Duyên Anh và tôi 5
Tôi nhớ ngay đến dược sĩ Đ.H., người bạn thường đem rượu ngon
đãi Duyên Anh, mà anh thường kể cho tôi nghe. Tôi hỏi:
- Anh Đ.H., phải không anh?
- Ừ. Chỗ này nó không cho mình gọi đi; chứ gọi được, thì anh đã gọi cho em rồi.
Ừ…
- Cô y tá nói gì với anh?
- Nó bảo “Ông có người em trai tên là Hiền ở Mỹ. Ông ấy bảo, lát nữa sẽ gọi lại
đó.”
Tôi cười:
- Em nói tiếng Tây bồi, mà nó cũng hiểu. Hay thật!
Duyên Anh cười sảng khoái:
- Con y tá ấy nó tử tế lắm. Ai quen anh, nó cũng biết hết. Ban nãy, anh vừa về
đến phòng, là em gọi đó. Anh phải nhịn đói từ hôm qua cơ. Rồi rửa ruột, nên anh
phải uống đến bốn lít thuốc. Cho nó tiêu đi đó…
Sau một tiếng ho khan, Duyên Anh tiếp:
- Anh bây giờ cô đơn lắm. Anh cũng chẳng muốn nói chuyện với ai nữa…
- Nghĩa là thế nào?
- Thực sự, anh cô đơn lắm rồi. Anh không muốn ai biết đến anh nữa, nghe không?
Anh sống có một mình thôi. Cuộc đời chán lắm cơ! Thành ra, anh mới nhờ thằng H.
gọi cho em đó. Gọi mấy lần mới được đấy chứ.
Lần đầu anh Đ.H. gọi cho tôi, thứ tư 8 tháng 1, tôi không đi làm, vì phải ở nhà
dựng lại hàng rào gỗ bị cơn giông đêm thứ hai thổi sập. Anh Đ.H. nhắn hai lần
vào trong máy. Bữa sau, anh gọi lại, chỉ xưng là một người bạn của Duyên Anh.
Anh bảo, Duyên Anh muốn tôi gọi sang Pháp ngay cho anh. Tôi nhờ anh nói lại với
Duyên Anh, tôi đang ở sở, chưa gọi ngay được; nhưng về nhà, tôi sẽ gọi sang liền.
Khi tôi xin anh cho biết tên, anh bảo điều đó không cần thiết.
Duyên Anh dặn tôi:
- Nếu có thằng nào hỏi bây giờ anh ra sao rồi, em cứ bảo là không biết anh ra
làm sao cả, nhé?
Tôi hơi ngạc nhiên, hỏi lại anh:
- Anh bảo gì? Anh nói lại coi.
Duyên Anh nói thật rõ:
- Nếu đứa nào có hỏi, rằng anh ra sao…
- Vâng…
- Thì em cứ bảo nó rằng em chẳng biết anh ra làm sao cả, em không liên lạc gì với
anh, nên không biết gì cả, nhé. Để nếu mình có chết đi đó, thì cũng chỉ như… (Duyên Anh nói gì, tôi không nghe rõ)
Chưa kịp hỏi lại, anh đã chuyển qua chuyện khác:
- Anh Anh đã gửi bản thảo cho em chưa?
Trước đó khoảng hơn một tháng, Vũ Đức Anh, anh ruột tôi, đến thăm Duyên Anh.
Anh tôi và Duyên Anh cùng tuổi Hợi. Biết Duyên Anh cô đơn, tôi thường dặn anh
tôi “Anh rảnh, thì đến thăm Duyên Anh hộ em. Anh nhớ, làm được cái gì cho Duyên
Anh, tức là làm cho em đó.”
Khi anh tôi chào từ giã, Duyên Anh kín đáo đưa cho anh một tập hồi ký viết tay,
dặn gửi sang cho tôi. Theo anh Vũ Đức Anh, tập hồi ký này dày khoảng vài ba
trăm trang, chữ nhỏ…
- Chưa, em chưa thấy anh ấy gửi sang.
- Vậy em giục anh ấy gửi sang ngay đi. Hôm nọ, anh có nhắc anh Anh đó. Ông ấy bảo
lúc này nhiều việc quá…Hì hì…nhiều việc chó gì? Ông ấy có việc gì đâu mà nhiều?
Ừ…
Ngừng lại một vài giây, Duyên Anh tiếp:
- Không biết hôm nay vì sao, anh nói được nhiều. Mấy hôm trước, nói không được
nữa. Hy vọng rồi thì nó sẽ khá hơn. Mà muốn khá, thì cũng phải hết tháng này.
Bây giờ, thì họ còn tìm xem các thứ bệnh. Chưa biết mình bệnh gì cả. Họ đào xới
tất cả các thứ trong ruột mình ra, thì mới biết được. Nhưng mà, anh hỏi thằng
V., thằng PKV đó, thì nó nói “Năm nay ông bị bệnh mà. Nhưng mà ông yên chí đi.
Ông bệnh, nhưng không bệnh nặng đâu. Tháng hai, nó sẽ qua đi, ông sẽ khỏe lại
à.” Thì mình cũng yên chí vậy thôi. Nhưng mà, có lẽ thằng V. nó nói đúng đấy.
Nó bảo anh chẳng có bệnh gì cả…Ờ, nhưng mà hôm nó trở bệnh đó, em không có thể
tưởng tượng được là nó đau như thế nào đâu. Nó từ chỗ này, nó sang chỗ khác; nó
đau như rút ruột mình ra. Mình té xuống, nó lôi mình lên. Kinh khủng lắm à! Lần
đầu tiên, anh bị đau như thế đấy. Anh chán đời lắm rồi! Biết vậy, chẳng thèm về
lấy cái thẻ Tây làm chó gì…
Duyên Anh nói tiếp:
- Thôi được rồi. Đã gặp và nói chuyện với em hôm nay, là sướng rồi.
Tôi nói:
- Anh cố khỏe đi. Lần tới anh sang Mỹ, sẽ có người đi đón. Người đẹp Phố Tàu bảo
là sẽ học lái xe để đưa anh đi chỗ này, chỗ nọ đấy.
Duyên Anh cười:
- Úi dào! Cái mẹ ấy, cũng dẹp luôn cho rồi. Tôi chán nó lắm rồi…
- Cô ấy vẫn hỏi thăm anh luôn đấy.
- Em ạ, đàn bà thường thường nó hay mơ danh vọng nhiều lắm, em hiểu chưa? Thà rằng
mình sống riêng biệt một thân một mình, có lẽ dễ chịu hơn.
Nói chuyện đã hơn mười phút, Duyên Anh có vẻ thấm mệt. Anh bảo tôi:
- Thôi, anh nói với em như thế, là đủ rồi nhé. Nội một tuần lễ, em gọi cho anh
nhé. Tuần sau, nhớ gọi anh, xem là bệnh anh có suy giảm chưa, há?
- Vâng, em sẽ gọi.
- Tuần sau, hy vọng là anh sẽ khỏe lại rồi đó.
- Vâng, em mong anh khỏe lại nhé. Em rất lo, không biết anh đau như thế nào…
- Bây giờ, thì chẳng biết bệnh gì cả. Nằm chung phòng với một ông Tây già, đêm
nào ông ấy cũng rên, cũng hét, anh chẳng ngủ được gì cả. Khổ lắm cơ! Chỗ này là
bệnh viện cứu cấp, cách nhà anh chừng mười phút lái xe thôi. Tên nhà thương là
Antoine Béclère, thuộc thành phố Clamart. Chẳng ai biết anh ở đây cả. Chỉ thằng
H. với em biết thôi. Mà…thằng H. cũng là người tốt đấy. Nó gọi hộ cho mình
đó…Thôi, em nghỉ nhé. Anh mệt lắm rồi, em nhá…Anh nghỉ nhá…
Và Duyên Anh buông máy.
Tối thứ bảy 18 tháng 1, 1997, tôi gọi sang nhà Duyên Anh, nói chuyện với Thiên
Sơn, con trai út anh. Sơn cho biết, bác sĩ nói Duyên Anh bị viêm gan. Tôi nhờ
Sơn trao máy cho chị Duyên Anh để tôi hỏi thăm thêm. Tôi vừa mở miệng, chị mắng
tôi tới tấp về tội “âm mưu với Duyên Anh và bao che cho anh, chứa chấp anh khi
anh sang Mỹ.” Chị cũng đòi lại những bản thảo Duyên Anh nhờ tôi cất giữ, kể cả
tập hồi ký cuối cùng của Duyên Anh, mà anh đã trao tay cho anh tôi,Vũ Đức Anh.
Đây không phải là lần đầu tiên chị Duyên Anh chửi tôi, nhưng tôi nghĩ, chị đang
buồn bực vì anh nằm bệnh viện, nên tôi không nói lại, chỉ yên lặng nghe chị
thôi.
Sau đó, tôi gọi sang anh Vũ Đức Anh, nhờ anh đem bản thảo tập hồi ký đến bệnh
viện, giao lại cho Thiên Sơn. Anh tôi đã làm y như vậy, chiều hôm sau, chúa nhật
19 tháng 1, 1997. Đi thăm Duyên Anh về, anh tôi gọi điện thoại, báo tin ngay
cho tôi. Đây là lời tường thuật của Vũ Đức Anh, tối hôm đó:
“Anh đến chơi với Duyên Anh gần một tiếng đồng hồ. Anh ấy bết bác quá rồi, da
mặt vàng như nghệ. Anh ấy nằm rên hừ hừ, chân tay co quắp, ra vẻ đau đớn lắm. Bụng
Duyên Anh sưng lên, và hơi cứng lại. Lúc anh tới, 3 giờ chiều, trong phòng
Duyên Anh chỉ có người bạn thân của Duyên Anh là Đặng Xuân Côn túc trực bên giường
bệnh. Anh chờ một lát, Duyên Anh tỉnh dậy, có vẻ tỉnh táo. Anh ấy nói:
- Tụi bác sĩ ở đây nó condamner tôi chết, anh ạ. Tôi không sống nổi đâu!
Một lúc sau, anh ấy nhếch mép cười chua chát, rồi nói:
- Anh ạ, cuộc đời chẳng có nghĩa lý gì hết. Tôi khổ lắm, anh ạ!
Anh cầm tay anh ấy, an ủi:
- Anh cố ăn uống và vui vẻ, cho chóng khỏi.
Duyên Anh chỉ nhắm mắt, không nói gì.
Anh đưa gói kẹo sâm, nói anh ấy ngậm cho khỏe, nhưng Duyên Anh không để ý, cũng
chẳng cầm lấy. Thế rồi, anh ấy cứ há miệng, thở hắt ra. Anh Côn bảo:
- Ban nãy Duyên Anh chỉ đi tiểu được một chút thôi. Mấy hôm nay, không ăn uống
được gì, chỉ vào nước biển thôi, nên mặt mũi hốc hác. Vào đây từ hôm mùng hai,
tới nay là mười bảy ngày rồi.
Một lát sau, chị Duyên Anh cùng cháu Sơn vào, với sư huynh Trần Văn Nghiêm, và
mấy người nữa. Tất cả là chín người trong căn phòng chật hẹp. Sư huynh Nghiêm
đã 89 tuổi rồi, đầu tóc bạc phơ. Ông ấy đến để làm phép thêm sức, hay là xức
mình thánh gì đó, anh không rõ. Lúc làm lễ, Duyên Anh chỉ mở mắt yếu ớt, nói
“buồn ngủ”, rồi lại nhắm nghiền mắt, ngáy khò khò một cách mệt nhọc, vừa ngáy vừa
nhăn nhó, vẻ đau đớn. Anh nghe ông frère dặn dò anh ấy “Con hãy dọn mình trước
mặt Chúa, để ra đi cho êm ả.”
Anh ra hành lang, nói chuyện với mấy người y tá săn sóc Duyên Anh. Họ bảo, đây
là chứng cancer gan, khó chữa khỏi lắm. Nếu mà mổ thì đi đứt ngay. Duyên Anh bảo
muốn về nhà, để được chết ở nhà. Bác sĩ cũng cho phép. Nhưng chị Duyên Anh
không muốn đưa anh về, vì ở nhà không có phương tiện đầy đủ như ở nhà thương.
Anh thấy tình trạng anh ấy như thế là nguy kịch lắm rồi. Một ông hàng xóm của
anh, cũng cancer gan, đau đớn nhiều, gia đình nhờ bác sĩ mổ liều, để xem may
ra…Nhưng mổ là chết liền. À, ban chiều lúc thăm Duyên Anh, anh ngồi bên cạnh
anh ấy cả giờ, cầm tay cầm chân anh ấy. Anh sờ đầu Duyên Anh, không thấy sốt gì
cả.Huyết áp là 13/7. Y tá bảo, như thế là bình thường, không có gì cả. Anh hỏi
Duyên Anh có muốn nhắn gì cho em không, thì anh ấy chỉ lắc đầu, có vẻ mệt mỏi lắm.
Ngoài trời rất lạnh, nhưng trong phòng bệnh có máy sưởi ấm áp. Duyên Anh không
chịu đắp chăn, cứ đạp tung chăn ra…”
Thứ hai 20/1/97, lúc 6 giờ 55 chiều, tôi gọi sang. Đầu giây bên kia là anh Đặng
Xuân Côn.
- Duyên Anh thức hay ngủ, anh Côn?
- Thức, nhưng mà hơi mệt.
- Tình trạng anh ấy ra sao?
- Mệt. Lúc tỉnh lúc mê.
- Anh thấy có hy vọng khỏi không?
- Thì cũng vẫn còn chờ đây. Chưa biết nó ra thế nào cả.
- Ở Cali này, em biết hai người. Một người bị ung thư gan, và người kia, ung
thư tụy tạng. Bác sĩ đã bó tay, cho về nhà. Nhưng một ông đông y sĩ Việt nam gốc
Tầu đã cứu sống hai người này. Anh thử bàn với gia đình anh Duyên Anh. Nếu bác
sĩ Tây không chịu chữa nữa, thì để em đem thuốc Bắc của ông thầy này sang, cho
anh ấy uống.
- Ờ, thì bệnh viện họ bảo gan của Duyên Anh bị chai…
- Cirrhosis phải không?
- Ừ, cirrhosis. Nó ảnh hưởng đến mật. Thành ra, da hơi vàng.
- Anh ở đó với ai vậy?
- Chỉ có mình anh với Duyên Anh thôi.
- Anh sang mấy hôm rồi?
- Ba hôm.
- Anh sẽ ở lại bao lâu?
- Cũng chưa biết nữa. Để xem tình trạng anh ấy ra sao đã.
- Anh bàn với chị Phương và các cháu. Nếu muốn cho anh Duyên Anh dùng thuốc Bắc,
cho em biết, em sẽ đem sang.
- Nếu có thì tốt chứ sao.
- Anh thử hỏi Duyên Anh, xem anh ấy có thể nói được với em câu nào không.
Anh Đặng Xuân Côn trao máy cho Duyên Anh. Tôi nghe tiếng anh yếu ớt:
- A lô.
- Duyên Anh ơi, em đây.
- Ừ.
- Nghe tiếng em, anh biết không?
- Anh biết chứ. Anh biết chứ.
- Anh thấy trong người như thế nào?
- Ui! Tâm hồn nó…( Duyên Anh nói gì, tôi không nghe rõ )
- Tâm hồn nó làm sao, anh?
- Ui! Anh thê thảm lắm nhé!
- Nghĩa là làm sao ạ?
- Ui… Ui!…Anh passer cho em nhé?
- Passer hả? Passer gì?
- Ui…Ui!
Nước mắt tôi bắt đầu ứa ra. Tôi hoảng hốt:
- Anh làm sao vậy? Anh đau lắm hả?
Duyên Anh cố thều thào:
- Anh …anh…thê thảm lắm!
Tiếp theo là những tiếng rên “ Ui…Ui”
Anh Côn đỡ lấy điện thoại từ tay Duyên Anh:
- A lô.
- Anh Côn có hiểu anh ấy nói gì không?
- Không. Anh ấy còn đang mê sảng đó. Bây giờ, bà y tá vừa vào, đánh thức anh ấy
dậy, cho anh ấy ăn. Anh ấy thèm bún chả. Bà y tá Việt nam làm bún chả ở nhà,
đem vào cho anh ấy.
- Bà y tá Việt nam tử tế quá nhỉ!
Có tiếng Duyên Anh từ phía sau. Anh Côn bật cười, nhắc lại:
- Anh ấy vừa nói “Chỉ là y tá thôi”. A,Ø còn thuốc Hiền nói, là thuốc viên, hay
phải sắc lên?
- Phải sắc lên, anh ạ.
- Tình trạng ở đây như thế này: Họ vẫn truyền nước biển cho anh ấy, cùng với
thuốc ngủ và morphine cho giảm đau. Thuốc ngủ làm anh ấy hơi mệt. Rồi họ cho cả
laxative để chống táo bón nữa.
- Khi nào Duyên Anh tỉnh, anh Côn hỏi anh ấy có muốn dùng thuốc Tầu không, em sẽ
đem sang.
- Được rồi, anh sẽ hỏi.
- Buổi tối, có ai ở lại với anh ấy không?
- Tối hôm qua, anh định ở lại, nhưng họ cho anh ấy uống thuốc ngủ. Thành ra anh
lại về nhà, cho anh ấy ngủ yên. Buổi sáng, anh ấy tỉnh hơn, còn ngồi dậy, ăn uống
được đôi chút. À, bây giờ anh lấy lại muốn đi pi. Hiền chờ một chút, anh ra gọi
bà y tá nhé…
Tôi giữ điện thoại. Yên lặng một lúc. Rồi có tiếng anh Côn:
- Gan anh ấy bị sưng. Thành ra, họ cho truyền nước biển có pha trụ sinh. Chẳng
biết cho uống thuốc bắc vào có công phạt gì không.
- Vậy anh nhớ hỏi Duyên Anh và bàn với gia đình nhé. Quyết định như thế nào,
báo ngay cho em biết.
- Hiền cứ chuẩn bị ở bên ấy đi. Anh còn theo dõi bệnh tình của Duyên Anh, xem
tiến hay lùi đã.
- Anh ấy có tỉnh táo hơn chưa? Anh đưa điện thoại cho Duyên Anh đi.
Duyên Anh cầm lấy điện thoại. Anh nói tiếng Pháp:
- Oui.
Tôi hỏi:
- Anh có điều gì dặn em không? Có việc gì muốn em làm cho anh không?
- Không, em ạ. Anh…anh…không cần phải nhắn gì nữa nhé.
Duyên Anh bắt đầu thở dốc.
- Anh có ăn uống được gì không?
- Anh…anh …thường…thường…ăn…thịt….thịt…heo kho.
- Vâng.
- Ừ…đại khái…úi giời…anh…anh…uống…lăng nhăng,…nhưng mà…em cứ…chán rồi.
- Vâng.
- Anh…em…cứ…kiên…nhẫn đi.
Lúc này, Duyên Anh có vẻ đã mê sảng trở lại. Anh cứ ú ớ những âm thanh ngọng ngịu,
tôi chẳng biết anh muốn nói gì nữa. Anh Côn đỡ lấy điện thoại. Tôi hỏi anh Côn
có hiểu Duyên Anh muốn nói gì không. Anh Côn nói, cũng chẳng hiểu gì hết. Anh bảo
tôi đọc số điện thoại ở sở, ở nhà, và giờ giấc thuận tiện, để anh gọi lại.
Chờ đợi hơn một tuần, không thấy anh Côn gọi lại, tôi liên lạc với anh tôi, và
được biết tình trạng Duyên Anh càng ngày càng bi đát hơn.
Tôi quyết định sang thăm anh một lần, e rằng không có dịp gặp lại anh nữa. Sau
khi tham khảo với anh Côn, lúc ấy đã trở về Texas, và nói chuyện với Thiên Sơn,
tôi tìm đến cụ đông y sĩ 80 tuổi ở thành phố Rosemead.
Sau hơn một tiếng chờ cụ tiếp xong hết khách và bốc thuốc cho họ, tôi tiến đến,
ngồi trước mặt cụ. Ông cụ hỏi:
- Ông đau gì?
- Thưa cụ, cháu tới xin cụ bốc thuốc cho ông anh cháu, bị bệnh cứng gan, đang ở
bên Pháp.
Cụ đông y sĩ lắc đầu:
- Không được. Tôi phải xem mạch, rồi mới ghi toa, và bốc thuốc được.
- Thưa cụ, cháu là anh của cô N., bị ung thư tụy tạng, cụ đã chữa cho cô ấy.
Cháu nghe danh cụ, nên tới đây, xin cụ chữa giúp cho anh cháu, gia đình cháu đội
ơn cụ lắm.
- Tôi phải xem mạch, để biết nó là gốc ở gan hay thận, thì mới có thể chữa cho
khỏi được.
- Cháu được biết cụ đã chữa cho anh G., bạn của cô N. Anh này cũng bị ung thư
gan, nhà thư.
Chương Cuối
4 giờ chiều ngày 6 tháng 2, 1997, phi cơ đến không phận
Paris. 4 giờ rưỡi, tôi ra khỏi khu vực lấy hành lý. Anh chị Vũ Đức Anh đã chờ sẵn
ở đó. Anh tôi trầm giọng:
- Duyên Anh vừa mất sáng nay, lúc 8 giờ 25 phút.
Tôi bàng hoàng, không nói được gì. Chiếc xắc tay tôi cầm bỗng dưng nặng chĩu.
Thì ra, trong lúc tôi đang bay; trong khi tôi nhớ đến anh nhiều nhất, Duyên Anh
đã ra đi. Lòng tôi quặn đau, và nước mắt tôi ứa ra, đầm đìa trên má. Mãi cho đến
khi đi bộ gần tới chỗ đậu xe, tôi mới lên tiếng:
- Bây giờ, mình đến thăm anh ấy, có được không?
Anh tôi nói:
- Nhà thương không cho đâu. Phải có thân nhân Duyên Anh dẫn vào mới được. Để
sáng mai đi.
Sáng 7 tháng 2, anh tôi chở tôi, chị Duyên Anh và Sơn tới nhà thương Antoine
Béclère. Chúng tôi vào khu nhà xác ở phía sau bệnh viện. Nhân viên bảo chúng
tôi ngồi chờ trong một phòng nhỏ, để họ đem xác ra. Duyên Anh nằm trên bàn có
bánh xe. Hai lớp vải, một xanh một trắng, quấn quanh và phủ lấy thi thể anh.
Tôi đau đớn nhìn khuôn mặt hốc hác, vàng xạm. Trông anh như người đang ngủ say,
mắt trái nhắm nghiền; mắt phải hơi mở ra một chút, tròng mắt lờ đờ dưới lớp mi.
Vầng trán cao, mái tóc đen thoáng ít sợi bạc bên mép tai. Anh tôi đưa tay vuốt
mắt phải của Duyên Anh cho nhắm kín lại. Tôi nghĩ, mắt bên phải nhắm không kín
hoàn toàn, do ảnh hưởng tai nạn 1988, khiến phần bên phải cơ thể anh bị liệt.
Giở lớp vải che, tôi đặt tay lên vai và ngực Duyên Anh. Da thịt anh đã cứng. Và
lạnh ngắt.
Duyên Anh của tôi đã chết, chết thật rồi!
Rời bệnh viện, anh Vũ Đức Anh lái xe đưa chúng tôi đến một số nhà đòn để thương
lượng giá cả, và chuẩn bị cho tang lễ. Mất cả ngày, qua lại ba nhà đòn, mới tìm
được một chỗ thuận tiện.
Theo sự sắp xếp, nhà đòn sẽ lo xong việc tẩm liệm trước 10 giờ sáng thứ sáu 14
tháng 2. Sau đó, xe tang sẽ đưa linh cữu anh đến một nhà thờ công giáo, để cử
hành thánh lễ. Trước 2 giờ chiều, phải có mặt ở nghĩa trang Valenton, làm một lễ
ngắn nữa, rồi sẽ hỏa táng.
Theo anh Đặng Xuân Côn, tro sẽ được giữ lại, để một nghệ sĩ điêu khắc, bạn của
Duyên Anh, trộn với vật liệu, thực hiện bức tượng Duyên Anh…
Sáng thứ sáu, trời mưa tầm tã. Anh Vũ Đức Anh và tôi rời nhà từ 9 giờ, đinh
ninh sẽ tới nhà thương trước 10 giờ để dự lễ nhập quan. Vào nhầm một exit, anh
tôi phải đi vòng lại, để rồi kẹt ở một khu đông đúc xe cộ. Tới nhà thương,
không còn chỗ đậu xe, phải đi vòng ra xa tìm chỗ để xe. Vào tới khu nhà xác thì
đã 10 giờ 20. Xe tang vừa chở quan tài ra khỏi nhà thương. Tôi chạy ra bãi đậu
xe, dưới cơn mưa lạnh, chặn ngang đầu một chiếc xe chở bốn người Việt nam.
Tôi hỏi người phụ nữ lái xe:
- Thưa bà, bà đi dự đám tang Duyên Anh?
Người đàn bà có vẻ sốt ruột:
- Vâng. Xin lỗi ông, tôi phải chạy theo, kẻo không bắt kịp đoàn xe.
Tôi bước theo chiếc xe đang từ từ lăn bánh:
- Bà có biết sẽ làm lễ ở nhà thờ nào không?
- Không. Thôi, tôi phải đi ngay đây.
Hai anh em tôi tất tả chạy về phiá mặt tiền nhà thương, nơi đặt điện thoại công
cộng.Tôi quay số nhà Duyên Anh, hy vọng có ai ở nhà, chỉ đường cho chúng tôi đến
nơi cử hành tang lễ.
Mọi người thân của anh đều đã đi khỏi.
Chúng tôi lại chạy xuống lầu, ra khỏi nhà thương. Tới đầu đường, tôi thoáng thấy
chiếc xe màu tím của người phụ nữ ban nãy chạy sau một đoàn xe chừng mười chiếc.
Chúng tôi nhìn theo, cho tới khi đoàn xe đi thêm chừng 500 m nữa, rồi quẹo phải
ở một đèn xanh. Anh tôi vội vàng đi lấy xe, trở lại đón tôi, làm một U-Turn, và
tiến về hướng đoàn xe vừa đi qua. Khi chúng tôi đến chỗ quẹo phải ở đèn xanh,
đoàn xe tang cũng đã mất hút.
Dưới cơn mưa, chúng tôi ghé vào một nhà thờ nhỏ để hỏi thăm. Nhà thờ đóng cửa.
Anh tôi chặn một người đi bộ, hỏi ông ta nhà thờ công giáo nào ở gần đó nhất.
Người này chỉ đường cho chúng tôi.
Không đầy mười phút sau, chúng tôi đã có mặt trước cửa nhà thờ.
Tôi bước ra khỏi xe, nhìn lên bầu trời xám đục. Chung quanh tôi, những hàng cây
bên đường chỉ còn trơ những cành khẳng khiu.
Mưa buốt lạnh giăng giăng trước mặt, thấm qua chiếc áo da tôi đang khoác trên
người.
Xe tang đậu ngay lề đường trước nhà thờ. Bốn người đạo tì Pháp mặc complet đen
khiêng quan tài vào nhà thờ. Thiên Chương, trưởng nam của Duyên Anh, hai tay ôm
tấm ảnh 11x14 của bố, đi trước quan tài. Theo sau linh cữu là chị Duyên Anh, chị
Đặng Xuân Côn, vợ của Chương, Sơn và tôi. Những thân hữu đến dự tang lễ, khoảng
sáu bảy chục người, đứng thành hai hàng, bên lối đi, chờ cho quan tài và tang
quyến vào xong, mới tiến tới các hàng ghế. Trong số các thân hữu, tôi nhận ra
anh chị Mai Trung Ngọc, giám đốc nhà xuất bản Nam Á, sư huynh Trần Văn Nghiêm,
người dịch hai tác phẩm Đồi Fanta và Những Đứa Trẻ Thái Bình ra Pháp ngữ, nhạc
sĩ Lương Ngọc Châu và vợ ông, bà Phạm Thị Hoàn, con gái học giả Phạm Quỳnh, anh
Bạch Thái Hà, một trong những người bạn thân của Duyên Anh ở Paris, chị Phương,
chủ nhân nhà hàng Đào Viên, chị Mỹ Hòa của Tam Ca Ba Con Mèo, và anh chị Tô Văn
Lai của Trung Tâm Thúy Nga. Rất tiếc, tôi không được biết tên những thân hữu
khác, mà tôi tin chắc, các vị ấy phải yêu mến Duyên Anh lắm, mới nghỉ làm, và đội
mưa đến dự tang lễ trong buổi sáng thứ sáu lạnh lẽo này.
Hai linh mục Đinh Đồng Thượng Sách và Jean Mais chủ lễ, với hai linh mục Việt
nam phụ lễ. Tôi ngồi hàng ghế thứ nhì, sát bên chỗ để linh cữu Duyên Anh. Tấm ảnh
bán thân của anh đặt trước quan tài phủ vải nhung màu tím, viền tua vàng. Một ý
nghĩ chợt thoáng qua trong tôi “ Với ngòi bút dũng mãnh quyết liệt tấn công cộng
sản Việt nam, vạch trần bộ mặt dối trá của họ trước dư luận quốc tế, và nêu cao
chính nghĩa quốc gia trên mặt trận quốc tế vận, lẽ ra linh cữu anh phải được lá
cờ vàng ba sọc đỏ phủ lên.”
Hai bó hoa tươi bọc giấy bóng kính đặt trên nắp quan tài.
Chiếc đôn bằng gỗ kê trước ảnh Duyên Anh, bên trên để một lọ sứ cắm năm bảy nén
nhang.
Mấy vòng hoa phúng điếu đặt bên cạnh và phía dưới quan tài. Tôi đọc thấy, trên
vòng hoa đặt sát bên tôi, hai hàng chữ A Notre Ami, Duyên Anh, của Trung Tâm
Thúy Nga; vòng hoa cạnh đó, lời từ biệt Souvenir… của Nhà Xuất Bản Nam Á.
Linh mục Jean Mais đã dịch cuốn Một Người Nga ở Saigon ra tiếng Pháp.
Ông cũng là người làm lễ rửa tội cho Duyên Anh theo đạo Công Giáo, mấy năm về
trước. Ông nói khoảng 15 phút về một đoạn sách trong Thánh Kinh, khi Chúa Jesus
khuyên các môn đệ phải trở nên giống như con trẻ, nếu họ muốn vào Nước Trời.
Ông liên hệ đến các tác phẩm Duyên Anh viết về trẻ thơ, và ca ngợi tâm hồn đôn
hậu, trong sáng của Duyên Anh trong các tác phẩm đó. Linh mục Đinh Đồng Thượng
Sách phát biểu với tư cách vừa là một người chăn trong giáo phận gia đình Duyên
Anh sinh sống, vừa như một độc giả yêu mến tư tưởng nhân bản trong những cuốn
sách của Duyên Anh mà ông đã đọc.
Nhà báo Lê Hồng Long, chủ nhiệm tạp chí Thế Giới Ngày Nay, đọc điếu văn ca ngợi
Duyên Anh như “một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào, khó ai bì kịp”, và “những
đóng góp của Duyên Anh cho văn học và cho cuộc đấu tranh vì tự do của dân tộc
là một sự nghiệp sáng chói, sẽ còn ảnh hưởng cho đến nhiều năm sau…” Theo anh
Lê Hồng Long, sự ra đi của Duyên Anh “không chỉ là một mất mát riêng của những
người thân, mà còn là một tổn thất lớn cho văn học, cho chữ nghĩa, và cho chính
nghĩa.”
Tôi nhớ lại lúc Duyên Anh bị hành hung, hôn mê trong bệnh viện Humana ở
Westminster, Lê Hồng Long đã từ tiểu bang Kansas, bay sang thăm ngay, và tôi đã
gặp anh lần đầu tiên bên cạnh giường Duyên Anh.
Chỉ không đầy mười năm, sau ngày gặp nạn, Duyên Anh đã vĩnh viễn ra đi. Nghĩ lại,
cuộc đời anh, có được bao nhiêu ngày sung sướng? Tôi nhìn lên ảnh anh đặt trước
quan tài, đôi mắt sáng và hiền hòa biết bao! Văng vẳng bên tai tôi tiếng cười rộn
rã, và giọng nói thân tình hôm nào ngoài vườn sau “Anh với Hiền, tuy không phải
anh em ruột thịt, nhưng chúng mình như tay chân của nhau, có khi còn tay chân
hơn cả anh em ruột thịt nữa. Anh có anh em gì ở đây đâu? Anh chỉ có em, là em của
anh thôi.” Đôi mắt tôi bỗng mờ đi, và mũi tôi đẫm ướt.
Duyên Anh ơi, ngoài cha mẹ, anh em ruột của em ra, đã có ai yêu thương, chỉ bảo,
an ủi, nâng đỡ, và bênh vực em như anh chưa? Nước mắt tôi chan hòa trên má.
Buổi ăn sáng sau cùng với anh ở quán hủ tiếu cá ở chợ Tàu, anh gọi thêm một tô
cá không, ân cần ép em ăn thêm. Tôi bật khóc nức nở.
Lần chót ghé thăm anh ở nhà chú Dung, em có cái hẹn khác đang chờ, nên vội vàng
quá, chẳng kịp nói gì nhiều với anh, cũng chẳng ngồi xuống bên cạnh anh, em thấy
anh nhìn em buồn bã. Tại sao em không ở lại với anh thêm năm mười phút nữa,
Duyên Anh nhỉ? Bây giờ, có muốn ngồi bên anh, có còn được nữa đâu! Tôi gập người
lại, khóc đau đớn…
Rất bất ngờ, con trai út của Duyên Anh, Thiên Sơn, trao cho tôi bài thơ Thương
Tiếc Duyên Anh của Cao Tần, nhờ tôi đọc.
Tôi gạt nước mắt, cố lấy lại bình tĩnh, bước lên bục, bày tỏ nỗi đau buồn của
mình trước sự ra đi vĩnh viễn của Duyên Anh. Tôi nói lên lòng biết ơn của mình,
như một độc giả yêu mến văn tài của anh từ ba mươi năm qua, đồng thời như một
người em kết nghĩa đã được anh hết lòng thương yêu, đùm bọc.
Đây là bốn câu thơ Cao Tần gửi sang cho gia đình Duyên Anh, khi nghe tin anh
qua đời:
Thương Tiếc Duyên Anh
Gặp lại hôm qua, chú học trò
Còn nuôi con sáo bạn ta cho
Ta đem khoe chú bông Thiên lý
Rực rỡ, huy hoàng như tuổi thơ
Cao Tần
Tang lễ đã xong. Đoàn xe quay về Plessis Robinson, dừng lại chừng năm phút trước
khu chung cư, nơi Duyên Anh sống những tháng cuối cùng. Rồi cũng trong cơn mưa
lạnh, dưới bầu trời xám đục của cả Paris đang nhỏ lệ tiếc thương, xe tang đưa
anh tới khu đồi Valenton, một vùng ngoại ô cách đó chừng 20 km.
Anh em tôi đến Valenton lúc 1 giờ trưa, đậu xe lại, chờ tới giờ vào làm lễ lần
chót trước khi thiêu xác Duyên Anh. Khoảng 1 giờ 20, một chiếc Volkswagon trờ tới,
đậu cạnh xe chúng tôi. Nhìn sang, tôi thấy nữ danh ca Bạch Yến. Chị bước ra khỏi
xe, dừng lại nói chuyện với chúng tôi. Anh Trần Quang Hải không tới được, vì phải
qua Ý dạy học từ hôm trước. Anh chị Lương Ngọc Châu, chị Bạch Yến, và anh em
tôi vào phòng để quan tài Duyên Anh lúc 1 giờ 45. Linh mục Sách đang đọc kinh
làm lễ. Trong căn phòng 4mx4m, lúc ấy chỉ còn khoảng hơn một chục người. Tôi
nhìn thấy anh Mai Trung Ngọc, anh Bạch Thái Hà, chị Mỹ Hòa, chị Phương của Đào
Viên quán.
Linh cữu đặt trên chiếc bàn kim loại ở chính giữa phòng. Hai bó hoa tươi vẫn nằm
trên nắp quan tài. Ảnh chụp Duyên Anh mặc áo veste màu nhạt, quấn khăn quàng cổ,
đặt trên giá phía trước. Bàn kim loại nối liền với một đường hầm ở sát tường,
cũng lót kim loại. Đường hầm này dẫn vào lò thiêu bên trong. Một cánh cửa đóng
kín, ngăn cách bàn để quan tài và đường hầm.
Linh mục Sách nói gì, tôi chẳng còn nghe và hiểu được nữa. Khi tiếng hát thánh
ca nhè nhẹ cất lên, cảm xúc trong tôi cuồn cuộn dâng tràn, khiến tôi nghẹn họng.
Tôi sắp mất Duyên Anh vĩnh viễn. Chỉ còn mấy phút nữa thôi, thi thể anh sẽ bị
những ngọn lửa ga cực mạnh thiêu đốt. Tất cả sẽ chỉ còn lại một đống tro tàn.
Bao nhiêu tinh hoa, tài năng trong anh, rồi sẽ về đâu? Nhìn lên tấm ảnh, tôi
thương Duyên Anh quá! Trong mười ba năm cuối đời, những ngộ nhận, chụp mũ, và
thù hận liên tiếp vây quanh anh. Duyên Anh dũng cảm tự vệ, và chống trả, trong
cô đơn, những xông hãm từ mọi phía. Sức mòn, lực cạn, càng ngày anh càng cô đơn
hơn, và càng muốn giam mình trong nỗi cô quạnh. Bạn hữu anh, những người thực sự
yêu mến anh, còn được mấy ai?
Không còn kềm giữ được nữa, tôi ôm mặt, khóc hộc lên.
Đó cũng là lúc một nhân viên nghĩa địa bước vào. Tôi liếc nhìn đồng hồ. 2 giờ
đúng. Người đàn ông ấn một cái nút trên tường. Cánh cửa mở ra. Bên trong đường
hầm, sâu phía trong, lửa đỏ rực. Hệ thống dây chuyền tự động đưa quan tài vào
trong lòng lò thiêu. Cánh cửa kim loại đóng chặt. Nhanh quá, không đầy mười lăm
giây!
Không còn lại gì. Chỉ còn trơ trọi tấm ảnh bán thân của Duyên Anh, mà bây giờ,
tôi không dám nhìn nữa, vì tiếp tục nhìn, ruột tôi lại quặn đau.
Thân nhân và bạn hữu Duyên Anh lần lượt bước ra khỏi phòng.
Chỉ còn mình tôi, vẫn đứng úp mặt vào tường, cố ngăn những tiếng nấc nghẹn.
Văng vẳng bên tai tôi, lời nhạc kỳ lạ của Hồn Muôn Năm Cũ, Duyên Anh mới làm
hôm nào
Người xưa vẫn sống trong lòng người nay
Hồn xưa lay bóng, phất phơ cờ bay
Hương trầm tỏa khói ngất ngây, nhạc ấp u hoài…
Phần Phụ Lục
Anh Em, Bè Bạn Viết Về Duyên Anh
KHOẢNG TRỐNG SAU DUYÊN ANH
Khi hay tin Duyên Anh đã vĩnh viễn ra đi, tôi có một phản ứng
tự nhiên và mau lẹ với ý nghĩ: "Chúng ta đã mất đi một người cầm bút không
thể thay thế".
Phản ứng này không có gì là quá đáng nếu người ta đánh giá các đóng góp vô cùng
to lớn của Duyên Anh cho đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam mà không để
mình chịu ảnh hưởng của thói đố kỵ bần tiện của kẻ phàm trần.
Nếu chỉ gọi Duyên Anh là một "nhà văn" thì tức là đã phạm tội thiếu
công bằng, vì đã không nói lên được khả năng và thiên phú sáng tác của ông trên
nhiều lãnh vực. Có cần phải nhiều lời mới chứng tỏ được con người phi thường
này không qua hàng chục tác phẩm, hàng trăm bài nhận định, bình luận và phiếm
luận?
Thông thường, người cầm bút luôn luôn có sở trường và sở đoản. Là người kính phục
và ngưỡng mộ các thành tích của Duyên Anh mà không sợ thiệt thòi cho bản thân
mình, tôi không tìm thấy một sở đoản nào của ông. Ông tung hoành trong mọi lãnh
vực.
Viết về tuổi trẻ Việt Nam, ai tha thiết và chan chứa tình thương bằng Duyên
Anh?
Viết về sử Việt Nam cận đại, có sử gia Việt Nam nào bằng cấp đầy mình theo kịp
ông về phán xét thẳng thắn, sắc bén và về trí nhớ bền bỉ tuyệt vời?
Hỏi tội những tên mọt dân hại nước Việt Nam, ai qua mặt được Duyên Anh với truyền
thống "uy vũ bất năng khuất" và phương châm "người cầm bút không
cần hậu thuẫn, không cần thế lực"?
Duyên Anh bị Hà nội ghi vào danh sách "biệt kích văn nghệ" vì ông hỏi
tội bọn đội lốt cách mạng ghê gớm quá. Sau này, khi đã tìm được tự do tại xứ
người, khí phách của ông lại biểu lộ bằng những tác phẩm đồ sộ kết án bọn đội lốt
chống cộng để lột tiền của những người lưu vong chống cộng.
Đối với người ngoại quốc, Duyên Anh không cần ai cho gương hiên ngang tranh đấu
cho dân chủ và tự do của dân tộc Việt Nam. Cộng Sản Hà nội dùng nước Pháp làm bản
doanh quốc tế vận. Một người một ngựa, Duyên Anh tả xung hữu đột phá thế trận của
Hà nội. Chính nghĩa của người Việt quốc gia gắn liền với tên tuổi và uy tín của
Duyên Anh. Những bài thơ tù của ông và những tác phẩm chống cộng sâu sắc của
ông chuyển sang Pháp ngữ đã làm rung động trời Âu. Một số tác phẩm chống Cộng của
ông đã được giới điện ảnh Âu châu quay thành phim và phổ biến rộng rãi đi khắp
thế giới.
Trên đây chỉ là sự tóm lược một số đóng góp của thiên tài văn chương và văn học
Duyên Anh Vũ Mộng Long. Muốn ghi đầy đủ các đóng góp lớn lao của ông, người ta
sẽ phải viết hàng chục cuốn sách.
Khi ra đi, Duyên Anh để lại cho người đời một di chúc và di sản cao quý và
phong phú mà tôi tin rằng ít có người cầm bút Việt nào theo nổi. Đó là thiên chức
tự nguyện của người cầm bút để "thế thiên hành đạo", đó là ý thức
danh dự, tự ái và truyền thống của dân tộc, đó là tình yêu nước Việt Nam qua nếp
sống hiền hòa của dân tộc Việt, và đó là thông điệp gửi cho những kẻ lãnh đạo
hãy ráng trong sạch để giành chỗ đứng cao quý cho nước Việt Nam trong trận chiến
bất tận giành khoảng trống SINH TỒN cho mỗi dân tộc. Ông đã thay mặt thế hệ trẻ
Việt để nhắc nhở những phe, nhóm nắm được quyền cai trị (bằng cách này hay cách
khác) ráng đầu tư vào tuổi trẻ, vì Ở NƠI TUỔI TRẺ LÀ HY VỌNG.
Với tất cả sự ngậm ngùi mà ngôn ngữ Việt tuy phong phú không giúp diễn tả nổi,
tôi cảm ơn tác giả Vũ Trung Hiền đã cho tôi cơ hội tôn vinh Thiên Tài Văn
Chương Văn Học Duyên Anh Vũ Mộng Long. Ông ra đi, để lại cho những người kính
phục và ngưỡng mộ ông món nợ tinh thần kích thước không đo lường được và không
mong trả được, vì "khoảng trống sau Duyên Anh" không ai có thể lấp bằng
được.
Đời này, kiếp này, chỉ có một Duyên Anh Vũ Mộng Long.
Đất tạm trú California
ngày 6 tháng 1, năm 2000
Phạm Kim Vinh
DUYÊN ANH, NHƯ TÔI BIẾT
Với tôi, Duyên Anh là một người anh khoan dung, đáng kính; một
người anh có nhiều tài. Tôi hãnh diện được anh coi như một trong những đứa em của
anh.
Duyên Anh đã sống hết mình, như một con người chân thật, với đầy đủ thất tình.
Đã không hề có một mặt nạ nào trên con người phi thường đó.
Trong cuộc chơi, ở Duyên Anh không hề ngớt tiếng cười hào sảng; tiếng cười làm
sống động bất cứ một hội ngộ nào. Rượu chẳng khi nào vơi trong ly anh. Duyên
Anh luôn luôn uống cạn, cạn chén rượu vui với anh em, bè bạn; cạn cả chén đắng
phũ phàng của ngộ nhận độc ác giáng xuống đời anh.
Tàn cuộc vui này, Duyên Anh lại tiếp tục bày một cuộc chơi khác. Đối với Duyên
Anh, cái gì cũng có thể là cuộc chơi được. Cuộc chơi chữ nghĩa, dường như đã mỏi,
anh bày cuộc chơi thơ, rồi chơi nhạc. Cuộc chơi nào, anh cũng chơi hết mình, và
cũng đều tài hoa, xuất chúng.
Khi phẫn nộ, Duyên Anh không còn là con rồng mộng mơ như cái tên cha mẹ đặt cho
nữa. Anh chiến đấu dũng mãnh như một người lính cảm tử. Trong các cuộc bút chiến,
không ít người đã trọng thương vì những câu văn
có tác dụng tàn phá dữ dội của anh, viết trong lúc xốc nổi vì tức giận.
Đọc cuốn Nhà Tôi, anh viết ba mươi năm trước, tôi thấy anh yêu thương vợ con biết
bao! Yêu vợ, nể vợ, và có lẽ, cũng sợ vợ nữa. Chẳng biết, anh dám có mối tình lẻ
nào không?
Nhưng tôi nghĩ, anh yêu vợ nhà trọn vẹn, không còn chỗ cho bất cứ cuộc phiêu
lưu nào khác.
Duyên Anh và tôi chia xẻ khá nhiều kỷ niệm. Một lần, tôi chuẩn bị đi lưu diễn ở
xa. Trong lúc sắp xếp hành lý, tôi và người bạn trai có chuyện bực mình, lời
qua tiếng lại. Rồi tôi giận quá, vứt hết áo quần ra sân. Lúc đó, Duyên Anh biến
thành con rồng mơ mộng, dễ thương vô cùng!
Anh ôn tồn bảo tôi "Em có tức giận, cứ hét tướng lên cho hả dạ. Còn hành
lý, để anh thu dọn cho."
Cử chỉ và ánh mắt anh thật khoan dung, độ lượng.
Thời gian sống với Trần Đình Thục và tôi, có lần Duyên Anh tự tay làm thức ăn
cho chúng tôi ăn. Duyên Anh nấu ăn rất ngon. Cá thu mua về, anh chiên lên cho
săn lại, trước khi kho với riềng. Món canh cải chua, anh nấu với thịt bò, ăn thật
tuyệt!
Duyên Anh làm khá nhiều nhạc, nhưng nhạc của anh thuộc loại kén chọn cả người
trình bày lẫn người thưởng ngoạn, nên khó phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Đặc
biệt, anh làm riêng mười bản cho tôi hát. Tôi đã thu xong phần hòa âm, nhưng vì
một số lý do, tôi chưa thực hiện được băng nhạc này.
Một lần, Duyên Anh cho tôi xem bài anh viết về mấy ông tướng của miền Nam trước
75, trong đó, anh mạt sát họ bằng những ngôn từ quá nặng nề. Tôi nói với Duyên
Anh, sau khi đọc xong:
- Em không thích anh như vậy. Chuyện mấy ông đó làm, thây kệ họ, anh nói làm
gì, để người ta ghét anh.
Anh bảo tôi:
- Đã bỏ quân đội, chạy sang đây mà chúng nó còn múa may, ra cái điều yêu nước
thương nòi, anh chịu không nổi. Anh không viết ra, còn ai dám viết nữa?
Tôi dịu giọng:
- Đã đành ngoài anh ra, không còn ai dám viết. Nhưng liệu những gì anh viết,
bao nhiêu người sẽ đón nhận? Hay là những người ghét anh sẽ có cớ để vùi dập
anh? Em không muốn ai làm hại anh, và cũng chẳng thích anh công kích ai hết.
Anh nên tiếp tục viết về những đề tài tuổi thơ và tình yêu thôi.
Duyên Anh ngẫm nghĩ một lát, rồi nhìn sâu trong mắt tôi:
- Được rồi, anh sẽ nghe em, không còn chửi bới ai nữa. Sống gần em, anh thấy
tâm hồn nhẹ nhàng hơn, và anh hiền đi nhiều lắm đó.
Một lần khác, anh ngỏ ý muốn viết một quyển sách về đời tôi. Anh bảo "Em kể
đi, rồi anh sẽ bắt đầu viết."
Tôi từ chối, viện cớ mình chưa đủ chất liệu sống, tuổi đời chưa bao nhiêu, anh
viết về tôi như thế, thiên hạ sẽ chê cười, và sẽ không có lợi cho cả anh lẫn
tôi.
Nghe tôi từ chối, Duyên Anh nói "Em không để anh viết, nhỡ anh chết thì
sao?"
Cho đến hôm nay, câu nói gở của anh cứ trở về ám ảnh tôi. Duyên Anh ơi, tại sao
anh lại nói như vậy? Anh có biết trước là anh sẽ ra đi sớm hơn em không?
Bây giờ, Duyên Anh đã đi xa, đi thật xa về cõi vô cùng. Ở nơi chốn đó, anh có
bày thêm cuộc chơi nào mới không?
Đã có những tin đồn ác ý nhằm bôi nhọ tên tuổi Duyên Anh. Thiên hạ nói thế nào,
tôi bỏ hết ngoài tai. Tôi tin chắc chắn, một con người như Duyên Anh, không bao
giờ làm những chuyện họ gán cho anh hết.
Trong tâm tưởng tôi, Duyên Anh mãi mãi là người anh trọn đời tôi kính mến.
Ở miền an nghỉ tít mù đó, có bao giờ anh nghĩ đến đứa em gái của anh không?
Julie
Westminster 14/10/99
GIẢ SỬ NHƯ...
Trong ba cái tên Vũ Mộng Long, Duyên Anh, và Thương Sinh, cái
tên mà tôi ít được nghe nhất, có lẽ là tên thật Vũ Mộng Long của nhà văn Duyên
Anh.
Ai cũng đã đọc truyện của Duyên Anh. Lớp trẻ nào ham đọc sách cũng đều biết tác
giả Duyên Anh, cũng đều quen thuộc với những nhân vật mà anh đã dựng lên, để rồi
từ đó, tên tuổi của anh được dính liền với nhãn hiệu "Nhà Văn của Tuổi
Thơ"...
Danh vọng bắt nguồn từ đó, nhưng cũng chính lãnh vực chuyên về tuổi thơ này sẽ
là một trong những nguyên nhân ẩn kín đã đưa đẩy cuộc sống của anh vào một cái
vòng ẩn lụy đầy oan nghiệt, bắt đầu từ lúc người Cộng Sản mở chiến dịch càn
quét Văn Nghệ Sĩ miền Nam.
Tôi bước chân vào Đại Học đúng năm 63. Một năm đầy dẫy những biến cố kinh khủng:
Phong Trào Đấu Tranh Phật Giáo miền Trung; cuộc lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa và
cái chết của hai ông Diệm Nhu; những cuộc xuống đường, đảo chánh, chỉnh lý, đã
làm đảo lộn toàn diện nếp sống Sinh Viên tại Đô Thành. Trong cái rối mù của
chính trường, những nhật báo hằng ngày là mối giây duy nhất mà lớp trẻ chúng
tôi bám vào để theo rõi thời cuộc...
Khuôn mặt của nhà báo Thương Sinh xuất hiện. " Nhà Văn của Tuổi Thơ"
biến thành người ký giả với ngòi viết đao phủ. Dòng văn phủ đầy phấn hồng của
tuổi thơ bỗng nhường chỗ cho những lời lẽ đả phá thách thức. Ngôn từ châm biếm
được tung ra đanh thép, nhiều khi đến độ độc ác, tạo ra một khí phách ngang
tàng, tương phản với thể văn tươi sáng, nhẹ nhàng, dịu ngọt trong những cuốn tiểu
thuyết viết về tuổi thơ...Lớp trẻ Sinh Viên chúng tôi thích thú theo rõi, lòng
đầy ngưỡng mộ, vì Thương Sinh ác, Thương Sinh đểu, nhưng chỉ ác và đểu với những
con mọt chính trường, với những con buôn chính trị xôi thịt, và với những con
ròi tham nhũng trong chính quyền.
Lúc ấy, tôi chưa hề gặp mặt Duyên Anh, và cũng chưa làm quen được với Thương
Sinh.
Tôi rời Việt Nam vào cuối năm 70, qua Pháp.
Tôi ra đi, để lại sau lưng muôn vàn ký ức về một miền Nam sôi bỏng, hỗn độn ở
giữa thời kỳ Chiến Dịch Hạ Lào...
Năm năm sau, biến cố 75 ập tới, cắt đứt hẳn đường về, cắt đứt hẳn mọi liên lạc
với quê hương. Ở tại hải ngoại, tiếng mẹ đẻ còn ít nói, huống gì đọc văn
chương, báo chí tiếng Việt.
Nhưng rồi con Tạo xoay vần. Năm 83, tôi rời Pháp qua định cư tại California.
Quê Hương Việt Nam lại rộn ràng tại mảnh đất xa xôi này: miếng ăn, tiếng nói,
báo chí, văn chương lại thấy tái sinh, xán lạn và rộn ràng còn hơn khi ở quê
nhà.
Một cách rất tình cờ, tôi được giới thiệu với Duyên Anh qua một buổi ra mắt
sách tại Disneyland Hotel vào đầu năm 88, và rồi cũng rất tình cờ, Duyên Anh đã
đặt chân tới nhà tôi, lúc đầu như một khách quý, sau đó, như một người anh cư
ngụ luôn trong nhà.
Chúng tôi nhường cho anh một căn phòng nhỏ yên tĩnh nhìn ra vườn.
Duyên Anh thường dậy rất sớm. Anh tự pha cà phê, tự làm điểm tâm sáng, tự pha
trà, và ngồi viết ngay tại chiếc bàn ăn lớn trong bếp. Bếp sáng sủa: Hai khuôn
cửa kính lớn, một mở ra phía sân sau, một mở ra trước mặt tiền của nhà, đủ mang
ánh sáng chan hòa vào chỗ anh làm việc...
Tôi thường thức dậy muộn. Lúc nào bước vào bếp pha cà phê, tôi cũng đều nghe
câu hỏi đầy trìu mến " Thế nào, ngủ được không em?"
Anh luôn nhường cho tôi chỗ cuối bàn, sát vách, gần những hộc đựng đầy đồ vẽ của
tôi. Chiếc bàn ăn này cũng là chỗ tôi ngồi vẽ mỗi ngày; tôi với ly cà phê sữa,
còn anh Duyên Anh với ấm trà tri kỷ.
Khác hẳn với cái nhìn mà tôi thường có về một nhà văn: tôi đã tưởng Duyên Anh
phải là một người trầm ngâm, chậm chạp, xuềnh xoàng, ít để ý tới bất cứ một
chuyện gì ngoài việc viết lách. Nhưng không, anh rất
bảnh bao, lanh lẹ, và tháo vát. Có cái lạ, là anh rất gọn gàng: từ mái tóc tới
bộ quần áo phẳng lì. Anh tự giặt đồ, tự ủi đồ, tự nấu ăn, và dọn dẹp, rất sạch
sẽ. Trước khi ngồi vào bàn làm việc, anh thường chùi chỗ ngồi một cách kỹ lưỡng,
rồi sau đó, lấy một chồng giấy trắng, một cái thước kẻ để trước mặt, một bao
thuốc, một gạt tàn, một ấm trà. Và anh bắt đầu ngồi vào làm việc...
Chữ anh viết thẳng tắp, đều đặn, không tẩy xóa sửa đổi. Dòng tư tưởng gần như bất
tận, chảy đều theo cử động của bàn tay, chững chạc. Lâu lâu, anh ngừng lại, cười
thú vị, và gọi giật tôi: "Thục, nghe này!..." Anh đọc cho tôi nghe một
đoạn anh vừa viết. Vẫn thể văn châm biếm, sắc bén, đanh thép mà tôi đã được đọc
trước năm 70. Đã hai mươi năm rồi, nhưng lần này, tôi còn được nghe chính giọng
nói, nghe được tiếng cười ngạo nghễ của chính con người dưới bút hiệu Thương
Sinh, tại ngay chính nhà của tôi...
Nhìn anh, tôi thấy dâng lên một niềm kính phục pha chút xót xa: Biết bao chặng
đường gian truân, biết bao sóng gió đã dồn dập phủ kín đời một con người, mà giờ
đây, đối diện với tôi, anh vẫn chỉ là một người anh ung dung, yêu đời, tự
tin...
Anh sống rất thật, như một tờ giấy trắng, không xoe xua, không tính toán. Nhiều
khi, rất mộc mạc, rất quê hương Thái Bình. Có hôm, anh nói với tôi: "Em nấu
dư cơm chiều nay đi, để mai, anh ăn cơm nguội với nước dưa chua." Anh
thích vậy, cơm nguội chan nước dưa chua. Còn chi quê hương dân tộc cho bằng!
Ở đây, hình như, tôi bất chợt nhìn ra con người của Vũ Mộng Long, một Vũ Mộng
Long chất phác, rất đất Bắc, một Vũ Mộng Long đạm bạc, giữ nguyên tâm hồn thôn
dã, không chút xoe xua thành thị. Duyên Anh, văn sĩ thần tượng, hay Thương
Sinh, ký giả đao phủ, đã nhường chỗ cho một Vũ Mộng Long hiền hòa, bình thường,
giản dị.
Anh ít nói về chuyện gia đình của anh. Có một sự chịu đựng, đè nén gì đó trong ánh
mắt. Lâu lâu đang viết, anh ngừng lại, bỏ kính xuống bàn, ngả người vào thành
ghế, và quay sang tôi tâm sự. Những lúc đó, giọng anh chùng xuống, chậm rãi, và
nói nhỏ, như cho chính mình nghe.
Anh đưa cho tôi đọc những tác phẩm mới, anh đã viết tại Pháp; một số đã được dịch
ra Pháp ngữ, và do các nhà xuất bản Pháp ấn hành.
Anh đã đề nghị với nhà xuất bản Xuân Thu, để tôi trình bày bìa hai tác phẩm
"Sàigòn Ngày Dài Nhất", và hồi ký "Nhìn Lại Những Bến Bờ".
Nhà Xuân Thu đã in hai tác phẩm này tại Hoa Kỳ.
Tôi đã nghe thiên hạ nói nhiều về một Duyên Anh làm antenne, khi anh còn bị
giam giữ trong trại cải tạo. Tiếng đồn không biết từ đâu, nhưng miệng truyền miệng,
ai rồi cũng đặt câu hỏi. Riêng tôi, suốt thời gian anh ở trong nhà, tôi chưa
bao giờ đặt vấn đề này với anh. Có lẽ, vì tế nhị thì ít; nhưng lý do chính là,
càng sống gần anh, tôi càng thấy rõ khí phách trong con người thật của anh. Con
người khí phách ấy, tôi tin chắc, không thể khờ khạo, ngu dại đến độ làm công cụ
cho Cộng Sản, để phản anh em.
Cộng Sản Việt Nam làm sao mà mua nổi một con người dũng cảm và cao ngạo như
Thương Sinh?
Có lần, trong buổi tối mấy anh em nói chuyện, một người nào đó đã đề cập đến
phim ảnh Hollywood, và bàn về loại phim James Bond. Duyên Anh cười vang, giọng
miệt thị thấy rõ: " Dốt, chúng nó cả một lũ dốt! Chẳng hiểu gì về vai trò
gián điệp cả. James Bond đẹp trai, tướng tá lồng lộng, lộ diện mẹ nó rồi; lấy
gì mà làm gián điệp? Gián điệp phải vô danh tiểu tốt, bình thường tới độ không
ai để ý tới mới được!" Rồi anh lẩm bẩm điều gì đó, chẳng ai nghe rõ. Có vẻ,
anh muốn nói thêm, cho một điều ẩn ức nào đó. Rất có thể, khi bàn về gián điệp
James Bond, anh đã muốn đề cập đến vai trò antenne mà họ đã gán ghép cho anh,
nhưng vì kiêu hãnh, anh bất chấp mọi chuyện, ngay cả việc thanh minh cho chính
mình...
Thật sự, muốn dùng người làm chỉ điểm, Cộng Sản Hà Nội có cả trăm ngàn người bị
cầm tù, cần gì phải dùng tới một Duyên Anh lồng lộng tên tuổi?
Có lần, Duyên Anh nói với tôi: "Em biết không, có nhiều đêm, chúng nó đã gọi
anh lên nói chuyện. Chúng muốn anh viết về tuổi thơ, chỉ viết về tuổi thơ thôi,
không cần ca tụng Cách Mạng hay Chế Độ. Chế độ Cộng Sản rất coi trọng vấn đề
gieo trồng Hạt Giống Đỏ, thế hệ nhỏ sẽ nối tiếp con đường của chúng..."
Tôi liên tưởng ngay tới một câu nói, đại khái "Một y sĩ chữa bệnh chỉ ảnh
hưởng tới một người; một lãnh tụ chỉ ảnh hưởng tới một quốc gia; nhưng một nhà
văn sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ"
Duyên Anh là nhà văn duy nhất của miền Nam chuyên viết về tuổi trẻ. Cộng Sản Hà
nội lưu tâm tới khía cạnh này, và mời anh ra cộng tác. Anh đã khước từ. Họ liên
tục mời anh lên gặp họ ban đêm, những mong thuyết phục được anh. Dần dà, những
lần bị gọi về đêm gây thắc mắc cho những bạn tù, và tiếng đồn từ đó cũng nảy
sinh.
Trước ngày cộng sản thả anh, họ đã sử dụng chiến thuật "Không dùng được
thì diệt". Họ tung ra ngón đòn độc ác antenne để đốt cháy tên tuổi của
Duyên Anh, gây hận thù giữa các bạn tù, và cô lập luôn con người chống cộng
Duyên Anh với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hải ngoại. Một số người Việt tha
hương, vì quá hận thù cộng sản, đôi khi thiếu sáng suốt. Chỉ cần nghe nói mái
tóc nào hôi mùi nón cối, là họ phạng liền, không cần suy nghĩ.
Duyên Anh, khi được thả về, đã không còn lối thoát nào, ngoài con đường vượt
biên. Để chuẩn bị cho chuyến đào tẩu, anh đã lê lết tại các xóm bàn đèn, để
đánh lạc sự theo dõi của Công An. Tưởng Duyên Anh đã rơi vào đường cùng của hút
xách, nghiện ngập, Cộng Sản nới lỏng kiểm soát; và Duyên Anh đã xuống thuyền,
thoát sang Mã Lai. "Bầy Sư Tử Lãng Mạn" là phần thưởng tinh thần, được
thai nghén từ những ngày tháng đóng màn kịch trác táng, hút xách này.
Với hai tác phẩm "Nhà Tù", "Trại Tập Trung", bằng lối hành
văn của Duyên Anh và Thương Sinh nhập một, anh đã nói lên sự tàn ác của cộng sản
Việt Nam trong việc kềm kẹp, đàn áp Văn Nghệ Sĩ, và cuộc sống khốn khổ cùng cực
của các tù nhân cải tạo. Tiếp theo đó, với "Sỏi Đá Ngậm Ngùi",
"Một Người Nga ở Sàigòn", "Một Người Tên Trần Văn Bá",
"Quán Trọ Trước Cổng Thiên Đường", "Đồi Fanta", và tập
"Thơ Tù", Duyên Anh đã tấn công trực tiếp vào chế độ cộng sản Hà Nội,
như một cách trả lời cho họ về những năm tháng bị giam nhốt, đoạ đày. Duyên Anh
cũng đã vượt biên gian khổ như bao thuyền nhân khác, để chứng minh, anh không
phải là công cụ của cộng sản.
"Cộng Sản Chỉ Sợ Mình Đưa Chúng Nó Vào Văn Chương Thôi", "Phải
Nhốt Tội Aùc Của Chúng Nó Vào Lãnh Vực Bất Diệt", Duyên Anh đã lập đi lập
lại với tôi mấy câu này nhiều lần. Văn chương ngàn đời tồn tại. Chữ nghĩa bất
diệt. Duyên Anh đã dùng văn chương chữ nghĩa để bày tỏ con người quốc gia của
mình. Với đại tác phẩm "Hồn Say Phấn Lạ", gần 900 trang in, xuất bản
chỉ mấy tháng trước khi Duyên Anh qua đời, anh đã vạch ra lối đánh Cộng Sản hữu
hiệu nhất. Tôi tin chắc rằng, hàng trăm năm nữa, tội ác của Cộng Sản Việt Nam,
do Duyên Anh giam nhốt trong các tác phẩm của anh, sẽ vẫn tồn tại ở các thư viện
khắp nơi trên thế giới, trong các hiệu sách, và giữa những tủ sách gia đình. Thế
hệ anh và tôi, thế hệ con cháu chúng ta, cùng thế hệ mai sau, sẽ ghi nhớ mãi những
bài học và kinh nghiệm đau thương của thời đại này.
GIẢ SỬ NHƯ ngày nay, nếu Duyên Anh còn sống, tôi vẫn nghĩ rằng anh cũng chẳng cần
biện hộ cho chính mình. Anh cũng chẳng cần giành giật lá cờ Quốc Gia với ai, để
được tiếng là chống Cộng. Vì Duyên Anh đã biết dùng ngòi bút, dùng chữ nghĩa,
dùng tim óc anh, như một thứ vũ khí lợi hại, đầy sức công phá thành trì Cộng Sản.
GIẢ SỬ NHƯ chế độ Việt Nam Cộng Hòa còn tồn tại cho tới bây giờ, lớp trẻ chúng
tôi nằm giữa hai thế hệ, cũng vẫn cô đơn, cũng vẫn vất vưởng đi tìm một lớp đàn
anh...Nếu không có một Duyên Anh, một Thương Sinh, chúng tôi cũng vẫn phải tạo
ra mẫu người này, để dùng Văn Chương thay thế cho chính thể.
GIẢ SỬ NHƯ ngày 30 tháng 4 năm 75 đã không xảy ra, chúng tôi vẫn cầu mong có được
một biến cố nào khác, để miền Nam có được một triệu người đi "du học",
để có được một thế hệ trẻ được đầu tư tại ngoại quốc, sạch sẽ hơn, có khả năng
xây tương lai huy hoàng hơn cho tổ quốc Việt Nam tự do, không cộng sản.
GIẢ SỬ NHƯ tôi được phép thần diệu có thể gặp gỡ lại người đã chết, tôi sẽ nói
với Duyên Anh: Xác anh trở về cát bụi, tim anh trở về nguồn cội, nhưng tên tuổi
và tác phẩm của anh đã trở thành bất tử. Văn Chương Chữ Nghĩa đã tạc tượng anh,
để anh mãi mãi gần gũi với chúng tôi, như một người anh, như một người bạn tù,
và như một biểu tượng cao quý Quốc Gia.
Sắp tới ngày giỗ thứ ba của Duyên Anh, tôi ngồi nhóm lại chút ánh lửa kỷ niệm.
Nhớ anh, và viết vài chữ GIẢ SỬ NHƯ để cùng anh nhìn lại những ngày tháng cũ,
và cùng anh đón nhận một kỷ nguyên mới, với thật nhiều ước mơ cho Quê Hương,
như anh đã làm, và còn có thể làm...
Trần Đình Thục
Lễ Tạ Ơn, tháng 11, năm 99
DUYÊN ANH! NGÀN ĐỜI VẪN ĐẸP NHƯ HOA THIÊN LÝ
Từ cái xứ sở rất nghèo nàn của miền Trung, năm bắt đầu học
trung học tôi may mắn có một người bạn cho mượn truyện ngắn Con Sáo Của Em Tôi
– Duyên Anh. Vừa đọc, nước mắt tôi vừa ứa ra, tự hỏi đây là tiểu thuyết hay
truyện thật về đời mình, rồi Duyên Anh nghe được ai đó kể và viết lại. Từ đó,
Con Sáo Của Em Tôi dính liền với tôi, mãi cho tới bây giờ.
Năm 1963, miền Trung bắt đầu lộn xộn. Cô tôi khuyên tôi vào Saigon ăn học. Việc
đầu tiên của tôi vào Saigon là bằng mọi cách phải đi tìm gặp Duyên Anh. Cố gắng
đủ bằng mọi thứ, nhưng than ôi, một thằng nhóc nhà quê - xứ nẩu – như tôi, thì
làm sao mà gặp được Duyên Anh, một nhà văn lẫy lừng bấy giờ. Có một điều lạ –
là từ lâu – rất lâu, tôi cứ tưởng chỉ có mình là mê truyện Duyên Anh. Không ngờ,
khi vào Saigon, tôi bắt gặp hầu hết học sinh sinh viên thời ấy, cả nam lẫn nữ;
hình như, trong cặp của mỗi người đều có truyện Duyên Anh. Và tôi, Hoa Thiên
Lý, Điệu Ru Nước Mắt, Trần Thị Diễm Châu, Vết Thù Trên Lưng Con Ngựa Hoang...
Ở Mỹ, năm 1984 trong một bài viết, tôi bị bí đề tài; mà tôi biết chỉ có Duyên
Anh mới giúp tôi được. Từ California gọi qua Paris, thật là may mắn, tôi thật sự
được tiếp chuyện cùng Duyên Anh, thần tượng mà tôi hằng mơ ước. Sau này Duyên
Anh qua Mỹ, và anh em gặp nhau. Duyên Anh đến với tôi thật gần – trong tình anh
em, và bảo: "Tôi có đọc một vài bài của cậu gửi qua cho tôi. Được, hay lắm.
Mà này, nhà văn không có tuổi, cậu nhớ nhé; cậu còn trẻ lắm!" Và, tôi với
Duyên Anh sống thật gần từ đó.
Là nhà văn hàng đầu của tuổi trẻ Việt nam ở thập niên 60-70, ngoài bút pháp,
Duyên Anh là một nhà văn rất khí phách. Trong bài viết "Bổn Phận của Nhà
Văn", anh tuyên bố "Nhà văn không lên án, nhưng nhà văn có bổn phận
phải lên tiếng, khi chủ quyền của dân tộc và đất nước mình bị xâm phạm." Ở
một bài viết khác "Người Cầm Bút và Bạo Lực", Duyên Anh cũng không ngần
ngại lên án bạo lực, đến từ bất cứ phía nào, đối với người cầm bút. Đối với
Duyên Anh, tất cả các thứ bạo lực đó đều khốn kiếp. Ít có nhà văn nào can đảm
nói lên tiếng nói ấy, dẫu cuối cùng, Duyên Anh đã bị bạo lực khốn kiếp tấn
công.
Về tình người, Duyên Anh sống thật gần gũi với nhiều người, nhất là tuổi trẻ, độc
giả yêu qúy của anh. Và tôi, anh đã có lần khuyên "Em ạ, làm người, dù khốn
khổ gấp ngàn lần, em phải biết ráng uống tới giọt đắng cuóái cùng của cuộc sống,
để mà sống cho xứng đáng làm người. Và ở đời cũng vậy, em thà chấp nhận để người
ta thù hoặc ghét mình, nhưng đừng bao giờ chấp nhận để cho ai khinh rẻ mình cả."
Lần đầu, Duyên Anh gọi tôi bằng em, và cũng là lần cuối cùng.
Tôi không may mắn được tiễn đưa anh về miền miên viễn nào đó.
Và, cuối bài viết ngắn này, như một lời tạ lỗi cùng anh: Duyên Anh, tên tuổi của
anh ngàn đời vẫn đẹp như hoa thiên lý!
Nguyễn Đức An
Westminster 4 tháng 11, 1999
NHỚ BÁC DUYÊN ANH
Sự ra đi của nhà văn Duyên Anh là sự mất mát vô cùng lớn lao
của hàng triệu độc giả yêu mến người. Mỗi người quen biết nhà văn Duyên Anh đều
có những kỷ niệm riêng với người. Riêng tôi, một kẻ được vinh dự gọi người là
bác, được may mắn ở gần người một thời gian ngắn thôi, nhưng đã học hỏi được rất
nhiều nơi người.
Bố tôi, nhờ duyên may, đã gặp, và trở thành người em kết nghĩa của người. Do
đó, anh em chúng tôi được phép gọi người là bác.
Từ khi còn ở bậc trung học, tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết của bác như Bồn Lừa,
Thằng Vũ, Mơ Thành Người Quang Trung, v.v...Càng đọc nhiều sách bác viết, tôi
thấy trình độ hiểu và viết tiếng Việt của tôi càng ngày càng khá hơn. Nhất là,
những truyện của bác đều khơi dậy trong tôi tinh thần dân tộc, lòng yêu nước
mãnh liệt. Tôi mãi mãi biết ơn bác Duyên Anh, vì bác đã cho tôi niềm hãnh diện
được làm người Việt Nam. Những tư tưởng trong tiểu thuyết của bác đã nhắc nhở
tôi trách nhiệm đối với tổ quốc Việt Nam thân yêu, và nhen nhúm trong tôi ngọn
lửa đấu tranh cho đất nước, mục tiêu mà cho đến nay, tôi vẫn còn đang theo đuổi.
Dịp may đến thật không ngờ, khi bố tôi cho biết bác sẽ đến ở với gia đình chúng
tôi một thời gian. Tôi thật không thể tưởng tượng được là tôi sẽ được gặp chính
tác giả của những tác phẩm tuyệt diệu mà tôi đã từng yêu thích!
Và tôi cũng chẳng ngờ, chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi bác sống với chúng tôi,
tôi đã học được từ nơi bác những đức tính quý báu, mà tôi tin, sẽ giúp ích cho
tôi suốt cả cuộc đời.
Đức tính đầu tiên tôi học nơi bác là sự kiên trì. Bác bị liệt bên phải, chỉ sử
dụng được tay trái thôi. Vậy mà tôi thấy bác vẫn ngồi viết, dù bác viết rất chậm,
và rất khó khăn, cả buổi mới được vài ba trang.
Bác rất vui tính. Bữa ăn tối nào ở gia đình tôi cũng rộn ràng tiếng cười, nhờ
những câu chuyện vui, đôi khi cả truyện tiếu lâm nữa, bác kể cho chúng tôi
nghe.
Bác sống rất giản dị. Nhu cầu của bác, tôi để ý, chẳng có gì, ngoài mấy gói thuốc
lá. Bác ăn mặc cũng rất đơn sơ. Tôi chẳng bao giờ thấy bác thắt cà vạt. Giầy
dép, thì bác chỉ dùng có một đôi thôi. Đi chỗ nào, bác cũng chỉ xỏ chân vào,
cài sợi quai có velcro qua, là sẵn sàng ngay.
Ăn uống, đối với bác, chỉ là chuyện phụ. Có gì, bác ăn nấy, chẳng khi nào bác
đòi hỏi, hay phê bình món ăn ở nhà tôi bao giờ cả, bởi vì gia đình tôi sống rất
khiêm tốn, ăn uống cũng giản dị thôi.
Buổi sáng, bác dậy thật sớm, ngồi vào bàn viết văn ngay. Rồi bố mẹ tôi đi làm,
anh em chúng tôi đi học, bác ở nhà, tiếp tục làm việc. Đến trưa, bác dùng cơm với
thức ăn mẹ tôi để sẵn cho bác. Buổi tối, bác luôn luôn chờ cả nhà về họp mặt
đông đủ, để dùng cơm tối với chúng tôi. Đôi khi, có những người bạn, hay độc giả
yêu mến bác, đến rủ bác đi chơi. Nhưng đến chiều tối, bác đều nhờ họ chở về nhà
tôi. Rất ít khi bác đi ăn tiệm với những người đó, dù họ sẵn sàng đãi đằng bác ở
những nhà hàng sang trọng, đắt tiền. Bác thường bảo chúng tôi, bác thích ăn cơm
tối ở nhà tôi hơn, vì bác muốn được hưởng không khí gia đình ấm cúng.
Một đức tính khác của bác, tôi rất khâm phục, là bác rất khiêm tốn, nhã nhặn đối
với chúng tôi, những đứa cháu của bác. Tôi không ngờ, một nhà văn lừng lẫy như
bác, người không sợ bất cứ một sức mạnh và quyền lực nào, mà khi nói với chúng
tôi điều gì, bác luôn luôn nhẹ nhàng, dịu ngọt.
Bác luôn luôn sẵn sàng lắng nghe chúng tôi, và vui vẻ, hết lòng chỉ bảo bất cứ
khi nào chúng tôi cần hỏi bác điều gì.
Khoảng tháng 9 hay tháng 10 năm 1996, khi hay tin Việt Nam bị lũ lụt gây thiệt
hại nặng, và đồng bào đang lâm cảnh đói lạnh, một số anh em trẻ và tôi quyết định
đi quyên góp cứu trợ bão lụt. Lúc đó, vì không đồng ý với việc làm của chúng
tôi, một số người trong cộng đồng đã chẳng những không tiếp tay, lại còn chống
lại việc cứu trợ chính đồng bào mình đang khốn khổ tại quê nhà.
Tôi bối rối, không biết nên hành xử thế nào. Nhớ đến bác, tôi gọi điện thoại, hỏi
ý kiến bác. Bác đã ủng hộ, và khuyến khích tôi nên làm hết mình, vì đó là một
công việc chính đáng. Bác nói "Tuổi trẻ làm việc, không có gì phải sợ hết.
Thấy cái gì chính đáng và đúng, thì cứ làm, đừng sợ gì hết."
Sự ủng hộ và khuyến khích của bác đã khiến tôi mạnh dạn, quyết tâm cùng các anh
em tiếp tục quyên góp cứu trợ, mặc dù bị chỉ trích, nghi ngờ.
Kết quả, là chúng tôi đã quyên góp được một số tiền, tuy không nhiều lắm, nhưng
cũng đủ giúp được một số lớn đồng bào trong nước vơi bớt cơn đói lạnh.
Còn rất nhiều kỷ niệm khác về bác Duyên Anh mà tôi không thể nào kể ra hết được.
Nhưng những lời dạy bảo của bác, suốt đời tôi chẳng thể quên.
Sau khi bác qua đời, bố mẹ tôi đã đặt ảnh bác lên bàn thờ, nơi gia đình tôi thờ
Đức Phật và ông bà nội ngoại của tôi. Đã nhiều lần, tôi đứng trước chân dung của
bác, hứa nguyện với anh linh bác, rằng tôi sẽ làm hết mình để xứng đáng làm một
người tuổi trẻ Việt Nam, như bác đã từng kỳ vọng.
Chắc chắn, một ngày không xa, nơi chốn cao vời nào đó, bác sẽ mỉm cười mãn nguyện,
khi nhìn những người tuổi trẻ Việt Nam trong Đoàn Quân Tân Tây Sơn trở về xây dựng
một nước Việt Nam tự do, thanh bình, và hùng mạnh, như bác đã hằng mơ ước. Suốt
cả cuộc đời.
Nguyễn Lê Gia
Westminster, tháng 11, 1999
DUYÊN ANH, NGƯỜI BAN ÂN SỦNG HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI
Bắt đầu nói về Người đã khó, và có lẽ, không bao giờ nói hết
được về Người, linh hồn bất diệt của Tuổi Trẻ Việt Nam.
Người đã chan chứa hồn nhiên, mộng mơ của Tuổi Thơ, với Thằng Vũ, Con Thúy,
Chương Còm, Dzũng Đa Kao...
Người đã bi phẫn lên án thực trạng xã hội nhiễu nhương, vùi dập thiếu nhi lạc
loài với Luật Hè Phố.
Người đã tràn ngập yêu thương mời gọi tình người; đã hiểu rõ và cảm thông phẫn
nộ của tuổi trẻ với Điệu Ru Nước Mắt, Vết Thù Hằn Trên Lưng Con Ngựa Hoang...
Người đã soi sáng cho Tuổi Trẻ Việt Nam lý tưởng cách mạng xã hội bằng tình tự
con người với Ngựa Chứng Trong Sân Trường.
Tôi đang nói về Người, Duyên Anh Vũ Mộng Long
Tôi muốn ngồi lên những sóng gió thị phi, đố kỵ điên cuồng đã ra sức xô ngã một
tài năng của dân tộc, một tên tuổi đã đi vào huyền thoại muôn đời của tuổi trẻ
Việt Nam.
Tôi viết những dòng này để hồi tưởng lại ân sủng hạnh phúc Duyên Anh đã ban
phát cho gia đình tôi, và cho riêng tôi, trong thời gian ngắn ngủi chúng tôi được
may mắn đón tiếp anh.
Ba mươi năm trước, thuở vừa lớn, đọc những tác phẩm của Duyên Anh, tôi đã hằng
mơ ước được gặp anh, để xin anh khuyên dạy về con đường Tuổi Trẻ, cho đời mình
không uổng phí. Nhưng suốt thời gian ở Việt Nam, tôi chỉ làm quen, và yêu mến
Duyên Anh, qua những sách anh viết, chứ chưa lần nào được diện kiến.
Sau những năm tháng tù ngục quê nhà, tôi vượt biên đến Hoa Kỳ. Lòng ao ước một
dịp trong đời, được giáp mặt thần tượng tuổi trẻ của tôi, vẫn nung nấu không rời.
Lần thứ nhất Duyên Anh trở lại Quận Cam, để ra mắt những tác phẩm Ca Dao đầy tự
hào dân tộc, viết bằng tay trái, giấc mơ của tôi đã trở thành sự thật. Sau buổi
sơ ngộ ở quán Anh Thy, tôi được Nguyễn Đức An chở lên nhà anh Vũ Trung Hiền,
thăm Duyên Anh, một buổi tối tháng 8, năm 1995.
Suốt ba bốn tiếng ngồi bên Duyên Anh, thổ lộ với anh hoài bão của mình, và được
nghe anh ân cần chỉ dạy, tôi cảm thấy mình thật hạnh phúc.
Một thời gian sau, khi Duyên Anh trở lại Cali lần thứ nhì, vì nhà anh Vũ Trung
Hiền ở mãi tận Pasadena, không tiện cho Duyên Anh đi xuống Westminster thường
xuyên, anh dự tính tạm trú ở khu vực gần Little Saigon.
Mặc dù một vài thân hữu của Duyên Anh, nhà cao cửa rộng, ân cần mời anh về nhà
họ, Duyên Anh đã vui lòng đến sống với gia đình chúng tôi, trong căn apartment
chật hẹp, ở chung cư góc đường Westminster và Erin.
Thoạt đầu, Duyên Anh không định ở lâu với chúng tôi. Nhưng chỉ sau một vài
ngày, với lòng chân thành và tình người Việt Nam, những nghi ngại, ngăn cách,
do bối cảnh chính trị phức tạp, đã nhanh chóng tan biến. Để rồi, hơn nửa năm sống
gần nhau, chân tình giữa Duyên Anh và toàn thể gia đình tôi, ngày càng thêm đậm
đà, khắng khít. Như ruột thịt.
Gia đình tôi, từ khi có Duyên Anh, lúc nào cũng tưng bừng, tấp nập, rộn rã tiếng
nói cười. Các ông anh lớn của tôi, ở các thành phố lân cận, thường xuyên tới viếng
thăm, trò chuyện với Duyên Anh. Bè bạn, cứ dăm ba ngày, lại lui tới, mời mọc
anh. Những người bạn trẻ, thuộc các tổ chức, và đoàn thể khác nhau, nhiều đêm
tìm tới anh tâm sự đến khuya, cùng anh chia xẻ khát vọng chung của dân tộc.
Duyên Anh càng ngày càng biểu lộ lòng thương mến tôi nhiều hơn, nhất là sau khi
biết tôi làm nghề lao công vệ sinh. Một lần, anh đã nói với tôi, giọng đầy tha
thiết :"Tôi rất thương cậu. Mặc dù cậu đã ở tù chung với Bầy Sư Tử Lãng Mạn
của tôi, cậu không hề nói gì về quá khứ của cậu. Sang đây, cậu đã thực tế bắt đầu
lại từ số không. Tôi mong cậu hãy cố gắng xây dựng đội ngũ cách mạng Tân Tây
Sơn, cũng bắt đầu từ số không, nghĩa là Từ Đất Dấy Lên..."
Trước đây, tôi vốn có tật xấu là hay nóng giận, to tiếng với vợ con. Thấy vậy,
Duyên Anh khuyên dạy tôi : "Là chồng, là cha, tức là người lãnh đạo gia
đình. Dân chúng không bao giờ tuân phục những tên bạo chúa, mà chỉ luôn vâng lời,
và nhớ ơn các vị minh quân thi ân bố đức. Cậu chỉ nên dùng những lời yêu
thương, nhỏ nhẹ chỉ bảo vợ con, đừng bao giờ quát tháo vô ích; mà hàng xóm lại
chê cười..."
Đời sống nhiều gia đình Việt Nam ở hải ngoại khá khó khăn, nhất là cảnh nhà chật
vật, đôi khi khiến vợ chồng gấu ó lẫn nhau. Nhưng từ khi Duyên Anh hiện diện
trong gia đình tôi, và tôi nghe lời khuyên dạy của anh, thay đổi cách cư xử với
vợ con tôi, tôi nhận thấy cuộc sống gia đình tôi đầm ấm hẳn ra. Vợ tôi tỏ ra
quý trọng tôi hơn, và các con tôi biết vâng lời bố hơn.
Vợ tôi sanh ở huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình, như Duyên Anh, nên được anh nhận
là em gái. Các con tôi, sau giờ học, không còn rong chơi như trước nữa. Chúng
thường về nhà ngay, xúm xít chung quanh bác Duyên Anh.
Con trai lớn của tôi, Nguyễn Lê Bảo, là đứa ham chơi nhất nhà. Tôi để ý, nó hay
lại gần hỏi anh nhiều chuyện, còn anh thì cứ hiền từ, lắng nghe nó nói. Sợ nó
nói những chuyện vớ vẩn làm anh bực mình, tôi hỏi anh: "Nó xin anh cái gì
vậy?", Duyên Anh cười dí dỏm: "Nó đòi học làm thơ... tán gái!"
Tôi không biết anh dạy nó những gì, mà nó cũng tập tễnh làm thơ, và hiện nay,
đã có được cô bạn gái rất ngoan ngoãn, dễ thương, lại học giỏi nữa. Hai vợ chồng
tôi đều rất yêu thương cô bạn gái này của Bảo.
Thằng con trai thứ của tôi, Nguyễn Lê Gia, là đứa ôm ấp lý tưởng phục vụ dân tộc.
Nó thường được anh dạy bảo về lịch sử, về chữ nghĩa, và kinh nghiệm cuộc đời. Từ
khi được gặp bác Duyên Anh, nó luôn luôn "mơ thành người Quang
Trung", và quyết tâm đi theo con đường dân tộc, bác đã vạch ra cho nó.
Thằng con út của chúng tôi, Nguyễn Lê Định, được anh cưng nhất nhà. Duyên Anh
đi đâu về, cũng lên tiếng gọi "Thằng út đâu rồi?" Nó cũng thường quấn
quít bên anh, giúp anh những việc lặt vặt. Nhưng anh thường tự làm lấy, không
muốn phiền đến ai trong nhà. Mỗi tuần, anh hay phát tiền tiêu vặt cho nó. Duyên
Anh nói: "Nó thương bố mẹ nghèo, không dám xin. Nhưng nó ra ngoài với bạn
bè, không có tiền tiêu, tội nghiệp nó..."
Ý chí phấn đấu, tự lực, quật cường, của Duyên Anh bộc lộ mãnh liệt, không những
trong các tác phẩm của anh, mà còn cả trong sinh hoạt hàng ngày. Chỉ còn sử dụng
được tay trái và chân trái, anh tự làm lấy tất cả mọi việc cá nhân. Rất ít khi
anh nhờ ai phụ giúp.
Duyên Anh thức dậy thật sớm, tự pha cà phê, rồi ngồi vào bàn viết, bằng tay
trái, cho đến khi mệt, thì đi nằm nghỉ.
Anh mặc quần áo rất giản dị, không cầu kỳ làm dáng, không lập dị khác người. Ăn
uống lại càng giản dị hơn. Chỉ cần một món canh rau là xong bữa. Đòi hỏi duy nhất
của anh là, mỗi bữa cơm tối, mọi người trong nhà phải ngồi vào bàn ăn chung.
Ngay cả khi trò chuyện với bạn bè, hoặc được mời đi uống rượu ở một vài nơi, cứ
hễ gần tới bẩy giờ, anh luôn xin cáo từ, để về dùng cơm với gia đình tôi; những
bữa ăn đạm bạc, nhưng chắc đã gợi cho anh khung cảnh ấm cúng, êm ả của quê
hương, của gia đình.
Sau này, anh Đỗ Sơn nhiều lần gạn hỏi tôi, nhà tôi thường mời anh Duyên Anh món
gì mà anh ấy gọi là "bữa cơm dân tộc". Tôi ngạc nhiên và xúc động đến
nghẹn ngào, không trả lời được nữa; lòng càng bồi hồi nhớ thương Duyên Anh nhiều
hơn.
Chỉ hơn nửa năm chung sống, bằng lòng yêu thương chân thành và tâm hồn bao
dung, đôn hậu, Duyên Anh đã ban cho chúng tôi quá nhiều ân huệ, từ ý nghiã cuộc
sống cho đến hạnh phúc đời người. Những người bạn thân thiết hiểu rõ gia cảnh
chúng tôi, thường tỏ ra ngưỡng mộ hạnh phúc của chúng tôi.
Những lời Duyên Anh đã nói, lạ lùng thay, có một sức mạnh huyền diệu hóa giải bất
cứ một cuộc tranh luận hay bất đồng ý kiến trong đại gia đình tôi. Mỗi khi tôi
có vấn đề gì không đồng ý với các ông anh, hay với vợ con tôi, hễ ai nhớ lại được
"Anh Duyên Anh đã nói như thế này...", hoặc "Bác Duyên Anh đã
nói như thế kia...", là hầu như những điều ấy đã trở thành chân lý, thành
mẫu mực, cho chúng tôi dựa vào để giải quyết vấn đề.
Có ai ngờ được, hạnh phúc chúng tôi được hưởng hôm nay, và mãi mãi, là ân sủng
được ban phát do một người đã từng chịu quá nhiều bất hạnh và oan khiên!
Nhiều người thường cầu xin ân sủng từ Đấng Thiêng Liêng vô hình. Riêng gia đình
tôi được hưởng ân sủng cụ thể từ Duyên Anh, Tình Người chân thật. Vì Tình Người,
Duyên Anh đã bị ném đá, đã vào địa ngục để trang trải yêu thương, và đã lên đời
để tiếp tục rao giảng phúc âm tình người.
Hôm nay, tuy anh đã về cõi an nghỉ đời đời, sứ điệp yêu thương Duyên Anh từng
rao giảng vẫn tồn tại trong các tác phẩm của anh, và mãi mãi còn ảnh hưởng đến
hàng triệu tâm hồn Việt Nam. Và cả tâm hồn nhân loại nữa.
Giáo sư Phạm Kim Vinh đã nói: "Duyên Anh là niềm tự hào của Đất Nước. Người
nào hãnh diện về Duyên Anh, người đó mang món nợ với Duyên Anh..."
Riêng tôi, tôi không chỉ hãnh diện được làm một người em của Duyên Anh, mà còn
hạnh phúc được nhận ân sủng từ anh. Nghĩa là, tôi mang món nợ quá lớn đối với
anh.
Sẽ chẳng bao giờ tôi trả nổi món nợ ân tình đó. Chỉ biết nguyện dâng hiến trọn
quãng đời còn lại, làm theo những lời Duyên Anh đã dạy bảo.
Nguyễn Kim Dung
Westminster ngày 12 tháng 12, 1999
VĨNH PHÚC NÓI CHUYỆN VỚI DUYÊN ANH
Nhà văn Vĩnh Phúc, biên tập viên kỳ cựu đài BBC, nhân dịp
Duyên Anh ghé Luân Đôn năm 1991, đã có buổi mạn đàm với anh. Sau đây là nguyên
văn lần nói chuyện đó:
Vĩnh Phúc: Trước hết, xin anh Duyên Anh cho biết, sau vụ hành hung ở Hoa Kỳ
cách đây gần ba năm, sự phục hồi sức khỏe và khả năng cầm bút của anh nay ra
sao?
Duyên Anh: Thưa anh, sức khỏe của tôi bình phục gần như cũ. Thực ra, thì còn
thua cũ xa lắm. Thí dụ như là giọng nói của tôi. Ba năm trước, tôi chưa nói được
gì cả. Có nói, thì cũng ngọng nghịu, như người mới tập nói thôi. Hôm nay, thì
nói khá hơn rồi. Coi như khả năng nói có phục hồi thật. Và trí tưởng tưởng nữa,
cũng dần dần trở về với tôi. Chân đi vẫn chưa được mạnh, và tay phải vẫn còn
què như thường. Đối với những người đã hành hung tôi- phải nói là họ bắt nạt
tôi thì đúng hơn- tôi nghĩ, bây giờ mình đã gần bình phục rồi; những người đã hành
hạ tôi, chắc họ đã có thì giờ suy nghĩ tốt đẹp hơn. Tôi, bây giờ, không nghĩ đến
họ nữa, để cho họ được vui sống. Nếu họ thực tình hối hận chuyện đã đánh tôi,
thì họ cần dễ thương hơn nữa, để làm đẹp thêm cho cuộc đời. Mình không để ý đến
họ nữa, để họ có cơ hội làm những việc tốt đẹp cho mọi người. Họ đã trót đánh một
người, và phỉ báng người ấy. Nhưng nếu họ đã đánh và phỉ báng một người, mà làm
tốt đẹp được cho nhiều người, và có lợi cho chúng ta, thì chắc chắn, tôi không
còn giữ một ý nghĩ gì thù hận họ hết. Bởi vì đời sống, mà chỉ có thù hận, thì
chán lắm. Sống là phải mơ mộng thấy hạnh phúc của mình. Như thế, mới có thể làm
đẹp cuộc đời mình, và giúp được cho những người cần hạnh phúc, mà họ không thể
làm được. Tôi nghĩ là tất cả mọi người trong chúng ta nên quên mình đi, để làm
những việc tốt đẹp cho người khác.
Tôi mong là người nào đã đánh tôi, sẽ có dịp nghe những gì tôi nói hôm nay, để
họ không phải suy nghĩ gì nữa. Họ hãy quên chuyện cũ đi, và hãy tìm dịp để làm
những việc tốt đẹp cho mọi người.
Vĩnh Phúc: Xin anh cho biết, từ ngày sức khỏe bắt đầu phục hồi, dùng tay trái,
anh đã viết được thêm được những gì?
Duyên Anh: Từ tháng 10 năm 90 đến nay, tôi không viết truyện dài nữa. Tôi viết
một loại, không phải là tùy bút, chỉ là những bài viết ngắn của tôi thôi. Mỗi
bài vào khoảng hai mươi trang. Những bài này, viết xong, tôi đọc lại, và bỏ đi
sáu bài rồi. Tôi sẽ đọc lại, và có thể sẽ phải bỏ thêm năm bài nữa...
Vĩnh Phúc: Trí nhớ anh cũng chưa phục hồi hoàn toàn, phải không?
Duyên Anh: Vâng, trí nhớ của tôi chưa hoàn toàn được như xưa. Nhưng mà tôi tin
rằng nó sẽ trở lại như hồi xưa.
Vĩnh Phúc: Theo tôi được biết, thì trước đây, anh là một trong những nhà văn viết
nhanh lắm, phải không?
Duyên Anh: Vâng, hồi ấy, một cuốn tiểu thuyết, tôi cứ viết trung bình từ hai đến
ba tuần là xong. Bây giờ, thì nhanh lắm, cũng phải một năm, mới xong được. Truyện
bây giờ viết, nó phải khác hẳn truyện ngày xưa. Viết xong cuốn tiểu thuyết mới,
đưa cho người bạn xem, nếu người bạn bảo rằng cuốn này kém xa những cuốn tôi viết
hồi xưa, thì tôi sẽ bỏ nó đi, và sẽ không viết văn nữa. Nhưng nếu người đọc bảo
"Hay lắm rồi, cứ viết nữa đi!", thì tôi sẽ tiếp tục viết. Bởi vì đối
với tôi bây giờ, viết cũng là một thú vui. Ngày xưa, khi tôi viết báo, ngòi bút
của mình chiều theo thị hiếu của độc giả. Ngày nay, thì mình bắt ngòi bút mình
hướng dẫn độc giả, nghĩa là, không làm nô lệ cho thị hiếu của độc giả nữa. Viết
văn, mà không phải làm nô lệ cho bất cứ ai, nhất là không viết vì cơm áo nữa,
thì văn chương mình, chắc chắn phải hay, và khác lạ rồi.
Vĩnh Phúc: Ban nãy, anh nói trong số mười sáu đoản văn đã viết, anh đã bỏ đi
sáu rồi, và sẽ còn có thể bỏ thêm nữa. Xin anh có thể cho biết rõ hơn, lý do
nào anh bỏ những bài viết đó?
Duyên Anh: Dễ hiểu thôi. Bởi vì, trong những bài đó, tôi cứ hay bắt bẻ người
ta. Dĩ nhiên, bây giờ tôi viết không còn chửi bới như ngày xưa đâu. Mà bắt bẻ
người ta, tôi thấy cũng không có lợi gì cả. Cho nên, viết xong rồi, tôi lại xé
bỏ sáu bài ấy đi, kẻo người ta lại bảo "Duyên Anh vẫn như cũ thôi, chẳng
khác gì cả". Đôi khi, tôi cũng nghĩ, nếu mình bỏ những bài công kích, bình
phẩm thiên hạ đi, thì người ta sẽ nói mình sợ người ta, không dám viết nữa.
Nhưng mà thôi, họ muốn nói tôi sợ họ, hay muốn nói tôi thế nào cũng được. Tôi vẫn
chỉ làm theo ý muốn của tôi thôi, nghĩa là hễ khi có người nào bị đụng chạm tới,
thì tôi sẽ bỏ đi ngay. Ngay cả khi mình muốn viết thực về người ta, mà người ta
không muốn mình viết thực, thì tôi cũng sẽ không viết...
Vĩnh Phúc: Theo chiều hướng sáng tác mới này, anh có dự định nhắm vào một loại
độc giả đặc biệt nào không?
Duyên Anh: Trước đây, tôi hay viết những truyện về tuổi thơ. Thế rồi, tôi bỏ tuổi
thơ đi, xoay qua những lãnh vực khác. Bây giờ, đến khi đã già rồi, tôi lại muốn
trở lại, viết về tuổi thơ, viết toàn những truyện tuổi thơ thôi. Nếu những truyện
tôi sẽ viết, không được như những Thằng Vũ, Con Thúy, thì tôi mong những truyện
ấy, ít ra, cũng sẽ mang lại cho độc giả của tôi những cảm nghĩ đẹp về người
khác.
Tôi thấy, viết truyện về tuổi thơ, thì không ai ghét mình cả. Mà ở Việt Nam thời
ấy, chẳng có ai viết văn về tuổi thơ cả. Chỉ có một mình tôi thôi. Nhưng viết
được khoảng mười cuốn truyện tuổi thơ rồi, tôi bắt đầu viết lung tung những loại
truyện khác. Bây giờ, thì không phải lúc viết lung tung nữa rồi. Tôi sẽ viết
cho thế hệ trẻ thơ ở đây. Ở đây có trẻ thơ Việt Nam. Những em đó vẫn đọc được
truyện của tôi, thì tôi cảm động lắm, và thấy, thật không có gì sung sướng cho
bằng! Ở đời này, tôi chỉ mong có thế thôi. Chỉ mong có thế thôi.
DUYÊN ANH, NHƯ MỘT NGƯỜI VIẾT NHẠC
Qua anh chị Phạm Mạnh Cương, cũng trong dịp này, vợ chồng tôi gặp anh chị Duyên
Anh lần đầu tiên.
Lúc ấy, tôi chỉ mới biết Duyên Anh như một nhà văn nổi tiếng, có những tác phẩm
bán chạy nhất, mà thỉnh thoảng, tôi có dịp đọc.
Những ngày ở Đà Lạt, mấy gia đình chúng tôi cùng đi chơi, thăm một số thắng cảnh,
và tất cả chụp chung vài tấm hình kỷ niệm.
Về lại Saigon, anh tiếp tục sinh hoạt trong làng văn, làng báo; còn tôi, ở các
đài phát thanh và truyền hình, cho nên rất ít khi chúng tôi có dịp tiếp xúc.
Trước khi xảy ra biến cố 30 tháng 4, 1975, gia đình tôi may mắn thoát khỏi Sài
gòn ngày 22 tháng 4, 1975. Tôi nghe tin Duyên Anh cùng các văn nghệ sĩ miền Nam
ở lại bị bắt giam. Tin tức về anh, chỉ có thế thôi. Bẵng đi gần mười năm sau,
tôi mới biết Duyên Anh đã được trả tự do, vượt biển sang Mã Lai, và đang định
cư tại Pháp. Lúc này, được biết anh còn làm thơ, và bắt đầu viết nhạc nữa.
Vào khoảng đầu năm 1987, Duyên Anh gửi sang mười sáng tác của anh, nhờ tôi hát,
thu vào Master cho anh. Nhạc Duyên Anh làm, có nét độc đáo, ý nhạc không giống
nhạc của bất cứ nhạc sĩ nào. Đa số các bản nhạc phổ thông, tôi có thể hát mấy
câu trước, và đoán được ngay câu sau sẽ như thế nào. Nhạc Duyên Anh viết, không
giống như vậy. Cái khó, khi hát nhạc của anh, là người hát phải để ý từng dòng
nhạc một. Nhạc của Duyên Anh là thứ nhạc phá cách, không nằm trong những khuôn
thước thông thường. Anh thay đổi ý nhạc rất bất ngờ. Cho nên, nếu chủ quan, tưởng
mình có thể đoán trước câu nhạc sắp tới sẽ như thế nào, người hát
sẽ bị nhầm ngay.
Ngoài Duyên Anh ra, trong âm nhạc Việt Nam, chỉ một nhạc sĩ khác có lối viết đặc
biệt, không thể đoán trước được, người hát phải luôn luôn thận trọng chăm chú
vào nốt nhạc, chứ không thể nhắm mắt hát cầu âu được. Đó là nhạc sĩ Cung Tiến.
Hát nhạc Duyên Anh và Cung Tiến, mà không để ý, không chăm chú, là rớt đài dễ
như chơi.
Đầu tháng 5, 1987, nhân chuyến lưu diễn các nước Âu Châu với đoàn nghệ sĩ Việt
Nam từ Mỹ, do Lê Văn hướng dẫn, tôi ghé Paris, gặp lại Duyên Anh lần đầu tiên,
sau hơn mười năm xa cách. Anh chị Duyên Anh ghé thăm tôi tại khách sạn, nơi
đoàn chúng tôi trú ngụ. Tôi đưa cho Duyên Anh cuốn Master, Vũ Trung Hiền nhờ
tôi đem sang. Duyên Anh tưởng tôi ở lại Paris một thời gian, nên định tổ chức một
buổi trình diễn, để tôi hát nhạc của anh. Nhưng rất tiếc, tôi phải đi theo
đoàn, không thể ở lại, nên buổi hát ấy không thực hiện được.
Cuối năm ấy, nghe tin Duyên Anh sang California lần đầu tiên, vợ chồng tôi mời
anh đến nhà dùng cơm tối. Tôi lái xe từ Rowland Heights xuống tận nhà anh chị
Bùi Bỉnh Bân ở Irvine, đón Duyên Anh lên nhà tôi. Trên đường về, chúng tôi nói
chuyện thật vui. Duyên Anh kể lại những ngày tháng tù đầy, cả nỗi khổ đau, cay
đắng lẫn những câu chuyện vui, và đọc mấy bài thơ tù cho tôi nghe. Anh kể chuyện
thật hấp dẫn, khiến cho tôi có cảm tưởng quãng đường về nhà ngắn hơn bình thường,
dù hôm đó, xa lộ 5 và 57 kẹt xe kinh khủng.
Biết Duyên Anh thích món Bắc, tôi làm món chả cá ướp thì là, tạm gọi là chả cá
Thăng Long, nướng lên, đãi anh, với bún và rau sống. Buổi tối hôm ấy, ngoài vợ
chồng tôi và Duyên Anh, còn có anh chị Nguyễn Trọng Nho-Phạm Vân Bằng, bạn hàng
xóm của chúng tôi, và cũng là bạn của anh chị Duyên Anh. Bữa ăn tối thật vui vẻ.
Duyên Anh là người đầu tiên kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về "cái nồi
ngồi trên cái cốc", từ ngữ các binh sĩ và cán bộ miền Bắc dùng, khi nói về
cái lọc cà phê.
Ngày 1 tháng 5, 1988, nghe Phạm Vân Bằng báo tin Duyên Anh bị hành hung, tôi tức
tốc lái xe chở Vân Bằng xuống nhà thương Humana thăm anh ngay. Nhân viên bệnh
viện kiểm soát người vào thăm Duyên Anh hết sức cẩn thận, vì họ sợ có âm mưu ám
hại anh. Chúng tôi phải khai báo kỹ lưỡng về liên hệ của mình với Duyên Anh, và
có lẽ thấy chúng tôi là phụ nữ, họ cho phép chúng tôi vào phòng thăm anh. Duyên
Anh nằm trên giường, giây nhợ chằng chịt nối từ miệng và mũi anh với các máy
móc chung quanh. Anh vẫn hôn mê, và mặt anh còn sưng húp. Mắt anh, có lúc mở
ra. Chúng tôi nắm tay Duyên Anh, và gọi tên anh; nhưng chắc chắn, anh không nhận
biết chúng tôi là ai.
Tôi nhìn Duyên Anh nằm bất động, và cảm thấy xót xa thương cảm, không thể hiểu
được anh đã làm gì mà phải gánh chịu hoạn nạn nặng nề như thế.
Ba năm sau, chị Kim Tước và tôi, cùng một nhóm nghệ sĩ, trong số này có anh Từ
Công Phụng, sang Dallas trình diễn, trong chương trình văn nghệ do hội phụ nữ
thành phố Dallas tổ chức. Thời gian này, Duyên Anh đang ở nhà anh chị Đặng Xuân
Côn tại Dallas. Biết chúng tôi ở cùng thành phố, anh Côn đón tôi về nhà thăm
Duyên Anh chừng hơn nửa tiếng, trên đường đưa tôi ra phi trường trở lại Cali. Gặp
lại anh, tôi rất xúc động, vì đây là lần đầu tiên tôi gặp lại anh, sau khi anh
bị nạn. Duyên Anh nói chậm và khó khăn hơn. Anh bị liệt nửa người bên phải, nên
đi lại rất chậm chạp; chân trái bước trước, bàn chân phải kéo lê theo. Anh luôn
luôn dùng bàn tay trái để nâng bàn tay phải lên.
Trong lần gặp này, Duyên Anh nói, anh sẽ viết lại một bài khác về tôi. Duyên
Anh bảo anh chưa được vừa ý lắm về bài Mai Hương, Thiên Đường Tìm Lại, đăng
trên báo Ngày Nay của anh Lê Hồng Long ở Wichita, năm 1987. Nhưng đối với tôi,
được một nhà văn có tầm cỡ như Duyên Anh, viết về mình như thế, đã là một vinh
dự hiếm có rồi. Bởi vì, bài viết đó, đã được một số báo ở California trích đăng
lại, trong đó có tờ Thế Giới Nghệ Sĩ của Trần Quốc Bảo.
Lần cuối cùng vợ chồng tôi gặp Duyên Anh là buổi ra mắt bốn cuốn sách của anh tại
hội trường nhật báo Người Việt, đầu tháng 11, 1995. Chúng tôi mua sách, và đem
tới nhờ anh ký tặng. Duyên Anh viết, và ký bằng tay trái, nhưng nét chữ anh rất
đẹp.
Duyên Anh qua đời, tính đến nay, đã gần ba năm rồi. Nhân sắp đến ngày giỗ anh,
tôi viết những dòng chữ đơn sơ, ghi lại một vài kỷ niệm nhỏ với anh, một người
bạn mà cả hai vợ chồng tôi đều quý mến. Sự ra đi hơi sớm của anh, hai chúng tôi
đều thương tiếc.
Thiên hạ đã nói, và nghĩ về anh ra sao, tôi chẳng bận tâm. Đối với tôi, anh là
một trong những nhà văn lớn của Việt Nam, một thi sĩ có tài, và một nhạc sĩ đã
viết nên những ca khúc mà lời hát man mác chất thơ, âm điệu lạ lùng, gây xúc động
cho người nghe, dù những người nghe và thưởng thức nổi loại nhạc anh viết, có lẽ,
không nhiều lắm.
Cám ơn Duyên Anh, người làm nhạc đã viết gửi đến tôi, và để lại cho đời, những
tình khúc lạ lùng, thơ mộng, và tràn đầy rung động ấy.
Tháng giêng, 2000
Mai Hương
DUYÊN ANH, TRONG TÂM TƯỞNG
Tôi vẫn nghĩ, muốn nói hay viết về một người nào cách trung
thực, có lẽ, chỉ nên làm việc này khi người ấy đã nằm xuống.
Với ý nghĩ đó, tôi viết về Duyên Anh, bạn tôi, người đã vĩnh viễn ra đi năm
1997.
Tôi biết Duyên Anh những năm cuối thập kỷ 1960. Hồi đó, Duyên Anh đang tung
hoành trên báo chí Sài gòn. Những bài viết trên Tuần Báo Con Ong, và các Nhật
Báo Xây Dựng, Sống, v.v... của Duyên Anh, ký tên Thương Sinh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ,
v.v... đã khiến độc giả, phần lớn là giới trẻ, say mê theo dõi. Đặc biệt, giới
học sinh đã vô cùng yêu mến Duyên Anh khi anh chủ trương Tuần Báo Tuổi Ngọc, những
năm đầu thập niên 1970.
Từ Đà lạt, tôi viết một vài ca khúc gửi Duyên Anh đăng báo Tuổi Ngọc; do đó,
quen và thân với Duyên Anh. Những lần về Sài gòn, tôi hay đến thăm Duyên Anh ở
225 bis Công Lý. Vợ chồng Duyên Anh rất hiếu khách, thường giữ tôi ở lại ăn
cơm. Phải công nhận là chị Duyên Anh, tuy là phụ nữ miền Nam, nhưng nấu món Bắc
thật tuyệt vời. Ba con của Duyên Anh, các cháu Vũ Nguyễn Thiên Chương, Vũ Thiên
Hương, và Vũ Nguyễn Thiên Sơn, rất ngoan và dễ thương.
Nói chuyện với Duyên Anh về quê hương Thái Bình, tôi kể cho anh nghe kỷ niệm những
ngày cuối năm 1953, tôi cùng đơn vị, Tiểu đoàn Khinh quân 711, hành quân diệt địch
tại các vùng ven biên thị xã Thái Bình. Sau mỗi đợt hành quân, tiểu đoàn kéo
quân về thị xã, cho lính nghỉ xả hơi. Hồi đó, tôi là Trung Úy Đại đội trưởng,
thường lái Jeep, cùng với mấy sĩ quan trong đơn vị, ra quán cà phê ngồi chơi. Tại
đó, tôi gặp và nói chuyện với một số thanh niên 18, 20 tuổi, cũng đến quán uống
cà phê. Một trong những thanh niên ấy, Nguyễn Thịnh, đưa cho tôi xem bản Ươm
Mơ, một tình khúc Thịnh vừa sáng tác.
Hai mươi năm sau, nghe tôi kể lại chuyện này, Duyên Anh cho tôi biết, anh là bạn
thân của Nguyễn Thịnh; và cũng chính Nguyễn Thịnh là người đã khai sinh bút hiệu
Duyên Anh. Anh cũng từng ra ngồi quán cà phê đó, và rất ngưỡng mộ mấy sĩ quan Việt
Nam trẻ tuổi mà anh có dịp nói chuyện. Rất tiếc, ngày ấy, Duyên Anh và tôi chưa
có duyên quen nhau, để biết nhau nhiều hơn.
Sống nhiều năm ở Đà lạt, tôi ít có dịp gặp Duyên Anh, nhưng tình thân vẫn gắn
bó. Mỗi lần về Sài gòn, tôi đến thăm bạn, mang theo chai rượu chát. Chị Duyên
Anh lại có dịp trổ tài làm món nhậu cho chúng tôi.
Năm 1974, tôi xuất bản tập ca khúc Gọi Người Yêu Dấu, Nhạc Tình Vũ Đức Nghiêm.
Duyên Anh đề tựa tập nhạc này, ân cần giới thiệu bằng lời văn thắm thiết vô
cùng.
Sau tháng tư 75, Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam. Tôi ngậm ngùi đến thăm Duyên
Anh, và từ biệt bạn, trước ngày trình diện đi tù. Chiếc xe Pinto còn rất mới của
Duyên Anh, phủ vải bạt, nằm im lìm trong sân. Thấy tôi nhìn chiếc xe, Duyên Anh
khẽ nói: "Có lẽ, mình sẽ cho nó một mồi lửa!" Tôi dè dặt: " Cậu
làm thế, tụi nó không để cậu yên đâu."
Sau hơn 13 năm tù, tháng 9, 1988, tôi được trả tự do. Về tới Sài gòn, được tin
Duyên Anh bị hành hung đến tàn phế, tôi xót xa vô cùng. Nhất là khi được biết,
trước đó vài năm, anh đã viết một bài thật cảm động, Lãng Mạn Ngục Tù, về tôi,
như "một biểu tượng sĩ quan trong sạch và oan khiên nhất của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa", trong đó anh lên án giới lãnh đạo Hà nội về chính sách áp dụng
ở miền Nam của họ:
" Người Cộng Sản khoe chủ nghĩa của họ ưu việt, cái nôi của loài người. Thực
ra, họ lạc hậu và ngu xuẩn. Cộng Sản Việt Nam chỉ là một bọn trả thù vặt và hèn
hạ. Thủ phạm chiến tranh 20 năm ở Việt Nam là Mỹ, họ quả quyết thế. Họ chỉ dám
xử tội Mỹ bằng mồm, và vẫn van lạy xin theo Mỹ. Còn sĩ quan của chúng ta là nạn
nhân của chiến tranh ý thức hệ chó má hay là những kẻ gây ra máu lửa, những tội
đồ của chiến tranh? Tại sao Cộng Sản Việt Nam bắt nhốt họ, đầy đọa họ hơn 10
năm ròng rã? Bọn cai thầu chiến tranh đang phè phỡn ở Mỹ, không bắt được chúng,
Cộng Sản Việt Nam giận cá chém thớt. Nếu Cộng Sản Việt Nam còn một chút liêm sỉ
tối thiểu, thì họ phải thả hết các sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa khỏi các
trại tập trung khổ sai lao động. Những sĩ quan hôm nay còn nằm tù chỉ vì đã có
dĩ vãng trong sạch, và nghèo. Tôi biết đích xác nhiều sĩ quan bị Cộng Sản liệt
vào thành phần ác ôn như sĩ quan cảnh sát đặc biệt, trung ương tình báo, v.
v... được trả tự do sớm sủa, được cấp xuất cảnh sang Aâu Châu, Mỹ Châu xum họp
gia đình, đều đã nộp vàng, và dâng hết tài sản cho Cộng Sản để được ra đi. Vũ Đức
Nghiêm, vợ buôn thúng bán bưng nuôi con, nuôi chồng tù, lấy tiền đâu nộp cho Cộng
Sản ?...."
Duyên Anh đã kết luận Lãng Mạn Ngục Tù bằng lời kêu gọi và thách thức đanh
thép:
" Người Cộng Sản Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Lê Duẩn, Tố Hữu! Tôi đã
trình bày chính xác con người trung tá Vũ Đức Nghiêm và con người nghệ sĩ Vũ Đức
Nghiêm. Cả hai con người trong một con người đều vô tội! Tôi xin ghi lại một
câu chưa rõ nghĩa: "Khi một con người hành hạ một con người mà nó thấy con
người bị nó hành hạ thương hại nó, tha thứ cho nó, nó còn dám hành hạ thêm
không?" Các ông trả lời " Hành hạ tiếp, thê thảm hơn." Tôi ghê tởm
các ông! Các ông trả lời "lòng các ông chùng xuống". Thành thật cám
ơn, và xin- tôi nhấn mạnh tôi xin-các ông hãy thả Vũ Đức Nghiêm ra, thả hết các
nhà văn, nhà thơ ra khỏi ngục tù. Thả ra, thả hết họ ra, tôi sẽ công khai bày tỏ
lòng cảm phục thái độ của các ông..."
Tháng 11, 1990, biết tôi đến Mỹ, Duyên Anh từ Texas gọi điện thoại sang thăm
tôi. Đang chuyện trò tâm sự, thì có tín hiệu trong máy. Tôi xin lỗi Duyên Anh
và bấm flash để nói chuyện với đường giây thứ hai. Nhưng sau khi nói xong vài
câu, tôi quay trở lại đường giây cũ, thì Duyên Anh đã buông máy. Tôi không biết
Duyên Anh đang ở số điện thoại nào để gọi lại anh. Sau đó, Duyên Anh không gọi
lại cho tôi nữa. Tôi cứ ân hận mãi, vì biết bạn giận mình, mà không làm sao gọi
xin lỗi được. Mãi đến tháng 8, 1992, tôi mới có dịp sang Pháp, gặp Duyên Anh.
Thấy bạn bị tàn phế, lòng thương cảm vô cùng. Tôi đề cập tới mấy lời đồn đại về
Duyên Anh trong những ngày tháng lao tù, và bày tỏ lòng tin tưởng của mình nơi
sĩ khí của bạn. Tôi bảo Duyên Anh, chắc là những người ghen ghét anh đã thêu dệt
để nói xấu anh mà thôi. Duyên Anh bùi ngùi " Cám ơn anh đã không nghĩ xấu
về tôi. Tôi bị liệt tay phải, nay tôi viết bằng tay trái; VÌ TAY TRÁI Ở GẦN TIM
TÔI HƠN". Suốt bữa ăn trưa ở vườn nhà Vũ Đức Anh, thành phố Villeneuve
Leroi, Duyên Anh không ăn gì, chỉ uống rượu chát. Tôi can anh không nên uống
quá nhiều, nhưng Duyên Anh chỉ cười.
Tháng 8, 1995, tôi đến chơi nhà Vũ Trung Hiền và gặp Duyên Anh ở đấy. Ba anh em
chúng tôi ăn với nhau một bữa tối giản dị, với cơm nóng và rau muống cắt ở sau
vườn nhà, xào lên với tỏi.
Tháng 10, 1996, Duyên Anh lên San José, phổ biến tác phẩm Hồn Say Phấn Lạ của
anh. Biết Duyên Anh ngồi ở quán ăn của Sao Biển, đường Alvin, tôi đến gặp anh
khoảng 9 giờ sáng. Quán vắng. Anh ngồi một mình một góc bàn. Tôi mua ủng hộ một
bộ sách. Duyên Anh ký tên xong, tôi hỏi anh buổi tối ngủ ở đâu, anh bảo ngủ ở
nhà Vũ Bình Nghi. Tôi rủ anh đi ăn trưa với tôi, Duyên Anh nói không được, vì
buổi trưa có hẹn với bạn ở quán Sao Biển rồi.
Chẳng ngờ, đó là lần cuối cùng được gặp Duyên Anh.
Đến nay, Duyên Anh đã ra đi được gần ba năm rồi. Khi viết lại mấy dòng này, gọi
là để tưởng niệm Duyên Anh, tôi bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm vui buồn với anh.
Đọc lại những gì anh đã viết về tôi trong Lãng Mạn Ngục Tù, tôi ứa nước mắt. Đã
có mấy ai hết lòng vì bạn, như Duyên Anh đã đối với tôi?
Điều làm tôi quan tâm nhất là những dư luận về Duyên Anh trong thời gian ở tù Cộng
Sản. Tôi biết chắc, Cộng Sản là những người quỷ quyệt, rất giỏi kỹ thuật ly
gián, gây mâu thuẫn trong vòng kẻ thù của họ. Chắc chắn, chính cộng sản đã mớm
những tin đồn về Duyên Anh cho những người ghen ghét anh, để dùng chính những
người này hạ uy tín của anh.
Trong tâm tưởng tôi, hình ảnh Duyên Anh vẫn là một chiến sĩ đả cộng dũng mãnh
nhất, với hàng chục tác phẩm lẫy lừng, đánh thốn tim những người cộng sản.
Tôi hy vọng, những người bạn tù ở chung trại với Duyên Anh, một lúc nào đó, sẽ
lên tiếng, làm sáng tỏ trường hợp Duyên Anh, đánh tan những hiểu lầm, cùng những
điều xuyên tạc về tư cách của anh, để bảo vệ danh dự cho một nhà văn đã đi vào
lịch sử văn chương, và văn hóa dân tộc.
San José, 31 tháng 12, 1999
Vũ Đức Nghiêm
KỶ NIỆM VỚI DUYÊN ANH
Những người ở vào tuổi tôi, trước tháng tư, 75, có thể nói, hầu
hết đều đã đọc, và thích văn chương Duyên Anh. Bởi Duyên Anh viết nhẹ nhàng,
trong sáng, và dễ hiểu. Văn của anh không cầu kỳ. Rất ít khi độc giả thấy Duyên
Anh bàn về triết lý cao siêu trong các truyện của anh. Lại nữa, văn xuôi của
Duyên Anh, nhiều lúc đọc như thơ "Mẹ tôi yêu hoa thiên lý như yêu chồng
con...", câu mở đầu cho truyện ngắn đầu tay Hoa Thiên Lý, mộc mạc mà đằm
thắm, nhẹ nhàng mà chất chở tất cả tình tự dân tộc. Hoặc như, "Trần Đại
chưa là mùa Xuân. Nó mới chỉ là cánh én từ rừng đồi xa xăm nào đó bay về báo
tin rằng mùa Xuân sắp đến..." Diễn tả sự rung động trái tim của Tường Vi
trong Điệu Ru Nước Mắt đấy. Tha thiết và lãng mạn đến thế, còn gì tuyệt vời cho
bằng?
Tôi quen nhà văn Duyên Anh thật tình cờ. Biết anh, thì đúng hơn. Hôm ấy, tôi
theo Hoàng Ngọc Tuấn, cây bút đang ăn khách của tuổi trẻ Saigon bấy giờ, ghé
tòa soạn Tuổi Ngọc thăm Duyên Anh.
Trước đó, nhiều người đã nói với tôi rằng Duyên Anh "kiêu" lắm, vì
anh đã thành danh. Gặp Duyên Anh lần đầu, tôi thấy anh rất "bình
dân", vui vẻ. Tôi chân thành cho Duyên Anh biết, tôi là một trong số những
độc giả đã đọc hết các truyện anh viết.
Anh hỏi tôi:
- Cậu thích truyện nào của tôi nhất?
- Phượng Vĩ.
- Sao lại Phượng Vĩ?
- Bởi vì nó có cái lãng mạn, nhẹ nhàng, và đáng yêu của tuổi học trò. Lại nữa,
đọc Phượng Vĩ, thấy anh tả hai hàng cây hồi đẹp quá, tuy em chưa hề thấy cây hồi
bao giờ cả.
Duyên Anh cười:
- Hai hàng hồi của tôi ở Thái Bình, bây giờ chắc đã chết hết rồi, cậu ạ! Ngoài ấy,
bây giờ, ăn còn chưa xong; lấy ai chăm sóc hàng hồi hai bên đường?
Tôi hỏi Duyên Anh về những bút hiệu anh dùng khi viết báo. Anh nói:
- Tôi sẽ bỏ, không viết báo nữa, và sẽ quên hết những bút hiệu đó.
Tôi ngạc nhiên:
- Anh định bỏ nghề báo à?
- Tôi có nghề đâu mà bỏ? Chẳng qua, vi miếng cơm manh áo thôi. Các chủ báo nó
thuê, thì mình viết thôi. Lúc này, tôi có nhiều độc giả rồi. Tôi sẽ chỉ chăm lo
cho Tuổi Ngọc. Các cậu thích viết, cứ gửi bài đến, thấy được, tôi sẽ đăng. Tôi
khoái những cây bút trẻ như các cậu...
Tôi thử "nịnh" anh:
- Đã có Duyên Anh viết hay quá rồi. Cần gì thêm ai nữa.
- Các cô, các cậu cứ viết, nhưng đừng viết giống tôi là được.
- Viết được cho giống như anh, thì cũng đã mòn người rồi.
Duyên Anh cười:
- Đừng nghĩ vậy. Các cậu còn trẻ. Trong số các cậu, sẽ có người viết hay hơn
tôi, và các cậu sẽ làm người đọc "quên" tôi.
Buổi gặp gỡ đầu tiên của tôi với nhà văn có sách bán chạy nhất nước, chỉ có vậy
thôi.
Thời gian sau, vì học hành, rồi lính tráng, tôi rất ít khi có dịp gặp lại Duyên
Anh... cho đến cái ngày anh gọi là Saigon, Ngày Dài Nhất.
Hay tin anh kẹt lại, độc giả nhiều người đã không khỏi lo ngại cho anh, biết rằng
rồi đây, anh sẽ khốn khổ vì những gì anh đã viết về Cộng Sản.
Chính tôi, cũng đã nhiều lần tự hỏi "Duyên Anh sẽ trả lời sao với Việt Cộng,
khi anh đã hơn một lần mô tả lá cờ đỏ của Cộng Sản giống như quần lót đàn bà cuối
tháng?"
Còn nhiều nữa. Duyên Anh đã từng ca tụng hành động gan dạ của thiếu nhi Võ Trụ
cứu phi công Mỹ gặp nạn. Anh đã, theo lời kết án của Việt Cộng, "đào tạo một
thế hệ trẻ xâm mình bảo vệ miền Nam, để ngăn cản, chặn đứng thế hệ xâm mình giải
phóng của miền Bắc." Cùng với Chu Tử, trên báo Sống, anh đã
"đánh" Vũ Hạnh, một người viết văn nằm vùng cho Việt Cộng, tơi bời,
những năm cuối thập niên 60.
Cán bộ chấp pháp Cộng Sản chỉ cần trích một mẩu đối thoại nhỏ trong truyện ngắn
Em của Duyên Anh, là đủ cho họ đầy đọa Duyên Anh mút mùa Lệ Thủy rồi.
- Em thương ai nhất. Tôi hỏi.
- Em thương Bác Hồ và Đảng Lao Động Việt Nam.
- Ai dạy em thế?
- Anh cán bộ giáo dục đã dạy chúng em thế.
- Anh cán bộ dạy sai rồi. Chúng nó dạy láo cho em đấy. Ai sinh ra em? Ai đã
nuôi nấng và dạy dỗ anh em mình? Những lúc anh em mình ốm, ai chăm lo?
- Cha mẹ mình chứ ai.
- Em đừng tin lời cán bộ. Em hãy nghe anh, Dực nhé. Em hứa với anh, là chỉ yêu
thương cha mẹ, ông bà mình thôi nhé...
Đêm giã từ em để ra đi, tôi chỉ nói với em tôi được có thế..."
Việt Cộng đã đến tận nhà, còng tay, bắt anh đi tù hơn năm năm, chẳng có gì đáng
ngạc nhiên cả.
Tháng 8, 1978, ở Xóm Chùa Los Angeles, nhà báo Tô Văn nói với tôi "Duyên
Anh chết rồi! Chết ở công trường sắt Thanh Hóa." Tôi bùi ngùi xúc động,
thương cảm cho một nhà văn, một người anh mà mình yêu mến, đã sớm ra đi.
Bẵng đi một thời gian, mãi đến năm 84, Tú Rua Lê Triết từ Virginia gọi cho tôi,
báo tin Duyên Anh vượt biên thành công, và "đang ở bên đảo". Tôi mừng
rỡ, hỏi Tú Rua đảo nào, ông có địa chỉ Duyên Anh không. Tú Rua hứa sẽ cho tôi.
Sau đó, có lẽ ông đã quên.
Vài năm sau, qua báo Đời của Nguyên Sa, tôi viết thư cho Duyên Anh.
Tôi đã hơi buồn, vì chẳng nhận được thư trả lời của anh. Không biết thư tôi viết,
anh nhận được, và không trả lời, hay thư ấy, anh không nhận được. Nhưng lúc ấy,
tôi nghĩ, anh đã quên, không còn nhớ mình nữa. Anh sang Mỹ lần đầu, chụp hình
chung với Trần Quốc Bảo, Trần Đình Thục, v.v...
Tôi hơi "giận" Duyên Anh, nên không tìm cách liên lạc với anh.
Một hôm, Tú Rua gọi cho tôi. Ông hỏi:
- Chú gặp thằng Duyên Anh chưa? Nó mới viết báo chửi tao đấy.
Tôi hỏi:
- Báo nào? Viết gì mà ông bảo là chửi?
- Nó là Đồng Nai Tư Mã đó. Nó bảo, báo của tao là thứ báo hồi xưa chỉ thả giòng
lá thắm, mà bây giờ cũng bày đặt...
Tôi "an ủi" Tú Rua:
- Không cà khịa người đời, thì đâu có phải là Duyên Anh nữa? Ông biết rồi, còn
thắc mắc làm chi? Cũng xin ông đừng động đến Duyên Anh. Đồng Nai Tư Mã hiền khô
à! Đâu có đáng gì so với Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên hồi xưa?
Anh sang Cali năm 1988. Tôi đã định đi tìm anh. Nhưng chưa gặp được, thì anh đã
bị hành hung. Nhìn tấm ảnh chụp anh nằm trên giường bệnh ở nhà thương, đăng
trên Việt Press, tôi bàng hoàng xúc động, và hối hận đã chẳng cố tìm gặp anh
trước. Chẳng biết làm gì hơn, tôi nuốt hết đau đớn và tủi hận, cầm bút viết một
bài, để vừa vinh danh anh, vừa lên án bọn khủng bố đã có hành động dã man, đê
tiện với một nhà văn không một tấc sắt trong tay. Bài viết này, tôi gửi đến Việt
Press. Có lẽ vì "rét", Nguyễn Tú A cho vào mục "Bài Cậy
Đăng", nhưng lại từ chối không lấy tiền.
Mãi đến tháng 8, 1996, trước ngày ra mắt Hồn Say Phấn Lạ mấy hôm, tôi mới gặp lại
anh, ở nhà Nguyễn Kim Dung. Trông anh già đi nhiều, so với lần gặp hơn hai mươi
năm trước, ở Tuổi Ngọc. Ngồi nhậu với anh và Nguyễn Kim Dung, tôi thấy anh chỉ
uống. Nụ cười anh vẫn thật hiền hòa; ánh mắt vẫn toát ra vẻ sắc sảo và bén nhậy.
Dường như anh đã "thiền".
Nhắc lại chuyện cũ, Duyên Anh cho biết, anh đã tha thứ, không hề oán hận kẻ đã
hành hung mình. Anh coi đó chỉ là một tai nạn thôi.
Duyên Anh nói "vận hạn của đời người thôi, mày ơi! Biết đâu bị cái này,
thoát cái kia? Gặp lại anh em, bè bạn là mừng rồi. Tao còn viết được mà. Sau Hồn
Say Phấn Lạ sẽ là Từ Đất Dấy Lên. Đặc biệt, chỉ còn tay trái thôi, tao sẽ viết
lại cuốn hồi ký Nhìn Lại Những Bến Bờ, bằng một tên khác."
Tháng 9, năm 96, anh trở về Pháp. Đêm Noel, anh gọi chúc mừng Giáng Sinh cho
tôi và gia đình. Tôi hỏi anh:
- Chừng nào anh qua Mỹ?
- Qua Tết âm lịch, tao sẽ sang thăm chúng mày. Mấy hôm nay, tao bị ốm, đau đầu
không thể tả. Chắc tao bị cúm.
Nhưng anh đã không may mắn. Hay chính chúng tôi, những đứa em, bè bạn, và gia
đình anh đã thiếu may mắn? Gần Tết ta, Vũ Trung Hiền điện thoại, cho tôi biết
anh bệnh nặng lắm, chẳng hiểu có qua khỏi không. Vũ Trung Hiền đã nghẹn ngào
nói "Tôi sẽ đi Pháp ngày mai, hy vọng còn nhìn thấy mặt anh ấy lần cuối."
Cơn đau từ đâu lại kéo về, chận ngang cuống họng tôi. Tôi lặng người đi. Sao lại
thế được? Bao năm tù cải tạo không chết. Bị hành hung thập tử nhất sinh không
chết. Bây giờ lại chết? Lạy trời cho anh qua khỏi, để anh em còn nhìn thấy
nhau... Nhưng anh đã ra đi. Nhà văn Duyên Anh thật sự đã mất rồi!
Anh Duyên Anh thân mến,
Khi ngồi viết những giòng về anh, em chẳng biết viết gì cho anh cả. Với anh, viết
gì cũng đều thừa thãi cả. Danh vọng, anh đã có. Những tác phẩm của anh, bây giờ
người ta trân trọng in lại, như những vật di bảo, anh tặng cho hậu thế. Em
nghĩ, như vậy cũng đã đủ cho một nhà văn có quyền hãnh diện khi sống, và khi đã
khuất. Với anh, đời sống đã đãi ngộ anh nhờ những cố gắng kiên trì, cộng thêm
tài hoa thiên phú của anh. Anh cũng đã sống trọn vẹn với đời rồi. Những kẻ ngậm
máu phun người đã không làm mờ được giá trị đích thực của anh. Trong tháp cao của
văn chương Việt Nam, anh có quyền tự hào với ngôi vị của mình. Đâu đó, anh đã
có lần viết "Tôi tự làm lấy đời tôi. Dù đời tôi cơ hồ như trái chín hoang,
chịu được mưa gió, bão bùng; trái chín hoang vẫn chín, và vẫn tỏa mùi
thơm."
Duyên Anh ơi, anh đã toả mùi hương thơm ngát bằng cách cống hiến cho đời tám
mươi cuốn sách và hàng ngàn bài báo đủ thể loại.
Đã gần ba năm rồi, mà em vẫn tưởng như mới nhìn thấy anh hôm qua. Ở cõi Thiên
Đàng vời vợi ấy, anh đang yên nghỉ. Ở đấy, không có bọn hèn hạ, cho đến giờ
này, vẫn còn hận thù anh. Ở đấy, không có những kẻ ghen tài dèm pha, bỉ thử. Ở
đấy không có bọn a dua "Người Đi Đường và Con Chó" chỉ biết nhắm mắt
bày trò vu khống, điêu ngoa, hại người công chính. Ở đấy, chắc anh đang mỉm cười
bình an, tha thứ cho lũ giả hình, cho cả thế nhân mê hoặc...
Hãy yên nghỉ nhé, Duyên Anh.
Một người em của anh,
Kim Việt Hùng
ĐÓA HỒNG TRONG CÕI NHỚ
Tưởng niệm ngày giỗ năm thứ 3 của Duyên Anh Vũ Mộng Long, anh
Vũ Trung Hiền, người em tâm đắc của Duyên Anh ra mắt quyển sách "DUYÊN ANH
VÀ TÔI, Những Câu Chuyện Bên Ly Rượu".
Tôi chưa được đọc văn bản quyển sách, nhưng rất hân hạnh được mời phát biểu trong
buổi Ra Mắt Sách và có đôi giòng kỷ niệm về người đại nghệ sĩ này, như một cá
nhân đầy lòng ngưỡng mộ Duyên Anh.
Vì lý do riêng, tôi không thể đến góp mặt, nhưng lòng nghe xúc động nhiều, tin
chắc rằng hương hồn Duyên Anh sẽ hạnh phúc biết bao với cơ hội gặp lại bạn bè
xưa, những người trước đây, lúc sống anh đã thân, lúc chết mới biết ai là người
còn giữ tình tri kỷ.
Như đã viết trong bài "Đóa Hồng Thơm Ngát Rụng", ngay sau khi được
tin Duyên Anh rời cõi thế, tôi đã có cảm tưởng như bị hụt hẫng, mất một người
thân với bao ngậm ngùi luyến tiếc, dù thực tế, suốt đời, tôi chỉ gặp anh có hai
lần, tuy trong nhiều giờ, ngồi quán café trên đường Lê Thánh Tôn và La Pagode,
lúc anh vừa được thả sau 6 năm tù cải tạo.
Tôi không biết gì về cá nhân Duyên Anh, nhưng qua hai lần trò chuyện, qua nhiều
truyện, sách anh viết, với tài năng thiên phú và bút pháp sở trường, Duyên Anh
phản ảnh một tâm hồn kỳ diệu trong tình yêu tha nhân, một con người chan chứa
tình thương, đầy hồn dân tộc, khí phách và can đảm.
Duyên Anh xứng danh là đại nghệ sĩ vì anh đa tài với thực chất. Không nổ, không
vẽ vời cường điệu, không cần hậu thuẫn của bất cứ phe nhóm nào, của bất cứ ai.
Anh là một nghệ sĩ đích thực tuyệt vời trong văn chương, trong âm nhạc, trong
thơ, và trên tất cả, Duyên Anh là bạn thiết của tuổi thơ, người chiến sĩ dấn
thân can trường nhất chống tham nhũng thối nát của xã hội, quyết liệt nhất chống
chủ nghĩa phi nhân của Cộng Sản.
Không những Duyên Anh nổi danh, được ngưỡng mộ với đầy tình yêu mến ở Việt Nam,
anh lẫy lừng gây chấn động thế giới Tây phương với ngòi bút của một nhân tài, lẫm
liệt đấu tranh trường kỳ cho lý tưởng của đời anh đến hơi thở cuối.
Duyên Anh đã mất, nhưng văn tài và tinh thần Duyên Anh sẽ sống rực rỡ muôn đời
với hai chữ Việt Nam.
Mai Nguyên
VŨ TRUNG HIỀN PHỎNG VẤN LÊ QUÝ AN
Giáo sư Lê Quý An, giám đốc cơ sở Avitek Trang Châu, là một
trong những người bạn thân của Duyên Anh từ thuở còn chân ướt chân ráo vào Nam,
cùng ở Nhà Hát Tây (nằm ngay góc đường Tự Do-Lê Lợi, về sau trở thành nơi họp của
Hạ Nghị Viện, Việt Nam Cộng Hòa) với nhau.
Lê Quý An cũng là người cùng đi ăn với Duyên Anh và Trần Đình Thục tại quán
Ngân Đình, buổi trưa định mạng 30 tháng 4, 1988.
Sau thời gian dài giữ yên lặng, vì nhiều lý do, ông Lê Quý An đã quyết định lên
tiếng, để cho biết tất cả những gì mình đã chứng kiến, cùng những nhận định
riêng của ông về vụ hành hung Duyên Anh.
VTH: Thưa giáo sư Lê Quý An, xin ông vui lòng cho biết những gì đã xảy ra từ
lúc ông cùng đi với họa sĩ Trần Đình Thục và nhà văn Duyên Anh đến khu Bolsa
Mini Mall.
LQA: Hôm đó, Duyên Anh gọi tôi lúc 9 giờ sáng, hẹn gặp tôi lúc 10 giờ tại
thương xá Lê Lợi, gần nhà hàng Song Long, để đi chơi với anh. Đúng hẹn, tôi đến
nơi, gặp Duyên Anh đi cùng với họa sĩ Trần Đình Thục và người em trai của anh
Thục. Chúng tôi nói chuyện với nhau chừng mười phút, rồi tất cả cùng lên xe của
anh Thục, lái vòng quanh khu phố Bolsa, để Duyên Anh ngắm sinh hoạt của Little
Saigon. Xe chạy từ khu Song Long tới Magnolia thì vòng lại, qua khu Phước Lộc
Thọ, dọc theo đường Bolsa hướng về phía đường Euclid, Harbor, Fairview. Cuối
cùng, gần 12 giờ trưa, tôi mời Duyên Anh và anh em Trần Đình Thục đi ăn trưa.
Tôi đưa ra một loạt các món ăn tiêu biểu của địa phương, như bò 7 món Pagolac,
cơm phần kiểu Bắc ở nhà hàng Nguyễn Huệ, cơm Tầu ở Đồng Khánh... Duyên Anh đề
nghị món bún chả, và chúng tôi đồng ý sẽ ăn món này ở nhà hàng Ngân Đình.
Tới đây, tôi xin được nói sơ qua về tình hình chính trị lúc bấy giờ trong cộng
đồng Việt Nam ở Mỹ, cũng như tại quận Cam.
Ở thời điểm 1988, chuyện chuyển tiền, gửi quà, và du lịch về Việt Nam là những
điều người tị nạn không thích, và dễ gây phẫn nộ. Lúc ấy vẫn còn là thời đại
vàng son của mặt trận Hoàng Cơ Minh. Phong trào này có nhiều thành viên mặc áo
nâu, rất sùng tín. Tôi có một người bạn thân từ hồi học cùng lớp đệ nhị, đệ nhất
Chu Văn An, Saigon, anh PHC, một trong những nhân vật lãnh đạo Mặt Trận ở
Houston, tiểu bang Texas. Khi biết tin Võ Đại Tôn về nước mưu chuyện phục quốc,
và sa vào tay giặc, anh C. chẳng những không thương xót, mà lại còn có những lời
lẽ coi thường, mặc dù anh biết, không những tôi, mà đa số đồng bào hải ngoại
lúc ấy, coi trọng, và ủng hộ việc làm của anh Võ Đại Tôn...
VTH: Thưa ông, tôi xin phép được ngắt lời ông. Chuyện ông PHC và ông Võ Đại Tôn
có liên hệ gì đến Duyên Anh không?
LQA: Liên hệ trực tiếp thì không. Tôi chỉ muốn kể lại chuyện này, để nói lên sự
kiện là vào thời điểm ấy, Mặt Trận chỉ muốn mọi người biết đến họ thôi. Họ
không muốn cho ai, hay tổ chức nào nổi hơn họ hết.
Riêng ở quận Cam, không khí ngột ngạt hơn, khi chủ nhiệm Việt Press, anh Nguyễn
Tú A, công khai đi về Việt Nam làm ăn, và viết bài tường thuật chuyến đi trên
báo của mình.
Tôi cũng được biết, trước khi đến quận Cam, Duyên Anh có dừng chân tại San
Francisco, cư ngụ ít ngày ở nhà bác sĩ Bùi Duy Tâm, người đã chủ trương hủy bỏ
bản quốc ca Việt Nam Cộng Hòa, do nhạc sĩ cộng sản Lưu Hữu Phước làm từ thời chống
Pháp, và dùng bài Việt Nam, Việt Nam của Phạm Duy để thay thế. Có thể Duyên Anh
không biết làviệc anh liên hệ với nhóm của Bùi Duy Tâm đã rất bất lợi cho anh;
bởi vì đa số dư luận lúc ấy phẫn nộ với chủ trương của nhóm này.
Cũng trong thời gian đó, một số bài phiếm luận của Duyên Anh trong mục Phép
Phù, báo Ngày Nay ở Kansas, đã đụng chạm tới Mặt Trận và một số tướng lãnh Việt
Nam Cộng Hòa, mà anh cho là bất xứng. Ngoài ra, còn có vụ Tạ Tỵ, Mai Thảo, và một
số người cầm bút bới móc những chuyện liên quan đến Duyên Anh trong thời gian
tù tội. Duyên Anh đã phản pháo dữ dội những người này trong các bài viết và tác
phẩm của anh.
Tóm lại, thời điểm 1988, riêng tại quận Cam, tình hình rất bất lợi cho Duyên
Anh...
VTH: Xin ông vui lòng trở lại câu hỏi của tôi về buổi sáng 30 tháng tư, 1988.
LQA: Vâng, khi chúng tôi về tới Bolsa Mini Mall, thì vừa lúc gặp đoàn biểu tình
tuần hành trên đường Bolsa, với khí thế chống Cộng hăng say vô cùng. Mọi người
hô vang "Boycott, Boycott Vietnam", "Đả Đảo Cộng Sản Việt
Nam". Xe chúng tôi phải chờ đoàn biểu tình đi qua, trước khi quẹo vào khu
Bolsa Mini Mall. Tôi nhìn thấy trong ban an ninh của đoàn biểu tình có một số
thành viên của Mặt Trận đang hướng dẫn và chỉ huy những người biểu tình.
Chờ đoàn người đi qua hết, xe chúng tôi tiến vào khu thương xá, bên cạnh khu vực
có phòng chụp quang tuyến của bác sĩ Nguyễn Mạnh, ngã tư Bolsa và Bushard.
Trên đường đi bộ tới nhà hàng Ngân Đình, Duyên Anh gặp nhà văn Mai Thảo, và hai
ông bạn của Mai Thảo, là bác sĩ, kiêm nhà văn Ngô Thế Vinh, tác giả " Vòng
Đai Xanh", và bác sĩ Nguyễn Mạnh. Duyên Anh dừng lại, nói chuyện với những
người này một lúc lâu.
Tôi ngạc nhiên, vì biết giữa Mai Thảo và Duyên Anh đã có những đụng chạm, chỉ
trích lẫn nhau trên báo chí, sách vở; sao bây giờ gặp nhau lại đứng nói chuyện,
như chưa hề có việc gì xảy ra.
Lúc chia tay, hai người còn hẹn hò ngày mai gặp nhau, cùng ăn nhậu. Mai Thảo dặn
Duyên Anh "ngày mai mang rượu lại, có món giả cầy đấy."
Đến cửa nhà hàng Ngân Đình, bên trong đông khách quá, chúng tôi phải đứng chờ.
Tôi nói chuyện gẫu với Duyên Anh. Tôi nói "Ông và Mai Thảo đụng chạm nhau
trên sách vở, tôi thấy ghê quá. Ở trường hợp tôi, nóng quá, thì thượng cẳng
tay, hạ cẳng chân, rồi bỏ qua, chứ viết vào sách vở làm chi, lưu xú vạn niên,
khó rửa lắm!"
Duyên Anh trả lời "Bọn chúng nó dựng chuyện, tấn công tôi, tôi phải tự vệ,
và trả đòn chứ? Tôi cũng biết như vậy là không phải, nên khi đến Mỹ, tôi đã bảo
nhà xuất bản Xuân Thu đục bỏ mấy đoạn ấy đi, nhưng nó nói sách đã gửi đi in ở
Đài Loan rồi, không sửa được"...
VTH: Ông nghĩ thế nào về lời giải thích ấy?
LQA: Tôi cho rằng đó là cách nói của nhà xuất bản thôi. Đối với họ, sách càng
chửi bới nhau, họ càng hốt bạc. Phương châm của họ là "sống chết mặc bay,
tiền thầy bỏ túi" thôi.
VTH: Xin ông kể tiếp. Đã đến đoạn mọi người vào trong nhà hàng rồi.
LQA: Vâng, tôi quên chưa kể là trước lúc bước vào Ngân Đình, tôi có đi ngang
qua tiệm phở gà Bolsa, thấy mấy thanh niên hướng dẫn trật tự cho đoàn biểu tình
ngồi trong đó. Tôi coi là thường tình thôi, không để ý gì. Đến khi ngồi vào chỗ
rồi, tôi linh tính có điều gì không lành, vì trước đó mấy tháng, trong một buổi
nói chuyện tại đại học San Francisco, do bác sĩ Bùi Duy Tâm tổ chức cho Duyên
Anh, ban tổ chức đã phải bảo vệ cho Duyên Anh lúc ra về. Do đó, tôi để Duyên
Anh ngồi sát tường, tôi ngồi phía ngoài, bên cạnh lối đi, đối diện là hai anh
em họa sĩ Trần Đình Thục.
Chúng tôi ăn xong lúc hơn 1 giờ chiều. Bước ra khỏi tiệm, hai anh em Trần Đình
Thục đi đầu, tôi và Duyên Anh đi sau.
Vừa ra khỏi cửa tiệm ăn, tôi gặp một nhóm 5, 6 thanh niên đã đứng chờ sẵn. Họ
chào tôi, tôi cũng vui vẻ gật đầu chào lại, rồi đi luôn. Tới sát mặt đường
Bolsa, Trần Đình Thục quay lại, dặn tôi đưa Duyên Anh đi chơi tiếp, rồi đến chiều,
đưa Duyên Anh trả lại nhà Thục. Tôi đồng ý.
Anh em Thục chia tay chúng tôi, đi được một quãng, tôi nghe tiếng chân chạy
"huỳnh huỵch" phía sau lưng. Hai thanh niên vượt lên, một người vỗ
vai Duyên Anh, để anh đứng lại. Tôi nghĩ người đó là độc giả của Duyên Anh, muốn
thăm hỏi gì đó, nên tôi cứ tiến bước, và chờ anh đi tiếp. Bỗng thanh niên thứ
hai trờ tới, dang tay lấy thế, đấm thật mạnh vào màng tang bên trái của Duyên
Anh; rồi thanh niên này đứng tấn, và móc tay trái một quả nữa vào mũi Duyên
Anh. Tôi thấy Duyên Anh từ từ té xuống như cây chuối đổ, không kịp la một tiếng
nào hết. Máu từ mũi anh bắt đầu chảy ra.
Phản ứng tự nhiên, tôi dậm chân, và hét lớn "Sao các cậu đánh người ta thế
này?" và kêu lên "Thục ơi, chúng nó đánh Duyên Anh!"
Trần Đình Thục nghe tôi la, bèn lật đật quay trở lại, cùng tôi đuổi theo tên
thanh niên đấm Duyên Anh. Tên này cắm đầu chạy thật nhanh, chúng tôi đuổi không
kịp. Sẵn có máy ảnh, Trần Đình Thục chụp lia lịa mấy tấm, nhưng chỉ chụp được
phía sau lưng tên đã đấm Duyên Anh, và một tấm khác, hình các thanh niên bỏ chạy,
tay còn cầm lá cờ vàng ba sọc đỏ bằng giấy, khổ cuốn vở. Khi thấy Duyên Anh bị
đấm hai quả, tôi cho là nhẹ thôi, nên cố xốc anh đứng lên. Nhưng Duyên Anh như
cây chuối đổ bật rễ, không đứng dậy được nữa. Tôi nhìn quanh, trong tư thế bảo
vệ, e rằng nhóm thanh niên quá khích có thể quay lại, dùng dao và súng ám hại
Duyên Anh. Lúc ấy, tôi chỉ lo bảo vệ Duyên Anh, không dám rời anh để đuổi theo
bọn thanh niên tháo chạy vào khu Bolsa Mini Mall.
VTH: Theo ông, cá nhân hay phe nhóm nào đã đứng đằng sau vụ hành hung này, và họ
nhắm đạt được mục đích gì?
LQA: Tôi nghĩ, đây chỉ là một hành động nông nổi, tức thời của nhóm thanh niên
quá khích. Rất có thể, trong lúc chúng tôi đang ngồi trong Ngân Đình, một người
nào đó thù ghét Duyên Anh, đã rỉ tai mấy thanh niên ấy, đại khái "có thằng
làm việc cho Việt Cộng từ Paris tới đó". Trong bối cảnh căm thù Cộng Sản
sôi sục hôm ấy, phản ứng của nhóm thanh niên cũng là tự nhiên thôi. Điều không
may, là Duyên Anh đã có mặt tại địa điểm ấy, ngay vào thời điểm đó. Tôi cho rằng,
nếu không phải Duyên Anh, mà là Nguyễn Tú A lai vãng khu Bolsa Mini Mall lúc ấy,
thì cũng đã bị hành hung rồi.
VTH: Ông có cho là Việt Cộng đứng đằng sau vụ này không?
LQA: Tôi thấy, dù Việt Cộng coi Duyên Anh là kẻ tử thù của họ, họ không trực tiếp
hành hung Duyên Anh hôm đó đâu. Chỉ là cảnh "quân ta đánh lầm quân
mình" thôi.
VTH: Nhưng ông có nghĩ là dù không trực tiếp hành hung Duyên Anh, Việt Cộng đã
tung tin bẩn về Duyên Anh, nhằm cô lập anh với những người Việt quốc gia chống
Cộng Sản không, đưa đến vụ hành hung ấy không?
LQA: Dĩ nhiên rồi. Ly gián kẻ thù, tạo mâu thuẫn cho kẻ thù đánh lẫn nhau, vẫn
là ngón nghề của Việt Cộng mà.
VTH: Theo ông, thì vì sao các cơ quan an ninh và điều tra Hoa Kỳ đã không thành
công trong việc tìm ra thủ phạm hành hung Duyên Anh?
LQA: Sau khi Duyên Anh bị hành hung, cơ quan an ninh Hoa Kỳ đã gặp tôi nhiều lần,
lần nào họ cũng đưa ra những cuốn album hình những người, mà tôi nghĩ, thuộc
thành phần bất hảo; và hỏi tôi có nhận ra kẻ nào đánh Duyên Anh không. Tôi cố gắng
gợi lại trí nhớ, nhưng không nhận ra được người nào cả. Tôi nghĩ, người đánh
Duyên Anh không phải thuộc thành phần bất hảo, chỉ là một người cực đoan về
phương diện chính trị thôi; vì bị khích động, mà hành động như thế thôi.
Ba tháng sau, tôi ghé lại cơ quan an ninh, hỏi họ đã điều tra đến đâu rồi. Người
đại diện cơ quan cho tôi biết, họ đã ngưng cuộc điều tra vì: Thứ nhất, cộng đồng
Việt Nam muốn quên chuyện này đi rồi, rất ít người bằng lòng hợp tác với họ. Thứ
nhì, nạn nhân Vũ Mộng Long đã kín đáo, và âm thầm về Pháp, nên nếu có bắt được
thủ phạm, cũng không có ai khởi tố vụ này cả. Họ bảo mọi chuyện tạm gác lại;
khi nào ông Vũ Mộng Long trở lại Mỹ, sẽ tính sau...
VTH: Ông có lần nói đến việc người ta đã từ chối, không giúp ông điện thoại, gọi
xe cấp cứu Duyên Anh. Xin ông cho biết chi tiết hơn được không?
LQA: Vâng. Khi tôi xốc và vực Duyên Anh vào nằm ở vỉa hè, trước cửa phòng quang
tuyến của bác sĩ Nguyễn Mạnh, cả khu phố lúc ấy đã náo động lên, vì cảnh người
hành hung người kinh khủng quá. Chắc chắn những người ngồi trong đó, đều phải
biết tin này rồi. Nhưng khi tôi lật đật kéo cửa phòng, nhờ cô thư ký bấm 911, gọi
cảnh sát và xe cứu thương tới, cô ta từ chối, và bảo tôi ra tìm điện thoại công
cộng mà kêu.
Duyên Anh nằm bất động ở vỉa hè, bên ngoài cửa phòng quang tuyến, mà không được
săn sóc gì cả, trong khoảng thời gian dài, có thể từ 20 phút đến nửa giờ sau,
xe cứu thương mới tới. Đây có thể là lý do khiến tình trạng thương tật của
Duyên Anh nặng nề thêm.
VTH: Ban nãy, ông có nói về hai ông bác sĩ đã cùng nhà văn Mai Thảo đứng nói
chuyện với nhà văn Duyên Anh, trước khi Duyên Anh và ông vào quán ăn. Theo ông,
vì sao họ đã ngồi yên trong văn phòng, không ra giúp đỡ hay ngó ngàng gì đến
Duyên Anh đang nằm gục bên ngoài?
LQA: Sau một lúc kiếm không ra điện thoại công cộng, Trần Đình Thục chạy vào
bên trong văn phòng, cầu cứu hai ông bác sĩ. Trần Đình Thục đã gặp hai ông bác
sĩ đang ngồi nói chuyện với nhau. Tại sao họ không bước ra bên ngoài, làm đúng
theo tinh thần "cứu nhân độ thế" của người lương y, tôi không thể hiểu
được. Tôi cố hiểu, mà không thể nào hiểu được, vì trước đó, chừng hơn một tiếng
đồng hồ, họ đã đứng nói chuyện vui vẻ với Duyên Anh và Mai Thảo.
VTH: Câu hỏi chót, ông nghĩ thế nào về sự ra đi vĩnh viễn của Duyên Anh? Ông có
kỷ niệm thân thiết nào với Duyên Anh không?
LQA: Là một trong những bạn thân của Duyên Anh từ thuở mới trôi dạt vào Nam,
lúc còn hàn vi làm bạn với nhau, tôi tự hào có người bạn văn nghiệp lừng lẫy
như anh. Duyên Anh qua đời là một mất mát lớn cho văn học Việt Nam. Riêng cá
nhân tôi, khi nghe tin Duyên Anh mất, tôi đã sững sờ, và bật khóc khi gọi điện
thoại, báo tin ngay cho những người bạn thân của anh, như Cao Thế Dung ở
Washington DC, Phạm Ngọc Quế ở Sacramento, Trần Minh Công ở Santa Ana... Kỷ niệm
thân thiết, thì tôi nhớ đến những lần lái xe 6 tiếng, từ Hòa Lan sang Paris
thăm Duyên Anh, khoảng thời gian 1983-1985, khi tôi còn ở Âu Châu. Đã hẹn sẵn
qua điện thoại, tôi thường chờ Duyên Anh ở trạm xe điện ngầm khu Paris quận 13.
Chúng tôi ăn uống, chuyện trò tâm sự với nhau nhiều lần ở quán Đào Viên. Chúng
tôi chia xẻ với nhau bao kỷ niệm, chuyện quá khứ, dự tính tương lai, nhắc đến
những bạn bè, như Dương Hải Trân, Vũ Thế Bắc, Phạm Ngọc Quế, Nguyễn Hữu Thúy,
Nguyễn Trọng Thủy,... kẻ còn người mất, trôi dạt khắp bốn phương trời.
Duyên Anh ra đi rồi, tôi thương tiếc lắm, và chỉ còn biết cố gắng làm xong một
vài việc anh đã giao phó lúc còn sống thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét