Quan niệm nhân sinh trong Hồng lâu mộng
Tào Tuyết Cần, (1715?-1763?)
“Hồng lâu mộng là tiểu
thuyết cổ điển vĩ đại nhất của Trung Hoa. Nó đã được học giả cả ở Trung Quốc lẫn
nước ngòai nghiên cứu và tái nghiên cứu suốt hai thế kỷ”(2, tr84). Tiếp cận từ
phương diện nào, tác phẩm cũng mở ra những chân trời ý nghĩa mới lạ. Nếu như
quan niệm nhân sinh của nhà triết học thường được phát biểu dưới hình thức luận
đề thì ở các nhà văn lại được biểu hiện thông qua thế giới nghệ thuật vô cùng
phong phú. Tiếng nói chung, riêng; cá nhân, cộng đồng; một thời hay muôn đời đều
ít nhiều gặp gỡ trên những trang viết của Tào Tuyết Cần. Có được điều đó phần
nhiều nhờ vào những khái quát, chiêm nghiệm cuộc sống mang tầm triết học của
tác giả.
Hệ tư tưởng Trung Hoa rất đa
dạng, giàu bản sắc. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới hai phương diện khá phổ biến
trong quan niệm nhân sinh xuất phát từ hai truyền thống tư tưởng bản địa
của Trung Quốc: Đạo giáo và Nho giáo, bao gồm quan niệm Nhân sinh như mộng
và Thiên mệnh.
Quan niệm nhân sinh như mộng
vốn có ảnh hưởng lâu dài trong tầng lớp trí thức phong kiến. Với Tào Tuyết Cần,
ảnh hưởng đó không thể nói là mờ nhạt. Trong các bài thơ, từ, những đọan trữ
tình ngọai đề… rải rác suốt tác phẩm, Tào Tuyết Cần trở đi trở lại cảm xúcnhân
sinh đại nhược mộng.
Muôn vật từ không mà ra rồi
lại trở về không, đó là lẽ sinh thành mà tác giả tỏ ra rất thấm thía. Mượn lời
hai vị sư, đạo, ông phát biểu: “Trong cõi hồng trần đành rằng có nhiều thú vị
nhưng không phải là nơi nương náu lâu dài. Huống chi “Ngọc lành có vết, cuộc đời
đa đoan”, tám chữ thường đi liền với nhau. Rồi trong chớp mắt, vui hết đến buồn,
người thay cảnh đổi rút cục chỉ là giấc mộng, muôn cõi đều trở thành không”.
Quan niệm nhân sinh như mộng đặc biệt sáng rõ khi nói về viên ngọc của Bảo Ngọc:
“Vốn từ chỗ không ra, nên về chỗ không đó”. Ở Thái hư ảo cảnh cũng có đôi câu đối:
Giả bảo là chân, chân cũng
giả
Không làm ra có, có rồi
không.
Hiện thực trong Hồng
lâu mộng cũng vận động theo chiều hướng từ thịnh đến suy từ có trở
về không. Tào Tuyết Cần là người chứng kiến cảnh gia đình từ phồn hoa phú
quí đến suy tàn. Những cuộc biến cải nhãn tiền khiến ông hoài nghi sự vững bền,
bất biến là không có thực. Hồng lâu mộng (Giấc mộng lầu son ), tên
tác phẩm đã bao hàm cái ảo của đời thực. Ở hồi một trăm mười lăm, về cái
chết của Phương Thư, tác giả viết: “Vương Hi Phượng trải qua cõi ảo trở lại Kim
Lăng”. “Cõi ảo” chính là quãng đời thực ngắn ngủi của Phượng Thư nơi trần thế.
Hồng lâu mộng có hơn bốn
trăm nhân vật, ở một số nhân vật tiêu biểu tác giả đã gán cho nó một xuất xứ
khác thường. Bảo Ngọc và Kim lăng thập nhị kim thoa đều xuất thân từ cõi hư
không: Xích hà cung và Thái hư ảo cảnh. Hai cõi trời chỉ tồn tại trong mơ (Giấc
mơ của Chân Sĩ Ẩn hồi 1 và hồi 120, giấc mơ của Bảo Ngọc ở hồi 5 và 116). Với
hai nhân vật trung tâm Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, tác giả còn chỉ ra cụ thể
hơn nguồn gốc hư ảo. Bảo Ngọc vốn là hòn đá, Đại Ngọc vốn là cây cỏ tiên. Nhưng
dù là cây hay đá thì tiền kiếp của Bảo Ngọc và Đại Ngọc đều
nằm ở thế giới hư không. Thái hư ảo cảnh hay Xích hà cung là những không gian cụ
thể nhưng đầy tính huyễn tưởng. Nơi đó là cõi trời Ly hận (Cõi đời đáng
oán giận vì phải chia lìa nhau), đói thì ăn quả Mật thanh (quả chứa những tình
riêng bí mật), khát thì uống nước bể Quán sầu (nước để tưới sự buồn)…
Triết lý nhân sinh như mộng
còn nằm ở những đoạn trữ tình ngoại đề và trong sự cảm nhận ngày một rõ ràng
hơn ở nhân vật Bảo Ngọc. Hồi 22 (Bảo Ngọc khoảng 14 tuổi), đã mơ hồ hiểu “Không
có gì chứng mới là chỗ đứng”. Nghe câu hát Ký sinh thảo, Bảo Ngọc tỏ
ra tỉnh ngộ:
Hết duyên pháp, chớp mắt
thành ly biệt
Trần trùi trụi, đi về không
vướng víu
Tìm đâu tá, nón mưa áo khói
một mình đi
Mặc kệ ta, giày rơm, bát vỡ
theo duyên đến.
Bảo Ngọc thường hay lo sợ đến
thời điểm vật đổi, sao dời mà buồn chán: “Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Đại Ngọc sắc đẹp
như hoa, mặt tròn như trăng, sau này ắt cũng có lúc không thể tìm thấy nữa, lẽ
nào chả đứt ruột, nát gan. Đại Ngọc đã có lúc không thể tìm thấy cứ thế suy ra
những người như Bảo Thoa, Hương Lăng, Tập Nhân cũng đều thế cả. Bọn Bảo Thoa đã
vậy thì thân mình ở đâu; thân mình còn chả biết ở đâu thì nơi này, vườn này,
hoa này, liễu này biết thuộc về ai”. Nhân vật thường hay băn khoăn lúc chết thì
thân xác “Hóa thành tro bụi, gặp cơn gió to bay tan đi hết” thì ý nghĩa đời người
là ở đâu?
Càng về cuối tác phẩm nhân vật
càng tỏ ra ngộ đạo về kiếp “tụ tán phù sinh”, đồng cảm với triết lý Trang tử
“Cuộc đời hư vô mịt mùng. Người ta sinh ra ở đời khó lòng tránh khỏi cảnh mây
tan, gió cuốn”. Anh ta lấy trình độ của đứa trẻ sơ sinh (xích tử) làm lý tưởng
sống “… thánh hiền đời xưa có câu: “chớ làm sai tấm lòng đứa trẻ sơ sinh”… Đứa
trẻ sơ sinh có gì đáng quí? Chẳng qua chỉ vì nó không hiểu, không biết, không
tham, không ghét mà thôi. Chúng ta sinh ra đã đắm đuối trong vòng tham, giận,
ngây, yêu, chẳng khác nào bùn lầy, làm thế nào để thoát khỏi cái lưới ấy của
cõi trần?
Cho hay người xưa tuy đã nói qua bốn chữ “tụ tán phù sinh” nhưng chưa làm ai tỉnh ngộ cả. Đã muốn nói về nhân phẩm thử hỏi ai là kẻ đạt được cái trình độ sơ sinh”. Mục đích của Mang Mang đạo sĩ và Diểu Diểu chân nhân cho hòn đá đầu thai xuống hạ giới là để hiểu cõi hồng trần tuy lắm điều hấp dẫn nhưng chỉ là cuộc phồn hoa trong chớp mắt. (Cõi đời là tạm, viên ngọc (Bảo Ngọc) chỉ là một ảo thân của hòn đá (Hòn đá – Thần Anh) trên tiên giới. Đây là mạch vấn đề khác, xin bàn tới dịp sau).
Cho hay người xưa tuy đã nói qua bốn chữ “tụ tán phù sinh” nhưng chưa làm ai tỉnh ngộ cả. Đã muốn nói về nhân phẩm thử hỏi ai là kẻ đạt được cái trình độ sơ sinh”. Mục đích của Mang Mang đạo sĩ và Diểu Diểu chân nhân cho hòn đá đầu thai xuống hạ giới là để hiểu cõi hồng trần tuy lắm điều hấp dẫn nhưng chỉ là cuộc phồn hoa trong chớp mắt. (Cõi đời là tạm, viên ngọc (Bảo Ngọc) chỉ là một ảo thân của hòn đá (Hòn đá – Thần Anh) trên tiên giới. Đây là mạch vấn đề khác, xin bàn tới dịp sau).
Tào Tuyết Cần tuy cảm thấy
cái mong manh của đời người nhưng không vì thế mà cho rằng cuộc sống là vô
nghĩa. Các nhân vật trong Hồng lâu mộng đều tràn đầy mong muốn. Lòng
khao khát được sống kiếp người của hòn đá là một ví dụ. Hòn đá “xuẩn ngốc” đã
thóat vòng tạo hóa, không còn chịu kiếp sinh tử, tử sinh nhưng vẫn cầu xin hai
vị thần tiên được đầu thai xuống hạ giới. Khi hòn đá được chứng kiến cảnh Quí
phi về thăm nhà phong lưu, phú quí không kể xiết, lại thầm mừng cho thân phận
được làm người của mình: “Nhớ lại những ngày ở dưới núi Thanh Ngạnh trong dãy
núi Đại Hoang mình sao mà buồn rầu, tịch mịch vậy. Nếu không nhờ nhà sư chốc đầu
và đạo sĩ khiễng chân mang đến đây thì mình làm gì được thấy cái thế giới này”.
Hòn đá từ khi đổi làm kiếp người cuộc đời mới trở nên ý vị. Mười chín năm đầu
thai xuống trần chứng kiến biết bao chuyện tan hợp bi hoan…nhưng không vì thế
mà chán ghét cuộc sống.
Cảm giác cuộc đời như mộng,
tất cả trở về không là kết quả tất yếu của lẽ biến dịch. Nhân sinh
như mộng là lời cảm thán của tác giả trước sự vận hành và biến đổi của tự
nhiên, xã hội. Triết lí về biến đổi có từ trong Kinh Dịch. “Dịch” là một
tư tưởng biện chứng. Triết học Nho, Phật, Đạo đều thừa nhận sự biến đổi. Hồng
lâu mộng đã miêu tả quá trình thịnh suy của phủ Giả nằm trong qui luật: Bĩ
cực thái lai, phồn hoa phú quí lên tới tột đỉnh ắt sẽ suy sụp. Tần Thị trước
khi chết đã báo mộng cho Phượng Thư về cơ đồ hai phủ Vinh –Ninh, nếu không giữ
gìn sẽ đến lúc “Hoa tàn thơm hết, mọi người chia tay”. Đây là nhân vật đầu tiên
trong Hồng lâu mộng thể hiện sự hoài nghi về thế vững chãi đời đời của
Vinh, Ninh phủ. Nàng tỏ ra rất thấm thía với lẽ vận hành: trăng tròn rồi khuyết,
nước đầy thì tràn. Tần Thị chết rất sớm (hồi 16) nhưng toàn bộ diễn biến của Hồng
lâu mộng đúng theo dự cảm của nhân vật.
Quá trình thịnh – suy của chế
độ phong kiến nhìn bằng con mắt của người trong cuộc đó là sự kết thúc. Nhưng đặt
trong tiến trình lịch sử, lại là sự thay đổi tất yếu. Lịch sử không đặt dấu chấm
hết, chỉ là sự chấm hết của một hình thái xã hội lỗi thời, một hình thái xã hội
khác tiến bộ hơn sẽ ra đời. Chúng ta có thể phê phán triết lý nhân sinh như mộng
của Tào Tuyết Cần là bi quan và yếm thế nhưng gắn cảm xúc này với hòan cảnh
riêng đầy bế tắc, sẽ hiểu tâm trạng của Tào Tuyết Cần không là vô cớ. Cuộc đổi
thay quá khốc liệt, Tào Tuyết Cần một mặt chấp nhận sự thật, một mặt không
tránh khỏi những cảm khái bi quan. Do đó, dù còn nhiều tiếc nuối, ông vẫn chỉ
ra con đường diệt vong không tránh khỏi. Ông đã đi ngược lại “các thiện cảm
giai cấp và các thành kiến chính trị của mình”(2). Lý Hy Phàm khẳng định: ‘Cho
dù Tào Tuyết Cần vẫn có tư tưởng hư vô nhất định, ông đã hát lên bài ca ai điếu
cho giai cấp mình. Có điều đằng sau tấn bi kịch lớn, không khó nhìn thấy sự đeo
đuổi và nguyện vọng nóng bỏng của nhà văn đối với nhân sinh’’(2). Bài ca của vị
đạo sĩ khiễng chân, Hảo liễu ca của Chân Sĩ Ẩn vang vọng như một điệp
khúc minh triết “… muôn việc ở đời “hảo”(tốt) tức là “liễu” (hết), “liễu” tức
là “hảo”, nếu không “liễu” thì không “hảo” mà muốn “hảo” thì phải “liễu”. Điều
đó càng khẳng định cái nhìn dũng cảm của Tào Tuyết Cần, cũng là tư tưởng vượt
thời đại của ông.
Thiên mệnh
Tào Tuyết Cần là một nhà
Nho, ý thức hệ của ông cơ bản vẫn là Nho gia. Nho gia tin vào thiên mệnh và
quan niệm một nhân cách hoàn hảo phải làm sao có thể biết được thiên mệnh.
“Không biết mệnh, không phải là người quân tử” (Khổng Tử). Trong mối quan hệ giữa
người và trời, trời có vai trò quyết định trong việc định đoạt các số phận. Tuy
nhiên học thuyết thiên mệnh được Tào Tuyết Cần thể hiện trong tác phẩm không
đơn giản, nó có thể ẩn, hiện; có thể trực tiếp, gián tiếp… bằng thái độ có lúc
đồng thuận, phục tòng nhưng cũng có lúc phủ nhận, phản bác.
Hình ảnh có nghĩa bao trùm,
chi phối tòan bộ số phận mười hai cô gái đẹp đất Kim Lăng là những cuốn sổ ở
Thái hư ảo cảnh. Số phận của Kim Lăng thập nhị kim thoa được ghi chép, định đọat
ở những cuốn sổ này (hồi 5). Cuộc đời mỗi nhân vật gói gọn trong một lá số tiền
định, là những bài thơ đầy ẩn ý, như lời sấm vĩ. Người may mắn đọc được những
cuốn sách trời là Bảo Ngọc. Cho dù Bảo Ngọc “tư chất thông minh, tính tình mẫn
tuệ”, nhưng hoàn tòan mù mờ về ý nghĩa của từng bài thơ. Đó là thiên cơ không
thể tiết lộ, đồng thời cũng là cách viết của Tào Tuyết Cần nhằm tăng sức hấp dẫn,
khơi mở những dòng mạch ngầm tiếp tục diễn tiến của tiểu thuyết. Sự vận động cuộc
đời các nhân vật dần sáng lên những dự báo thiêng.
Tư tưởng thiên mệnh trong Hồng
lâu mộng đôi khi được thể hiện trực tiếp, thường vào lúc nhân vật gặp
tai họa bất ngờ, khó giải thích. Khi hai chị em Phượng Thư và Bảo Ngọc trúng
bùa Mã đạo bà, Giả Chính bất lực, chấp nhận mệnh trời: “Số chúng nó như thế cũng
là mệnh trời, sức người không thể cưỡng lại được. Hai cháu mắc bệnh bất ngờ tìm
hết cách cứu chữa rồi mà vẫn chưa khỏi tưởng cũng là mệnh trời như thế nên để mặc
kệ chúng nó”. Tần Thị trước khi chết cũng tin mệnh mình đã hết: “Người ta chữa
được bệnh không chữa được mệnh”. Định mệnh hiện hình trong những sinh hoạt hàng
ngày. Trong những lần đánh toan hay gieo tửu lệnh đều có sự báo ứng của số
kiếp.
Mệnh trời còn được biểu hiện
qua các điềm báo. Điềm báo trong thiên nhiên, trong hoạt động con người. Cây hải
đường phủ Giả nở hoa trái mùa, liền sau đó Bảo Ngọc mất ngọc thiêng, gia đình họ
Giả quyết định cưới Bảo Thoa cho Bảo Ngọc, Đại Ngọc chết. Yếu tố điềm báo xuất
hiện nhiều theo giấc mộng. Đại Ngọc mơ thấy người ta gọi mợ hai Bảo, điềm báo Bảo
Thoa lấy Bảo Ngọc; Giả Mẫu mơ thấy Nguyên phi về nhà thăm điềm báo Nguyên Phi
chết; Bảo Ngọc mơ thấy Tình Văn đến chào để đi, điềm báo Tình Văn chết… Trước
khi chết hoặc gặp phải một biến cố lớn lao, các nhân vật thường được báo mộng.
Bốn mươi hồi sau, những chi tiết điềm báo xuất hiện nhiều hơn. Từ việc ba chị
em câu cá đến việc thưởng trăng rằm ở vườn Hội Phương đều có những dấu hiệu điềm
báo. Cùng với chiều hướng cây đổ vượn tan, Ninh – Vinh phủ mỗi lúc một hiu quạnh,
hoang tàn lại thường xuất hiện những điều quái gở: tiếng quạ kêu, tin đồn
vườn Đại Quan có ma...
Hai nhân vật Mang mang đạo
sĩ và Diểu diểu chân nhân là hai sứ giả nhà trời, luôn theo sát Bảo Ngọc trong
suốt quãng đời mười chín năm trần thế. Viên ngọc của Bảo Ngọc là vật nhắc nhở Bảo
Ngọc không thể thoát khỏi vòng trói định mệnh. Nhưng những thế lực huyền bí này
đã chi phối nhân vật đến đâu? Trong Truyện Kiều ý định của trời được
phát ngôn qua lời sư Tam Hợp và Đạm Tiên, hai nhân vật đã mách bảo Kiều hành
trình con đường số mệnh. Nhưng ở đây anh chàng Ngốc họ Giả khi biết được cơ trời
(hồi 5), anh ta quên gần hết. Viên ngọc là bản mệnh của mình nhưng luôn
đòi đập nát và quăng đi. Ở Bảo Ngọc biểu hiện ý chí chống lại số mệnh. Mặc cho
dây trói vàng – ngọc, Bảo Ngọc say mê Lâm Đại Ngọc, đã có lần muốn moi hết gan
ruột để em Lâm hiểu được tâm tình. Không chỉ Bảo ngọc, Đại Ngọc cũng không tin
vào nhân duyên “Một bên ngọc báu một bên khóa vàng”. Viên ngọc là vật dẫn dắt Bảo
Ngọc đến mối duyên vàng – ngọc nhưng anh ta khẳng định: “Tôi có trái tim của
tôi cần gì đến viên ngọc nữa” mà trái tim ấy lại thuộc về em Lâm rồi. Bảo Ngọc
mất ngọc, Đại Ngọc thầm nghĩ hay vì có mình mà mất ngọc, có nghĩa những điều
thuộc tiền định, số mệnh đều không đúng. Tình yêu của Bảo Ngọc và Đại Ngọc cũng
là sự chống trả lại số mệnh. Cuối cùng Bảo Thoa lấy Bảo Ngọc nhưng cuộc nhân
duyên nhanh chóng kết thúc. Bảo Ngọc đi tu, chứng minh cho lòng chung thủy với
người yêu bạc mệnh.
Tào Tuyết Cần tỏ ra phục
tùng số mệnh nhưng lại không tin vào nó. Đó là hai mặt tưởng như mâu thuẫn
nhưng thực ra là thống nhất. Vấn đề thiên mệnh, số phận đôi khi là điểm tựa để
tác giả lý giải cuộc đời của từng nhân vật. Nhưng trong mỗi số phận, tư tưởng định
mệnh và những biến đổi biện chứng của cuộc sống là hai yếu tố song hành. Tào
Tuyết Cần một mặt nói về số phận, mệnh trời một mặt vẫn chỉ ra xu hướng tất yếu
của hiện thực. Vì thế, có lúc nhà văn rơi vào mâu thuẫn: “Tác giả tỏ ra bất lực
khi đưa ra những mệnh đề triết học khái quát để giải thích cuộc sống đã được
miêu tả một cách xuất sắc”(3). Theo lời Tần Thị, cơ đồ họ Giả nếu không gìn giữ
tất đến lúc vinh chán phải nhục. Gánh nặng sinh tồn đặt lên vai Phượng Thư, dù
là bậc anh hùng trong đám quần thoa, cũng không thể ngăn cản nổi cơn khủng hoảng
trong từng tế bào. Khúc mười ba, Hảo sự chung, viết:
Xuân đi hương vẫn còn rơi
Nguyệt hoa gây vạ suy đồi vì
ai
Nhà suy bởi tại Kính rồi
Nhà tan trước hết tội thời tại
Ninh
Gây nên oan trái vì tình.
Từ trong cách miêu tả của
nhà văn, độc giả thấy rằng số phận và thiên mệnh không phải là yếu tố chủ đạo
chi phối cuộc đời các nhân vật. Số phận bi thương của những người con gái bất hạnh
chỉ có thể tìm nguyên nhân từ cuộc sống xã hội, không từ một lý thuyết siêu
hình nào. Tào Tuyết Cần chưa thể bứt mình rời bỏ sự phụ thuộc vào thiên mệnh
nhưng ông cũng đã xuất phát từ quan điểm hiện thực để lý giải.
Điểm qua một vài khía cạnh của
bức tranh hiện thực gắn với một vài nhân vật phụ để hiểu rõ thêm vấn đề
này.
a. Nhân vật Ô Tiến Hiếu:
xuất hiện ở hồi 53. Ô Tiến HIếu là viên quản lý ở Hắc Sơn thôn, hàng năm phải tiến
cho nhà họ Giả vô số đồ ăn thức uống quí hiếm. Năm đó mùa màng thất bát vì nạn
mưa đá nhưng O Tiến Hiếu vẫn mang về phủ Giả hưu to, hưu nhỏ, lợn gà, dê rừng rồi
tay gấu gân hưu, gạo tám, gạo cẩm…tính thành tiền là hai nghìn năm trăm lạng
nhưng vẫn bị cha con nhà Giả Trân chê ít. Phủ Ninh hàng năm sống bằng sự cống nạp
của hàng chục trại như vậy. Chỉ một sự kiện đủ thấy sự tồn tại của tầng lớp thống
trị phong kiến dựa trên bóc lột tô thuế nặng nề.
b. Nhân vật sư già ở
chùa Thiết Hạm: xuất hiện ở hồi 105. Sư già nhân cơ hội Phượng Thư đưa đám Tần
Thị nghỉ lại chùa đã nhờ Phượng Thư giúp cho nhà họ Trương thoái hôn. Mưu kế của
sư già sau này khiến Lý công tử và Trương Kim Kha đều chết. Hình ảnh sư già thống
nhất với thái độ của Tào Tuyết Cần đối với tăng ni phật tử nói chung trong Hồng
lâu mộng. Mặt khác, sự kiện này còn chỉ ra sự tồn tại gia đình họ Giả
không chỉ bằng chính sách tô tức, thuế má nặng nề mà còn bằng nguồn thu bất hợp
pháp như đút lót, cho vay nặng lãi… Khi bị tịch biên gia sản người ta tìm thấy
trong nhà Phượng Thư hàng thùng văn tự vay nợ, thế chấp với lãi suất cao.
c. Nhân vật Tiều Đại:
xuất hiện ở hồi 8. Tiều Đại tận tụy phục dịch trong phủ Ninh từ lúc còn trẻ, là
một gia nô trung thành và được cất nhắc. Trong không khí hủ bại của Ninh
phủ, Tiều Đại phẫn uất kêu lên: “Ai ngờ bây giờ lại đẻ ra những giống súc sinh
này (chỉ Giả Dung)! Hàng ngày “trộm gà bắt chó”, nào là “tiểu thúc” nào là “ba
hôi”, loạn luân cả lũ… Thôi đừng đem cánh tay gãy dấu vào trong ống áo nữa”. Tiều
Đại đã công khai vạch trần lối sống hưởng lạc của cha con Giả Xá, sẽ là nguyên
nhân chính đẩy cơ đồ họ Giả xuống vực.
d. Nhân vật già Lưu: Đối
với già Lưu tác giả dày công xây dựng nhiều hơn so với các nhân vật như Ô Tiến
Hiếu, Tiều Đại…Già Lưu đến Vinh phủ ba lần, trở thành chứng nhân chứng kiến cảnh
thịnh suy của phủ Giả. Qua hình ảnh già Lưu, tác giả muốn nói tới sự xa hoa vượt
ngòai sức tưởng tượng của họ Giả, cuộc sống cách biệt trời vực giữa tầng lớp
nông dân và quý tộc phong kiến.
e. Nhân vật Anh Liên:
Anh Liên là con gái Chân Sĩ Ẩn xuất hiện ngay từ hồi 1. Đó là một cô bé xinh đẹp trong
ngày rằm tháng giêng theo người ở đi xem rước đèn chẳng may bị bọn buôn người bắt
cóc. Lớn lên, được gả cho Phùng Uyên, nhưng rồi “gái bạc mệnh, gặp trai bạc mệnh”,
Tiết Bàn hãm hại Phùng Uyên, mang Anh Liên bỏ trốn. Anh Liên sau này chính là
cô nữ tỳ Hương Lăng hiền lành mà suốt đời bị Tiết Bàn hành hạ. Hình ảnh Anh
Liên là khúc dạo đầu báo hiệu cuộc đời bất hạnh của những thiếu nữ phủ Giả khi
ra khỏi “đào viên” Đại quan viên.
f. Nhân vật Chân Bảo Ngọc:
xuất hiện hồi 115. Trong sự đối sánh với nhân vật Giả Bảo Ngọc, hình tượng Chân Bảo
Ngọc có rất nhiều ý nghĩa. Nhân vật trước khi xuất hiện, Giả Bảo Ngọc đã gặp
trong mơ. Chân Bảo Ngọc và Giả Bảo Ngọc là hai hình tượng để tác giả gửi gắm
quan niệm về chân và giả. Chân Bảo Ngọc biết Giả Bảo Ngọc là
“linh hồn cũ trên hòn đá tam sinh” và tự anh ta thấy mình phải có nghĩa vụ giảng
giải cho Giả Bảo Ngọc những lý lẽ ở đời. Lý lẽ của Chân Bảo Ngọc là chuỗi lời của
bọn “mọt ăn lộc” mà Giả Bảo Ngọc vốn rất khinh bỉ. Nhân vật Chân Bảo Ngọc xuất
hiện một lần nhưng đã góp phần hoàn chỉnh bức tranh nhân sinh. Chúng ta có thể
thấy những đường nét cơ bản: chế độ công danh khoa cử, chế độ quan lại,
nô tỳ… cùng các rường mối xã hội, gia đình đều tiềm tàng nguy cơ đổ vỡ. Tuy
nhiên điểm sâu sắc trong tư tưởng Tào Tuyết Cần, ấy là ông cho rằng Chân cũng
chính là Giả, Giả cũng chính là Chân. Chân Bảo Ngọc là một hình ảnh, một sự
phóng chiếu của Giả Bảo Ngọc (lần đầu tiên Giả Bảo Ngọc “gặp” Chân Bảo Ngọc là
trong mơ, khi nằm ngủ đối diện với tấm gương).
Hồng lâu mộng chủ yếu
xoay quanh mối tình của Bảo Ngọc và Đại Ngọc nhưng bên cạnh đó tác giả còn đề cập
tới rất nhiều những vấn đề xã hội nóng bỏng. Câu chuyện về một gia đình thoạt
nhìn tưởng yêu thương, sống hòa đồng nhưng thực chất “Người nào người nấy chẳng
khác gì gà chọi chỉ chực nuốt sống lẫn nhau”. Những người phụ nữ mặc dù được
tác giả dành cho tình cảm ưu ái đặc biệt nhưng số phận cũng không mấy tươi
sáng. Hàng loạt những bi kịch: Đại Ngọc không lấy được Bảo Ngọc uất ức mà chết,
Nghênh Xuân bị anh chồng vũ phu hành hạ đến chết, Tương Vân lấy phải anh chồng
bệnh tật sớm thành góa phụ, Uyên Ương tự tử vì sống không thoát khỏi tay Giả
Xá, Lý Hoàn chồng chết sớm đời lạnh lẽo như đống tro tàn…Tích Xuân ngán
ngẩm cảnh chợ chiều của phủ Giả, nàng thấy mình bơ vơ và bế tắc, sớm gửi mình
vào cửa Phật. Hồi 116, Bảo Ngọc nằm mộng về Thái hư ảo cảnh lần thứ hai, biết
rõ cơ trời, càng cám cảnh, xót xa cho thân phận những người phụ nữ phủ Giả. “Bảo
Ngọc nhớ đến câu thơ: “Một ngọn đèn xanh cạnh Phật bà” (chỉ Tích Xuân), rồi thở
dài luôn mấy tiếng. Chợt lại nhớ đến những chữ: “Một chiếc chiếu, một khóm hoa”
rồi đưa mắt nhìn Tập Nhân, bất giác chảy nước mắt”. Những số phận bi kịch và sự
kết thúc bi kịch của Hồng lâu mộng là tất yếu.
Trong quan niệm nhân sinh,
Tào Tuyết Cần chịu ảnh hưởng của cả ba trường phái triết học Nho, Đạo và Phật.
Nhưng ông chỉ chịu ảnh hưởng ở khía cạnh tư tưởng, những hình thức tôn giáo lại
kịch liệt lên án. Đó là việc luyện đan cầu tiên của Giả Kính đưa đến hậu quả Giả
Kính chết oan và gia đình suy sụp. Các thầy thuốc cũng phê phán: “Thuật đạo khí
của Giả Kính rất hão huyền, đến cả những việc lễ sao, giữ giờ, uống linh sa,
nhiều sự nhảm nhí hư tổn tinh thần, hại cả tính mệnh”. Hình ảnh tên đạo sĩ bán
thuốc rong họ Vương càng là một sự đả kích, mỉa mai Đạo giáo. Hắn khoe thuốc
mình chữa được bách bệnh, đến khi bị Bảo Ngọc hỏi “Có thứ cao nào dán khỏi được
bệnh ghen của đàn bà không”, hắn đành thú nhận “Thuốc cao của tôi cũng là thuốc
giả. Nếu thuốc thật thì tôi đã uống để thành tiên rồi, đời nào lại chịu sống vất
vưởng”.
Phê phán Phật giáo, tác giả
tập trung miêu tả tăng ni phật tử cùng các chùa chiền, miếu mạo. Đền, chùa trở
thành nơi trai trẻ hẹn hò. Tần Chung và tiểu ni Trí Năng ở am Mạn Đầu là một ví
dụ. Tinh thần chống Phật giáo biểu hiện rõ ở nhân vật Bảo Ngọc. Anh ta đầy ắp
ác cảm với tầng lớp này. Khi có người phụ nữ nào qua đời, Bảo Ngọc thường đứng
chắn quan tài ngăn bọn sư hôi hám không đứng gần, sợ bẩn linh hồn chị em. Anh
ta còn cho rằng người phụ nữ thiêng liêng hơn cả Phật di đà và Ngọc Đế. Trong
con mắt của Bảo Ngọc và Đại Ngọc các chư tăng, đạo sĩ đều là bọn “điên đại”, lời
nói của họ không thể tin được.
Thấy rõ sự diệt vong tất yếu
của giai cấp mình, tâm trạng Tào Tuyết Cần nhìn chung là bế tắc. Cũng như nhân
vật Bảo Ngọc, nhà văn tìm tòi trong triết học mong có một lối thoát. Trong thời
điểm lịch sử bấy giờ, tác giả không cách nào khác lý giải sự diệt vong của chế
độ phong kiến là ngẫu nhiên của vận hành vũ trụ. Một mặt nhà văn vẫn xuất phát
từ hiện thực để miêu tả, lý giải những vấn đề xã hội chân thực và xác đáng nhất. Hồng
lâu mộng đã ‘phá vỡ tư tưởng và cách viết truyền thống’’(Lỗ Tấn). Các
nhà nghiên cứu Xô viết cũng đánh giá rất cao tư tưởng của nhà văn “…Ở đâu Tào
Tuyết Cần cũng tỏ ra là một người tiên tiến đứng cao hơn trình độ chung của ý
thức hệ thời đại” (Dẫn theo 3).
Có nhà nghiên cứu cho rằng
càng viết về Hồng lâu mộng càng cảm thấy hồ đồ. Hồng lâu mộng không
mang ý nghĩa một chiều. Thế giới Hồng lâu mộng được vẽ nên bằng những
đường nét tỉ mỉ, vô cùng chân thực nhưng lại có thêm miền Thái hư ảo cảnh,
viên đá dưới chân núi Thanh Ngạnh, cõi Đại hoang mịt mùng… khiến cho không khí
tịch mịch nơi Đại hoang bị tan loãng trong cuộc sống xa hoa phủ Giả về cuối tác
phẩm lại cuộn trào lên che khuất những số phận từng tồn tại trên đời:
Chỗ ta ở chừ, đỉnh núi thanh
u
Chỗ ta chơi chừ, cõi không mịt
mù
Ai đi cùng ta chừ, ta đi
theo ai
Mênh mông mịt mù chừ, về nơi
Đại Hoang.
Tài liệu tham khảo
1/ Tào Tuyết Cần, Cao Ngạc
(1963), Hồng lâu mộng (bản dịch Vũ Bội Hoàng, Trần Quảng), NXB Văn
hóa, Viện Văn học.
2/ Ming – Dong Gu (2010), Hồng
học tâm bệnh: Tiếp cận Hồng lâu mộng từ phân tâm học (Nguyễn Đào Nguyên
và Trần Hải Yến dịch), Nghiên cứu văn học, số 10.
3/ Lý Hy Phàm (1959), Vị
trí của Thủy hử và Kim Bình Mai trong quá trình phát triển của văn học hiện thực
chủ nghĩa Trung Quốc (Lương Duy Thứ dịch, bản rônêô), trong sách Nghiên cứu
tiểu thuyết Minh Thanh, NXB Văn hóa Nhân dân Bắc Kinh.
4/ Nguyễn Khắc Phi (1979), Vị
trí hồi một trong Hồng lâu mộng, Kỷ yếu Khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, bản
rônêô.
5/ Lỗ Tấn (1996), Sơ lược
lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, NXB Văn hóa, H.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét