Một sắc hoa ban * - Đa sắc tâm hồn
Đọc Một sắc hoa ban, tập thơ
của Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Nguyễn Anh Tuấn có các bút danh Mai An Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Yên Thế. Tốt
nghiệp khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, anh lên dạy học ở Tây Bắc, gắn bó đời
trai trẻ với vùng cao nghèo khó Sơn La ngót chục năm. Trở về quê nhà Hà Nội,
anh được biết đến là một đạo diễn điện ảnh & truyền hình có năng lực sáng tạo.
Từ tuổi ngoài hai mươi trẻ trung và nhiều phiêu bạt, gian khổ, anh đã làm thơ,
viết văn. Anh trước tiên là một nhà văn với nhiều tác phẩm văn xuôi đáng được
chú ý, ngoài kịch bản phim là tiểu thuyết, truyện ngắn… Và với thơ, tác giả này
đang khiến nhiều đồng nghiệp và độc giả nói chung thật sự ngỡ ngàng (1).
Với Vài lời tự bạch, Mai An Nguyễn Anh Tuấn (MANAT) đã giúp độc
giả hiểu thêm về một thế giới khác của anh: “Sau khi đã đi hết tuổi trẻ của
mình/ đi gần hết những đắng cay, tủi hận, khát thèm, mơ mộng/ để đến với một bản
hoang vắng bên sông Đà/ sắp chìm trong nước lạnh”, tôi đã có trong tài sản chữ
nghĩa hơn năm trăm bài thơ. Nhưng xét cho cùng, đó chỉ là những cuộc “chơi thơ”
riêng tư, và tôi đã coi thơ là cái gốc của việc làm phim mình theo đuổi. Ngoài
ra, những gì chưa/hoặc không đưa được vào phim ảnh, tôi dốc cả vào văn xuôi và
thơ - giống một sự giải tỏa cần thiết của nội tâm… Trước sự động viên của một số
người anh, người bạn thân thiết, tôi quyết định lựa chọn để in tập thơ này, tập
thơ riêng đầu tiên và cũng là duy nhất…”
Mấy dòng tâm sự của MANAT cho thấy rằng nhà giáo, nhà đạo diễn
kiêm biên kịch điện ảnh này không chỉ say mê và có trách nhiệm cao đối với các
nghề nghiệp anh đã trải nghiệm mà Thơ cũng choán phần lớn tâm hồn, sức lực, thời
gian của anh. Thơ là cội rễ trong đời sống tinh thần của anh.
Tập thơ Một sắc hoa ban chỉ chọn ra 111 bài thơ và 1 trường
ca từ tài sản lớn 500 bài thơ của tác giả. Sách 230 trang, xếp bài kín hết, nếu
để thoáng như cách trình bày của sách thơ hiện nay, thì tập thơ này phải có độ
dày khoảng từ 500 đến 550 trang. Năm phần thơ có thể soạn in ra thành 3 tập
riêng.
1. Xúc cảm đa phức
MANAT ngợi ca hoa ban và con người vùng cao Tây Bắc bằng một
giọng thơ thương cảm, một nỗi buồn tiếc ẩn đau mà trong trẻo, lắng đằm. Cái đẹp
của hoa ban Tây Bắc là cái đẹp cao cả nhưng buồn đến cháy lòng. Khói nương quẩn
quanh nỗi buồn vạn thuở (Điều chưa kịp nói). Anh nhiều yêu mà ít vui. Tự giằng
xé nội tâm nhưng kìm nén được xúc cảm, do vậy nhà thơ đã tránh được nhược điểm
thật thà, quá lời hoặc bế tắc. Thơ anh chủ yếu là thơ truyền thống nhưng không
cũ, không đơn điệu, bằng phẳng. Thơ anh có niềm vui, hy vọng, mơ ước, tất cả đặt
vào thiên nhiên, con người Tây Bắc nhưng đan xen và bao trùm - cứ như là mâu
thuẫn - vẫn có những nỗi niềm gan ruột theo hướng ngược lại, bắt buộc phải bộc
bạch, chúng trào dâng, chiếm lĩnh độc giả. Với dân bản, với học trò, với người
anh yêu, với cộng đồng xã hội khi vào vai một công dân, với gia đình… MANAT đều
trải lòng.
Như đã nói, đây là cuốn sách thơ kép. Bởi vậy, hiện thực
khách quan mà chủ thể hướng đến không chỉ là nỗi niềm về Tây Bắc - Sơn La - hoa
ban, dẫu rằng xúc cảm về cái đẹp - mà hoa ban là một biểu tượng tiêu biểu - đã
hướng dẫn và chi phối những xúc cảm khác. Trước tiên, phải nói đến cái đẹp là
hoa - hoa ban, cái đẹp của con người, dân bản vùng cao bình thường nhất, kể cả
những người miền xuôi lên đây, như chính tác giả. Nhưng cái đẹp buồn. Như có tiếng
nức nở, giọt nước mắt chợt ẩn chợt hiện đằng sau những trang thơ:
Tuổi trẻ anh đi qua những bản nghèo/ Phố huyện buồn ngủ quên
trong mây núi/ Nơi có những cuộc chia ly vồi vội/ Giọt lệ nào hóa đá giữa hang
sâu (Lời hẹn hò với núi). Thứ cây nào như ban, quẩn quanh gai góc/ Từ
lưng vực sâu dâng tới ngang đèo/ Ta ngỡ tưởng vươn tay hái được/ Mà ngàn năm
còn đứng giữa cheo leo…(…). Không chỉ một lần anh khóc giữa mênh mông/ Ngày đốt
nương mịt mù cành hoa ban cháy khét/ Không chỉ một lần anh xót xa thảng thốt/
Trước vệt ban rừng biến mất giữa thung xa…(Khúc hát hoa ban - Trường ca).
Cái đẹp là nhân dân, Tổ quốc, thể hiện đậm đặc ở phần III. Tại
đây, nội dung hiện thực được trải rộng ra nhiều hướng. Nhà thơ có một góc nhìn
Trung Quốc, phẫn nộ với Tội ác hồn nhiên, đã sống những Đêm mưa Hà Nội, từng
Ghi ở chùa Tây Phương, đến Thăm Côn Sơn, mở lòng Giữa thành phố phương Nam, xót
thương lắm Em bé miền Trung, ngược về Xứ Lạng, v.v. Anh nặng lòng trăn trở, xót
thương với tất cả những gì anh đang quan tâm nhất trên đất nước này: Dẫu
chúng mình kỷ niệm thật thiêng liêng/ Em đừng quên những ngôi nhà đổ sụp/ Máu
đang chảy dọc nẻo đường đói khát/ Anh làm thơ như một kẻ vô tình. (Lại một
mùa mưa Tây Bắc).
Thêm nữa: gia đình thân yêu. MANAT viết về bà, bố, mẹ, con và
những người thân khác rất xúc động. Chiêm ngưỡng hình ảnh người bà trong lòng
người cháu sẽ thấy hình ảnh người cháu trong cuộc đời người bà: Cả cuộc đời
sống thanh bạch, mỏi mòn/ Bà giữ trọn cả tình thương nhân hậu/ Vui, giận, lo,
buồn... mắt già nhìn đau đáu/ Bao thăng trầm như một bóng mây qua... (...) Có
những phút giây nhìn tận đáy tâm hồn/ cháu thấm thía quý thương mỗi ngày bà
đang sống/ cháu thấy ngợp trước lòng bà lồng lộng/ Thêm một vì sao đã tắt giữa
trời khuya.
Đối với không ít tác giả, khi viết về vùng cao, người ta hay
nói nhiều đến phong tục - tập quán, tâm lý, nếp sinh hoạt của các dân tộc thiểu
số. Thêm nữa, ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ, lời nói của dân bản, cũng là
một phần của đời sống muôn vẻ, lạ lẫm, lý thú mà người đọc dễ bị hút hồn giữa
các trang văn. Đọc thơ MANAT- một tác giả đã sống gần chục năm ở Tây Bắc, rất
yêu, rất am hiểu và viết rất hay về vùng đất này trong văn xuôi, lại không thấy
như thế. Đọc thơ anh, độc giả được giao cảm với tâm hồn anh để đến với hồn Tây
Bắc. Nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy đã rất nhạy cảm và tinh tế khi đọc thơ MANAT.
Anh lưu ý đến tâm hồn thơ của một tác giả là người em kết nghĩa của mình. MANAT
rất ít khi sẻ chia tâm sự với ai ngoài trang thơ. Nhưng đối với anh Bảy thì Tuấn
đã không thể không nói. Cả hai anh em đều hiểu rằng tiếng lòng em, vùng thiêng
của em, em rất ít khi chia sẻ. Tuấn đáp lời anh: “Anh muốn đọc tâm hồn chứ
gì ? Cái đó em gửi trong thơ”. Trong một bài viết về thơ MANAT (in ở cuối tập
thơ), Nguyễn Nguyên Bảy đã giãi bày: “Xin mẹ cho con thăng hoa hồn, đi men
theo thơ Tuấn, mà đón gặp tâm hồn em”.Bên cạnh ý kiến của nhà thơ Nguyễn Nguyên
Bảy, nhà phê bình, TS Chu Văn Sơn cũng nói đến chất tâm hồn của thơ, người thơ
MANAT ( in ở cuối sách). Có thể nói hai người đọc vừa nêu là những người đầu
tiên phát hiện ra phẩm chất tâm hồn trong thơ MANAT. Thật vậy, như nhiều nhà
thơ khác, MANAT trình bày con người tinh thần của mình trong thơ. Thơ là con
người - tinh thần - mỹ cảm thật nhất của anh, là thế giới tâm hồn anh.Trước khi
tiếp cận tâm hồn, hình tượng tâm hồn, độc giả đã tiếp cận Người Thơ. Đó là một
chàng trai thuần Hà Nội - dáng cao gầy, dễ gây thiện cảm ngay đối với người mới
gặp - đã ngơ ngác, ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của cảnh trí thiên nhiên và con người
Tây Bắc mà hoa ban - vật thể và hồn hoa - được anh dùng làm biểu trưng, khiến
anh đa cảm đến mềm lòng, dễ chạnh buồn, để rồi thêm giàu niềm tin, khát vọng. “Mộng
lãng du đưa anh đi qua bao nẻo rừng/ Bao con suối, bao dòng sông, bao khoảng trời
xa lạ/ Đâu cũng là Đất Nước nghèo trong câu ca và rơm rạ/ Lán nứa mái tranh che
tạm nỗi cơ hàn/ Những mái đình chùa cong trĩu nặng kiếp nhân gian/ Những cơn
đói của anh nối tiếp những cơn đói của ông cha hàng thế kỷ/ Và nỗi buồn vui của
anh có muối mặn gừng cay của bao đời thường không đếm xuể/ Có những khi anh ngẩn
ngơ trước một điệu dân ca đồng bằng/ Giữa trưa nắng chói chang, trên vùng quê mới/
Núi lại núi, mây giăng vời vợi/ Em ở đâu sau núi và thời gian...( tr. 55)
Trong thơ MANAT, do xúc cảm thi ca cuồn cuộn đã lấn át sự việc
hoặc chuyện kể với những chi tiết cụ thể đời thường, vì vậy độc giả có cảm giác
như là chỉ thấy tâm hồn. Hoạt động sáng tạo thi ca của MANAT đã tạo nên hình tượng
tâm hồn của tác giả. Bên dòng sông mùa lũ, anh độc thoại: Sông Hồng mùa lũ đục
ngầu, miên man cuộn chảy. Anh nhìn phía thượng nguồn xa tít tắp… Hỡi chàng trai
không còn trẻ nữa, bao dòng sông, bao con suối anh đã đi qua ? (…). Cùng những
rác rến bèo bọt, những năm tháng lỗi lầm và hèn đớn trôi đi…Anh ngược dòng tìm
đến thượng nguồn sông, tới đầu con suối. Để sống, dù một ngày thôi, giữa cái
nơi không có thù hằn, đố kỵ, bon chen. Để sống, dù một chốc lát thôi, với ngọt
ngào dịu êm vô tận của mối tình đầu… Cũng chính ở thơ văn xuôi như thế, hình tượng
tâm hồn được thể hiện một cách trực tiếp: Tôi đã sống qua bao trăn trở,
hoài niệm, khát khao bay bổng, quên rằng cái ăn là nỗi lo thường trực của nhiều
người kể cả tôi, và tôi đã thi vị hóa cái nghèo, cái đói, tệ hơn, lẩn tránh vào
sách vở và đủ loại triết lý siêu hình. Và cứ thế, tôi đến với hôm nay. Với bản
vắng. Sắp chìm trong nước lạnh…(Giữa bản vắng).
So sánh với những thể loại khác thì thơ gắn với tâm hồn tác
giả nhiều nhất, nói được rõ nhất, trực tiếp nhất cái tôi, nhân cách, tâm hồn
tác giả. Những dẫn chứng ở trên hẳn còn rất thiếu, nếu muốn đầy đủ thì cần nêu
ra hầu hết các bài thơ.
Trong trẻo và vẫn còn nguyên sơ, đó là tâm hồn mỹ cảm thi ca
của MANAT. Nặng lòng trải ra nhiều ngả riêng - chung. Xót tiếc, ngậm ngùi và ước
mong, khát vọng. Ấy cũng là tâm hồn Tuấn trong thơ. Ngơ ngác (lời tự bạch) mà vẫn
ý thức sâu sắc về chính mình về con người đời thường, con người công dân, con
người sự nghiệp, tức là trí tuệ vẫn hướng dẫn tâm hồn Tuấn trong thơ.
3. Biểu tượng đơn và kép
Thơ MANAT tạo nên ấn tượng và ám ảnh bởi những biểu tượng...
Hoa ban, sương, trăng là ba biểu tượng thơ đơn. Hoa ban là biểu tượng mẹ, hình
tượng nội trội nhất, được tác giả trân trọng, nâng niu, yêu thương như đối với
một sinh thể vừa vật chất vừa tinh thần gan ruột của mình, như một kiểu Nàng
Thơ. Biểu tượng này cần được đề cập trong một bài riêng. Ở đây, có thể dễ dàng
nói đôi điều về hai biểu tượng khác: sương, trăng và một biểu tượng kép: trăng
- sương
Sống ở miền cao Sơn La ngót chục năm ròng, sau đó vì công việc
làm phim lại quay trở lại đó nhiều lần, MANAT đã hòa thấm tâm hồn, máu thịt, cuộc
đời anh vào thiên nhiên, con người nơi ấy. Anh nói nhiều đến sương - một hiện
tượng thiên nhiên rất hay xảy ra ở vùng cao. Những trận cháy rừng, những đêm
sương muối (tr. 12). Hoa đào sương trên thảo nguyên mênh mông (tr.14). Đâu những
ngày sương muối lạnh tê người (tr.18). Bắt đầu từ sương giá những năm dài
(tr.19). Bâng khuâng những chiều sương…(tr.20). Những mái sàn khuya bàng bạc
màu sương (tr. 23). Hoa chỉ đẹp khi phơi mình trong nắng/ Cả rừng sương qua
đêm (tr.27). Em lên đỉnh núi mờ sương (…)/ Đêm đêm một ngọn đèn dầu/ Ủ trong
sương núi, thắp vào mộng mơ… (tr.29). Tự bao giờ em đến bên anh/ Như rừng ban
trắng muốt/ Sáng một dải mờ sương (tr. 37). Mở cửa gian phòng lạnh giá hơi
sương/ Anh lại thấy một ngôi sao không tắt (…)/ Sao như mắt em buồn rầu và tinh
nghịch/ Nhìn qua trời sương lạnh nói chi hoài (tr.42). Núi lặn mình trong
sương (tr.43). Những trưa chói chang, những lúc sương chiều (tr.47). v.v.
Và Trăng. Trăng dõi theo mọi xúc cảm và cử chỉ của con người.
Trăng chia ngọt sẻ bùi cùng dân bản và tác giả. Trăng tỏa sáng hầu hết các
trang thơ: Tiếng nhị khuya man mác cả vầng trăng (tr.9). Vầng trăng lạnh, tiếng
hổ gầm, sói hú (tr.18). Và khi trăng lên từ lòng núi đá/ Tiếng hát lại bay tới
những tầng sao…(tr.23). Ai giắt lên cao một mảnh trăng rừng (tr.45). Bên dòng
sông trăng phủ đầy lối hẹp (tr.46). Anh lại miên man nhớ vầng trăng thuở ấy
(…)/ Tuổi thơ rung trong mỗi ánh trăng rằm (tr.77). Những bước chân đây đó bến
trăng thanh…(tr.83). Bóng ma không làm ai sợ sệt/ chỉ khiến vầng trăng vụn
nát…(tr.110). Người bôn ba chốn thị phi, nơi trận mạc/ Rồi trở về với bóng
trăng cô tịch (tr.125). Sau cơn mưa - trăng giấu nụ hôn đầu (tr.160). Mùa hoa
ban, mùa củ mài, măng đắng/ Cũng là mùa của sàn gió, sàn trăng (…). Những đêm
trăng nghe dạt dào tiếng hát (…) (Khúc hát hoa ban - Trường ca). v.v. Tập thơ
có riêng hai bài về trăng (Núi và trăng, Trăng rừng).
Nhìn về tổng thể xúc cảm thơ và hình tượng thơ, thấy tác giả
vô tình hay hữu ý đã tạo nên biểu tượng thơ kép trăng - sương.
Đối với MANAT, trên vùng cao Tây Bắc, quê hương thứ hai của
anh, sương và trăng luôn luôn ở bên nhau, ở trong nhau. Sương cùng trăng thêu dệt
nên vẻ đẹp Tây Bắc - vẻ đẹp trong trẻo và buồn. Em gái quay sa đêm trường sương
giá/ Tiếng nhị khuya man mác cả vầng trăng (tr.9). Tôi cứ đi lang thang trên
con đường vắng lặng/ ngập trăng sương không biết để làm gì (tr.21). Sương trăng
buông tựa hoa thêu gấm dệt (tr. 24). Nhớ em/ Tay nắm trong tay/ Tìm em/ Rừng lại
tỏa đầy sương trăng (tr.32). Anh nhớ em/ Sương rừng giăng giá buốt/ Mảnh trăng
nghiêng thêm lạnh một căn phòng (tr.40). Một câu vào loại hay nhất của tập thơ:
Sương chập chờn tỉnh thức giữa mùa trăng (tr.202). v.v.
Người viết những dòng này không muốn tin đây là tập thơ duy
nhất của MANAT. Tác giả này đã đạt được nhiều thành tựu trong sáng tạo nghệ thuật
điện ảnh và phim truyền hình, bên cạnh văn xuôi. Nhưng hẳn là hiếm có một độc
giả chân chính nào yêu thơ, am hiểu thơ lại vô tâm đối với Một sắc hoa ban khi
biết đến tập thơ này. Nếu tác giả nói đây là tập thơ duy nhất của mình thì chỉ
là duy nhất dành nhiều nhất cho Tây Bắc - hoa ban. MANAT còn mấy trăm bài chưa
công bố. Và anh có thể viết thêm- trên cơ sở một năng lượng sáng tạo không chịu
bó mình trong giới hạn. Riêng mảng thơ văn xuôi thế sự - triết lý của MANAT
trong tập thơ này cũng có nhiều điều đáng nói, nhưng người viết tạm thời chưa
bàn tới...
* Một sắc hoa ban - tập thơ của Mai An Nguyễn
Anh Tuấn - Nxb Hội Nhà văn, quý IV - 2016
1- Ở cuộc thi thơ “Nhịp sống mới trong thơ” do Báo Người Hà Nội
tổ chức đầu năm 2014 (Chủ tịch Hội đồng Chung khảo là nhà thơ Bằng Việt), MANAT
được trao giải Nhì (không có giải Nhất) với ba bài thơ: Túp lều trên đỉnh Pha
Đin, Đôi cánh thiên nga, Tội ác hồn nhiên. Trong cuốn Vườn năm nhà, Tủ sách Thơ
bạn thơ do Lý Phương Liên - Nguyễn Nguyên Bảy chủ biên, Nxb Hội Nhà văn, quý I,
2016, tác giả này được chọn 30 bài thơ. Những bài ấy đều có trong tập Một sắc
hoa ban.
2. Các tập truyện của MANAT: Thung lũng buồn, Người tù áo sạch
(Nxb Thanh niên, 1991&1993) - Nỗi niềm đường xa, Lũ muộn (Nxb Hội nhà
văn, 2004 &2007).
Phạm Đình Ân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét