽ in một tuyển tập nhạc gồm sáu mươi bài của anh. Tập nhạc
mang tên Nhan Sắc.
Sau buổi nói chuyện với tôi, không biết vì lý do gì, Duyên Anh đưa tuyển tập
thơ Em Tôi, Saigon và Paris cho nhà Người Dân ấn hành. Còn tập nhạc sáu mươi
bài của Duyên Anh, mang tên Nhan Sắc, tôi không biết Duyên Anh có đưa tập nhạc
này cho Xuân Thu hay chưa. Bởi vì, cho tới nay, chỉ thấy có Nam Á in tuyển tập
ca khúc Hôn Em Kỷ Niệm, gồm ba mươi sáu bản nhạc của Duyên Anh mà thôi.
Rất tiếc, tôi không có khiếu thơ ca, nên từ buổi nói chuyện với Duyên Anh, tôi
vẫn chưa làm được bài thơ nào cho anh xem cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét