Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2016

Tản mạn về văn xuôi và thơ

Tản mạn về văn xuôi và thơ 
Dù là văn gì đi nữa, ngoài ý tưởng ra, cuối cùng bài văn phải thể hiện được xúc cảm của tác giả. Từ đó mới giúp người đọc hiểu được mình muốn nói gì và giúp họ rung cảm theo. Đó là hai vế quan trọng của một bài văn 
Viết văn xuôi như người thích đi bộ, được vững vàng trên mặt đất, được tha hồ mở lối, miễn cuối cùng vẫn đi đến đích. Tuy nhiên viết văn xuôi không có nghĩa là hoàn toàn tự do, không bị gò bó trong một quy tắc. Cũng như đi bộ trên mặt đất, tuy vững vàng nhưng cũng phải biết định hướng, chọn lối đi, tránh gập ghềnh sỏi đá, cỏ gai.
Ở đây, chúng ta không đề cập nhiều đến kỹ thuật cú pháp mà chỉ nêu ra những tính chất của văn xuôi mà thôi. Nhớ lại những bài tập làm văn thuở còn ngày hai buổi cắp sách đến trường, chúng ta sẽ mường tượng được ra những quy tắc văn xuôi là phức tạp đến độ nào. Tôi nhớ thầy Lê Văn Mỹ, giáo sư Việt Văn lớp 9, luôn dặn học trò: “Chỉ có ông Phạm Quỳnh mới được quyền viết câu văn dài tám thước, và chỉ có ông Trịnh Công Sơn là được quyền dùng những ca từ khó hiểu. Các em là người tập viết văn, phải viết sao cho câu ngắn gọn, từ ngữ dễ hiểu”. Thầy dạy thật là đơn giản, vậy mà chỉ mỗi việc viết câu cho ngắn gọn, quả không phải dễ tí nào.!
“Ý tưởng thì đi phi cơ, chữ viết lại đi bộ”. Đó là một sự ví von rất hay cho thấy nỗi khó của người viết văn. Bạn có thể đứng thuyết trình và nói tràng giang đại hải với rất nhiều thông tin được đưa ra. Nhưng cùng trong thời lượng ấy, khi bạn viết, nội dung sẽ không đầy đủ bằng lúc bạn nói. Tại sao vậy? Vì có những quy tắc về ngữ pháp mà bạn cần tuân thủ. Nếu không, người đọc sẽ khó hiểu được bạn nói gì. Bởi vậy mà có nhiều người chỉ thích nói chứ không thích viết. Vì khi nói bạn được hỗ trợ bằng ngôn ngữ thân thể. Nói sai văn phạm vẫn hiểu được. Nói ít vẫn hiểu nhiều. Còn khi viết, bạn phải dùng câu cú, cách chấm phết, các dấu than, dấu hỏi để diễn tả cảm xúc.

Nói về văn phạm thì mới nghe tưởng như nó là thứ gông cùm đáng ghét. Nhưng có rất nhiều trường hợp, thay vì một câu dài lòng thòng, chỉ cần chỉnh cho đúng văn phạm, nó sẽ trở thành ngắn và dễ hiểu vô cùng.
Trong văn xuôi, yếu tố nhạc điệu ít khi được đặt nặng. Tuy nhiên nếu có thêm, cộng với cú pháp hợp lý thì bài văn sẽ trở nên tuyệt vời. Lấy vị dụ bài văn xuôi để đời “Tôi đi học” của nhà văn Thanh Tịnh. Một bài văn được làm chuẩn mực cho câu cú gãy gọn, ý tưởng mạch lạc, nội dung hàm súc. Tôi còn nhớ rất rõ giọng đọc miền Bắc của thầy Phạm Gia Quý trong giờ học Việt Văn ngày xưa. Nhạc điệu của bài văn “Tôi đi học” được Thầy lột tả hết tất cả những tâm sự mà tác giả muốn lồng vào qua nhạc điệu trong bài văn xuôi ấy.
Đây là đoạn đầu trong bài văn xuôi này. Trong sách “Tập đọc” các lớp tiểu học, hoặc sách “Luận văn” các lớp trung học đều có trích đăng:
“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
Văn vần: Thơ niêm luật

Điểm hạn chế về diễn đạt nhất của văn vần là ý tưởng được diễn đạt trong khuôn khổ của vần, nhạc điệu, số chữ trong mỗi câu… Tuy nhiên không có nghĩa là niêm luật luôn luôn kìm hãm ý tưởng, mà đôi khi chính nhờ niêm luật mà ý tưởng được kích thích tuôn ra dễ dàng hơn, mượt mà hơn. Bằng chứng là có rất nhiều người có kỹ năng xuất khẩu thành thơ.
Văn vần có thể được ví như nghệ sĩ biểu diễn đi trên dây. Cũng là đi, nhưng người viết muốn cho thấy kỹ năng giữ thăng bằng của họ trong các bước đi trên một con đường mỏng như sợi dây. Bước chệch ra một phân kể như xong. Thậm chí đầu, vai, tay, lưng… toàn thân đều phải theo quy luật của sự thăng bằng mới đi được.
Người làm thơ phải tuân thủ các quy định về niêm luật. Niêm là dính. Niêm luật là quy tắc tương hợp về vần bằng vần trắc trong làm thơ. Các niêm luật này rất chặt chẻ và nghiêm ngặt ở thơ xưa như “Thơ Đường luật” chẳng hạn, và cũng có phần lơi lỏng ở thơ nay như lối “Thơ Tự do”. Nhờ có niêm luật mà thơ có nhạc điệu từ luật bằng, trắc, và có tiết tấu từ số chữ trong câu, cách gieo vần ở đuôi (cước vận) hay ở lưng (yêu vận).
Cũng như người đi trên dây mà còn phải vác theo những vật khác làm tăng thêm độ thử thách về sự thăng bằng. Có nhiều người lại còn muốn thử thách mình hơn nữa. Ngoài tuân thủ niêm luật, họ còn đặt ra nhiều hạn chế khác cho mình bằng các lối thơ ráp chữ, thơ đọc thuận nghịch, thơ toàn vần bằng… Trong vần bằng, dựa vào chữ đó có dấu huyền hay không, người ta còn phân biệt hai thanh: thanh trầm bình và thanh phù bình. Bởi vậy khi làm thơ với toàn những chữ vần bằng, người làm thơ phải biết cách tận dụng hai thanh này để tạo nhạc điệu cho câu thơ.
Lấy ví dụ, Hàn Mặc Tử, thơ toàn vần bằng:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Hoặc Bích Khê:
“Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi vàng rơi thu mênh mông”

Văn vần: Thơ tự do

Tự do có nghĩa là thoát khỏi vòng kim cô của niêm luật. Không còn niêm luật, người ta hy vọng rằng ý tưởng sẽ được xuất tiết dễ dàng hơn. Thật ra không hẳn là như vậy.
Nếu không có niêm luật thì bài thơ tự do khác với văn xuôi chỗ nào? Rõ ràng chỉ còn lại một số ràng buộc về nhạc điệu. Sự sắp xếp các vần trắc vần bằng trong câu thơ, sự huy động các thanh trầm bình và phù bình sao cho khi đọc, khi ngâm bài thơ phải tạo ra nhạc điệu. Trong chừng mực nào đó, làm thơ tự do để có một bài hay không phải là đơn giản.
Có một số người sau khi thoát khỏi niêm luật kinh điển, họ lại đặt ra một quy tắc riêng cho niêm luật của mình. Đa phần là quy tắc đó thay đổi trong suốt bài thơ. Trường hợp thơ tự do đặt ra quy tắc riêng cho mình rất thành công là thể thơ “Bút Tre”.
Mục đích cuối cùng của văn xuôi và văn vần
Dù là văn gì đi nữa, ngoài ý tưởng ra, cuối cùng bài văn phải thể hiện được xúc cảm của tác giả. Từ đó mới giúp người đọc hiểu được mình muốn nói gì và giúp họ rung cảm theo. Đó là hai vế quan trọng của một bài văn. Văn xuôi thì dễ diễn đạt. Văn vần thì nhờ niêm luật kích thích ý tưởng. Thơ tự do thì dựa trên nhạc điệu. Miễn sao tạo được rung cảm cho cả hai: Người viết và người đọc là đạt yêu cầu.
Võ Hoàng Nguyên
 Theo http://chieulang.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mái tóc người vợ

Mái tóc người vợ HỘI LÀNG MẤT VUI Thuở ấy, giặc Minh đang xâm chiếm nước ta. Ở một vùng khuất nẻo, hội vật làng Liễu đang vào ngày cuố...