Tính đến 2017, Hội NVVN có hơn 1000 hội viên (trong đó có
nhiều liệt sỹ, Anh hùng LLVT và Anh hùng lao động thời kỳ Đổi mới). Từ năm
1996 đến 2017, đã có 40 nhà văn nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT, 113 nhà
văn nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT. Không phải vô cớ mà trong cuộc gặp gỡ
và làm việc với lãnh đạo Ủy ban Trung ương các Hội LHVHNT Việt Nam (9-2017),
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định Đảng và Nhà nước luôn coi trọng
và đề cao vai trò của VHNT trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Vì thế Hội
LHVHNTVN (trong đó có Hội NVVN) luôn luôn là một Hội “Chính trị - xã hội -
nghề nghiệp” (mặc dù Luật về Hội chưa được Quốc hội thông qua). Cùng với sự
công nhận này là sự hỗ trợ tài chính thích đáng và kịp thời cho các hoạt động
của Hội LHVHNTVN và Hội NVVN.
- 60 năm Tạp chí Văn nghệ Quân đội xuất bản số đầu tiên (1957-2017)
Văn nghệ Quân đội là một địa chỉ văn học có uy tín ở Việt Nam 60 năm qua. Từ
ngôi nhà số 4 phố Lý Nam Đế, Hà Nội đã nuôi dưỡng nhiều tài năng văn chương
nước nhà như Thanh Tịnh, Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Hồ Phương, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Thi, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Nguyễn Trọng Oánh, Dũng Hà, Phạm Ngọc Cảnh,
Xuân Thiều, Nam Hà, Thu Bồn, Vương Trọng, Hồng Diệu, Lê Thành Nghị, Nguyễn
Trí Huân, Chu Lai, Khuất quang Thụy, Trần Đăng Khoa,... Ngày trước người ta gọi
vui đây là “Văn đội quân Nghệ” (nhiều nhà văn quê xứ Nghệ). Lớp nhà văn mới
bây giờ thì không còn “quân Nghệ” nữa. Nhưng bù lại đã có một lớp “tre già
măng mọc” từ Nguyễn Bình Phương, Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn Đình Tú, Đỗ Bích Thúy,
Phùng văn Khai, Phạm Duy Nghĩa đến Hoàng Đăng Khoa, Nguyễn Thanh Tâm, Đinh
Phương,...Văn nghệ Quân đội là một “bà đỡ” mát tay, đặc biệt đã nâng niu,
nâng cánh cho nhiều thế hệ nhà văn trẻ tài năng, đặc biệt là các nhà văn nữ từ
Lê Minh Khuê, Dạ Ngân, Thùy Linh, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Võ
Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Phước, Đàm Quỳnh Ngọc, Như Bình, Trần Thanh Hà,
Kiều Bích Hậu, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Nguyễn Thị Kim Hòa, Vũ Thanh Lịch, Tống
Phú Sa,...
- Giải thưởng Hồ Chí Minh và Nhà nước về VHNT 2017 (Hội Nhà
văn Việt Nam vinh dự có 4 nhà văn nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh và 17 nhà văn
nhận Giải thưởng Nhà nước)
Sau đợt trao giải thưởng này nhiều ý kiến của các văn nghệ
sỹ, các tổ chức VHNT trong cả nước có kiến nghị với các cơ quan chức năng cần
bổ sung, sửa đổi quy chế xét giải cho phù hợp thực tiễn (như quy chế hiện nay
có rất nhiều điểm bất hợp lý). Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, Giải thưởng lớn
tầm quốc gia ghi nhận đóng góp to lớn của VHNT nói chung, văn học nói riêng,
đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và Mỹ, xứng đáng đứng
vào hàng ngũ tiên phong những nền văn học chống đế quốc. Từ Đổi mới (1986) đến
nay, văn học đã cố gắng đồng hành cùng nhân dân trong sự nghiệp kiến quốc và
mở mang quan hệ quốc tế trong bối cảnh một thế giới phẳng. Nhân dịp này nhà
xuất bản Quân đội nhân dân đã ấn hành bộ sách Nhà văn Giải thưởng Hồ Chí Minh
(2 tập) do nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Yên biên soạn. Bốn mươi (40) nhà văn đoạt
Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT (từ 1996 đến 2017) có mặt đầy đủ trong bộ
sách này. Tuy nhiên đây chỉ mới là sách tham khảo bước đầu, cần có một công
trình công phu đầy đủ và sâu sắc hơn về thành tựu văn chương dân tộc thời hiện
đại khúc xạ qua nhà văn.
- Cuộc thi truyện ngắn 2015-2017 do báo Văn nghệ tổ chức kết
thúc
Cuộc thi kéo dài hơn hai năm (từ tháng 4-2015 đến tháng
11-2017) với hơn 3000 tác phẩm gửi dự thi. Báo Văn nghệ đã đăng tải hơn 400
truyện (thử so sánh với cuộc thi truyện ngắn 2011-2013 của Văn nghệ, chỉ có
hơn 2000 tác phẩm gửi dự và đăng tải trên báo hơn 300 truyện). Nhà xuất bản
Thanh niên từ đầu đã đồng hành với cuộc thi văn chương đặc sắc này. Trong một
động hướng nghề nghiệp, nhà xuất bản Thanh niên đã phối hợp với báo Văn nghệ
tuyển chọn và in 2 tập Tuyển truyện ngắn hay dự thi báo Văn nghệ 2015-2017 (2
tập, 2016-2017), gồm 44 truyện chọn lọc có chất lượng. Truyện ngắn luôn được
coi là “đặc sản” văn chương Việt Nam thế kỷ XX, thậm chí được coi là “mặt tiền”
của văn học Đổi mới từ 1986 đến nay. Cuộc trao giải sẽ vào dịp kỷ niệm 70 năm
Báo Văn nghệ ra số đầu tiên (1948-2018). Cuộc thi cho thấy sự đồng hành của
nhiều thế hệ cầm bút yêu thích sáng tác truyện ngắn. Đọc truyện ngắn dự thi lần
này tin hơn vào tiền đồ của thể loại “nhỏ” nhưng công năng nghệ thuật lớn.
- Tạp chí Văn nghệ Quân đội mở Trại nghiên cứu, lý luận,
phê bình văn học lần thứ nhất (tháng 5- 2017, tại Đại Lải, Vĩnh Phúc).
Tháng 8- 2012, Hội Nhà văn Việt Nam mở trại nghiên cứu lý
luận phê bình văn học lần thứ nhất (tại Cửa Lò, Nghệ An). Đây được coi là sự
kiện văn chương tính từ ngày thành lập Hội. Hoạt động nghề nghiệp của tạp chí
VNQĐ, một lần nữa chứng tỏ sự quan tâm của lãnh đạo văn nghệ đối với công tác
NCLLPB văn học nước nhà. Bây giờ, người ta không còn coi phê bình là “cái
roi” để quất hay phê bình là hướng dẫn sáng tác nữa. Phê bình đi giữa đôi bờ
khoa học và nghệ thuật. Nó đồng hành với sáng tác. Mười lăm cây bút phê bình
(chủ yếu từ Thừa Thiên Huế trở ra) được mời dự trại. Họ là những tên tuổi
quen biết với giới sáng tác: Bùi Việt Thắng, Tôn Phương Lan, Bích Thu, Lý
Hoài Thu, Lê Huy Bắc, Văn Giá, Mai Anh Tuấn, Nguyễn Thanh Tâm, Đoàn Minh Tâm,
Phan Tuấn Anh, Thái Phan Vàng Anh, Hoàng Thụy Anh, Đỗ Hải Ninh, Lê Hương Thủy,
Đặng Thái Hà. Sản phẩm tham gia trại sau đó được đăng tải trên các báo chí
Văn nghệ, Văn nghệ Quân đội, Nghiên cứu văn học, Lý luận phê bình VHNT,...
- Hội nghị lần thứ nhất “Nhà văn Việt Nam với sứ mệnh đại
đoàn kết dân tộc” do Hội NVVN tổ chức
Hội nghị diễn ra từ ngày 20 đến 24 tháng 10-2017, tại Hà Nội
và một số địa phương như Phú Thọ, Quảng Ninh. Hơn 100 nhà văn tham dự (số nhà
văn ở nước ngoài về hơn gần 30). Hội nghị này diễn ra, theo ý kiến của nhiều
người, là chậm, vì đã 42 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Nhưng chậm còn hơn
không, như cổ nhân vẫn dạy. Dư luận chung đánh giá cuộc gặp mặt này thành
công trên phương diện văn hóa (văn chương là nhịp cầu văn hóa, hòa bình và hữu
nghị). Cũng còn một vài sai sót trong quá trình tổ chức sự kiện. Nhưng trên
tinh thần cầu thị thì thấy chỉ có không làm gì mới không sai sót! Thôi thì
“có hoa mừng hoa có nụ mừng nụ” như cha ông nói. Các nhà văn Việt Nam sinh sống
ở nước ngoài trong dịp trở về Đất Mẹ đã rất vui mừng trước khung cảnh đổi
mới của quê hương.
- Hội đồng LLPBVHNTTW tổ chức Hội thảo quốc gia “Các xu hướng
vận động của VHNT Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển”
Hội thảo lần này của Hội đồng LLVHNTTU đi thẳng vào “định
hướng phát triển” của VHNT nước nhà. Bảy mươi tham luận đã nói lên tính chất
phong phú và phức tạp của nội dung thảo luận. Rất nhiều ý kiến thẳng thắn,
nhiều đề xuất công tâm, nhiều sáng kiến đáng tham khảo đều nhằm hướng tới mục
tiêu làm cho VHNT Việt Nam “mở mày mở mặt” được với thế giới. Một điểm rất
đáng quan tâm là: các tham luận đều tập trung chỉ ra tình trạng yếu kém của
sáng tác VHNT đang quay lưng, xa rời đời sống của nhân dân, tình trạng “lai
căng”, học đòi những điều thế giới đã bỏ qua hàng nửa thế kỷ. Tinh thần dân tộc
cần kết hợp khoa học với tinh thần quốc tế.
- Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức Hội thảo “Đào tạo
tài năng sáng tác văn học” (Đề án được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch phê
duyệt năm 2017)
Đây là sự kiện lớn, theo quan điểm của chúng tôi, thể hiện
sự quan tâm sát sao của lãnh đạo văn hóa, văn nghệ (trong đó có văn học). Trường
Viết văn Nguyễn Du được thành lập từ năm 1979, đã trải qua thăng trầm, đến
nay nép mình vào trong một khoa có tên “Viết văn – Báo chí” (thuộc Trường Đại
học Văn hóa Hà Nội). Có những khóa gần đây chỉ có 9 sinh viên. Đã có ý kiến cực
đoan nên “xóa tên” một ngôi trường, một khoa có lịch sử 38 năm. Ở Liên -xô
trước đây và Nga hiện nay vẫn tồn tại Trường Viết văn Gorky (thành lập từ năm
1933, đến 1936 thì mang tên văn hào Nga). Ở CHDC Đức trước đây có trường Viết
văn mang tên Bê-se. Ở Hoa Kỳ hiện có khoảng 200 địa chỉ đào tạo viết văn thường
đóng đô ở các trường đại học. Một đất nước có hơn 90 triệu dân như Việt Nam,
có truyền thống văn hiến - văn minh - văn chương cớ sao lại không có một địa
chỉ đào tạo tài năng sáng tác văn chương (?!) Bây giờ thì người ta không còn
tranh luận giữ hay bỏ cái địa chỉ này. Bây giờ chỉ bàn chuyện tuyển sinh, đào
tạo cho tốt để ươm mầm, gây giống tài năng mà thôi.
- Viện Văn học (Viện Hàn lâm KHXHVN) tổ chức Hội thảo khoa
học quốc tế “Phê bình sinh thái. Tiếng nói bản địa - Tiếng nói toàn cầu”
Không thể tụt hậu nhưng cũng không thể thấy thiên hạ làm gì
thì ta cũng làm. Trong Hội thảo, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp trong phát biểu của
mình cho rằng mọi lý lẽ của giới lý luận phê bình với ông là “hoang đường”.
Phê bình sinh thái với ông càng hoang đường. Mặc dù có kỷ yếu dày tới cả
nghìn trang nhưng có lẽ chờ nó thấm nhuần vào thực tiễn phê bình thì còn lâu
dài và khó khăn. Nhiều ý kiến cho rằng chỉ cần phê bình hay, còn nó là “sinh
thái”, “nữ quyền”, “phân tâm”,...gì đi nữa thì cũng chỉ nhằm, như Hoài Thanh
tâm đắc “Nghệ thuật đi tìm cái đẹp trong đời sống. Phê bình đi tìm cái đẹp
tromg nghệ thuật”.
- Đại hội Hội Nhà văn Hà Nội nhiệm kỳ XII thành công
tốt đẹp
Sau gần hai năm trì hoãn, Đại hội Hội Nhà văn Hà Nội (nhiệm
kỳ XII, 2015-2020) đã thành công tốt đẹp (8-2017). Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ
được bầu làm Chủ tịch Hội NVHN. Hội NVHN hiện có hơn 600 hội viên, trong đó
có hơn 200 là hội viên Hội NVVN. Ban Chấp hành mới gồm 8 nhà văn có tên tuổi
và thành tựu sáng tác: Nguyễn Thị Thu Huệ (Chủ tịch), Trần Quang Quý, Nguyễn
Việt Chiến, Nguyễn Sĩ Đại (Phó chủ tịch), Bùi Việt Mỹ, Y Ban, Trần Gia Thái,
Hữu Việt. Hoạt động đầu tiên của Hội NVHN được văn giới và xã hội quan tâm là
Giải thưởng Hội NVHN 2017 chỉ trao cho 3 tác phẩm (văn xuôi, LLPB, dịch thuật)
và 1 Tặng thưởng tác phẩm đầu tay. Thơ mất mùa. Cũng đúng thôi. Nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều nộp đơn và được xét kết nạp vào Hội NVHN. Một sự kiện vui của Hội.
- Hội nghị Tổng kết công tác văn học năm 2017 của Hội NVVN
Ngày 28-11-2017, Hội nghị công tác văn học 2017 của Hội
NVVN được tổ chức tại Hà Nội. Trong Báo cáo tổng kết, nhà thơ Hữu Thỉnh (Chủ
tịch Hội NVVN) đã nhận định: trong nửa nhiệm kỳ hoạt động của Hội, công cuộc
đổi mới văn chương tiếp tục duy trì và phát triển (đường biên văn học được mở
rộng, không khí hoạt động nghề nghiệp sôi nổi, sự đa dạng của văn chương đang
dần rõ nét, tập hợp được nhiều nhân tố mới). Tuy nhiên hoạt động văn chương
cũng đang nằm trong bối cảnh khó khăn chung (Luật về Hội sẽ ra tác động như
thế nào đến các Hội, cơ chế thị trường đang xiết chặt hoạt động sáng tác, hội
nhập vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn,...). Với cái nhìn khoa học, lạc
quan, Báo cáo tổng kết của BCH cũng chỉ ra: văn chương đang tiếp tục
phát triển lành mạnh, xu hướng dân tộc yêu nước được đề cao, xu hướng trở về
quá khứ được quan tâm nhằm tìm bài học cho hiện tại, một thế hệ mới đang hình
thành và có triển vọng.
Trong 10 sự kiện trên, theo quan điểm của chúng tôi thì, Hội
nghị lần thứ nhất “Nhà văn Việt Nam với sứ mệnh đại đoàn kết dân tộc”, được
coi là đáng quan tâm nhất. Vì sao? Vì tinh thần đoàn kết rất quan trọng, nó cố
kết hơn 90 triệu người đều là con Lạc cháu Hồng, dù ở trong nước hay ngoài nước.
Hồ Chủ tịch đã dạy “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Thành công, thành công,
đại thành công!”. Tuy 42 năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất chúng ta
mới có động thái này. Nhưng như cổ nhân nói, chậm còn hơn không. Hội thảo của
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội gây men niềm tin tưởng cho văn giới và xã hội về
đường hướng và tương lai lâu dài đào tạo nguồn lực sáng tác văn chương. Sự kiện
này một lần nữa củng cố vị thế của VHNT nói chung, văn học nói riêng, luôn là
những hoạt động của một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp xứng đáng được
Đảng và Nhà nước quan tâm, hỗ trợ kịp thời.
SÁNG TÁC:
Văn xuôi vẫn là khu vực thu hút bạn đọc nhiều hơn cả. Tiểu
thuyết vẫn là thể loại vượt trội. Có thể kể ra một số cuốn được dư luận quan
tâm như Đêm núm sen của Trần Dần, Cuộc vuông tròn của Nguyễn Bắc Sơn, Kiếp
người (Tập 2) của Hữu Ước, Mối chúa của Đãng Khấu (Tạ Duy Anh), Gió xanh của
Chu Lai, Kể xong rồi đi của Nguyễn Bình Phương, Mỹ nhân nơi đồng cỏ của Lê
Hoài Nam, Chim bằng và nghé hoa của của Bùi Việt Sĩ, Sáu ngày của Tô Hải Vân,
Con chim Joong bay từ A đến J của Đỗ Tiến Thụy, Những chiếc mặt nạ của Đỗ Kim
Cuông, Tình không biên giới của Kim Quyên, Người trên đảo vắng của Dương
thiên Lý, Triền dâu xanh thắm của Châu La Việt, Đất khát của Trác Diễm, Bạn
bè một thuở của Phạm Quang Long, Núi Mẹ của Nguyễn Đức Nguyên, Chuyện tình
Phja Bjooc của Bùi Thị Như Lan, Miền sáng tối của Dương Thanh Biểu, Động thổ
của Lê Ngọc Minh, Hỗn danh của Nguyễn Văn Học, Khúc quanh định mệnh của Phạm
Ngọc Chiểu,...
Những tập truyện ngắn có nhiều độc giả: Tuyển truyện
ngắn hay dự thi báo Văn nghệ 2015-2017, Chuyến tàu sông cuối cùng của Hà Phạm
Phú, Người yêu dấu và những truyện khác của Dạ Ngân, Ngày bình thường của chiến
tranh của Từ Nguyên Tĩnh, Trần trụi con người của Đỗ Trọng Khơi, Hoa hồng
không ở cùng mắm tôm của Kiều Bích Hậu, Con chim phượng cuối cùng của Nguyễn
Thị Kim Hòa, Một dải ngân hà của Nguyễn Thị Bích Vượng, Zero của Phạm Thị
Bích Thủy, Sương trắng của Lê Nguyễn Quốc Việt, Người quê của Y Mùi,...
Một số tập ký được đánh giá cao: Ở đâu cũng có người Việt của
Nguyễn Đắc Như, Hồi ức lính của Vũ Công Chiến, Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn,
Ký ức khoai gieo của Mai Nam Thắng, Tùy bút của Vũ Bình Lục, Giọt người ở mấy
vũng mây của Hoàng Việt Hằng, Vị tướng có duyên với con số 7 (Nguyễn Huy Hiệu
kể, Lục Hường ghi), Nhà sau lưng phố của Hải Thanh. Đặc biệt, phải nhắc đến Đừng
kể tên tôi của Phan Thúy Hà, một tác phẩm có thể xếp vào kiểu văn học “phi hư
cấu”, văn học tư liệu (non-ficition) đang rất có triển vọng trên văn đàn thế
giới và Việt Nam. Một liên hệ tạt ngang – năm 2015 giải Nobel văn chương trao
cho Chiến tranh không mang một khuôn mặt nữ của nhà văn Belarus Xvetlana
Alexievich (Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hà Nội, 2016).
Văn xuôi vẫn được coi là “nền móng” hay “mặt tiền” của văn
học Đổi mới từ 1986 đến nay. Nhưng so với 10 năm đầu sau Đổi mới thì, hiện
nay văn xuôi không còn trường lực như trước. Vẫn có tác phẩm đọc được, nhưng
thiếu tác phẩm tạo nên những đổi thay quan trọng trong tư tưởng và tình cảm của
bạn đọc, đánh dấu bước chuyển của văn chương kiểu như Thời xa vắng (1986) của
Lê Lựu.
Thơ: Một hiện tượng đáng quan tâm - Giải thưởng Hội Nhà văn
Hà Nội 2017 không có giải thơ.
Lý do như Thông báo của BCH Hội Nhà văn Hà Nội: “Thơ dự Giải
thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội trong hai năm qua có vẻ bình lặng hơn, mặc dù đội
ngũ sáng tác thơ luôn áp đảo các nhà văn của các thể loại khác”. Tình trạng
“bình lặng” này của thơ không chỉ đúng với khu vực Hà Nội, mà cả trên phạm vi
toàn quốc. Không phải không có những tập thơ đọc được. Nhưng chỉ ở mức trung
bình khá. Thơ hiện thời chưa bứt phá ngoạn mục như thời kỳ đầu Đổi mới. Không
ít nhà thơ hôm nay chỉ mới quan tâm đi tìm những cách tân thuần túy hình thức.
Hình như ngày nay các ism (Chủ nghĩa hậu hiện đại, chẳng hạn) đang ám ảnh người
làm thơ. Sự cắt đứt, đôi khi thậm chí đoạn tuyệt với truyền thống, nhất là
truyền thống folklore, đã khiến các nhà thơ rơi vào thế chênh vênh, đứt gãy
khi cố bắt chước thế giới (cũ người người mới ta). Viết về thơ hiện thời, cụ
thể là thơ 2017, như thế hẳn có người cho rằng chúng tôi bi quan và cực đoan
(!?). Tuy nhiên, nếu cần, vẫn có thể chọn 10 tập thơ khá năm 2017: Cây xanh
ngoài lời của Hoàng Vũ Thuật, Phía sau tưởng tượng của Mã Giang Lân, Đa thanh
và phản biện của Vương Trọng, Những dấu ấn chưa qua của Trần Ninh Hồ, Dắt
tháng Mười về quê của Lê Huy Mậu, Người đàn bà sinh ra từ mưa của Hoàng Thụy
Anh, Ballad đêm của Ngô Đức Hành, Thơ Nguyễn Tùng Linh, Di chữ của Nguyễn Thị
Thúy Hạnh, Đời đá (Trường ca) của Phạm Thúy Nga (Thy Nguyên).
Nghiên cứu, Lý luận, phê bình: Vẫn mang tiếng “thiếu và yếu”.
Bởi vì nếu nhà văn đang ngày càng xa rời đời sống thực tiễn
thì NCLLPB ngày càng xa rời đời sống văn chương. Trong số hơn 1000 nhà văn Việt
Nam hiện nay có gần 80 hội viên chuyên ngành NCLLPB. Nhưng họ dường như “mất
tích”. Một số thì cố thủ trong cái gọi là “nhóm tinh hoa”. Nghĩa là họ chỉ
quan tâm tới những “đỉnh văn chương”, còn lại những gì thuộc về đại chúng, với
họ dường như không mấy ý nghĩa. Một nhóm khác, theo cách gọi thông thường,
thuộc về “phê bình phong trào” (tính chất nghiệp dư). Những cách tác nghiệp
này đều bất cập.
Thực ra chỉ có NCLLPB hay hoặc không hay! Nếu theo tinh thần
“đãi cát tìm vàng” thì cũng có thể tìm thấy một số tác phẩm khá trong năm:
Cõi học và người thầy (Phê bình – chân dung) của Hà Minh Đức, Bóng người
trong bóng núi (Phê bình – chân dung) của Lê Thành Nghị, Vì ai ta mãi phong
trần (Phê bình – chân dung) của Vũ Từ Trang, Chuyện thơ (Phê bình) của Hồng
Diệu, Trang sách mạch đời (Phê bình – đối thoại) của Phạm Khải, Phiêu lưu chữ
(Phê bình) của Hoàng Đăng Khoa, Lý luận, phê bình văn học - Một góc nhìn mới
(Tiểu luận - phê bình) của Cao Hồng, Đến với thơ đương đại (Tiểu luận – phê
bình) của Hà Quảng, Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI - Lạ hóa một cuộc
chơi (Nghiên cứu) của Thái Phan Vàng Anh, Cách tân nghệ thuật văn học phương
Tây (Nghiên cứu) của Phùng Văn Tửu, Ba tiếng cười trong văn học Việt Nam:
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến (Nghiên cứu) của Nguyễn Thanh
Tú, Rừng khô suối cạn biển độc và văn chương (Phê bình sinh thái) của Nguyễn
Thị Tịnh Thy, Giới hạn của những huyền thoại (Phê bình) của Nguyễn Thanh tâm.
Văn học dịch:
Ngoài tác phẩm đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2017 (tiểu
thuyết Búp bê của nhà văn Ba Lan Boleslaw Prus, Nguyễn Chí Thuật chuyển ngữ từ
nguyên bản), nhìn chung sách dịch đang bá chủ thị trường sách. Nhưng nhìn kỹ
thì thấy tình trạng không kiểm soát được đang diễn ra khó bề khắc phục
(đáng nói là không riêng gì trong lĩnh vực này, nhìn rộng ra trong tất cả các
lĩnh vực khác, “cũng rứa”). Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng Mười Nga
(1917-2017), nhà xuất bản Thông tin – Truyền thông ấn hành tập thơ "Đợi
anh về" của hai dịch giả Nguyễn Huy Hoàng và Nguyễn Văn Minh (hai người
đều đã sống ở nước Nga trên ¼ thế kỷ, đã thấm nhuần văn hóa Nga). Tập thơ tuyển
dịch sáng tác của các nhà văn Nga về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại
(1941-1945) chống sự xâm lăng của phát xít Đức. Chỉ trong vòng bốn năm, nhân
dân Nga đã chịu tổn thất hy sinh vô cùng lớn lao (27 triệu người mất, trong
đó có 1/3 là chiến sĩ Hồng quân). Mỗi bài thơ được viết ra không phải bằng cảm
xúc đơn thuần, mà là kết tụ mồ hôi, nước mắt và máu của Nhân Dân vĩ đại. Nhân
Dân muôn đời đúng như nhà thơ Hungary S. Petofi đã viết: “Gươm một tay/Cày một
tay/Đời nhân dân muôn nỗi đắng cay/ Máu cứ đổ/ Mồ hôi cứ đổ” (Nhân Dân). Tập
thơ đã cung cấp cho các nhà văn Việt Nam những bài học kinh nghiệm nghệ thuật
quý báu khi viết về chiến tranh. Chiến tranh không phải trò đùa. Máu người
không phải nước lã. Người ta sinh ra không là lính. Những người sống và những
người chết lên tiếng đòi nhà văn viết đúng lương tri. Viết về chiến tranh là
món nợ tinh thần của nhà văn, một món “nợ non sông”.
RÀO CẢN CẦN VƯỢT
Nói văn chương vẫn chưa thực sự phát triển bền vững
thì nguyên nhân chủ yếu thuộc về chủ quan sáng tác - văn hóa nhà văn chưa đủ
tầm đáp ứng với nhiệm vụ nghệ thuật sáng tạo tác phẩm. Phải thẳng thắn thừa
nhận rằng, chúng ta vẫn có nhiều người viết văn hơn là nhà văn. Người viết sớm
thỏa mãn với những gì viết ra mà không tự ý thức được sản phẩm tinh thần của
mình mới chỉ được chấp nhận theo tâm thế nâng đỡ hào hiệp của công chúng. Và
một rào cản khác chính là sự “già hóa” đội ngũ. Vấn đề thế hệ kế tục đang đặt
ra cấp bách như một chiến lược phát triển văn chương. “Đổi gác” hay không còn
là một vấn đề cần bàn luận nghiêm túc trên tinh thần khoa học và thực tiễn.
Chúng ta vẫn đang duy trì một nền văn chương nặng về nghiệp dư, yếu tính
chuyên nghiệp. Rất nhiều cơ hội đồng thời thách thức đặt ra cho nhà văn. Nếu
nhà văn không phải là người nặng nợ với cuộc đời này, nếu nhà văn thiếu vốn
liếng văn hóa thì rõ ràng chúng ta sẽ giẫm chân tại chỗ không chỉ một mà là
hàng chục năm. Kế tục truyền thống văn hóa dân tộc đồng thời hội nhập tỉnh
táo để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đó là con đường sáng phía trước của
văn chương nước nhà.
P/S: Bài viết của chúng tôi hoàn thành khi Hội Nhà
văn Việt Nam chưa công bố Giải thưởng thường niên. Có thể năm nay “không có
thơ”, “không có văn xuôi” đăng quang. Nhưng nên xem đấy là chuyện bình
thường. Không nên đồng thanh kêu to “Ngạc nhiên chưa?”.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét