Thứ Năm, 27 tháng 1, 2022

Quê nội quê ngoại 3

Quê nội quê ngoại 3

Những nhân vật từ truyện bước ra đời

Hôm nọ có một người bạn hỏi tôi: mày viết văn hồi nào? Và cái gì đã làm cho mày viết văn. Tôi không biết tôi đã trả lời như thế nào. Tôi chợt nhớ ra rằng tôi đã đọc truyện tàu từ hồi 7, 8 tuổi. Đọc tiểu thuyết Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng, Ngọn Cỏ Gió Đùa, Âm Thầm của Hồ Biểu Chánh cũng vào tuổi đó. Riêng truyện Tây Du thì tôi nằm lòng các nhân vật. Tam Tạng, ông Tề, Bát Giái, Sa Tăng, con ngựa đỡ chân Tam Tạng. Tôi thuộc “lý lịch” của họ cho đến đổi hễ nghe ai kể sai thì tôi cãi lại ngay. Và tới nay tới vẫn còn nhớ như thời bé.

Tam Tạng là con của tú tài Trần Quang Nhụy cho nên ông cũng còn được gọi là Đường Huyền Trân. Tú tài Trần Quang Nhụy trên đường vinh qui bái tổ thì được công chúa gieo cầu trúng nên được chọn làm phò mã. Trên một chuyên đò về quê, giữa sông nước tràng giang, Trần đại nhân bị một tên cướp giết chết và ném thây xuống sông rồi cưỡng hôn công chúa lúc đó đã có thai Trần Huyền Trân, tức Tam Tạng sau này. Khi công chúa hạ sanh con thì tướng cướp bắt buộc nàng phải thả đứa bé trôi sông cho biệt tích. Chẳng ngờ một vị hòa thượng đã vớt lên và nuôi dưỡng thành một vị chơn tu trẻ nổi tiếng khắp vùng. Một ngày kia vua Đường Thế Dân chọn người đi thỉnh kinh v.v… Sự tích rất dài, nhưng tôi nhớ không sót một chi tiết nào. Tôi đã khóc lu bù khi đọc những đoạn khổ não của Trần Huyền Trân. Rồi đến các nhân vật Hành Giả, Bát Giái, Sa Tăng… nhân vật Tôn Hành Giả, Bát Giái có nhiều nét thật lạ lùng đọc qua rồi không thể nào quên được.

Ví dụ một nét vềHành Giả: một hòn đá bên bờ suối nọ, hằng ngày bọn khỉ tắm suối thường leo lên ngồi trên đó để phơi lông. Lâu ngày, hòn đá thọ khí âm dương, đến một hôm nọ, trời mưa sét đánh hòn đá nứt làm đôi và từ trong đó nhảy ra một con khỉ. Sự ra đời của con khỉ này ở trần gian dã làm cho Ngọc Hoàng lo sợ vì biết sau này nó sẽ là tai họa cho Thiên đình (Tôn Hành Giả loạn thiên cung) nên sai các vị thần tìm để giết đi trừ hậu hoạn v.v…

Một nét “hòn đá” chấm phá đã vẽ nên được một nhân vật một cách tài tình. Tôi nghĩ không có quyển truyện dã tưởng Đông Tây Kim cổ nào sánh bằng truyện Tây Du.

Đó phải chăng là câu trả lời của tôi cho người bạn ở trên? Truyện Tây Du 16 quyển hơn 1000 trang, đọc bỏ cơm, bỏ học bài, bỏ chơi dế, bỏ đá cá lia thia, đọc đến nỗi nằm trên lưng trâu lắc lư vẫn ôm đọc. Chữ nghĩa như Tây Du vậy đó, có ai hơn?

Nhưng đọc xong Tây Du tôi bắt mò qua những bộ truyện khác: Phong Thần, Phong Kiếm Xuân Thu, Chung Vô Diệm, Vạn Huê lầu, Anh hùng náo Tam môn giai v.v… rồi càng ngày càng mê say đọc truyện. Riết rồi truyện gì tôi cũng đọc. Ban đầu đọc không cần đầu đuôi nhưng sau rồi dần dần xếp thứ tự, lớp lang. Thí dụ ở trong PhongThần, Tôn Tẫn mới đi tu; sang Phong Kiếm Xuân Thu, Tôn Tẫn đã thành tiên xuống núi, giúp nhà Tề. Tề Vương gọi là Tôn Á Phụ (cha nuôi) hay là ở Thuyết Đường các danh tướng Tần Thúc Bảo, Uất Trì Cung còn trẻ, sang đến Tàn Đường thì các tướng đã già nhưng có con nối dõi như Tần Hoài Ngọc cũng làm nguyên soái thay cha, Uất Trì Bửu Lâm cũng là dõng tướng v.v…

Tôi mê mải bơi lội trong các trang truyện Tàu cho mãi đến khi lên học trường quận. Ở đây đã bắt đầu thấy có kiếm hiệp Pắc Sa Ma Hoàng Ngọc Ẩn và các hiệp sĩ phi thân đánh nhau trên ngọn cây, cũng là môt loại đánh phép, nhưng không hiểu sao tôi lại không mê bằng các màn đánh phép trong truyện Phong Kiếm, Phong Thần. Cho nên tôi không có đọc bộ kiếm hiệp (loại 2 xu hoặc loại 5 xu) nào hết.

Ở trong xóm, tôi vẫn thường nghe: “Cái thằng đó bữa nay loạn thiên cung” hoặc “Mầy đằng vân đi mua cho tao một xị rượu coi!” riết rồi quen tai. Xị rượu theo tôi biết thì nó xuất phát từ tiếng xá xị, mà tiếng xá xị (nước ngọt) thì xuất phát từ tiếng glacière (nước đá lạnh) trong tiếng BGI (Boisson glacière d’Indochine) có in nổi trên cổ chai. Chai này có dung tích là 250ml. Bởi vậy hễ nói xị rượu thì biết đó là 1/4 lít. Loại vỏ chai này dùng để đo lường cho các chủ quán xóm, hoặc dùng để đi mua dầu lửa, nước mắm, nhét nút bằng cặc bần thì bảo đảm lắm. Nhiều người cố viết tránh tiếng cặc (bần) nhưng tôi nghĩ đó là tiếng đúng và đẹp nhất của cây bần. (Ngó bần? không hay). Bạn nhớ lại coi hễ chỗ nào có cây bần mọc thì cặc bần nhảy tua tủa chung quanh lớp già lớp non bao khắp một diện tích chung quanh gốc cây. Ngó sen thì đúng, nhưng ngó bần thì sai. Vậy nên, như ông tây bà đầm thường nói: “Phải gọi chúng bằng tên của chúng.” Il faut appeler les choses par leurs noms: cặc bần là tên dân gian và văn học vậy.

Chai xá xị còn dùng nuôi cá lia thia cũng tuyệt lắm.

Bây giờ xin trở lại truyện Tàu yêu quí…

Một hôm Trí đi bắt dế với thằng Tư Cồ và thằng Hành thằng Hẹ. Trí nói:

- Tụi mình giống Đường Tăng đi thỉnh kinh quá!

Thằng Tư Cồ ré lên cười. Nó có nghe lóm ai đó nói về Tôn Hành Giả nên bảo:

- Mày mặt mũi sạch sẽ, làm Đường Tăng đi.

Trí gạt ngang:

- Tầm bậy mầy! Nói vậy tội chết! Ổng đã tu chín kiếp, sắp thành Phật đó.

- Thiệt hả? Nếu vậy nay mai ổng vô chùa ổng lên toà sen ngồi chung với ông Phật trên đó hả?

- Không phải vậy. Ổng là Phật nhỏ, còn ông ngồi trên toà sen là Phật Tổ.

- Phật con là sao, Phật tổ là sao, mầy nói tao nghe coi!

Rồi nó kêu tụi thằng Hành thằng Hẹ tới. Sẵn thằng Năm con ông Hai Ngà ở dưới xóm chòi lên vườn mua rượu, nó ngoắc lại luôn:

- Ê tụi bay ơi! Lại đây nghe thằng Trí nói chuyện Phật tổ nè!

Thế là bốn đứa kéo lên gò mả lạn ngồi chùm nhum nghe thằng Trí kể chuyện Phật. Trí nói:

- Chuyện nầy dài lắm! Tao đọc truyện cho ông cố tao nghe mấy tháng mới hết, tụi bây làm sao có thời giờ mà nghe?

- Kệ nó! Được nhiêu hay nhiêu! Rồi bữa khác kể nữa, lo gì!

Trí bình tĩnh nói:

- Muốn nghe thì tao kể nhưng phải kể cho có đầu có đuôi như đọc truyện vậy thì tao mới kể, chớ kể tắt ngang, tụi bây không có hiểu đâu!

Thằng Cồ sốt ruột:

- Mầy cứ kể đi! Tao nghe cho! Đứa nào không muốn nghe thì đi đâu cứ đi!

Trí cất giọng:

- Hồi đời Đường ở bên Tàu, tại kinh đô Trường An có một ông thầy bói rất tài tên là Viên Thủ Thành. Người dân trong vùng đến nhờ ông mách bảo điều gì, ông đều đoán trúng cả. Đến dân chài lưới cũng tới nhờ ông chỉ chỗ để bắt cá bắt tôm, ông bói quẻ nào trúng y quẻ nấy. Dân chài lưới bắt tôm cá đầy xuồng nên ngày nào cũng đến tặng ông rồi tiếp tục nhờ ông bói cho quẻ mới.

Thằng Hành nói:

- Mầy nhờ ổng bói giùm cho đặt giàn rớ được đó Cồ.

- Tầm bậy! Ổng ở bên Tàu chớ phải bên này hay sao. Vả lại hồi đời Đường, tao làm sao mà gặp được?

- Mầy nấu một nồi chè thì nắm râu ổng lôi ra.

- Ổng ở đâu trong đó?

- Thì mầy biểu ổng nhà Đường. Chè khônq nấu với đường là gì!

Thằng Trí la:

- Tụi bây đâm hơi quá, tao không kể nữa!

- Thôi, Hành Hẹ câm miệng lại, không thôi tao xào ăn hết bây giờ!

Thàng Trí tiếp:

- Một bữa nọ, có một vị tú tài đến nhờ ổng bói cho một quẻ mưa nắng. Ông thầy bói nói rõ: ngày mai mây đen sẽ kéo tới vào đầu giờ Mẹo, mưa đổ hột vào giữa giờ Thìn, mưa liên tục nước lên 1 tấc 2 phân, đến giờ Dậu thì dứt hẳn. Vị tú tài nói: Nếu đúng như lời thầy đoán thì tôi sẽ trọng thưởng, còn nếu sai thì thầy phải dẹp nghề này. Lão thầy bói nói: Nếu sai một ly, tôi chịu phạt. Rồi hai bên ký tờ cam đoan đàng hoàng. Ngày mai khi trời mưa xong, vị tú tài lại đến. Ông ta la ó: Ông bói sai bét hết. Mưa bắt đầu vào giờ Dần và dứt vào giờ Mẹo. Nước lên 4 tấc 5 phân. Vậy ông phải dẹp bảng hiệu của ông đi… Nói xong, viên tú tài đập phá lung tung. Ông thầy bói chỉ cười. Trong lúc đó khách hàng tới nhờ thầy xem quẻ, không biết chuyện gì nên lấy làm ngạc nhiên lắm. Nhưng ông thầy thản nhiên bảo: Người này cãi lệnh trời nên sẽ bị trừng phạt. Để rồi coi!

Thằng Tư Cồ đang nằm dài trên cỏ, ngồi bật dậy hỏi:

- Thằng cha tú tài đó là ai mà tới phá đám vậy?

- Để thong thả tao kể cho nghe! - rồi Trí tiếp . Chẳng là sự thế này. Tụi bây có biết không, cái măt đất mình đang ngồi đây như là cái mặt bàn vuông Còn bầu trời trên đầu mình như cái nắp vung úp lên Mình ở trong lòng nắp vung, còn bốn góc thừa ra ngoài gọi là “ngoại càn khôn”.

Thằng Hẹ hỏi:

- Mình ở trong nắp vung, còn ngoại càn khôn là chỗ nào?

- Tao không biết nhưng chắc xa lắm. Mình đi không có tới đâu, đừng hỏi mất công. Ở dưới đất mình đào sâu xuống là âm phủ, mày hiểu chưa? Bởi vậy nên ai chết mình chôn xuống đó. Ở dưới đó cũng có người ta như ở trên nầy nhưng vua của âm phủ là rồng, gọi là Long Vương đó. Mỗi lần mày thấy mây đen trên trời là do rồnq hút nước lên để phun xuống làm mưa. Long Vương cũng có binh tướng, nhưng đó là tôm cá cua sò… - Trí ngưng một chút rồi tiếp - Bởi vậy nên ông thầy bói chỉ cho dân chài lưới bắt tôm cá là bắt binh lính của Long Vương khiến ổng nổi giận, cho con của ổng lên giả làm viên tú tài thách đố ông thầy bói về việc coi quẻ mây mưa.

- Rồi sao?

- Rồi Long Vương mới làm mưa sai với chiếu chí của thiên đình.

- Thiên đình là ở đâu?

- Thiên đình là chỗ ở của Ngọc Hoàng Thượng Đế ở trên đầu mình. Mỗi lần có mưa là do Thượng Đế ra lịnh cho Long Vương. Bởi vậy năm nào có hạn hán thì con cóc đi kiện ông trời là vậy đó. Lần đó Long Vương cam kết với ông thầy bói nên mưa sai lịnh Thượng Đế để có cớ dẹp bảng hiệu của ông thầy bói đi.

Đọ, chuyện bắt tôm bắt cá mà động tới thiên đình. Do việc Long Vương thi hành sai chiếu chỉ của Thượng Đế nên Long Vương đang làm vua cõi dưới bỗng bị mắc tội, bị cởi hết áo mão, bị kêu là con nghịch long và chờ ngày chết chém.

- Ai chém?

- Thượng Đế sai Ngụy Trung thần tướng của vua Đường. Đọ, chuyện lại dây dưa ra thêm nữa. Nguỵ Trưng là tướng tài của vua Đường, được lịnh Thượng Đế chém dầu con nghịch long. Do đó Long Vương mới lên cầu cứu với vua Đường để ngăn cản Nguỵ Trưng. Cùng làm vua với nhau nên vua Đường mới nhận lời. Long Vương ra về thì vua Đường cho mời Nguỵ Trung tới bày cờ ra đánh, cốt sao cầm chân Nguỵ Trưng cho qua khỏi giờ xử tội là Long Vương sẽ sống.

Nguỵ Trưng ngồi chơi cờ với vua rồi gục đầu trên bàn cờ mà ngủ. Vua Đường thấy vậy thì mừng thầm, cứ để cho Nguỵ Trưng ngủ càng lâu càng tốt. Quả thật Nguỵ Trung ngủ quá giờ xử chém. Vua Đường an tâm rằng mình đã cứu được ông bạn. Nào ngờ mừng chưa được lâu thì đã nghe tiếng rơi đánh phịch trước sân. Vua Đường nhìn ra thì thấy một cái đầu nằm trước sân, con mắt còn nháy nháy và hàm râu dựng ngươc lên, cái miệng hả ra ngáp ngáp.

Thằng Tư Cồ la hoảng:

- Ghê quá tụi bây ơi!

- Tao sợ quá! Thằng Hành cũng la lên.

Mấy đứa kia co rút vào nhau. Trí nói:

- Chuyện đời xưa chớ phải thiệt sao! Làm lộn xộn tao không kể nữa.

- Ừ, thôi, hết sợ rồi, kể tiếp đi! Thằng Hành bảo.

Trí tiếp:

- Trong lúc đó ở trên bàn cờ, Nguỵ Trưng thức dậy giụi mắt quì lạy vua Đường: Thần cam thất lễ đã ngủ trên bàn cờ. Vua Đường nói: Khanh mệt thì ngủ chớ có sao đâu. Nguỵ Trưng tâu: Hạ thần không có ngủ mà là xuất hồn, đi chém con nghịch long theo chiếu chỉ của thiên đình.

- Trời đất! - Thằng Tư Cồ nhảy tưng lên - Vậy mà tao tưởng ổng ngủ thiệt chớ! Rồi sao nữa?

- Con nghịch long rơi đầu. Mấy đứa con của nó làm dữ với vua Đường. Mấy đứa đó là hoàng tử chớ bộ đồ bỏ sao! Chúng bắt hồn vua Đường xuống âm phủ, đòi vua Đường đền mạng.

- Rồi vua Đường có đi không? Thằng Tư Cồ hỏi.

- Quỉ sứ bắt mà không đi sao được! - Trí tiếp - Do đó vua Đường mới đi âm phủ và thấy những cảnh vô cùng thảm thương ở dưới đó.

- Thảm thương như thế nào?

- Thảm thương là cảnh mấy người bị tội phải chịu đủ thứ hình phạt thấy ghê lắm! Như mấy người nói dối thì bị quỉ sứ cắt lưỡi, trộm cướp thì bị cưa hai nấu dầu sát nhân thì phải chịu đầu đội chậu máu, đít ngồi bàn chông… đu kiểu hết.

- Còn ông vua Đường thì bị hình phạt gì?

Trí nói:

- Ống đổ thừa tại Nguỵ Trưng có phép xuất hồn , ổng không biết, chớ thiệt tình ổng cũng đã kềm chân được Nguỵ Trưng. Dầu sao thì Long Vương cũng chết rồi nên mấy người con Long Vương trả lại hồn cho vua Đường. Sau khi vua Đường về lại thế gian thì mới nảy ra ý định lập thêm nhiều chùa cho dân chúng tu niệm làm lành lánh dữ để khi chết xuống âm phủ khỏi bị cưa hai nấu dầu. Nhà vua còn cho đi tìm một ông thầy chùa chơn tu để đi qua bên Tây Phương thỉnh kinh về tụng niệm. Do đó các chùa mới gom lại hai ngàn ông sư già trẻ để chọn một ông trong đó ra đi thỉnh kinh. Tao đố tụi bây vậy chớ ông nào được chọn?

Thằng Tư Cồ nói:

- Hai ngàn ông, ai biết ông nào!

Thằng Hành nói:

- Tao chắc phải bắt thăm.

- Ừa, bắt thăm là hay nhất.

Thằng Hẹ phụ hoạ anh nó nhưng thực ra nãy giờ nó không có nghe gì hết. Nó nằm đây nhưng lỗ tai nó vểnh ra hứng tiếng dế gáy reng reng ngoài mô rạ.

Trí gạt ngang:

- Khỏi phải bắt thăm. Sư cụ đã chọn từ lâu rồi. Đó là đứa bé trôi sông được sư cụ vớt lên năm trước nay đã lớn và trở thành sư trẻ trong chùa. Ông sư trẻ nầy rất thông minh, hằng ngày giảng kinh cho mấy ông thầy già nghe.

Thằng Hành hỏi:

- Đứa bé nào đâu?

Thằng Tư Cồ đáp:

- Đứa bé bị thả trôi sông hồi nãy đó!

- Mới vớt hồi nãy mà bây giờ đã lớn xộn vậy rồi sao?

- Hồi nãy tới giờ là đã mấy chục năm ở trong truyện mầy không hiểu gì hết! Cũng như mầy đi coi hát, ở màn trước Na Tra mới đẻ mà màn sau nó đã vác phép đánh ầm ầm với binh tướng rồi. Thôi kể tiếp đi Trí.

Trí nói:

- Ông sư cụ lựa cậu bé đem trình lên cho vua, vua phong làm ngự đệ, phát áo mão, cấp ngựa cho đi thỉnh kinh. Bỗng có một ông đạo sĩ tới xin bán một cái áo cà sa quí và một cây gậy dành cho mấy ông thầy chùa dùng, gọi là thiền trượng. Vua hỏi giá bao nhiêu. Ông đạo sĩ tâu: áo giá 4000 lượng, còn gậy 2000 lượng vàng.

Tư Cồ giựt mình:

- Áo gì mắc dữ vậy?

- Áo có kết hột ngọc chớ phải áo bà ba cụt tay như của mầy bận hay sao!

- Ngọc thì ngọc chớ 4000 lượng vàng, tao làm tới chục kiếp cũng không có.

- Mầy biết cậu bé kia tu mấy kiếp rồi không? Chín kiếp rồi đó. Còn một kiếp nữa là đủ chục. Bởi vậy ổng đi thỉnh kinh chuyến này lên tới Tây Phương là thành Phật biết bay luôn, không có đi bộ như tụi mình. Sự tích Tam Tạng Thỉnh Kinh là như vậy đó.

- Rồi ổng đi thỉnh kinh làm sao?

Trí gạt ngang:

- Thôi để bữa khác kể tiếp. Bữa nay rát cuống họng lắm, khát nước thấy bà!

Tư Cồ nói:

- Đê tao kiếm nước cho mầy uống.

Tư Cồ lại mé đìa thò tay rứt một cọng bông súng lôi lên đưa cho Trí, bảo:

- Mầy ngậm một đầu, còn một đầu bỏ xuống nước hút đi, nước sẽ vô ót ót trong bụng mầy, một chút là no phình.

Trí lắc đầu:

- Thôi mầy ơi! Rủi con lôm chôm vô bụng thì sình bụng chớ no gì!

- Lôm chôm gì chui lọt lỗ bông súng? Mầy coi tao nè! - Nói rồi Tư Cồ nàm sấp xuống, miệng ngậm cọng bông súng hút nước hóp cả hai má. Xong đứng dậy vỗ bụng - Bây coi cái trống cơm nè, vỗ nghe bung bung đã ghê.

Thằng Năm con ông Hai Ngà sực tỉnh, mới nhớ ra rằng mình đi mua rượu cho ông già nhậu với chú Năm bữa tiệc nhậu rắn hổ bò dở hôm trước vì chú Năm ghé nhậu cò nướng ở gò đìa. Nó hoảng hồn xách chai chạy bán mạng. Cặp giò của nó đen như hai khúc than trâm bầu phang vun vút trên bờ ranh. Thằng Tư Cồ la:

- Coi chừng té bể chai, miểng xọt lủng bụng mầy!

Rồi tụi thằng Cồ trở lại chuyện đi bắt dế. Những mô rạ vàng tươi để gác lúa bó khỏi ngập nước, bây giờ lúa đã về sân thì mô rạ trở thành nhà của dế, chuột…

Thằng Tư Cồ nói:

- Mỗi sáng cánh dế còn ướt mù sương, chưa có gáy được. Nắng lên một chút, cánh nó khô, nó gáy nghe thiệt là tê tái cái lỗ tai.

Tư Cồ ra đồng như Lý Ngươn Bá ra trận. Nó chạy đầu này, nó quậy đầu kia; còn thằng Hành thằng Hẹ tuy nhỏ nhưng cũng xông xáo hơn Trí. Trí chỉ thạo môn cỡi trâu, còn các chuyện khác thì phải theo dấu mấy đứa kia.

Một chập đứa nào cũng bắt được vài ba con dế, bèn gom lại bờ đìa đá chơi.

Thằng Tư Cồ nói:

- Hễ con nào thua thì vặt đầu, con nào ăn thì cho gà nuốt.

- Mầy không nuôi à?

- Nuôi mất công lắm.

Không đứa nào đem theo hộp đựng nên bắt được con nào thì bỏ vô vạt áo, lấy rạ buộc túm lại.

Tư Cồ móc đất sét đắp thành một cái ô nhỏ trên mặt đất đế làm bãi chiến trường cho dế. Thằng Cồ trút dế của nó ra trước. Con dế than bị bọc trong vải ngất ngư té ngửa một lát mới bò đi được.

Thằng Cồ bảo:

- Thằng nào muốn đá thì bỏ dế vô.

Thằng Hành bỏ vô một con dế lửa, cánh có mặt trăng thật đẹp. Dế lửa đá giỏi hơn dế than. Nó thấy con dế của thằng Cồ thì banh càng ra nhào tới. Con dế than của thằng Cồ chi chống được có một hiệp thì chạy tuôn rồi vọt ra khỏi thành lủi vào cỏ.

Thằng Cồ không nói gì, mở bọc thả tiếp con thứ hai. Chú dế này khoẻ hơn chú trước. Nó phùng cánh gáy re re, lăn xả vào cắn con dế lửa của thằng Hành. Con dế lửa yếu sức bị nó cắn sứt một đùi đau điếng nên đâm đầu chạy làng. Con dế của thằng Cồ đuổi theo, nó cùng đường bay tuốt ra ngoài lủi mất.

Tới phiên Trí thả con dế cui vô. Dế cui là dế đầu to chân ngắn như trâu cui. Cặp này đá được ba hiệp cầm đồng. Thằng Tư Cồ bảo:

- Bắt ra om nước! Cho tao xin sợi tóc.

Rồi nó thò tay nhổ tóc trên đầu thằng Hành, buộc dầu chú dế, quay vun vút. Xong thả vô thành. Con dế say nên cứđứng ngất ngư không nhúc nhích. Trí khôing om kiểu thằng Cồ mà bỏ trong lòng bàn tay, lấy tay kia bịt kín lại rồi kê miệng thổi phù phù thật mạnh hai ba hơi liền. Xong trút vô thành.

Hai đối thủ lại tiếp tục đá mấy hiệp cũng cầm đồng. Tư Cồ bảo thằng Hẹ:

- Mây có con nào tệ tệ không, cho tao mượn. Thằng Hẹ mở bọc đưa ra một chú than. Thằng Cồ nói:

- Ôi thứ đồ dế cơm, nuôi uổng cỏ!

Nói rồi nó ngắt đầu con dế lấy thủ cấp ghim vào một nhánh cỏ rồi xoe xoe trước mặt cặp dế đang đá. Tư Cồ giải thích:

- Làm vậy nó say máu ngà, nó đá hăng hơn.

Quả thật chúng đá rất ngoạn mục. Con dế của Trí lui lui tới tới, con dế của thằng Cồ cũng tới tới lui lui không phân thắng bại. Hai cái đầu dế cụng vào nhau bốn bộ răng nhe ra, hai cặp đùi chòi đạp lia lịa, Lý Ngươn Bá không chịu nhường chuỳ cho địch thủ.

Bỗng thằng Cồ đứng phắt dậy. Pẹt! Nó đưa chân dậm một phát. Cả thành trì, cả tướng tá dẹp xác. Thằng Hẹ kêu lên tức tối:

- Tội chết!

- Tội lội xuống sông, chổng mông hết tội! - Rồi nó bảo - Đi kiếm kiến vương bắt cho chém lộn coi đã hơn tụi bây.

Cả bọn đi rảo theo hàng trâm bầu tìm kiến vương. Đó là một loại côn trùng cánh cứng màu nâu giống như con bù hung của Pháp nhưng kiến vương đực thì có sừng, kẹp rất đau. Có lẽ vì nó to xác (cỡ bằng ngón tay cái) nên gọi nó là vua của loài kiến chăng? Loại nay đá mạnh lắm, nhưng vì nó có sừng nên gọi là “chém lộn”.

Bỗng thằng Tư Cồ khoát khoát tay: “Xuỵt xuỵt…” rồi ngoắc ngoắc. Ba thằng rón rén bước đến. Tư Cồ trỏ mép bờ ranh. Thì ra một con rắn và một con chuột cống đang tranh hùng.

Mỗi thằng tìm một chỗ ngồi cho êm mà coi trận đấu. Rắn này là rắn hổ. Chuột này là chuột cống xù lông vàng.

Đồng quê không phải như rừng có chúa sơn lâm. Con nào có giang san nấy. Chuột thì đào hang ở bờ ranh. Rắn tìm những gốc cây làm tổ. Còn chim chóc cò diệc thì ở trên ngọn cây vườn. Không ai xâm phạm lãnh thổ của ai. Không hiểu vì sao hôm nay có trận ác đấu này.

Con rắn hổ mang đen mun xừng bàn nạo cao lên mấy tấc tây, thằng Trí chưa thấy lần nào nên sợ quá, nép mình vào gốc lác. Còn Tư Cồ thì khoái chí chí chỏ lia, ý bảo: "Coi kìa, coi kìa tụi bây!" Con chuột cống coi bộ không ngán chút nào, xù lông lên, nhe bộ răng vàng nghinh xông tới. Cái bàn nạo lập tức mổ xuống. Chuột né qua chạy vọt ra sau ngoạm lấy đuôi địch thủ. Chú rắn quay lại quật liền mấy phát nhung chuột vẫn không buông, cứ lôi rắn ra giải đất trống, ý chừng như ra đó, rắn sẽ yếu thế hơn.

Có lẽ biết ý đồ thâm hiểm của đối thú, rắn cố trườn về miệng hang ở gần chân bờ ranh. Cái đầu rắn chui vào được trong hang nhưng chuột ta cố lôi giật lai. Xương sống của rắn hình như hơi giãn ra, vảy xửng lên ngời ngời dưới nắng.

Hai bên đọ sức nhau một lúc. Rồi liệu chừng không thể lôi địch thủ ra ngoài, chuột bèn buông đuôi rắn để cho rắn lủi vô hang. Nếu rắn vô hang thì trận chiến chấm dứt. Nhưng khi cái đuôi rắn còn ló bên ngoài chừng một gang thì chuột lại lao tới đớp lấy lôi ngược ra, đồng thời la lên eng éc như kêu tiếp viện.

Chỉ trong nháy mắt, một chú cống nhum từ đâu không biết lao tới. Đó là con chuột lông xám lốm đốm vàng và đen, to gần bằng con heo con, ngoạm tiếp đuôi rắn rị lại. Có lẽ chú rắn bị đau phải tháo trở ra miệng hang, chứ nếu chú cố ngoặc trong hang thì chẳng tài nào hai chàng chuột lôi chú ra nổi. Bây giờ rắn đã ở ngoài trống, cái đuôi bị chuột ngoạm cứng, chỉ còn cái bàn nạo. Rắn sừng lên mổ xuống liên tục vô lưng hai đối thủ. Có lẽ vừa bị thương vừa bị chạy nọc nên chú cống lông vàng nhả đuôi rắn ra, chạy khặc khừ một loáng rồi trở lại phun phì phì. Từ miệng chú bay ra những chất gì nâu nâu, tung vào mặt rắn như một thứ phù phép.

Thằng Tư Cồ bảo:

- Nó bị chạy nọc nên nó tìm thuốc đó tụi bây.

Phun xong, chú lại cắn đuôi rắn để chú cống nhum đi tìm thuốc tự chữa trị. Thừa lúc cống nhum bỏ vị trí, rắn trườn đi được một quãng nhưng chẳng được lợi thế nào hơn. Rồi cống nhum trở lại tiếp sức với bạn, thành ra rắn phải dùng sức một chống hai. Nhung rắn chưa hết miếng tổ. Nó gồng mình lên rồi cuộn tròn lại quấn chặt hai chú chuột vào thân mình. Có lẽ hai ông tí bị bó giò, xương sống hơi rêm nên kêu eng éc một cách đau đớn.

Cái cuộn tròn ngời ngời nhầy nhụa máu me kia lăn lăn trên mặt đất. Bỗng bất thần rắn tháo ra và lủi chạy như vừa trúng đòn độc của hai ông tí. Mà đòn độc thật. Bị siết đau, hai bộ răng chuột bén như những cây đinh thép đã cắn vào mạng mỡ rắn làm rắn đau điếng nên phải thả giàn và bỏ chạy. Rắn chạy chết, không vô hang mà lướt trên ngọn cỏ. Còn hai chàng tí thì cũng biết thân, không đuổi theo nữa mà chỉ tìm đường lủi. Rốt cuộc không ai thắng ai, chỉ để lại trên ngọn cỏ nhiều vết máu.

Thằng Tư Cồ vùng đứng lên, ra lệnh:

- Tụi bây đập hai con chuột cà! Còn tao đi tìm con rắn.

Một lúc sau, cả rắn lẫn chuột đều bị đập chết đem sắp đống trên bờ ranh. Chúng đã bị thương nặng cả, còn sức đâu mà chạy cho xa! Con rắn lòi mỡ dưới bụng, còn hai chú chuột, một gãy giò, một lòi ruột. Tư Cồ nói:

- Thằng nào ăn thịt chuột thì bắt đem về làm lông xào lá cách.

Thằng Hành lắc đầu:

- Rắn cắn còn để nọc trong thịt nó, ăn đặng chết hả ?

- Vậy thì mầy bắt rắn về cho ba mầy nhậu.

- Thôi đi, tao không thèm!

Thằng Tư Cồ nói:

- Để tao đem lên lộ coi ai nhậu thì tao cho họ.

Trời đã xế chiều. Mặt nhựt đi mau quá. Thằng Tư Cồ hỏi:

- Đường Tăng đã qua tới Tây Phương chưa mậy, Trí?

- Ờ, chắc cũng gần tới ….

Củ chì thung của những gánh hát Sơn Đông

Buổi sáng đang mơ màng trên bộ ván gõ nhà trước, Trí bỗng nghe vang vang tiếng trống Sơn Đông. Cậu Tám ngồi bật dậy, không gọi một tiếng nhưng Trí cũng biết bằng linh cảm, bằng thói quen. Hai cậu cháu ngủ không bao giờ dậy sớm. Ngoại thường bảo các người trong nhà: Để yên nó ngủ cho mau lớn. Thế mà cậu dậy sớm là có chuyện. Gánh hát Sơn Đông nào ở đâu đến đây? Trí vừa dụi mắt vừa lắng tai nghe. Lùng tùng…Lùng tùng…

Không kịp xếp mền, cậu Tám đã vọt xuống đất. Còn Trí, Trí cũng muốn chạy theo cậu nhưng dì Nssm đã ra đến nơi. Dì biết cái tật thằng cháu cưng của ngoại. Nó có tật “mưa đêm”. Các dì không dám nói thẳng sợ Trí nằm vạ thì nguy to. Dì đưa cho Trí cái quần tiều rồi quay vô. Trí chụp lấy thay nhanh và vụt theo càu Tám, bỏ mặc cho ai dọn dẹp bộ ván đọng một vũng nước “mưa… đêm” mà các dì gọi là “đấm dài”.

Cậu Tám đã ra đến cửa ngõ, quay lại quát:

- Mau lên!

Thế là hai cậu cháu cắm cổ chạy. Tiếng trống lùng tùng nghe càng rõ hơn. Nhưng cặp giò của hai cậu cháu đâu có phép Cân Đấu Vân của Tôn Hành Giả mà thu ngắn đường đất được! Phải chạy qua nhà bà Tư giáp ranh với nhà ngoại, rồi đến nhà thằng Ba. Cậu Tám vừa chạy vừa kêu:

- Ba ơi Ba! Đi coi hát…

Ba là con của cậu Ba, cũng trang lứa, bạn xóm và là bà con của Trí. Kêu nhưng không thấy trả lời, cậu Tám cúi chạy qua mặt sân đập lúa rồi đến hàng mù u già của bà Nhì Hết. Qua luôn một khoảng đất trống, đên quán ông Tám Cầm rồi mới đến móng cầu sắt, qua cây cầu này mới tới chợ.

Bỗng tiếng trống ngưng bặt. Trí la lên:

- Chắc tiếng trống của nhà thằng Bảo chớ không phải Sơn Đông đâu cậu ơi!

Cậu Tám dừng lại lắng nghe. Quả thật không còn tiếng trống nữa. Nhưng cậu nói:

- Không phải trống của thằng Bảo đâu! Trống Sơn Đông khác mà! Nó đổ dòn hơn!

Ở sau ruộng có nhà ông Tư Tui chuyên môn bịt trống cho chùa, đình. Hễ xong cái nào thì ông Tư đem ra đánh thử vài chục hồi làm cả xóm điếc tai. Nhưng mỗi lần nghe tiếng trống thì biết trong làng có trâu ai chết thường là trâu già, nên bán da cho ông mua về bịt trống.

Cậu Tám vừa nói dứt tiếng thì tiếng trống phía chợ lại vang lên. Cậu đã từng kinh nghiệm nên quả quyết:

- Nó đánh tùng chập để rao bán thuốc Sơn Đông.

Quả thật tiếng trống lại dồn dập thúc giục. Lên dốc cầu đất gồ ghề, cậu Tám phải níu tay lôi Trí chạy mau. Cậu biết Trí rất sợ cây cầu này. Mỗi lần đi chợ, cậu phải dắt lôi kéo. Mặc dầu đi trên cầu sắt lót ván rộng thênh thang mà Trí vẫn sợ lọt kẽ ván rớt xuống sông, hơn là đi cầu khỉ mới lạ chớ! Nếu không lôi kéo thì Trí cứ “đếm” từng tấm ván một, nghĩa là bàn chân chỉ đặt trọn trên tấm ván thì mới bước. Bữa nay dầu có hát bên chợ, Trí vẫn không bỏ cái tật “sợ lọt kẽ ván”. Nhưng dù sốt ruột, cậu Tám vẫn không dám lôi mạnh. Nếu Trí khóc, Trí sẽ mét ngoại rầy cậu.

Cuối cùng rồi hai cậu cháu cũng đi qua khỏi cây cầu và tới chợ. Gánh Sơn Đông đang làm trò ở bên hàng me trước cửa tiệm thầy Thẹo.

Lùng tùng xèng… xèng xèng xèng…

Tiếng trống, tiếng phèng la làm bụng dạ rộn ràng; hai cậu cháu cứ việc đâm đại vòng người đang vây quanh gánh hát, bất chấp tất cả, miễn sao chen vô được bèn trong đế ngồi thấy rõ các trò của gánh hát

May quá, họ chỉ mới xong hiệp nhứt, nghĩa là dùng tiếng trống để gọi khán giả tới.

- Tả lồ lên!

Trống và phèng la lại tiếp tục vang lên.

Người chủ gánh hát tự xưng là Tiểu Lực Sĩ ở bên Tàu mới qua. Đó là một người đàn ông vạm vỡ với những bắp thịt cuồn cuộn, thân hình chữ V có nước da nâu rất đẹp, mặc quần dài túm ống, chân mang giày vải đen, đầu đội nón nỉ xám. Ông ta đi tới đi lui tiếp tục tự giới thiệu:

- Ngộ đã từng đi các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh à (lùng tùng xà). Ở Vĩnh Long ngộ đã từng à (lùng tùng xà) cho xe đò à (lùng tùng xà) chở 40 người à (lùng ‘tùng xà) cán qua ngực à! (lùng tùng xà) Ngộ vận nội công à (lùng tùng xà) chiếc xe lật qua à (lùng tùng xà) nhưng không chết người à! (lùng tùng xà) Bà con không tin qua đó mà hỏi à! (lùng tùng xà xà xà…)

Cứ mỗi câu, Tiểu Lực Sĩ lại “à” và ngưng lại để trống và phèng la chấm câu, bất kể câu đó có trọn ý hay không.

Vừa nói, ông ta vừa cầm cái củ chì thung quay vun vút làm cho đám con nít ngồi vòng trong cùng phải né mặt qua tránh.

Củ chì thung là một quả đấm làm bằng vải, buộc ở đầu một sợi dây thừng, thường dùng ở các gánh hát Sơn Đông. Nsười ta vung nó thật mạnh để lấy trớn, muốn chỗ nào nới rộng ra thì phóng củ chì thẳng vào đó người ngồi sợ trúng mặt phải thụt ra. Người sử dụng củ chì thung cần khéo tay. Ai ngồi bên ngoài mục tiêu cũng thót ruột khi thấy củ chì suýt trúng mặt khán giả, nhưng nó kịp thời được rút lại ngay như cái đầu rắn khôn ngoan, chỉ xừng bàn nạo phóng tới nhưng không cắn ai.

Tiểu Lực Sĩ vừa phóng củ chì thung làm quen với khán giả giáp một vòng. Bây giờ cái vòng tròn được nới rộng ra bộn bàng. Nhiều đứa con nít leo lên cây me vắt véo ngồi dòm xuống, không sợ ăn củ chì thung.

Bình Bắc trấn Nam xong rồi, Tiểu Lực Sĩ tiếp tục giới thiệu thuốc men:

- Đại Lực Sĩ là thầy của ngộ à (lùng tùng xà) có phép lạ à (lùng tùng xà) thu hình nhỏ lại à (lùng tùng xà) thật nhẹ à (…) đi trên mặt nước à (…) được hai ba bước à (…) Ông thầy bào chế nhiều thứ thuốc, cao đơn hoàn tán, trị đau lưng, nhức xương, làm ruộng đứt thịt trầy da… trong uống ngoài thoa, lành ngay tức khắc à (….)

Rồi không để khán giả chờ lâu lắc, Tiểu Lực Sĩ bắt đầu làm trò trong tiếng trống nổi rộ lên như trống Phàn Lê Huê phá Hồng thủy trận.

Cậu Tám nắm chặt tay Trí lôi lại gần, sợ lạc mất thằng cháu. Cậu ngẩng nhìn lên nhánh me, bỗng thấy thằng Ba ngồi ngất ngưởng trên đầu vòng người thò cổ dòm xuống. Cậu đưa tay ngoắc và kêu:

- Ba! Xuống mau! Có chỗ ngồi tao dành cho nè!

Nhưng Ba xua tay lắc đầu nói vọng xuống theo tiếng trống:

- Ở trên này coi rõ hơn cậu à!

- Nó mà con mắt mày bước hụt chân, té lọi giò đó!

- Hổng sao đâu! Cậu biểu thằng Trí leo lên đây.

- Nó hát thuật, nó không cho ai leo cao trên đầu nó dòm xuống thấy bí mật của nó.

Nhưng thằng Ba cứ lắc đầu. Cậu Tám đành phải dặn:

- Mày có ngồi trên đó thì ôm nhánh me cho chặt nghe hôn!

Rồi cậu bị thu hút vào những trò hát, mạnh ai nấy xem.

Một người đàn bà xẩm mặc áo ngắn tay, đi giày vải, quần túm ống, dắt một bé gái chừng 6 tuổi bước ra khom chào bốn phía khán giả rồi quay vô “buồng” (buồng hát Sơn Đông không có cánh gà cánh vịt gì ráo trọi. Đó chỉ là một nơi để trống. Ngoài ra còn phèng la, trống, đồ nghề cùng nhưng món thuốc sắp đưa ra bán.)

Hai người đàn ông khiêng ra giữa sân một cái bàn. Người đàn bà lên nằm trên bàn, hai tay xuôi dọc hai bên hông, hai chân kẹp sát vào nhau giơ ngược lên trời. Tiểu Lực Sĩ tay cầm gối ra kê đầu cho bà, tay xách cái choé (một loại chum sành đít túm, miệng rất nhỏ chỉ vừa thọc tay vào) màu vàng sậm. Ông ta đặt chiếc choé lên hai bàn chân bà xẩm.

Bà bắt đầu điều khiển chiếc choé quay trên lòng hai bàn chân, càng lúc càng nhanh, quay tít như bánh xe lăn vòng trên mặt đất. Rồi chậm lại, rồi ngừng hẳn. Xong, bà lại cho nó quay ngang từ trái sang phải và ngược lại càng lúc càng nhanh nhưng không bằng lúc quay vòng tròn. Rồi bà tung nó lên vẫn bằng hai chân. Chiếc choé văng lên cao rồi rơi xuống nằm trên hai bàn chân lật ngược của bà. Tiếng trống rào lên như chấm dứt một màn ngoạn mục.

Tiếng trống vừa dứt thì Tiểu Lực ST dắt đứa con gái ra, ẵm nó để lên cái choé. Bà xẩm co hai chân rùn xuống rồi vươn thẳng lên ba lần. Lần cuối cùng, bà đưa chiếc choé lên và đứa bé từ từ đứng thẳng người trên chiếc choé và giơ tay chào khán giả. Tiếng trống và phèng la nối lên tưng bừng, kịch liệt như để hoan hô trong lúc bà xẩm từ từ hạ chân xuống.

Tiểu Lực Sĩ giơ tay đón đứa bé đặt xuống đất, trong khi bà xẩm tung chiếc choé bổng lên rồi chụp gọn nó ôm vào lòng, ngồi dậy nhẹ nhàng bước xuống đất. Cả ba người, đứa bé đứng giữa, cúi chào khán giả một cách hãnh diện rồi bước vào “buồng”.

Tiểu Lực Sĩ trở ra, nói:

- Hôm nay bổn hiệu không cần bán thuốc, để dành thời giờ biểu diễn cho bà con cô bác coi chơi.

Tiếng trống lại nổi lên dồn dập. Tiểu Lực Sĩ co hai ngón tay cái và trỏ lại, đút vào mồm thổi “oéc” môt tiếng dài như còi tàu rồi lấy một dải lụa điều căng ra buộc ngang lưng, trao mỗi đầu lụa cho một người. Ông thót bụng lại trong khi hai người kia kéo mạnh dây lụa càng lúc càng chặt. Bụng Tiểu Lực Sĩ tóp lại nhỏ dần, nhỏ dần rồi hầu như biến mất không còn nữa. Trong khán giả có tiếng kêu lên:

- Nhè nhẹ vậy! Coi chừng đứt eo ếch ổng!

Quả thật cái eo ếch của Tiểu Lực Sĩ chỉ còn bàng hai nẹn tay. Ông đưa hai tay đo thử và xoay bốn phía cho khán giả xem.

Trong lúc bộ ngực của ông phồng to lên, một người có lẽ là đệ tử, đem ra trao cho cho ông một thanh sắt dẹp bề ngang bằng hai ngón tay. Tiểu Lực Sĩ cầm lấy cán, hét lên một tiếng và đập vào ba sườn ông “bịch, bịch, bịch” ba nhát liền. Ông giơ thanh sắt cong thành hình bán nguyệt lên rồi ném xuống đất đá nghe rổn rang như để nói với mọi người đó là sắt thật chứ không phải giả. Vì thế nên bên hông nổi lên những vệt bầm và rướm máu.

Xong màn đập sắt vào ba sườn, một đệ tử khác đem ra một chiếc khay bọc vải, trên nằm lăn lóc 5 thỏi sắt tròn to bằng ngón tay. Ông cầm lấy hai thỏi, vừa đi vừa gõ giáp vòng và mời mọi người cầm lên xem. Xong ông cầm lấy từng thỏi, lần lượt đưa vào miệng cắn chặt và đưa tay bẻ quặt xuống như xước một lóng mía. Đến lúc đầu thanh sắt ôm trọn xương cằm ông mới lấy ra, dùng ngón tay bóp thanh sắt lại thành chữ U rồi quãng xuống đất.

Lần lượt, ông bẻ đến thanh sắt thứ nãm và nhặt lên đưa tận tay để khán giả xem xét lần nữa.

Trống lại xổ lên rầm rĩ. Phèng la kêu to hơn bao giờ hết. Ai trông thấy cũng phải lắc đầu: miệng mồm răng cỏ nào chịu cho nổi!

Bây giờ Trí thấy những vết bầm trên ba sườn ông Tiếu Lực Sĩ sưng to hơn lúc nãy nhưng ông vẫn thản nhiên, không tỏ vẻ đau đớn gì hết.

Cậu Tám ngó lên cành me, thấy thằng Ba vẫn còn ngồi chàng hảng hai chân bỏ qua hai bên như cỡi ngựa. Cậu quát:

- Đi xuống! Nó sợ mầy thấy nghề của nó, nó “mà” con mắt mầy đó!

- Mà con mắt gì? Thằng Ba hỏi.

- Là nó làm cho đất thấp xuống, mầy bước hụt giò, hiểu chưa?

Tiểu Lực Sĩ lại ra tuồng tiếp. Ông nói:

- Chúng tôi còn nhiều trò, hát ba buổi mới hết, mời bà con ở lại xem nhảy vòng dao, nhảy vòng lửa, giằn đá trên ngực, chém đá bằng cạnh bàn tay, nuốt chỉ vô, mổ bụng lấy ra, dắt con trâu qua lỗ trục chỉ…

Nói xong, Tiểu Lực Sĩ cầm lấy củ chì thung vung lên vù vù… phóng ra bốn phương tám hướng. Xong lại phóng lên mấy cây me có con nít ngồi trên đó.

Chúng hoảng hồn tuột xuống mau mau. Thằng Ba cố ngồi nán lại nhưng nó suýt ăn một củ chì nên phải hạ san và vẹt vòng ngồi phía đối diện với Trí.

Nó ngoắc Trí và nói qua tiếng trống:

- Đi về tắm mương, đốn dừa nước ăn khoái hơn!

- Để coi ổng dắt trâu qua lỗ trục chỉ rồi hãy về. Nước chưa có ròng đâu mà vội!

Thằng Ba ngồi chờ hoài không thấy ông Tiểu Lực Sĩ dắt trâu qua lỗ trục chỉ nên nó bỏ về trước. Không có bạn tắm mương nên nó đành ở nhà, nghĩ ra trò chơi khác. Trò gì bây giờ? Ở sau ruộng có cái trống của thằng Bảo, nhưng chung quanh căng đầy nhũng tấm da trâu. Ớ dưới mương, ba thằng Bảo cũng ngâm da trâu. Quạ đánh hơi bay đến đậu đen nóc nhà. Da trâu dai lắm, quạ không ăn được nên nổi giận, chúng cứ kêu “quạ quạ” ỏm tỏi suốt ngày. Đánh trống thì sướng tay thật, nhung nhớ tới đám quạ khoang, thằng Ba ớn xương sống, đành chờ thằng Trí về rủ đi hớt cá lia thia.

Ăn cơm xong thì đã nghe tiếng gọi:

- Ba ơi Ba! Đi chùa không?

Ba biết đó là “mật hiệu” đi hớt cá lia thia vì cánh đồng sau nhà hai đứa có ngôi chùa Oai Linh tự. Chung quanh chùa có nhiều cuộc đất đầy ổ cá lia thia.

Trí ăn cơm không kịp nuốt, tuột xuống xách rổ chạy băng vườn đi ngõ sau tới nhà Ba. Dì Năm đưa theo một quãng. Trước khi trở về còn dặn Trí:

- Con phải kêu thằng Ba bằng anh, không được kêu nó bằng mầy nữa.

Trí cãi lại:

- Con lớn hơn nó mà.

- Con lớn hơn nó hai tuổi, nhưng vai nhỏ hơn nó.

- Hễ lớn tuổi thì phải vai lớn chớ! Trí bướng bỉnh cãi lại.

Dì Năm bảo:

- Để dì nói cho con nghe: cô của thằng Ba, con kêu tới bằng bà lận! Tức là vợ của ông Năm con, con kêu bằng bà Năm. Nếu theo bên nội của con thì con phải kêu thằng Ba bằng chú lớn cũng như chú Ba Cần của con ở trong Cầu Mống. Còn theo bên ngoại thì con phải kêu thằng Ba bằng anh vì má con và dì kêu ba nó bằng anh. Ngoại nghe con kêu nó bằng mầy, ngoại rầy cho đó.

Trí không hiểu gì cả, cúi xách rổ chạy mau mau, kẻo “thằng” Ba đi trước mất. Ba cũng sợ Trí không đến, nhưng may quá, hai chàng hiệp sĩ tí hon đã gặp nhau ở sau nhà Ba.

Hai đứa thuộc đường, đi theo bờ ranh một mạch thì xuống tới giữa ruộng, vừa đi vừa lom khom vạch tìm bọt cá trong gốc lát hoặc trong vỡ cày.

Trời nắng chang chang, nhưng hai chàng hiệp sĩ vẫn hăng hái tìm kiếm như người ta đi tlm vàng. Bỗng Ba hỏi Trí:

- Mầy ở lại coi Sơn Đông có gì hay không?

Trí nói:

- Tao xem luôn tới tan chợ nhưng không có “con trâu dắt qua lỗ trục chỉ”.

- Vậy có những trò gì?

- Nhiều lắm! Để tao nhớ coi. À à… sau cái màn bẻ cọng sắt thành chữ u, tới trò nhào vòng lửa.

- Là cái gì?

- Nó đốt lửa ngọn quanh vòng tròn rồi chui qua như mình đứng trên cây phóng xuống nước vậy thôi

- Có cháy tóc nó không?

- Nó phóng nhanh lắm, chắc lửa không có cháy kịp đâu!

- Rồi tới gì nữa?

- Tới nhảy vòng dao. Cũng như nhảy vòng lửa. Chỉ khác là dao thay lửa.

- Dao có rạch da nó không?

- Không có rạch. Nhưng Tiểu Lực Sĩ cầm dao cắt da cho chảy máu rồi ổng lấy thuốc dán lên. Sau đó da lành lại, ổng mới bắt đầu bán thuốc dán. Người ta thấy thuốc hay nên ai cũng mua một miếng, ống bỏ đầy một hộp bạc giấy. Chà, nhiều quá! Phải mình được nhiêu đó, mua bánh ăn đã!

- Rồi tới màn gì nữa?

- Còn một màn làm người ta cười rần rần.

Bỗng Ba kêu lên:

- Tao gặp bọt rồi Trí ơi! Hột bọt bự lắm, chắc cá

Trí chạy lại coi. Hai đứa dụm đầu vào nhìn. Cái bọt vàng nghinh vun cao, rìa bọt có đóng phèn. Nó đóng trong vỡ cày thật kín, mới ngó qua không thể nào thấy được.

- Con cá này loại anh chị bự đa nghen!

Ba rẽ lác ngồi xuống, hai tay bụm lại lách vào vỡ cày sửa soạn hớt con cá. Ba đã thấy trước con cá mun đen dãy dụa nhè nhẹ trên tay, khoái biết bao nhiêu! Nhưng Trí đưa tay cản lại. Trí nói:

- Khoan! Để nó đó! Đừng động, nó đi mất.

Ba ngạc nhiên không hiểu. Trí bảo:

- Tụi mình đi tìm vài cái bọt nữa, hớt con khác đem thả vô đây, cho nó đá với nhau, con nào ăn mình bắt về nuôi.

- Còn con nào thua, mình cũng bắt luôn, đem về… kho!

Hai đứa cười ha hả rồi cùng nhau đi tìm cá mới. Đi vài đường cày thì tìm được bọt khác. Đất mới cày xong vạch lát cày nào cũng gặp bọt hết. Đây nữa, một cái bọt vàng nghinh! Trí định hớt cá lên, nhưng sực nhớ không có đồ đựng. Lúc nãy vì chạy vội, quên ghé vô bờ bứt lá môn. Trí bèn ngoắc Ba. Ba chạy lại, xem cái bọt rồi nói:

- Mầy gặp bọt cá bãi trầu rồi!

Trí gặng hỏi:

- Chưa hớt lên, sao mầy biết?

- Ừ, để hớt lên coi.

Trí bụm tay hớt lên. Đúng là con cá bãi trầu to sồ. Trí hất nó xuống nước, hỏi:

- Sao mầy giỏi vậy?

- Bọt cá bãi trầu hột không đều và không chụm, nó tản mát ra. Mầy coi kỹ, nó không giống bọt lia thia! Cá bãi trầu cũng đá được, nhưng kho ăn ngon hơn

Ba lôi tay Trí lại góc bờ ranh, chỉ một cái bọt mới. Nhưng khi thò tay trong lưng quần tìm cái chai thì nó đã rơi lúc nào rồi. Có cá mà không có đồ đựng. Hai đứa đang tấn thối lưỡng nan thì nhanh như chớp Trí chạy vọt đi, còn quay lại dặn:

- Để tao đi tìm con ốc bươu moi ruột, đựng nó. Mầy đứng đó chờ tao.

Nhưng khi Trí trở lại thì Ba đã đi. Nhìn xuống gốc lác thấy nước đục, Trí biết Ba đã hớt con cá rồi. Trí chạy theo Ba, sốt ruột hỏi:

- Mầy hớt con cá chưa?

Ba gật đầu ư ư.

- Cá mun hay bạch chảng?

Ba không nói mà cứ chạy rút trở lại chỗ cái bọt lúc nãy. Ba dừng lại rồi nhả con cá vào lòng bàn tay. Con cá lóc lóc mấy cai rồi Ba thả nó xuống trũng nước. Trời cái thằng! Ngậm cá trong miệng! Rồi hai đứa dụm đầu lại xem độ cá tao ngộ bất ngờ. Trí càu nhàu:

- Mầy ngậm trong họng mầy lột da nó hết, đá sao lại con kia?

- Không sao đâu! Tao chơi kiểu nầy hoài mà! Coi kìa hai con phùng mang bọc với nhau rồi. Coi đã không?

- Ờ ờ… một con xanh đen, một con xanh đỏ; mầy bắt con nào?

- Tao bắt con ngậm trong miệng đó.

- Tao bắt con kia nghe!

Hai chàng hiệp sĩ ngoéo tay ăn thua suông chớ không giao kết ăn thua món gì. Bỗng Ba nói:

- Đá ăn bắt xác nghe. Hễ đứa nào ăn thì bắt luôn con kia, đem về cho vô ơ muối.

Trí hỏi:

- Bộ cá bãi trầu không đá được sao?

- Nó chỉ đá với ông Táo thôi! Hì hì… nhưng con nào chịu độ thì lia thia làm không lại. Mầy không thấy cái bộ tướng hầm hừ của nó sao? Nó mạnh còn hơn trâu nữa đó!

Nghe tiếng “trâu”, Trí lại nói:

- Hồi sáng tao chờ ổng “dắt trâu qua lỗ trục chí” coi mà chờ mãi không thấy. Đến mãn cuộc, ổng nói: bữa nay mượn không được trâu, để bữa khác sẽ dắt…

- Mai mầy có đi qua chợ coi nữa không?

- Tao không biết. Còn mầy?

- Mai tao mắc về bên ngoại tao rồi.

- Ngoại mầy ở đây chớ đâu mà về?

- Tầm bậy, đây là bên nội tao.

- Sao cùng một chợ Tân Hương mà mầy nội, tao ngoại?

- Ngoại mầy mà nội tao, hiểu chưa?

- Còn ngoại mầy ở đâu?

- Ngoại tao ở bên Bảo.

- Bảo là đâu?

- Bên Bảo là Bảo chớ ở đâu!

- À à… tao biết rồi! Tao học bài “Bến Tre gồm có hai cù lao Bảo và cù lao Minh. Bắc giáp Mỹ Tho nam giáp Trà Vinh, đông giáp biển Nam Hải, cách Sài gòn chừng 85 kí-lô-mét-tờ-rờ”.

Ba cười:

- Kí-lô-mét-tờ-rờ là cái gì?

- Là kí-lô-mét-tờ-rờ chớ là cái gì! Tao đâu biết.

Bỗng Ba kêu lên:

- Con cá “ngậm trong họng” thua chạy rồi kìa! Thôi vớt con của mầy lên đem về đi!

- Tao cho mầy đó. Tao không dám ngậm trong họng đâu.

- Sao vậy?

- Tao sợ nó chạy tuốt vô bụng rồi làm sao!

- Đỉa tao còn không sợ, lia thia sợ cái gì? Vậy mầy không nghe chuyện đỉa ăn hết óc mà người ta vẫn còn sống như thường sao?

Rồi Ba kể:

- Có người con dâu nhà đó đi cấy bị đỉa chun vô lỗ tai mà không biết, mấy bữa sau nghe ngứa ngứa trên đầu. Sẵn nồi cơm sôi, chị ta lấy cái nắp vung đội lên đầu ấm ấm cho đỡ ngứa. Bà mẹ chồng đế ý thây bữa nào con dâu cũng làm như vậy. Bữa đó vì ngứa nhiều, cô con dâu đội cái nắp vung nhiều lượt nên cơm sống. Bà mẹ chồng tức giận bèn giật cái nắp vung, sẵn đũa bếp trên tay, bà gõ nhẹ trên đầu con dâu, chẳng ngờ sọ đầu bể hai, cả nùi đĩa tuôn xuống đất bò lển nghển.

- Sao kỳ vậy?

- Đỉa vô đầu ăn óc, sanh đẻ lúc nhúc và khoét cái sọ càng ngày càng mỏng nên bị gõ nhẹ mà nó bể hai chớ sao!

- Uạ ụa…. tao mắc ói quá chừng!

- Mầy không tin, bữa nào bắt con đỉa chặt khúc bỏ trong lá môn, đổ nước, túm lại rồi treo trên cây đúng 100 ngày, mở ra, mấy khúc thành mấy con đỉa.

- Ghê quá! Thôi đừng nói nữa, mắc ói ăn cơm không vô.

- Bởi vậy ba tao dặn mỗi lần tắm mương, lấy bông gòn nhét lỗ tai lại. Còn đi ruộng thì phải đem theo cục vôi ăn trầu. Hễ thấy đỉa đeo thì chấm lên đầu nó, nó quéo lại hết đeo mình được.

Về tới nhà, thằng Ba đem hết cá lia thia của nó qua cho Trí. Nó sửa soạn về bên Bảo quê ngoại nó nên không nuôi nữa. Bên đó cũng có cá lia thia thiếu gì. Chỉ thiêu thằng Trí để rủ đi hớt cá thôi.

Trưa hôm đó nước lớn. Đáng lẽ thì hai đứa tắm mương vớt lục bình ném lên bờ để đắp gốc trầu, xong rồi trèo hái khế ngọt. Cây khế mọc ở bên bờ vườn ngoại Trí nhưng tàn gie qua bên bờ nội Ba, thành ra đứng bên nào cũng hái được. Khế xanh ngắt mà lại ngọt như đường. Vừa lội dưới mương vừa cạp, có khi nước vô miệng cũng nhai nuốt luôn, đã làm sao!

Nhưng bữa nay vụ tắm mương trèo khế ngọt hoãn lại. Trí buồn dàu dàu. Ở mé đập trước nhà Ba, môt chiếc xuồng đã chực sẵn. Trên xuồng lót một tấm ván trước mũi xuồng để mấy buồng chuối xiêm và mấy cặp dừa khô dừa nạo. Thằng Ba bận quần cụt, chân đi đất bước xuống xuồng ngồi ở giữa. Nó không dòm lên bờ. Hình như nó không quen với ai ở đây hết vậy. Còn Trí đứng ở mép đường nép bên gốc dừa, lặng ngắt, dường như không cũng biết Ba là ai.

Người bơi xuồng là một ông già, có lẽ từ quê ngoại Ba sang đây rước nó về. Lão thấy Trí đứng tự nãy giờ thì biết tâm sự của hai thằng cu con nên trước khi cho xuồng tách bến, quay lại bảo:

- Thằng Ba nó về bển ít ngày rồi trở qua! Cháu đừng buồn!

Rồi ông già xô xuồng ra bơi đi. Chiếc xuồng từ từ ra ngoài rạch rồi khuất hẳn ở ven bần, Trí mới ló cố ra nhìn theo. Xuồng rẽ nước lướt nhanh. Thằng Ba không quay lại, chắc nó về bên quê ngoại nó vui hơn.

Thằng Trí đã hiểu ra tại sao quê nội của nó mà quê ngoại của mình. Quê ngoại của mình mà quê nội của nó. Hổng biết quê nội hay quê ngoại vui hơn? Chắc quê nào cũng vui, chỉ không quê mới buồn. Tội nghiệp cho mấy con cá lia thia thằng Ba để lại, chắc nhớ chủ buồn lắm! Thằng Ba đựng cá lia thia trong họng, chuyện đó nhớ muôn đời!

Cậu Bảy, Cậu Tám, Dì Tư, Dì Năm

Khi tôi lên trường quận thì Ngoại tôi mới bắt đầu học chữ. Mà tự học chớ không có ai dạy hết. Cứ lấy vần ra mò rồi thuộc. Vậy mà rồi Ngoại tôi biết chữ và đọc, chép luôn cả cuốn thơ Vân Tiên trên 1000 câu.

Sau này khi lớn lên, Ngoại tôi vẫn còn tại đường, có lần tôi hỏi: Sao Ngoại học chi vậy Ngoại? Ngoại tôi nói: "Tao học để tụi nó (chỉ các cậu tôi) làm tờ bán đất nó biểu tao ký, tao cũng ký sao?" Thực ra Ngoại nói cho vui chớ các cậu tôi có làm thế bao giờ. Nhà Ngoại tôi âm u không đủ người ở nhưng Ngoại vẫn còn cất thêm, để có giỗ quải, đám cưới đám tiệc có chỗ khách ngồi. Ông ngoại tôi làm Hương Bộ, qua đời hồi bà ngoại tôi 38 tuổi. Sau này tôi nghe các cụ thuật lại thì nhiều người có địa vị trong vùng muốn gá nghĩa nhưng Ngoại tôi nhất định sống vậy nuôi con. Ngoại nói: lấy chồng, người ta ăn hết của còn đâu cho con. Và Ngoại tôi thọ đến 80 tuổi.

Ngoại tôi kể lại rằng tôi ra đời nơi ngôi nhà ngói xưa này. Được một hôm thì ông nội tôi ra ẳm tôi ra ngoài sáng hôn tôi và mừng rỡ lắm. Tôi là đứa cháu lớn đích tôn bên Ngoại lẫn bên Nội.

Nhà Ngoại tôi ở chợ Tân Hương, như các bạn thấy đó, tiếng trống hát Sơn Đông đánh thức tuổi thơ. Viết về quê Ngoại thì nhiều quá, biết bắt đầu từ đâu bây giờ. Tôi dành thật nhiều khoảng lớn trong trái tim tôi cho quê ngoại. Nếu quê nội là mảnh đất đã sanh ra hạt giống thì quê ngoại là vườn ương cây.

Má tôi thứ hai, có chồng ở làng bên. Thành ra dì Tư tôi là trưởng nữ trong gia đình Ngoại. Dì có tánh trầm lặng và sầu muộn. Dì đọc tiểu thuyết Nửa Chừng Xuân chớ không đọc truyện Tàu. Ngược lại dì Năm tôi thì tiếu thuyết cũng đọc mà truyện Tàu cũng thích. Nếu dì Tư có dáng điệu ủ rũ thì dì Năm lại nhanh nhẹn và hoạt động luôn. Dì khéo tay và hay chữ. Ngày nào Dì cũng ra vườn tìm hái ổi chín để đem vô làm mứt ổi hoặc trái đu đủ để tỉa bông đường. Nếu không có hai loại trái đó thì Dì làm bánh khéo. Khi có đám cưới, bà con thường đến nhờ Dì làm vài keo hoặc một quả bánh men, bánh bông lan. Thời đó đường cát trắng và các thứ vật liệu dùng làm bánh rất dễ mua. Tiệm chệt bên chợ đều có đủ. Còn trứng gà thì có sẵn trong nhà. Bà ngoại tôi rất cưng chiều Dì và tự hào về Dì. Ngoài hoa tay làm bánh, Dì còn có hoa tay thêu thùa. Dì đã từng thêu một tấm chấn rực rỡ không kém gì thợ Bắc. Dì phải thêu từng mũi kim một. Cơm sáng xong ngồi rị mọ tới cơm chiều, liên tiếp 6 tháng. Công trình này làm nên danh tiếng của Dì trong khắp vùng. Dì có một cái thùng nướng bánh bằng thiếc, giống như một chiếc xe hơi có cửa mở ra khép lại và có những cửa sổ bằng kiếng để nhìn vào biết những chiếc bánh bên trong chín hay khét để thêm hoặc bớt than trên nóc thùng cho đúng mức. Chiếc thùng này được đặt một nơi trang trọng ở trên nhà trên đề phòng mèo bắt chuột chạy làm bể kiếng. Còn than đước thì luôn luôn có sẵn trong nhà. Lúc nào cần thì có ngay.

Dì Tư và dì Năm ít nói chuyện với nhau. Chỉ khi nào vào bếp thì mới trao đổi về nồi cơm ơ cá, còn ngoài ra thì ai làm việc nấy. Dì Tư thì say mê những trang tiểu thuyết còn dì Năm thì hết làm bánh tới thêu thùa. Những trang sách của Dì là cân lượng đường đậu làm bánh.

Bà ngoại tôi thì lui cui làm vườn. Bà trồng ớt trông cà, nếu bắt gặp trái mít hay buồng chuối chín thì kêu cậu Tám đốn đem vào nhà. Và sẵn sàng cho tiền để dì Năm mua vật liệu làm bánh hoặc kim chỉ thêu thùa.

Nhà không có đàn ông nên cậu Tám được xem như là hoàng tử thời vua Nhân Tôn đời Tống. "Trong triều nội chỉ có nó là trai!" Việc gì bên ngoài bà ngoại tôi cũng giao cho cậu Tám, mặc dầu cậu chỉ hơn tôi vài tuổi. Và cái thú của cậu là chạy rong ngoài vườn để bắn chim.

Bây giờ nhớ lại những ngày thơ ấu, tôi thấy cậu Tám tôi quả là một nhân vật tiểu thuyết rất rõ nét. Cậu hoạt động luôn tay luôn chân và liền miệng. Lúc nào cậu cũng hát, hò, nói lối, ca vọng cổ. Trong nhà có bộn sách vở. Trong ngôi nhà thâm u của ông Cố tôi, tôi chỉ quen biết cái kệ truyện Tàu còn ở nhà bà ngoại tôi thì vật thân mến nhất là bộ ván và chiếc ghế ăn trầu của Ngoại.

Trên ghế có cái bình tích nước sứt vòi, với hai cái quai bằng đồng vàng ánh. Bạn là dân Tiền Giang thì hẳn chưa quên cái vỏ bình làm bằng trái dừa khô cắt rất khéo. Cái gáo dừa bên trong vừa đúng cho bình trà cư trú êm ấm, nước không nguội nhanh. Nó lúc nào cũng ấm ấm, vừa uống. Cái chóp nắp vỏ bình làm bằng pha lê. Đó là cái nút chai alchool de menthe được đem sang đó sau khi chai thuốc đã cạn. Muốn cho nước lâu nguội hơn thì phải dùng một chiếc khăn nhỏ tủ lên bình nước rồi mới đậy nắp vỏ dừa lại. Chỗ này, với ai từng biết cái vỏ bình tích làm bằng trái dừa khô, thì đọc qua hiểu liền, còn viết ra văn thì nó lỉnh kỉnh làm sao ấy, sợ tuổi trẻ ngày nay không hiểu cái "dụng cụ uống trà" của người cao niên hơn nửa thế kỷ trước Bà ngoại tôi không phải là người ghiền trà, nhưng bà ít khi uống nước lạnh, dù là nước mưa bí. Đi ngoài vườn vô nhà, bà rót một tách nước trà âm ấm uống mới khoẻ.

Bên cạnh cái vỏ bình đó còn có cái khay trầu. Đây cũng là một "chi bảo" trong gia đình xưa mà tuổi trẻ bây giờ không thể nào biết được. Viết thành văn chắc còn khó hơn mô tả cái vỏ bình tích trên kia. Phải định nghĩa thế nào cho đúng hai tiếng "khay trầu"? Khay - đó là một vật làm bằng gỗ vuông, lòng nó sâu chừng 5 phân. Bốn thành có chạm khắc hoặc cẩn xà cừ rất tinh vi. Khay dùng để cho chú rể đi cưới vợ gọi là khay trầu rượu. Cái khay này lại càng quan trọng và linh thiêng hơn khi dùng để cho vị Chánh Bái bưng, trên đó đặt tấm sắc thần của vua ban, đem để lên bàn thờ thần trong đình ỉàng. Khay là một vật dụng như vậy đó. Nhưng cũng lắm lúc nó chỉ làm nhiệm vụ bình dân như đựng trầu cau cho những ông cụ bà cụ dùng hằng ngày.

Nói đến khay trầu thì phải nhắc tới trầu cau. Cái không khí trong một gia đình Việt Nam (xưa) ấm cúng thân thuộc là hương khói trên bàn thờ và mùi cau trầu. Nhà Việt Nam nào mà không có bàn thờ? Vườn Việt Nam nào không có cây cau và nọc trầu. Tôi là một kẻ nhà quê nên không bao giờ tôi quên cái bàn thờ dù rực rỡ hay đơn sơ, đặt ở ngay gian chính của ngôi nhà. Người ở ngoài bước vào là đụng ngay bàn thờ ông bà. Người khách dù lạ dù quen cũng lột khăn giở nón xá bàn thờ trước rồi mới nói chuyện với gia chủ sau. Những người còn giữ đạo thánh hiền còn xin phép đốt nhang cắm trên bàn thờ nữa.

Đó là văn hoá, văn minh văn hiến Việt Nam hay Á châu mà ngày nay hình như người phương Tây mới chịu nhìn nhận và đi theo. Vì nếu cứ cái đà tự do của họ hôm nay thì rồi ở nhũng xứ "văn minh" này sẽ trở thành loạn cào cào vào cuối hoặc giữa thế kỷ 21 chớ không lâu! Bởi họ không có văn hoá gốc. Văn hoá của họ là một thứ pha trộn các phương xa mang tới. Chưa nói ở đâu xa, ngay ở Việt Nam bây giờ cứ như lối sống bên ngoài, ta cũng có thể nói văn hoá Việt Nam đã đổi màu, hoặc không còn nữa. Nhưng đó là chuyện của các nhà văn hoá chứ không phải là chuyện của cây bút quèn nầy. Dù sao thì sống giữa một thực trạng không khỏi có ưu tư, ưu tư nhưng không làm gì được!

Bây giờ xin trở lại cái bàn ăn trầu của bà ngoại tôi với chiếc khay trầu. Má tôi năm nay đã 90 tuổi. Nếu bà ngoại tôi còn tại đường thì đã thọ tới 110 tuổi rồi. Và chiếc khay trầu kia hẳn còn đó với cái vỏ dừa bên trong có chiếc bình tích trà ấm. Thật vậy, những món đó tầm thường ấy đã trở thành kỷ vật trong lòng tôi. Để tôi nói về cái khay trầu này thêm chút nữa.

Ở nhà ông nội bà nội tôi cũng có khay trầu. Ông Cố tôi cũng dùng khay trầu nhưng cụ đã dùng tới ống ngoáy. Lại phải mô tả cái dụng cụ này. Nếu không thì tôi đâu có gì để nói. Vì đây là những vật thân mến của tuổi thơ tôi. "Thằng T. bữa nay mày ngoáy trầu cho ông Cố nghe không?" Đó là lời của bà Mười tôi (người con dâu út của ông Cố) và đó là một danh dự. Đứa cháu cưng mới được ngoáy trầu cho cụ Cố. Trong thơ Tú Xương có câu mô tả sự lỉnh kỉnh của tuổi già: "Đi đâu mang những cối cùng chày" thì tôi đoán chắc là cối ngoáy trầu (chớ chẳng lẽ cối giã gạo). Vậy cối ngoáy trầu nó là cái gì? Nếu ta đi tìm trong tự điển Pháp Anh thì chắc không có cái tiếng này.

Khoảng thế kỷ 14-15 chi đó thì bên Pháp đã có máy hơi nước (machine à vapeur) rồi. Bằng chứng là trong Lettres de mon moulin (Những lá thư viết từ cối xay gió) A. Daudet đã mô tả lão già Corniche đáng thương trong truyện ngắn kiệt tác "Bí mật của lão Corniche" (Le secret du maĩtre Corniche). Truyện xảy ra mấy thế kỷ mà người Việt Nam đọc đi đọc lại vẫn còn xúc động bùi ngùi thương cho lão già quê sống với chiếc cối xay gió thiên nhiên của mình. Thì nay mai đây hay chính ngay bây giờ tôi cũng đang hoặc đã trở thành lão Corniche rồi. Có gì đâu. Truyện chỉ như thế này:

Lão ta có cái cối xay gió (moulin à vent) để xay lúa mì mướn cho lối xóm. Lão thích thú với cái dụng cụ khổng lồ dùng sức gió để hoạt động đó. Mỗi cuối tuần, dân trông xóm đánh những chú lừa lưng chở đầy các bao lúa đem đến cho lão xay. Trong lúc chờ đợi cối xay xong, già trẻ trai gái nhảy múa trước sân như ngày hội. Quê hương tôi giàu có và êm đẹp biết bao - Lão Corniche tự hào sống một cuộc đời giản dị như thế.

Cho đến một hôm… những người khách hàng không đến nữa. Lão Corniche buồn rầu. Lão tìm hiểu nguyên nhân. Thì ra ở gần đó người ta dựng lên một cái nhà máy mới toanh, xay lúa nhanh hơn và sạch hơn cái cối xay thổ tả của lão. Lão không muốn ló mặt ra ngoài đi đâu nữa hết. Lão vào trong thân cối, đóng cửa lại và không làm gì hết, để cho nỗi ưu sầu gậm nhấm tấm thân già. Những khách hàng quen hiểu tâm sự của lão bèn đem lúa đến cho lão xay như xưa. Lão vui vẻ trở lại làm việc và bảo họ: "Đó là đồ ma quỉ! Chúng nó sẽ ăn hết ruột gan của bà con!… Hãy đến với ta. Cái cối này là hơi thở của Chúa! Nó mát mẻ trong lành v.v…" Trong bảy ngày liền lão đi khắp trong xóm la hét mấy câu ấy. Nhưng rồi người ta vẫn đến nhà máy xay, bỏ lại phía sau chiếc cối xay lúa với lão già đáng thương.

…. Rồi hằng ngày lão nhìn dưới sông, những làn hơi bay toả, bốc lên từ những ống khói tàu thuỷ. Chúng chở lúa đến cho nhà máy… Rồi những đàn lừa thưa dần. Những buổi nhảy vui tươi trước kia cũng không còn nữa.

Một ngày kia bỗng nhiên nhìn lên trời, người ta lại thấy những cái cánh chiếc cối xay gió của lão Corniche quay tít. Lão đã hoạt động trở lại chăng? Vài ba người bạn kéo đến thì thấy cửa khoá trái. Họ cạy cửa ra thì thấy lão già nằm queo dưới đất, tắt thở. Bên trong răng cối, mấy bao lúa mì đang xay dở dang. Thì ra lão Corniche muốn nhìn lại chiếc cối của mình hoạt động Lão muốn sống lại cảnh vui tươi nhộn nhịp ngày xưa nhưng không được nữa vì lão đã chết.

Tôi cũng như lão Corniche trong lúc ngồi viết những dòng này. Tôi muốn sống lại cái không khí âm u của ngôi nhà ông Cố tôi. Tôi muốn uống tách trà ấm rót ra từ chiếc bình tích trên bàn nhà bà Ngoại tôi nhưng làm sao, làm sao?

Chiếc khay trầu đã mất tích từ lâu. Cả ngôi nhà mênh mông cũng không còn một tấm ngói. Tất cả đã tan biến. Nhưng nó không bao giờ mất trong lòng tôi. Chiếc khay trầu của bà ngoại tôi không cẩn ốc xa cừ, nó bằng mây đan có nhiều tầng mà tôi thường hay lục lọi ở những ngăn cuối. Đôi khi bắt gặp một đồng nửa xu lẫn trong mớ xác cau khô. Ôi, còn sung sướng hơn Christophe Colomb tìm được châu Mỹ.

Cái khay trầu này (đúng ra phải gọi là quả trầu) có thể đậy kín lại và mang theo nếu Bà phải đi đâu lâu ngày. Ở tầng trên chia ra nhiều ô, một ô thì để bình vôi con tí xíu với chiếc chìa vôi bằng đồng. Còn các ngăn kia thì đựng trầu và cau khô hoặc cau tươi. Cau khô thì đựng trong một chiếc chén nhỏ ngâm nước cho mềm ra còn nếu cau tươi thì để nguyên trái hoặc bửa ra từng miếng nhỏ, gọi là cau dầy.

Tôi thường hay nhìn bà Ngoại tỏi bửa cau dầy với con dao Con Chó. Gọi là dao Con Chó vì ở lưỡi nó bằng ngón tay trỏ có khắc hình con chó. Người Nam kỳ thường dùng nó để xắt những thức ăn mỏng hoặc bỏ trong túi như một vũ khí tự vệ. Bà Cụ Tam (em dâu của ông Cụ tôi) có con dao Con Chó rất nổi tiếng. Bà Cụ đi đám giỗ trong gia tộc thì ai nấy đều phải nhường cho bà xắt chuối chát. Đây là loại chuối hột non dùng để ăn kèm với rau thơm, khế cặp với thịt phay hay chấm mắm kho, đều ngon cả. Tuy chuối chát là loại "đồ bổi" nhưng thiếu nó thì mất ngon. Bà Cụ Tam dùng con dao Con Chó để xắt chuối chát, không ai sánh bằng, lát chuối vừa mỏng lại vừa nguyên, không dày cũng không lãi (lãi nghĩa là không nguyên lát). Nhưng đặc biệt nhất là bà không để trên thớt như người thường mà tay cầm quả chuối tay cầm con dao xắt nhanh, đều như máy và không bao giờ đứt tay.

Bà Ngoại tôi cũng dùng dao Con Chó để bửa cau dày (người Bắc gọi là bổ). Bà bửa khéo lắm. Trái cau nguyên, tiện cái chũm xong bửa ra thành tám miếng nhỏ rất đều, bốn miếng dính vào làm một dây. Mỗi miếng trầu dùng một miếng cau. Không biết bà dùng con dao này từ lúc nào, nhưng khi tôi biết thì lưỡi dao còn nhỏ xíu và eo ở giữa lưỡi như ngón tay bị khuyết ở lóng giữa vậy. Có lẽ bà đã dùng bửa cả vạn trái cau rồi.

Con dao này chỉ dùng để bửa cau, không ai được dùng vào việc gì khác. Bà Ngoại tôi lúc bấy giờ chưa ăn trầu ngoáy nhưng tôi có thể mô tả chiếc cối trầu cũng được. Có hai loại cối: cối bằng đồng và cối bằng gỗ. Cối bằng đồng thì chìa ngoáy cũng bằng đồng Chiếc cối nhỏ bằng ly uống rượu mạnh bây giờ có eo ngang ở gần chân cối. Ở ngang eo này buộc một miếng vải tây đỏ để dành lau chùi cối và chìa ngoáy. Chiếc cối đồng thường dùng để mang theo đi đường còn cối gỗ thì dùng ở tại nhà. Cối gỗ là một mảnh gỗ hình khối có khoét lỗ. Ngoáy trầu xong chỉ chùi lau sơ sịa chứ không bao giờ được rửa sạch sẽ như chén ăn cơm. Cho nên trông thấy gớm ghiếc lắm. Nhìn các cụ cho bã trầu ngoáy nát vào miệng, trẻ con cứ rùng mình, không hiểu tại sao nó mất vệ sinh như thế mà các cụ cho vào mồm được. Nếu bây giờ mà còn ở Việt Nam thì tới phiên tôi cũng ăn trầu như các cụ hồi trước. Tôi hiểu tại sao các cụ lại ăn trầu, hiểu câu tục ngữ "miếng trầu đầu câu chuyện" và rõ thêm ý nghĩa cái lá trầu duyên dáng và thi tứ của Hồ Xuân Hương:

Miếng cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.

Nhưng nói tới trầu cau phải nói tới mo trầu, cái món này bây giờ chắc không còn hiện hữu ở Việt Nam nữa. Đó là một chiếc mo cau tươi bẻ cóp hai đầu và xếp lại như cái bóp. Nhờ mo cau dày và có lớp lụa mỏng bên trong (như vách nhà có insulation) nên trầu đựng bên trong lâu héo. Bề ngang của nó chừng một gang tay còn bề dài thì gấp đôi. Những ông bà đi làm viêc đồng áng suốt ngày, nhịn cơm thì dễ chớ không thể nhịn trầu, nhịn thuốc. Cho nên phải có cái mo trầu giắt lưng. Phát, cuốc, cấy, gặt, một lúc thấy mệt thì lại bờ ranh mở banh mo trầu ra. Đàn ông thì hút thuốc, đàn bà thì ăn trầu. Có ông ăn trầu và hút thuốc luôn. Bởi thế mới có câu: Nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu mua ruộng.

Lá trầu coi vậy mà đắt lắm. Nhứt là trầu vàng xà-lẹc. Ở Gia định ngày xưa có một vùng trồng trầu tục gọi là 18 thôn vườn trầu. Nhưng chiếc ghế của bà Ngoại tôi không những có trầu và nước mà còn nhiều thứ khác cho tôi… dùng.

Hai bên bàn có hai cái hộc, quai kéo bằng nhôm. Trong hộc tủ có đủ thứ trò chơi: giàn thun, đạn đất để bắn chim, đạn đá bắn cu-li, nhợ thả diều, hộp lon, đinh đóng guốc, kềm, búa… Nó như cái kho muốn gì cứ vào đó moi. Còn bên kia thì sách vở: nào là các tập bài ca vọng cổ của Imprimerie (nhà in) Phạm văn Thìn hồi 1911, nào thơ Chàng Nhái, Thạch Sanh, Lý Thông, Trần Minh khố chuối, sách Phần đạo Thiên Chúa, vở cũ, sách cũ.

Tôi không bao giờ giở ra nhưng nghe bà ngoại tôi đọc mà thuộc nhiều đoạn thơ Vân Tiên hoặc nghe câu Tám ca mà nhớ. Chiêu Quân Cống Hồ nói lối:

… Ơn Quân vương đáp lại mảy may
Lộc nhà vua no ấm bấy lâu nay
Gặp nạn nước phải liều thân cho
… Trẫm nay tốt phước
Nên nghe được tiếng ngọc lời vàng
Còn bằng muốn cho nước thịnh nhà an
Thì trẫm phải chịu chia loan rẽ thuý…

Tôi biết nghe vọng cổ là từ giọng ca của cậu tôi. Không ngờ về sau tôi lại mê vọng cổ vô cùng. Cộng vào đó còn các bộ dĩa nhựa Asia, Béka, Pathé tôi được nghe rải rác khấp trong gia tộc từ bên Nội đến bên Ngoại nữa.

Bên cạnh chiếc bàn trầu nước là một chiếc tủ gỗ cũ kỹ có lẽ cao niên hơn tôi. Hai cánh cửa rất nặng nề nhưng không có khoá. Trên nóc tủ chất chồng đủ thứ, nào là vỏ ruột xe máy (xe đạp), nón lá nón nỉ cũ, quạt giấy quạt mo, cái gì không xài nữa nhưng còn tí giá trị có thể xài lại được thì cứ ném vô tội vạ lên đó, không biết đến bao giờ mới được kêu tên để ra "chiến trường đền nợ nước". Đó là chưa kể trường hợp bị các chàng họ Tý khoét thủng hỏng thêm ra và trở thành vô dụng. Còn ở trong tủ thì có lắm đồ quí giá. Mở cửa tủ thấy tối om om như hang đá, nhìn kỹ một chút thì thấy bên trái có những chồng tô kiểu, chén kiểu, đĩa kiểu loại đồ xưa rất hiếm. Mỗi cái ngăn cách cái kia bằng một lớp giấy, sợ rằng khu tộ trên sẽ làm trầy lòng tộ dưới. Bà ngoại đã sửa soạn cưới vợ cho cậu Bảy và cậu Tám tôi từ lúc hai cậu hãy còn trẻ thơ. Ngó qua bên phải thì cũng y như vậy nghĩa là những tô tộ dĩa chén kiểu, rồi sau lưng tủ còn một cái cũi to cũng xếp đầy tô chén. Bà ngoại chuẩn bị đãi hai trăm khách mà không phải mượn đồ ở lối xóm.

Nhung trong tủ đặc biệt ở ngăn giữa lúc nào cũng có mứt, không khi nào vắng. Mứt ổi thường xuyên, mứt bí thỉnh thoảng mới có, rồi mứt chùm ruột, mứt me, dưa me. Hễ mở tủ ra là mùi đường bay nồng lỗ mũi. Đó là tác phẩm của dì Năm tôi. Dì luôn luôn làm bánh mứt.

Tôi thích cái tủ này nhất. Hễ mở tủ ra thì có… ăn liền. Ăn xong quay ra bình trà rót một tách đầy, ực vội rồi chạy đi bắn chim. Cặp giò khoẻ khoắn vô cùng. Trèo ổi cũng nhanh mà tắm mương cũng hăng. Trước nhà có con rạch (Tân Hương) nhưng Ngoại tôi cấm cậu tôi không cho tôi ra sông vì bên nội có noi chết chìm, sợ tôi bị nước rút hụt giò.

Dì Năm tôi làm bánh mứt, nhưng chưa bao giờ tôi thấy Dì ăn một miếng mứt hay một cái bánh. Tôi cũng không hỏi tại sao. Mãi khi lớn lên tôi mới biết là người nấu bếp thấy khách ăn ngon là đã no rồi, cũng như nhà văn biết sách của mình có người đọc là mãn nguyện rồi.

Dì làm bánh mứt say mê như người ta viết văn vậy. Mỗi khi làm xong một món bánh mới, Dì đem để lên dĩa rồi khoe với Ngoại tôi, xong rót nước trà mời Ngoai dùng thử để được Ngoại khen.

Riêng tôi và cậu Tám thì thích phá. Đúng ra thì cậu lãnh đạo, còn tôi chỉ núp sau lung cậu thôi. Trong lúc dì Năm chăm chú nhìn qua cửa kiếng của thùng nướng bánh để thêm bớt than trên nắp thì cậu đúng xa xa nói to:

- Tui vái cho khét! Tui vái cho khét!

vì bánh có khét thì dì Năm mới "thưởng" cho, chớ bánh ngon đẹp thì Dì xếp vào quả chớ đâu có cho ăn!

Cậu Tám cứ rầm rì như vậy hoài, dì Năm phát khóc. Nhưng cậu vẫn:

- Tui vái cho khét! Tui vái cho khét!

Dì Năm quát:

- Mày có đi chỗ khác chơi không?

Nhưng cậu vẫn cứ:

- Tui vái cho khét! Tui vái…

Dì Năm phải đấu dịu:

- Đi chơi đi rồi chị thưởng cho cái bánh nguyên.

Nhưng Cậu biết Dì đời nào cho cái bánh nguyên.

- Tui vái cho khé…ét!

Dì Năm tức quá rượt hai cậu cháu chạy nhưng sợ bỏ thùng bánh… khét, phải quay lại. Hai cậu cháu tức thì đi theo và cậu hát cải lương:

Thiếp căm tức thay
Cho thằng Mao Diên Thọ
Làm độc mưu đưa thiếp cống Hồ nơi Phiên quốc.

Dì Năm lại đuổi, cậu lại co chân lên vuốt râu theo kiểu hát bội:

Như Quan mỗ đây
Huơi Thanh Long hạ sát tướng Tàu
Giục Xích Thố xông pha ngàn trận.

Dì Năm xách đũa bếp đuổi theo. Hai cậu cháu lại chạy ít bước rồi quay lại, cậu lại hát:

Tôn Tẫn chẳng có thua ai
Chỉ thua bà Chung Vô Diệm

Dì Năm biết đuổi không kịp hai tên tiểu yêu nên quay lại với thùng bánh, thì bánh đã khét thật rồi. Dì oà lên khóc và kêu lên qua dòng nước mắt:

- Má ơi! ra coi thằng Hà (tên Cậu Tám) nó nói con là Chung Vô Diệm nè!

Bà Ngoại đang vá quần áo trên nhà trên, đứng dậy đi xuống nhà bếp. Bà cưng con trai út và thằng cháu nhưng cũng không thể xử ép con gái nên bảo cậu đi chợ mua đường cát. Bà đưa cho một đồng bạc trắng tinh. Thế là hai thằng tiểu yêu xớt ngay dông đi chợ. Gói đường cát có hai cắc rưỡi, còn dư những bảy cắc rưỡi. Tha hồ mà mua giấy mua nhợ thả diều và kẹo dừa nữa. Như vậy là bà đã giải quyết xong trận nội chiến một cách nhanh chóng và cả hai phe đều vui vẻ . Mặc dù bà "Chung Vô Diệm" bị khét bánh nhưng vẫn được yên ổn để nướng những mẻ sau.

Từ đó, việc sai cậu Tám đi chợ trở thành tiền lệ. Dì Năm không thể "mướn" hai tên tiểu yêu bằng bánh khét nữa mà phải bằng xu hẳn hòi.

Cậu Tám luôn luôn là nguyên tố của "chiến tranh" và là kẻ thường có ý kiến ngược lại với mọi người. Ngược lại cậu Bảy là người của Hoà Bình. Cậu lại là người của khoa học.

Sau khi học hết lớp của trường tư thục Nguyền văn Ngữ ở Mỹ Tho, cậu được một vị Linh mục đỡ đầu ra học trường Phú Xuân ở Huế. Thành ra mỗi năm Trí chỉ gặp cậu một lần vào lúc nghỉ hè. Vì ở xa, bãi trường Tết cậu không về nhà.

Mỗi lần gặp, Trí ngán cậu lắm. Cậu cho toán đố bắt làm, đưa sách bắt đọc, và cậu xem lại tỉ mỉ từng bài, hỏi từng nội dung sách.

Khi Trí lên Trung học, cậu bắt đọc sách Pháp, những truyện của Maupassant, của Pierre Loti, Trí đọc vào thời kỳ này. Chẳng ngờ đó lại là những truyện ảnh hưởng sâu sắc trong đời Trí sau này. Mới biết văn hoá là vũ khí lợi hại thật. Nó như nước, ở đâu chảy cũng tới, đá cũng thấm vào được. Mãi đến khi tập tểnh viết phóng sự Trí mới biết ham mê đọc Maupassant và lục lạo moi tìm trong các thúng đồng nát để mua những truyện của ông với giá một hai hào. Đây là nhà văn Pháp mà Trí đọc nhiều nhất. Hầu như tất cả truyện ngắn truyện dài của ông không sót một truyện nào. Lạ lùng thay có truyện chỉ dài hai trang sách mà đọc xong nhớ cả đời. Cậu Bảy chú ý giáo dục nhất. Cậu không lúc nào bỏ lỡ cơ hội để dạy Trí một điều gì dù lớn hay nhỏ.

Mỗi lần về nhà, cậu đều tập thể dục buổi sáng, nhảy xuống sông bơi lội rồi vào nhà ăn một trái chuối, xong vác cuốc ra vườn, cuốc xới trồng cà trồng rau cải. Mỗi bữa cơm sáng, cơm chiều, các dì dọn lên, cậu đều thêm món của cậu, không gì khác hơn cà chua xắt lát, rau càng cua bóp gấm, (thứ rau này mọc đầy quanh thềm nhà, chỉ cần hái đem vô là thành món ăn).

Mỗi lần dọn ra một món, cậu đều giải thích món ấy có vitamine gì, và nếu cơ thể mình thiếu loại vitamine nào, sẽ sanh ra bệnh gì, v.v… Cậu còn bảo nấu cơm đừng chắt nước, nên ăn cơm gạo lức mỗi tuần một, hai lần càng nhiều càng tốt.

Cậu Tám cười:

- Thiếu cơm là thiếu Vitamine c, còn không ăn cà chua thì thiếu Vitamine cc.

Thời bấy giờ ở nông thôn, người dân đâu có đếm xỉa gì tới chất bổ dưỡng, ai cũng chỉ cần ăn no bụng thì thôi. Thầy thuốc của cả làng Minh Đức này là ông thầy Thẹo. Ông là một người Tàu già, nhỏ con như gà tre, có cái thẹo vắt ngang trán nên bà con gọi là Thầy Thẹo. Đó là ông bạn thân mến của Cậu Tám. Không ngày nào cậu không tới tiệm Thầy Thẹo một hai lần. Riết rồi quen mặt và trở thành "bạn" thân. Lần nào gặp cậu Tám, ông cũng hết sức mừng rỡ và bán món gì cho cậu, ông Thầy cũng thêm một ít. Nhất là đường cát thì ông thêm cho đến dĩa cân giác nhổng mới thôi Ông là chủ tiệm tạp hoá vừa là thầy thuốc. Ông bắt mạch cho thân chủ tại quày tính tiền và bốc thuốc từ cái ngăn kéo ở sau lưng gói đưa cho họ ngay đem về nhà sắc uống liền.

Thuốc Tây mấy ai được trông thấy. Còn nói chi loại y tá (infirmier) thì được trọng vọng như thần thánh.

Từ nhỏ tới lớn, tôi sống ở quê ngoại không thấy ai bệnh hoạn gì cả. Như tôi đây, tắm mương lội ruộng giang nắng giầm mưa, đâu có kể gì vệ sinh thường thức như học ở nhà trường, nhưng vẫn mạnh như trâu (cho đến nay 69 tuổi chưa hề nằm nhà thương, cùng lắm chỉ đi bác sĩ rồi về mua thuốc uống)…

Chợ Tân Hương (quê ngoại) không sầm uất bằng chợ Cầu Mống (quê nội) nhưng Tân Hương có một điểm văn minh hơn Cầu Mông. Đó là tiệm chụp hình. Trời ơi! Thời đó ở chợ làng mà có tiệm chụp hình là chuyện ghê gớm lắm. Vậy mà Tân Hương có tiệm chụp hình có bảng hiệu hẳn hoi lấy tên là Photo Mỹ Dung ở đối diện với tiệm Thầy Thẹo. Ở Cầu Mống, ai có cần hình để dán lên giấy tờ gì đó thì phải tốn tiền đi xe lên quận Mỏ Cày để chụp một cái hình đờ-mi. Nhưng ở Tân Hương thì có sẵn Photo Mỹ Dung. Ông chủ tiệm mặc đồ Tây, thắt cà vạt hẳn hoi và có bà vợ mặc đồ mết đánh má hồng thoa môi son.

Đây là một cặp vợ chồng được hàng trăm cặp mắt để ý và hằng ngàn tiếng trầm trồ xiên xỏ. Không biết họ ở đâu tới chớ không phải dân làng này. Nhưng Photo Mỹ Dung chỉ mở cửa được ít lâu rồi đóng cửa luôn. Thời buổi này người ta đi chợ để mua cá tép, nước mắm dầu lửa chớ ai đi chụp hình. Thanh niên trai gái có tình ý với nhau thì ra đồng hò hát rồi nếu phải lòng nhau thì cha mẹ cưới cho. Gặp nhau hằng ngày đâu phải thầm thương nhớ trộm mà phải chụp một tấm hình để tặng nhau?

Ở làng Minh Đức, bà con chỉ mặc áo quần đơn sơ, ít có người mặc quần dài và áo bà ba tay dài, chỉ toàn quần lỡ (quá gối) nhuộm phèn vàng cháy và áo bà ba cụt tay. Xe hơi không tới đây được. Không có chủ đưa xe ngựa. Những chiếc xe ngựa từ ngã tư Tân Trung, từ Cái Quao xuống rồi về. Muốn thuê một cỗ xe ngựa phải cuốc bộ lên ngã ba Tân Trung, ở đó có chủ xe ngựa tên là Ba Đệ. Ông Ba có đến ba con ngựa và hai chiếc xe. Nhà của ông rất lụp xụp, nhưng tên ông luôn được bà con nhắc tới vì không mấy ai không đi xe Ba Đệ ít nhất là một lần trong đời. Tân Trung là một làng giáp ranh với làng Minh Đức, nhưng nó chỉ có ban hội tề, nhà việc chớ không có chợ. Dân Tân Trung phải đi chợ Tân Hương. Nhung ngược lại dân Minh Đức phải đi xe ngựa của Tân Trung.

Ngoài nhà xe Ba Đệ còn có nhà xe Hù-Lê ở ngay phía trước nhà việc Tân Trung. Hù Lê vừa hớt tóc (thầy Hù) vừa đưa xe ngựa. Hai cái nghề này rất không hoà hợp nhau nhưng Hù Lê vẫn làm. Hễ đưa xe thì khỏi hớt tóc cho khách. Nhung nếu khách tới kêu xe mà có hai, ba người khách đến chờ hớt tóc thì Hù Lê mắc kế ngựa và hẹn bữa khác sẽ hớt tóc, vì đưa xe được tiền nhiều hơn. Vả, hớt tóc thì nay không hớt còn ngày mai, đâu có gấp rút gì.. Ở nông thôn mọi công việc từ từ tốn tốn như đi ăn giỗ, không có việc gì gấp rút cả.

Bỗng một hôm có chuyện lạ trong gia đình. Cậu Bảy nói nhỏ với dì Năm rằng cậu muốn cưới một người con gái Huế về làm vợ. Cậu là sinh viên trường Phú Xuân ở ngay đế đô thì có quan hệ tình cảm với một o Huế thì cũng là chuyện thường. Thiếu chi dân Nam kỳ ra Hà nội học, đến lúc về mang theo một nàng nói "trọ trẹ" nghe thiệt rầy tai.

Lâu nay dì Năm để ý thấy cậu Báy thường hay ngồi sững sờ giây lâu và thường hát những bài tình tứ. Ngồi ờ đâu thì dùng ngón tay vẽ chữ "L" ở đó, trên da cây ổi, trên những lát đất mới cuốc xới; thậm chí trên bàn trầu nước của Ngoại, cậu cũng chấm tay trong nước trà mà vẽ chữ "L" trên mặt bàn. Thôi vậy thì lậm bang quá rồi. Vì vậy dì Năm mới thỏ thẻ với Ngoại. Câu chuyện này khi Trí lớn lên mới nghe rõ hơn chớ lúc đó nào biết gì.

Ngoại lo rầu lắm. Chuyện ngăn sông cách biển như vậy làm sao bắc nổi nhịp cầu Ô Thước? Nhưng chiều con thì Ngoại cũng gắng làm vừa lòng con. Cậu Bảy là con trai lớn trong nhà. Nhưng Ngoại bảo là để chờ gả dì Tư xong rồi mới tính được. Ít lâu sau Ngoại gả dì Tư cho một người đang ở Sài gòn, gốc Trà Vinh (quận Cầu Ngan). Đám cưới dì Tư lớn lắm. Cả hai bên gia tộc nội ngoại đều tụ họp để đưa dâu.

Trong nhà Nội của Trí có cái giường hộc đế cất cây súng hai lòng. Đó là nơi bất khả xâm phạm. Chìa khoá giường hộc do bà Nội giữ cùng với xâu chìa khoá tủ sắt.. Bà chỉ đưa cho ông Nội khi cần mở tủ và giường hộc mà thôi. Nhà Ngoại thì không có giường hộc và tủ sắt nhưng có một căn phòng gọi là "buồng gói". Cái buồng này hỏng khỏi mặt đất chừng một thước tây. Ở dưới đít buồng thường để những trái dưa hấu hoặc những củ khoai từ giống lâu đến đổi ngọn khoai mọc lên có lá. Ban ngày muốn vào buồng phải trèo qua một bộ ván gõ lót cao ngang ngạch cửa buồng. Và phải dùng đèn pin soi vào thì mới thấy đường. Trong cái buồng này không có ai ngủ hết, thậm chí cũng không có ai muốn vào vì ở trong đó thiếu dưỡng khí. Đến bộ ván gõ chắn ngang cửa buồng cũng không có ai chịu ngủ.

Trong đám cưới dì Tư khách tới rất đông. Các bà các cô đem đồ hàng áo lụa theo để mai đi đưa dâu sang tận bên Trà Vinh. Những gói quần áo mới đều tập trung lại chất trên bộ ván này và giao cho Trí giữ để khỏi có người ra vào lộn xộn. Trí cực chẳng đã phải làm tên lính gác bất đắc chí. Mà Trí thì có tật "đấm dài", ban ngày chơi giỡn thoả chí tang bồng, ban đêm nằm chiêm bao thấy rõ ràng mình như thế như thế hẳn hoi, nhưng chỉ một lát sau thì nghe lưng… như nằm trên nước nóng. Ván gõ "trời mưa" nước chảy đi đường nào cho được? Mười đêm đủ cả mười. Riết rồi mền ướt hết phơi không kịp khô. Thì bữa nay chàng ta lại tái diễn cái màn ấy trên bộ ván chất đầy hàng chiến lược này. Báo hại sáng hôm sau các bà các cô gặp trở ngại to, vì đêm qua bị "trời mưa" ướt hết đồ "mết" đồ mát, nhưng không ai dám rầy thằng cháu cưng của Ngoại. Kẻ đi hơ lửa, người đem phơi nắng, người lại căng ra và quạt làm gió cho mau khô để kịp giờ mặc đi đưa dâu.

Sau đám cưới dì Tư ít lâu, Ngoại mới tính đến việc đi ra đế-đô lo việc cho cậu Bảy. Phải nói một cách công bình rằng cậu Bảy là một thanh niên tuấn tú, khôi ngô, học giỏi, chỉ thiếu một điều kiện là "con nhà giàu" để muốn cô nào thì cưới được cô nấy.

(Chuyện đã qua trên 50 năm. Cậu Bảy năm nay đã gần 80. Vừa rồi, Trí có nhận được tấm ảnh của cậu. Thật không ngờ năm tháng đã làm cho một thanh niên khôi ngô tuấn tú trở thành một ông già như thế. Nếu không biết trước thì không thể nào nhận ra đó chỉ là một người.)

Đến ngày khởi hành đi Huế, Trí được dì Năm chỉ định đi theo làm hộ vệ cho Ngoại. Nhiệm vụ cụ thể là cầm cái bình thuỷ nước nóng để pha trà cho Ngoại. Ngoài ra mang thêm cái quả trầu.

Mới 8-9 tuổi mà được đi Huế. Mấy ai? Quả là đặc biệt. Dì Năm đưa Ngoại đến Mỹ Tho, dặn dò đủ một trăm chuyện, rồi đợi cho tàu hoả chuyển bánh mới quay về.

Đối với Trí, thật là một chuyện "phiêu lưu" kỳ thú. Từ bé đến lớn chỉ thấy xe ngựa xe hơi chớ đâu có thấy tàu. Nay được thấy tàu thuỷ lẫn tàu hoả (xe lửa) và được thấy bao nhiêu thứ lạ khác. Sông rộng mênh mông và những ngôi nhà lớn nguy nga ở thành phố. Trí rất lấy làm ngạc nhiên về sự lớn rộng của con sông Tiền Giang và thành phố Mỹ Tho được trông thấy lần đầu, dù chỉ lấy mắt ngó cũng đã thú vị. Lại còn các xe nước đá, cà-rem nhởn nhơ khắp trên đường và ở bến xe. Đầu chiếc xe lửa thở khói trắng nằm im như đầu một con quái vật đang nằm ngủ với những toa nối dài ra phía sau trông như con rít có trăm mắt.

Trí hồi hộp, nôn nao chờ tới lúc nó chuyển bánh thử xem làm sao. Bỗng một tiếng còi thét vang dậy xé không gian. Hành khách nhốn nháo hấp tấp chạy đến leo lên xe. Rồi xe lăn bánh nghe ầm ầm. Trí ôm chặt chiếc thermos trong lòng ngồi bên cạnh Ngoại. Thật là một hạnh phúc đầy đủ và quá lớn. Bây giờ nghĩ lại Trí chỉ còn nhớ đầu xe lửa và các toa chớ không nhớ được nhữnq cảm xúc của mình lúc bấy giờ. Vê sau khi lớn lên ra Mỹ Tho học, trông thấy xe tàu hàng ngày rồi tất cả trở thành bình thường, không có gì hấp dẫn nữa.

Những gì trông thấy ở Huế thời đó, Trí cũng không còn nhớ. Chỉ nhớ cái dinh thự Ngoại đến to lớn lắm và trước cổng có lính gác như cổng thành trong truyện Tàu.

Khi về trở lại nhà, Ngoại tôi buồn rầu nói với các dì tôi:

- Người ta là quan quyền, tao làm suôi sao được! Cưới con người ta về đây rồi cho nó ở đâu cho xứng? Nhà cửa người ta như đền vua chớ phải như nhà mình hay sao?

Rồi thôi, câu chuyện cũng mờ đi, Trí không nghe ai trong nhà nhắc tới chuyện đó nữa mà Trí cũng không nhớ rằng cậu Bảy có còn giữ thói quen viết chữ "L" trên khắp mọi nơi như trước nữa không!

Có lẽ cậu nghe Ngoại nói thế rồi cũng… im luôn. Chuyện ở quê Ngoại Trí còn nhiều, nhưng chỉ xin kể hầu độc giả về sự tồn tại của một gánh hát cải lương trụ bộ ở một nơi trên 20 năm - nghĩa là ông bầu gánh hát ớ luôn một chỗ không đi đâu hết và hát những tuồng xưa tích cũ không mấy khi thay đổi. Ngày trước, chủ gánh hát thì được gọi là ông Bầu nếu là đàn bà thì được gọi là bà Bầu. "Bầu gánh". Không hiểu tiếng bầu có nghĩa gì, nhưng nó thông dụng như thế. Và tiếng Bầu được đi kèm với tên người chủ. Thí dụ ông chủ tên Đẩu thì gọi là Bầu Đẩu…

Gánh hát này có tên là gánh Bầu Đê. Nó có ảnh hưởng rất sâu sắc trong cuộc dời thơ ấu của Trí. Thằng bé con này không những mê bắn chim bằng giàn thun, câu cá bống dừa, đá cá lia thia mà còn mê hát Sơn Đông và hát Cải Lương nữa.

Gánh hát này đóng đô trong một khu vườn rậm rạp gần lộ xe. Ngày nào cậu Tám cũng đi coi. Bữa nào Ngoại cho phép cậu dẫn Trí đi coi hát thì ôi thôi bữa chiều đó ăn cơm không no được. Dì Năm xúc cho 3 lon sữa bò gạo (1 lít) đem nạp cho ông Bầu thay vì mua giấy vô cửa giá 1 cắc bạc như các gánh khác đến chợ Tân Hương. Từ nhà lên đến gánh hát phải cuốc bộ ngót 1 tiếng đồng hồ. Nhưng đi coi hát thì không thấy đường xa. Đường chỉ xa lúc xem xong trở về nhà.

Nó có tên là gánh Bầu Đê, nhưng có lẽ kỵ chữ Đ nên bà con gọi nó là gánh Bầu Lúa. Đúng ra nó là gánh Bầu Gạo, vì bán vé vô cửa bàng gạo thay vì tiền. Tiếng gạo có vẻ sang hơn "lúa" chãng? Trí không để ý, chỉ thích đi xem. Bây giờ lớn rồi, xem đủ thứ hát, đủ loại tuồng, nhớ lai gánh Bầu Lúa mới thấy thương các nghệ sĩ thời xưa. Hát nghèo vậy mà cũng hát và cũng có người coi. Đồng bào mình yêu sân khấu thật.

Từ nhà Ngoại đến đó phải qua chợ Tân Hương. Đây chính là trung tâm kỷ niệm của tuổi thơ Trí. Đi chợ là một điều quan trọng, thích thú và hãnh diện với bạn cùng thời:

- Tao mới đi chợ về nè! Mai tao đi chợ. Cái này mua trong chợ! v.v…

Đối với Trí đi chợ là có ăn hàng, ăn bánh. Cậu Tám lúc nào cũng có 5, 7 xu trong túi. Ăn bánh bèo của dì Ba Thơm ngon nhất. Ăn còn một miếng chót thì lấy ra cầm tay, thè lưỡi liếm sạch nước cốt dừa dính trên lá chuối rồi mới nuốt miếng bánh cuối cùng và quăng miếng lá đi.

Còn mua kẹo thì phải suy nghĩ. Khi cầm đồng xu đỏ nhứt bá chi phân của Ngoại cho thì Ngoại đã dặn mua gì, nhưng qua tới chợ trước những thùng bánh kẹo cốm thì Trí thay đổi ý kiến ngay. Kẹo có 3 loại: kẹo dừa bằng hai lóng tay bọc giấy màu xanh đỏ vàng, vặn hai đầu. Bên trong cục đường nấu chảy phơi cứng vo dài cắt ra từng lóng, màu nâu, ngậm béo vì có nước cốt dừa, ít dám nhai vì sợ mau hết. Một xu 6 cục, rẻ thì 8 cục, nửa xu 3 cục. Đây là thứ kẹo bình dân. Kế đến là kẹo cà-rem, hình tròn dẹp như đồng bạc nhưng nhỏ hơn, đôi khi có in hình cọp, sư tử trên mặt. Bên ngoài bọc giấy kiếng màu. Có cán tre bằng cây tăm xỉa răng để cầm mút kẹo, do đó còn có tên là kẹo mút. 1 xu có 2 cây thôi, vì nó sang hơn với chất the the trên lưỡi, nó còn có màu xanh màu vàng coi thấy thèm! (Hồi đó không có tiếng "hấp dẫn" như bây giờ). Thằng học trò nào dám mua 1 xu 2 cây kẹo mút là bảnh rồi đó, kỳ dư thì ăn kẹo dừa.

Kế chót là kẹo rô-be. Có vẻ Tây lắm. Đó là kẹo thẻ vuông dài, hoặc nhiều miếng tròn chồng lên nhau, mở giấy màu, tách ra từng miếng bỏ vào miệng ngậm. The hơn kẹo mút nhiều. Lại còn "chữa được bịnh ho" nữa. Kẹo này ít thằng nào dám mua.

Qua tới chợ, để Trí khỏi nhõng nhẽo kêu mỏi chân dọc đường, cậu Tám thường ghé tiệm Thầy Thẹo mua 2 cây kẹo mút. Cậu hỏi màu gì, tùy Trí chọn. Thế là hai cậu cháu vừa mút kẹo vừa đi lên Tân Trung chỗ đóng đô gánh Bầu Lúa. Đường đá đỏ nhuyển nhừ, không có xe hơi chỉ có xe ngựa nên người ta đi giữa đường không sợ xe cán. Xe ngựa không cán chết ai, vì thấy nó gần tới thì ngủ một giấc thức dậy nó cũng chưa tới mà cán gì!

Đi ngang một chòm mả, cậu bảo:

- Trong mấy cái mả đó có người chết hai lần.

Trí hỏi tại sao vậy. Cậu nói vì ở vùng này có một ông thầy thuốc giỏi, người mới chết, ổng cứu sống dậy trối trăn với con cháu rồi lại chết. Trí ngạc nhiên tưởng như trong truyện PhongThần có thuốc tiên. Bụng nghĩ thế nào nay mai mình cũng sẽ được đi coi ổng chữa bịnh.

Rạp Bầu Lúa ở gần đó. Đào kép toàn là người trong xóm. Không hiểu tại sao người cùng thời lại bảo rằng:

Trồng trầu trồng lộn với tiêu
Con theo hát bội mẹ liều con hư!

Người ta chỉ nhớ tội mà không kể công của hát bội. Ngày xưa không dễ gì đi coi hát đâu. Không phải như bây giờ bấm ti-vi lên là có hát, đủ thứ mà đẹp nữa. Hơi xấu chút là chê. Hồi xưa không có hát gì hết. Nghe lối xóm ca hát hơ hà cũng đã lắng tai nghe rồi.

Bây giờ ngồi giữa thế giới truyền thanh truyền hình văn minh tôi nhớ những buổi xem hát đình, hát Sơn Đông, hát miễu, cả các màn thầy pháp, bà bóng đội sao cúng Dương Căn, đỗ dốt (?) cũng mê coi sáng đêm. Thiệt tình thương các nghệ sĩ bình dân mộc mạc mà yêu nghề vô cùng. Nói về chất nghệ sĩ họ rất giàu. Nghèo đói vất vả trăm bề mà vẫn yêu nghệ thuật. Họ chỉ là những ngươi lam lũ cuốc cày ở nông thôn, vì yêu nghệ thuật mà bước lên sân khấu.

Tôi xin mời độc giả cùng tôi trở lại quê nhà cách đây 40, 50 năm và cùng đi vô rạp "Bầu Lúa" với tôi. Xin nhớ cho đây là rạp Bầu Lúa nửa thế kỷ trước, ở quê ngoại tôi.

Gánh Bầu Lúa

- Chiều nay mày đi rao bảng cho tao nghe!

Thằng Tý lấy làm mừng rỡ, dạ một tiếng thật to, định chạy về nhà kêu thằng Sửu giúp sức thì ông Ba gọi giật lại, bảo:

- Nhưng nhớ là mày không được đem ai khác vô rạp nghe không?

- Đem thằng Sửu được không ông Ba?

- Ừ thì hai mạng thôi. Nếu hai đứa không rao bảng cho tao thì phải đóng hai lít gạo.

- Dạ!

Lần này nó dông một hơi tới chuồng trâu nhà thằng Sửu. Thằng Sửu đang tắm trâu ở gần mé mương. Thằng Tý đến gần, hất hàm:

- Muốn đi coi hát không?

- Ối ồi! Ba cái tuồng Tiết Ứng Luông đó cũ mèm, tao coi hồi đời ông Nhạc…

- Bữa nay có đào mới ở trên tỉnh về, đến coi mặt chút rồi về.

Thằng Sửu nhảy dựng lên:

- Thiệt hả?

- Tao giỡn mày sao!

- Ừ đi thì đi, mà phải đóng lít gạo vô cửa không?

- Khỏ…ỏi! Tao bảo kê cho mày vô không phải tiền gạo gì hết.

- Sao kỳ vậy?

- Tao với mày phải đi rao bảng cho ông Bầu buổi chiều nay.

- Rao hết các ấp tao không đi nổi.

- Chỉ ấp mình thôi! Chịu không?

- Đi thì đi. Nhưng chờ tao đem trâu vô chuồng đã!

Thằng Sửu nói xong, hấp tấp lùa trâu về chuồng niệc lại chắc chắn rồi mới đi với thằng Tý đến nhà ông Bầu. Ban đầu ông thâu lúa, nhưng khán giả bảo lúa xay ra gạo thì đóng gạo cho tiện). Kể từ ngày thay lúa bàng gạo trắng thì khán giả có phần đông hơn trước, vì đó là cách giản tiện cho mọi người. Người lớn thì chỉ bọc trong chéo khăn là đủ một lít, chớ không phải bưng xách cồng kềnh. Còn trẻ con thì lén xúc gạo trong khạp đi lòn ngã sau không bị cha mẹ bắt gặp. Riêng phần ông Bầu thì gạo nào cũng đổ vô nồi nấu ra cơm cả, không phải xay giã ì xèo mất công lên việc xuống. Do đó qui định là một lít gạo trắng cho một đầu khán giả được thi hành đồng đều cho người lớn lẫn trẻ con một cách tự nhiên, không ai kêu nài một tiếng.

Thằng Tý và thằng Sửu đến rạp thì thấy ông Bầu đang lui cui pha màu vẽ quảng cáo. Ông không vẽ hình được nên chỉ viết chữ theo kiểu chữ in cho dễ đọc.

“Đêm nay: THẦN NỮ DƯNG NGŨ LINH KỲ CHUỘT TỘI TIẾC ỨNG LUÔN
Đêm mai: TIẾC ĐINH SAN CẦU PHÀM LÊ QUÊ…"

Thằng Tý và thằng Sửu thấy ông Bầu viết băng xiên băng nai, trật bộn lỗi nên nhìn nhau cười chớ không dám nói. Còn ông Bầu thì cố viết cho ngay ngắn. Miệng ông già qua méo lại theo tay viết vô cùng vất vả. Ông cũng muốn bảo mấy thàng học trò này viết giùm nhưng sợ chúng nó cười nên ông tự lực.

- Ê, thầy mày tối nay có đi coi không hả?

- Dạ hổng biết!

- Tụi bây cái gì cũng hổng biết hết. Học trò học vè! Đồ chết nhát.

Thằng Sửu nói:

- Dạ thầy cháu đâu có biết tối nay hát tuồng gì mà đi!

Ông Bầu phang luôn:

- Thầy mầy cứ ru rú ở nhà chỉ biết đầu ba thằng học trò chớ biết cái gì! Hừm! Học trò đi mò cá sặc. Ông thầy ở nhà lắc cặc nấu canh… chua.

Hai thàng oắt con nghe ông Bầu chạm tới thầy mình thì tự ái. Thằng Tý bèn trả đũa:

- Phàn Lê Huê chớ không phải Phàm Lê Quê còn Chuộc chớ không phải Chuột đâu ông Ba à!

Ông Bầu gạt ngang:

- Quê với Huê cũng vậy chớ khác gì! Còn chuột thì cũng như chuộc thôi.

Thằng Tý tiếp thêm:

- Tiết Ứng Luông chớ không phải Tiếc Ứng Luôn, còn chữ Luông có “g” ông Ba à!

- Bộ tụi bây giỏi hơn tao hả?

Ông Bầu quắc mắt hét.

- Dạ tụi cháu đâu dám nói vậy, nhưng mà sách viết vậy đó.

- Chuột hay chuộc thì cũng là chuột. Tiếc hay Tiết thì cũng là Tiếc. Luôn hay Luông thì cũng là Luôn chớ khác gì mà bày đặt Tê, Xê, có Giê với không Giê.

Thằng Tý im còn thằng Sửu không nhịn được nó cãi lại:

- Chuộc khác với Chuột ông Ba à!

- Khác sao đâu bây nói tao nghe coi!

Ông già rướn cổ tới, gục gặc cái đầu làm cho cái bí bo xổ ra. Lọn tóc lưa thưa buông xuống tấm lưng rám nắng của ông như con rắn hù ri bò trên mặt ruộng. Ông không chịu sửa lỗi còn quát:

- Rồi đó, khiêng đi rao bảng mau lên cho gánh Bầu Lúa tối nay kiếm mớ gạo.

Thằng Tý lại vùng vằng:

- Hồi nãy cháu tưởng rao bảng chỉ khiêng có cái trống thôi nên chỉ kêu một mình thằng Sửu phụ. Hai đứa khiêng cũng như mọi lần. Bây giờ thêm tấm ván này, tay nào vịn tấm bảng, tay nào đánh trống, ông Ba?

Ông Bầu ngẩn ngơ một lát rồi gật đầu, bảo:

- Bây kiếm thêm một đứa nữa, được không?

- Dạ được, nhưng ông Ba phải cho nó vô cửa thì nó mới chịu vác tấm bảng kia đi trước, còn hai thằng thì khiêng trống đánh thùng thùng phía sau. Như vậy người ta mới chú ý.

- Tất cả là ba đứa thôi à nghen!

- Dạ, tối nay chỉ có ba cháu vô cửa khỏi đóng gạo.

Ông Bầu ừ yệc xong xuôi chúng mới chịu khiêng chiêc trống lên vai. Thằng Sửu để xuống đất càu nhàu:

- Chiếc trống này còn nặng hơn Thạch La, Thạch Cổ thời Chung Vô Diệm nữa đó ông Ba à! Chỉ có ba lít gạo thì tụi cháu lỗ.

Ông Bầu nhảy dựng lên:

- Ở đâu mày biết chuyện Thạch Cổ Thạch La?

- Dạ ở trong truyện Chung Vô Diệm chính ông kể cho tụi cháu nghe kỳ hát tuồng Chung Vô Diệm thám địa huyệt chớ ai?

- Thằng này nhỏ con mà mình lớn, nhớ giỏi dữ he!

Thằng Sửu nghe ông Bầu khen, bèn đáp luôn:

- Thời đó các nước đánh nhau như bằm bầu. Nước Tề nhờ có bà Chung Vô Diệm nên mạnh hơn các nước kia. Nước Tấn đánh không lại bèn cho một đứa nhỏ 8 tuổi đem hai cái trống và cái phèng la bằng đá mang sang thách nhà Tề phải đánh sao cho trống kêu thùng thùng còn phèng la kêu beng beng. Nếu không làm được vậy thì phải chịu triều cống nước Tấn.

Ông Bầu vốn là con sâu truyện nên gật gù, khen:

- Tụi này cũng biết truyện khá dữ he! Rồi sao nữa kể tao nghe tiếp.

Thằng Sửu nói:

- Gặp bà Chung Vô Diệm có phép thần thông bà gõ một hồi trống một hồi chiêng y như thiệt. Thằng nhỏ phải mang Thạch La Thạch Cổ về nước Tấn phải chịu thua nước Tề hằng năm triều cống.

Thằng Tý nói tiếp:

- Nước Hàn thấy nước Tấn thua đàn bà thì ức lắm bèn gởi sứ sang với một bửu bối gọi là “Cửu khúc Minh Châu” nghĩa là hột châu có 9 đốt như lóng mía vậy nhưng nhỏ xíu như ngón tay và có một lỗ ngoằn ngoèo xuyên suốt hột châu và thách nước Tề phải luồn sợi chỉ qua lỗ đó cho được. Nếu không cũng sẽ mất nước.

- Rồi bà Chung Vô Diệm có xỏ được không? Ông Bầu hạch tiếp.

- Bả biết nước Hàn thách đố bả. Bả rầu lắm nhưng không biết làm cách nào xỏ sợi chỉ cho qua một cái lỗ nhỏ xíu và vẹo ne như vậy. Bả bèn đem hột châu ra vườn cầm lên để xuống bàn xem qua xem lại, nhưng chưa biết xỏ cách nào.

Bỗng đâu có con kiến bò quanh mép bàn. Bả nảy ra ý dùng chú kiến để xỏ chỉ. Bả bắt con kiến thả trên lòng bàn tay định lấy sợi chỉ buộc ngang lưng nó. Chưa buộc thì kiến ta đã cắn lấy sợi chỉ chui vào lỗ hạt châu rồi bò qua tuốt bên kia. Chung Vô Diệm cả mừng đi vô cung đưa cho vua xem. Hôm sau vua Tề sai gọi sứ giả vào trao trả hột minh châu với sợi chỉ xuyên qua. Viên sứ lạy tạ xin tội và từ đó không dám tranh tài với nước Tề nữa.

Ông Bầu nghe hai thằng cu con kể rành mạch chuyện xưa tích cũ thì vỗ đầu chúng và bảo:

- Tao cho bây vô gánh hát chạy hiệu cho Chung Vô Diệm, chịu không?

- Tụi cháu hát ồm ồm như bò rống, vô đây để làm bể gánh hát bác sao?

- Tao có bổn tuồng Chung Vô Diệm ngặt thiếu đào kép nên còn để đó chưa ra mắt bà con. Hổng lẽ tao chờ tụi bây lớn để đóng vai anh em bả là Chung Long Chung Hổ. Bây giờ nếu bây muốn đóng thì phải mang hia cao gót và vẽ mặt cho già ra.

- Vẽ mặt già thì được chỉ sợ mang hia cao gót té lọi chân thôi ông à.

Nói xong, hai thàng bé khiêng chiếc “thạch cổ” đi ra đường. Ông Bầu còn đi bương theo bảo:

- Nếu có người hỏi: Ai vẽ chữ tốt vậy thì bây nói là bây viết, chớ đừng nói tao nghe!

Thằng Tý biết tâm lý ông già bèn bảo:

- Chuột cống, chuột cơm cũng chuột thôi ông à!

Ông Bầu giơ nắm tay lên vá vá:

- Ông già tía bây chớ móc họng tao hả?

Hai đứa cười vang, nện trống thùng thùng và biến mất.

Tý và Sửu khiêng tấm ván về chuồng trâu thằng Sửu. Hai đứa bàn với nhau, Tý nói:

- Mày bắt trâu mày lại đằng nhà thằng Mão. Nó có cái cộ để trước sân. Mình mắc trâu vô đó

Thằng Sửu nghe phải lý bèn làm theo kế hoạch của thằng Tý. Cuối cùng ba con quỉ chất lên chiếc cộ. Thằng Tý đánh trống rầm rầm trong lúc thằng Sửu thót lên lưng trâu còn thằng Mão thì vịn tấm quảng cáo tựa vào một chiếc ngà (trụ cột) ở sau cộ rồi đánh trâu ra đường.

Chiếc xe quảng cáo lạ lùng chưa từng có, đưa "Phàn Lê Quê và Tiếc Ứng Luôn” đi từ đầu đến cuối ấp. Đi đến đâu chó sủa vang trời tới đó. Người trong nhà ùn ùn chạy ra đứng ở mé lộ xem. Con nít trên tay mẹ khóc ré lên. Các cụ già che mắt nhìn cười móm mém, trong lúc đám trẻ con chạy theo sau cộ xem cho kỹ, có đứa nhảy thót lên cộ ngồi chong ngóc như chủ nhân ông gánh hát.

Nhiều bác nông dân từ ruộng về cũng dừng lại lột khăn lau mồ hôi và thầm nhủ: “Tối nay Bầu Lúa diễn tuồng hay, mình phải đi xem một chuyến cho biết mặt con đào ở tỉnh xuống”.

Thằng Tý đập trống liên hồi. Tội nghiệp cái mặt trống bằng da trâu đã thủng cả hai bề. Đập mạnh thế mấy nó cũng không thể kêu thùng thùng như trống lành được. Nó chỉ kêu pạch pạch thôi. Thằng Tý tức mình đập vô hai bên hông thì nó lai kêu cạch cạch. Hại thay, cái dùi lại gãy đôi. Nhưng nó dùng cả hai khúc gỗ làm dùi. Nếu khiêng như hằng ngày thì buổi quảng cáo không “đại náo thiên cung” được như thế mà chỉ có thể làm cho những nhà ở gần mé lộ chú ý thôi. Nhưng bữa nay chiếc cộ lạ lùng khuấy động đến cả những nhà ở trong sâu hậu bối.

Trở lại rạp hát, ba thằng nhóc thấy trời còn sớm nên muốn rao bảng tiếp một vài ấp nữa với chiếc cộ trâu.

Ông Bầu lấy làm thích chí. Chuyện chỉ có thế mà mình không biết. Già đầu còn thua trí trẻ con. Ông Bầu cười thích thú bảo:

- Ở trong truyện Tây Du có Ngưu Ma Vương là con trâu phép. Đến chừng nó lỳ ra nó biến thành một con trâu cái đầu bằng núi Thái Sơn, đứng chật cả bầu trời, không sợ phép tiên nào hết. Bắt qua truyện Phong Kiếm Xuân Thu, Tôn Tẫn có con trâu phép tên là Thanh Ngưu biết bay như chim hạc. Nhờ đó mà được nước Tề. Chung Vô Diệm lẫn vua Tề đều tôn là “Á Phụ”… Còn ngày nay tụi bây dùng trâu để rao bảng cho gánh Bầu Lúa rôm rả quá chừng. Chắc gánh hát của tao tới thời hưng thịnh rồi đó. Thôi, tao cho phép bây coi hát mãn đời không phải đóng gạo.

Thằng Sửu nói:

- Ông Ba cứ lo gánh hát cho ngon đi, để tui cháu rao bảng cho…

° ° °

Ông Bầu có năm người con. Ba trai hai gái. Hai đứa trai lớn thì ông bắt đóng kép chánh, nay đã thuần thục có thể thay cho cha. Đứa con gái thứ ba mới trổ mã nhưng ông cũng bắt làm đào, hai đứa út thì cho làm tử tốt, quân chạy hiệu. Còn ông bà thì bao sân, đào thương, đào mụ, quân vương tướng tá gì đóng cũng được cả, trừ vai hề thì ông phải nhờ thằng Sáu Rỗ đóng. Còn “ông nhưn”, ông phải nhờ bà Hương Quản.

Như quảng cáo buổi chiều, tối nay ông sẽ cho ra mắt khán giả vở Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ chuộc tội Tiết Ứng Luông. Tuồng nào ông cũng thuộc từng câu. Khi tập diễn ông cứ nói miệng cho đào kép học chớ không có ghi ra giấy tờ. Đào kép theo đó mà học, chỗ nào quên thì lúc đi gặt đi cấy cứ hỏi ông. Hoặc tới nhà, đang lúc ông ngủ trưa, bà đập ông dậy, ông cũng nói ngay ra câu văn được, không cần phải suy nghĩ lâu lắc.

Những sự tích trong truyện thì ông kể nghe mê, lắm khi còn thêm mắm dặm muối, người nghe cười ngả nghiêng ở ngoài bờ ruộng hay bên gò đìa.

Bữa nay sở dĩ ông chọn tuồng Thần Nữ này là vì nó có nhiều khúc gay cấn ác liệt và nhiều đoạn mê ly rùng rợn, người xem phải rơi lệ hoặc rởn da gà.

Truyện kể lại rằng đời Đường có nữ Nguyên soái là Phàn Lê Huê tài giỏi vô song nhưng tình duyên éo le trắc trở. Trước khi hạ san, thầy là Lê Sơn Thánh Mẫu dặn rằng khi giao tranh sẽ phải kết duyên cùng tướng giặc là Tiết Đinh San, Thế tử của nhà Đường (con vua gọi là Thái tử. Con các vị vương tước gọi là Thế tử). Đinh San mới 21 tuổi binh pháp tinh thông và đẹp trai phi thường, đẹp cho đến nỗi Lê Huê vừa trông thấy phải rụng rời hồn xiêu phách lạc không đánh nổi. Nàng tỏ thật với chàng mối duyên thiên định. Nhưng Tiết Đinh San thay vì mê say sắc đẹp của nữ tướng địch thì lại tỏ vẻ khinh bỉ và biểu lộ lập trường ta-địch hẳn hòi và từ chối lời tỏ tình tha thiết của Lê Huê. Lê Huê xấu hổ bèn thách đánh. Chỉ vài hiệp “bảy món ăn chơi” thì chàng họ Tiết bị nữ tướng trói gô bỏ nằm dưới đất. Nàng bèn kề gươm vào cổ hỏi: “Muốn chết hay muốn làm chồng ta?” Cố nhiên là không ai dại gì nhận cái chết. Làm chồng một mỹ nhân chẳng sướng hơn sao? Thế là cuộc hôn nhân xảy ra nơi trận tiền giữa hai tướng giặc tử thù. Nhưng Tiết Đinh San phải thề thốt (cho qua truông, ngờ đâu lời thề lại linh ứng về sau: cả nhà họ Tiết phải chết chém 500 người) Phàn Lê Huê ngây thơ (vả lại không nỡ giết chồng) nên thả cho chàng về Đường Quốc phi báo bại trận trước nữ tướng. Còn Lê Huê thì trở lại Phiên Quốc cho bố là võ tướng trấn thủ Hàn Giang quan đối đầu với Đường Bang. Ông bố hỏi sao con không dùng phép thuật mà giết nó cho rồi? Lê Huê bèn thưa thiệt rằng Sư Mẫu có dạy đây là duyên tiền định. Ông bố nổi giận rút gươm ra định chém đầu con gái hư thân mất nết “giữa trận tiền dám lăng nhăng tình ái cùng tướng giặc”, Lê Huê cũng rút gươm ra đỡ nhưng lỡ tay đâm chết ông bố. Người anh xem thấy bèn nhào vô so tài cùng em gái nhưng cũng bị em gái giết luôn. Do đó có tuồng Đinh San nhứt bộ nhứt bái cầu Phàn Lê Huê xuống giúp binh nhà Đường sau này còn rất dài nhưng xin kể tóm tắt và ngưng tại đây.

Đó là gốc tích của mối tình Lê Huê và Đinh San. Bây giờ mới bắt qua tuồng Thần Nữ dâng Ngũ Linh kỳ ông Bầu Lúa cho ra mắt khán giả đêm nay.

Khi về hàng phục Đường Bang, Phàn Lê Huê đã dâng ải làm của hồi môn, mặc kệ tiếng xấu “Tru huynh Sát phụ” và đầu hàng địch. Nàng biết đây là thiên định không thể cãi lại được.

Trên đường chiến đấu Lê Huê đã gặp một tướng núi tên là Tiết Ứng Luông. Luông ỷ tài, chiếm lấy một cõi sơn hà, xưng hùng xưng bá như Từ Hải trong Kiều - dọc ngang nào biết trên đầu có ai!

Nhưng cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị. Bữa nọ gặp Phàn Lê Huê, Luông ta thấy nữ tướng đẹp như sao sa thì tỏ ý muốn đem về làm áp trại phu nhân. Lê Huê bảo: “Nếu đánh thắng ta sẽ làm theo ý muốn của mi. Còn nếu mi thua thì làm con ta.” Tiết Ứng Luông thấy nữ tướng mảnh mai như liễu rũ thì khinh thường. Nhưng chỉ trong hiệp đầu Luông đã bị rơi thương. Lê Huê tha chết bảo nhặt thương lên đánh tiếp. Ba lần đều thua cả. Luông bèn quăng thương xuống ngựa bái và gọi Lê Huê bàng Soái Mẫu (lúc đó Lê Huê đã lên thay chồng làm Nguyên Soái nhà Đường còn chồng thì xuống lo việc cơm áo cho binh sĩ). Bắt đầu từ đây mới có bi kịch “Dâng Ngũ Linh Kỳ” . Lê Huê đem Ứng Luông về cho làm Tiên Phuông hầu hạ dưới trướng và cho lấy họ Tiết của chồng. Một ngày kia binh Đường bị nguy khốn, Phàn Nguyên soái án binh bất động. Tiết Ứng Luông sốt ruột muốn phá vòng vây để lập công nên lẻn trốn mẹ kéo quân xuất trận. Bị quân địch đánh, chạy lạc lên Phụng Hoàng San gặp thần nữ ở đây.

Thần nữ cũng là tướng cướp hùng cứ một phương, gặp Ứng Luông thì phải lòng, Ứng Luông cũng khoái củ tỉ nên hai bên tướng núi hoà hợp tâm hồn lẫn thể xác. Rồi Ứng Luông mê mẫn ở luôn trên núi Phụng Hoàng vùi mài trong tuần trăng mật, binh đáo bất biết, quân pháp cũng quên luôn. Đến lúc hai anh tướng cạnh là Tần Hớn và Nhứt Hổ nhắc thì Luông ta mới nhớ ra rằng mình đã xuất trận mà không có lệnh, bèn lật đật sửa sang áo giáp và trở về phục tội với Soái Mẫu. Lê Huê thấy mặt thằng con nuôi vô kỷ luật thì đùng đùng nổi giận kêu quân lôi ra chém đầu. May nhờ có Tiết Đinh San vận lương về tới thấy thằng nhỏ bị trói ở pháp trường bèn hạ lệnh mở trói đem về Soái đường chờ mình xin tội chết cho.

Nhưng Phàn Nguyên Soái nhất định chém. Lúc này ở trên núi Phụng Hoàng, thần nữ thất tình, nghe lòng bồn chồn bèn quào mu rùa, biết người tình bị nạn, bèn mang theo Ngũ Linh Kỳ, tức là cây cờ Linh có thể trị được Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ để chuộc tội cho chàng.

Xuống đến Kinh đô, đến cổng Soái phủ thì thấy quân binh sát khí đằng đằng, hỏi ra mới biết Tiết Ứng Luông mắc tội tử hình sắp sửa hành quyết.

Thần nữ bèn xông vào Soái đường dập đầu kể lể hết sự tình mong Phàn Nguyên Soái dung tình tha thứ. Nhưng nguyên soái nhất định bất dung nghịch tử. Thần nữ bèn dâng Ngũ Linh Kỳ để chuộc tội cho tình quân. Trớ trêu thay, Lê Huê nhận bảo vật nhưng quát lính đuổi Thần nữ ra khỏi Soái đường lại còn sỉ nhục Thần nữ:

- Mi là loại cường sơn thảo khấu còn con ta là cành vàng lá ngọc đâu có thể kết duyên cùng nhau.

Thần nữ làm loạn, Tiết Ứng Luông can. Tiết Đinh San xin tội. Lời xin tội làm Lê Huê cứng họng ngắc ngứ không đáp được.

Đinh San hỏi:

- Ngày xưa ai bắt tội bà mà bây giờ bà bắt tội con?

- Ngày xưa tôi làm gì nên tội?

- Ra giữa trận tiền bà định việc hôn nhân cùng tướng giặc.

- Tướng giặc nào?

- Là tôi đây!

Tiết Đinh San (đang bị giáng cấp xuống làm Vận lương quan nhưng chọt một trúng chỗ “nghiệt” của Soái thê). Phàn Nguyên Soái há miệng mắc quai đành đập ấn soái lên bàn côm cốp và quát chồng im miệng. Tiết Đinh San địa vị bề trên lúc ở nhà nhưng ra công đường phải chịu làm bề dưới, đành ôm hận lui ra. Thần nữ được bố chồng binh vực bèn nổi cáu với mẹ chồng, múa gươm làm loạn, Ứng Luông thấy mình mắc tội nên đành phải hi sinh tình yêu. Chàng giơ xích sắt lên định nện vào đầu Thần nữ. Thay vì đỡ gạt thì Thần nữ lại ngửa cổ chịu chết cho thoả lòng tình quân. Nhưng thấy tấm tình cao cả của Thần nữ thì chàng họ Tiết không đành hạ thủ. Giữa lúc đó thì Phàn Lê Huê bước xuống can ngăn làm khán giả sửng sốt.

- Chớ giết con dâu cưng của mẹ!

Tiết Đinh San cũng trở ra. Hai vợ chồng cười tình với nhau - họ đã hẹn ngầm làm cho không khí thật căng thẳng tưởng như Ứng Luông sắp rơi đầu - để thử tình yêu của đôi trai gái là lửa than hay lửa rơm. Đó là câu chuyện đã viết thành tuồng.

Ông Bầu và Bà Nhưn đứng ra tập từng màn cho đào kép thật thuần thục rồi mới đem ra diễn. Ông Bầu đóng vai Tiết Đinh San còn vai Phàn Lê Huê do bà Bầu đóng. Bà đã đóng vai này từ trẻ đến già. Và cũng trong những vai này ông bà đã thành vợ chồng thật ngoài đời. Ấy, hát hỏng có lắm khi như thế đó. Hoặc lắm khi ngược lại hoàn toàn. Lên sân khấu thì mùi mẫn với nhau như… thiệt còn ra khỏi sân khấu thì ghét thù nhau như chó với mèo. Nhưng cũng lắm khi sân khấu lại chính là cuộc đời của họ.

Bữa nay bà Bầu ốm nghén gần ngày nên không làm Phàn Lê Huê được. Rủi đau bụng đẻ thình lình rồi làm sao? Nên ông Bầu nhờ Bà Nhưn (tức thầy tuồng) lên thay vai Phàn Nguyên Soái. Bà Nhưn tên thật là bà Tư Hàng Xáo. Nhờ xay gạo bán hàng xáo nên thân hình của bà khá “co”. Bà cũng mê hát như vợ chồng ông Bầu. Bà làm thầy tuồng nhờ đi xem các gánh lớn trên tỉnh, quận rồi biết nghề chớ chẳng có học hành gì. Còn có tên là bà Tư Eo nữa. Vì thói quen xay lúa, hằng ngày kéo vòng xay nặng nên bà có tật đi cà ẹo một tí, nếu không để ý thì không thấy. Khán giả khó bề mà so sánh giữa bà Bầu và bà Nhưn, ai hơn ai. Bà Bầu nhan sắc hơi kém hơn bà Nhưn nhưng lại có giọng ca sang sảng và ca Bắc rất dòn, còn bà Nhưn thì gương mặt trái xoan lại có cái núm đồng tiền rất duyên dáng nhưng kém giọng ca.

Vai Tiết Ứng Luông thì do thằng Kinh đóng. Kình là một trai làng ham hát, chỉ có dáng, không có giọng sân khấu, nên ông Bầu lượt bớt đi những bài ca để cho Luông chỉ nói đối đáp và múa may che lấp cái nhược điểm của anh ta. Còn Thần nữ thì do một thiếu nữ có gương mặt trái xoan, tóc trán dợn sóng, giọng ca tạm được, nhưng hiềm có cặp răng thớt, nghĩa là hai cái răng cửa hơi to và hơi hô nhưng đến màn của Thần nữ thì ông Bầu cho phực đèn màu hơi tối, để khán giả chỉ còn trông thấy gương mặt của nàng mà không thấy cặp răng thớt.

Tuồng diễn tới màn ba là lúc Thần nữ biệt ly với Ứng Luông trở về phục mạng Soái mẫu. Ở phút chia tay bài ca vọng cổ và bài Nam Ai rất lâm ly làm nhiều khán giả suýt rơi nước mắt. Bỗng hai anh hề (đóng vai Tần Hớn và Nhứt Hổ) vào giễu làm khán giả cười rân. Màn hạ từ từ, khán giả vỗ tay hoan nghinh rầm trời. Ông Bầu lấy làm nở mặt nở mày. Ông để nguyên áo giáp trụ Tiết Đinh San đang mặc trên người bước ra mép sân khấu “có đôi lời cùng khán giả” với nét mặt hân hoan rạng rỡ.

Sang màn thứ tư. Màn kéo lên. Phàn Nguyên soái (bà Nhưn) đang oai vệ trong soái đường ngôi trên ghế đọc binh thư. Chốc chốc lại ngó ra viên môn như trông chừng ai. Bỗng quân vào báo có Tiết Ứng Luông hồi dinh phục lịnh. Phàn Nguyên soái buông quyển binh thư xuống và bước ra khỏi bàn.

Tiết Ứng Luông đi nhanh vào. (Trong tuồng thì ông Bầu và bà Nhưn cho thằng Luông sụp lạy Phàn Nguyên soái để xin tội) nhưng không hiểu tại sao Luông vô tới trông thấy Soái mẫu, không chịu quì phục dưới chân bà mà lại giơ tay ra định trổ mòi với “bà má”. Có lẽ Luông loá mặt vì cái núm đồng tiền trên gò má của Soái mẫu chãng? Soái mẫu bèn nổi giận giơ tay tát một phát nháng lửa vào mặt Luông và quát:

- Mi là đứa con ngỗ nghịch. Sao mi dám phạm thượng vậy? Đồ thất phu vô lễ!

Tiết Ứng Luông (thằng Kình) bị ăn bạt tai quay mòng mòng quên hết mấy câu vọng cổ. Thay vì ca: “Phàn nguyên nhung ơi! Xin mở lượng biển trời (xuống lìu mùi) Từ nay con không dám bỏ nhà đi hoang nữa…” thì nó lại ca: “Soái mẫu ơi, cái bạt tai của mẹ đã làm con rụng rời! Từ nay con không dám tái phạm nữa ơ..ơ..”

Khán giả xem cải lương có cái tật là khi kép trên sân khấu sắp xuống lìu thì đã vỗ tay trước làm lấp cả tiếng đờn và giọng ca, lấp luôn cả câu 1 nên không ai biết gì hết. Nhưng ông Bầu đứng trong cánh gà theo dõi từng cử chỉ của đào kép để nhắc tuồng thì biết tuồng đang “xỉa” nếu không tốp lại nó sẽ “chảy re". Ông bèn bước lại giật sợi dây kéo màn trong tay thằng bé chạy hiệu mà buông màn xuống. Rủi thay, cái rỏ rẻ (tiếng Bắc là cái ròng rọc) bị kẹt dày nên màn chỉ buông đến được nửa chừng rồi lửng lơ treo ở đó. Ông Bầu phải chạy ra lôi nó xuống tận mí sạp rồi trở vô. Thấy Phàn Nguyên soái đang còn sừng sộ với thằng con ngỗ nghịch, ông Bầu bảo:

- Nó lỡ dại, thôi bỏ qua đi, diễn tiếp kẻo khán giả bỏ về và đòi gạo lại hết.

Bà Nhưn cự nự:

- Con gì mà dám hỗn như thế đó!

Ông Bầu xử chìm xuồng:

- Thì bà cũng đã xáng nó một bạt tai trị tội nó rồi!

- Nó có dám làm thế với má nó không?

- Thôi, từ nay tôi không để cho bà làm má nó nữa.

Ông Bầu bước lại lấy khúc cây gõ cộp cộp và kéo màn lên. Tiết Đinh San lại bước ra xun xoe trong bộ quân phục sáng rỡ, mặt cười tươi như hoa héo, bảo:

- Thôi, má nó đánh con làm gì. Hãy tha cho nó nhứt phen lầm lỡ! - Rồi quay lại thằng Luông-

- Nè Luông, lạy xin lỗi mẹ con đi con!

Chàng ca sĩ kia quì xuống ứng khẩu ca:

- Soái mẫu ơi! xin hãy mở lượng biển trời…

Cây đờn cò buông ra tiếng ò (lìu) mùi rụng rún.

Khán giả vỗ tay bể rạp, không biết gì hết về cái bạt tai nháng lửa bên trong sân khấu. Còn thằng Luông thì cả đời có lẽ không ca được câu nào hơn câu đó.

Đêm ra mắt tuồng Thần nữ, ông Bầu thâu được gần 2 giạ gạo (1 giạ = 40 lít) và có lẽ gánh Bầu Lúa chưa bao giờ thu được nhiều gạo thế trong một đêm hát óc trâu mà khán giả tưởng thiệt hay. Mà nó hay thiệt. Lạ thay bàn tay bà Nhưn in trên mặt thằng kép nổi lên đủ 5 ngón. Ngón áp út của bà đeo nhãn, chiếc nhẫn cũng nổi rõ ràng.

Thằng Kình về nhà bị vợ bắt gân liền. Kình ta muốn giấu nhưng không giấu được. Con vợ biết tánh láu táu quen thói chụp giựt của chồng, nên canh chừng hoài nhưng không xuể. Thằng Kình ăn tát tai lần này không phải là lần đầu, nhưng nó vẫn không tởn, cứ thói nào tật ấy hoài hoài làm con vợ nó buồn hết sức.

Còn bà Nhưn thì muốn đuổi thằng Luông ra khỏi gánh, sợ để nó diễn tuồng nó sẽ “làm cái kiểu” đó thì hỏng hết. Nhưng ông Bầu thì lại dùng nó ở điểm khác. Chồng bà Nhưn là Hương Quản trong làng. Đêm đó ông có mặt ở rạp, ngồi ghế nhứt đàng hoàng, nhưng cũng như hầu hết khán giả, ông không biết gì về chuyện bên sau bức màn nhung, nghĩa là chuyện cái thằng Luông bị má nó bạt tai. Khán giả không biết nhưng chắc đào kép và quân chạy hiệu thì trông thấy vì họ biết đâu có cái lớp nào Phàn Nguyên soái bạt tai thằng con như vậy.

Bà Nhưn về nhà không dám thuật lại cho chồng nghe sợ cả xóm hay rồi vợ nó không cho nó đi hát nữa. Nhưng ông Bầu thì đề phòng, nên ông đến nhà ông Quản thưa thiệt và nói hết:

- … Dạ thưa ông Hương, chuyện đó tôi không hiểu ma quỉ gì giục nó làm như vậy?

Ông Quản không hiểu gì hết, ngồi ngẩn người ra nhìn ông Bầu. Nhưng ông Bầu lại nghĩ rằng ông Quản là người lớn không chấp những chuyện nhỏ mọn, nên thưa tiếp:

- Tại bữa đó vợ tôi ể mình nên tôi nhờ bà Hương (bà Nhưn) thay đỡ một vai.

Ông Quản nói:

- Bả thay thì bả thay chớ có gì đâu mà ông Bầu phải tới đây cho tôi biết?

Ông Bầu định không nói nhưng rồi thấy áy náy trong lòng nên thuật lại đầu đuôi câu chuyên thằng Luông làm hỗn với “má nó”.

Nghe xong ông Quản cười nhạt:

- Chuyện đó cũng thường. Ông Bầu không nghe đàn bà hát đưa con hay sao:

Trồng trầu thả lộn dây tiêu
Con theo hát bội, mẹ liều con hư!

Ông Bầu hơi bị chạm tự ái nhưng rán nói tiếp:

- Mũi dại lái chịu đòn ông Hương à. Nó là kép của gánh hát tôi, nó làm tốt tôi nhờ, nó làm xấu tôi phải chịu. Xin ông Hương bỏ qua cho!

Ông Hương cười dã lã:

- Cái điều tôi lo là gánh hát của ông dẹp đi không có gì cho bà con giải trí sau những ngày làm lụng mệt nhọc rồi sanh ra bài bạc, trộm cắp, mệt cho tôi lắm.

Ông Bầu mừng như mở cờ trong bụng:

- Dạ ông Hương cứ tin đi, tôi không dẹp gánh hát đâu. Tôi mà bỏ nghề hát thì như cá chết khô trên cạn, sống sao được nữa.

Ông Quản nói:

- Ông Bầu có cần tu bổ cho gánh hát thì tôi sẽ xin với ban hội tề xuất công Nho ra giúp cho. An cư thì tới lạc nghiệp. Càng lạc nghiệp thì càng an cư!

- Dạ cám ơn ông Quản là người biết lo cho dân.

Ra về ông Bầu vừa mừng vì có một ông Hương chức biết nói hai tiếng an cư lạc nghiệp. Và ông còn là khán giả năng lui tới rạp Bầu Lúa nhất so với mấy ông hội tề khác. Mấy ông kia chỉ khi nào có cúng đình được mời thỉnh thì mới tới chớ có bao giờ chịu khó đến rạp nghèo xác mà xem hết một lớp tuồng?

Vừa đi vừa suy nghĩ, ông Bầu đi qua nhà thằng Kình, bất đồ ông tạt vào nói ba điều bốn chuyện với nó.

Từ ngày ăn bạt tai nó trốn riệt trong nhà không léo hánh tới rạp để tập dượt nữa. Công bình mà nói thì nó hát không hay. Chỉ cái mã ngoài, nên không được việc mấy. Nhưng mà nếu không xài nó thì gánh hát thiếu một tay. Kép xoàng cho nên phải rán dạy dỗ luyện tập nó cho thành tài. Nói chí tình, nó kém tài mà lại háo danh, hát dở mà thích được vỗ tay cho to. Kép nhì mà muốn đóng kép nhứt. Ca 6 câu còn trật lên trật xuống nói chi Cổ Bản với Lưu Thuỷ Trường. Dụng nhơn như dụng mộc. Nó không có tài mà mình làm cho nó khá lên thì đó mới gọi là Bầu Gánh. Nếu không, thì mình chỉ là “bầu… thúng” mà thôi.

Vừa nghĩ, ông Bầu đã vào sân nhà thằng Kình. Ông đứng ngoài thềm kêu vọng vô:

- Vợ chồng có rảnh không, đi lại tập tuồng!

Chờ một lúc mới có tiếng đáp, rồi vợ thằng Kình bước ra nói:

- Anh không có ở nhà bác Ba à!

Ông Bầu biết nó đang nằm mẹp trong buồng chớ đi đâu. Từ hôm đó tới nay, nó không dám bén mảng tới đằng rạp, nhưng ông Bầu nói:

- Chốc nữa nó có “về”, bay biểu nó lại đẳng tập tuồng “Phàn Lê Huê phá hồng thuỷ trận”

Vợ Kình hỏi:

- Ai đóng vai Lê Huê vậy bác?

- Không phải bà Nhưn đâu!

Ông Bầu biết thằng Kình bị cái khớp đó nên nói trớ qua rồi trở ra đường.

Vợ Kình chạy theo kêu giật lại:

- Bác Ba! Bác Ba!, cho cháu nói chuyện này chút!

Ông Bầu đứng lại. Vợ Kình nói nhỏ với nước mắt rưng rưng:

- Làm sao bây giờ bác Ba?

- Làm sao cái gì?

- Bác không biết thiệt sao?

- Tao không có biết gì hết!

Vợ Kình sụt sịt hai ba cái rồi nói trong tiếng khóc:

- Như vầy là bỏ mùa rồi chớ còn vác mặt đi đâu nữa hả bác?

Ông Bầu cười nhạt:

- Mầy vẫn thường khoe chồng mầy đẹp nhất xóm cô nào thấy cũng muốn mà. Tại sao nó không dám vác mặt đi đâu?

Vợ Kình mếu máo:

- Cháu bảo ảnh đừng có quen cái tật láu táu gặp “thứ gì” cũng bốc hốt.

- Nó bốc hốt thứ gì chớ?

Đến nước này thì không nói lòng vòng được nữa, cô quệt nước mắt rồi nói:

- Cái mặt ảnh bầm tím đủ 5 ngón tay. Cháu hỏi ảnh không nói nhưng cháu biết. Đêm đó có người đi ngang nhà nói vọng vô với cháu: “mầy vố cho nó một phát bên kia là dấu bên này lặn mất chớ gì!” Rồi họ cười với nhau: “Ăn quen chồn đèn mắc bẫy là vậy đó!” Hương Quản ổng biết ra thì chuyện còn lôi thôi nữa cà! Rồi bữa sau có người mách thuốc chữa chỗ bầm cho ảnh.

- Thuốc gì đó! - Ông Bầu hỏi.

- Thuốc càng đặt vào thì vết bầm càng lộ ra đen hơn bác à!

- Thầy nào cho toa vậy?

- Họ biểu cháu ra mấy gốc so đũa sau nhà, vạc lấy vỏ đâm nhuyễn rồi đắp xác lên chớ đâu có thầy bà gì!

Ông Bầu suýt cười ré lên nhưng nín kịp. Ông bảo:

- Đó là mấy thằng đực nó chơi khăm chồng mày đó.

- Chơi khăm là sao bác?

Ông Bầu nửa nghiêm nửa đùa:

- Vậy mày không biết con gì ham ăn lá so đũa hay sao?

Vợ Kình mới vỡ lẽ ra. Ông Bầu bảo:

- Mày phải tề đầu tề đuôi nó bớt đi. Vô cái nghề này mà cứ láu ta láu táu không nghiêm trang thì có ngày Lý Nguơn Bá đập chuỳ sắt lên đầu hay La Thành lụi cho lủng ruột đó.

Vợ Kình nói:

- Ảnh quen thói đó rồi. Cháu nói ảnh đâu có thèm nghe! Để cho tụi con nít chúng nó đặt vè cười cho ê mặt… “Thấy l… lạ như quạ thấy gà con” cho đáng cái đời…

- …Thằng “kép nhứt”. Nhưng tao khuyên bây đừng có ngầy ngà nó! Hổng lẽ mỗi lần đạp cứt mỗi lần chặt chưn thì đàn ông trên thế gian này đâu có đủ cho bày chọn…

° ° °

Đám công gặt bu chung quanh ông Bầu. Một người nói:

- Bác để tụi tôi gặt thế cho. Bác cứ kể chuyện tuồng cho tụi tôi nghe là đủ bù lại.

Một người khác lại hỏi:

- Làm kép hát khó không bác?

Mỗi người một câu như bao vây ông Bầu, ông chưa biết trả lời cách nào thì một người lại hỏi:

- Hiện giờ bác có bao nhiêu tuồng ruột tất cả?

Ông Bầu đang lim dim mơ màng, bỗng giựt mình khi nghe câu này. Chính ra ông cũng không biết ông có bao nhiêu tuồng. Câu hỏi làm ông tỉnh giấc. Ông ngồi dậy bới lại cái đầu tóc rồi bấm bấm ngón tay, lẩm nhẩm tính:

- Phàn Lê Huê là một, Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ là hai. Tôn Tẩn hạ san là ba, Tôn Tẩn giả điên là bốn, Đào Tam Xuân loạn trào là năm, Trảm Trịnh Ân là sáu, Tiết Nhơn Quí chinh đông là bảy, Tiết Đinh San chinh Tây là tám, Trụ Vương thiêu Minh là chín, Đắc Kỷ thọ hình là mười…

Ông Bầu bấm hết mấy ngón tay rồi kêu lên:

- Ôi thôi, còn nhiều lắm, kể không xiết đâu.

- Bác rán rặn ra coi tới hai chục tuồng hay không?

Ông Bầu lại đếm tới ngón chưn:

- Giang Tả cầu hôn, Phụng Nghi Đình, Phong Ba Đình, Tiết Cương viếng Thiết Khưu Phần, Tiết Giao đoạt ngọc, Võ Đông Sơ Bạch Thu Hà, Đơn Hùng Tín, Cao Hành Châu qui vị, xử LăngTrì Hàn Tố Mai, Hàng Phụng dạo Long Xa, … đúng 20 tuồng rồi đó.

- Còn nữa hết bác?

- Còn chớ! Quan Công phục Huê Dung Đạo, Triệu Tử đoạt ấu chúa, Tam anh chiến Lữ Bố, Quan Công đắp đập bắt Bàng Đức,Hoa Đà mổ óc Tào Tháo, Tây Thi Phù Sai, Việt Câu Tiễn phục thù, Mổ tim Tỷ Can (Rau Vô Tâm), Bao Tự đùa với lửa, Nhạc Phi Tần Cối, Tiết Nhơn Quí lấy Ma Thiên Lãnh…

Một người hỏi:

- Nhiều tuồng như vậy làm sao bác hát cho hết?

- Hát từ từ mỗi đêm một tuồng chớ phải hát luôn một đêm hay sao?

Một người khác lại hỏi:

- Tuồng ở đâu mà nhiều dữ vậy hả bác?

- Thì của mấy ông thầy tuồng đặt ra chớ đâu. Tao nghe hát riết rồi quen tai đâm ra thuộc chớ có ai dạy dỗ gì!

- Thầy tuồng như bà “Nhưn” đó hả bác.

- Có gánh hát theo xưa thì người gọi chủ gánh hát là ông Bầu, bà Bầu, còn thầy tuồng thì gọi là ông Nhưn, tuỳ theo ý thích.

Một người khác lại hỏi:

- Bác đi hát hồi nào vậy bác?

- Hồi nào thì không nhớ, chỉ nhớ là còn nhỏ tuổi lắm!

- Ai dẫn bác theo ghe hát vậy?

- Đi đại xuống ghe rồi theo luôn người ta chớ không có ai dẫn hết.

Trời trưa nắng gắt, đám công gặt tìm bóng mát dưới hàng trâm bầu nằm nghỉ. Vài ba tiếng cu buông dòn tan trên ngọn tre trong xóm. Mấy chú diều hâu giăng cánh thả lửng lơ trên nền trời như những lá buồm trên mặt biển không gió. Những vuông lúa chưa gặt vàng rực toả hương nồng ngát.

Người vùng này đã ghiền với những truyện, những tuồng của ông Bầu cho nên hễ đúng trưa thì họ mon men tìm ông Bầu để nghe kể tuồng tích. Ai cũng nằm nghỉ được chớ ổng có nghỉ được đâu. Biết vậy nên có nhiều người tình nguyện gặt thay để ông kể chuyện cho nghe.

- Mười cái vòng hái đi qua một lượt là xong một công cho bác.

Và họ làm thật. Họ kéo tới “trả công” kể truyện cho ông Bầu.

- Kể đi bác. Kể cái lúc Tiết Đinh San lên núi cầu Phàn Lê Huê đó.

Ông Bầu cất giọng:

- Nêu muốn hát cho đúng điệu thì phải hát tuồng “Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê” trước rồi mới hát tuồng “Thần Nữ” sau. Nhưng bà con ở làng này đã thuộc cháo chan mấy sự tích này rồi nên hát cái nào trước cũng được. Cũng tỉ như bánh bánh tét ăn cái nào thì cũng vô bụng ráo trọi.

… Sau khi Phàn Lê Huê “tru huynh sát phụ” rồi thì mở cửa ải Hàn Giang ra rước quân Đường vào. Phàn Lê Huê biết đây là thiên mệnh đã định Thầy đã dặn không được cãi lại chớ không phải nữ tướng tài ba này rắp tâm đầu hàng kẻ địch. Nhưng Tiết Đinh San sau khi thề thốt cho qua truông rồi trở mặt. Khi Lê Huê dàng thành qui thuận nhà Đường thì Đinh San không nhận làm lễ thành hôn. Trình Giảo Kim lúc bấy giờ đang làm nguyên soái thay cho Tần Thúc Bảo mới chết bất ngờ.

- Tại sao ổng chết vậy bác?

- Ờ, chú em hỏi cũng có lý. Nguyên soái sao lại chết bất ngờ? mà lại chết ở tại triều? Số là lúc bấy giờ vua Đường Thái Tông sắp chinh Đông nên muốn chọn nguyên soái. Tần Thúc Bảo đang giữ soái ấn, nghe thế thì tự ái. “Bộ ta không đủ sức chinh Đông hay sao?” bèn không chịu giao ấn lại cho vua. Nhưng vua biết Tần Thúc Bảo đã ngoài 60, đã từng nâng vạc đỡ thành 3 triều tiên đế, nay sức đã yếu, làm sao chinh phạt nổi rợ Hồ đường xa vạn dậm lại phải vượt biển trèo non. Trước lòng trung quân ái quốc của lão tướng họ Tần, vua không biết khuyên bảo cách nào. Tần Thúc Bảo thấy con Kim sư (sư tử bằng đồng) trước sân chầu bèn tâu: Nếu hạ thần không cử nổi con kim sư nặng ngàn cân này đi ba vòng sân thì thần mới đành giao lại ấn soái cho người khác. Vua phán chịu. Tần Thúc Báo xăn tay áo bước tới nắm chân con kim sư để cất lên, nhưng không lay nổi. Bèn ráng sức dùng cả hai tay nhấc bỗng lên nhưng chỉ đi được vài bước thì ngất xỉu và hộc máu bất tỉnh.

Đám công gặt nhao nhao lên hỏi:

- Ồng có sao không bác Ba?

- Thong thả để tôi kể tiếp…. Ông biết lão lai thì tài tận nên đem ấn soái lại dâng trả vua.

- Rồi vua trao cho ai bác Ba?

- Trong đám tướng trẻ có Tần Hoài Ngọc cử nổi con kim sư và đi ba vòng.

- Tần Hoài Ngọc là ai mà giỏi vậy bác Ba?

- Hề hề, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Tần Hoài Ngọc chính là con trai của Tần Thúc Bảo. Sau khi thổ huyết, Tần Thúc Bảo qua đời. Vua xuống chiếu cho Tần Hoài Ngọc lo việc tang chế cho cha rồi hãy lãnh ấn soái. Trong thời gian này, vua phong cho Trình Giảo Kim tạm thời giữ ấn soái! - Bác Ba dừng lại và cười một tràng dài - Xóm mình có “ông Giảo” đó. Đó là ông già Tàu làm ruộng lâu đời nhất ở đây như tôi biết. Giảo Kim sống qua 8 triều vua và thọ đúng 100 tuổi. Ông Giảo có các đặc điểm là phước tướng chớ tài năng thì không bằng La Thành hoặc Tần Thúc Bảo. Cho nên trong các anh hùng thời Thuyết Đường người ta xếp hạng Lý Ngươn Bá anh hùng số 1, Võ Văn Thành Đô số 2, Bùi Ngươn Khánh thứ 3, Đơn Hùng Tín số 4, Ngũ Vân Thiệu sô 5, Tần Thúc Bảo số 6, La Thành số 7 v.v… chớ không có Trình Giảo Kim..! Nhưng, như nói lúc nãy Giảo Kim thuộc loại phước tướng, không chết trận, không lập công to nhưng trong lúc gieo neo thì có Giảo! Giảo Kim dùng cặp búa đồng rất lợi hại, nhưng một buổi nọ Giảo vô nằm trong miếu ngủ trưa rồi quên hết, chỉ còn có 3 miếng tổ thôi. Ra trận hễ tướng giặc đụng Giảo Kim thì chỉ có 2 cách: một là bỏ chạy, hai là cố sức đỡ cho được 3 búa đầu là xong. Qua đến búa thứ 4 thì nhẹ như trò chơi con nít. Tha hồ mà phản công.

Nhưng Giảo Kim đã từng làm soái được một thời gian và làm vua được 100 ngày và được quần thần tung hô Trình thiên tuế đó chớ! Chuyện Tàu nó vòng vo tam quốc vậy đó bà con à. Kể chuyện này bắt qua chuyện kia!

- Kệ nó, bác cứ kể hết đi.

- Rồi vụ đám cưới Phàn Lê Huê ra sao?

Ông Bầu tiếp:

- Lúc đó Tiết Nhơn Quí đã chết, nên ông Giảo mới thay mặt đàng trai. Nhưng Đinh San lại bắt buộc phải cưới mà không chịu nhập phòng. Lê Huê hận đời mới bay luôn về núi ở với mẹ.

Lúc bây giờ binh Đường bị nguy khẩn cần cứu nguy. Cố nhiên là cần một tướng tài ba. Đó là Phàn Lê Huê. Bây giờ phải đi cầu Phàn Lê Huê. Giảo Kim phải đích thân đi với Đinh San. Nhưng cách hành quân này cũng lạ đời “nhứt bộ nhứt bái nghĩa là tay bưng khay rượu nâng lên ngang mày đi một bước, lạy một lạy, cho đến lúc tới nhà Lê Huê mới thôi. Hai bác cháu leo núi rụng giò mới đến. Nhưng Lê Huê đã chết rồi.

- Ủa, sao kỳ vậy. Mới thấy đó lại chết.

- Đó là bà Nhưn đóng vai Lê Huê, chớ không phải Lê Huê. Nếu là Lê Huê thì bả đâu có tát thằng con nuôi một phát sếu hàm vậy.

- Thôi, kệ nó, tiếp đi bác Ba!

Ông Bầu tiếp:

- Giảo Kim dắt Tiết Đinh San lên trầu rượu xin tội với đàng gái để rước Lê Huê thì thấy một chiếc quan tài nằm chình ình giữa nhà, liễn đôi và bàn thờ tang mới tinh. Giảo Kim quát Tiết Đinh San quì xuống lạy. Thằng nhỏ vừa cuốc vừa khóc. Hồi người ta muốn lại gạt ra, bây giờ muốn người ta, người ta không muốn. Xách cặp dừa đi xuống đi lên là vậy đó.

- Lê Huê chết thiệt sao bác Ba?

Ông Bầu cười:

- Nếu nó chết thiệt thì sao còn lòng thòng cái vụ "Ngũ linh kỳ” mậy! Đinh San đang mếu khóc thở than thì bỗng một tiếng nổ vang trời, khói bốc mịt mù. Trong màn khói Lê Huê hiện ra, đưa tay trỏ mặt Đinh San, quát “kẻ bạc tình đừng có đến đây than than khóc khóc làm chướng tai ta. Hãy về đi cho khuất mắt!”. Mẹ của Lê Huê cũng nhiếccon gái, nhưng sự thực là mắng bác cháu Giảo Kim: “Mầy đã giết cha anh mầy để theo gã bạc tình, bây giờ còn muốn gì nữa? Sao không đuổi hai kẻ bất nghĩa này ra khỏi nhà tao”. Hì hì! Nhưng mà Lê Huê nó bị Đinh San bắt mất hồn gặp lại đây là mừng như hoá kiếp, làm sao đuổi nổi. Nói gì thì nói cột kèo cũ không rủ cũng về mà! Cuối cùng rồi ông Giảo rót rượu nói dăm câu là bà mẹ chịu cho con gái đi theo. Chớ giữ ỏ lại cho nó ở vá à?

Một người vọt miệng nói:

- Ở vá trên núi thì… da thịt cứng như đá há há.

Ông Bầu nói:

- Bà con thấy hồi xưa người ta cũng có những mối tình dữ dội chớ không vừa. Con gái theo trai can không lại chớ đâu phải bày giờ mới có. Nhưng không hiểu sao hồi xưa đàn bà con gái có tài hơn bây giờ. Ở bên Tàu làm những chuyện động trời toàn là nữ tướng. Đời Đường thì có Võ Hậu, Điêu Thuyền, Dương Quí Phi, Phàn Lê Huê, Lưu Kim Đính, Thần Nữ,… đời Tống thì có Thoại Ba, Hàn Tố Mai, Đào Tam Xuân, đời Châu thì có Bao Tự, đời Thương thì có Đắc Kỷ… mấy con gà mái này đá đám gà cồ chạy tét.

Một người chêm vô:

- Bây giờ cũng vậy chớ khác gì, bác Ba. Như bà Nhưn xán một bạt tai vô mặt thằng Kình vậy.

Ông Bầu nhìn bóng trâm bầu ngã dài trên bờ ruộng và nói:

- Thôi, trở lại ruộng đi, kẻo tới chiều còn bỏ cù miếng lúa này, đêm nay chuột phá hết.

Một người khác nói:

- Để nguyên cụm lúa này tối nay bà con đuổi bắt ốc cau, chằng nghịch, dỏ dẻ quay nước dừa nhậu chơi bác Ba.

- Ờ phải đó, mùa này chim ăn lúa mập lút, cái ức nó ưỡn như ức con gái vậy đó. Nướng lửa than chảy mỡ kêu xèo xèo. Mình vừa nhai cặp giò dỏ dẻ đưa ly và nghe bác Ba kể tiếp. Chuyện gì bây giờ bác Ba.

- Mấy chú coi trong mấy chục tuồng tôi kể tên hồi nãy đó mà lựa ra, chớ tôi biết đâu mà kể?

- Bác Ba kể truyện gà mái đá gà cồ đi. Đào Tam Xuân nghe bác?

Ông Bầu cười:

- Sao tụi thanh niên lại thích chuyện bị gà mái đá.

- Gà mái không có cựa, đá không đổ máu bác à.

- Tụi bây gặp con gà mái họ Đào thử coi có đổ máu không? Nhưng mà được, để mai tao kể vụ Đào Tam Xuân rượt bắt Hàn Tố Mai trốn dưới ngai vàng cho tụi bây nghe.

Một người đang nằm bỗng bật đứng dậy vươn vai, ngáp dài và nói:

- Nghe Tiết Đinh San đi cầu Phàn Lê Huê, mình cũng muốn mơ tiên luôn.

Một người cười:

- Nhứt bộ nhứt bái, chắc mệt dữ hả, đâu coi thử cặp đầu gối trầy.

- Hì hì, sẵn đìa kia tắm luôn cho mát.

Cả bọn cười rộ kéo xuống ruộng lúa vàng rực

° ° °

Rạp Bầu Lúa thu hình dưới những tàn lá mù u rậm rạp. Đã được dựng lên từ nhiều năm, lại chịu nắng mưa và không mấy khi được tu bổ, nay nó xệu xạo như lão già sắp chầu trời. Vừa rồi ông Bầu mới vá sàn sân khấu bằng mấy tấm ván trong nhà. Vãn hát lại mang vào lót y như cũ mới có đủ chỗ ngủ cho sắp nhỏ.

Mùa khô mấy đứa trai hát xong lăn ra ngủ luôn tại rạp, chỉ hiềm một nỗi là cái sườn ọp ẹp nên trong những tuồng đánh phép, tiên ông tiên cô không bay được vì móc dây trên nóc, tiên bay sẽ sập mất cho nên ông Bầu nảy ra ý kiến là giăng dây trên những nhánh u như những cánh tay choàng qua nóc. Tha hồ cho tiên bay. Phông màn thì sơn phết chắp vá như một cái áo cũ. Nhưng có phong cảnh thì mới thành màn hát, nếu không thì diễn luôn ngoài trời cho tiện. Nhưng nếu hát ngoài trời, rủi bị mưa thì làm sao? Khán giả tan hàng đã đành, đào kép cũng không khỏi ướt. Người sao, của vậy. Bà con có muốn xét lý lịch Bầu Lúa thì xin đọc những dòng này.

Tôi là Bầu Lúa sanh năm… tại ấp Bánh Tét, xã Cầu Chông, cha mẹ mất sớm đi hoang hồi 8 tuổi. Số là năm đó mất mùa nặng. Bà con trong làng đói nheo nhóc. Một gánh hát tên là Phùng Kỳ đến hát tại nhà lồng chợ. Đêm đầu được 14 khán giả gồm có 6 vị hương chức trong đó có 5 vị được mời (nghĩa là coi không tốn tiền) còn một vị cũng khỏi mua vé. Đó là vợ của ông Cai, người giữ an ninh cho làng xã. Vị chi là phân nửa là khách coi cọp. Còn một nửa thì gồm có bốn đứa con nít và hai cặp vợ chồng có vẻ sang trọng. Bốn đứa con nít thì lại chun vải bao rạp lọt vô được bên trong. Nhân viên xét vé muốn tống chúng ra, nhưng ông Bầu thấy bên trong toàn là ghế trống nên để cho chúng muốn ngồi ghế nào cũng mặc xác. Đám tiểu yêu chợ này, không có ai dám động tới. Chúng phá thành tinh. Các gánh hát Sơn Đông mãi võ tới dọn đồ lễ ra sắp hát thì chúng đâm thủng trống. Còn cải lương đến thì chúng chui vô trong để phá chơi hơn là coi hát. Tên gánh hát rất đẹp (Phùng Kỳ) nhưng chúng kêu là “Phùng mang”.

Một đêm nọ gánh hát đậu giàn khá khá. Khán giả đang xem tuồng Bao Công Xử Án Quách Hoè. Đến màn Bao Công thiết lập toà án dưới Âm phủ để tra hỏi Quách Hoè, đèn được che bớt ánh sáng. Mấy con quỉ hà nàm nhân dịp đó, bèn mở những lon phép ra. Bên trong chứa những bồ cào lẫn trong một thứ nước đặc biệt, chú bồ cào bị nhốt trong lon bây giờ được thả ra, tha hồ bay vi vút ngang dọc, đụng đâu đáp đó. Chẳng bao lâu quan khách đều sờ tay lên đầu và bắt xuống được ít nhất một chú bồ cào, hoặc trúng tóc ươn ướt và xét nghiệm bằng mũi cái mùi đặc biệt kia. Trong số đó có chú bé sau này trở thành Bầu Lúa. Nhưng cũng hãy còn dài, cái tiểu sử ly kỳ của chúng. Sự phá phách không làm cho chúng no hơn chút nào, nhưng đó là bản tánh của con nít. Phá chơi cho vui chớ không để làm gì và cũng không thù oán ai.

Đói vẫn đói. Gánh hát không thu tiền đủ để trả lương cho đào kép nên phải lui ghe đi tìm mối khác. Khi chèo được một lúc thì viên tài công thấy từ dưới khoang hầm nhô lên một đứa bé. Nó kêu đói và được chủ cho ăn cơm nguội uống nước sông, rồi nó trở thành nhân viên bá nghệ của đoàn, không lãnh lương. Gánh hát đi đâu nó theo đó. Vác ghế, quét rạp, kéo màn, nấu cơm, rửa chén, việc gì nó cũng làm với sự hăm hở và tự nguyện.

Một hôm vắng một tên chạy hiệu. Nó được ông chủ cho “đóng vai” đó. Thứ cái đồ quân chạy hiệu khỏi phải hát hò gì. Cứ mặc quần áo nẹp xanh nẹp vàng, đầu đội mão không ra mão, mũ không ra mũ cứ thế đâm bổ ra sân khấu, nếu vấp té càng hay, cứ la toáng lên. Ông tướng không cần nghe tiếng nào cũng biết đó là: “Thậm chí nguy thậm chí nguy! Lửa cháy 1… dì chạy về báo dượng…” hoặc là “Trước mặt non cao chớn chở, sau lưng địch quân tở mở đuổi theo…”

Ông nguyên soái chưa nghe ra môn ra khoai đã tống cho thằng nhỏ một đạp rồi vừa vung râu, vừa đá giáp, co một chân lên, quay luôn ba vòng và la hát inh ỏi.

Tên quân hiệu vào trong cánh gà dòm ra sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Thế cho nên người ta bảo quân chạy hiệu là quân chạy xạo (chạy xạo không gạo mà ăn). Một hôm khác nó được thằng bạn chí thân nhờ nó kéo giùm màn, vì nó bị Tào Tháo đuổi. Thằng bé cầm mối dây đứng chờ… nhưng màn hát mặt đỏ đánh mặt đen, mê quá nó quên mất nhiệm vụ thiêng liêng của nó cho đến lúc buông màn mà nó vẫn còn đứng trơ mắt ếch ra mà nhìn.

Bốp! Một “bạt tai thấy hai ông trời” hơn cả cái của bà Nhưn tặng thằng Kình.

Bỗng một hôm, đời nó lên hương tí xíu. Số là anh kép đóng vai gác cổng dinh thừa tướng. Vai này có đối đáp vài câu chớ không có ca. Nó đóng đạt 100%, nhưng mặc dù được khen, nó vẫn còn làm việc không lương. Rồi nó lớn. Một hôm ông thầy tuồng nhìn thấy khả năng của nó loé lên ông bèn giao nó thủ vai một đứa đày tớ của một võ tướng có vài đoạn đối thoại và mang gói, cầm roi dắt ngựa (giả) nó đều làm tạm được. Ít tháng sau nó được đóng vai lính hầu Tiết Cương. Chả là Tiết Cương bị giặc đuổi rượt, nhưng phải dắt bà vợ có bầu là Lan Anh theo. Lan Anh cũng có một đứa tớ gái. Tớ trai tớ gái trêu chọc nhau bằng những lời thường và cuối cùng có một bài Kim Tiền (đứa ca một đoạn) nó đều hoàn thành trên trung bình cả. Bây giờ tìm cách đóng vai khó hơn thì cơ may đến với nó hơn nó tưởng. Ông thầy tuồng bắt nó đóng vai Bàng Hồng trong tuồng Xử Án Bàng Quí Phi. Vai này là vai phụ bên các vai Bao Công, Tống Nhơn Tôn, nhưng khó, vì nó phải làm ông già râu dài, mặt nhăn cóp. Râu và mặt thì hoá trang dễ, nhưng còn giọng nói thì không phải ai cũng làm được. Nhưng ông thầy tuồng tập cho nó rồi nó cũng làm được Bàng Hồng không kém gì hai tiền bối của nó bao nhiêu.

Lại đến một vai khác. Nó phải thủ diễn thay cho một cô đào. Gái giả trai thì dễ chỉ cân lên gân cổ một chút và vẽ râu chuột là ra dáng con trai rồi. Nếu ngực có căng phồng thì đè nó xuống. Như Quách Hải Thọ trong tuồng Lý Thần Phi trong lò gạch, một nàng có con vẫn đóng được. Lần này thì thầy tuồng bắt nó thủ vai Lưu Yến Ngọc trong tuồng Mạnh Lệ Quân thoát hài. Lưu Yến Ngọc là một vai phụ bên cạnh Mạnh Lệ Quân, nhưng dù sao trai giả gái cũng khó hơn gái giả trai. Không hiểu tại sao ông thầy lại giao cho nó một vai kỳ quái như thế trong lúc cô đào thủ vai Lưu Yến Ngọc vẫn phây phây ra đấy? Nó bèn nại ra nhiều lý do để thối thoát.

- Mặt mũi tôi đực rõ ràng chớ phải tôi lại cái hay sao thầy?

Ông thầy gạt ngang:

- Kép 60 tuổi vẫn đóng vai con gái 18 được nghe mậy.

Nó cãi tiếp:

- Còn cái giọng ồ ề như ngỗng kêu thì làm sao thầy.

- Được rồi. Tao có cách!

Chối không xuôi, nó đành phải nhận. Và nó làm tiểu thư họ Lưu cũng ăn đèn lắm.

Dần dần nó hiểu ra là ông thầy muốn đào tạo nó thành kép có nhiều khả năng. Mà nó có nhiều khả năng thật. Vai nào nó thủ cũng trên trung bình.

Thế là nó thành kép chánh. Cô đào đóng vai Lưu Yến Ngọc đâm ra thích nó rồi mê nó. Rồi hai đứa lấy nhau thành vợ chồng.

Nó không biết đọc nhưng nghe tuồng qua vài lần là nó thuộc hết. Tuồng nào của gánh hát nó cũng nằm lòng. Và vai nào nó đóng cũng được Nó thích tất cả các vai trừ vai vua. Không gì dễ bằng làm vua.

Nhưng bỗng một hôm nó muốn làm thầy tuồng. Nó thấy thầy tuồng cũng dễ làm thôi. Nó quyết học làm thầy tuồng để dạy người khác làm tuồng.

Khi nó có ba đứa con thì nó thấy sự chật vật của gia đình nhất là mỗi khi gánh hát dời chỗ. Trong ban có một đứa bé té sông uống nước chết. Ông Bầu phải làm đám cúng tế vì sợ có noi cho gánh hát.

Vợ chồng nó quyết định rời gánh hát đem con cái về quê sống hẳn một nơi trên đất liền. Nơi đó là kinh Bánh Tét hiện nay.

Kinh Bánh Tét trước kia là một vùng đất hoang. Một ông điền chủ nộp đơn khai khẩn rồi thuê người đào kinh cho nước rỏ phèn. Ban đầu chỉ lèo tèo mấy ngôi chòi. Khỉ là bạn, rắn rùa là thức ăn của họ. Trên bản đồ mới của vùng này kinh Bánh Tét là một đường thẳng một đầu đổ ra rạch Tân Huề, một đầu gối lên sông Mỹ Hưng. Ghe xuồng qua lại giữa hai con sông này không phải đi vòng nữa vì có con kinh Bánh Tét làm đường tắt, cho nên dân trong vùng cũng còn gọi kinh Bánh Tét bằng Kinh Tắc (tắt) hay Cái Tắc (tắt).

Nhiều người ở xa tới nghe danh từ Bánh Tét đã buột miệng nói:

- Đi qua con kinh này không sợ đói bụng.

Nhà ông Bầu Lúa cất trên bờ kinh này. Ngày nay bờ Kinh đã thành vườn tược sum sê, không còn tìm ra dấu vết của một vùng đất hoang nữa. Cầu khỉ nối liền hai bờ ở nhiều chặng. Có cả một cây cầu đúc làm thời ông chủ còn sanh tiền người dân gọi là Cầu Ông Chủ, vì ông chủ đất xây nên và có lẽ cũng để nhớ ơn ông.

Đêm nay gánh Bầu Lúa sẽ diễn tuồng Trảm Trịnh Ân, nhiều gánh hát đổi tên tuồng là Xử tội lăng trì Hàn Tố Mai hoặc Đào Tam Xuân loạn trào hoặc Hàn Phụng dạo long xa. Cũng là từ tuồng gốc rút trong truyện Phi Long diễn nqhĩa mà thôi. Nhưng gánh này thì thêm khúc đầu, gánh khác thì gắn thêm khúc đuôi. Gánh nào có tay hề giỏi thì kéo dài vụ Hàn Phụng dạo long xa thành một màn chọc khán giả cười bằng những cử chỉ và lời nói của tay hề đóng vai Hàn Phụng.

Ông Bầu xếp đặt các vai như sau: Triệu Khuôn Dẫn do ông bầu thủ diễn. Hàn Tố Mai và Đào Tam Xuân: do hai cô đào trẻ. Trịnh Ân: thằng Kình v.v… Các vai khác do các con trai con gái của ông Bầu đóng.

Khán giả đêm nay cũng khá đông. Nhưng đám hát nào cũng vậy, người vào xem hát chỉ là môt số nhỏ, còn phần đông thì đến không phải để xem hát mà để xem người xem hát hoặc ăn quà bánh rồi về, nhưng cũng được tiếng biết xem hát.

Buổi hát được giáo đầu bằng cách giới thiệu các vai tuồng trong truyện: Triệu Khuông Dẫn mặt đỏ, Trịnh Ân mặt đen, Đào Tam Xuân ăn mặc theo võ tướng, Hàn Tố Mai loè loẹt. Những khán giả con nít trỏ người này người kia và nói tên thiệt của họ một cách thích thú để chứng tỏ rằng mình biết nhiều hơn bạn.

Rồi đến ông Bầu nói qua câu chuyện để khán giả dễ theo dõi những lớp tuồng:

Đời nhà Tống bên Tàu có 3 người kết nghĩa kim bằng là Sài Vinh, Triệu Khuông Dẫn và Trịnh Ân. Sài Vinh chết nhường ngôi lại cho Triệu Khuông Dẫn. Thuở còn hàn vi Triệu Khuông Dẫn thường tửu điếm trà đình nên có nhân tình là một cô gái lầu xanh tên là Hàn Tố Mai. Sau khi lên ngôi, Triệu Khuông Dẫn bèn rước Tố Mai về cung làm hoàng hậu. Đây là chuyện chưa từng có ở bất cứ nước nào. Gái điếm lại làm mẫu nghi thiên hạ. Vì thế nên triều đình mới có loại người hạ cấp hiên ngang đóng vai nhất phẩm triều đình. Đó là Hàn Phụng, chú ruột của cô gái lầu xanh kia. Hàn Phụng ỷ cháu mình làm hoàng hậu nên nghênh ngang chẳng coi ai ra gì. Bữa nọ ngồi buồn, Hàn phụng bèn tìm cách giải sầu. Hàn Phụng bèn dùng Long Xa của vua để dạo chơi. Chẳng may lại gặp Trịnh Ân.

Trịnh Ân tính tình giống như Trương Phi, còn mặt mũi thì đen như lọ chảo chẳng khác Uất Trì Cung và có một sức mạnh phi thường. Thuở thiếu thời đã từng nghênh ngang vào vườn của cô bé Đào Tam Xuân và bị cô đánh cho một trận. Nhưng trận đòn đã không gieo hờn oán mà đem lại tình duyên cho hai người.

Khi Triệu Khuông Dẫn làm vua thì phong cho Trịnh Ân chức tước cao tột đỉnh: Nhữ Nam Vương và còn tặng cho con roi lệnh “tiền đả hôn quân, hậu đả loạn thần”. Một hôm Trịnh Ân thấy chiếc long xa đằng kia đi tới thì liền xuống ngựa quì xuống chúc tụng theo lễ quân thần. Hàn Phụng ngồi bên trong khoái chí vô cùng vì cái trò chơi xấc láo của mình. Đến Nhữ Nam Vương còn phải quì lạy nữa là ai, bèn cười hô hố và khoát tay phán: “Trẫm miễn lễ, khanh hãy bình thân!” Nghe giọng nói tiếng cười lạ tai, Trịnh Ân bèn ngẩng lên và nhận ra là Hàn Phụng, bèn nổi nóng rút roi sắt ra đập một phát gãy bốn cái răng cửa của Hàn Phụng. Tên này mang đầu máu thui thủi về triều, lòng căm ghét tên mặt lọ nồi, nhưng chẳng biết làm sao rửa hận. Bỗng nhớ tới đứa cháu là Hàn Tố Mai. Hàn Phụng bèn vào cung bái kiến hoàng hậu. Tố Mai thấy mặt mũi ông chú kính yêu bầm tím lại thêm cặp môi sưng vều, hai hàm răng trống lỗng bèn hỏi qua cho biết cớ sự. Hàn Phụng kể lại đầu đuôi câu chuyên dùng long xa đi dạo. Nghe xong Tố Mai đã không bênh vực lại còn trách móc chú về việc làm lố lăng xúc phạm đến thánh hoàng. Hàn Phụng xấu hổ bèn nghĩ ra cách kích bác đứa cháu. Hàn Phụng bảo: “Chú làm quấy chú chịu đòn đã đành nhưng nó chửi mắng cháu thì chú không nhịn được. Hàn Tố Mai hỏi: “Con lọ nồi đó dám đụng đến thanh danh của cháu sao?” Hàn Phụng bèn phịa ra câu chuyện: “Nó bảo cháu là thứ gái điếm ngáp phải ruồi, nay được lên ngôi quốc mẫu nhưng giấu sao được cái mùi tanh lợm của lầu xanh?” Hàn Tố Mai đùng đùng nổi giận và hứa sẽ trả thù cho hai chú cháu.

Nhơn một bữa tiệc, Tố Mai phục rượu cho vua say mèm ngất ngư rồi gạ chuyện và khóc thút thít. Vua hỏi có điều chi u ẩn. Tố Mai bèn than rằng cuộc sống ở lầu xanh thế mà vui thú, còn về đây làm hoàng hậu mà cuộc sống lại dập bầm. Vua hỏi phăng tới. Tố Mai oé ên khóc hồi lâu, vua phải năn nỉ, Tố Mai mới hỏi: “Nếu ai khinh miệt thiếp thì bệ hạ nghĩ làm sao?” Vua phán hỏi: “Ai dám khinh miệt ái khanh?” Tố Mai đáp: “Dù thiếp có nói ra bệ hạ cũng bỏ qua thôi, vì người ấy quyền cao tước trọng! Triệu Khuôn Dẫn đang say ngất ngư lại bị kích thích nên vỗ bàn quát to: “Dù ai quyền cao chức trọng trảm cũng chém đầu.”

Hàn Tố Mai đắc kế bèn đưa ra tờ chiếu đã thảo sẵn và cầm tay vua phê và đóng ấn vào rồi sai ngự lâm quân thi hành lệnh chém đầu Trịnh Ân tức khắc. Ghê gớm thay miệng lưỡi đàn bà và cũng ngu xuẩn thay bọn đàn ông dại gái, một phút u mê đã giết cả người bạn nối khố vô tội của mình.

Ông Bầu dừng lại và nói tiếp:

- Đêm nay chúng tôi chỉ diễn tới đây cũng đã khuya rồi. Bà con mình về ngủ khoẻ để sáng mai còn lo việc đồng áng. Tôi xem trời thấy mây nhả bừa hơi nhiều ở phía mặt trời mọc, e có một đám mưa nghịch mùa chăng? Bị mưa lúa sẽ mẹp, rụng hột hết.

Nhưng khán giả la ó đòi diễn luôn cả tuồng. Ông Bầu bèn tìm cách gỡ gạc:

- Mấy màn sau đào kép chưa thuộc lời. Để ngày mai vào lúc nghỉ trưa, tôi sẽ dượt lại họ vài lượt nữa, mới diễn suôn sẻ được. Nhưng để bà con vui lòng, tôi xin kể tiếp chuyện để bà con nào chưa đọc chuyện cũng biết luôn.

Thế là khán giả đành ngồi nghe tiếp câu chuyện mà không đòi diễn cả tuồng nữa.

Ông Bầu kể tiếp:

- Cái chết của Trịnh Ân làm trời đất cũng rùng mình rởn óc. Thiên hôn địa ám một góc trời. Khi tỉnh rượu Triệu Khuông Dẫn mới hay mình lầm kế con điếm lầu xanh khoác áo hoàng hậu, nhưng than ôi đã muộn. Đầu Trịnh Ân đã lìa khỏi cổ trong khi chú cháu Hàn Phụng mở tiệc ăn mừng thù đã rửa xong.

Đây nhắc lại Đào Tam Xuân đang làm nguyên soái trấn biên ải sai chồng là Trịnh Ân về trào có việc. Bỗng nghe rùng mình, bèn bấm tay thì biết chồng lâm đại nạn, bèn cho quân sĩ mặc tang phục và lập tức kéo binh về triều vấn tội hôn quân. Triệu Khuông Dẫn hay tin bèn cho dóng chặt cửa thành. Nhưng Đào nguyên soái ra lệnh công phá, vào thành bắt cho được Tố Mai xẻo từng miếng thịt. Khuông Dẫn vẫn chưa nhận lỗi mà xuống chiếu phong cho Trịnh Ấn con trai của Trịnh Ân chức Nhữ Nam Vương đời đời hưởng lộc triều đình, để mong xoa dịu cơn phẫn nộ của Đào Tam Xuân. Nhưng Đào nguyên soái nhất định đòi phải giao nạp Tố Mai cho mình và xử bá đao Hàn Phụng thì nàng mới chịu lui binh. Đến nước này rồi mà nhà vua vẫn còn bao che cho Tố Mai để khỏa lấp tội vong ân bội nghĩa của mình. Từ xưa tới nay chưa có ông vua nào phong chức hoàng hậu cho gái lầu xanh và cũng chưa có ông vua nào trơ trẽn như Triệu Khuông Dẫn. Nhưng Đào Tam Xuân, sau khi lục soát các cung, không thấy Tố Mai bèn xộc đến ngai vàng. Quả nhiên, Hàn Tố Mai đang chui rúc dưới Long ngai. Đào Tam Xuân lôi ra và hạ lệnh lập bàn thờ Trịnh Ân. Và trước những ngọn nến sáng rực, Đào nguyên soái lóc từng miếng thịt Hàn Tố Mai và kể tội chú cháu Hàn Phụng.

- Tội thứ nhứt mê hoặc thánh quân.
- Tội thứ hai làm bại hoại tình huynh đệ.
- Tội thứ ba phá nát nghĩa quân thần.
- Tội thứ tư phạm thánh giá…

Tự tay Đào Tam Xuân tế sống chồng trước mặt Triệu Khuông Dẫn. Nhà vua ngồi nhìn, mặt xanh mày tái, không dám nói một lời.

Ông Bầu kể xong, cúi chào và bước vào trong cánh gà thì màn cũng từ từ kéo lên giữa sự hân hoan nô nức của khán giả. Có tiếng reo:

- Hàn Phụng! Hàn Phụng ngự long xa!

- Ngồi chưa nóng đít thì gãy răng bây giờ.

Sự ồn ào đang nổi lên thì một người mặt đen xuất hiện từ phía đối diện. Người xem lại la to, mấy đứa con nít từ phía sau chạy vụt lên mép sân khấu.

- Trịnh Ân! Trịnh Ân!

Trịnh Ân vừa quì xuống chúc tụng thì có tiếng con nít:

- Không phải vua đâu, đừng có lạy!

- Xuỵt, im đi để coi người ta hát.

Trịnh Ân ngước mặt lên nhìn thấy Hàn Phụng bèn đứng phắt dậy, mắt trợn ngược, tay rút roi sắt vung lên, miệng hét như sấm.

- Đã rồi! Gãy răng rồi.

Ở trên sân khấu diễn tới lớp nào trẻ con hò reo và cắt nghĩa tới lớp đó. Đến lớp Hàn Phụng ôm mặt nhảy xuống long xa chạy trốn, khán giả cười ồ. Một ông lão nói:

- Đáng cái đời thằng làm bậy.

Một ông lão khác bảo:

- Xáng cho nó một bạt tai để đời là đủ rồi, cần gì phải dùng tới roi sắt! Gãy hết bốn cái răng cửa làm sao nó ăn cơm.

Khán giả bình luận râm ran, mỗi người một câu làm cho một số bớt chú ý xem tuồng, ông Bầu thấy thế bèn bước ra giơ tay, nói:

- Xin mời bà con chú ý xem tiếp. Hàn Phụng về nhà có vợ nó đút cơm. Vợ nó mê tín nó lắm và nó sẽ nói láo với vợ nó rằng nó đi chầu thiên tử, đụng cột nhà gãy răng chớ không có ai dám đánh chú vợ của vua. Thế là vợ nó tin bằng thật. Rồi nó vẫn chứng nào tật ấy làm càn.

Tuồng diễn tới màn chót. Những ngọn đèn cầy leo lét thắp trên bàn thờ Trịnh Ân hai hàng binh sĩ mặc tang phục đứng hai bên. Hàn Tố Mai bị trói ở giữa sân khấu. Triệu Khuông Dẫn mặc long bào, mũ mão xốc xếch bước ra, đến trước mặt Đào Tam Xuân năn nỉ xin tha tội cho Tố Mai. Đào Tam Xuân mất chồng, đau đớn nên không còn kế gì nữa, xách gươm đuổi vua chạy dài, rồi quay lại lóc thịt Tố Mai, “máu” chảy ròng ròng làm nhiều người quay mặt, không dám nhìn. Đào Tam Xuân vừa vung gươm vừa ca cho đến lúc Tố Mai thét lên tiếng cuối cùng và … chết.

Trong số khán giả có người nói to lên:

- Ông Bầu cho xin cái xác Tố Mai được không?

° ° °

Một đám con trai con gái xách mấy giỏ chim đến rạp Bầu Lúa. Ông Bầu hỏi:

- Tụi bây tính cúng tổ hay sao đó?

- Đâu phải bác, tụi cháu đã hứa hôm nọ ở ngoài ruộng là sẽ đuổi chim đem lại bác nhậu để nghe bác kể chuyện mà.

- Chim gì đó?

- Nhiều thứ lắm. Nhưng có ba loại thịt ngon nhất là giỏ giẻ, ốc cau và chằng nghịch.

- Có cúm núm không?

- Dạ có một con thôi để tặng cho bác Ba gái.

- Bộ tao không biết ăn hay sao?

- Tụi cháu biết bác gái mới sanh em bé nên tặng cho bác ăn mau lấy lại sức lên sân khấu hát cho bà con coi.

- Thôi cũng được. Để đó nhậu xong tao làm thit bằm nhuyễn vò lọn nấu cháo bún củ hành cho bác ăn có sữa em bú. Còn bây giờ đứa đi gom củi dừa đốt lên, đứa đi vặt lông mổ bụng chim, rồi đem cặp hai ba con vô một gấp gác lên lửa than, môt chút là có mồi nhậu.

Một cậu hỏi:

- Bữa nay bác kể chuyện gì cho ngọt ngọt nhậu mới bắt, nghen bác Ba.

Ông Bầu cười:

- Chuyện nào trong truyện rút ra làm tuồng cũng đều cay đắng chớ không có ngọt đâu. Nếu có thì ngọt ít đắng nhiều, cay nhiều ngọt ít. Như vậy mới hay. Cũng như tụi bây ăn chè vậy, chỉ một chén là ngán rồi.

Một cô nói:

- Có truyện nào như Thần Nữ không bác?

- Chỉ có một chuyện đó mà hát rồi! Để bác kể chuyện này nghe cũng hay lắm.

- Đàn ông hay đàn bà vai chánh vậy bác?

- Đàn ông cũng có, đàn bà cũng có! Đó là “Bà Lý Thân Phi ở trong lò gạch”, người ta lấy ra làm tuồng Bao Công xử án Quách Hoè.

Đám thanh niên thiếu nữ ngồi bên gốc dừa chờ nghe ông Bầu kể, nhưng ông chờ mấy cô cậu cặp gắp chim gác lên lửa than mới bắt đầu:

- Chuyện đầu đuôi như vầy. Hồi đời vua Tống Chơn Tôn bên Tàu, trong cung có hai bà có bầu một lượt. Một bà là chánh hậu, một bà là thứ phi.

Đám thanh niên cười ré lên, một cậu hỏi:

- Vua có mấy vợ đặng bác?

- Cái đó tùy từng ổng muốn bao nhiêu được bấy nhiêu. Nhưng lệ thường là hai bà thứ hậu, một bà chánh hậu. Đó gọi là tam cung. Bên cạnh đó còn có lục viện nghĩa là sáu bà phi. Ngoài ra còn hai ngàn cung nữ để phụng sự cho vua và hoàng hậu. Hàng năm đều thải ra những cung nữ già, xấu, không làm hài lòng vua, để tuyển gái đẹp vào thay thế.

- Như vậy mà chỉ có một mình vua thôi sao bác?

- Còn nhiều quan trong cung là đàn ông. Như vậy, nhưng vẫn không có chuyện lôi thôi xảy ra vì các quan này đều bị thiến hết.

- Đàn ông con trai mà thiến làm sao, bác?

- Thiến như thiến gà, thiến heo vậy.

- Trời, sao kỳ vậy?

Bọn thanh niên la lên. Còn đám con gái thì đỏ mặt nhìn xuống đất.

- Đó là luật của triều đình, ai dám cãi? Những vị quan này gọi là thái giám. Để thong thả rồi bữa khác bác sẽ kể chuyện thiến dối cho tụi bây nghe.

- Có vụ thiến dối nữa sao bác?

- Có chớ! Bởi vậy nên bà thái hậu mới có bầu đẻ hai đứa con. Đó là em một mẹ khác cha của Tần Thủy Hoàng đó. Bây giờ để bác kể tiếp kẻo nguội. Hai bà vợ vua có bầu một lượt. Vua hứa rằng ai đẻ con trai thì sẽ lên ngôi thái hậu vì con trai sẽ nối ngôi vua.

- Rồi ai đẻ con trai hả bác?

Một cô hỏi thúc tới.

- Nếu bà chánh hậu đẻ con trai thì mọi việc đã êm xuôi và không có vở tuồng này. Ngược lại bà chánh hậu thì đẻ con gái và bà thứ phi lại sanh con trai, thế mới sanh ra chuyện rắc rối chớ!

- Rồi sao nữa? Bác cứ kể như rùa leo núi vậy.

- Đứa nào vô nhà biểu bác Ba gái lấy chai rượu ngâm ô môi đem ra đây tao thấm cái đóc giọng cho ướt chút kể mới thông.

Bác mới vừa nói dứt lời thì thằng con trai đã xách chai rượu với cái ly ra tới:

- Má biểu đem ra cho ba!

Đám thanh niên cười khúc khích:

- Bà già điệu dữ ta!

Ông Bầu thấm giọng rồi tiếp:

- Thói đời vợ lớn không ưa vợ bé. Tụi bây biết sao không?… Thôi tao không nói để sau này rồi bây sẽ biết… Bà thứ phi sanh hoàng nam để kế vị cho nên được vua yêu mến hơn các thứ phi khác đã đành, lại còn hơn cả chánh cung. Vua bèn phong cho bà phi này danh hiệu “Thần Phi”. Bà họ Lý nên trong cung ngoài triều ai nấy đều gọi kính là Lý Thần Phi. Vua càng yêu Lý Thần Phi bao nhiêu thì bà chánh hậu càng ghét bà bấy nhiêu. Nhất là quyền lợi bị sứt mẻ nhiều. Con gái của bà chỉ là công chúa còn bà thì không được làm mẹ vua. Vì ganh ghét nên nghĩ ra mưu kế để hãm hại Lý Thần Phi. Bà bèn gọi thái giám tâm phúc là Quách Hoè đến để vấn kế. Quách Hoè lâu nay ăn lộc thực của chánh hậu nên mong có ngày đền đáp. Được chánh hậu giao cho trách nhiệm hại đối thủ, Quách Hoè nghĩ ngay ra độc kế và rỉ tai chánh hậu. Chánh hậu bèn cho mời Lý Thần Phi đến dự tiệc ăn mừng “em sanh hoàng tử”. Lý Thần Phi tưởng tình chị em thắm thiết, chị ngã em nâng chớ có ngờ đâu em chưa ngã mà chị đã xô cho ngã. Nhiều lần Lý Thần Phi muốn kiếu từ ra về Bích Vân Cung, là cung riêng của bà, để cho con bú, nhưng bà chánh hậu miệng ngọt như đường cầm chân Lý Thần Phi ở lại và bí mật sai thái giám Quách Hoè sang Bích Vân Cung đưa hoàng tử sang đây để Lý Thần Phi cho bú. Đến tối mịt, Lý Thần Phi mới về đến nhà. Bà giở màn ra thăm con thl hoàng tử đã biến đâu mất, ở trong nôi chỉ có con mèo chết nằm cong queo. (Tích này gọi là “ly miêu hoán chúa” nghĩa là đem con mèo đổi chúa.) Hồn vía bà lên mây, hồi lâu mới hỏi bọn cung nữ thì bọn này bẩm rằng: lúc trưa có Quách thái giám sang bảo Lệnh Nương nương cho dời hoàng tử sang cung chánh hậu để nương nương cho bú. Bây giờ Lý Thần Phi mới biết mình lầm độc kế của bà chị yêu quí. Chưa biết thưa bẩm với ai thì Bích Vân Cung bốc hoả tưng bừng. Lý Thần Phi chạy theo đám loạn dân ra ngoài thành

Một câu thanh niên hỏi:

- Còn hoàng tử ở đâu bác?

Ông Bầu lại chậm rãi rút nút chai bằng cặc bần nhét rất khít để giữ hơi nên loay hoay mới rót rượu được, làm đám thính giả sốt ruột quá chừng. Hớp rượu xong, bác lại bảo:

- Đứa nào trở cho đều kẻo chim khét!

- Có con chín rồi nè bác! Để cháu rứt cái đùi vỏ vẻ để bác đưa thêm một ly rồi hãy kể tiếp cũng không muộn gì!

Nói xong thì một cô đã lẹ tay kéo tàu chuối xuống xé một miếng rồi bốc nguyên con chim để lên đưa cho ông Ba. Ông Ba cầm cái giò chim đưa lên mũi và nói:

- Chim này ăn lúa chín nên mập quá, cái ức no tròn, khắp mình tươm mỡ thơm phức. Thôi dọn ra đi, dĩ thực vi tiên! Bụng có no nghe truyện mới hay.

- Bác cứ kể đi, để tụi cháu lo chuyện sắp dọn cỗ bàn.

- Dọn rồi ăn luôn đi. Tao vừa kể vừa nhậu. Bây vừa ăn vừa nghe. Đứa nào uống rượu được thì làm một ly.

Rồi bác tiếp:

- Lúc trưa Quách Hoè sang BíchVân Cung đánh lừa bọn cung nữ và tráo con mèo chết, ẵm thái tử bảo đi cho bú, đem ra hồ sen ném xuống nước rồi trở vô phục lịnh hoàng hậu. Chơn chúa có thần hộ mạng nên thái tử rớt nằm trên lá sen chớ không chìm xuống nước. Thời may vừa lúc đó có cung nữ Thừa Ngự đi hái hoa ngang qua hồ sen nghe tiếng khóc thì dừng lại xem chẳng ngờ bắt gặp thái tử.

- Sao biết là thái tử? - Một cậu hỏi.

- Trong cung chỉ có hai bà sanh con. Bà chánh sanh con gái thì con trai là thái tử chớ còn ai nữa? Do cái tục lệ trọng nam khinh nữ mà có câu nhất nam viết hữu thập nữ viết vô. Một đứa con trai kể là có, mười đứa con gái cũng coi như không. Khấu Thừa Ngự bèn vớt thái tử lên bờ khóc lóc than thở không biết làm cách nào để cứu ấu chúa, vì sợ tai mắt của chánh hậu biết thì mang hoạ. Vừa lúc đó có thái giám Trần Lâm đi qua. Trần Lâm thuộc phe Lý Thần Phi. Khấu Thừa Ngự trao thái tử cho Trần Lâm rồi nhảy xuống hồ trầm mình đề phòng sau này chánh hậu có tìm ra kẻ cứu thái tử thì nàng cũng đã chết rồi. Nhờ vậy mà thái tử được cứu sống. Thật là hoàng thiên bất phụ hảo nhơn tâm.

- Còn bà Lý Thần Phi chạy ra khỏi thành rồi đi đâu, bác?

- Bà chạy trong đám loạn dân rồi lạc vào trong xóm, trú ngụ trong một cái lò gạch bỏ hoang, ở đây có hai mẹ con bà nọ đang sống cuộc sống nghèo nàn. Bà mẹ cũng vừa sanh đứa con trai rồi hấp hối nằm chờ chết. Lý Thần Phi cám cảnh khốn khổ bèn đem chôn bà mẹ và nuôi đứa con mồ côi và đặt tên nó là Hải Thọ. Khi bà trở nên mù loà thì chính nó lại trở thành đứa con chí hiếu nuôi lại bà mà tưởng là mẹ ruột của mình. Còn Lý Thần Phi thì vẫn giữ kín tông tích của mình và không cho Hải Thọ biết nó chỉ là đứa con nuôi của bà. Tình mẹ con rất đẹp. Mẹ hiền con thảo sống với nhau cháo rau đạm bạc qua ngày đoạn tháng, tưởng chiếc lò gạch điêu tàn này sẽ là nơi ẩn trú suốt đời của hai mẹ con.

Một cậu hỏi:

- Bà Lý Thần Phi không đi tìm con sao bác?

- Tìm sao được mà tìm! Vả lại thế lực của bà hoàng hậu đang thao túng cả triều đình. Nhà vua thắng trận ban sư thì tưởng mọi việc đều là tai hoạ, nên không tra xét gì hết. Còn vụ Lý Thần Phi sanh ra con mèo là trọng tội với triều đình. Nay bà đã “bị cháy ra tro” thôi cũng bỏ qua.

Nhưng trời có mắt. Thiên hữu nhãn. Một ngày kia Bao Công vâng lệnh vua đi chẩn bần ở Từ Châu về ngang đây.

- Chẩn bần là gì, bác?

- Là đem của kho phân phát cho dân nghèo. Nhưng vua chỉ tín nhiệm có một mình Bao Công vì ông là người “thiết diện vô tư, cực kỳ liêm chính”, các quan trong triều đình phải kính nể ông. Ngoài ra ông còn có thiên tính là phanh phui tất cả các vụ án bí mật bị vùi lấp từ 10 - 15 - 20 năm. Đám nịnh thần rất sợ ông.

Đi ngang qua vùng lò gạch, ông đang ngồi trên ngựa bỗng có ngọn gió bất ngờ thổi qua làm chiếc mão trên đầu ông lật ngang và văng xuống đất. Ông gọi đó là “lạc mạo phong” (cơn gió làm rơi mão) và hét hai tùy tùng viên là Trương Trung, Lý Nghĩa đuổi theo bắt cho được cơn gió ấy. Hai gã này nhìn nhau lác đầu: “Làm sao mà bắt được gió, lão gia điên rồi sao chớ!” Nhưng lịnh đã ban không dám cãi, hai gã bèn đuổi theo hướng chiếc mão bay. Đuổi được một quãng thì thấy chiếc mão tấp vào thúng cải của một cậu bé.

- Ai vậy bác?

- Mấy chú có nghe người ta kêu lô-tô như thế này không?

Trương Trung Lý Nghĩa
Vâng lịnh Bao Công
Bắt Lạc Mạo Phong
Bắt nhằm Hải Thọ

Cậu bé gánh cải kia chính là Hải Thọ. Hai gã bèn bắt cậu bé đem về nạp cho Bao Công. Bao Công hỏi vài câu rồi thả ra. Hải Thọ về lò gạch thuật lại cho mẹ nghe. Nghe xong bà bảo: “Con hãy trở ra mời ông ấy vào cho mẹ nói chuyện”. Hải Thọ thất kinh hồn vía, mới được thả về đây lại còn bén mảng tới để bị bắt nữa hay sao? Vả lại nhà nghèo, quan to như thế vào rồi ngồi ở đâu? Bèn thưa với mẹ: “Ông quan mũ cao áo rộng chắc không tới nhà mình đâu mẹ”. Bà mẹ gắt: “Con cứ nói mẹ muốn gặp, tự nhiên ông ấy sẽ đến.” Quả nhiên khi Hải Thọ trở ra bẩm với Bao Công thì ông ấy đã không bắt tì bắt ố gì mà lại thầm nghĩ: "mụ già tàn tật, nghèo nàn mà dám ngỏ lời mời ta đến ắt có uẩn khúc gì, vậy ta đến thử xem mụ ta nói những gì?" Rồi đi tới lò gạch đứng ngoài cửa bảo Hải Thọ dẫn mẹ ra gặp ông. Thọ vào thưa với mẹ thì bà bảo: “Con ra nói với quan rằng không đến thì thôi, còn đến đây thì phải vào lò gạch cho ta gặp”. Hải Thọ ra thưa lại thì Bao công càng sinh nghi bà già có điều chi oan ức, nên vén áo cuộn râu lên cho gọn gàng rồi chui vào lò gạch. Hải Thọ vào buồng thưa lại, mẹ mới chống gậy lần dò đi ra, cất giọng sang sảng:

- Có phải Bao thị chế đó không (tức Bao Công)

- Ta đây đệ nhất phẩm triều đình.

Bao Công hơi quạu quát trả.

Bà già bảo:

- Ngươi thấy ta sao còn chưa chịu quỳ xuống ra mắt?

Bao Công ngạc nhiên cực độ nhưng vẫn ngoan ngoãn quì để xem việc gì xảy ra. Mụ già lần bước đến gần vị quan sờ lên đầu rồi sờ dần xuống gáy, bảo:

- Đây là xương Yến Nguyệt Tam Xoa, đúng là Bao thị chế chớ không phải ai khác.

Bao Công càng ngạc nhiên. Bà lão bảo Hải Thọ đem ghế mời quan ngồi và nói:

- Ta là Lý Thần Phi đây!

- Trời!

Bao Công kêu thét lên một tiếng vang động và dập đầu xuống đất:

- Xin nương nương tha tội chết. Thần có mắt mà không nhìn ra nương nương.

Bà lão mù cười nhẹ rồi thuật lại hết đầu đuôi, xong bảo:

- Chuyện đã xảy ra đúng 20 năm. Tất cả đều vùi trong đống tro tàn của Bích Vân Cung đâu ai còn nhớ tới nữa.

- Vậy lệnh bà có biết thái tử thất lạc ở đâu không?

- Ta yếu đuối, mù loà lại sợ chánh cung bắt được thì còn dám đi đâu để mà tìm kiếm. Nhưng con ta có dấu riêng. Bên tay phải có hai chữ San Hà, bên tay trái có hai chữ Xã Tắc, nét đỏ như son không thể nào đánh tráo được.

Bao Công nghe tâu thì lòng sinh nghi, bèn lập tức trở về triều sụp lạy trước đền rồng mà tâu rằng’

- Hạ thần đáng muôn thác! Rồi ré lên khóc.

Vua và quần thần chẳng biết lý do gì, sửng sốt nhìn nhau. Bao Công bèn đứng dậy vòng tay tâu:

- Hạ thần dám hỏi mẹ ruột của bệ hạ là ai?

- Mẹ ta là Địch Thái hậu, cha ta Bát Hiền Vương, anh ta là Lộ Huê Vương. Sao hôm nay khanh hỏi kỳ vậy?

Bao Công tâu:

- Trên tay bệ hạ có dấu vết gì không?

- Tay phải có chữ San Hà, tay trái có chữ Xã Tắc.

- Như vậy mẹ ruột của bệ hạ không phải là Địch Thái hậu mà là bà già mù ở trong lò gạch huyện Từ Châu đang sống với một đứa bé chuyên nghề bán cải độ nhựt.

Nhà vua bèn cho thỉnh Địch Thái hậu đến thì bà thú thật rằng đương kim thiên tử không phải là con ruột của mình, và xin vua cho vời thái giám Trần Lâm tới. Thái giám Trần Lâm đã 80 tuổi kể lại rằng khi nhân được thái tử từ tay cung nữ Khấu Thừa Ngự thì bỏ vào lẵng hoa nhưng không dám đem về cung vì sợ bị hại lần thứ hai, bèn đem sang cho Địch Thái hậu, phu nhân của Bát Hiền Vương là chú ruột của Tiên đế. Thái hậu nhận làm con và nuôi cho đến lúc trưởng thành. Khi hoàng thượng băng hà thì hoàng thượng chưa có thái tử nối ngôi, quần thần bèn chọn Lộ Huê vương, là con trưởng nam của thái hậu, nhưng Lộ Huê Vương kiếm cớ từ chối khéo, nên con thứ mới lên ngôi, nào ngờ đâu đứa con này lại là hạt máu của tiên vương.

Nghe kể xong, nhà vua bèn giơ hai bàn tay lên cho quần thần xem và bảo quan ngự sử chọn ngày để ngự giá đến lò gạch rước mẫu hoàng về cung. Đến nơi nhà vua quì dưới chân mẹ mà tạ tội:

- Con giàu sang muôn họ mà để cho mẹ nghèo hèn thế này, thật đáng xấu hổ cho một bậc chí tôn!

Rồi thấy bà mẹ bị mù, nhà vua khấn vái xin cho mẹ sáng mắt trở lại. Quả nhiên lời khấn của một vi vua hiếu thảo được thánh thần chứng giám. Đôi mắt của Lý Thần Phi sáng lại như xưa.

Nhà vua truyền đem phụng liễn và võng lọng rước mẹ và em (Hải Thọ) về triều phong tước cho Hải Thọ nhưng Hải Thọ tâu rằng: “Hạ thần lâu nay chuyên nghề bán cải, sống cuộc đời lam lũ đã quen, sợ e không hạp với cung vàng điện ngọc, vậy xin bệ hạ cho hạ thần trở về lò gạch sống tiếp cuộc sống như trước”.

Một cậu thắc mắc:

- Rồi vua có cho Hải Thọ về lò gạch không bác?

Ông Bầu nói:

- Chuyện đó để chút nữa sẽ kể, bây giờ nhắc lại tên thái giám Quách Hoè kẻo nguội. Quách Hoè khi hại được mẹ con Lý Thần Phi thì được bà chánh cung vô cùng chiều chuộng, ăn cơm uống rượu chung mâm, thưởng hoa ngắm cảnh hằng ngày. Quách Hoè được tước “Công công” kẻ lớn người nhỏ đều nể oai gọi là Quách công công, đi một bước có kiệu, xe. Vì quá mập cho nên lên xuống phải có người đỡ và ngoài ra còn có quyền vua triệu mà không đi chầu. Cây lọng của bà chánh cung nay là Thái hậu xoè ra cho Quách Hoè một bóng mát quá ư rộng lớn. Bỗng một hôm được lệnh vua đòi. Lần này Quách Hoè biết là nguy to rồi vì ai cũng biết Lý Thần Phi đã hồi cung! Quách Hoè sang xin bà chủ che chở, nhưng bà này vừa xấu hổ vừa sợ mắc tội lăng trì nên đã vào phòng thắt cổ tự vận.

Bao Công cho bắt Quách Hoè, nhưng hắn tuyên bố đã ăn lộc thực của chủ quá nhiều. Đây là dịp đền ơn đáp nghĩa. Bao Công cho tra tấn thế nào họ Quách cũng nhất định không hé răng. Nhưng đau quá đành phải thú nhận: “Chỉ khi nào ta chết xuống âm phủ, ta mới khai cho Diêm vương mà thôi.” Thì bỗng một hôm Quách Hoè mở mắt ra nhìn thấy trước mặt mình một bầy ngưu đầu mã diện, ngồi ở chính giữa là Diêm vương. Hai bên là phán quan cầm bút sẵn sàng ghi chép lời khai của họ Quách. Quách Hoè nghĩ thầm: thế là chúng nó đã khảo mình đến chết rồi. Thôi, đã xuống đây dù có khai, trên dương thế chúng cũng chẳng làm gì mình được nữa. Vả, bà chủ đã chết rồi thì chúng nó còn bắt tội ai? Nghĩ vậy Quách Hoè bèn khai hết mọi việc “ly miêu hoán chúa, thiêu huỷ Bích Vân Cung”, chẳng sót một điều gì. Diêm vương nghe xong bèn bảo phán quan đem tờ khai cho họ Quách ký vào.

Sáng hôm sau Quách Hoè tỉnh dậy, thấy mình còn sống, mới hay rằng Bao Công lập ra toà án Diêm vương giả để bắt mình khai. Bị mắc mưu, Quách Hoè tức tối bèn cắn lưỡi tự tử. Thái giám Trần Lâm, người cứu thái tử năm xưa, nay đã 80 tuổi, nghe tin, tức cười quá cười một lúc rồi cũng chết luôn. Hai cái chết cùng một lúc, nhưng cái nhục, cái vinh.

Bây giờ nhắc lại Hải Thọ xin vua cho về lò gạch. Bà mẹ cảm khái lòng chơn chất thật thà của đứa con nghèo nàn bèn bảo nhà vua cũng cho mình về lò gạch sống với Hải Thọ. Nhà vua bối rối không biết tính cách nào, bèn phán hỏi quần thần. Một vị quan xin vua cất ngay một lò gạch trong hoàng cung cho bà ở và cấp cho Hải Thọ một miếng đất để trồng cải. Như vậy lưỡng tiện cả đôi bên. Con được cơ hội săn sóc mẹ, anh được dịp trả nghĩa cho em. Vụ án này xử xong, Bao Công được xem như một vị thần xử án. Nhà vua giao phó tất cả các vụ án đã bị vùi lấp dưới cường quyền và thời gian.

Ông Bầu ngưng kể hồi lâu mà các thính giả của ông hãy còn ngẩn ngơ chưa hay câu chuyện đã chấm dứt. Những chú chim nướng còn nằm nguyên trên tàu lá chuối. Vì câu chuyện quá hấp dẫn nên không ai thiết đến những chú chim vàng ngậy thơm phức nữa.

Một cậu hỏi:

- Chuyện này chừng nào bác sẽ làm tuồng?

- Cốt tuồng thì có sẵn trong bụng tao đây rồi. Chỉ cần lôi nó ra phân vai học cho thuộc là diễn thôi.

Một cậu nói:

- Bác cho cháu thủ một vai, được không?

- Cháu muốn đóng vai nào?

- Vai nào dễ nhất thì giao cho cháu.

- Trên sân khấu không có vai nào dễ hết. Chỉ nội việc bước ra sân khấu cũng đã là khó rồi. Phải dạn dĩ, phải có duyên, chớ không phải ai cũng làm kép hát được.

Cậu thanh niên nói:

- Cho cháu thủ vai ngưu đầu hoặc mã diện được không bác?

Ông Bầu cười xoà:

- Thôi, hơ lại mấy con chim cho nóng rồi bắt đầu làm tiệc nguội.

- Kỳ tới bác sẽ kể chuyện gì.

- Chưa biết chuyện gì. Để thong thả rồi tính tới.

- Mình không phải lo. Truyện sắp lớp trong bụng bác mà.

° ° °

Bỗng một hôm, bất ngờ con vợ thằng Kình đến gặp bà Nhưn đang lúc bà xay lúa. Bà ngừng tay chào hỏi. Vợ Kình nói:

- Em có chuyện muốn thưa qua với chị một chút chị Nhưn.

Bà Nhưn với vợ Kình là hàng xóm, cùng đi cấy đi gặt, gặp mặt nhau luôn, nghe vợ Kình nói giọng nghiêm trang “thưa dạ” thì hơi ngạc nhiên không hiểu chuyện gì.

Vợ Kình nói tiếp cũng với giọng không thay đổi:

- Em đến xin lỗi chị.

- Ủa! em có làm gì quấy mà phải xin lỗi chị.

- Nhà dột cột xiêu chị ơi, không chống đỡ sớm thì sẽ sập.

Thấy nét mặt thành thật của vợ Kình, bà Nhưn biết, à ra cái vụ thằng chồng nó láu táu. Bà Nhưn bèn cười nhạt:

- Ôi ba cái vụ mất dạy đó chị đã trị tội nó rồi, thôi bỏ qua đi.

- Tội thì chị đã trị, nhưng mấy ngón tay còn in trên mặt ảnh.

Bà Nhưn hơi ngạc nhiên, không dè mình bạt tai nó mạnh đến đỗi có dấu trên mặt, trên sân khấu là tuồng hát, nhưng ra ngoài đời là sự thật.

Vợ Kình tiếp:

- Mặc dầu dấu bầm đã tan rồi, nhưng năm ngón tay vẫn mờ mờ, còn trông thấy.

- Thôi rán chịu ít bữa rồi nó lặn hết chớ gì. Chuyện đó em nên bỏ qua đi, còn chị thì cũng quên rồi. Cái tánh nó láu táu ở xóm này ai cũng biết. Đây là lần thứ mấy rồi chớ phải là lần thứ nhứt hay sao!

- Em mắc cỡ với chị em bạn gái quá chị à. Cũng may mà mấy đứa con em ngây thơ nên em nói lướt qua đi chúng nó cũng tin bằng thật. Chớ nếu mà chúng biết sự thật thì em làm sao mà dạy con cái cho được.

- Thôi, bỏ qua đi cho nó sống! Lần này thì chắc nó tởn tới già.

- Em cũng mong như vậy. - Rồi bỗng nhiên vợ Kình đổi giọng nhưng nét mặt vẫn nghiêm trang - Em muốn xin với chị một chuyện không biết chị có vui lòng hay không!

- Chị đã bảo chị bỏ qua rồi, chị chỉ mong em khuyên dứt nó bỏ cái tật láu táu ấy đi để xứng đáng làm cha làm chồng. Nhứt là đám con đã lớn cả rồi.

- Em cảm ơn chị rộng lòng tha thứ.

- Chị cũng đã nói thật với anh rồi. Ảnh cũng chỉ cười thôi.

- Dạ, em biết anh chị là người lớn. Em coi anh chị là người lớn có danh vọng trong vùng này. Nhưng em muốn xin chị điều này mà em ngại từ lâu khõng dám nói. Nhưng sau cái vụ nó ăn bạt tai thì em nhất quyết.

- Chuyện gì em cứ nói ra đi. Hễ được thì chị giúp em liền. Nhưng chị xin em một việc là đừng có ngầy ngà nó hoài mà cơm không lành canh không ngọt.

Vợ Kình nói gọn:

- Em muốn chị cho em vô gánh hát.

Bà Nhưn sửng sốt hồi lâu mới hỏi:

- Em nói thiệt hả, vợ Kình?

- Dạ em nói thiệt.

- Tưởng chuyện gì thì khó, chớ chuyện đó thì dễ mà. Chị sẽ nói với ông Bầu là ổng chịu liền.

- Em xin cảm ơn chị lần nữa.

Bà Nhưn tiếp:

- Gánh hát của ông Bầu sống vì hai lẽ: một là do lúa gạo của bà con góp, hai là đào kép đều là người cày thuê cuốc mướn trong vùng hoặc là con cháu của ổng chớ không ai lạ. Em coi đó. Phàn Lê Huê, Thần Nữ, Tiết Đinh San, Tôn Tẫn, Bàng Quyên… đều là công cấy, công gặt, ban ngày ra đồng, ban đêm lên sân khấu.

Bà Nhưn thấy vợ Kình cũng khá gái. Tuy đã ba con nhưng còn phải thế lắm. Gương mặt xinh xắn, vóc người thanh thanh, tiếng nói trong trẻo. Cho nó vô, chỉ tập luyện một thời gian ngắn là thành “đào”.Ể. không đào thương thì cũng “đào mụ” cớ không đến đỗi làm a tỳ, tỷ tất đâu. Nhưng không hiểu từ trước, bà Nhưn đã rủ nó vô, nó cứ thối thoát, tại sao bây giờ lại vô?

Bà Nhưn hỏi:

- Em liệu đóng vai gì được?

- Dạ chị cho em đóng vai gì cũng được, miễn lên sân khấu thì thôi.

- Thôi, được rồi, để chị cho em một vai.

- Chị cho em vai nào dễ dỗ nghe chị!

- Để chị đưa em lại nhà ông Bầu bây giờ nè!

Nói xong bà Nhưn xay hết cối lúa dọn dẹp rồi hai chị em cùng đi lại nhà ông Bầu.

Trong lúc đó ở bờ dừa nhà ông Bầu tiệc nhậu đã chấm dứt nhưng đám thanh niên không chịu ra về. Chúng nấn ná ở lại và yêu cầu ông Bầu diễn vài lớp tuồng coi chơi.

Ông Bầu vốn là người mọc lên từ đất ruộng như cây năn cây lác nên không nề hà đòi hỏi những tiện nghi ăn ở cũng như diễn tuồng. Nghe khán giả yêu cầu, ông nói ngay:

- Để tao đóng vai Bao Công cho mấy đứa coi nghe. Nhưng Bao Công đến lò gạch thì phải có Hải Thọ và Lý Thần Phi - nói xong bèn gọi vào trong - Bà ơi bà! có đứa nào trong nhà không, kêu nó ra đây đóng giùm vai thằng Thọ một chút.

Bà Bầu ở trong nhà đáp vọng ra:

- Thằng “Thọ” đi bắt hôi đìa rồi!

- Biểu đứa khác, đứa nào cũng được.

- Thằng Thọ thì đi bắt hôi, còn mấy đứa khác thì đi mót lúa.

- Thôi được rồi. Để tôi biểu mấy đứa ngoài này! Nói rồi ông quay lại đám thanh niên - Tụi bây nhắm có đứa nào đóng vai Hải Thọ được không?

- Ai biết đâu nà! Hễ bác chấm đứa nào thì đứa đó đóng, không được từ chối.

Đây là dịp tốt cho ông Bầu chọn đào kép. Ông ngó qua một lượt rồi nói:

- Thằng Tấn làm Hải Thọ nghe!

Đám thanh niên cười cái rần. Thằng Tấn nghe nói, đứng phắt dậy chạy vụt đến trốn ở sau một gốc dừa. Mấy đứa thanh niên chạy lại lôi tay thằng Tấn đến nói:

- Có Hải Thọ đây rồi, Bao Công ra tuồng đi.

Thằng Tấn giãy nảy:

- Hải Thọ bán cải, tui đâu biết bán cải ra làm sao?

- Ậy, cứ vô đi rồi ông Bầu dạy cho.

Ông Bầu cười:

- Hải Thọ có rồi bây giờ thiếu Lý Thần Phi. Cha chả vai này khó dữ đa!

Một cậu nói:

- Bác đóng lớp ngoài lò gạch thôi bác Ba! Còn lớp trong lò gạch thì đợi chừng nào chọn được Lý Thần Phi sẽ đóng tiếp!

Thế là ông Bầu bắt đầu sắm tuồng. Ông lấy mấy hòn than củi dừa bóp nhuyễn ra trộn với chút nước rồi bôi lên mặt, lấy chiếc khăn rằn thắt ngang lưng và nhặt một chót tàu dừa quơ quơ và nói: đây là hát bộ pha cải lương nghe! - rồi cất giọng:

Như ta đây là Bao Công
Nhiệm chức vua ban Bao thị chế
Nhất phẩm triều đình
Chẩn bần xong, mau kiếp hồi dinh.

(vẫy vẫy tàu dừa chạy một vòng, làm như cỡi ngựa rồi dừng lại nghỉ ngơi; bỗng nhìn trời)
Ủa có cơn gió lạ
Từ đâu thổi qua (đưa tay lên đầu)
Làm rớt mão ta, cuốn bay đi mất.
(nổi giận)
Con gió này vô lễ
Dám giật mão ta?
Ớ này Trương Trung Lý Nghĩa (dạ)
Đuổi theo mắt Lạc mạo phong đem về cho ta trị tội!

Ông Bầu phán xong ném tàu dừa và quì trước “đầu ngựa”

- Bẩm đại nhơn, Lạc mạo phong là ai? Tôi nào có rõ!

Ông Bầu quát:

- Mau thi hành cho kíp
Chậm trễ chém đầu.

Ông Bầu trở lại quì:

- Tuân lệnh, rồi vọt đi. Một chốc lôi thằng Tấn ra, lại cỡi ngựa tàu dừa làm Bao Công, quát:

- Ngươi là ai mà dám vô lễ giật mão ta? Tên ngươi là Lạc mạo phong có phải?

Ông Bầu nhắc to:

- Nói vậy nè:

Dạ oan tôi lắm. Oan tôi lắm!
Tôi là Hải Thọ chuyên nghề bán cải
Chớ nào phải là Lạc mạo phong.
(khóc)

Thằng Tấn lặp lại rồi khóc to lên. Cả bọn cười rần. Ông Bầu quơ lấy tàu dừa hét:

Trương Trung Lý Nqhĩa bắt lầm người vô tội
Hãy thả cho Hải Thọ về và phạt đòn hai đứa
bây mỗi đứa hai chục hèo.

Cả bọn lại cười rần rần.

Ông Bầu nói:

- Như vậy là xong một lớp tuồng rồi đó. Hải Thọ chỉ thêm cái gánh cải, nói thêm vài câu và khóc om lên, khi được tha thì chạy vô buồng chớ có khó gì đâu. Mầy đóng được không Tấn?

- Dạ được.

- Đứa nào đóng Hải Thọ cũng được hết. Lớp đầu chỉ có bấy nhiêu. Lớp sau Hải Thọ về lò gạch thưa với mẹ rồi trở ra dắt Bao Công về là hơi khó hơn một chút. Chỉ có vai Lý Thần Phi là khó. Vì ở màn đầu bà ta còn trẻ. Ở màn cuối (trong lò gạch bà đã già lại mù mắt. Phải tập luyện, ráp tuồng đối đáp giữa Bao Công - Hải Thọ thì mới ăn khớp. Màn này có đủ hỉ, nộ, ái, ố. Hỉ là lúc bà mẹ nghe Hải Thọ rước được Bao Công về lò gạch. Nộ: là lúc Bao Công nghe bà Phi kể lại chuyện ly miêu hoán chúa, ái, ố: là thương ghét. Màn này đủ hết. Phải tập kỹ. Nhất là bà Phi phải làm cho khán giả chảy nước mắt.

- Ai đóng vai đó, bác Ba?

- Trước đây bà Bầu thủ vai này hơn 10 năm không có ai thay. Đêm nào ra tuồng bả cũng được khán giả ném tiền lên sân khấu thưởng. Nhưng từ ngày bả có bầu tuồng này đành xếp lại. Gánh hát mất bộn huê lợi.

Xảy một tiếng kêu lên:

- Có bà Nhưn tới kìa, bắt bả đóng Lý Thần Phi được không ông Bầu.

Ông Bầu nhìn ra thấy bà Nliưn và một người đàn bà. Bà Nhưn đi tới nói:

- Tui đem tới cho ông Bầu một cô đào nè.

Mấy cậu thanh niên thấy vợ thằng Kình thì cười chế nhạo. Có đứa nói:

- “Đào lộn hột” tụi bây ơi!

Ông Bầu rầy, bảo:

- Đừng nói vậy, mấy cháu. Bây chưa vô nghề nên không biết. Đàn ông đóng được vai đàn bà. Đàn bà là cô Phùng Há đóng được vai Lữ Bố mà kép đóng không bằng. Cô Năm Phỉ đóng vai Điêu Thuyền từ trẻ đến già không ai sánh kịp. Trên sân khấu có tổ đãi, 60 tuổi vẫn còn đóng vai con gái 17 được như thường. Huống gì vợ thằng Kình…

- …. Mới có 3 con.

- Sao tụi bây kêu là “đào lộn hột?” Để nay mai tao tập dượt rồi nó lên ăn đèn cho tụi bây coi!

Bà Nhưn hỏi:

- Bây giờ ông Bầu có vai nào phân cho nó hay không?

- Để tôi “soạn giả” lại coi. Chị Nhưn làm sao “rù” được nó vô gánh hát của mình vậy?

- Tại nó muốn vô thì nó vô chớ tôi đâu có “rù quến” gì. - Bà Nhưn quay lại đám thanh niên - mấy chú đừng kêu “đào lộn hột”, người ta mắc cỡ nghen hôn?

Ông Bầu rót rượu đưa ra và nói:

- Bữa tiệc hôm nay mừng gánh Bầu Lúa thu được một đào…

- “lộn hột”

- và một…

- … “kép nhứt”

- Đứa nào nhảy vô miệng Ông Bầu vậy? Bà Nhưn nói tiếp: - Để chọn ngày tốt rồi cúng tổ mới vô nghề được chớ!

Ông Bầu nói:

- Sẵn rượu và chim nướng đây, mình cúng luôn đi, dù tiệc đơn sơ chắc tổ cũng nhận mà. Cái điều quan trọng là khi vào nghề mình có tôn trọng nghề nghiệp, hát cho bà con coi mà thích không, chớ rượu thịt nhiều mà vô rồi phá đám thì tổ cũng không nhận đâu.

Bà Nhưn hỏi:

- Hồi anh cúng tổ, phải làm sao anh Bầu?

- Lúc đó tôi 14 tuổi. Nhưng đã đi theo gánh được 4 năm và ra tuồng được 3 năm rồi. Bữa nọ ông Bầu nói với tôi: mày muốn hát hay phải cúng tổ. Rồi ổng đi mua con gà giò, về bảo tôi cắt lấy huyết rồi để nguyên con luộc rồi đặt lên một cái dĩa bàn, dọn trước bàn tổ. Xong ổng pha huyết gà với rượu, ổng nhấp một hớp, biểu tôi nhúng môi rồi vái lầm thầm: “Bữa nay thằng nhỏ này xin nhập gánh vậy, xin Tổ phò hộ nó hát hay múa giỏi” rồi ổng biểu tôi xá 2 xá. Chỉ có vậy thôi nhưng tôi cảm thấy hãnh diện lắm. Từ nay tôi là kép hát.

- Mà anh đã đóng được vai gì rồi? - bà Nhưn lại hỏi.

- Vai gì tôi cũng đóng hết. Tôi làm ghế đơn cho Bao Công ngồi trong tuồng Lý Thần Phi trong lò gạch, tôi làm cọp (mang da cọp giả) trong tuồng Tiết Đinh San chinh Tây, kéo màn, dọn lớp, xếp ghế cho khán giả ngồi, đấm lưng cho mấy ông kép già. Lần lần mỗi khi khuyết một vai phụ thì ổng kêu tôi thay.

- Ông có dạy anh bài bản gì không?

- Thầy tuồng có dạy vài điệu múa. Ông thầy tuồng khó dàng trời. Ra buổi tập, ổng biểu mình múa bộ Quảng, mình lọng cọng, ổng quất roi mây lên đầu đau mà không dám khóc. Nội cái lớp bắt ngựa đem dâng cho tướng, tôi ăn cả chục roi chớ không phải ít. Bắt ngựa dâng cho tướng sắp ra trận phải có điệu bộ như ngựa chạy thật, ra đến trước mặt tướng phải quay ba vòng chóng mặt muốn té luôn, rồi hai tay dâng cây roi lên. Ông tướng chụp lấy, mình phải mọp xuống cho ổng phi qua đầu minh. Gặp Quan Công thì còn đỡ đỡ, đụng Trương Phi, ổng bắt ngựa rồi hét lên một tiếng và tống mình một đạp ngã lăn. Tuy đau nhưng mà tôi thích lắm. Vì nghe dưới khán giả có tiếng cười. Còn ngoài ra có học hành gì. Nhưng bài nào tôi cũng thuộc, lớp tuồng nào tôi cũng nằm lòng. Ra chỗ nào vô chỗ nào rành hết. Đứng núp trong cánh gà nghe đờn riết rồi quen tai, nhịp ngoại nhịp nội gì tôi cũng ca được. Cứ vậy mà bò lên lần lần từ quân chạy hiệu lên phó tướng, đến tiên phuông rồi nguyên soái. Đến chừng tôi làm được kép nhứt thì ăn lương 8 đồng 1 tháng. Lúc đó tôi 21 tuổi. Chừng đó tôi không chịu làm vua nữa.

Một cậu thanh niên hỏi:

- Tại sao làm vua mà bác chê?

- Làm vua thiệt mới ham chớ vua hát bội là vai dễ nhất. Các cháu để ý coi, vua chỉ ngồi trên ngai vàng chớ đâu có múa may gì, ngồi lạnh đít, lâu lâu vuốt râu một cái hoặc cầm ấn nện cốp cốp rồi ca vài câu Kim Tiền dễ ợt. Kép nào mà đóng vua là kép ba cho nên ai cũng không ham làm vua là vậy đó.

Cả bọn cười rần.

Bờ dừa rợp mát. Không khí thơm ngát mùi chim nướng lẫn mùi rượu ô môi.

Bỗng từ trong nhà có tiếng kêu vọng ra:

- Ba ơi ba! Thằng Tý thằng Sửu tới hỏi ba tối nay hát tuồng gì để tụi nó đi quảng cáo!

Ông Bầu hỏi bà Nhưn:

- Chị có định tuồng gì chưa?

Bà Nhưn đáp:

- Tôi cho hát Thạch Sanh chém chằn cho lạ lạ một chút.

° ° °

Một ngọn gió mạnh thổi qua làm những chùm me chín khua lộp bộp nghe thật vui tai. Vài ba đứa khác trèo lên ngọn me ngóng ra đằng xa nơi những bầy trâu đang hướng đầu về chuồng. Ông Bầu đưa tay che mắt và kêu to:

- Thằng La Thành có đó không?

La Thành là thằng con trai út của ông, mới 5 tuổi. Ông đặt tên các con ông theo truyện: Thằng trưởng nam tên là Bá (Lý Ngươn Bá), thằng kế tên là Đô (Võ văn Thành Đô), thằng thứ 3 tên là Khánh (Bùi Ngươn Khánh). Đó là 3 anh hùng xuất chúng đời Thuyết Đường. Đứa thứ 4 con gái tên là Lệ (Mạnh Lệ Quân), đứa thứ 5 tên Vân (Sở Vân - nữ anh hùng), đứa thứ 6 tên Ngọc (Lưu Yến Ngọc), đứa thứ 7 tên Quí (Tiết Nhơn Quí), thứ 8 tên Thanh (Địch Thanh), thứ 9 tên Thạch (Thạch Ngọc), đứa út tên Thành (La Thành), còn đứa mới sanh, út nhì thì đặt là Long (Càn Long). Lần này ông cho thằng bé làm vua.

Riêng ông thì có lúc làm vua Đường, lúc lại làm vua Tống, còn bà, vai hoàng hậu là thường. Có khi làm cả Thái hậu (như Địch Thiên Kim trong vai xử án Bàng Quí Phi) vì thế trong xóm bảo gia đình ông “oai quyền” nhất thiên hạ.

Ông Bầu sợ thằng La Thành trèo me. Nó gan dạ lắm! Hồi mới 3 tuổi, cỡi trâu còn không sợ, bây giờ 5 tuổi, trèo me thì sợ gì. Nó dám leo tuốt lên ngọn me ra tận chót nhánh nữa đó. Còn trong nghề hát thì đôi khi khuyết vai quân chạy hiệu ông bắt nó tra mũ mão đeo gươm cũng được lắm. Con công không giống lông cũng giống cánh mà. Tuy nhiên có điều là các anh chị nó xui nó làm cách mạng với ông Bầu.

- Lý Ngươn Bá là anh hùng số 1, La Thành là anh hùng số 7 chớ đâu phải quân hiệu?

Thế là lần đó nó không chịu đóng vai lính quèn nữa. Màn đã kéo lên, tới lúc ra tuồng mà (bé) La Thành còn cự nự nên bị ông già phát cho mấy cái vô đít, quát: “La Thành người lớn chớ đâu còn con nít như mày!” Thằng Thành mới chịu ra quân. Tay quệt nước mát, miệng mếu máo bẩm báo tức tưởi.

Ông Bầu chợt thấy La Thành trên chót vót ngọn me, ông giật mình kêu lên:

- Thành, mày xuống hôn?

Thằng bé ngó xuống nhưng không chịu trèo xuống. Ông Bầu vá vá tay quát to lên:

- Mày xuống đây tao đánh đòn cho coi.

Một bác nông dân đứng bên cạnh, thấy vậy bèn bảo:

- Ông Bầu đừng có nạt nộ, nó sợ, bước hụt chân té chết.

Ông Bầu nghe chí lý. Chuyên đó ông cũng biết, nhưng lúc bất ngờ nên ông la to như vậy. Ông bèn đấu dịu:

- Xuống con, xuống chị mày cho ăn bánh da lợn nước cốt dừa mới đổ xong, tía ra kiếm con đây nè. Xuống, xuống đi con! Tía khen giỏi!

Thằng La Thành trỏ mấy trái me ngoài chót nhánh và nói:

- Để con hái chùm me chín này rồi con xuống.

- Chùm đó ngoài meo con hái không tới đâu con. Con nắm nhánh cây cho chắc rồi rung nó rụng xuống đây ba lượm cho.

Thằng bé làm theo lời ông già bảo. Những trái me chín khua nghe lộp bộp rồi rụng xuống đất ngay trước mặt ông Bầu. Ông không lượm mà ngước lên dỗ ngọt:

- Thôi được rồi con, xuống đi, tía khen giỏi!

Thằng Thành leo xuống nửa chừng rồi ngồi ở cháng ba thòng hai chân xuống như cỡi ngựa mà không chịu xuống nữa. Nó ngó mông ra đồng xa rồi nói:

- Tía ơi! con (trâu) Cái Chim của mình đẻ rồi.

- Sao mày biết?

Thằng Thành đáp:

- Con thấy con nghé đi sau mẹ nó kia cà.

- Đẻ hồi nào mà bây giờ con nghé biết đi.

- Chắc hồi trưa tía à!

- Ờ phải, trâu bò đẻ ra thì chỉ một lát sau là đứng dậy đi được.

Thấy con nghé đi theo mẹ qua khỏi gò mả, gần tới triền, thằng Thành tuột xuống chạy ra đón mừng và vuốt ve con nghé.

Bỗng từ trong vườn, con Ngọc và thằng Quí chạy ra. Thằng Quí vừa thở hổn hển vừa nói với ông Bầu:

- Thầy Cai Tổng không chịu tuồng Mạnh Lệ Quân thoát hài tía à!

- Sao tới giờ này ổng mới cho biết, ai tập tuồng mới cho kịp!

Ông Bầu tất tả chạy về nhà, thấy bà Bầu ôm con đứng ở cửa bếp, ông quát:

- Sao kỳ vậy? Hả?

- Ông biểu là ổng làm lễ vu qui cho con gái mà mình hát tuồng Mạnh Lệ Quân trong đó thằng Hoàng Phủ Thiếu Hoa kết cuộc có tới 3 vợ một lúc. Như vậy là điềm không tốt cho con gái ống.

- Tuồng hát hồi xửa hồi xưa mà điềm cái gì.

- Thì ông lên đó mà thưa bẩm với ổng. Chớ ổng cho chú biện vừa đem giấy vừa nói miệng với mình như vậy đó.

Ông Bầu hơi nóng mắt, nhung lệnh quan trên không dám cãi, nên chỉ gãi đầu gãi tai dậm chân dậm cẳng càu nhàu với vợ một hồi rồi cũng cho trẻ chạy đi kêu bà Nhưn tới để tính chuyện. Bà Bầu nói:

- Ông Cai biểu là tổn phí bao nhiêu ổng chịu hết, nhưng đừng hát cái tuồng Mạnh Lệ Quân, ổng còn nói thêm là thằng cha vua trong tuồng lại trổ mòi dê Mạnh Lệ Quân mà bị Mạnh Lệ Quàn từ chối, có vẻ như nói xiên ổng sao sao đó. Bữa đám cưới có quan chủ Quận xuống dự. Rủi ông Quận ổng bắt lỗi rồi ăn nói ra làm sao?

Ông Bầu đổ quạu:

- Tuồng hát của người ta như vậy chớ bộ ai đặt ra để nói xiên mấy ổng hay sao? Bộ mấy ổng có tịch sao mà nhúc nhích?

Bà Bầu không cãi với chồng nữa. Cũng may đứa bé trên tay bà cất tiếng khóc nên ông Bầu cũng không muốn la hét làm cho con khóc thêm.

Bà Nhưn chạy tới. Ông Bầu kể lại tự sự. Nghe xong bà Nhưn phủi tay:

- Ôi, tưởng chuyện gì chớ chuyện đó, ông Bầu để tôi lo.

- Chị lo cách nào mới được chớ?

- Ổng không chịu tuồng đó thì mình hát tuồng khác.

- Tuồng khác là tuồng nào?

- Mình còn nhiều tuồng ruột mà.

- Nhưng mà chị phải nhớ rằng mình không có thời giờ. Chị có tài bằng thánh cũng không tập kịp. Chỉ còn có ngày mai. Đào kép còn phải đi gặt kiếm tiền chớ!

- Mà tôi hứa là tôi tập kịp. Ông cứ giao hết cho tôi!

Tuy bà Nhưn quả quyết như vậy, nhưng ông Bầu vẫn không an tâm. Thay đổi tuồng đột ngột như vậy chẳng khác nào chuyển mật trận bất ngờ.

Biết tâm trạng của ông Bầu, Bà Nhưn nói:

- Tôi cho diễn lại tuồng “Thần Nữ”.

- Cũ quá rồi chị ơi!

- Cũ ta mới người. Ông Bầu cứ tin tôi đi!

- Chị lại thủ vai Phàn Lê Huê à?

- Chớ ai trồng khoai đất này?

- Chị chưa tởn thằng Kình hay sao?

- Được rồi, để rồi ông Bầu coi.

Trưa hôm sau đào kép của tuồng “Thần Nữ” đến đông đủ tại rạp Bầu Lúa để dượt lại dưới sự điều khiển của bà Nhun.

Cố nhiên là có mặt vợ chồng thằng Kình. Kình vẫn còn bị mặc cảm vì cái bạt tai của bà má “Phàn Lê Huê” nên miễn cưỡng tới. Nhung vợ Kình bảo:

- Đây là cơ hội để anh chuộc tội.

Kình gắt:

- Tui tội gì?

- Cái tội láu táu ăn bạt tai đến nay mặt còn in dấu tay chưa lặn còn lấp liếm hả?

Kinh chống chế:

- Đó là Phàn Lê Huê đánh thằng con ngỗ nghịch của bả chớ ăn thua gì tui?

- Xí, người ta đáng má anh. “Năm lứa” rồi chớ phải trẻ trung gì sao ham? Còn cái bản mặt của anh hỏng ai thèm ngó. May mà chồng bả thương tình che chở cho khỏi bị bắt giấy thuế thân, không biết ơn lại còn phản phúc. Anh không nên đem oán trả ân. Ông Bầu đối với anh tốt quá mà.

Bị vợ trách, Kình ta đau lắm, nhưng hiểu mình hơn, nên làm thinh. Khi đến rạp, sự phân công của bà Nhưn làm cho đào kép hết sức ngạc nhiên. Vợ Kình thủ vai Phàn Lê Huê trong lúc mọi người cứ tưởng vai này nếu không bà Bầu thì bà Nhưn thủ chớ không ai khác. Còn vai Tiết Ứng Luông thì ai khác chớ không phải Kình. Nhưng bà lại giao cho Kình một cách tỉnh bơ.

Bà nói:

- Từ lúc vợ Kình xin vô gánh hát, nó đến nhà tôi chơi luôn. Trong lúc nó giúp tôi xay lúa giã gạo hàng xáo, tôi mớm tuồng cho nó. Nó sáng dạ lắm, lại có giọng ca khá nữa. Hiện nay nó đã thuộc làu lời ca của ba vai nữ. Chỉ cần ráp với điệu bộ là ra tuồng được. Còn vai Tiết Ứng Luông thì vẫn do thằng Kình đóng vì gấp rút nên chưa tìm được kép mới.

Sau sự phân công của bà Nhưn, cuộc tập dượt bắt đầu. Qua các màn trước, vợ Kình trong vai Phàn Nguyên Soái, đều diễn trót lọt. Chỉ sang màn “Tiết Ứng Luông về phục lịnh Soái gia” thì có phần gút mắc, nên bà Nhưn phải tập kỹ hơn. Bà bảo:

- Bắt đầu!

Phàn Nguyên soái ngồi xem binh thư, chốc chốc lại ngó ra ngoài như trông chừng ai. Tiết Ứng Luông xuất hiện trong điệu bộ rụt rè.

Bà Nhưn bảo:

- Con lạy mẹ!

Phàn Nguyên soái vãn ngồi xem binh thư tỉnh bơ. Bà Nhưn bảo:

- Nói lần nữa và quì xuống dập đầu.

Kình bỡ ngỡ quá vì trước mặt là vợ hắn. Nhưng hắn không dám làm sai lời bà Nhưn, hắn:

- Lạy mẹ, con là Tiết Ứng Luông.

Phàn Nguyên soái ngảnh mặt lên, ngó ngang:

- Thì ra ông thế tử Tiết Ứng Luông đó à?

- Dạ, con là Ứng Luông hồi dinh phục lịnh soái mẫu.

- Úa, bổn soái có sai tiên phuông xuất quân đâu mà “hồi dinh”?

- Dạ, con thấy binh Đường lâm nguy nên con tự ý hành binh.

Cốp cốp cốp! - Phàn Nguyên soái nện ấn thật mạnh xuống bàn, hét:

- Hay cho Ứng Luông, giỏi cho Ứng Luông! Bổn soái đang án binh bất động mà mi lại dám tự chuyên xuất quân. Tội đáng chết! Cốp cốp. Võ đao quân (dạ) dẫn Ứng Luông ra pháp trường xử trảm, bêu đầu làm lịnh.

(Ứng Luông dập đầu van xin). Tiết Đinh San bước ra can gián:

- Xin nguyên soái bớt cơn thịnh nộ, để ngu phu gạn hỏi đôi lời (quay sang Ứng Luông), con bất tuân lệnh soái mẫu, tội chết đã đành, nhưng trong quân pháp có khoản đoái công chuộc tội. Nếu con ra quân mà thắng địch thì lấy công kia mà chuộc tội này. Vậy mấy ngày hôm nay việc binh bị của con như thế nào.

Ứng Luông đáp:

- Dạ thưa cha. Con đánh thua luôn mấy trận.

Cốp! cốp! cốp! Ấn soái lại giằn xuống mặt bàn.

Tiết Đinh San hỏi:

- Thắng bại lẽ thường, nhưng con thua rồi sao không về xin viện binh mà đi luôn biệt tăm đến bảy ngày? Làm cho binh tướng như rắn không đầu, vậy con.

Ứng Luông đáp:

- Dạ… ạ, con chạy lạc lên Phụng Hoàng San.

- Phụng Hoàng San cũng gần, sao con không trở về phi báo?

- Dạ con bị Thần Nữ bắt trói.

- Rồi sao nữa, kể hết cha nghe để cha liệu bề mà xin tội cho.

Tần Hớn, Nhứt Hổ, 2 tướng của Ứng Luông đứng dưới thềm, giục:

- Khai đi mày Luông, rồi tụi tao liệu bề mà gỡ gạt giùm cho!

Nhưng trên kia Nguyên soái nghe được, nên lại gõ ấn, thét:

- Những tướng nào đi theo Ứng Luông cũng đều mắc tội.

Tần Hớn và Nhứt Hổ giựt mình. Nhứt Hổ bèn ra quì thưa hết mọi việc:

- Dạ con Thần Nữ nó trói rồi nó mở trói cho Ứng Luông ạ.

- Khỏi trói rồi sao không về mà ở miết trên núi?

- Dạ, mở trói cho công tử rồi nó bắt công tử làm chồng nó!

Cả ban bầu cười rần. Nhưng Nguyên soái cả giận đứng dậy quát to:

- Hay cho Ứng Luông, giỏi cho Ứng Luông. Ra binh đại bại còn tự ý kết hôn cùng tặc nữ chẳng đợi lịnh mẹ cha… Võ đao quàn hãy dẫn Ứng Luông ra trước công môn chém đầu làm lịnh.

Ứng Luông dập đầu kêu van với Tiết Đinh San:

- Chết con rồi. Cứu giùm con cha ơi!

Tiết Đinh San bèn xông vô:

- Thì nó cũng giống như bà ngày xưa chớ có tội tình gì.

Phàn Lê Huê trố mắt, há miệng hồi lâu mới nói được:

- Ông nói gì lạ vậy? Tôi cho ông biết đây là soái đường chớ không phải tư gia đâu nghe!

Tiết Đinh San cười khảy:

- Khi xưa ra trận bà gặp tôi, bà mê mẩn tâm thần vung thương không nổi, bà hỏi tôi tên gì ở đâu. Tôi xưng ra. Bà càng ngơ ngẩn. Thì ra là duyên tiền định! Bà cũng bắt trói tôi rồi bắt tôi làm chồng, bà còn nhớ không? Thằng Luông hư thân mất nết là do nó học bài vỡ lòng của mẹ nó chớ ai!

Phàn Lê Huê ngồi im re hết đường gỡ gạt. Bà Nhưn bước ra bảo:

- Lóp này tập tới đây khá lắm. Duy còn chỗ Tiết Ứng Luông xin “soái mẫu tha tội” thì còn hơi sượng, chưa được nhuyễn.

Thằng Kình ghét nhứt chỗ “Tiết Ứng Luông dập đầu xin tội” vì nó phải gọi vợ nó bằng má (soái mẫu) nên nói chí tình, bà Nhưn cũng tinh mắt thật, tới chỗ đó, nó diễn qua loa. Cho nên bà Nhưn bắt tập lại là phải. Bà bảo:

- Tiết Ứng Luông phải làm lại. Phải kêu to: “Con lạy mẹ xin tha tội cho con” và dập đầu không được ngóc lên. Còn Phàn Lê Huê thì phải nghiến răng quát: “ Mi là đứa con ngỗ nghịch” cho thật to để ai nấy cùng nghe cho rõ. Nào, tập lại.

Bà Nhưn bắt “tái diễn” đoạn văn đó vài ba lần mới thôi. Cái trán thằng Luông rướm máu, mặt mũi đổ mồ hôi trông tội nghiệp hết sức.

Ông Bầu phải can:

- Vậy được rồi chị Nhưn à. Chị có thấy cái trán nó rướm máu đó không?

Ông hiểu ngầm bà ta muốn dạy cho thằng Luông một bài học, từ rày đừng có láu táu nữa. Bà này ác thật. Bắt thằng Kình gọi vợ nó bằng má, trước mặt toàn ban. Nhưng chắc bọn đào kép trẻ không rõ cái thâm ý đó của bà Nhưn. Chúng nó trẻ người non dạ, không hiểu cái tuồng trên sân khấu và tuồng đời có ăn ý với nhau. Và người thầy tuồng thường hay cài cái ý riêng của mình trong đó. Còn vợ Kình thì, sau buối tập, được khen nhưng nàng năn nỉ bà Nhưn:

- Cô cho cháu đổi vai khác được hôn cô Nhưn?

- Vai này cháu diễn trội lắm, bỏ sao được?

- Vậy thì cô đưa vai Tiết Ứng Luông cho người khác được không?

- Cô đã cắt phân vai hết rồi. Đâu còn ai để nhận vai đó?

Vợ Kình không dám cãi, nhưng vẫn không vui, càu nhàu một mình:

- Cô bắt ảnh gọi cháu bằng “má” nghe kỳ quá hà!

- Gọi như vậy để nhắc cho nó nhớ rằng: con không được làm hỗn với má. Nhưng bây giờ nếu nó có dám hỗn với “má” nó thì cứ việc!

Ông Bầu nói tiếp:

- Hát bội mà cháu. Ai cũng phải nghe theo bà Nhưn! Nay mai nếu bà phân cho cháu đóng vai má của Tiết Đinh San thì thằng Kình cũng phải kêu cháu bằng “bà nội”.

Cả ban đều cười vang. Có người đặt liền cho thằng Kình là “Tiết uốn(g) lưng”” và cái tên này lại còn thông dụng hơn cái tên cúng cơm của nó. “Tiết uốn lưng”. (Theo ông Bầu thì tiếc cũng như tiết, uống cũng như uốn mà!) tưởng rằng bảng quảng cáo hôm nào của ông Bầu được quên đi, nhưng hôm nay thằng Tý và thằng Sửu tới lén coi buổi tập này nên thằng Tý nhắc lại:

- Chữ Luông có “g” hay không có, cũng vậy thôi hả bác Ba?

Ông Bầu hét:

- Ông già tía mày chớ theo ngạo tao “oài” hả?

Thằng Sửu nghênh mặt:

- Thì bác nói chớ cháu đâu có nói vậy!

- Có “g” hay không có thì cũng đọc là Luông chớ đọc là gì?

Một chàng thanh niên xen vào:

- Đối với chữ Luông thì được chớ đối với chữ khác thì hổng có được bác Ba à!

- Chữ khác là chữ nào? Đâu mày đưa ra coi.

Cậu thanh niên đáp:

- Có chớ! Có chớ!

- Ờ, mày phải đưa ví dụ coi, chớ hồi đó cỡ bằng tuổi tụi bây tao cũng học ráp vần ngược rồi nghe, đùng có nói gạt tao!

Cậu thanh niên đáp:

- Đâu bác thử viết “cái lồng chim” mà không có chữ “g” coi nó ra cái gì… chim?

Tiếng cười ó lên rần rần, nhưng ông Bầu vẫn không hiểu cứ xơn xót nói lấp:

- Cái lồng chim không có “rê” thì vẫn là cái “lồng chim” chớ là cái gì?

Đám thanh niên chậm hiểu bây giờ mới cười sặc sụa. Còn bà Nhưn thì đỏ mặt xua tay:

- Thôi ông Bầu ơi! Đừng có cãi cù nhầy, ông thua tụi nó độ này rồi!

Bà Bầu đang ở trong nhà (ở phía sau rạp) nghe nói chồng thua độ, đang vạch vú cho con bú bèn bỏ áo xuống, tất tả chạy ra, hỏi:

- Tía nó thua độ gì đó chị Nhưn?

Bà Nhưn bình tĩnh đáp:

- Không có chuyện gì đâu chị Bầu!

Còn ông Bầu thì nói tỉnh khô:

- Mấy đứa nhỏ nó sửa mũi mấn tui về vụ cái lồng chim.

Bà Bầu ngơ ngác:

- Lồng chim gì? Nhà tôi lâu nay có ham nuôi chim nuôi cu gì?

Bà Nhưn nói:

- Tôi biết, tôi biết ông Bầu không có ham nuôi chim nuôi cu gì hết.

- Ông chỉ có ham cái “lồng” không “gê” thôi!

Một cậu thanh niên chêm vào. Rồi đám thanh niên nam nữ tản dần về nhà để tối nay hát tuồng Thần Nữ mừng đám đưa dâu ở nhà ông Cai Tống.

° ° °

Gánh Bầu Lúa như cọp ở hang ít khi rời khỏi rạp, trừ khi nào có đám cúng đình, cúng miễu hoặc đám đăng quang của ông Hội đồng, đám tiệc lớn của ông Cai Tổng thì mới đi. Nhưng các quan phải cho ghe xuồng tới chở phông màn và dựng sân khấu cho gánh hát. Mấy ông nhà giàu ham vui và thích nổi tiếng, nên ông Bầu yêu cầu điều gì cũng được chấp thuận hết. Trong lúc diễn tuồng, đào kép được khán giả ngồi hàng ghế đầu (mấy ông Hương Chức) thưởng tiền, rồi hát xong còn được “lì xì” tiếp và đãi đằng cơm rượu thịnh soạn. Có nơi chủ nhà mời ở lại hát thêm 2 đêm nữa cho bà con xem đã thèm.

Kỳ này ông Cai Tổng gả con gái út. Một dịp tốt cho gánh Bầu Lúa thi thố tài nghệ. Mặc dầu là hát thả giàn nhưng mới xế chiều đã thấy tốp năm tốp bảy nam thanh nữ tú qua lại đông đúc ở khúc lộ trước nhà ông Cai. Người ta đồn rằng có quan chủ quận hạ cố tới dự nên ai nấy lóng ngóng ở đây để chờ coi chiếc xe hơi.

Xóm này từ xưa tới nay chỉ có xe ngựa chớ xe hơi chưa tới được. Kỳ này ông Cai phải cho sửa sang lại những khúc lộ yếu, và bắc ván qua những cái cống xẻ ngang lộ để lấy nước vô ruộng.

Chừng bốn giờ chiều, học trò tan học vừa về tới ngang đây thì xe của viên Chủ Quận cũng vừa tới.

Ông Cai và nhiều ông Hương chức ra ngõ đón ông Quận vào nhà. Ông Quận mặc đồ tây mang giày da đen, còn mấy vị hương chức thì mặc áo dài đội khăn đóng và mang giày hàm ếch, duy có ông Cai Tổng thì mặc áo dài, đội khăn đóng nhung lại mang giày tây, có phần khác hơn các vị hương chức nhưng lại gần với quan Chủ Quận.

Khi vào nhà an vị xong thì ông Bầu Lúa được mời lên nhà khách để ông Cai trình với ông Chủ Quận. Ông Cai nói với ông Quận:

- Bẩm, đây là chủ gánh hát Bầu Lúa sẽ diễn giúp vui tối nay.

Ông Quận là người đã từng tiếp xúc với các gánh hát lớn tới diễn ở nhà lồng Quận nên đối đãi các ông Bầu rất văn minh. Sau khi nghe ông Cai giới thiệu như vậy thì ông Quận bắt tay ông Bầu và kéo lại ngồi trên ghế trường kỷ ngang với mấy ông Hương chức và hỏi một cách thân mật:

- Tối nay quí ban cho diễn tuồng gì vậy ông Bầu?

Ông Bầu đã từng lưu lạc giang hồ, ăn cơm bảy phủ sống đủ mọi nơi, từng tiếp xúc với thầy chú cũng nhiều, nên trước mặt quan quyền ông không “khớp” mà lại còn có phần thích thú. Ông đáp:

- Dạ tối nay chúng tôi xin diễn tuồng Thần Nữ dưng Ngũ Linh kỳ chuộc tội cho Tiết Ứng Luông chào mừng quan lớn ạ.

(Cũng may, ông Quận là người Nam nên Tiết cũng như Tiếc, chuột cũng như chuộc, Luông cũng như Luôn, ông không phân biệt có “g” hay không có “g”gì hết, nên nghe ông Bầu ăn nói suôn sẻ thì vỗ vai khen bằng tiếng Pháp:

- Bon, c’est bon! (Tốt, tốt lắm)

Ông Bầu nổi máu phồn hoa đô thị bèn đáp luôn:

- Mẹc xi mông-xừa lơ đề-lê-ghê! (merci monsieur le délégué), (đáng lẽ phải nói là délégué administratif thì mới đúng nhung ông không thể nói tiếng sau cùng đó được. Tuy vậy ông Quận cũng lấy làm hài lòng.) Ông Bầu nói xong đứng dậy cúi đầu kiếu từ:

- Xin phép cho bổn soái (!) rút binh để bày binh bố trận.

Mấy vị Hương Chức xanh mặt trước sự xưng hô ngạo mạn của ông Bầu nhưng ông Quận lại rất vui vẻ. Khi ông Bầu đã bước xuống khỏi thềm nhà thì ông Quận bảo:

- Chắc ông Bầu tối nay thủ vai nguyên soái. Hì hì… Người ta hát xướng học bài bản lâu ngày rồi quen miệng. Đó là thói quen nghề nghiệp.

Thấy gánh Bầu Lúa tới dựng rạp trước sân nhà ông Cai, bà con trong xóm nhao nháo chờ xem hát để coi mặt các cô đào chú kép chớ không chú ý tới cô con gái rượu cua ông Cai nữa.

Bữa tiệc chiều được dọn ra trên một dãy bàn trên thảo bạc ngang trước sân khấu. Quan Chủ Quận và các vị hương Chức uống rượu tại đây. Xong tiệc tới phần trà nước thì màn hát cũng vừa buông xuống. Ông Bầu bước ra sân khấu giáo đầu. Ông nói miệng chớ không cầm giấy:

- Thưa Quan lớn Chủ Quận

Thưa ngài Chánh Tổng và quí vị Hương Chức sở tại!

Hôm nay bổn ban được hân hạnh ra mắt quí vị tại nơi gốc gác của gánh hát chúng tôi với vở tuồng “Tiết Ứng Luông dưng Ngũ Linh kỳ” ủa ủa… “Thần Nữ dưng Ngũ Linh kỳ chuộc tội cho Tiết Ứng Luông”. Đây là vở tuồng rút ra từ truyện Tiết Đinh San chinh Tây hồi xưa ở bên Tàu.

Đào kép bổn ban chúng tôi là những người con dân trong làng cày sâu cuốc bẫm suốt tháng quanh năm, bàn chân quen với bùn lầy gốc rạ, bàn tay thì làm bạn với cán cuốc cái liềm nên chắc hát không hay, múa không dẻo bằng đào kép của các đại ban ở trên tỉnh thành, nhưng chúng tôi cũng xin rán hết sức để làm vui lòng quan Chủ quận, ông Chánh Tổng và quí vị Hương Chức.

Trước khi mở màn, tôi xin thay mặt toàn ban nam nữ chúc cho cô dâu và chú rể “loan phụng hoà minh sát cầm hảo hợp”.

Ông Quận vỗ tay. Tất cả đều vỗ tay theo. Pháo tay vừa dứt thì dây pháo nồi treo ở chót tàu dừa bắt đầu nổ đùng đùng một hồi lâu mới dứt.

Trong hương nồng và khói xanh của những dây pháo, tấm màn cũ kỹ của gánh Bầu Lúa từ từ được vén lên. Bên trong đèn màu phực lên mờ mờ. Phong cảnh núi rừng âm u hoang dã hiện lên. Một nữ tướng từ bên trong cánh gà chạy ra trong tiếng trống trận, múa tít ngọn trường thương rồi dừng lại, trụ bộ, xưng tên:

- Ta là Thần Nữ chiếm cứ Phụng Hoàng San
Những kẻ nào muốn bước qua ngang
Phải nạp tiền mãi lộ à à…

Rung tung tung. Một hồi trống cơm nổi lên dòn dã. Thần Nữ múa vài vòng rồi tiếp:

- Đã bao năm làm chúa sơn lâm
Dưới trướng có cả ngàn dũng sĩ
Những đấng nam nhi chi chí
Cũng đều khiếp phục oai danh.

Những sợi kim tuyến trên áo giáp của nữ tướng rung rinh dưới ánh đèn màu làm cho Thần Nữ rực rỡ oai nghi thêm.

Các chàng trai chắc lưỡi hít hà, thầm thì với nhau:

- Con đào này ở đâu mới tới vậy?

- Con gái của thằng cha Bầu Lúa chớ đào nào! Nó đi gặt lúa, đi bắt hôi hằng ngày không thấy hay sao?

Một chàng có vẻ thạo đời bảo:

- Tại nó lên sân khấu tổ đãi nó mới vậy chớ ở ngoài ruộng nó khét nắng tổ bà, trông xấu hỉn thôi cha non. Hổng tin chút nữa vô sau sân khấu nó cởi giáp lột mão ra thì hết có mê nổi.

- Nó bắt tụi bây nạp tiền mãi lộ kia, đứa nào có chịu nạp không?

- Nạp thì nạ..ạp chớ sợ gì!

Tuồng tích diễn đầy đủ như sự tập dượt của bà Nhưn nên được khán giả hoan nghinh nhiệt liệt. Bà Nhưn sợ cái khúc Tiết Ứng Luông dập đầu xin tội bị sượng nhung thằng Kình diễn khá đạt.

Diễn xong tuồng, chủ nhà đãi đào kép một bữa cháo thịt bò lót bụng trước khi cuốn màn. Ông Quận thưởng cho gánh hát 100 đồng. Ông Cai Tổng hứa sẽ xuất công nho tu bổ rạp hát, ông Cựu Hương Cả mời gánh hát đến hát một chầu nhân lễ thượng thọ của thân mẫu ông. Còn ông Hương Chánh thì kêu hát ăn tân gia. Ba chầu hát cách nhau không xa và tuỳ ý ông Bầu muốn diễn tuồng nào cũng được.

Riêng ông Hương Quản là chồng của Bà Nhưn cũng muốn tỏ ra có vai vế trong ban Hội tề nên đề nghị cấp cho gánh hát một ít “đất làng” để đào kép thêm gạo nấu. Như vậy là gánh Bầu Lúa sẽ phát tài trong năm nay. Nhưng có một việc rắc rối xảy ra. Đó là việc cậu Long con trai thứ tám của ông Cai đòi đi theo gánh hát. Cậu tìm tới gặp ông Bầu.

- Ông Bầu ơi! cho tôi đi theo vác ghế, kéo màn gì cũng được.

Ông Bầu thấy cậu là công tử sắp cưới vợ là con nhà giàu ở làng bên thì can gián:

- Không được đâu cậu Tám à. Cái nghề hát xướng này là cái nghề ăn quán ngủ đình. Cái bụng có khi đôi ba ngày teo nhách không có hột cơm, cậu đi sao nổi. Thà đừng đi! Chớ còn đi rồi bỏ nửa chừng người ta cười ông Bầu chết.

Cậu Tám cương quyết:

- Ông Bầu không cho tôi vô, tôi vô gánh khác cũng vậy hè.

- Rồi vụ vợ con của cậu ra sao?

- Tui không biết.

Ông Bầu lấy làm lạ. Ngày xưa ông cũng bỏ nhà theo gánh hát nhưng để kiếm cơm chứ không phải mê hát. Còn cái cậu công tử này đâu có phải đói rách gì mà theo gánh hát. Nhưng bà Nhưn biết rõ chuyện như đi guốc trong bụng cậu công tử. Bà nói:

- Nó muốn làm rể ông Bầu đó.

Ông Bầu ngẩn ngơ, thằng khố rách áo ôm này lại đi làm sui với ông Cai Tổng ư? Đời này đi lộn đầu rồi sao chớ. Bà Nhưn nói tiếp:

- Nó mê con Thần Nữ chớ có gì đâu mà hổng biết?

Ông Bầu kêu lên:

- Trời ơi là trời! Mê cái nỗi gì mà mê?

Thằng Kình không ăn cháo giải lao. Hát xong nó lội về nhà ngay. Trong bụng nó như có chảo dầu sôi. Nó giận lắm. Nó hận lắm nữa, nhưng không biết giận, hận ai. Nó nghe đám con nít bảo nó là “Tiết Uốn Lung” thì đúng là tiếng lái Tiết Ứng Luông chớ còn gì nữa. Nhưng nó có “uốn lưng” tức là xin xỏ cái gì của ai đâu nà! Nó chỉ xin tội với “má” nó thôi. Ờ ờ, lúc đó nó phải dập đầu uốn lưng xin tội với Phàn Nguyên soái và Phàn Nguyên soái lại là vợ nó. Nó phải gọi vợ nó bằng “má”. Tụi con nít cứ theo chọc ghẹo nó, chắc là vì thế. Nếu không phải vậy thì sao chúng nó cứ trêu “Tiết Uốn Lưng”.

Khuya lắm vợ nó vẫn chưa lội về. Nó nằm nhớ lại các lớp tuồng. Thằng cha Bầu này độc địa lắm, có cả bầy con vậy chớ mấy con đào mới nhập gánh đều bị… thằng chả sửa lưng, sửa tay sửa cẳng hết cả. Vợ nó đóng Phàn Lê Huê còn thằng chả đóng Tiết Đinh San thì phải là vợ chồng thiệt rồi chớ còn gì nữa. Hai bên ca và liếc nhau in như thiệt. Ai bảo đó chỉ là vợ chồng trên sân khấu? Thằng chả còn đưa cái ngón tay trỏ của thằng chả ra chấm vô gò má của vợ nó, thịt lún vô nửa lóng tay. Lúc đó nó “bị trói” dưới thềm, nó thấy rõ, nó ức lắm. Vậy mà con vợ nó không chịu bạt tai thằng chả mà lại cười híp mắt là cái nghĩa lý gì? Nếu không bị xiềng xích thì nó nhảy lên đập túi bụi cả hai đứa rồi tới đâu thì tới. Hát với xướng!

Nghĩ tới đó nó nghe máu ứ ngang cổ họng, nó ngồi dậy ra hàng ba múc gáo nước ực một hơi. Vừa máng cái gáo lên cây đinh trên cột thì thấy bóng người đi tới. Nó quát:

- Làm cái giống gì ở đó, bây giờ mới về tới nhà? Hả, hả?

- Diễn tuồng xong ông Quận còn mời hết đào kép vô thảo bạc, để nguyên áo mão son phấn như vậy rồi ông Cai rót rượu bắt mỗi người phải uống một ly.

- Cha chả, ngon dữ he.

- Ông Bầu không dám từ chối, ổng lần lượt kêu từng tên Phàn Lê Huê, Tiết Đinh San ra nhận rượu thưởng và phải uống liền trước mặt mấy ổng. Tới phiên anh, không thấy anh, em phải uống thay. Hai ly chồng độ, say quá cỡ!

Bốp! Bất thần thằng Kình xáng cho “Phàn Lê Huê” một bạt tai như trời giáng. Phàn Nguyên soái không thủ thế, bị nguyên một cái tát quay mòng mòng. Thằng Kình làu bàu:

- Sao không ở đẳng ngủ luôn đi, về chi đó?

Con vợ nó không khóc la gì ráo trọi mà còn bước tới thoi lia vào mặt thằng chồng. Sẵn cái gáo bên cạnh, nó chụp luôn làm vũ khí “hô giáng” một loạt năm sáu nhát vô đầu thằng đàn ông. Đến lúc gãy lọi cái gáo nó mới thôi. Nhưng nó chống nạnh vô hông, vừa thở hổn hển vừa quát:

- Mày là đồ nghịch tử. Tao đã án binh bất động mà mày lại dám cả gan xuất quân để đại bại bị con đàn bà bắt trói làm mất uy danh của bà. Quân đâu lôi đầu nó ra viên môn xử trảm.

Mấy đứa nhỏ đang ngủ nghe tía má chúng hát tuồng Bầu Lúa ngoài sân bèn chạy ra. Dưới ánh sáng chiếc đèn chong trên tay, chúng nom thấy bà Phàn Lê Huê cỡi trên mình ông Tiết Uốn Lưng vừa thoi lia lịa, vừa gầm ghè:

- Mầy là thằng bất tài vô tướng chỉ được cái mã bóng láng thôi, chưa đóng giấy thuế thân nên bị con Thần Nữ trói đầu, không biết mắc cỡ. Bỏ nghề đi, đừng có vô đó mà làm kép nữa. Đồ kép nhứt! kép nhứt!

Thằng Kình không ngờ bữa nay con vợ nó hung dữ như vậy. Vả lại, “Tiết Uốn Lưng” có cái tịch trước nên đành chịu thua cho “Soái mẫu” đại thắng keo này. Cũng không sao! Không có khán giả nào ngoài mấy đứa nhỏ ở nhà.

° ° °

Giữa đồng lúa chín, ông Bầu lại bị đám thanh niên đòi nợ:

- Bác kể cái vụ “thiến dối” nghe đi bác Ba!

Ông Bầu được “đậu giàn” đêm hát ở nhà ông Cai nên vui vẻ bảo:

- Kể thì kể, nhưng có mấy con “đào lộn hột” ở đây tao kể không có mạnh miệng. Tụi bây xua tụi nó đi rồi tao kể nhiều chuyện còn hay hơn nữa. Chuyện thiến dối mà ăn thua gì!

Một anh chàng đứng dậy ra oai với đám con gái:

- Tụi bây có nghe không? Đứa nào còn ở nán lại nghe thì tao thay mặt ông Bầu thâu một lít gạo nghe!

Một cô “đào lộn hột” vênh váo:

- Nghe thì nghe, nhưng đóng thì không đóng.

Chàng trai nói:

- Ông Bầu cứ kể đi, đứa nào lì lắm, tới khúc “ác xiêm lai” thì cũng chạy trốn chớ gì.

- Nó trốn ở dưới gió để nghe cho dễ! Hé, hé!

Ông Bầu hỏi:

- Hôm trước tao đã kể tới đâu rồi?

- Tới chỗ anh chàng Lao Ái lao yết gì đó đem cái bàn ra đặt ở giữa đám đàn bà con gái rồi leo lên tuột quần nằm ngửa… phơi phơi ra.

Cả bọn cười rần. Đám con gái nguýt trời muốn sập, một cô bào:

- Lãng dang. Đàn ông gì làm kỳ cục vậy.

Đám thanh niên giục:

- Kể tiếp đi Ông Bầu!

Ông Bầu thanh minh:

- Chuyện này là do tụi bây đòi, chớ không phải tao muốn kể đa nghe, đừng có đứa nào mét bà Bầu rồi bả nói tao là thằng cha già đâm hơi đa nghe.

- Rồi! Đứa nào mét bà Bầu cho Tổ vật nó lọi giò không đi hát được nữa!

Ông Bầu móc thuốc rê phì phà và nói:

- Thằng đó tên là Lao Ái. Nó chờ cho tới hội Xuân để làm cái trò của nó. Nó nằm ngửa rồi lấy một cái bánh xe bằng gỗ vông đã tiện sẵn ở nhà, rồi xỏ cái trụ sắt của nó vô mà quay.

Ông Bầu kể ngay vô chính chuyện nhanh nên đám con gái không chạy kịp nên đành ngồi rụt xuống đám lúa mà giấu mặt vào lưng nhau. Một cậu trai chơi cắc cớ, hỏi:

- Cái trụ sắt gì ở đâu mà anh ta xỏ vô vậy Ổng Bầu?

Ông Bầu gạt cái tàn thuốc vào lỗ nẻ rồi bảo:

- Cái trụ sắt của nó chớ ở đâu.

- Sao lúc nãy bác không có nói mà ở đâu nó xuất hiện bất ngờ vậy?

- Thằng Lao Ái nó mang trong mình có lúc nào rời đâu. Lúc hữu sự thì nó thành sắt còn lúc bình thường nó dẻo dẻo như roi da.

Một cậu nói:

- Nó biến hoá tài vậy hả ông Bầu?

- Ờ, cũng đâu đó à!

Ở phía mấy đứa con gái có tiếng phản đối:

- Đồ mắc dịch đâu không hà!

- Số là ở trong cung - Ông Bầu tiếp - Có một bà hoàng hậu rất xinh đẹp mới ba mươi ngoài mà nhà vua lại băng hà.

- Úa sao rủi ro vậy, ông Bầu.

- Chuyện dài lắm, bữa nào tao sẽ kể tiếp. Còn bây giờ tạm bỏ màn xuống ngang lớp này đi.

- Hổng được. Bỏ màn vậy, khán giả tức dội, họ đòi lít gạo lại đó ông Bầu à!

Một cậu lên tiếng:

- Khán giả không có đòi lít gạo lại đâu ông Bầu, nhưng ông phải hí hí màn cho họ xem tiếp một chút xíu nữa thì về nhà họ mới ngủ được.

Đám gái lại càu nhàu:

- Đồ mắc ôn đâu không hà!

Một cậu thanh niên giả giọng con gái, nói khao khao:

- Khán giả đực rựa xin đóng thêm một lít nữa, còn chị em chúng tôi xin đóng hai lít chẵn, ông Bầu cho xem cá..ái “khúc sắt” chút nữa thôi.

Ông Bầu cười lấy trớn, và tiếp:

- … Cái bánh… xe quay tít mù, không biết mấy chục vòng không biết mấy chục phút làm cho mấy người đàn bà vá chóng mặt phải chạy tháo ra ngoài kiếm chỗ trốn. Hì hì… trốn thiệt kín, nhưng lén dòm trở lại.

- Xí đàn bà nào dòm kỳ vậy?

Ông Bầu kể tiếp:

- Tuy cái bánh xe quay vun vút như vậy mà cái “trục” không hề hấn trầy trụa gì hết mà nó vẫn còn muốn quay tiếp cái bánh xe… Sau cái trò đó, cả trăm đàn bà vá đến tận nhà tìm anh ta để làm quen, xô đẩy suýt đánh nhau. Quan huyện sở tại thấy vậy không biết làm sao vãn hồi trật tự trong vùng bèn bắt tên Lao Ái tống ngục. Tưởng vậy là đã giải quyết vấn đề rối loạn tận gốc, nào ngờ đám đàn bà kia càng nổi loạn hơn nữa. Họ kéo nhau đến cổng huyện đường đòi phải thả Lao Ái ra.

Ông Bầu ngưng kể:

- Rồi Quan huyện giải quyết cách nào, ông Bầu?

- Đã nói là trong cung có bà hoàng hậu trẻ vì vua mới băng hà nên ông thừa tướng rất mừng rỡ mà bảo Quan huyện chuyển tên tội Lao Ái về trên kinh đô.

- Ủa, có vụ đó nữa sao ông Bầu?

- Có chớ, người có quyền thế bao giờ cũng phỗng tay trên dân chúng mà không bị tội tình gì hết! Rốt cuộc đám đàn bà con gái tranh giành cho mệt mà cái “trụ sắt” lại lọt vào tay ai.

° ° °

Cậu Tám Long đến gặp ông Bầu năn nỉ để nhập gánh. Con nít người lớn chạy theo coi rần rần. Con ông thầy Cai mà đòi theo gánh “Bầu Rệp”. Bầu Lúa cũng được bà con gọi là “Bầu Rệp”, mạt rệp ấy mà!

Nó có hai nghĩa: một là “mạt rệp”, hai là hia mão khôi giáp cũ mèm, mỗi lần đào kép mặc vào. quơ múa, rệp văng ra đầy sân khấu, bò lểnh nghểnh. Một gánh hát như vậy mà con ông Cai Tổng xin gia nhập được sao? Thiệt là khó xử cho ông Bầu.

Ông từ chối khéo:

- Các vai tuồng có đủ đào kép cả rồi cậu à!

Cậu Long nói:

- Đủ vai thì tôi khiêng bàn dọn lớp, kéo màn.

- Ối, mấy việc đó để cậu làm coi sao phải, cậu thương tui dùm chút, cậu Tám!

- Tại sao tôi không làm được chớ?

- Cậu như vầy mà đứng kéo màn, khiêng bàn dọn lớp, ai coi cho?

- Tôi không có ăn lương của gánh hát đâu mà ông Bầu sợ.

- Hổng phải tui sợ chuyện đó! Tui sợ là sợ ông Cai bảo tui rù quến cậu rồi đâm ra tai tiếng cho gánh hát tui chớ!

- Tôi bảo kê hết thảy, ai nói gì tôi chịu hết.

- Người ta đâu có nói trước mặt mình. Người ta xầm xì sau lưng mới mệt chớ.

- Ông Bầu cứ để tôi vô thử coi ai nói gì?

- Họ không nói cậu mà họ đâm hông tôi khổ lắm.

Mặc dầu ông Bầu nói ráo nước miếng, cậu công tử vẫn không lọt lỗ tai được tiếng nào. Chiều chiều hễ có tiếng trống rao bảng của thằng Tý thằng Sửu thì cậu Long tới. Cậu đứng xớ rớ ở trước rạp ngó trời ngó đất, thấy không ai sai bảo chuyện gì thì cậu đi vô trong rạp coi sơn thuỷ và áo mão. Mấy chú quân chạy hiệu thấy vậy cũng thương nhưng không dám nhờ cậu làm gì hết. Tuy vậy cậu cũng kiên tâm bền chí ở cho tới mãn đêm hát mới về.

Bữa nọ, bà Nhưn thấy tội nghiệp bèn, hỏi:

- Cậu muốn đi vô gánh Bầu Lúa thiệt sao cậu?

- Dạ phải!

- Trả “giạ” cho cậu đó. Đừng có xưng hô vậy tội chết. Tôi hổng dám nhận đâu. Cậu liệu đóng được vai gì?

- Vai nào tôi đóng cũng được.

- Vậy để tôi coi, tuồng còn trống vai nào tôi giao cậu vai nấy.

Cậu Long mừng mà bà Nhưn còn mừng hơn.

Tuồng Mạnh Lệ Quản thoát hài bị ông Cai tổng chê (vì Hoàng Phủ Thiếu Hoa có ba vợ, sợ điềm bất tường cho con gái ổng) thì sẽ cho diễn ở buổi lễ ăn Thượng thọ cho thân mẫu của ông cựu Hương Cả. Từ đây đến ngày diễn cũng còn xa. Bà Nhưn ngắm nghía coi cậu công tử này thủ được vai nào. Vai Hoàng Phủ Thiếu Hoa do thằng Khánh (con trai ông Bầu, anh con Lệ) đóng. Anh em ruột không mùi tình được, do đó vở tuồng bớt phần lôi cuốn khán giả. Bà định cho thằng Khánh chuyển sang vai phụ là Lưu Khuê Bích, để cho cậu Long làm Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Mặc tình cho cậu liếc háy mùi mẫn với con Thần Nữ vốn là vai của con Lệ xưa nay. Nhưng thằng Khánh không chịu. Nó nói Lưu Khuê Bích là vai phụ. Hơn nữa ở cuối tuồng Lưu Khuê Bích và cả nhà bị chết chém : như vậy xui lắm.

Cũng may, bà Nhưn chưa nói cho Long hay nên Long khỏi mừng hụt. Một bữa thằng Sửu thằng Tý và thằng Mão đi rao bảng bằng cộ trâu vô tới chợ. Vừa cắn mí lộ đá thì cho quay về. Vừa lúc đó gặp cậu Long. Cậu thấy gánh Bầu Lúa thảm thương quá, bèn kêu ba đứa bé dừng cộ lại chờ ở mé lộ đá. Ba đứa không hiểu chuyện gì, nhung chúng ngỡ là cậu Long đã nhập gánh và có quyền hành của ông Bầu giao cho, nên chúng không dám cãi. Một chập cậu Long trở lại. Cậu đứng trên chiếc xe ngựa sang trọng nhất ở chợ làng này mà chúng chỉ thấy thoáng qua chớ không bao giờ dám mơ ước ngồi trên đó. Cậu Long nhảy xuống bảo ba đứa đem trống lên xe và buộc tấm bảng saư thùng xe. Xong rồi Long bảo:

- Mấy đứa bây đánh trâu về đi, để tao rao bảng cho.

Rồi cậu báo người chủ xe cho ngựa chạy. Cậu đi rao bảng khắp các ấp. Đêm đó khách đến coi hát bể rạp. Nhưng cậu Long không chỉ rao bảng bằng xe ngựa, cậu ra tay vẽ thêm bảng quảng cáo rồi thuê cả xe hơi đi rao bảng.

Chiếc xe của ông Ba Xôi, độc nhất ở chợ này, mỗi buổi chiều nghe kèn te te và tiếng trống ình ình là bà con biết gánh Bầu Lúa đang rao bảng.

Đường làng có nhiều khúc đứt hoặc yếu xe hơi không chạy được. Các vị hương chức thấy cậu công tử thuê xe rao bảng, còn ông Hương Quản thấy gánh hát do vợ mình là bà Nhưn đang lên chưn cho nên ông xin cả ban Hội tề kêu dân làng sửa đường cho xe chạy.

Trước đây dân xóm ấp muốn đi lên quận phải cuốc bộ vô chợ thì mới leo được lên xe hơi. Bây giờ xe chạy ra tới chót ấp, cũng nhờ gánh Bầu Lúa. Tiếng đồn cậu công tử đi theo hát bội vì mê đào bay kháp trong vùng. Kẻ khen, người cười.

Người khen thì nhắc lại công ơn của gánh Bầu Lúa. Nhờ nó mà bà con trong mấy làng gần quanh đây được coi tuồng. Cha coi đã đời rồi tới con coi. Hễ buồn buồn thì rủ nhau đi coi hát. Không coi cũng rủ nhau đi, đi riết rồi ghiền. Nam thanh nữ tú thì lấy đó làm chỗ hẹn hò. Nghề hát cũng sang trọng chớ phải nghèo hèn gì hay sao mà xấu mặt cậu công tử. Trông kìa, quan Chủ Quận bắt tay và thưởng tiền cho ông Bầu. Còn ông Cai Tổng thì hứa sẽ trùng tu rạp hát cho ông. Thiếu gì con quan lấy con dân.

Vừa rồi gánh hát Thổ tới chợ hát tuồng Thạch Sanh Chém Chằn và hai ba tuồng nữa. Tiếng thổ ai có nghe ra cái giống gì, nhưng mà đào kép đóng hoàng tử công chúa thiệt đẹp. Cho nên khi nó nhổ sào lui ghe thì con gái của chủ tiệm Chệt lớn nhất chợ làng đi theo thằng hoàng tử. Người ta không coi đó là chuyện lạ. Bòn ơi! Bòn ơi! Đầu gà đít vịt đẻ con ngộ lắm. Thế rồi cũng qua đi. Xẩm theo Thổ có gì là lạ? Nhưng có người thêm thắt: Cái nghề hát xướng có thờ Tổ. Con đào thằng kép ra tuồng đều có Tổ đãi. Trước khi ra tuồng nó đến xá bàn thờ Tổ. Nghề này có ma. Con đào mặt rỗ vậy mà đóng Lưu Kim Đính ra đèn đẹp như sao sa. Thầy chú mê như điếu đổ. Còn mấy thằng kép mắt tét ghèn, chân đi khập khiễng mà đóng Địch Thanh, mấy bà bán cá cũng khen đẹp trai. Hổng chừng con Thần Nữ cho cậu ta ăn bùa ngải gì cũng nên. Cha chả con nhỏ mà vô nhà ông Cai thì không còn chiếm núi Phụng Hoàng làm tướng cướp để bắt khách nạp tiền mãi lộ nữa.

Người ta bàn tán đủ phách ở khắp các nơi ngoài ruộng trong vườn, ở những buổi nhậu. Và người ta chờ xem phen này con “Thần Nữ” có trói được cậu quí tử nhà ông Cai không.

Gánh Bầu Lúa khá lên ngó thấy. Rạp hát được lợp bằng lá càn-đóp. Những cái băng lung lay như răng rụng được thay bằng những tấm ván mới. Hàng đầu có một dãy ghế để dành cho chức việc ngồi. Ông Bầu còn dự tính sẽ làm nóc che trên đầu khán giả để phòng những đêm đang hát nửa chừng bỗng trời đổ mưa.

Nhưng quan trọng nhất là sự tiến bộ bên trong sân khấu. Một tấm sơn thuỷ lớn dùng làm “phông” cho mọi tấn tuồng đã được thay. Ông Bầu đã mướn thợ vẽ “cải tử huờn sanh” cho nó. Chả là nó đã được treo ở đây từ ngày con “Thần Nữ” mới oe oe khóc chào đời. “Tiết Cương chống búa, Giang tả cầu hôn Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu Thành”, “Địch Thanh Thoại Ba”, tuồng nào cũng lấy nó làm cảnh được hết. Cũng mây cũng núi đó, cũng rừng cũng vườn hoa đó. Bất cứ tuồng tích xảy ra như thế nào thì cũng có một cảnh đó mà thôi.

Bây giờ ông Bầu không thể mướn vẽ sơn thủy mới để thay đổi cảnh như các trung ban đại ban được, nhưng ít ra tấm sơn thuỷ cũng mới hơn. Rồi còn mua sắm hia mão khôi giáp nữa chớ. Ba cái thứ này đâu phải dễ tìm. Da tốt nhờ lụa, lúa tốt nhờ phân. Đào đẹp nhờ kim tuyến lông công. Con Thần Nữ làm cậu Long mê mẩn là vì ba cái áo giáp chớp chớp của nó chớ đâu phải chỉ vì nhan sắc mà thôi.

Nhưng có một điều hơi buồn là ông Bầu đã già. Năm mươi mấy tuổi còn lên sân khấu. Vai Quan Công Tào tháo, Uất Trì, Nhạc Phi, Đổng Trác và bất cứ vai nào, hễ đêm diễn tuồng khuyết kép thì ông đều bao được hết! Ông là kẻ đã tạo ra các vai ấy mà. Mà cái chuyện kép vắng mặt vì làm ruộng mệt mỏi, vì đau ốm, vì vợ đẻ, con đau đối với gánh Bầu Lúa là chuyện thường.

Nhung sau khi diễn tuồng “Tiết Ứng Luông” thì bà con muốn xem cho tận gốc vì sao có cái bà Nữ Soái Phàn Lê Huê tác oai tác quái; ông Nquyên Soái họ Tiết vốn là dòng dõi danh tướng Tiết Nhơn Quí là người đã đem vua Đường vượt cả biến Đông sang đánh nước Tây Phiên tiểu quốc?

Số là Phàn Lê Huê là con của một viên võ tướng trấn thủ ải địa đầu của nước Phiên. Ông tướng này có đứa con gái tên là Phàn Lê Huê (ngoài Bắc gọi là Phàn Lê Hoa). Lê Huê được tiên đem lên núi dạy phép thuật cao cường. Trước khi hạ san, thầy có dặn rằng nàng có duyên nợ tiền khiên với tướng trẻ nhà Đường là Tiết Đinh San. Khi vua Đường sang Phiên Quốc thì Tiết Đinh San xuất trận đầu tiên, khiến xui cho Lê Huê cũng ra trận. Hai bên so gươm giữa trận tiền. Lê Huê thấy tướng nhà Đường diện mạo khôi ngô oai võ phi thường thì hỏi ra tên tuổi:

- Tướng kia tên họ là chi, hãy xưng ra để ta đưa hồn về chín suối?

Đinh San bèn xưng tên:

- Ta là Thế tử Đường Bang, Đinh San, họ Tiết.

Lê Huê nghe tên tướng giặc bèn xuôi tay suýt rớt gươm không đánh được nữa, bèn khai thiệt rằng Sư mẫu có dặn rằng ta với chàng có duyên tiền định. Nhưng Đinh San lại khinh miệt gái Phiên lăng loàn nên không đếm xỉa lời tỏ tình của Lê Huê. Chàng cứ hươi kích chém tới. Lê Huê lui ngựa, đưa gươm lên đỡ và cười tươi như hoa.

- Xin chàng đừng đánh. Ta với ngươi có duyên số với nhau!

Nhưng Đinh San cứ việc chém bừa. Năm lần bảy lượt, Lê Huê can không được mới phải ra tay, quăng dây “khổn thiên” lên trói Đinh San nằm queo dưới đất và kê gươm vào cổ quát: “Ngươi chịu qui hàng chưa?” Thua nữ tướng, Đinh San xấu hổ không chịu thua nhưng còn làm gì được nữa nên đành nghe lời “nữ tướng” mà nhận làm “chồng nàng ta” để giải vây trước rồi sau sẽ tính chước khác.

Nhưng Lê Huê đời nào chịu thả hổ về rừng mà không buộc dây trên cổ để đề phòng nó sổng mất? Nàng bắt Đinh San thề thốt. Đinh San không thể từ chối bèn quì xuống chỉ trời vạch đất mà ràng: “Nếu ta sai lời, thì cả nhà đều bị chết chém!”

 

(Ngày xưa lời thề rất linh ứng, chớ không phải như bây giờ, ký hiệp ước rồi phản ngay sau đó. Về sau cả dòng họ Tiết bị chết chém 500 mạng vì lưỡi gươm của Võ Tắc Thiên)

Đinh San thề xong, Lê Huê tha cho về. Bố Lê Huê thấy con gái tha tướng giặc bèn gạn hỏi. Lê Huê thưa thật. Ông via nổi giận rút gươm chém “đứa con gái lăng loàn”. Lê Huê cũng vung gươm ra đỡ, chẳng dè quá đà, lưỡi gươm vô tình xuyên ngực cha. Hai người anh của Lê Huê thấy vậy bèn xông vào nhưng cũng bị cô em gái “lỡ tay” luôn. Thành ra có tích “Lê Huê tru huynh sát phụ”.

Xong rồi Lê Huê dâng ải cho Đường Bang và qui thuận Đường trào, để thành thân với Đinh San. Nhưng Đinh San không nhận Lê Huê là vợ. Lê Huê bèn bỏ về quê và chống lại binh Đường. Tiết Đinh San không giải vây nổi phải đi cầu Phàn Lê Huê xuống giúp. Nhưng để được chắc chắn Lê Huê giúp cho, Tiết Đinh San phải tay bưng khay trầu rượu, mỗi bước phải quì xuống lạy một lạy, gọi là “nhứt bộ nhứt bái” trên một đoạn đường vài chục “mao”. Hai đầu gối Đinh San chảy máu dầm dề vì cái tội bội ước.

Bà Nhưn cho thằng Kình đóng vai Đinh San. Sau vai này Kình ta biết bà Nhưn còn ác độc hơn Lê Huê, nên chàng ta giải nghệ luôn. Cũng vì cái tật láu táu mà mất “job” và cái dấu ấn không bao giờ phai trên mặt với cái tên “Uốn Lưng”.

Bây giờ xin trở lại việc cậu Long và Thần Nữ. Mặc dù cha mẹ, anh em, bạn bè, ông Bầu và bà Nhưn đều không tán thành cho cặp uyên ương đó, nhưng Long vẫn cứ chạy xe trên đường một chiều. Miễn sao cậu được “gần” Thần nữ thì thôi! Long tìm hết cách. Đêm nào có hát, Long cũng đến, mong có một vai kép khuyết để được bà Nhưn bắt trám vào. Một bữa Long được bà Nhưn cho Long đóng vai cọp (con cọp) trong tuồng Liễu Kìm Huê chờ chồng. Số là trong tuồng này, Tiết Nhơn Quí chinh Đông mất mười năm. Liễu Kim Huê ở trong một túp lều tranh vẫn chờ chồng về. Tiết Nhơn Quí đã là Đại Nguyên Soái Đường bang, nhưng ông hồi hương êm ru không kèn không trống, không quân hộ vệ cũng không có lính tuỳ thân. Ông mặc đồ thường dân để bất ngờ về nhà thử lòng vợ.

Ông về gần đến nhà thì mệt lả, nằm tựa vào gốc cây rồi ngủ thiếp đi. Tướng tinh của ông là con cọp bạch (Bạch hổ tinh) xuất ra. Ông chợp giựt mình thì thấy con cọp kia đang vồ một đứa bé. Ông vội rút tên lắp vào cung bắn ra một phát, nhưng cọp tinh liền chụp lấy mũi tên chạy tới cắm vào ngực đứa bé. Chẳng ngờ đứa bé đó là Tiết Đinh San, lúc ông ra đầu quân thì vợ có bầu, nay Đinh San đã 10 tuổi. Thế là cha lại giết con. (Con cọp kia là hồn ma của Cáp Tô Văn bị Tiết Nhơn Quí giết nên theo báo thù, giết cha không được thì hại con!)

Bà Nhưn cho cậu con ông Cai Tổng đóng vai “cọp”. Chỉ có bấy nhiêu thôi mà Long rất sung sướng. Nay mai chắc bà Nhưn sẽ cho cậu đóng vai cao hơn. Chuyện không đáng gì mà cậu đi khoe khắp xóm, cậu ăn ngủ không được. Cứ mong cho có rao bảng để cậu ra tay “tế độ” mấy đứa bé bằng một chuyến xe hơi. Cậu đi vòng vòng ở ngoài rìa rồi sẽ đột nhập vào trung tâm chẳng khó gì.

Một bữa thằng Thành con út của ông Bầu giữ “vai” kéo màn. Thằng Thành rất rành các lớp các màn. Nhưng rủi thay, bữa đó bà Bầu cho nó ăn chè đậu. Đang đứng thủ sợi dây trong tay nó nghe chột bụng. Nó thấy cậu Long đứng bên cạnh, nhưng nó không dám mượn. Ai lại mượn con ông Cai Tổng kéo màn, mặc dù cậu lại rất thích được làm bất cứ việc gì trong gánh hát.

Thời may có thằng nhỏ con chú Tiều làm rẫy, thấp thoáng trước rạp. Thằng chệt con không biết cách nào vô xem hát được, thấy thằng Thành ngoắc thì nhảy một phát lên, luồn vô cánh gà. Thằng Thành bảo:

- Mày cầm dùm sợi dây này, hễ tới lúc ông Râu hét rầm rầm thì buông dây cho màn sập xuống. Tao đi “đây” chút rồi trở vô liền.

Thằng chệt nhận ngay và nắm sợi dây, mắt đăm đăm nhìn ông Râu đang diễn võ dương oai ngoài sân khấu. Chả đó là tuồng Đương Dương Trường Bản. Quân Tàu đang đuổi gấp quân Lưu bị. Trương Phi (ông Râu) cản hậu làm cho khán giả xem mê mải với những đường đao múa vun vút. Thêm vào đó quân Tào đang đuổi riết la ó vang vầy. Thằng chệt con xem không nháy mắt. Đến lúc nguy khốn Trương Phi giở cẩm nang của Khổng Minh ra xem quân sư dạy điều gì để thoát nguy. Chẳng ngờ trong cẩm nang không có lấy một chữ. Trương Phi nổi giận la hét lên một tiếng như sấm. Con Cù nằm tu dưới đáy sông lâu năm, nghe sấm dậy, tưởng là trời nổi sấm rước nó về thiên đình, nên vùng bay lén làm sập chiếc cầu, quân Tào chết chìm vô số.) Nhưng trên sân khấu không có chiếc cầu Trường Bản, cũng không thể làm con Cù bay được nên phải hạ màn cho lấp qua, nhưng thằng chệt con xem say mê mà quên mất “vai tuồng bỏ màn” nên Trương Phi hét hai ba lần mà nó vẫn đúng trơ trơ không chịu buông sợi dây cho màn hạ. Trương Phi bèn hét to và đưa tay nhắc nhở:

- Tức chết đi Quân sư. Bỏ màn! Thành…!

Nhưng thằng Chệt con không còn nhớ nhiệm vụ của nó, cứ đứng như trời trồng. Trương Phi càng hét to, nó càng thích chí, cười vang. Nó che tay trả lời:

- Thằng Thành…

Trương Phi không nghe gì nhưng thấy màn không hạ thì nhảy tưng lên vung đao đá giáp hét liên tục và nhắc: “Bỏ màn”.

Thằng chệt quay lại thấy cậu Long thì nhờ nắm dùm sợi dây và nghênh nghênh bước ra sân khấu rỉ tai Trương Phi:

- Thằng Thành li..ỉa… dồi!

- Ái ải! Trương Phi càng nổi cáu hét to hơn nữa.

Thằng chệt quay lại nói to:

- Kêu kêu hoài! Đã pảo là ló li ỉa… dồi!

Cậu Long biết sự tình nên vội vàng buông dây hạ màn. Khán giả không biết “nội tình” của gánh Bầu Lúa, tưởng Trương Phi diễn thật hay nên vỗ tay nhiệt liệt. Chẳng ai ngờ được rằng chính cậu Long đã cứu được màn hát khỏi “chảy”. (Nếu không bỏ màn thì Trương Phi cứ hét mãi hay sao?)

Nhờ cái “tài” buông màn đó, bà Nhưn cất nhắc cậu lên đóng “vai” quân chạy hiệu cho Thần Nữ. Được vậy cũng đã quới lắm rồi. Đây chẳng khác nào một phần thưởng. Cậu được cắp giáo đứng dưới trướng Thần Nữ, được Thần Nữ sai việc nọ việc kia. Bất đầu từ vài tuồng này, cậu được coi như đã nhập gánh Bầu Lúa.

° ° °

Chuyện cậu Long nhập gánh Bầu Lúa rồi cũng êm dần. Người ta không bàn tán xôn xao trong các bữa tiệc, đám giỗ và ở ngoài đồng ruộng nữa. Cái bất thường nào rồi cũng trở thành bình thường. Người ta coi việc cậu nhập gánh là lẽ tất nhiên. Trai mê đào hát, xưa nay cũng đã từng xảy ra ở chốn này.

Kịp đến ông Hương Bộ mời gánh hát đến hát một chầu giúp vui. Không rõ lý do gì, ông chưa tới tuổi thượng thọ, cũng không đăng quan tiến chức, vậy lẽ gì mời gánh hát đến. Người ta hiểu ngầm rằng ông mới o được một bà. Ông đã ngoài ngũ tuần mà bà mới ba mươi, thì ông ăn mừng là phải. Nhưng thói đời cái gì nói ra thì mất hay, cứ để hiểu ngầm mới hay.

Ông Bầu chọn tuồng Giang Tả cầu hôn. Người xưa đã vậy mà người nay càng vậy. Ông thì thích bà chính chuyên phu xướng phụ tùng nhưng lại cho mình cái quyền múa lăng ba trên trường tình ái.

Lưu Bị ngày xưa có hai vợ nên có tuồng Quan Công phò nhị tẩu, đây là một tấm gương hết sức rực rỡ tự cổ chí kim. Chỉ có Liễu Hạ Huệ đời Châu và Quan Vân Trường đời Hán mà thôi, còn các đấng tu mi nam tử thì đều lem nhem trong vấn đề nữ sắc không có trường hợp ngoại trừ. Trong Giang Tả cầu hôn, không phải vì Lưu Bị thiếu chất tươi mà vì lão ta muốn món lạ. Đàn ông như mèo, đàn bà như mỡ. Mèo đi tìm mỡ nên có tiếng “mèo mỡ”.

Sự tích này khá dài gồm trong ba lần Khổng Minh lừa Châu Do (Khổng Minh tam khí Châu Do). Xin kể tạm như sau. Thời Tam quốc, nước Tàu chia ra làm 3 nước (Tam Quốc) không ai chịu ai, bạn không phải bạn cũng không hẳn là thù. Chơi với nhau nhưng vẫn tìm cách hại nhau (cũng như Tàu-Mỹ-VC ngày nay) cho nên chơi thì chơi mà vẫn đề phòng. Nhưng mặc dù đề phòng mà vẫn bị hại như thường. Đông Ngô do Tôn Quyền làm chúa. Đất Tây Thục thì do Lưu Bị xưng vương cai quản, còn Bắc Nguỵ vốn là của nhà Hán lại nằm trong tay quyền thần Tào Tháo. Lúc bấy giờ có mảnh đất nhỏ gọi là Nam Quận do Tào Tháo chiếm giữ. Sau trận Xích Bích quân Tào mất 80 vạn binh, nên Nam Quận đã trở thành một yếu điểm giữa 3 nước, cả ba đều dòm ngó và muốn thôn tính. Quân Đông Ngô vừa mới thắng trận Xích Bích muốn thừa thắng xông lên chiếm Nam quận. Khổng Minh biết rõ bụng Châu Do bèn lập kế “ký hiệp ước” với Đông Ngô và hứa rằng: “Thục nhường cho Ngô lấy trước, nếu Ngô lấy không nổi thì bấy giờ mới tới phiên Thục lấy”. Châu Do (Ngô) nghe vậy mừng rỡ bèn kéo quân đi đánh Nam Quận nhưng rốt cuộc bị Khống Minh lừa và bị thương. Đó là nhất khí.

Tam khí là Khổng Minh xúi Châu Do đi lấy Tứ Xuyên, một vùng đất hiểm trở khó hành quân, nên Khổng Minh hứa sẽ tiếp tế cho quân Ngô. Châu Do nghe vậy khấp khởi mừng thầm, định bụng khi đi ngang nước Thục sẽ trở mặt mà lấy luôn nước Thục, cũng y như VC mượn đất Miên để lập căn cứ đánh Sài Gòn vậy. Đánh xong Sài Gòn sẽ quay lại làm cỏ Cao Miên, nhưng Sihanouk ngây thơ chớ Khổng Minh đâu có khờ vậy.

Được Khổng Minh hứa hẹn, Châu Do kéo binh đi lấy Tứ Xuyên. Khi sang tới đất Thục thì thấy thành trì vắng hoe, chúa tôi nhà Thục chẳng có ma nào ra đón tiếp cả. Đã thế lại bị phục binh Thục ùa ra đánh giết tơi bời. Châu Do biết mắc kế Khổng Minh nên uất ức, nhào xuống ngựa vết thương cũ xé ra và hộc máu mà chết, lúc mới có 37 tuổi. Trước khi chết, Châu Do than một câu để đời: “Trời đã sanh Do sao còn sanh Lượng?”.

Nhưng trong ba lần bị lừa, thì lần thứ hai là vui vẻ và lâm ly nhất. Số là lúc đó Lưu Bị chết vợ. Trước dinh treo cờ trắng. Quân Ngô trông thấy bèn vào báo cho Châu Do. Châu Do bèn nảy ra một kế để bắt nhốt Lưu Bị. Nhân dịp vợ Lưu Bị mãn phần, Châu Do bèn gợi ý cho Tôn Quyền gả em gái là Ngô quận chúa (lúc bấy giờ mới tuổi trăng tròn lẻ) cho Lưu Bị. Nếu Lưu Bị ưng chịu mà lò mò sang đây thì sẽ bắt giết ngay. Nước Thục sẽ không còn vua ắt rối loạn. Mưu kế xếp đặt xong, bèn cho người sang đánh tiếng với Lưu Bị.

Khổng Minh nghe vậy thì biết ngay âm mưu của Châu Do bèn OK liền. Lưu Bị bèn sửa sang sính lễ sang Đông Ngô hỏi vợ. Tuồng tích gọi là Giang tả cầu hôn (không hiểu sao gọi là Giang tả. Phải là Giang hữu mới đúng vì nước Ngô ở phía Nam. Bắt từ nguồn đi xuống thì Ngô Bang nằm bên phải: hữu ngạn Trường Giang).

Trước khi đi, Khổng Minh giao ba cẩm nang cho Triệu Tử Long theo hộ vệ và dặn rằng khi gặp nguy cơ, giở ra xem ắt có kế thoát thân. Xong rồi tôi chúa xuống thuyền sang Đông Ngô. Việc đầu tiên cẩm nang dạy là mua tất cả hàng hoá rượu trà dê lợn ở nội thành để làm lễ ra mắt Kiều Lão, rồi tung tin toáng lên ràng “Lưu sứ quân” sang cưới “Ngô quận chúa”. Kiều Lão nghe tin này thì bán tín bán nghi, nhưng xem lại thì quả có Lưu Bị sang thật với lễ vật rườm rà khiêng vác khắp thành ai cũng thấy.

Kiều Lão là ai? Đó là một người có thế lực nhất Đông Ngô. Ông có hai đứa con gái. Đại Kiều thì gả cho Tôn Quyền, Tiểu Kiều thì gả cho Châu Do. Một lão già làm nhạc phụ của một ông Chúa và một vị Đô Đốc thì còn ai bằng? Biết thế nên Khổng Minh bảo Lưu Bị sang đến đất Ngô thì người thứ nhất không phải là Ngô Vương mà là Kiều Lão và nói cho lão biết rằng: “Bị này sang xin rước dâu” (coi như việc đã rồi). Kiều Lão chưa biết rõ câu chuyện ra sao bèn vào gặp bà suôi cũng gọi là Ngô Quốc Thái, tức thân mẫu của Tôn Quyền.

Ngô Quốc Thái sửng sốt, bèn gọi Tôn Quyền tới hỏi. Tôn Quyền thưa thật. Bà bèn chê mưu kém, tướng tá vô dụng, phải dùng kế lấy một đứa con gái làm mồi nhử. Tuy mắng nhiếc con, nhưng bụng bà cũng mừng thầm vì được thằng rể quí.

Lưu Bị vào chầu bà già vợ. Bà thấy họ Lưu râu dài đậm đuột, trái tai chấm vai, hai tay chấm gối, rõ là quí tướng. Mặc dù con gái mới 16 tuổi nhưng cũng rất “xứng đôi”. Bà rất hài lòng, bèn gạt phắt con trai và Châu Do sang bên, tự mình chủ hôn, gả con cho Lưu Bị. Ở Đông Ngô được ít lâu, Lưu Bị than khóc kể lể với vợ về nỗi nhớ nhà. Tôn phu nhân chiều chồng, cãi lệnh anh, ngay ngày Nguyên Đán cùng Lưu Bị lén bỏ về Thục. Lúc đó, Châu Do đang luyện tập thuỷ binh để sửa soạn đánh Thục, khi nghe tin thì lập tức đuổi theo. Lúc ấy Lưu Bị cùng Tôn phu nhân đã xuống thuyền do Khổng Minh thân chinh đến đón. Châu Do nhất quyết truy đuổi, chẳng ngờ trúng kế Khổng Minh, bị phục binh của Quan Vân Trường, Hoàng Trung và Nguỵ Diên đợi sẵn. Quân Đông Ngô đại bại, Châu Do chạy thoát xuống thuyền nhưng uất quá hộc máu, hôn mê bất tỉnh.

Ông Bầu đóng vai Châu Do trong tuồng Giang Tả Cầu Hôn. “Châu Do hộc máu” là vai tuồng ruột của ông. Buổi chiều ông không ăn cơm. Ông để bụng trống uống châu sa là loại phẩm đỏ pha nước có màu đỏ như máu. Đã bao nhiêu lần, “Châu Do hộc máu” được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh. Ông đã tập cho một vài anh kép “hộc máu” đế có thể thay thế ông trong vai này, nhưng không anh nào “ói máu” được như ông.

Ông “ói” đẹp đến mức, tới lúc ông sắp ói thì nhiều người đã xầm xì:

- Coi kìa, Châu Do sắp hộc máu!

Ông lựng khựng lảo đảo một lúc rồi đưa tay ôm ngực há miệng ra là “máu” vọt có vòi ra phía trước.

Đó là lúc khán giả vỗ tay hoan nghênh và màn hạ nhanh.

Khán giả vốn đã quen xem tuồng này và những màn lớp cùng những vai quen thuộc của nó trên sân khấu Bầu Lúa từ lâu. Bữa nay họ đang hồi hộp theo dõi lớp cuối là lúc Ngô quận chúa dắt nhau lên Long thuyền về Thục và Châu Do đang hoả tốc đuổi theo bắt kịp lúc thuyền sắp rời bến.

Tả tướng quân Đinh Phụng được lệnh Châu Do đuổi theo chận đường trước, bị Ngô Quận chúa giơ Long Phụng kiếm ra. Đinh Phụng không dám hành động theo lệnh Châu Do, vì Long Phụng kiếm tượng trưng cho quyền uy tối thượng của nhà Ngô. Ai cầm nó trong tay là có toàn quyền định đoạt mọi việc.

Châu Do sốt ruột lại đem binh đuổi theo, ra đến bến thì thuyền đã nhổ neo nhưng chưa xa bờ.

Triệu Tử Long giương cung bắn rớt mão Châu Do. Trong lúc đó ở phía sau lại có lệnh của Tôn Quyền bắt Châu Do phải trở về phục mạng, nếu bất tuân sẽ xử theo quân pháp. Xưa nay Tôn Quyền giao toàn bộ việc binh bị nhà Ngô cho Châu Do, ngoài ra hai người còn là bạn cột chèo với nhau. Vợ Tôn Quyền là Đại Kiều, vợ Châu Do là Tiểu Kiều. Hai nàng Kiều đều là những giai nhân nổi tiếng đất Giang Đông. Tôn Quyền xem Châu Do như một người tâm phúc và ruột thịt. Nay Tôn Quyền lại hạ một cái lệnh gắt gao và vô lý như vậy khiến cho Châu Do ở trong tình thế “lưỡng đầu thọ địch”. Phía trước thì Lưu Bị đang dắt Ngô Quận chúa đi, phía sau lại bị một cái thượng lệnh ngặt nghèo, Châu Do tức tối: lập mưu hại người, chẳng ngờ lại bị người hại lại, nên ôm ngực kêu trời: Trời nào sanh ra Do, còn trời nào lại sanh ra Lượng (tức Gia Cát Lượng) Châu Do lảo đảo ôm ngực, mắt trợn trắng hét lên như sấm: “Trời hại ta rồi” và hộc máu ra…

Thằng Thành đứng bên cánh gà thấy ông Bầu hộc máu, giọt máu phún vồng cầu từ trong miệng Châu Do ra đến góc sân khấu rồi Châu Do ngã xuống mà không ngồi dậy được nữa, thì kêu lên:

- Má ơi, má, ba hộc máu!

Bà Bầu ở phía sau hậu trường quát:

- Châu Do hộc máu thì lạ gì mà kêu!

Khán giả dưới kia cũng vỗ tay rào rào vì thấy Châu Do thiệt hay. Chưa bao giờ Châu Do hay đến như hôm nay. Giọt máu phún ra thật đẹp làm sao. Tấm màn hạ nhanh kết thúc vở tuồng. Nhiều người khen nức nở:

- Ông Bầu làm Châu Do không ai sánh kịp.

- Có rượu thướng cho ổng một ly!

Nhưng màn hạ đã hơi làu mà Châu Do vần nằm yên trên “bến sông” không cục cựa. Thằng Thành lại kêu lên:

- Má ơi, ba hộc máu!

Bà Bầu, bà Nhưn và những đào kép đang ở sau hậu trường cởi hia, lột mão, rửa mặt lau tay để sửa soạn ra về, không ai để ý tới Châu Do đang nằm đó. Thằng Thành chạy ra lay tía nó và lại kêu lên:

- Má ơi, ba hộc máu!

Bấy giờ mọi người mới vỡ lẽ ra, ông Bầu hộc máu chớ không phải Châu Do. Một tô châu sa ông Bầu uống hồi chiều, ông đã ói ra làm máu giả, chẳng ngờ có pha máu thiệt…

Hay được cớ sự, mọi người đổ xô lên sân khấu, để nguyên quân phục mũ mão của Châu Đô Đốc như vậy mà khiêng vô nhà sau.

Vài ba khán giả mộ điệu, hiếu kỳ còn ở nán lại xem chuyện hậu trường không ngờ sự thể như vậy nên chạy tới lo việc tiếp cứu. Kẻ thì bảo đốt lửa tay chân, người lại chạy đi móc củ gừng sau hè đem giã ra một mặt vắt lấy nước thoa khắp người, một mặt vạch áo lên cạo gió. Nhưng tay chân ông Bầu vẫn lạnh ngắt. Ông đã thổ huyết quá nhiều. Ông đã lấy hết sức già để diễn tả nỗi bực tức của Châu Do bị Gia Cát Lượng hại và bị Tôn Quyền chặn tay không cho hành động, để cho kẻ thù ung dung ra đi và để cho Ngô quốc mất đất Kinh Châu một cách hoài công và nhục nhã. Ông Bầu đã ọi hết sức để diễn tả nổi bực tức của Châu Do trong một trạng huống vô cùng phức tạp. Máu của người nghệ sĩ đã hoà cùng châu sa.

Mãi tới lúc gà gáy ông mới mở mắt ra và thều thào: “Xin chôn tôi với áo giáp và mũ mão Đô đốc Châu Do!” rồi từ từ nhắm mắt. Đó là câu ông thường nói với đào kép; “Nếu tôi ngã trên sân khấu mà chết thì tôi rất vui lòng. Sanh ư nghệ, tử ư nghệ. Xin hãy chôn tôi với y phục vai tuồng của tôi”. Hôm nay gánh Bầu Lúa nhớ câu nói ấy.

Trời đã đâm mây ngang. Đào kép bỏ buổi đi làm đồng hôm nay, ở nhà để săn sóc ông Bầu. Ngoài vườn mù u dăm ba con dơi ăn muộn hốt hoảng rời vườn bay qua làm rớt trái trên nóc rạp hát nghe lộp độp. Thằng Tý đêm qua vắng mặt ở rạp, sáng nay cỡi trâu đi ngang hỏi:

- Ông Bầu mạnh chưa? Chiều nay quảng cáo tuồng gì, ông Bầu?

Không thấy ai đáp, nó hỏi tiếp:

- Giang Tả cầu hôn đã hết chưa?…

…..

Lần bãi trường đó, Trí xem liên miên các tuồng của gánh Bầu Lúa. Như một thói quen, chiều chiều nam thanh nữ tú đánh quần đánh áo thả lên vườn mù u để xem hát thì hai cậu cháu Trí cũng lẫn trong đó.

Ban đầu bà ngoại không cho hai cậu cháu đi, nhưng dần dần bà thấy không có chuyện gì xảy ra, chỉ có điều là hai cậu cháu ngủ tới mặt trời mọc mới dậy, cho nên ngoại Trí không bắt ở nhà nữa. Nhân đó cậu mới xin tiền. Vài xu thôi và 1 lít gạo. Xu thì mua kẹo mút dọc đường, còn gạo thì đóng thay cho vé vô cửa. Thực ra cái rạp hát Bầu Lúa nầy vô ngã nào mà không lọt, nhưng ngoại Trí biết Bầu Lúa nghèo (có lần phải vay lúa của ngoại) nên dặn cậu Tám phải đóng gạo đàng hoàng chớ không nên coi cọp. Tuy vậy ông Bầu chỉ nhận có 1 lít cho hai trự, coi đó là một cử chỉ nể nang, thân ái.

Đêm nay Châu Do hộc máu. Một đêm hát lạ kỳ. Màn hạ nhanh hơn mọi lần. Đáng lẽ sau khi Châu Do hộc máu còn một khúc tuồng nữa là Lưu Bị và Quận chúa đứng trên thuyền rồng lùi xa bến. Có một đoàn thể nữ cầm chèo thiệt bơi trên sông giả, nghiêng qua nghiêng lại, cả Lưu Bị và Quận chúa cũng nhịp nhàng nghiêng theo trông như thuyên lướt sóng trên sông vậy. Bài hát do đám thể nữ ca cũng hay.

Nhưng bữa nay màn buông ngang, cắt mất khúc này, khán giả “ồ” lên kêu nài, nhưng màn vẫn không kéo lên. Chặp lâu ai nấy mới biết Châu Do hộc máu thiệt, nên không đòi hỏi nữa.

Trí về nhà, lòng buồn tênh. Biết chắc rằng đêm mai gánh Bầu Lúa không có diễn tuồng nữa. Và ông Bầu Lúa sẽ không còn đóng vai Châu Do. Leo lên ván ngủ, Trí trăn trở mãi. Cũng là bộ ván gõ thân thuộc hằng đêm nhưng sao nghe nó lạnh lưng hơn ngày thường.

Trí lăn qua trở lại rồi quào vai cậu Tám, hỏi:

- Châu Do chết thiệt sao cậu?

Cậu Tám nạt khẽ:

- Thôi, ngủ đi!

Trí nằm bứt rứt mãi không ngú được, trong đầu cứ hiện lên cái cầu vồng đỏ lòm trên sân khấu Bầu Lúa.

Ông Bầu hộc máu thiệt sao? Đó là Châu Do chớ đâu phải ông Bầu! Nhưng nhớ lại cái hình ảnh ông Bầu nằm bất động trên sàn khấu, Trí lại thở dài. Có lý nào ông chết thật?

Trí nghe lòng buồn miên man. Bãi trường tới, có ai đóng Châu Do nữa cho mà coi? ờ mà sao lạ vậy! Tại sao Ngô quận chúa đi theo Lưu Bị mà Châu Do lại hộc máu? Quận chúa theo chồng là lẽ tự nhiên, ít lâu rồi lại về chớ gì dữ vậy?….

Sáng ra, cậu Tám đưa Trí về nhà. Vẫn kéo dài cuộc vui, hai cậu cháu vừa đi vừa bắn chim bằng giàn thun (ngoài Bắc gọi là súng cao su). Đường đi từ chợ Tân Hương vào đến cổ Cò hai bên đầy cây cối và vườn tược cho nên có lắm chim, nào trao trảo, chim sâu, chim hoàng oanh v.v… Vừa đi vừa tìm chim để bắn, như cố ý muốn kéo dài cái không khí bãi trường sắp hết.

Vê đến Cổ Cò thì Trí gặp bọn thằng Tư Cồ. Chúng nó đang bất hôi cá dưới mương lộ. Thằng Tư Cồ nhìn Trí với cặp mắt kẻ lạ, dường như có ý: “Mầy đi đâu lâu nay?” Nhưng nó không hỏi, chỉ trỏ tay vào cái hang trong bờ lộ: “Mày bắn giùm coi!”

Trí nhìn theo tay nó chỉ, thấy một chú ếch to, nói:

- Sao mày không bắt đi?

- Tao lội tới gần nó sẽ nhảy mất.

- Phịch! Trí giương súng bắn một phát.

Con ếch bị trúng đạn lật qua một bên, bốn cẳng chòi lia. Thằng Tư Cồ lội tới chụp con ếch. Êch ta kêu ẹo ẹo. Cả bọn cười vang rân. Tư Cồ ném con ếch lên đường, bảo:

- Của mày đó, bắt đi.

Trí lắc đầu,.bảo:

- Mày đem về xào lá cách với nước cốt dừa cho ba mày nhậu. Cho tao bộ da bịt trống thôi!

Tư Cồ nói:

- Ba tao ăn thịt ếch không lột da.

- Sao vậy?

- Ai biết đâu! Tao nghe ổng nói ếch để da ăn dòn, lột da ăn lạt.

Nó trỏ vào giỏ:

- Thôi mày không bắt ếch thì bắt con lươn về um dừa với rau ngổ.

- Thôi, tao không bắt đâu.

- Sợ lấm đồ mới hả?

Lần nào ra Ngoại, về nhà Trí cũng được mấy dì may cho đồ mới để đi học. (Trí là hoàng tử của cả bên nội lẫn bên ngoại nên ai cũng cưng vì, muốn gì được nấy). Rồi Trí đi.

Thằng Tư Cồ hỏi vói theo:

- Mai có đi chăn trâu không?

- Tao mắc đi học.

Thằng Tư Cồ ngó theo với cặp mắt thèm thuồng. Nó đã ở nhà từ lớp nhì (préparatoire), nó biết Trí học hết lớp nhất (Elémentaire) và sẽ lên trường quận. Nhung có lẽ mải mê với cuộc sống đầy trò chơi ở đồng quê, nó không thiết gì đến sách vở nữa.

Về đến nhà má Trí bảo:

- Mai đi hớt tóc, mốt đi học!

Trí cũng quên mất rằng đã hai tháng qua Trí không có “cúp” tóc lần nào hết. Trí chúa ghét cái vụ cúp tóc, nên má có nhắc thì Trí cũng lẩn trốn cho qua truông.

Sự thực, ở đồng ruộng, cắt tóc là một sự văn minh chớ không phải chuyện thường đâu. Riêng Trí thì cảm thấy hớt tóc là một cực hình. Ngồi trên ghế với chiếc choàng bao chung quanh, không được nhúc nhích, chốc chốc lại bị ông thợ bảo: nghiêng đầu qua trái, nghiêng đầu qua mặt, ngồi nghe tiếng tông đơ nghiền ken két có khi kẹt cả vành tai đau điếng, rồi đến khi cạo chung quanh, nhìn ông thợ liếc lưỡi dao cạo trên lòng bàn tay mà ớn xương sống. Cả thế kỷ như đã trôi qua kể từ lúc ngồi lên ghế đến khi tấm choàng được lột ra… hoàn toàn giải phóng. Trả tiền công 5 xu còn tiếc hùi hụi. Suốt 3 năm trường làng, Trí chỉ đến nhà ông Tứ để cắt tóc. Ông có một cái đồ xịt nước (vaporisateur). Biết tâm lý Trí thích nghịch cái đồ ấy, trước khi bắt ngồi lên ghế, ông cho Trí bóp vài cái để xem nước xì ra nhuyễn như một làn mây, rồi ông mới khởi sự.

Lần sắp lên trường quận này, má lại bảo đi vô ông Tứ cắt tóc. Trí lại kiếm cách lẩn trốn. Má phải kêu ông thầy hù Tư đến. Thầy hù Tư chỉ cắt tóc lối xóm, không vô tới chợ, nên có lẽ không khéo bằng ông Tứ. Nhưng bữa nay ổng mắc đi tát đìa cho bà già vợ nên ổng không đến được. May cho Trí quá! Má bèn kêu chú Ba ở giáp ranh đất. Nhung chú Ba không phải là thợ hớt tóc mà chú chỉ “cắt” cho những người nhà bằng “kéo” cho nên chú Ba cắt cho ai thì người đó không nên đi ra đường kẻo “cá lóc táp” (ý nói là đầu sọc rằn như cá sặt rằn làm mồi càu nhắp). Nói tóm lại là không nên để cho chú cắt tóc. Nhưng ông thầy hù Tư không đến được, thì chú Ba phải là người lo dọn dẹp cái đám rừng trên đầu Trí.

Trí càng có cớ từ chối chính đáng hơn. Và cuối cùng Trí cứ để cái đầu như đám rừng mà lên trường quận. Bây giờ Trí đã lớn. Ở trường làng, Trí học bài thuộc lòng bằng tiếng Tây, đọc ron rót mà không hiểu gì. “La main a cinq doigts” (Bàn tay có 5 ngón). Trí được đi xe hơi.

Đó là chuyện thần tiên trong đời Trí. Bạn đã từng đi xe hơi? Cái loại xe hơi có hiệu Unic hoặc Delahaye hồi thời 1937-40 không? Ở chợ làng có hai chiếc. Một chiếc của ông Ba Xồi màu xanh lá cây. Một chiếc của ông Lâm Quang Huy tức Mười Nhện. Thuở đó đi xe hơi là một chuyện phi thường, còn làm chủ xe hơi lại càng phi thường hơn nữa. Nhưng không phải là không vất vả cho hành khách lẫn chủ xe. Chợ làng có tên là Cầu Mống nên dốc cầu rất cao. Xe chạy lên đến nửa chừng thì tắt máy. Người lơ ngồi ở phía sau, khi nào chiếc xe tắt thở thì nhảy xuống vác một cục gỗ vuông chèn bánh xe để nó không tụt dốc. Hành khách mỗi người một tay đẩy nó lên đến đầu dốc nó mới chịu lăn qua cầu. Hành khách lại nhảy lên đi tiếp. Lúc còn học trường làng thì Trí đã từng nhìn những cảnh vui vẻ đó xảy ra trước mắt vào buổi sáng hoặc buổi trưa. Đôi khi rảnh tay vài đứa bọn Trí nhào vô đẩy tiếp. Nhiều đứa nghịch ngợm, bạo gan, khi nghe chiếc xe rồ máy thì đeo vè “đi xe” được một khúc. Rồi khi xe ngừng lại cho hành khách bước lên thì chúng lại nhảy xuống xoa tay khoái chí vì được đi xe khỏi trả tiền..

Nhưng may cho Trí, lần đầu tiên lên quận thì chiếc xe của ông Mười Nhện chạy thẳng một mạch không tắt máy. Ông Mười Nhện có thằng con tên là Lâm Cảnh Tư học chung lớp với Trí. Nó đã lên lớp élémentaire rồi mà mũi dãi còn lòng thòng. Lúc nào mũi nó cũng thập thò hai dòng nước đặc như hai con bánh lọt bán ở đằng chợ.

Bọn học trò lấy làm lạ tại sao ba nó có xe hơi. Xe chạy qua cầu, những tấm ván long đinh khua rầm rầm. Trí nhìn xuống dưới kia, những chiếc ghe chui ngang qua cầu, những người đi trên đường, tất cả đều nhỏ lại. Xe đổ dốc hơi nhanh ra khỏi những khu vườn, ra đoạn đường trống, hai bên cũng là đồng ruộng vàng tươi gốc rạ và những con trâu hiền lành thấy xe hơi chạy ngang thì nghếch mõm nhìn giày lâu. Mấy con nghé thì sợ hãi chạy ra xa kêu “nghé ngọ”.

Tạm biệt tất cả trò chơi. Tạm biệt đồng ruộng, tạm biệt tiếng dế kêu, tạm biệt những con diều giấy. Tạm biệt Tư Cồ người bạn thân mến. Trí sẽ trở về. Vì Trí chỉ là cây lúa cây lác mọc ở đồng ruộng nhón chân lên trông thấy cây cột đèn điện, cột dây thép chớ Trí không phải là cột dây thép hay cột đèn!

Và cuối cùng Trí đến chợ quận. Thằng bé 10 tuổi lần đầu tiên đến chợ quận được trông thấy phố đông người và bến xe có 5, 6 chiếc xe hơi đậu một lúc.

Người lơ xe nói to lên:

- Hết tiền rồi bà con! Ai có về Cầu Mống thì trở lại xe này!

Trí bước xuống xe với bao nhiêu là vui sướng và luyến tiếc. Chớ chủ xe còn chạy xa tí nữa! Tay Trí hãy còn nắm chặt miệng túi áo bà ba. Khi lên xe, má dặn “con ngồi xít vô trong, đừng ngồi gần cửa xe” vì sợ Trí té. Bà còn dặn Trí nắm chặt miệng túi vì trong độ có đến 6 đồng bạc (có hình thằng mọi gánh dừa không) chia ra như sau: 5 đồng để đóng tiền cơm tháng, 1 đồng để ăn bánh; lại còn riêng 1 cắc lẻ để hớt cái đầu.

Sáng buổi đó vào trường với mái tóc như rừng rậm, Trí ngơ ngẩn nhìn cái cổng trường với hai chiếc trụ gạch vuông to lớn, trên đầu cổng một tấm bảng vòng cầu mang dòng chữ Tây: Ecole primaire de pỉein exercise de Mỏ Cày. Trí không hiểu chữ nào hết ngoài chữ Ecole. Những thằng cũng đi học như Trí cười cười nói nói có vẻ sành đời lắm chớ không ngơ ngáo như Trí. Và nhiều đứa tẩy trọc mặc áo trắng bỏ vô quần rất gọn gàng như chúng đã từng đến trường này. Thật vậy chúng không có vẻ sợ sệt ngỡ ngàng như Trí. Trường lợp ngói đỏ au, một dãy dài chạy dọc bờ sông, một dãy dài nằm gối đầu với dãy kia hợp thành chữ L mà lòng của nó là những vuông sân cát màu nâu với những cây trắc lá nhỏ đứng rải rác khắp sân.
Trường lớn quá. Học trò cũng đông quá. Bỗng một hồi trống nổi lên. Thì cũng như tiếng trống trường Cầu Mống, nhưng sao nghe bụng hồi hộp lạ thường.
Tất cả học trò đang chạy lộn xộn bỗng tiến về đứng trước lớp mình. Mỗi thầy đi duyệt qua lớp mình và bảo cậu nào còn để tóc chải thì ngày mai phải đi cắt tóc. Tất cả giống nhau một kiểu: đầu trọc, áo sơ mi trắng và quần cụt đen. Trí có đủ các món, ngoại trừ mái tóc. Lần đầu tiên Trí phải bỏ ra 1 cắc để hớt tóc. Thật đau lòng. Một cắc bạc mua được năm buổi quà sáng chớ đâu phải ít! Nhưng lần đầu tiên Trí được ngồi ghế quay, được nhìn vào tấm kiếng to thấy rất rõ mặt mày của mình và được xịt nước có mùi thơm vào tóc bằng cái “đồ xịt” như của ông Tứ nhưng bóng láng mới mẻ hơn.
Nhớ đến cái xách mây cũ kỹ đen ngòm xệu xạo phải ràng rịt bằng dây chì mới dùng được của thầy hù Tư thì Trí mới hiểu rõ cái nghề nghiệp lâu năm và khiêm tốn của thầy.
Chỉ dăm ngày đến trường thì Trí đã quen, không còn bỡ ngỡ nữa. Tất cả mọi giờ giấc, cách thức Trí đều theo đúng một cách dễ dàng. Thực ra, cái khó khăn nhất của một cậu học trò là mỗi buổi sáng thức sớm và đến lớp không trễ giờ.
Bỗng một hôm Trí thấy gánh hát đến chợ quận. Ở trọ được tự do hơn ở nhà, nếu về có trễ chút ít thì ông chủ nhà (bạn của tía) không rầy rà mà còn để dành cơm đàng hoàng.
Trí không có tật la cà ở chợ, nhung hôm nay thấy có người thợ bày dụng cụ ra vẽ hình quảng cáo trước cửa nhà lồng, Trí đứng lại xem. Ông ta vẽ hình Tam Tạng thỉnh kinh, Tôn Hành Giả đấu phép với Dương Tiễn… và những tấm hình lớn dựng suốt bề ngang mặt tiền nhà lông. Bỗng Trí thấy hình một ông râu dài đậm đuột đứng trên mũi thuyền rồng, bên cạnh ông ta là một mỹ nhơn. Bên dưới là một vị tướng trợn mắt và một giọt máu tuôn ra từ miệng. Trí giật mình như bất ngờ gặp lại người quen. Nhìn lại dưới chân tấm hình, có dòng chữ to vẽ rất kiểu cách nhưng Trí vẫn đọc ra: “Giang Tả cầu hôn”.
Trí lẩm bẩm: “Như vậy Châu Do còn sống… ông Bầu vẫn ra tuồng…”
Xuân Vũ
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...