Ra đời vào khoảng giữa thế kỉ
XVIII, Chinh phụ ngâm đã ghi nhiều dấu ấn quan trọng trong nền văn học trung đại
Việt Nam. Sự xuất hiện của tác phẩm đã chính thức khai sinh một thể loại văn học
dân tộc có tên là ngâm khúc và mở ra một thế kỉ “được mùa” của nhiều khúc ngâm
có giá trị như Cung oán ngâm, Thu dạ lữ hoài ngâm, Tự tình khúc, Ai tư
vãn, Bần nữ thán, Quả phụ ngâm…Tác phẩm cũng đã bứt mình ra khỏi dòng văn học
chức năng, nặng về “tải đạo” “ngôn chí” của giai đoạn trước đó để nhập hẳn vào
dòng văn học nghệ thuật, lấy việc phơi trải những xúc động tự tâm can làm mục
đích chính. Nói về hoàn cảnh ra đời khúc ngâm, Phan Huy Chú trong Lịch triều
hiến chương loại chí có viết “Vì đầu đời Cảnh Hưng (khoảng năm 1741-1742)
có việc binh đao, cảnh biệt ly của người đi chinh thú khiến ông (tác giả Đặng
Trần Côn) cảm xúc mà làm”(2). Cảm xúc là nguyên nhân khởi phát nên tác phẩm và
cũng là hạt nhân của toàn bộ áng thơ trường thiên dài 408 câu thơ ấy. Đáng ghi
nhận hơn, Chinh phụ ngâm đã “phát triển đến tột độ quan niệm tự tình của thơ trữ
tình trung đại Việt Nam” (3). Lí giải cho sự đề cao này, bên cạnh rất nhiều
nguyên nhân như hình thức thơ song thất lục bát, kết cấu tâm trạng, lời văn trữ
tình, vốn được nhiều nhà nghiên cứu bàn đến, xét thấy, cần phải nói đến sự xuất
hiện của phương thức tự sự trong tác phẩm.
Tự sự đã tìm đường vượt qua
ranh giới giữa tự sự và trữ tình để đi vào khúc ngâm ra sao? Nó đóng vai trò
như thế nào trong nghệ thuật biểu hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình? Và ranh
giới bị vượt qua ấy chỉ nên xem là sự xâm nhập hay là sự xóa nhòa giữa cả hai yếu
tố? Đó là những vấn đề được đặt ra xem xét và giải quyết trong bài nghiên cứu
nhỏ này [1].
1. Tự sự bước vào tác
phẩm và xóa đi ranh giới giữa tự sự và trữ tình
Hẳn không còn là điều phải
bàn khi xác nhận Chinh phụ ngâm là tác phẩm trữ tình. Toàn bộ khúc
ngâm là sự giãi bày cảm xúc của người vợ có chồng đi lính xa nhà. Không quá để
trao tặng cho Chinh phụ ngâm danh hiệu “quyển sách của nghìn tâm trạng” (4). Bởi
lẽ, tác giả đã nhập vai vào người chinh phụ để bày tỏ muôn vạn những cung bậc,
cảm xúc của người trong cuộc như buồn thương, oán trách, tiếc nuối, lo lắng,
xót xa, nhớ nhung, mong ngóng, khát khao. . . Nếu Phan Ngọc xem những câu thơ
trực tiếp phản ánh nội tâm trong Truyện Kiều chiếm 14.5% (gồm 474/3254 câu thơ)
là một “tỉ lệ khủng khiếp” thì có lẽ con số này sẽ vượt qua rất nhiều sự tưởng
tượng của ông khi tiếp cận với Chinh phụ ngâm. Sự thống kê 12 dạng cảm xúc của
tác giả Thuần Phong (5) tuy khá rạch ròi và cụ thể song có lẽ vẫn chưa bao quát
được hết thế giới nội tâm phong phú ấy. Hầu hết mỗi dòng trong tổng số 408 câu
thơ của bản dịch đều không ít thì nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp gắn với tiếng
nói bên trong của người thiếu phụ trẻ. Thêm vào đó, thể song thất lục bát như
được sinh ra để trở thành hình thức chuyên dụng cho những áng thơ trữ tình trường
thiên như Chinh phụ ngâm. Nếu như truyện thơ nhìn thấy ở lục bát khả năng kể
chuyện, gắn với hàng loạt các sự kiện được diễn ra liên tục, nhanh chóng tạo
nên các mối xung đột thì thể lục bát gián thất lại có “khả năng quý báu” trong
việc biểu đạt nội dung trữ tình. Phan Ngọc đã chỉ ra tính nội dung có trong kết
cấu khổ thơ 7-7-6-8 đó “Cần phải có hình thức ấy tình cảm mới có thể mang hình
thức một đợt sóng đi lên với hai câu thất, dừng lại ở câu lục ngắn gọn để tỏa
ra trong câu bát dài nhất rồi lại vươn lên trong một khổ mới, cứ thế đợt sóng
tình cảm lên xuống ăn khớp với hình thức ngôn ngữ” (6). Thêm nữa, âm điệu song
thất đều đều, trầm lặng, khổ thơ lặp lại mang tính chu kì với những vần lưng vần
chân kết dính, vấn vít lẫn nhau đã trở thành ưu thế nổi bật diễn tả thứ tình cảm
triền miên da diết của người chinh phụ. Chinh phụ ngâm vì thế đã tìm được một nội
dung và hình thức đắc dụng để có mặt tự tin và chắc chắn vào thể loại trữ tình
Việt Nam.
Thế nhưng, một bài toán đặt
ra là làm thế nào tác giả có thể kéo dãn đến hàng trăm câu thơ chỉ duy nhất một
mục đích phơi trải tâm trạng như thế? Làm cách nào để lôi cuốn người đọc và khẳng
định sức sống của tác phẩm chỉ bằng thế giới tâm trạng tuy có phong phú song ít
biến chuyển và phần lớn như đúc ra từ một khuôn tình cảm buồn rầu, đau khổ mà Đặng
Thai Mai gọi đó là “sự ngưng đọng trên một khối sầu” (7)? Vấn đề sẽ
được giải quyết khi chúng ta thấy được sự xuất hiện của yếu tố tự sự trong tác
phẩm. Tự sự tìm đường đi vào khúc ngâm bằng sự có mặt của một số đặc điểm cấu
thành thể loại này.
Đọc Chinh phụ ngâm, không
quá khó để tìm ra yếu tố tự sự trong tác phẩm. Nhà giáo Lê Trí Viễn khi bắt đầu
phân tích toàn bộ khúc ngâm cũng đã tóm tắt văn bản trong khoảng 20 dòng. Chỉ
xét riêng về mặt hình thức chứ chưa bàn đến đến nội dung của bài tóm tắt, cũng
thấy đây là công đoạn quen thuộc của những tác phẩm thuộc thể loại tự sự, thể
loại có sự xuất hiện của cốt truyện cùng hệ thống các sự kiện. Chinh phụ ngâm
giống như một câu chuyện kể về số phận bi thương của người chinh phụ. Tác phẩm
cũng có thể chia làm ba phần với diễn tiến như sau: mở đầu là việc người chồng
ra trận, tiếp đến là cảnh chờ đợi của người vợ trẻ và kết lại khúc ngâm là ngày
người chồng trở về trong ngày vui chiến thắng. Sự kiện chính, được xem như biến
cố của cuộc đời người chinh phụ là việc chồng ra chiến trận trong lúc cả hai
người “tuổi đương chừng niên thiếu”. Tình yêu và hạnh phúc đang ở độ nồng nàn đắm
say phải tạm chia lìa, đứt đoạn. Người chinh phụ bắt đầu bước vào một quãng đường
dài của sự chờ đợi mỏi mòn vô vọng, mọi gắng gượng và nỗ lực xua đuổi nỗi buồn
của nàng đều trở nên bất lực. Hàng loạt những sự việc được nói đến. Nàng gieo
quẻ bói, đề chữ trên gấm, gượng đốt hương, gượng soi gương, tìm đến chồng qua
những giấc mộng, cậy người gửi đến những kỉ vật yêu thương… nhưng tất cả chỉ
là sự trống không, vô vọng “Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không”.
Trong Chinh phụ ngâm, yếu tố
không gian và thời gian cũng không hề bị giới hạn hay đóng khung nhỏ hẹp như
trong thơ trữ tình. Có thể so sánh khúc ngâm với bài thơ cùng tên của Thái Thuận
ở thế kỉ XV. Thời gian trong thơ Thái Thuận là khoảnh khắc ngắn ngủi con người
đối diện với lòng mình trong hiện tại. Trong khi đó, thời gian diễn ra trong
khúc ngâm tương đối dài, dường như đi hết nửa đời người, từ quá khứ tiễn chồng
ra trận đến hiện tại chờ đợi đến tuyệt vọng “Trải mấy xuân tin đi tin lại-
Đến xuân này tin hãy vắng không”, “Tin thường lại người không thấy lại”. “Thư
thường tới người không thấy tới”, “Kể năm đã ba tư cách diễn” “Tiền sen này đã
nảy là ba”... Và không chỉ dừng lại ở hiện tại, khúc ngâm còn miêu tả thì
tương lai, ngày người chồng trở về trong “Nền huân tước đai cân rạng vẻ- Chữ đồng
hưu bia để nghìn đông”. Không gian trong tác phẩm cũng không phải toàn cố
định và gói gọn trong cảnh “Rèm thưa lòng não trăng tàn bóng- Gối lạnh châu
tràn cuốc gọi canh” (thơ Thái Thuận) mà có sự mở rộng và dịch chuyển liên tục.
Từ không gian của buổi đưa tiễn đến không gian chiến trường “Non Kỳ quạnh
quẽ trăng treo- Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”; từ không gian nơi miền
quan ải đến không gian “trong cánh cửa”, “nơi cô phòng” lạnh lẽo, vắng lặng; từ
không gian hiện thực đến không gian của những giấc mộng “Sum vầy mấy lúc tình cờ-
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân”, “Khi mơ những tiếc khi tàn- Tình trong
giấc mộng muôn vàn cũng không”. Sự mở rộng thời gian và không gian ấy giúp
tác phẩm có khả năng dung chứa và bao quát một mảng hiện thực rộng lớn từ cuộc
sống, vốn là đặc điểm vẫn được nói đến trong thể loại tự sự.
Nhân vật trữ tình trong khúc
ngâm cũng được miêu tả cụ thể qua rất nhiều những chi tiết bên ngoài lẫn bên
trong. Chi tiết bên ngoài biểu hiện qua ngoại hình (trang phục, vật dụng đi
kèm), dáng vẻ, cử chỉ, điệu bộ và việc làm, các mối quan hệ của nhân vật (đối với
người chinh phụ đó là các mối quan hệ với vua, với chồng, với mẹ già và con
thơ).... Chi tiết bên trong là những lời nói thầm kín của nhân vật vẫn thường
được gọi là những lời độc thoại nội tâm. . .Sức nặng và sự đa dạng của các chi
tiết được thể hiện khá rõ nét. Chỉ trừ những đoạn thơ miêu tả thiên nhiên và trực
tiếp bộc lộ tâm trạng nhân vật (thường được đánh dấu bằng những từ chỉ cảm
xúc), phần lớn yếu tố tự sự đều bàng bạc khắp tác phẩm. Có thể thấy rõ nhất qua
hai đoạn mở đầu và kết thúc khúc ngâm, kể về buổi tiễn đưa và ngày chồng trở về
trong chiến thắng.
Lấy ví dụ về đoạn mở đầu, gồm
12 khổ thơ song thất lục bát, từ “Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt..Thiếp
nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà”. Sự kiện trung tâm được nói đến là người chồng
ra trận. Môi trường và hoàn cảnh xuất hiện sự kiện được mô tả một cách tường tận
và tỉ mỉ. Thời điểm xuất phát là “nửa đêm truyền hịch đợi ngày xuất
chinh”. Bối cảnh chung làm nền là cảnh binh lửa đầy ác liệt “Trống Trường
Thành lung lay bóng nguyệt- Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây”. Ở khoảng giữa của
bức tranh ấy là cảnh đưa tiễn cũng được dựng lên cụ thể với những hình ảnh (hàng
cờ bay trong bóng phất phơ) âm thanh (tiếng trống, tiếng nhạc ngựa, tiếng địch
đồng vọng), màu sắc (sắc xanh của cỏ non và trắng trong của dòng nước)... Trong
cảnh chia ly, ta thấy sự xuất hiện hai nhân vật chính. Người chinh phu được
miêu tả từ hoàn cảnh xuất thân “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt- Xếp bút
nghiêng theo việc đao cung”, trang phục ngoại hình “Áo chàng đỏ tựa ráng
pha- Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in” đến ý chí giết giặc lập công “Thành
liền mong tiến bệ rồng- Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời”. Người chinh
phụ được nói đến những sự bịn rịn, quyến luyến không rời “Nhủ rồi tay lại cầm
tay- Bước đi một bước dây dây lại dừng”, với những lời nói thầm thì của chính
lòng mình “Đưa chàng lòng dặc dặc buồn- Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền”
… Các sự kiện được tiếp nối theo trật tự tuyến tính của thời gian, từ lúc chia
tay bùi ngùi xúc động đến giờ phút chia tay đã điểm “Quân đưa chàng ruổi lên đường-
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng”. Và đến điểm kết của cuộc tiễn đưa
đó chỉ còn là “Dấu chàng theo lớp mây đưa- Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà”….
Trong dung lượng 48 câu thơ biết bao nhiêu chi tiết được nói đến, giúp ta hình
dung từ bao quát đến cận cảnh không- thời gian của buổi chia ly, khí thế hừng hực
của chàng tuổi trẻ “Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao” và tình cảm nhuốm màu
sầu muộn của người chinh phụ ….
Từ đó có thể thấy lằn ranh
giữa tự sự và trữ tình không phải là một bức tường kiên cố không thể vượt qua.
Tự sự có thể đi vào khúc ngâm và xóa đi khoảng ngăn cách tưởng chừng không thể
tiệm cận giữa hai thể loại. Khả năng hòa phối và chung sống hòa bình giữa chúng
có cơ sở để lý giải. Truyền thống của thơ ca trung đại Việt Nam thường là chủ
thể trữ tình thường tường thuật, kể lại, nói lên nỗi lòng, chí hướng và tâm
tình của mình. Đó là cội nguồn cho sự xuất hiện hàng loạt bài thơ có các tiêu đề
như Ngôn hoài, Thuật hoài, Ngôn chí, Tự tình, Tự thuật, Mạn thuật, Trần
tình. . .trong đó yếu tố đầu tiên được xem là cách thức trữ tình (“thuật”
“tự” là kể, “ngôn” là nói ra, “trần” là bày tỏ), yếu tố thứ hai thường là
nội dung trữ tình (tình, hoài, chí. . .) (8). Nhà nghiên cứu Đặng
Thai Mai gọi đó là “văn chương tự tình”, xem như một cách đối lập với “văn
chương trữ tình” (có sự thể nghiệm trực tiếp cảm xúc và nói lên cá tính sáng tạo
của tác giả) và “văn tự sự” (9). Tự thấy rằng, bản thân cách gọi đó đã hàm
chứa và mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của yếu tố tự sự trong những tác phẩm.
Muốn giãi bày thổ lộ tình cảm không có con đường nào khác ngoài việc phải kể
ra, thuật lại những sự việc liên quan đến tình cảm ấy; những “hỉ nộ ái ố” của
con người là vì đâu, do đâu; hay những hoàn cảnh, trạng huống và sự kiện nào
làm nảy sinh mối tâm tình đó. Nếu ví sự trần thuật đó như một cái cây thì
“tình” chính là ngọn được sinh ra trên gốc là “sự”, “việc”. Chính “sự”, “việc”
trở thành nguồn cội để nói đến “tình”, bày tỏ “tình”. “Thơ ca ra đời cũng chính
từ sự rung động của tình trước cảnh và sự” là vì vậy. (Lê Qúy Đôn). Thật
khó để hình dung những trạng thái cảm xúc vốn mơ hồ, bất định được nói ra một
cách vô tận mà không có chỗ neo bám thật cụ thể nào. Vì thế trong trữ tình ít
nhiều có sự tham dự của yếu tố tự sự và đường biên giới giữa chúng đôi khi có
thể vượt qua. Chinh phụ ngâm cũng nằm trong truyền thống đó. Nhà nghiên cứu Trần
Đình Sử đã rất có lý khi đưa ra nhận định “ (Nhân vật trữ tình) chủ yếu chỉ
cho người khác thấy trạng thái tình cảm của mình, lối trữ tình nghiêng về kể,
thuật, tự những kết quả bề ngoài của đời sống nội tâm chứ không phải là bản
thân nội tâm” (10). Đồng thời cũng mở ngoặc đơn để nói thêm rằng, việc
đưa yếu tố tự sự vào thơ cũng là gợi ý để sáng tạo nên những thể loại mới, khi
tự sự và trữ tình có chức năng ngang quyền nhau thì thể loại trường ca ra đời,
khi tự sự đóng vai trò trung tâm và trữ tình chỉ là yếu tố phụ được điểm qua
thì truyện thơ xuất hiện (11). Sự gia giảm của yếu tố tự sự trong tác phẩm sẽ
góp phần tạo nên những thể loại khác nhau như truyện thơ, ngâm khúc hay trường
ca. . .Đó là nói đến khả năng dung chứa chất tự sự trong trữ tình.
Còn về phía tự sự, khả năng
nào trong yếu tố này có thể hòa hợp cùng trữ tình? Ta thấy rằng, trong tự sự,
khi xây dựng nhân vật không thể không nói đến hành động, đó có thể là hành động
bên ngoài (như việc làm, thái độ, cách ứng xử. . .) nhưng cũng có thể là hành động
bên trong (như ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc). Chính hành động mang tính nội tâm
này làm nên màu sắc trữ tình trong tác phẩm tự sự. Nói khác đi, khi xây dựng
nhân vật và muốn đạt đến khả năng phản ánh hiện thực một cách toàn vẹn và chân
thật, không thể không khắc họa và miêu tả tình cảm bên trong, những nung nấu,
suy tư của chính nhân vật. Và đặc điểm này của tự sự vốn lại là đặc trưng cơ bản
làm nên khúc ngâm. Trong Chinh phụ ngâm, nổi bật và xuyên suốt là lời độc thoại
nội tâm của nhân vật. Dù có khi người chinh phụ cũng hướng đến một đối tượng
nào đó để tìm kiếm sự chia sẻ và thấu hiểu nhưng hoặc là nhân vật vô hình phiếm
chỉ (trời), hoặc là nhân vật lặng im không thể nói (thiên nhiên), cuộc đối thoại
không thể thực hiện được. Con người chỉ còn biết cô độc đối diện với bóng, với
ngọn đèn tàn và tự thầm thì với chính mình những nỗi niềm bi thiết. Thế
giới nội cảm của nhân vật từ đó được bộc lộ. Chính từ đặc điểm đó mà cả hai thể
loại có thể tìm kiếm sự gắn kết để xích lại gần nhau.
2. Sự phá vỡ lằn ranh
giữa tự sự và trữ tình nhằm phát huy tối đa khả năng biểu hiện tâm trạng của thể
loại trữ tình
Trên đây đã nói đến sự xuất
hiện của yếu tố tự sự và sự phá vỡ lằn ranh giữa tự sự và trữ tình trong Chinh
phụ ngâm. Tuy nhiên, sự phá vỡ này chưa đi đến mức độ xâm lấn và xóa nhòa hoàn
toàn cả hai yếu tố. Phải thấy rằng, tự sự tuy có đi vào phương thức trữ tình
trong tác phẩm nhưng không vì thế nó thực hiện cuộc soán ngôi, đánh tan những
phẩm chất trữ tình nhằm tạo nên một thể loại mới (thể thơ tự sự). Chức năng biểu
hiện tình cảm vẫn là chức năng chuyên biệt và trung tâm của khúc ngâm. Mọi yếu
tố tự sự được vận dụng trong tác phẩm đều nhằm hướng đến nội dung phơi trải tấm
chân tình của người chinh phụ và phát huy tối đa chức năng đó. Nói đúng ra, tự
sự dừng chân trong khúc ngâm chỉ như một sự xâm nhập của thể loại chứ chưa đến
mức xóa nhòa ranh giới giữa tự sự và trữ tình.
Người chinh phụ tuy có hướng
về quá khứ, kể về những gì đã xảy ra nhưng tất cả những sự việc hiện hữu đó đều
nằm trong sự hồi tưởng, kí ức của nàng. Tương lai được nói đến cũng chỉ là những
mơ tưởng, những mong mỏi mà nàng tự vẽ nên trong tâm trí. Vì thế trung tâm của
tác phẩm vẫn là quãng thời gian hiện tại, lúc con người đối diện với chính lòng
mình, đang tự “độc bạch” (10). Hơn thế, những xúc động trữ tình của con người
trong hiện tại cũng phủ lên các sự kiện của quá khứ và tương lai một tấm màn cảm
xúc để chúng hiện lên như một quá trình đương xảy ra với những hình thái sống động
và tươi mới nhất. Thêm vào đó, việc nhân vật được đặt trên cả ba chiều thời
gian quá khứ- hiện tại- tương lai, cũng chỉ là cách khắc họa bi kịch trong cuộc
đời người chinh phụ. Sống trong hiện tại nhưng luôn tìm cách trở ngược về quá
khứ, sống lại với thực tại của quá khứ những kỉ niệm đẹp của tuổi trẻ, của tình
yêu và hạnh phúc. Còn hiện tại và tương lai tuy là đời sống thực và sắp hướng đến
nhưng nó không phải là những phiến đoạn của thời gian mà nàng muốn đối diện, bởi
lẽ ở đó chỉ có sự ngự trị của khổ đau và vô vọng. Người chinh phụ lần lượt thực
hiện các cuộc đối thoại với chính mình trên cả ba chiều của thời gian để rồi
đau đớn nhận ra những gì tốt đẹp nhất không còn có thể trở lại. Nỗi buồn- cảm
xúc trữ tình của bài thơ vì thế càng thấm đẫm. Và cũng từ đó chủ đề của khúc
ngâm cũng được lộ rõ: đó là niềm bi cảm về những giá trị nhân sinh bị đánh mất.
Không gian được nới rộng đến
mọi chiều kích cũng chỉ nhằm đi vào chiều sâu tâm trạng của người chinh phụ.
Không gian ngoài biên ải xa xôi, không gian những giấc mộng hay không gian ngày
trở về đều là không gian của sự tưởng tượng. Nó không thể tìm thấy giữa cuộc đời
thực mà chỉ tồn tại trong dòng tâm tưởng miên man bất tận của nhân vật trữ
tình. Nếu không có khung cảnh chiến địa nặng mùi tử khí và vất vưởng của những
oan hồn, ta không thể nào thấu hiểu cùng một lúc rất nhiều tâm trạng đan xen
trong lòng người chinh phụ. Đó là nỗi xót xa cho tình cảnh của chồng “Xót người
lần lữa ải xa- Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài” “Xót người hành dịch bấy
nay- Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi”. Là sự cảm thương cho tình cảnh lẻ loi
đơn chiếc của chính mình “Nỡ nào đôi lứa thiếu niên- Quan san để cách hàn huyên
bao đành” “Cớ sao cách trở nước non- Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu”.
Và đó cũng là hoàn cảnh để tạo nên sự chuyển biến về mặt nhận thức và tình cảm
của người phụ nữ quý tộc “Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu- Thà khuyên chàng
đừng chịu tước phong”…Không gian của những giấc mộng cũng vậy, nó giúp
người đọc khám phá tầng sâu kín nhất trong nỗi lòng người chinh phụ. Những ước
ao, mong muốn thầm kín, riêng tư “chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay”, con
người thường cất giấu trong những giấc mơ. Và nàng chinh phụ cũng vậy. Trong
không gian “Bui còn hồn mộng được gần- Đêm đêm thường tới Giang Tân tìm người”,
phần nào người đọc có thể giải mã tiếng nói nồng đượm thiết tha của
nàng về một cuộc sống ái ân hạnh phúc. Hiện thực không được như mong ước khiến
nàng tìm vào trong những giấc mộng. Và chỉ có khoảng thời gian cuối cùng của một
ngày, lúc đêm tối, khi con người dễ sinh mộng mị, nàng mới có thể gặp mặt người
thương để thỏa lòng mong ước, khát khao…Từ đó cho thấy, mọi không gian dù hướng
đến mọi chiều kích nào cũng đều quay về cái tâm duy nhất là khát khao hạnh phúc
lứa đôi của người thiếu phụ. Nhìn chung, mượn đặc điểm trong tác phẩm tự sự,
nhân vật được miêu tả trên cả ba chiều thời gian, được đặt vào rất nhiều không
gian khác nhau nhưng khúc ngâm nhằm khái quát nên một hiện thực lớn của đời sống,
đó chính là hiện thực tâm trạng.
Như trên đã nói, khúc ngâm
trữ tình rất giàu các chi tiết về những biểu hiện bề ngoài của nhân vật. Thế
nhưng, các chi tiết ấy cũng không nằm ngoài chức năng duy nhất biểu đạt là tâm
trạng của con người. Sự kiện “người chồng ra trận” chỉ đóng vai trò như một điểm
tựa, một chỗ dựa vững chắc để khơi nguồn dòng chảy cảm xúc vốn chiếm dung lượng
rất lớn trong tác phẩm. Mọi chi tiết tự sự khác được nói đến cũng cùng chung một
mục đích đó. Sự xuất hiện của yếu tố tự sự khá linh hoạt, và dù ở những vị trí
nào nó cũng là cơ sở hạ tầng nhằm xây nên kiến trúc thượng tầng là những trạng
thái tình cảm của người chinh phụ. Có khi trong cùng một câu thơ, vế trước chỉ
việc làm của nhân vật, vế sau là sự biểu hiện tâm trạng, tình cảm sóng đôi cùng
sự việc ấy:
Hương gượng đốt, hồn đà
mê mải
Hương gượng soi, lệ lại
chan chan
Hoặc ngược lại:
Xin vì chàng xếp bào cởi
giáp
Xin vì chàng giũ lớp
phong sương
Vì chàng tay chúc chén
vàng
Vì chàng điểm phấn đeo
hương não nùng
Trong cùng khổ thơ, câu đầu
hoặc cả hai câu đầu nêu sự việc như là một nguyên cớ và các câu còn lại là kết
quả tâm trạng và ngược lại, có khi chính tâm trạng là cội nguồn của những biểu
hiện về dáng điệu, cử chỉ, hành động bên ngoài ấy:
Tin thường lại người không
thấy lại
Hoa dương tàn đã trải rêu
xanh
Rêu xanh mấy lớp chung quanh
Sân đi một bước trăm tình ngẩn
ngơ
Hay
Há như ai hồn say bóng lẫn
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như
không
Trâm cài, xiêm giắt thẹn
thùng
Lệch vừng tóc rối, lỏng vòng
lưng eo
Có khi luân phiên nhau, một
khổ thơ nói đến sự việc, khổ tiếp theo là sự bày tỏ tâm trạng:
Trải mấy xuân tin đi tin lại
Đến xuân này tin hãy vắng
không
Thấy nhàn luống tưởng thu
phong
Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn
sàng
Gió tây nổi, không đường hồng
tiện
Xót cõi ngoài tuyết quyến
mưa sa
Màn mưa trướng tuyết xông
pha
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi
ngoài
Và cũng có khi, liên tiếp những
khổ thơ chỉ toàn là những chi tiết bề bộn như một sự kể lể, không có dấu hiệu
nào gắn với tình cảm khiến người đọc vội lầm tưởng là một đoạn thơ tự sự như:
Tình gia thất nào ai chẳng
có
Kìa lão thân khuê phụ nhớ
thương!
Mẹ già phơ phất mái sương
Con thơ măng sữa vả đương
phù trì
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm
cơm
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Khổ thơ như đang kể lại hoàn
cảnh gia đình của người chinh phụ. Trong vai trò là người khuê phụ thay chồng
chăm sóc mẹ già và nuôi dưỡng con thơ, nàng hiện lên như một con người của bổn
phận, trách nhiệm, hơn là con người của tâm trạng. Dấu vết của cảm xúc như
không hề có mặt trong từng câu thơ. Nhưng không hoàn toàn như vậy. Bề sâu của
những dòng thơ tưởng là tự sự ấy là nỗi niềm của người chinh phụ về tình cảnh
đơn chiếc đáng thương của mình. Một thân “nuôi già dạy trẻ” càng giúp nàng thức
nhận rõ hơn nỗi buồn cô đơn, lẻ loi của chính mình, từ đó dẫn dắt cho nỗi nhớ đến
người ngoài biên ải. Khổ thơ tiếp theo là sự minh họa cụ thể cho bề sâu của tâm
trạng ấy:
Nay một thân nuôi già dạy trẻ
Nỗi quan hoài mang mể biết
bao!
Nhớ chàng trải mây sương sao
Xuân từng đổi mới, đông nào
có dư
Khái quát lại, có thể thấy,
mọi chi tiết tự sự được sử dụng đều hướng đến nội dung trữ tình được nói đến
trong tác phẩm. Và không chỉ đơn giản như một yếu tố phụ có vai trò làm phông,
nền cho tâm trạng mà tự sự đóng vai trò tối quan trọng. Không có nó, tâm trạng
nhân vật sẽ thiếu đi một bệ đỡ, một điểm tựa để ra đời và phát triển. Dòng tâm
trạng của nhân vật cũng vì thế mà không thể trôi chảy tự nhiên, thuận lợi và dễ
dàng trong chiều dài 408 câu thơ.. Và một điều quan trọng hơn, sự có mặt của yếu
tố tự sự sẽ giúp tâm trạng nhân vật được “lạ hóa”, không gây cảm giác nhàm chán
và tẻ nhạt cho người tiếp nhận. Vì sao lại nhận định như vậy? Có thể thấy, tâm
trạng nhân vật tuy có rất nhiều sắc thái khác nhau nhưng đều đồng quy từ một chữ
buồn nên ít nhiều nó có sự lặp lại. Tuy rằng sự lặp lại này cũng nằm trong dụng
ý của khúc ngâm là triển khai đến mức tối đa sự trì trệ, ứ đọng, không gì giải
tỏa và vượt thoát được của tình cảm, nhưng nó rất dễ gây mất hứng thú cho người
đọc. Vì thế việc đưa vào chi tiết về việc làm, hành động của nhân vật sẽ nhằm đổi
khẩu vị thưởng thức cho độc giả, khiến họ tưởng chừng như diện kiến một gương mặt
cảm xúc mới. Chẳng hạn như, cùng viết về tâm trạng thẩn thờ, mệt mỏi đến quên cả
dung nhan của người chinh phụ, khúc ngâm xuất hiện ba khổ thơ khác nhau, mà mỗi
khổ là những biểu hiện bề ngoài không hề có sự lặp lại:
Người chinh phụ hết mở lại
đóng chiếc gấm thêu chữ, nửa tin nửa ngờ quẻ bói báo điềm gở khiến nàng đau khổ,
mệt mỏi đến mức “ngẩn ngơ”, “bơ phờ”:
Để chữ gấm phong thôi lại mở
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ
Trời hôm tựa cửa ngẩn ngơ
Trăng khuya nương gối bơ phờ
tóc mai
Việc cài trâm, giắt xiêm
cũng trở nên uể oải, chán nản:
Há như ai hồn say bóng lẫn
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư
không
Trâm cài xiêm giắt thẹn
thùng
Lệch vừng tóc rối lỏng vòng
lưng eo
Và cũng là tâm trạng “ngẩn
ngơ” đó, nàng như trở nên vô hồn, bất động, không muốn làm bất cứ việc gì chỉ
trừ duy nhất việc lặp đi lặp lại hành động quen thuộc hàng ngày “sớm lại chiều
dòi dõi nương song”:
Mặt biếng tô, miệng càng biếng
nói
Sớm lại chiều dòi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ
lòng
Vắng chàng điểm phấn trang hồng
với ai?
Thử hình dung, nếu không
chêm xen vào dòng chảy tình cảm ấy những khúc đoạn mang dấu vết của tự sự thì
các đoạn thơ chỉ như sự lặp lại một cách vụng về tâm trạng “thẫn thờ” “ngơ ngẩn”
của nhân vật. Chính yếu tố tự sự giúp cho tác phẩm vừa có sự lặp lại cần thiết
của tâm trạng buồn vừa có sự chuyển biến để sinh sắc thêm cho cái tâm trạng đã
được nói đến ấy. Hai đặc điểm tưởng chừng đối lập nhưng chính nó tạo nên cái đặc
sắc và dấu ấn của khúc ngâm.
Như vậy là, bằng việc chỉ ra
tính chất ranh giới của hai yếu tố tự sự và trữ tình trong các khúc ngâm, chúng
ta cũng thấy được tầm quan trọng của sự xuất hiện yếu tố tự sự. Nó tựa như cái
khung, bệ đỡ để vừa dẫn dắt cảm xúc của chủ thể trữ tình vừa để cảm xúc đó tuy
chỉ trôi giữa hai bờ buồn thương cũng không quá nhàm chán và lặp lại. Sự hiện
diện của yếu tố tự sự còn là điều kiện để kéo dài quy mô trường thiên của tác
phẩm và quan trọng hơn làm bật lên nội dung cốt lõi trong các khúc ngâm. Những
hoàn cảnh của nhân vật trong những thời điểm khác nhau của cuộc đời đã giúp
nhân vật có sự đối chiếu cảm xúc để nhận ra những giá trị đã mất, nỗi buồn vì
thế được bật ra và thấm đẫm toàn bộ nội dung của tác phẩm.
Tự sự và trữ tình là hai
phương thức tái hiện đời sống khác nhau. Sự khác nhau đó đã vạch ra đường ranh
tưởng chừng không thể bước qua của thể loại. Nhưng đến với khúc ngâm, cụ thể
trong Chinh phụ ngâm khúc, ranh giới này đã bị phá vỡ nhằm đạt đến hiệu quả nghệ
thuật to lớn của tác phẩm. Chính việc “kể lể tình cảm” đã tạo khả năng cho áng
thơ trữ tình này có thể kéo dài đến 408 câu thơ và diễn đạt một cách dễ dàng,
thuận lợi những “cung bậc cảm xúc luôn ngưng đọng trên một khối sầu” (12). Lịch
sử nghiên cứu nghệ thuật tả tình trong các khúc ngâm có thể một biểu hiện quan
trọng nữa. Và có thể không khi xem đây là những tiền đề cho thơ ca lãng mạn
giai đoạn sau trong việc biểu hiện thế giới tâm trạng của con người và sự ra đời
của những truyện ngắn không có cốt truyện, chỉ duy có dòng cảm xúc tâm trạng của
con người?.
Nguồn trích dẫn
(1) Người viết dùng khái niệm
tự sự và trữ tình theo cách phân chia thể loại thứ nhất của nhà nghiên cứu Bùi
Duy Tân. Dựa theo phương thức phản ánh, ông chia thể loại trong văn học Việt
Nam thời cổ làm 3 loại: 1-Các thể loại trữ tình gồm thơ trữ tình, phú, từ,
khúc, ngâm, vãn, ca…2- Các thể loại tự sự: gồm thơ tự sự, truyện thơ, phú thơ
trường thiên lịch sử..., 3-Các thể loại chính luận: gồm thơ triết học, văn triết
học, văn chương chính luận, sớ tấu, chiếu, cáo, hịch…Trích trong: Bùi Duy
Tân: Vấn đề thể loại trong văn học Việt Nam thời cổ. Tạp chí văn học
số 3 năm 1976.
(2) Phan Huy Chú: Lịch
triều hiến chương loại chí. Tập 3, phần Văn tịch chí. Nxb. TP, Hồ Chí
Minh, 1992.
(3), (8), (10) Trần Đình Sử: Thi
pháp văn học trung đại Việt Nam. Nxb. Đại học Quốc gia, 1999.
(4) Phan Ngọc: Tìm hiểu
phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều. Nxb. Thanh niên, H, 1984.
(5) Nhà nghiên cứu Thuần
Phong đã cố công tách bóc và cụ thể hóa 12 trạng thái tâm lí của người chinh phụ
như tiếc (câu 113 - 124), trách (câu 125 - 152), lo (câu 153 - 168), mong
(câu 169 - 176), thương (câu 177 - 184), nhớ (câu 185 - 216), tủi (câu 217 -
228), sầu (câu 229 - 256), mộng (câu 257 - 268), trông (câu 269 - 292), than
(câu 293 - 352), nguyện (câu 353 - 372). Dẫn theo Phạm Thế Ngũ: Việt Nam
văn học sử giản ước tân biên. Quốc học tùng thư, 1962, tr 160.
(6) Phan Ngọc: Suy nghĩ
về thể loại thơ song thất lục bát. Tạp chí Sông Hương, số 9 năm
1984.
(7), (9), (12) Đặng Thai
Mai: Giảng văn Chinh phụ ngâm. Nxb. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, 1992.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét