Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2016

Trang văn thơ nhạc của anh Thủy Lâm Synh

Trang văn thơ nhạc 
của anh Thủy Lâm Synh 
GÃY HAI NHỊP CẦU
Truyện ngắn Thủy Lâm Synh
Thìn đặt hai thúng lúa xuống trước sân nhà máy xay, giở nón phe phẩy cho đỡ nóng. Trời đã trưa, những tàu lá chuối trong vườn đứng thiêm thiếp không một chút lay động. Mấy ngày liền, trời cứ hâm hấp thế nầy rồi xòa xuống một cơn mưa thật nặng, khiến lúa bắp phơi ngoài sân cứ nơm nớp sợ ướt bất tử. Một đứa bé gái trạc 12-13 tuổi hớt hải chạy lao vào sân nhà máy xay cố gắng gọi lớn:
“Mẹ ơi... mẹ ơi... cầu sập”
Thìn liệng nón xuống đất, rượt theo chụp lấy vai con bé lôi ngược:
“Cầu nào sập, mầy nghe ai nói cầu sập?”
Con bé giật thót người ấp úng:
“T..tu...tui chơi ở xóm trên, nghe người ta khóc quá trời, nói cầu Cần Thơ đang xây bị gãy hai nhịp.”
Tim Thìn đập thình thịch, nàng nghĩ tới Luân, người chồng mới cưới chưa đầy một tuần. Luân được người bạn cùng chạy xe ôm bên Đồng Thạnh dắt đi làm cho một hãng thầu con hơn tháng nay. Thìn vội vã quay ra sân, móc chiếc đòn gánh vào hai thúng lúa, gánh vào gởi trong nhà máy, ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Vừa tới ngõ, mấy người lối xóm đang lẩn quẩn trước sân, Thìn có linh cảm một việc chẳng lành vừa xảy đến. Quả đúng như thế, họ đến để hỏi thăm Thìn vì có người trên xã báo tin về là Luân bị thương nặng, hiện đang chở đi bệnh viện Cần Thơ.
Tay chân bủn rủn, mặt Thìn tái mét như người mắc bệnh hậu sản, nước mắt bắt đầu chảy xuống má. Dưới bóng mát cây xoài, một người đàn bà còn trẻ, nãy giờ ngồi trên yên xe gắn máy rộng lượng buột miệng:
“Chị vào trong lấy cho anh ấy bộ đồ, chị cũng đem theo một vài bộ, tôi chở chị đi bệnh viện thăm anh ấy, nhanh lên!”
Thìn chưa kịp cám ơn lòng tốt của bà con lối xóm đến hỏi thăm, nàng lao vào buồng ngủ, quơ đại vài bộ đồ, vo tròn nhét vào cái túi lác bước ra sân, phóng lên xe. Chiếc Honda cũ rích, lỏng bạc xịt khói như phản lực chạy vụt ra khỏi sân.
Chiếc gắn máy gắng hết lực nổ giòn tiến về hướng Bắc Cần Thơ, bỏ lại sau lưng hai bên làng mạc, ruộng vườn.  Hai người vừa đến bến thì bắc cũng vừa mở cổng, phải mất hơn tiếng, kể cả thời gian hỏi thăm đường, hai người mới đến nơi. Sân bệnh viện Cần Thơ lúc bấy giờ người ta lao xao như cái chợ. Ngoài xe cứu thương còn có xe nhà binh, xe vận tải, và cả xe gắn máy; người ta chở thương về bằng đủ thứ phương tiện – tùy trường hợp nặng nhẹ –. Ánh đèn xe cứu thương nhấp nháy một góc ngay trước cửa phòng cấp cứu. Tiếng gọi, giục, chỉ thị, than thở, loại nào cũng vội vã, hấp tấp... Nhiều nhóm tụ năm, tụ ba, bàn tán, pha lẫn tiếng khóc đây đó.
Xuống xe lao thẳng vào phòng cấp cứu, Thìn chạy theo một cô gái mặc áo trắng ngắn tay:
“Cô ơi nạn nhân tên Trương Văn Luân ở đâu hở cô?
Cô gái lúng túng một giây:
“Em là sinh viên vào đây hiến máu, để em dẫn chị đi tới chỗ nầy”
Đoạn cô gái lôi tay Thìn tới phòng y tá, nàng hỏi thay Thìn:
“Chị ơi, chị xem hộ cho người... nhà chị nầy đang ở phòng nào?”
Vừa nói, cô sinh viên quay qua Thìn:
“Anh ấy tên gì?
“Dạ, tên Luân họ Trương ạ,”
Cô ya tá từ tốn lật quyển sổ, lấy ngón tay trỏ kéo từ trên xuống rồi ngừng một thoáng đưa mắt nhìn Thìn:
“Có phải anh Luân sinh năm 1979 Qui Nhơn, hiện ở Mỹ Hòa, Bình Minh không chị?”
“Dạ đúng rồi”
Mặt tiu nghỉu, cô y tá rời ghế đến ôm vai Thìn:
“Chị ơi, anh bị thương nặng quá, chúng tôi bất tài đã không cứu nổi anh.”
Nghe chưa hết câu, toàn thân Thìn ngã như cây chuối. May mà cô y tá và cô gái kia còn đứng đó chụp lấy Thìn, nếu không đầu cô sẽ va vào cánh cửa. Mấy người gần ấy xúm lại khiêng Thìn ra ngoài đánh gió, một lát sau Thìn mới tỉnh lại.
Đầu óc Thìn rối bời, nàng ôm mặt khóc. Nàng chưa tin là Luân có thể chết, nàng hi vọng những tin tức vừa rồi sai sự thật. Sáng nay, khi vội vã đẩy xe ra khỏi nhà để đi làm, Luân còn hứa chiều về sẽ mua cho Thìn chục mận. Anh giã vờ gọi Thìn đến dặn nhỏ, nhưng là để gởi lại nàng chiếc hôn trên má, lẽ nào Luân lại bỏ ra đi...
Tha hương ngộ cố tri, Gặp người cùng xứ sở, cảm mến nhau qua giọng nói, Thìn và Luân thân quen nhau, yêu nhau và lấy nhau. Ái ân chưa trọn Luân lại bỏ ra. Nhưng tiếng khóc ai oán, nức nở của Thìn lúc nầy không làm ai xúc động. Mỗi người có một hoàn cảnh đáng thương. Ngồi ở đây, những tiếng khóc ấy cứ dội vào tai Thìn mỗi lúc một nhiều hơn, khiến đầu óc Thìn thêm rối.  Thìn không biết là có nên đưa xác chồng về lại Qui Nhơn để cùng gia đình anh ấy lo việc mai táng hay không! Có lẽ không. Thìn không thể đưa Luân về Qui nhơn vì quê hương đó đã hơn một lần ghi dấu gãy đổ. Dĩ vãng như một vết thương còn mưng mủ, trong tình huống buồn, vui lẫn lộn lúc nào có dịp là nó cứ tuôn về. Bốn năm trước, một biến cố xảy đến đã tạo cho đời Thìn một khúc quanh quan trọng. Dòng họ nhà Thìn cũng rơi vào tình trạng dở khóc dở cười.
Chồng trước của Thìn là Hổ, cái tên nghe như một lãnh chúa sơn lâm, thật ra anh ta ốm yếu như một con mèo. Đám cưới vừa đúng một tuần, Hổ lăn đùng ra chết, cái chết của Hổ đã làm cho dư luận khu Gềnh Ráng ai cũng biết. Một đồn mười, mười đồn trăm. Bao nhiêu tiếng xấu miễn phí được phía nhà Hổ trút lên đầu Thìn. Đặc biệt là đứa em gái tên Hà và bà cô chồng đã bịa thêm chuyện để bêu riếu một cách không tiếc lời.
Chao ơi! Chính bà cô chồng đồng bóng nầy là người coi tuổi cho Thìn và Hổ. Trong buổi tiệc cưới, bà hùng hổ phun ra một câu nghe hết sức thần thánh: “Hai đứa nầy hạp tuổi lắm, chúng mà không giàu có và sinh một đàn con thì đem đầu tôi ra chém”.
Thế mà bây giờ đây lại cũng chính bà mạt sát Thìn thậm tệ. Thìn mang tiếng giết chồng đã đành, phía cha mẹ Thìn có liên hệ gì đâu, cũng bị chửi rủa là đã sinh ra đứa con có tướng sát phu, nào là sinh ra một con quỷ cái để hại cho dòng họ nhà Phạm tuyệt tự.
Hai mươi bốn tháng nặng nề như cổ xe tang vừa qua. Nghĩa là theo tục lệ ông bà để lại, mãn tang chồng, Thìn can đảm đứng trên đôi chân của mình xin phép từ giả cảnh cay đắng làm dâu nhà Hổ. Lẽ dĩ nhiên, chuyện qua đời của Hổ cũng dần dà nguôi ngoai nên ba má Hổ đã giảm thiểu rất nhiều cảnh giằng mâm xán bát. Cha mẹ nào không thương con. Ba Hổ thì quan niệm tử sinh đều có số, Hổ chết yểu thì âu đó cũng là số mệnh của anh ta. Duy có bà cô và cô em chồng tên Hà thì gặp Thìn ở đâu, bất cứ lúc nào cũng nguýt háy và có đề tài nói cạnh nói khóe...nói những câu tục tằng là khác.
Cha Hổ đằng hắng nói:
“Chuyện đã qua, cha mẹ không còn trách hờn gì con nữa, ở lại hay ra đi bây giờ là quyền ở con”.
Mẹ Hổ xen vào:
“Ảnh chỉ bên đó có phúc nên có nhiều con cái, hay là con cứ việc ở đây với cha mẹ, nếu con không định bước thêm bước nữa”.
Ba Hổ nhíu mày:
“Bà nói vậy mà nghe được, con nó còn trẻ, tại sao nó lại phải ở nhà nầy. Ở làm đầy tớ cho bà à?”
Hà từ phía nhà chồng cô ấy về lúc nào không rõ, vén màn cửa nhà bếp bước lên vọt miệng:
“Đi chớ ở đây động cỡn ai chịu cho nổi”
Cha mẹ Hổ khó chịu.
Thìn vẫn đứng yên cúi mặt, lâu nay cô bé nầy quá quắt, Thìn đã nhịn nhiều rồi, nàng muốn nhào tới vả vào cái miệng nhọn, mỏng môi, hỗn hào kia một cái cho rụng răng rồi việc gì thì việc.  Nhưng Thìn đã dằn lại được; ‘chín bỏ làm mười’ trước lúc chia tay cũng có thể lưu lại chút cảm tình hơn là ẩu đả như ngoài chợ.
Thìn lên tiếng:
“Thưa cha mẹ. Con không muốn khơi lại chuyện xưa, nhưng anh Hổ qua đời là do số mạng anh ấy vắn chớ con không có lỗi gì cả. Ai lại muốn chồng mình chết, ai lại không muốn tròn đầy hạnh phúc, nối tóc tới già. Anh Hổ chết, con cũng đau khổ chớ có riêng gì cha mẹ đâu!”
Lại cô em chồng đanh đá:
“Tui biết quá mà, sau khi anh tôi chết mồ chưa xanh cỏ là chị đã có ý đú đởn với người ta rồi, chị ngứa quá, có chịu để cho cái ...yên đâu”
“Bộp”
Chưa hết câu, cha Hổ chờm tới tát cho Hà một cái nên thân. Hà ù té chạy ra ngõ. Như trả được mối thù, Thìn trong lòng phấn khởi, nhưng ngoài mặt vẫn giữ nét buồn kinh niên cho đúng thủ tục.
Thế là từ đó, Thìn rời xa thành phố Qui Nhơn thân yêu. Cuộc sống tha phương cầu thực đã không làm cho Thìn bỏ qua việc tìm hiểu thêm về hội chứng “thượng mã phong” mà nàng hiểu là Hổ qua đời vì nó. Cái chết của chồng cũ đã làm cho Thìn có chút buồn pha chút lãng mạn. Thìn tìm đọc nhiều sách báo, đến những quán internet để may ra có rút tỉa những kinh nghiệm nào đó. Nơi đây, Thìn được biết những cuộc nghiên cứu của nhiều bác sĩ thì hầu như những người chết vì thượng mã phong đều thuộc vào hàng có tên tuổi, vì báo chí có khuynh hướng thổi phồng những tin giựt gân. Nguyên nhân chết không do giao hợp mà do người ấy đã bị bệnh trước rồi. Dĩ nhiên cái gì quá độ cũng đều dẫn đến những hệ lụy như trường hợp Hổ, dù không đêm bảy, ngày ba nhưng anh ấy rất ham... nên kiệt sức. Và một điều lạ là báo chí không thấy đề cập đến phụ nữ, làm như các bà không hề chết vào lúc đó, cũng có thể về mặt ngôn ngữ, không lẽ người ta dùng chữ ‘hạ mã phong?; mặc dù việc gối chăn từ cổ chí kim các bà thỉnh thoảng cũng ở vị thế thượng chớ đâu phải lúc nào cũng hạ.
Điều đáng nói hơn nữa là xưa nay con người có quá nhiều chuyện đột tử: chết vì cười ngất, chết vì khóc ngất, vì đi xe đạp, xe hơi, máy bay, khi ăn uống, ngủ nghỉ, thì lẽ đương nhiên khi sướng cũng có thể chết được đó là chuyện ngẫu nhiên. Người bị đột tử có thể đã mắc bệnh từ trước. Theo tổ chức Y Tế Thế Giới thì bệnh cao áp huyết có thể giết chết con người bất cứ lúc nào, vì chúng ít có triệu chứng để phòng ngừa. Một nghiên cứu mới nhất của giáo sư Gordon Smith của trường đại học Madison, bang Wisconsin Hoa kỳ thì trên 4.320 trường hợp đột tử cho thấy có 29 trường hợp xảy ra ngay lúc đang sinh hoạt tình dục, trong đó phần lớn là những người đã mắc bệnh tim mạch từ trước. 18 tình huống xảy ra trong khách sạn, 80% là ngoại hôn, có 2 phụ nữ). Đó là phần khoa học, còn ‘truyền khẩu dân gian” thì không thể nào kể hết, vì tình dục vẫn là lãnh vực nhiều chuyện nhất trong các loại sinh hoạt của con người.
Nhưng theo sách vở thì đa số các trường hợp thượng mã phong được rỉ tai nhau đều là nói dóc hoặc tưởng tượng, với các chi tiết ly kỳ như dương vật không bao giờ ‘xìu’, muốn chữa trị người vợ phải dùng vật nhọn đâm vào cuối xương cụt của chồng để kích thích thần kinh. Nghe truyền miệng rằng phụ nữ ngày xưa có tục mang trâm để đề phòng chuyện ấy. Thú thật khi ông xã đang lâm trận, anh ta như con hổ vồ mồi, đùng một cái nằm bất động, gọi anh ơi, anh hỡi mãi không thấy trả lời là người vợ cũng hồn bất phụ thể chứ ở đó mà đi tìm ‘chiếc trâm em cài’ hoặc ai còn tỉnh táo mà nhổ nắm lông quanh hậu môn, hoặc chỗ nào nhạy cảm nhất của ông xã để giành lại sự sống với tử thần. Chính Thìn đã nghiêng mình cho Hổ lăn ra giường, quờ quạng trong bóng đêm mặc quần áo, rồi tìm cái quần đùi mặc vào cho Hổ trước khi chạy ra ngoài kêu cha mẹ Hổ vào. Khi đó ai cũng trách Thìn là tại sao không để nguyên lúc ‘ta đưa nhau về nguyên thủy loài người’ mà lại đợi cho xong các thủ tục y phục mới gọi. Thú thật, không ai chịu nổi cảnh để thân thể lõa lồ như thế cho người khác vào làm cái công việc cứu cấp.
Hai nhịp cầu gãy đổ. Thìn biết được lý do chính đáng cho cuộc hôn nhân đầu đời. Nhưng cuộc hôn nhân hiện tại thì sao? Lẽ nào đôi gò má cao là tướng sát phu của Thìn lại có mảnh lực làm gãy hai nhịp cầu Cần Thơ để khiến cho người chồng mới cưới ra người thiên cổ, chắc trong số gần 70 người chết ấy thế nào cũng có những bà vợ có tướng sát phu chứ đâu thể nào có mỗi mình Thìn. Thìn chạy vào phòng vệ sinh, đứng soi mặt mình trong gương thật lâu, nàng đưa hai bàn tay lên gò má ấn mạnh. Thìn tự nhủ: ‘Phải chi thấp xuống một tí thì hay biết mấy’.       
Thủy Lâm Synh                          
Feb. 27, 2008
Cỏ non
Truyện ngắn Thủy Lâm Synh
Gặp ông Thịnh ở phi trường O’hare hôm chủ nhật tuần trước. Ông mặc chiếc áo sơ mi trắng và thắt cà vạt màu rượu chát. Mái tóc ông Thịnh nâu đen, chải ngôi giữa và xịt dày keo, không chừng mới hớt, nhuộm sáng nay nên trông ông trẻ ra - ít nhất cũng hai tuần -.
Dù không thân cho lắm, nhưng ông Thịnh làm nghề địa ốc, báo nào cũng thấy đăng quảng cáo hình của ông nên hầu như ông Thịnh được nhiều người biết đến. Có người gọi một cách giản dị là: “Thịnh Địa Ốc” cho dễ phân biệt với một ông Thịnh khác đang làm ngành bán bảo hiểm ở đây.
Tôi tiến lại chào:
- Chà anh Thịnh đi đón ai mà chưng diện bảnh thế?
Ông Thịnh chúm chím cười, đưa tay che một bên miệng nói nhỏ, dù chung quanh chẳng có ai.
- Đón bà xã từ Việt Nam qua.
Cử chỉ vui mừng pha chút hãnh diện ấy khiến tôi nghĩ lòng ông Thịnh đang tràn ngập hạnh phúc. Tôi nói:
- Chúc mừng anh, nhưng sao mấy mươi năm, bây giờ chị mới chịu qua?
Ông Thịnh vẫn cài nụ cười mỉm trên môi, đưa hai ngón tay phải lên cổ sửa sửa chỗ gút thắt chiếc cà vạt, ông tiếp lời:
- Bà xã mới, bảo lãnh đã vài năm, bây giờ mới qua. Cô ấy còn trẻ lắm.
Tôi cười đưa đẩy:
- Ngon lành quá ta. Ừ! nhà sau thường là nhà lớn, vợ sau phải là vợ trẻ chứ.
Sau vài câu xã giao thời sự với ông Thịnh. Thảo, em gái tôi và chồng nó đẩy chiếc xe có chất vài va-li ngó dáo dác đi ra cổng. Trông thấy tôi, chúng nó vẫy tay. Thế là tôi bắt tay từ giã ông Thịnh đưa tụi nó về nhà.
Trên đường về, tôi vui miệng nói với vợ chồng Thảo:
- Tao vừa gặp ông Thịnh địa ốc, đi đón vợ mới nên quần áo tươm tấc ra phết.
Thảo buột miệng hỏi chồng:
- Chắc con nhỏ Việt Nam còn trẻ măng trang điểm như đào hát trên cùng chuyến bay, ngồi gần hàng ghế mình phải không anh?
- Anh đâu có biết, nhưng tối hôm qua khi ở phi trường Tân Sơn Nhất, lúc sắp vào cổng, anh thấy phía sau xa xa, con bé đó ôm chặt thằng kép trông có vẻ bịn rịn lắm.
- Phải nó không? – Thảo hỏi.
- Không để ý gương mặt, nhưng chắc là nó, cái áo thun hồng bó sát lúc ngồi trên máy bay anh đoán là nó.
- Thảo chép miệng:
- Lại một con “trâu già ham gặm cỏ non.”
Câu chuyện  ông Thịnh đón vợ mới, cô gái trang điểm kỹ mặc áo thun hồng, có thể đã có chồng, hoặc người yêu tiễn chân lúc chia tay ở phi cảng tới đó chấm dứt. Chúng tôi nói lan man qua chuyện gia đình.
Tôi hỏi Thảo:
- Kỳ nầy về mầy có gặp bác Nguyện không, chắc bác già lắm chứ gì?
- Đâu có già lắm, hai bác dạo nầy thấy khỏe mạnh ra. Sáng sáng ông bà ra công viên tập Tài Chi, tối về chùa ngồi thiền, khóa tu Phật Thất nào mà ông bà không tham dự. Hai bác mới xây được căn nhà gạch gần chùa Hoằng Pháp, bác gái nói cũng năm sáu chục ngàn đô lận.
Nghe nói đến số tiền lớn, tôi há hốc hỏi Thảo:
- Ổng bả làm gì có nhiều tiền thế?
Chồng Thảo xía vô:
- Chắc bác làm cán bộ nhà nước chứ gì?
Thảo xì nặc chồng:
- Anh nầy, cái tật đoán mò không chừa. Cán bộ gì? Bác Nguyện là giáo chức đã nghỉ hưu. Lương hưu không đủ nuôi bản thân của ông ấy. Nghe bác gái khoe chị Út Tâm có chồng nước ngoài, anh ấy giàu lắm. Chị Út Tâm cần bao nhiêu anh cũng gởi về, ngoài vấn đề gởi tiền về xây nhà cho hai bác, còn mua xe gắn máy để chỉ đi học Anh văn, mua computer để nối mạng liên lạc cho dễ... Bác gái nói bác có dành dụm chút đỉnh từ bao lâu nay, cộng với tiền chị Út Tâm mới xây được nhà.
Nghe có vẻ thân thiện, chồng Thảo hỏi tôi:
- Về làm rể dễ chừng mười bảy năm, thỉnh thoảng em nghe Thảo nhắc đến bác Nguyện, nhưng em chưa biết bác ấy bà con thế nào với nhà mình, anh hai?
Tôi giải thích:
- Ông nội của bác Nguyện với ông nội cha mình là anh em. Đến thế hệ mình cũng ba đời rồi. Dượng mầy mới lấy Thảo, lại ở xa, ít gặp nhau và chưa có dịp về nhà từ đường ăn giỗ nên làm sao biết. Bác trai được lắm, con người sống có tình, có nghĩa. Chỉ có bác gái, bà đó có tiền là dễ thay đổi. Lúc xưa bà già lo cho tao và con Thảo vượt biên, thiếu bác gái một lạng vàng mà bả cứ sợ mất nên đòi ngày một, ngày hai. Bác trai nói: “thủng thẳng thím nó trả, thím lo cho cháu mình chớ lo cho ai. Cái miệng bà lép xép, làm cho gia tộc xào xáo. Thím không trả được, tui chịu cho bà, nhưng bà phải im cái mồm lại, nghe chưa?” Chừng đó bác gái mới chịu tạm ngưng đòi.
Thảo rộng lượng chen vào:
- Chắc lúc đó bác cũng túng, bây giờ khá rồi, “phú quí sinh lễ nghĩa”. Hôm em ghé thăm nhà bác, chị Út Tâm đi vắng, bác gái vồn vã lắm. Bác kể là chị Út Tâm sắp xuất ngoại, nhưng chị ấy căn dặn là tuyệt đối kín miệng, không được nói với bất cứ ai.
Tôi xuề xòa:
- Chắc lại Đài Loan, Hàn Quốc gì đây. Hình thức đi lao động chứ gì.
Chuyện bác Nguyện trai tình nghĩa, bác gái khó chịu, chị Út Tâm sắp xuất ngoại, tới đây chấm dứt. Tôi phụ thằng em rể xách cái vali nặng trĩu vào nhà:
- Bay mua gì mà va-li cái nào cũng nặng như đá thế nầy?
Thảo chép miệng:
- Cái nào cũng mắm tôm, mắm ruốc, mắm sặt...bà già mua cả mớ, may mà nó không vỡ, nếu không thúi cả quần áo cho mà coi.
Bẵng đi cả nửa năm. Một sáng chủ nhật trời lạnh như cắt. Tuyết đã ngừng rơi. Vợ chồng Thảo chuẩn bị đi chùa có lễ Vía A Di Đà thì nhận được điện thoại. Đầu dây bên kia, chị Út Tâm sụt sùi:
- Thảo ơi, em đang ở tiểu bang nào vậy?
- Tụi em ở Illnois, mà chị đang ở Việt Nam hay ở đâu mà nghe rõ dữ?
Giọng chị Út Tâm reo lên:
- Chị cũng ở Illinois, nghe các em ở cùng chỗ chị mừng quá.
- Sao chị biết số phone tụi em?
- Tìm khắp nơi đó chớ.
- Chị qua Mỹ hồi nào?
- Sáu tháng nay rồi.
- Ủa! Sao lúc tụi em về, cũng khoảng sáu tháng rồi, có nghe nói gì đâu!
- Ừ lúc đó giấy tờ lo xong, nhưng phỏng vấn đến mấy lần bị bác, nên hết hứng thú.
- Chồng chị là ai, tụi em biết không?
- Có lẽ không cần biết.
- Tại sao vậy?
Giọng chị Út Tâm nhỏ lại như nói thầm:
- Đợi xong thẻ thường trú, chị dzọt.
Thảo cũng hạ giọng:
- Tại sao chị có ý định đó?
- Chồng gì mà già hơn chị gần bốn chục tuổi.
- Bác gái nói ảnh tuổi Sửu 49, còn chị đã 25, hơn có hai giáp chứ mấy.
- Không dám đâu! Ông tuổi Kỷ Sửu 61 rồi đó em ơi. Nghe nói tuổi Sửu, bà già tưởng 49, ông già lại tưởng có 37 thôi.
Thảo vui miệng:
- Thì chỉ có 3 con giáp chớ mấy!
- Thôi mầy ơi, cũng vừa thôi, già quá như cha con, mắc cở chết.
Thảo níu kéo:
- Nhưng khi anh ấy qua đời, chị lại được hưởng một tài sản kết xù.
- Kết xù khỉ! Ổng làm ngành địa ốc, bây giờ thị trường tuột như xe không phanh. Bao nhiêu của cải đầu tư vào nhà cửa, nay nhà băng lấy sạch sành sanh. Vợ chồng đang ờ nhà thuê đây.
- Chồng chị không tìm việc làm khác à?
- Ảnh đi cắt cỏ, nhưng mùa đông thì cỏ đâu mà cắt.
Thảo buột miệng:
- Nghề nào cũng nghề, lương thiện là được rồi.
- Em nói vậy chớ bên nhà ai cũng đồn là chị lấy chồng giàu có, bây giờ qua đây mới vỡ lẽ.
- Thì gặp hồi kinh tế khủng hoảng chớ ai muốn thế. Bây giờ chị tính sao?
- Chị cũng chưa biết! Có lẽ đi học làm móng tay...
- Ừ vậy cũng được, phụ chồng một tay.
Thảo nói trong hối hả:
- Bây giờ tụi em đi chùa, chị cho biết số phone, xong lễ về em gọi chị. À mà chồng chị tên gì?
- Anh ấy tên Thịnh, ở đây người ta gọi anh ta là “Thịnh Địa Ốc”
Thủy Lâm Synh
Dec. 7, 2008
Hồi Xuân
Truyện ngắn Thủy Lâm Synh
Chiều xuống thật nhanh, nhanh như tuổi đời của chị Thục. Mới đây thôi, chị còn là một giáo viên trường cấp một; thướt tha áo dài trắng, chạy xe Dame; nhiều đồng nghiệp đã ghen với cái nét đài các và vóc dáng sang trọng của chị. Mặt chị Thục hơi vuông tạo những nét cương quyết. Mà chị Thục cương quyết thật đấy, chồng chết khi tuổi đời mới 30. Chị Thục cương quyết không dễ dãi cho bản thân. Lẽ dĩ nhiên, hai đứa con trai rất kháu khỉnh đã là động cơ khiến chị cương quyết treo cái tiết giá lên cao. Mau quá, vụt một thoáng, chị trở thành bà lão hồi nào không hay! Có ngờ đâu cuộc đời đưa đẩy. Bước thêm bước nữa ai cũng nghĩ là vì chị Thục đang “Hồi Xuân”.
Hồi xuân! Nghe cũng lãng mạn quá chứ? Chị Thục nhìn gương mặt già chác của mình trong gương rồi mỉm cười nhớ lại thời son trẻ. Chồng chị Thục là anh Tâm nghiện rượu nặng. Ngày nào cũng say, chị Thục chịu đựng cả chục năm với người chồng vô tích sự ấy. Cái say của anh Tâm bắt đầu từ một khủng hoảng việc làm. Ba anh Tâm là đảng viên nên anh mới được cất nhắc làm chủ nhiệm khu chế biến thủy sản Trùng Dương. Mới làm được một năm anh Tâm đi ngồi tù vì cái tội ham tiền ký giấy phép mua năm phuy dầu cho một ghe vượt biên. Thật ra, lúc bấy giờ ít còn ai ham vượt biên nữa vì các nước tây phương đã chán ngấy khối người khổng lồ đang ăn chực nằm chờ tại các trại tỵ nạn chưa phương giải quyết. Mỹ khuyến khích người Việt tỵ nạn hồi hương, bù lại được nhận khoản tiền ít nhiều gì đó. Anh Tâm chủ quan như thế nên hạ bút ký tờ đơn mua dầu cặn, không ngờ cái chữ ký oan nghiệt ấy đưa anh vào khám ngồi bóc gần hai quyển lịch.
Chị Thục lo cho chồng đến tán gia bại sản mới được mãn tù. Khi về, anh Tâm tìm không ra việc làm vì có án, mà là án ăn hối lộ.  Thất chí, anh Tâm nhậu li bì, sáng say chiều xỉn, bao nhiêu năm liên tiếp. Chị Thục hết lời khuyên giải, nhưng càng khuyên chén dĩa càng bay, đi thì thôi, về là chửi chó mắng mèo. Không biết anh Tâm bất mãn xã hội không dung túng anh, hay bất mãn chính mình vì cái tội ham tiền mà càng ngày ăn nói càng trở nên thiếu văn hóa. Cũng phải thôi, anh Tân có văn hóa đâu mà thiếu. Lêu lổng từ trẻ, anh Tâm ỷ lại vào người cha “có công cách mạng”. Con người như thế, chị Thục bỏ mặc anh Tâm không thèm đá động gì tới nữa. Cho đến lúc nước da vàng như nghệ, bụng chương lên, đi khám, bác sĩ cho biết anh Tâm bị chứng ung thư gan đến thời kỳ cuối. Chị Thục không chút ngạc nhiên, bởi một con người thiếu trí tuệ đã tự hủy hoại thân thể của mình bằng độc tố. Cũng may, Tâm qua đời sớm, ngoài thì buồn cho đúng thủ tục, bên trong chị Thục mừng vì vừa trút được một gánh nặng.
Từ ngày chồng chị Thục về bên kia thế giới để tiếp tục say, chị Thục chưa bao giờ nghĩ đến bóng dáng một người đàn ông khác, ít nhất là bề ngoài. Cái nề nếp gia phong đã không cho phép chị tự do chăng? Có người cho rằng dù sao thì cũng nhất sỹ nhì nông. Nếu có bước thêm vài bước nữa thì chị Thục cũng phải chọn người có bằng cấp một tí cho xứng đáng với cái “mark” giáo viên. Nghặt một nỗi, đốt đuốc đi tìm ở cái thành phố nhỏ nầy cho được ông nào có kiến thức, tuổi cao, lại rảnh vợ để làm bạn cũng khó chứ nói chi làm chồng. Anh hiệu trưởng của trường chị đang dạy thì sao? Chết vợ, xứng đôi đấy! Nhưng về để mà nuôi nguyên đàn con sai nái của bà vợ trước thì thà làm bà sơ bà vãi sướng hơn. Chị Thục nghĩ thế và cương quyết ở vậy, cho đến một ngày định mệnh đưa đẩy chị lên xe hoa...kỳ.
Chuyện tái giá của chị Thục tuy đơn giản nhưng đã gây thắc mắc cho nhiều người, nhất là bà con thân tộc bởi ai cũng biết sau vài thập niên nằm trơ vơ, mùi đàn ông nó ra sao hầu như chị quên mất. Con cái đã trưởng thành và sắp nên danh.  Chị Thục đang sung sướng với chức năng làm mẹ. Chị hãnh diện là phải; thằng Tình, đứa con đầu đang là bác sĩ  thực tập tại bệnh viện toàn khoa Nha Trang. Thằng Thâm có lẽ cũng theo nghiệp anh nó nên đang mài đũng quần những năm cuối trường thuốc. Cái bóng hạnh phúc vì sự nên hình, nên vóc, nên danh của hai đứa con làm cho chị Thục cứ lân lân như người vừa hớp ngụm rượu. Thế nhưng một khúc quanh lại đến trong cuộc đời vừa đúng 55 tuổi của chị. Đó là việc chị Thục lấy một anh Việt kiều vài tuổi lớn hơn con đầu lòng của mình. Cũng may chị đã nghỉ hưu, nếu không thể nào chị Thục cũng nghe những dị nghị của bạn đồng liêu, và anh hiệu trưởng chết vợ cứ đeo như đĩa.
Nghe chị Thục tái giá nhiều người không tin, lúc trẻ còn không muốn, huống chi đến giờ nầy “điện nước” hết rồi. Nhưng sự đời nó đưa đẩy nhiều khi chỉ có người trong cuộc mới biết. Bàn tán xoay quanh cuộc hôn nhân phức tạp của chị Thục có hai vấn đề người ta đặt ra: Thứ nhất, từ trước đến giờ thông thường chỉ nghe đàn ông Việt kiều già về quê tìm bồ nhí, vợ trẻ để thăng hoa cho cuộc sống vị kỷ. Thứ nhì, Việt kiều tìm người muốn xuất ngoại kết hôn kiếm chút hoạnh tài... Nhưng lạ lắm, hai điều trên hoàn toàn không nằm trong khung cuộc hôn nhân của chị Thục.  Như vậy tại sao chị Thục lấy chồng, lấy để làm gì? Mà lấy một đứa chỉ đáng tuổi con mình là thế nào?
Giản dị lắm, năm năm trước, một buổi chiều hè, chị Thục đạp xe hóng mát trên đường Trần Phú. Trước chị là một người đàn ông đang loay hoay đưa mắt vào máy hình. Một cô gái phóng xe gắn máy từ sau tới, tròng tay phải vào dây chiếc máy hình làm cho người đàn ông kia bị giật ngã bịch ra ngoài đường. Một chiếc xe khác trờ tới tung vào người đàn ông, một tiếng la “ối” rồi lịm mất. Chiếc xe vừa tung người lạng quạng vài giây rồi thăng bằng trở lại, cả hai đều rú ga chạy mất hút lẫn trong đám xe cùng chiều. Mắt chị Thục vừa chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng như trong phim hành động. Phản xạ của từ tâm, chị Thục liệng xe đạp vào lề, nhào tới xốc nạn nhân lên, máu me nạn nhân ướt cả áo lụa trắng của chị. Người đàn ông bất tỉnh, gọi mãi không nghe trả lời. Chị Thục kêu taxi đưa ngay vào bệnh viện cấp cứu. Vì nạn nhân bất tỉnh, chị Thục đứng ra lo vài thủ tục nhập viện, chạy chữa...
Dưới chân giường, người ta thấy tấm giấy ghi bệnh lý như sau:
 “Nguyễn Tấn Tú, sinh năm: 1982, quốc tịch: Hoa Kỳ,
Bệnh trạng: bị xe gắn máy tung gãy hai xương sườn.
Người thân: Trần Đoan Thục...
Được mẹ dặn cẩn thận, bác sĩ thực tập Tình hết lòng săn sóc cho Việt kiều Tú. Trong thời gian dưỡng bệnh, chị Thục tới lui săn sóc Tú và xem như con. Khi lành bệnh, Tú và Tình kết thân thành đôi bạn bởi Tú cũng là bác sĩ, nhưng anh chuyên về giải phẫu thẩm mỹ - ngành mà Tình mơ ước từ lâu. Về nhà Tình chơi, ăn uống ...Tú vẫn gọi chị Thục bằng mẹ. xưng con, như Tình và Thâm.
Về lại Mỹ, Tú tìm cách trả ơn gia đình bạn, muốn đưa cả gia đình Tình xuất ngoại để giúp anh em Tình vào ngành họ ưa thích nhưng luật sư của Tú cho biết chỉ có con đường duy nhất hợp lý là Tú phải về làm đám cưới với “mẹ Thục”. Thế là một đám cưới đơn giản, nhưng có quay phim và mướn thợ chụp hình. Thục đắp sáp dày lên mặt, cưa sừng làm nghé tròng áo cô dâu, Tú để râu tóc bồm xồm, nhờ nhân viên thẩm mỹ make-up, diện đồ chú rể.
Chín năm trôi qua, Tú đã dẫn dắt hai người em kết nghĩa Tình và Thâm trở thành bác sĩ chuyên khoa giải phẫu thẩm mỹ. Mỗi người chịu trách nhiệm một nơi trên cơ thể con người. Viện Thẩm Mỹ 4T, viết tắt từ Thục, Tú, Tình, Thâm mới khai trương hai năm thôi mà khách sắp hàng. Thời buổi mà các đấng ông chồng luôn phàn nàn vợ về những dấu chân chim trên khóe mắt, bụng cả đống da nhão nhoẹt, vế rỗ như mặt võng...thì các thẩm mỹ viện có cơ hội hốt bạc các bà. Các bà không sửa soạn cho mình thì cái khâu giữ chồng không cũng đủ mệt. Con gái ở Việt Nam rất tử tế, cỡ nào chúng cũng gọi bằng anh nghe sao mà ngọt như mía lùi.
   Khách đông, ba anh em làm không xuể, những bậc thầy giàu kinh nghiệm ở trường được mướn về làm việc. Viện Thẩm Mỹ 4T đang là mối đe dọa lớn lao cho hai cơ sở thẩm mỹ đã có tiếng từ lâu là Bích Ngọc và Hạnh Phước.
Từ ngày định cư, chị Thục lu bu quá nhiều công việc. Giờ nầy thì mấy đứa con không cho chị Thục ra dưỡng đường như những ngày đầu khai trương nữa. Hai cô Ba Lan  khỏe mạnh lo quét dọn, lau chùi. Sổ sách kế toán, đều có nhân viên lo. Ở không không quen, chị Thục lại thấy buồn vì mấy đứa con chưa đứa nào có vợ để cho chị có chút cháu ẵm bồng.
Vài năm trở lại đây, chị Thục rảnh rang, nên đi chùa đều đặn. Tuần nào cũng có mặt chị ở nhà bếp làm công quả. Chị Quảng Hoa, người đầu bếp chính chùa Trúc Lâm hỏi chị Thục:
- Nghe nói Diệu Hiền (pháp danh chị Thục) đón xe buýt về chùa, sao không bảo ông xã chở đi?
Chị Thục cười:
Em có chồng đâu!
Sao hôm trước ai nói chị qua Mỹ theo diện hôn nhân?
Ừ thì hôn nhân, nhưng chia tay rồi.
Lẹ dữ trời – Chị Quảng Hoa chép miệng!
Chị Thục che miệng nói vào tai chị Quảng Hoa:
Mình đã diễn xong vở kịch cho tương lai hai đứa nhỏ.
Thủy Lâm Synh
Jan. 12, 2009
OAN HỒN
Truyện kinh dị
Thủy Lâm Synh
Cơn mưa giông vừa tạnh, chỉ còn lác đác vài hạt thật nhẹ. Xa xa, những tia chớp lóe lên làm sáng rõ ngọn tháp giáo đường. Giờ nầy mọi người trong xóm Xuân Bình đã say ngủ. Khuya lắm rồi, dễ chừng cũng sau nửa đêm. Lão Doanh, bước ra sân quẹo qua phía hè sau, nơi có ba tấm ván dựng thành hình chữ U chứa một đống tro, vắn quần lên tiểu.   
“Cho tôi miếng nước...có ai cho tôi miếng nước...trời ơi, tôi khát quá, chết mất...”
Trong bóng đêm dày đặc, lão Doanh rùng mình ngơ ngát, lão nói thầm trong bụng:
“Giờ nầy ai còn xin nước?”
Lại tiếng kêu:
“Cho tôi xin miếng nước...có ai cho tôi miếng nước...trời ơi...”
Tiếng than lúc nầy gần lắm, giọng the thé, khiến người nghe nổi da gà. Lão Doanh ráng sức tiểu cho lẹ, chưa đã, nhưng lão đành cầm ...lắc lắc thật nhanh, thả ống quần ngủ xuống, vội chạy vào nhà, đóng sầm cửa lại. Tiếng xin nước lúc nửa đêm làm toàn thân lão Doanh ớn lạnh.  Sực nhớ câu nói của cha Luông: “Chúa đã từng làm phép đuổi quỷ nhập vào đàn heo để cứu người đàn bà ...”. Lão Doanh mò tìm chiếc hộp quẹt đốt đèn, đến bàn thờ cầm cây thánh giá, tròng xâu chuỗi vào cổ mở cửa mạnh dạn bước ra sân.  Lão Doanh cầm thật chắc cây thánh giá làm như thể nó vụt bay đi. Lão đưa lên trời, đọc một hồi kinh Lạy Cha cho đến đoạn cuối ...nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ...Amen. Lão cố đọc lớn câu sau cùng nhiều lần.
“Quớc, quớc”
Lão Doanh giật bắn mình, một con quạ đâu đó kêu hai tiếng, vỗ cánh sà xuống ngang trước mặt lão rồi vụt bay đi. Lóng ngóng vài giây, tiếng kêu xin nước cũng bặt... “như vậy là tốt lắm rồi”, lão Doanh nghĩ như thế và tự cho mình hưởng cái quyền an ninh. Có thể sau khi đọc kinh, hồn ma được nhập vào con quạ và Chúa đã đem nó đi trấn nước rồi, miệng lão càm ràm, khinh miệt: “ma với cỏ” rồi quày quả bước vô nhà, đóng cửa. Đặt cây thánh giá vào chỗ cũ, cởi xâu chuỗi tròng hai bận vào nó, lão Doanh bưng chiếc đèn hột vịt lên gần miệng thổi cái phụt, để lại xuống bàn. Lòng đôi dép Nhựt dính cát, lão co hai bàn chân xát vào nhau vài lần cho sạch trước khi nằm trở lại.
Độ tàn điếu thuốc, trí lão Doanh chưa hết bàng hoàng, trong mùng, mắt lão vẫn còn thao láo với màu đen quánh xung quanh. Bỗng tiếng bước chân của ai mỗi lúc nghe một gần. Tiếng chân ngừng hẳn, mấy con gà phát hiện có bóng người la toáng lên, đập cánh đành đạch như muốn phóng ra khỏi chuồng. Lão Doanh ngồi phắt dậy rón rén đi đến cửa sổ nhìn ra vì đinh ninh có kẻ trộm. Một tia chớp lóe lên, lão Doanh giật thót, lạnh xuyên toát xương sống; dáng một người đàn bà gầy đét, đầu bù xù, mớ tóc phủ xuống gương mặt xanh dờn như tàu lá chuối non mà lão chỉ cách bà ta có mấy song cửa sổ. 
Người kia cất tiếng gọi:
 “Cho tui xin miếng nước... cho tui xin... xin nước”
Tiếng nói đứt quảng và mang âm thanh cực kỳ rùng rợn. Lúc nầy hồn vía lão Doanh lên mây. Lão á khẩu phóng lại bộ phản lăn tuốt vào góc trùm mền kín mít. Bà vợ nằm trên chõng tre kê gần bếp, chưa tỉnh ngủ hẳn, nghe thấy tiếng kêu bên ngoài sợ quá đái vãi ra quần, nhào qua phòng thằng Thế, đứa con đang ngủ chung với vợ mới cưới. Bà nhào lên giường chen vào giữa hai vợ chồng nó làm chúng giật mình thức giấc hỏi dồn:
“Chuyện gì vậy, có chuyện gì...?”
“...mờ...mờ...ma...”
Bà Doanh trả lời ú ớ, hai hàm răng gõ vào nhau nghe lộp cộp. Một góc của chiếc mùng bị đứt dây, phủ xuống như tấm lưới cá làm Thế quờ quạng một lúc mới hất được mùng chui ra. Lúc nầy nó đã nghe tiếng kêu xin nước bên ngoài vọng vào làm tim nó cũng đập thình thịch như muốn bung ra khỏi lồng ngực.
Nãy giờ toàn thân lão Doanh nằm co quắp như con tôm. Tất cả vốn liếng kinh, kệ lão nhớ câu nào đọc câu đó, không đầu không đuôi. Lão sờ lên cổ để tìm xâu chuỗi hộ mạng, nhưng chợt nhớ ra đã treo nó lên cây thánh giá rồi.  Trong nhà lão Doanh ai nấy đều run. Thằng Thế làm bạo bước trên mười ngón chân xuống nhà bếp lấy cái rựa. Nó không biết lấy rựa để làm gì, chặt ma ư? nó không có ý định ấy, nhưng nghe nói ma sợ sắt biết có đúng không? Cái rựa không nằm ở vị trí thường lệ, nó mò mẫm trong bóng đêm, bàn tay phải giong ruổi huơ vào lưỡi dao, nó thấy rát biết vừa bị đứt. Thế lấy bàn tay trái bóp mạnh vào vết thương cho cầm máu.
Bên ngoài tiếng xin nước và tiếng móng tay cào lên cánh cửa bằng tole cứ chốc chốc xoáy vào nghe cực kỳ rùng rợn. Thục và mẹ chồng vốn chưa thân nhau lắm, thế mà đêm nay, Thục ltrùm mền quá đầu quay mặt vào vách run như người bị sốt rét nặng thì sau lưng mẹ chồng cũng ôm chặt lấy vai nàng mà run. Một đêm hãi hùng không tả trùm xuống nhà lão Doanh, một ngôi nhà lẽ loi cách ly xóm đạo Xuân Bình mấy trăm thước.
Nói cho đúng lão Doanh có người con trưởng tên Gia hiện đang làm việc gì đó trên cơ quan phường Tân Giao. Gia nghĩ mình có quyền nên thấy khoảng đất trống sau khi ai đó hốt cốt mấy ngôi mộ liền nhau, hắn mướn thợ cất lên ngôi nhà cho cha mẹ và hai vợ chồng đứa em mới lấy vợ dọn vào. Còn riêng Gia thì chính quyền đã cấp phát cho căn hộ tịch thu của một gia đình vượt biên để lại trong cư xá Thống Nhất. So bán kính, nhà lão Doanh nằm gần nghĩa địa công giáo hơn là xóm đạo Xuân Bình.
Khoan nói đến tiếng con ma thỉnh thoảng kêu than xin nước uống mà người ta đồn đãi bấy lâu, nay nhà lão Doanh mới biết là có thật. Tiếng gió về đêm thổi mấy cây dương liễu trồng xung quanh nghĩa trang lúc cao vút, lúc ngừng hẳn rồi trầm trầm trước khi hú lên như một cơn suyễn nặng, cộng với tiếng chó tru dài khan khan đâu đó, tự nó đã tạo lên những âm giai ma quái đến rợn người.
Nghe nói có ma, năm ba thanh niên trong nhóm Thánh thể hiếu kỳ, đem dao, gậy và dĩ nhiên là cây thánh giá to tướng ra nghĩa trang căng mùng nằm chờ. Nhưng lạ lắm, những đêm trăng thanh gió mát hoặc trời khô ráo, không mưa thì lại chưa bao giờ nghe thấy tiếng ma xin nước. Chỉ có khi nào sau cơn mưa và vào lúc nửa đêm thì tiếng kêu xin nước lại xuất hiện. Việc nầy khiến nhiều người đoán mò rằng, trời hành không cho nó uống nước, nên thấy nước hồn ma nó thèm.
Câu chuyện ma xin nước đã tạo cho dân địa phương truyền miệng nhau nhiều huyền thoại. Trong ấy có chuyện một người đàn bà chửa, còn rất trẻ, xin ăn lang thang trên khắp nẻo đường trong thị xã Cam Phương. Cô ta không có nhà cửa, tối đến thì đụng đâu quấn mền đó. Người ta gặp cô ở những góc phố, trong lều chợ, hè trường học, trạm xe búyt v.v... không ai biết chỗ nào chắc chắn.
 “Khó khăn như thế thì chửa với đẻ làm chi cho phiền.” -  Ông đi qua, bà đi lại khó tánh bàn tán như thế.
Nhưng những suy nghĩ rộng lượng hơn thì cho rằng con người là một tổng hợp của hỷ nộ ái ố – có thể sau một bữa ăn no, người ta có quyền nghĩ đến một chút thoải mái bằng phương tiện sẵn có. Người kể chuyện còn cả quyết tiếng xin nước ấy chính là hồn ma chị Thơm, chị đã tự tử trong khám nhân lúc Việt Nam có tổ chức Sea Game năm 2003.
Chính quyền muốn cho thế giới thấy vẻ lành mạnh, văn minh của xã hội nên đã mạnh tay với những người ăn mày khắp cả nước. Không ngờ như mặt trái sần sùi của tấm huy chương, chỉ thị lại ảnh hưởng đến số phận người đàn bà khốn khổ. Chắc buồn lòng thế nào đó mà chị Thương treo cổ tự tử. Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột – giới chức địa phương không ai buồn điều tra vụ người ăn mày tại sao chết. Hơn nữa, thiên hạ có thói quen cho rằng, người ăn mày vốn trên đời đã bất hạnh, chết đi biết đâu không là một giải thoát khỏi cảnh đọa đày do cơm áo gây nên.
 Không phải ngẫu nhiên mà ông bõ già của nhà thờ Xuân Bình được nhắn vào phòng giam nhận xác chị Thơm về chôn. Nguyên anh Gia,  làm việc trong phường Tân Giao lúc nầy mới theo công giáo. Mỗi tuần anh về nhà thờ xưng tội, xin lễ rất đều đặn, nên càng quen thân với tín hữu, quen với bõ già. Cha xứ trở nên thân thiện với người có quyền chức thấy rõ. Sau lễ có khi Gia ở lại la cà tâm tình với cha. Khi về Gia thường khuân theo các thứ quà cớm thặng dư do giáo dân mang tới biếu cho cha, đại khái như kết bia, vài chai rượu lễ, thùng nước ngọt, tá áo thun v.v...Thứ gì Gia cũng dễ dãi nhận cho cha vui. Thật ra tặng người cán bộ mấy thứ dư dùng cũng có cái lợi – thứ nhất, bất cứ những lỗi lầm nào từ việc lái xe cán chết người, chở ba, xe lậu, đánh lộn...của con chiên Xuân Bình bị bắt về đồn, chỉ cần cha nói một tiếng là mọi việc đều yên. Thứ nhì, tội gì không làm quen với những người có quyền, họ là thành phần truyền đạo tốt. Tiếng nói của họ mạnh gấp trăm lần mấy ông biện trong giáo xứ gởi ra ngoài gõ cửa những người lương chung quanh để mở mang “xóm” Chúa.
Trước khi bõ già đi nhận xác người ăn mày, họ đạo Xuân Bình mở một phiên họp bàn xem nên chôn người ấy ở đâu. Hai phần ba số người dự phiên họp đều không tán đồng cho người ăn mày nằm trong khu nghĩa trang công giáo vì họ cho rằng sẽ làm ô uế những linh hồn thánh thiện đang nằm chờ sự trở lại của Chúa Giêsu trong ngày tận thế. Bõ già buộc phải tìm một rẻo đất bên ngoài nghĩa địa công giáo mà chôn người ăn mày.  Ông cắm lên ấy cây thập giá tự chế với hi vọng tình thương Thiên Chúa sẽ ngó ngàng cho con người bạc mệnh. Công việc mai táng hoàn tất, nhưng có một điều chưa bao giờ hoàn tất là hồn ma chị Thơm. Thỉnh thoảng bõ nằm chiêm bao thấy bóng chị Thơm đi vào nhà thờ xin nước. Ông thì không tin chuyện ma quái vì đã có niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa của ông. Nhưng lạ quá, không tin là một việc, nhưng chiêm bao cứ đến khuấy bõ lại là việc khác. Đôi khi bõ đâm ra hối hận vì đã trót nhận xác chị Thơm về chôn, biết đâu con ma nó lại không theo bõ suốt đời. Sau bao nhiêu lần chiêm bao thấy chị Thơm về báo, bõ già không biết làm gì khác bèn đem tự sự trình lên cha xứ. Cha Luông nói với bõ là từ nay đừng bao giờ nhắc đến chuyện hoang đường ấy nữa, cha không muốn nghe. Bõ riu ríu cáo từ, trong thâm tâm ông cứ băn khoăn về những điềm chiêm bao kỳ lạ. Mới đêm kia đây thôi, vừa đặt lưng xuống giường là bõ đã ngủ khì, trong giấc mơ  ông thấy chị Thơm về đứng ngoài cửa sổ nói với ông như thế nầy:
“Tôi là người con gái mồ côi từ nhỏ, sống bằng tình thương của bá tánh. Mười tháng trước đây, nhân dính vào vụ bán vé số giả, tôi bị công an thị xã bắt nhốt. Trong đêm mưa tầm tả, không còn ai ở cơ quan, Gia - một tên cán bộ đã vào nhà giam giở trò sàm sở, dùng sức mạnh cưỡng hiếp tôi. Hắn đã cướp đi sự trong trắng của tôi, làm cho tôi mang bầu, dẫn đến cuộc sống khốn khổ tôi phải đi xin ăn. Thời gian mấy tháng sau, trong đợt Sea Game, nhà nước muốn che đậy bộ mặt nghèo đói của xã hội. Tôi lại bị bắt khi sắp sinh con. Gia muốn che giấu hành động bỉ ổi nên đã vào nhà giam lấy dây siết cổ tôi rồi tạo cho hiện trường được nhìn như một vụ tự tử. Tôi thật sự bị giết, tôi muốn kêu oan”.
“Maria lạy Chúa tôi”! cơn ác mộng hãi hùng, bõ già choàng tỉnh giấc, mồ hôi vã ra như tắm.
Ngày Chủ Nhật sau đó, bõ chăm chú nhìn Gia đang quỳ dưới hàng ghế cuối. Mặt Gia toát ra đường nét ác độc, đê hèn một cách đáng ghét.  Thế mà không biết tại sao từ ngày hắn vào đạo,  cha Luông xem hắn như một tín hữu thân cận. Nhiều khi hai người nói chuyện riêng hàng giờ trong phòng, sau đó khi về hắn còn chở theo những thùng quà nặng trĩu khiến bõ già tiếc hùi hụi. Đôi khi làm việc ngoài vườn khát khô cả cổ, bõ muốn vào nhà kho chôm lon nước ngọt, khui ra tu một hơi cho đã nhưng sợ mang tội ăn cắp.
Từ ngày hồn ma báo mộng, bõ rất ghét bộ mặt đạo đức giả của Gia. Càng gai mắt hơn khi hắn khúm núm quỳ dưới chân Chúa nhân từ và nhận những chiếc bánh Thánh vô nhiễm. Cũng có thể hắn hối hận chăng? Bõ già nghĩ như vậy. Nhưng không, một hôm bõ vô tình đứng ngoài cửa nghe mẫu chuyện giữa cha xứ và hắn.      
“Thưa cha đạo mình khi rửa tội là tất cả tội lỗi đều được Chúa tha hết phải không cha?”
Tiếng cha Luông:
“Giáo hội dạy thì như vậy, nhưng đừng lý tưởng hóa nó.”
“Nghĩa là sao con chưa hiểu.”
“Nghĩa là nói thì như vậy nhưng muốn được tha tội, không phải chỉ có rửa mà còn phải thật sự ăn năn, nếu không ăn năn thì dầu có rửa hết nước một sông cũng không thể nào sạch tội.” Câu chuyện giữa cha xứ và Gia bõ già nghe có thế, nhưng bõ chợt hiểu rằng Gia theo đạo vì hắn muốn cha rửa cho hết tội do hắn gây ra. Bên trong có tiếng đẩy ghế và tiếng Gia cáo từ, bõ già vội bước nhanh ra sân làm bộ lom khom tưới hoa.
Đêm nay trời cũng hâm hấp nóng, khuya lắm rồi mà bõ chưa ngủ được. Nhìn ra cửa sổ bóng trăng lờ mờ, bõ chợt trông thấy một bóng người đi tới, đi lui, bõ bất giác hỏi:
“Ai đó ?”
Tiếng nói như bị nghẽn trong cổ họng, bóng người trả lời:
“Tôi đây, tôi là Thơm, người được ông nhận về chôn mấy tháng trước.”
Bõ giật thót người, trong bụng nhũ thầm, “ma” nhưng không hiểu sao bõ không thấy sợ hãi chút nào, bõ hỏi:
“Cô đến đây có việc gì?”
“Ông đã chôn xác tôi, chắc ông biết không phải tôi tự tử”
“Tôi có hồ nghi như thế?
“Đúng lắm”
Khi bóng chị Thơm đến vịn hai tay vào song cửa sổ, một luồng gió mát lạnh hắt vào, người bõ bắt đầu run, tất cả đều lờ mờ. Trí bõ già nhớ lại hôm nhận xác gương mặt chị Thơm trắng bạch như người chết đuối, hai con mắt trợn dộc và hai bên mép chảy xuống hai vệt máu khô quánh. Ông lạnh người thụt lùi vào trong, lấy can đảm hỏi:
“Tại sao cô lại đến đây mà không đến chỗ khác?”
Bóng ma trả lời:
“Tại vì ông là một con người tử tế, có lòng thương người nên tôi đến nhờ ông”.
Trong bóng đêm, bõ già trầm ngâm một giây hỏi:
“Cô nhờ tôi làm việc gì?
“Ông cầu siêu cho tôi đi tái sinh, nếu không tôi sẽ vất vưởng ở đây mãi”
“Tôi không tin vào việc con người chết rồi có thể tái sinh”
Bóng ma xác quyết:
“Lúc còn sống, tôi cũng không biết và cũng không ai nói cho tôi biết về việc con người sau khi chết, phần hồn còn có thể đi tái sinh. Khi chết rồi, hồn tôi lang thang khắp nơi, đã gặp nhiều vong hồn, gặp các nhà ngoại cảm và đặc biệt tiếp xúc với người cõi âm rất nhiều nên mới hiểu.
Bõ già chống chế:
“Nhưng tín lý của tôi không tin việc ấy là thật.”
“Đây là quy luật luân hồi tự nhiên trong vũ trụ, không dính dáng gì đến tín lý nào cả”
“Như vậy thì tôi làm gì?”
“Ông mua cho được 49 con chim, 49 con cá.”
“Cô biểu tôi nấu cách sao hai thứ ấy?”
“Không, loài vật cũng tham sống  sợ chết như người. Hai loại chim và cá ông mua khi chúng còn sống, ông đem ra mộ của tôi với lòng thành khẩn, ông chỉ nói như thế nầy: ‘98 mạng sống nầy được tự do kể từ hôm nay, để cầu cho vong linh Văn Thị Thơm sinh ngày 16 tháng 3 năm 1980 được đầu thai hóa kiếp’. Sau đó ông thả chim bay lên trời, cá thả xuống sông cho chúng tự do, gọi là phóng sinh”.
Bõ già phân vân hỏi:
“Làm sao tôi có nhiều tiền như thế?
“Ngày mai, sẽ có người đem tiền tới cho ông”. Sau câu nói ấy, bóng ma ngoài cửa biến mất.
Bõ già níu kéo:
“B...bao giờ thì tôi làm việc ấy”
Không thấy bóng ma trả lời. Bõ già khệnh khạng bước đến giường, vừa nằm, vừa lần chuỗi mân côi.
Sáng hôm sau, khi quét lá trước ngõ, lòng Bõ già hoang mang vô hạn. Một gã xe ôm chạy xe vào sân, hắn nói có người gởi tiền nầy cho ông, gã xe ôm vụt biến ra khỏi ngõ, bõ già không kịp hỏi một câu, ông lấy thư bọc vào túi, cài ghim cẩn thận, dự trù thực hiện lời hứa.
Giòng tư tưởng Bõ già còn bàn bạc trong trí, tiếng xe gắn máy cha Luông vừa về tới, giọng ca vẻ hấp tấp:
“Bõ ơi! Ra đây phụ cha một tay khuân mấy bình hoa đặt lên bàn thờ. Nhà cụ Doanh vừa mua hoa đem tới để xin lễ cầu hồn cho anh Phạm Oan Gia. Cụ Doanh nói đêm qua anh Gia uống rượu say, chạy xe tung gãy cột đèn phụ ngay hẻm số 35. Trụ đèn ngã, dây chằng cột điện quấn vào cổ anh ấy tắt thở tại chỗ”
Bõ già thảng thốt kêu lên:
“Maria, Giê-su lạy Chúa tôi”
Bõ cùng cha Luông đưa hoa  vào nhà nguyện. Cha Luông trở ra lấy xe gắn máy đi chở thầy phó tế rồi cùng chạy lên nhà lão Doanh xem có thể giúp được gì cho một gia đình tân tòng. Bõ ngồi môt mình nhìn sâu lên tượng Đức Mẹ, lòng chưa hết bàng hoàng, ông nhũ thầm:
“Nhân quả, luân hồi, tái sinh, phóng sinh...” những cụm từ xa lạ tưởng như mơ hồ, sao nay cứ lẫn quẩn đâu đây, một tư duy làm cho cuối cuộc đời Bõ phải suy nghĩ. Quả vậy từ khi còn rất nhỏ, rời làng Ninh Cường 1954 đến nay hơn nửa thế kỷ, cuộc đời Bõ gắn liền với nhà thờ, nhà xứ. Có khi nào Bõ được đọc một quyển sách ngoại đạo đâu. Nhân quả là gì Bõ không biết, nhưng lão rất tin về việc gieo gió thì gặt bão như trường hợp anh chàng Phạm Oan Gia.
Thủy Lâm Synh
Apr. 6, 2008
ĐÊM HUYỀN THOẠI
Tóc em xuống đôi bờ vai phù thủy
Ta ngã đầu nô lệ trắng đêm nay
Trăng võng mạc soi trên màu vạn cổ
Sương ngừng rơi và mây cũng ngừng bay
Đêm huyền thoại nghiêng hồn nghe máu chảy
Vỡ đam mê da thịt bốc hơi men
Từng động mạch gào bên bờ tục tử
Vành môi ngoan nghe hóa chất thân quen
Giọt dẫu đắng khuấy thêm tình em ngọt
Không gian nầy gỡ hết những ưu tư
Tội gì nhốt cô đơn vào biển khổ
Trần gian đây chưa độ lượng nhân từ
Ta nắn nót dấu yêu vào huyền thoại
Cánh tay đời vung vãi chuyện trăm năm
Quân tử quyết nhốt hơi tàn cổ mộ
Ta phàm phu du thủ có ăn nhằm.
Em hãy giữ cho riêng niềm hạnh phúc
Nắng có phai, và mưa có ướt vai
Nến đã thắp trong tim bầu nhiệt huyết
Ngàn năm sau trăng khuyết lại tròn đầy.
Thủy Lâm Synh
July 25, 2010
THƯ XUÂN CHO THẰNG BẠN CŨ

Mầy đã ở quê nhiều đến độ 
Trăng già soi rách đáy sông ngang 
Mưa ngông tróc vỏ cây đa cổ 
Gió loạn mòn sương chết giữa đàng  
Thuở đó bọn mình chơi dưới nắng
Ruộng vừa xới cỏ thoảng gây gây
Xuân thơ lạc dấu chân trời biển
Ký ức còn thơm một vốc đầy  

Mầy vẫn còn mang nỗi đắng xưa? 
Hay đã vì con phủi áo rồi 
Cho ngày nắng lửa mưa dầu cũ 
Khỏi bận lòng chi chuyện... ốc, vôi (*)  
Ta vẫn một đời không danh nghĩa
Nụ buồn vẫn trổ đón xuân xa
Áo cơm còn nợ đời chưa trả
Tết đợ quê dưng rất nhớ nhà  

Mầy ở làng xưa suốt một đời 
Phổi đầy hơi hướm gió quê vui 
Ta đi mặt mũi va ghềnh thác 
Xuân vẽ đường nhăn dấu tích thôi  
Mai mốt ta về chơi một bữa
Những ngày có én, có hoa mai
Cỏ cây sẽ thở câu tình tự
Tao với mầy vui một chén. Say.
Thủy Lâm Synh
(*) lạt như nước ốc, bạc như vôi.
BÀI THƠ ĐÓN TẾT
Tôi không viết nổi bài thơ đón tết
Chỉ vì hồn quanh quẩn nỗi tan thương
Trời Nam Á kinh hoàng đêm địa chấn
Vạn xác người vùi tận đáy đại dương
Tôi cố gắng viết bài thơ đón tết
Nhưng chao ơi sao nghĩ chẳng nên lời !
Hình ảnh quanh tôi chiếu toàn cảnh khổ
Đang cơ hàn cần một chén cơm vơi
Tôi đang viết một bài thơ đón tết
Nhưng hoa xuân khó nở giữa hoang tàn
Đống gạch vụn thây người chưa bới hết
Trẻ mồ côi tìm bố mẹ lang thang
Tôi rất khó viết bài thơ đón tết
Khi trong tim chưa hết nỗi bâng khuâng
Hàng triệu kẻ đang màn trời chiếu đất
Đến bao giờ mới có được mùa xuân
Đây tôi viết một bài thơ đón tết
Bằng tâm tư những đứa trẻ mồ côi
Bằng con tim những con người mất mát
Xin tình thương từ bốn hướng xa xôi
Đây tôi viết một bài thơ đón tết
Bằng ước mơ thế giới được an bình
Mơ trần gian chóng vơi đi thống khổ
Và ước gì nhân loại hết đao binh.
MỪNG TUỔI MẸ
Đêm giao thừa
Con xin mừng tuổi mẹ
Thịt da nầy thương suốt mấy mươi năm
Tờ lịch cuối trên tường rơi vội vã
Và đêm nay mẹ thêm tuổi trần gian.
Đêm giao thừa
Con xin mừng tuổi mẹ
Mỗi một ngày liên tưởng lá đầy sân
Người già nhất cũng đã thành thiên cỗ
Nên hoàng hôn trong mắt mẹ xa gần
Đêm giao thừa
Con xin mừng tuổi mẹ
Thắp cả đời tim lụn khó đường khêu
Mẹ – ngọn nến trong đêm về bão nổi
Sợi chỉ mành bên gió tạt mưa xiu
Đêm giao thừa
Con xin mừng tuổi mẹ
Tám mươi năm vét tình hết cho con
Trên vai mẹ oằn nghiêng ngàn vết khổ
Cuối cuộc đời chưa một tiếng thở than
Đêm giao thừa
Con xin mừng tuổi mẹ
Lạnh ngoài trời con vẫn ấm trong tim
Nhìn thấy mẹ hiện cả trời Bồ tát
Đang trên cao ban bố miết niềm tin
Đêm giao thừa
Con xin mừng tuổi mẹ
Cầu năm nay mẹ cũng sẽ bình yên
Con rất sợ những phủ phàng xảy đến
Con mồ côi vì mẹ đã trường miên
Đêm giao thừa
Con xin mừng tuổi mẹ
Mừng bởi vì mẹ rất Phật trong con
Mừng bởi vì mẹ rất thiêng Bồ Tát
Khiến cho con hạnh phúc nhất trần gian.

EM KHÓC
Em khóc ta nghe hồn rướm lệ
Muộn màng cát đá xót xa đau
Ai quay được bánh xe thiên cổ
Ta đổi đời cho chẳng tiếc đâu
Những giọt thương nào rơi má em
Hồn ta chùng xuống gót chân mềm
Ta đi nắng tắt chiều loang lổ
Cánh bệt càn khôn trăng nước lên
Tóc bạc quá nửa đời viễn xứ
Cỏ cây còn lạ chửa quen tên
Nhiều đêm nghe rất buồn lạc lõng
Chạnh nhớ người xưa tóc trắng thêm
Ta trả những chiều con nước dâng
Trả đêm hơi thở lá trên ngàn
Nhưng xin giữ lại ân tình cũ
Làm một chút quà nghe cố nhân.
29.4.2000
EM VỀ XẾP NGÓN TỪ BI
em về
xếp ngón từ bi
gát lên giá ngọc
dậy thì tuổi xuân
sáng mai
thức dậy soi gương
trong đôi mắt ấy
còn vương chút buồn
hôm qua
dưới phố mưa tuôn
nép mình em đứng
bên đường núp mưa
chợt giờ
tan sở nghỉ trưa
chung ô anh bước
cùng ai qua đường?
chiều về lòng
mải bâng khuâng
tối nghe ray rứt
cõi hồn
rách bươm
người đi
nhặt đóa vô thường
tôi về gom lại
lửa hương
mệt nhoài
để lòng sa mạc
nguôi ngoai
nửa đêm thế kỷ
nửa ngày thiên thu.
2.1.2007 
MƯA SÀI GÒN
MƯA CHICAGO
Anh không rõ mưa có về bên ấy?
Chớ bên này chiều vẫn cứ mưa sa
Nhìn những hạt vô tình rơi trên lá
Nhớ về Sài Gòn một ký ức xót xa.
Nhớ hôm ấy Sài Gòn mưa thật lớn
Những hạt dài hạnh phúc nhốt hai ta
Rất mời mọc vai em chừng bỏ ngõ
Bờ môi anh chạm da thịt ngọc ngà.
Trong một thoáng anh nghe hồn lạc lõng
Giữa đất trời vừa thai nghén hơi thu
Em lãng mạn trông cho trời mưa miết
Để tụi mình tha thiết đứng bên nhau.
Mưa đã tạnh đèn đường đang ngó xuống
Sắt se theo từng mỗi bước em đi
Mưa sót lại trên bờ mi mắt đỏ
Hay nước mắt em trước lúc chia ly.
Có ngờ đâu đó là lần gặp cuối
Chệch đường nhau từ dạo ấy đến nay
Cuộc dâu bể bày trăm điều mất mát
Đẩy đưa nên tình nghĩa trắng đôi tay.
Anh chếnh choáng nửa đời nơi xứ lạ
Vết thương xưa mưng mũ vẫn chưa lành
Mấy mươi năm bên hàng hiên phố thị
Bởi lòng mình chưa hết nỗi băn khoăn.
Chiều hôm nay mưa cũng về nặng hạt
Nhớ Sài Gòn và lại rất nhớ em
Anh không biết mưa có về bên ấy
Chớ bên này mưa rớt nhớ xuống anh.
28.8.2010 
HỎI MÙA THU NƠI ĐÓ
Nơi em ở vào Thu trời có lạnh?
Lá có vàng và gió đã se da
Trời có mưa hay nắng mỗi chiều qua
Nhìn lá chết phôi pha màu mắt nhớ
Và nơi ấy hoàng hôn chùng hơi thở
Gió đổi mùa, Thu mấy độ qua tay
Sương đã tan hay còn mãi ngủ say
Đêm ở trọ quên lưu đày biến dịch.
Nơi ta ở la đà mây trầm tích
Lạnh trên trời thả xuống nhẹ cơn mưa
Lá công viên xanh ngắt mới hôm kia
Nay bỗng chốc vàng chia…tranh thủy mạc
Trời mau tối, đêm vài ba tiếng hạc
Chở sương đi đôi cánh bạt trường chinh
Mùa Thu ghi vài nỗi nhớ vô tình
Chợt ẩn hiện bên hành lang ký ức.
25.10.2010
DẤU XƯA 
Hôm ấy tết, anh về qua lối nắng
Ngược đường em áo trắng gợn đôi tà
Người vô tình với khách lạ đường xa
Anh bỡ ngỡ nghe nhạt nhòa dấu tích
Em rất khéo, tuổi trệch chiều bóng lịch
Khiến cho hoa như khép nép bên chân
Gió chải lên làn tóc mượt bồng bềnh
Vết trắc ẩn chìm trên môi huyền thoại
Anh chết đứng giữa khung đời Từ Hải
Bàn tay dư vô vọng vẫy muôn trùng
Đâu đó còn một ký ức mong lung
Mảng quá khứ rơi chạm vùng kỷ niệm
Tai ù cả nghe sóng ngàn của biển
Khúc phong ba xoáy lở mộng kinh bang
Em thì vẫn nét đài trang thuở cũ
Trong ta nghe một thẩm thấu muộn màng
Vâng! Thưở ấy ta đi mùa biến loạn
Cuộc từ ly khó hẹn nổi ngày về
Trên bước đường dong ruỗi lúc xa quê
Tay vuốt mặt nghe bốn bề trống vắng
Ta vẫn nghĩ dấu xưa còn trĩu nặng
Thời gian chưa là mốc hẹn vô tình
Trách chi đời dâu biển quá tự nhiên
Xin khép lại niềm riêng vào một cõi.
11.2.2012
CÓ MỘT NỖI BUỒN
Có một nỗi buồn chợt dấy lên
Giữa tình hóa đá đã rêu xanh
Thiên nhiên thức giấc gom thu lại
Gợi ở vườn tim góc nhớ anh.
Thuở đó thu về reo trong mắt
Bờ mi ai đọng hạt mưa đêm
Tay đan trong nỗi niềm tha thiết
Những giọt mưa sa vỡ thật mềm.
Không gian lúc ấy chỉ hai ta
Thời gian ngưng dưới gót chân ngà
Bên nhau mưa gió như ngừng cả
Em có anh như bướm có hoa.
Thế rồi:
Vườn tim nay đã lạnh bốn bề
Nỗi buồn chợt đến kéo lê thê
Ngữa bàn tay hứng mưa từng giọt
Ký ức đùn lên những tái tê.
Nắng vẫn lên hong cạnh cuộc đời
Thu về lạnh tím sắc mưa rơi
Nghe như thu khép vòng tay cỗ
Gầy bước chân hoang lá gọi mời.
Dĩ vãng còn vương màu kỷ niệm
Vườn yêu còn những khóm hoa xưa
Giọt ngâu đã thấm niềm trăn trở
Một nỗi buồn rơi theo tóc mưa.
14.9.2012
Thủy Lâm Synh
QUÊ HƯƠNG TÌNH YÊU VÀ NỖI NHỚ 
VỚI NHỮNG HẠT NGỌC TRẦM TÍCH
Sách “Lễ Ký“có câu: “Ngọc bất trác, bất thành khí. Nhân bất học, bất tri lý” (bất tri Đạo). Ca dao Việt Nam diễn ca: “Ngọc kia chẳng giữa, chẳng mài. Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi”. Tâm hồn con người, trí tuệ con người “hồn không cày xới có ngày xanh rêu” vì “vườn hoang cỏ dễ mọc dày“. Bởi vậy, ta thường nghe câu: “Văn ôn, võ luyện“. Văn không luyện, võ không ôn đến khi nguy khốn chỉ khôn… đầu hàng!
Văn chương cũng là vàng, ngọc. Viết không dễ, tìm ra cái hay cái đẹp, cái quý của những viên ngọc càng khó như “mò kim đáy biển”. Nắm bắt được cái “tâm” của người làm thơ, ta không thể “tóm” một hai bài là hết nhưng trong một, hai bài, ít ra, “hồn thơ lai láng” không nhiều thì ít chắc chắn là phải có. Người xưa cũng khẳng định: “Non sông dễ dời, bản tính khó đổi”. Con người có “núp” dưới bất cứ tính chất nào: Kiêu kỳ, hóm hỉnh, trầm lặng, sôi nổi, sâu sắc, quỷ quái, khó hiểu, nhân từ… qua thơ văn trước sau gì cũng bộc lộ cái “tôi” thật của mình. Thơ Việt Nam hải ngoại phần lớn còn nằm trong miền trầm tích. Điểm qua một vài thi nhân để tìm ra ”cái tôi” của họ để thấy rằng sức sống của văn học Việt Nam chính là tấm chân tình đối với quê hương.
Thủy Lâm Synh với “Từ khi trở lại” làm cho ta “trở lại” những ngày xưa thân ái:
Từ khi trở lại Nha Trang
Lòng ta bỗng chợt bàng hoàng lắm em.
Nửa đời luân lạc buồn tênh
Tóc phai theo tháng ngày lên của trời.
Đi đâu đến “nửa đời luân lạc” mới trở về chốn cũ? Lịch sử tái diễn ở cảng Cam Ranh cách Nha Trang bốn mươi cây số vào thời điểm trước 1975: Sau khi ra lệnh cuối cùng tái chiếm lại Ban Mê Thuột bằng Quân đoàn 2, vị Tổng tư lệnh tối cao quân lực Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã “phi thân” bằng máy bay mất hút sang bên kia đại dương. Nha Trang thành phố thơ mộng hơn Đà Lạt qua cơn hú hồn, thoát khỏi trong đường tơ, kẽ tóc của lửa đạn. Bao người đi, bao người ở, bao người không trở về với cái mốc 28 tháng 4, 1975? Nha Trang trở thành nỗi niềm xúc động cho người từ khi trở lại mang một nỗi ngậm ngùi “lòng ta bỗng chợt bàng hoàng lắm em”.
Ai ở đâu, nhớ ở đó. Thủy Lâm Synh sinh ở Quảng Ngãi lớn lên ở Nha Trang nên nhớ Nha Trang. Phan Tưởng Niệm quê ở Quy Nhơn dĩ nhiên nhớ Quy Nhơn quay quắc.
“Quy Nhơn đêm ba mươi” của Tưởng Niệm buồn như tiếng “chuông chùa công phu“. Đêm ba mươi, dĩ nhiên, nhà nào nhà nấy đóng cửa chuẩn bị giao thừa. Tìm em mà đi tìm vào đêm ba mươi thì Tưởng Niệm tưởng chừng uống lộn thuốc thời gian:
Ta về phố xá ngủ im
Khuya ba mươi tết, ta tìm dấu yêu
Loanh hoanh con hẻm buồn thiu
Nhà em đóng cửa, ta nhiều xót xa.
Bài thơ 4 khổ, thể lục bát, mở đầu bằng điệp đại từ nhân xưng“Ta” (Ta về phố xá ngủ im. Ta ngồi nhìn ánh sao sa. Ta về em mất đâu rồi? Ta về khuya khoắc ba mươi. Ta ngồi đến giọt sương rơi. Ta về đi giữa phố quen. Ta về đi giữa phố mưa) với nỗi cô đơn giữa thành phố biển. Quy Nhơn đêm giao thừa Giáp Thân 2004 mưa? Mưa hay không mưa thì ta cũng nghe bước chân cô đơn của tác giả với người bạn mưa lòng “tìm dấu yêu” giữa phố quen. Giọt mưa thật chưa thấy đã thấy giọt mưa tình cũ giữa đêm rớt xuống “nghe hồn thương nhớ một thời yêu thương“.
Người “em” trong thơ của Nguyễn Tất Nhiên là nàng “Maseour”, là “cô Bắc kỳ” nho nhỏ. Người “em” của Nguyễn Bính là “cô hàng xóm…” người em của Phan Tưởng Niệm là người con gái của phố biển Quy Nhơn. Nếu bài “Quy Nhơn đêm ba mươi” là “nhập đề” của một bài văn “Viết về kỷ niệm cũ với Em” thì bài “Quay lối về thăm phố biển Quy Nhơn” là phần “thân bài” (5 khổ với 8/8):
Vàng lá rụng nên mùa hè đi trốn
Trời thu buồn ngày tháng cũng xanh xao
Ngôi trường cũ dấu chân xưa mờ nhạt.
Em bây giờ xa lạ tự phương nào?
Em – chim én bay – trời xa mù mịt.
Biết có còn nhớ chút gió hương quê!?
Đọc thơ Phan – Thủy, ta sẽ phát hiện ra chất thơ ẩn dụ – ngụ ngôn sâu sa triết lý, thâm thúy ngụ tình của Duyên Anh phảng phất ở những cuộc đời “bất đắc chí”, của những cánh chim “lìa đàn” với “con ngựa hồng” với “chiến tích”, “dấu tích” và “thương tích” có trong thơ họ. Hình ảnh của “mùa hè đi trốn” lá rụng để nói sự chuyển tiếp của mùa hạ sang thu cũng như dòng chuyển tiếp của từng con người từng thời đại. “Mùa hè đi trốn” của Phan Tưởng Niệm trở nên “đắc giá”. Trốn không dược, đành phải trở về sau nửa đời phiêu bạc. Hầu hết trong từng mảng tự tình là văn hoặc thơ, dư âm “ngày xưa hoàng thị” của Phạm Duy vẫn dành cho một tình yêu. Cuối cùng vẫn là một tình yêu đầy ắp kỷ niệm năm nào:
Ngôi trường cũ dấu chân xưa mờ nhạt
Em bây giờ xa lạ tự phương nào?
Trong “Ba mươi tháng tư“, một Nhật Quang tự sự:
Tháng tư xứ lạ, buồn cô liêu
Ba mươi chạy loạn, mất người yêu.
Nàng đã ra đi, từ dạo ấy
Nay về nấm mộ, cỏ xanh rêu.
Đọc 4 khổ 7 chữ đầy tiếc nhớ, Nhật Quang đã cố ý dùng dấu phẩy cách nhịp 4/3 như nhịp dòng nhạc. Thật ra, bỏ các dấu phẩy đi, mạch thơ chạy ngang mới tải cái nội dung loạn lạc với âm diệu “buồn cô liêu” vì “mất người yêu” hơn. Nghĩa là buồn kéo dài từ năm này qua tháng nọ vì “nấm mộ cỏ xanh rêu” chứ không phải là cái buồn giật thót vì ngắt nhịp 4/3.
“Nàng” của Nhật Quang đã “xanh rêu” còn “em” của Tưởng Niệm? “Em bây giờ xa lạ tự phương nào?” Khi con người buộc lòng phải lìa nơi chôn nhau cắt rún thì dù ở nơi đầy phồn hoa, đầy tráng lệ cũng “trời thu buồn ngày tháng cũng xanh xao“. Người làm thơ nào không ít thì nhiều cũng đụng vào mùa thu vàng vọt. Hình như trong những lời tự tình đó, từ từng bước cỏ đến lên chót vót của nỗi buồn cũng mang hình ảnh mùa thu. “Tiếng thu” đã mang tên tuổi họ Lưu bay lên ở trong nước nhờ hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” lãng mạn. Tiếng thu của người Việt hải ngoại đã mang sự lãng mạn cất giấu nơi “an nghỉ cuối cùng” của ngôi mộ thời cuộc. Bởi thế, tiếng thu lãng mạn ngày xưa đã chuyển sang tiếng thu của nỗi niềm tâm sự. Phan Tưởng Niệm có bài “Thu buồn”:
Trời thu buồn mưa sa
Ta kẻ sống xa nhà
Đêm lang thang phố lạnh
Trong nỗi buồn miên man.
Ai ở xứ người cũng đều mang một tâm trạng ngày “buồn mưa sa“, nhưng với “đêm lang thang phố lạnh” thì chỉ dùng cho những nơi không có tuyết. Đó là nỗi trống trải, đó là tiếng thở cô đơn để nhớ về một chút “Hương xưa” mà Bích Huyền thầm nói:
Lòng ta vẫn còn say
Dư hương ngày xưa ấy
Một thời hoa với mộng
Hơi men còn ngất ngây.
Cũng giống như Duyên Anh, dòng thơ hải ngoại không đành quay lưng với dĩ vãng nên mới ru hời, ru mãi qua bốn mùa nuối tiếc chuyện ngày xưa. Hoa với mộng, mộng với hoa mang “hơi em ngất ngây” chỉ còn là hư không với một dấu chấm cuối bài thơ là chấm dứt dư điệu “hương xưa” tan thành kỷ niệm. Hương xưa đã len vào tâm hồn người xa xứ cho nỗi nhớ đêm thức thao, ngày cồn cào gậm nhấm. Phan Tưởng Niệm có một bài văn “Đêm vu lan” và một bài thơ “Đêm vu lan quê người” để cho nỗi nhớ tự bật ra dành cho “mẹ”:
Nhớ quá! Mẹ già
Ôm nỗi xót xa. Biết bao giờ trở lại?
Quê ta, với dãy thông già
Con đường phố nhỏ thường ngày mẹ qua.
Người mẹ này cũng là người mẹ quê hương trong “Thu buồn” đã “ôm nỗi xót xa” trong “đêm sân ga tiễn biệt, con tàu buồn vút bay” mang mất hút thằng con sang bên kia đại dương. Hình ảnh người mẹ già mòn mỏi qua “con đường phố nhỏ” như một vết dao rạch một đường nhỏ trong tim thằng con. Vết thương đó sẽ không bao giờ lành lặn.
Thủy Lâm Synh viết truyện ma kinh dị cũng không kém gì bóng “truyện ma” của Nguyễn Ngọc Ngạn từ “Tiếng đàn khuya” đến cả bóng ma trong căn nhà có chủ, bây giờ, Lâm Synh cũng như Tưởng Niệm, quên hẳn bóng ma để về với những “hương xưa” có em, có mẹ. Bài thơ “Mồ côi” của Synh chỉ 8 câu thể 6/8 rất đổi đơn sơ như tình mẹ ấm áp:
  Mẹ về với cõi xa xôi
Con nghe chợt phận mồ côi hiện về.
Còn đâu bóng mát con che
Còn đâu nữa những đêm hè quạt tay.
Bốn chữ “đêm hè quạt tay” là một hình ảnh “đắc”. Đêm hè nào ở quê hương mà không hâm hâm nóng nực? Ai quạt? Ai được quạt bằng tay? Hình ảnh chiếc quạt phất qua, phất lại rồi phất lại, phất qua… mỏi tay lắm. Một chút này là tình thương bao la như biển rộng, sông dài của lòng mẹ; một sự nâng niu, chăm sóc của mẹ cho ta một đời để nhớ!
Không hẳn nhiên, một Nguyễn Tấn Hưng “gạo cội” tài hoa với những dòng thơ, truyện, nhạc với “hương xưa” đầy ắp kỷ niệm quê hương, đã ôm hết từ “Một” vào lòng để mở đầu cho những sáng tác của anh: “Một cảnh hai quê, Một kỷ niệm đẹp, Một dòng ca dao, Một nỗi buồn riêng, Một trời, một biển”…
Tôi, người khách không ai thèm mời cũng cố len lỏi vào dòng người xuống… con tàu hàng HQ451 của bà Ngô Đình Nhu như Nguyễn Tấn Hưng kể trong một chuyến ra khơi tìm về“Một thoáng hương xưa“. Xứ Thành của tôi qua Nguyễn Tấn Hưng hiện ra trong tác phẩm này với nhân vật Tần bằng một bài thơ viết tặng Hiền:
Về Thành phải ở lại Thành
Thích ăn bánh tráng cuốn
Chấm nước mắm ớt vừa hái trên cành
Thì em mới chịu yêu anh suốt đời.
Chi tiết bánh tráng cuốn làm tôi thèm thật thèm nhưng chấm với “mắm ớt’ làm tôi… chợn! Ớt là khắc tinh của tôi! Tôi khoái món canh quê nhà này hơn:
Nấm dừa nấu với tập tàng
Quanh năm suốt tháng chẳng màng cao sang.
Ăn suốt đời như vầy mà không… đau ốm thì… giàu sụ!
Tôi theo bài thơ “Nha Trang tìm em” của Thủy Lâm Synh về Nha Trang tìm lại con sóng ngày nao vẫn vỗ nơi bờ với một trời thương nhớ:
Còn em lệ vẫn đầy vơi
Gian truân quá nửa cuộc đời biển dâu.
Nhìn em chẳng dám nhìn lâu
Vì tim ta cũng bắt đầu nhói đau.
Tìm ra người cũ mà “chẳng dám nhìn lâu” thì khác nào là một cái “ngoảnh mặt”. Cái “ngoảnh mặt” này sao lại “nhói đau”. Vì sao? Hiện thực của “biển dâu” quá nửa cuộc đời, ta không ngờ tới nay đã trước mặt. Giọt nước mắt rơi xuống lòng ta mềm đi… Thôi thì đành “lẫn tránh”. Trốn đi đâu cho thoát cõi đọa đày? Không trốn được thì trút vào trời:
Nhiều khi anh giận trời cao
Sinh ra em để người trao muộn phiền.
Một Thủy Lâm Synh “giận trời cao“. Một Duyên Anh “thản nhiên ngước mặt ngạo trời“. Một Nguyễn Thành Kim cuồng ngông trong “Hậu hồ trường”:
Chẳng muốn ra đi làm kẻ sĩ
Nhưng đời bắt buộc phải cuồng ngông.
Một thảm cỏ “cuồng giận” trải xuống, mấy “con ma cũ”: Cao Bá Quát, Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Vũ Mộng Long (Duyên Anh)… mời mấy con “ma mới” Thủy Lâm Synh, Nguyễn Thành Kim… an tọa rồi “dần” một trận cho bớt tội… bắt chước… ngông cuồng vì nợ bút nghiên bất thành. Thủy Lâm Synh bày tỏ:
Trót mang chút nợ bút nghiên
Một dòng thơ vụng từ miền xa xôi.
Gặp nhau không nói nên lời
Nên xin gởi chút hương thời xa xưa.
Dấu chấm sau “chút hương thời xa xưa” của Synh vừa gởi theo những “khu chính như Phạm hồng Thái với nhà in Bác Ái, Quang Trung với phòng thông tin, Hai chùa với rạp Tân Tân và bên kia quán Lise, Chiều tím… Rồi không mấy chốc đến điểm hội tụ của ba đường Độc Lập, Trần Qúy Cáp… đường Phương Cài… Độc Lập, Yersin và Gia Long từ dưới ngã 7 nhà thờ Núi đâm lên… Chùa Phật Học…, Võ Tánh, Huyền Trân…, Thánh Tâm, Kim Yến còn có Âu Cơ, Vinh Sơn, Đăng Khoa, Bá Ninh, Trí Dũng… Bồ Đề. Đó là chưa nói đến trường Tây (Collège Franscais), trường Đại học Duyên Hải, trường nhà dòng Thiên Chúa giáo Thần học viện…” (“Một trời một biển” – Nguyễn Tấn Hưng). Về Nha Trang mà lần tìm những cái tên trên chắc… mù đôi mắt! Tên cũ còn mà người xưa, chốn cũ ở đâu? Em đã đổi tên? Em thay họ? Buồn thay! Thủy Lâm Synh mang chữ buồn này lén bỏ vào “Chiều thu” 16 câu thể 6/8:
Một mình đứng tựa chiều nghiêng
Nghe trăm năm nguyện về bên lỡ làng.
Mai này hạt bụi sang ngang
Bên sông còn động sương hàn lẻ loi.
Dáng “chiều nghiêng” ôi chao như “giáng ngọc”. Người ta muốn vững thì tựa vào một cái gì vững chắc mới không đổ. Đứng “một mình” đã ôm chữ “cô đơn” mà tựa vào cái buổi chiều: Chiều đổ bóng, chiều tím. Chiều nhớ thương ai? Sao mà giống căn nhà trống “bốn vách xiêu” của Xuân Diệu, hắc xì một cái là đổ nhào còn đâu mà trăm năm với nghìn năm “thề nguyện về bên lỡ làng”? Bức tranh với hình tượng dáng “chiều nghiêng” mơ hồ đối với “hạt bụi” tí ti cũng mơ hồ, thêm một mình “cô đơn” cộng vào sự “lỡ làng” gắn với “sương hàn lẻ loi” cũng mơ hồ làm cho cái hẹn “trăm năm” đưa “hạt bụi sang ngang” cũng tan vào sương, mất tuốt! Còn lại là cái “chiều thu” của người cảm ở lại bên đời cũng xế chiều! Hết! Lâm Synh cũng chưa chịu hết lại rơi rớt một “Tiếng thở”:
Ta ngồi lá rớt trên vai
Công viên ghế lạnh hình hài càn khôn.
Thở đi từng hạt bụi hồng
Vết lăn tuế nguyệt mênh mông đất trời.
Một “tiếng thở” cũng lắm bụi trần. Đất trời (càn khôn) thu vào trong tiếng thở. Phì một cái lại… văng ra “mênh mông đất trời”. Không thuộc loại “gàn” thơ thì sao chẳng ngán ông trời “giáng” cho một búa! Thiệt ra “càn, khôn” là quẻ bói trong kinh dịch mà Cao Biền thời xưa của Trung Quốc chuyên bấm quẻ này (Càn, Khôn, Ly, Cấn) để tìm huyệt đế, vương mà trù ẻo dân tộc ta. Càn Khôn của Synh được xem như một sự trần trụi, một sự vứt bỏ hết để mà “Tĩnh” mà “Thiền”. Có “tĩnh” được không? Bài “Từ khi trở lại” của Synh vì hai chữ “biển dâu” cuộc đời mà đau. Thế là tích “Thương hải biến vi tang điền” của người xưa trở thành biểu tượng chung của “mới sớm đã chiều”, nháy mắt, biển trời chỉ còn là ruộng dâu. Thủy Lâm Synh kết lại “Tiếng thở”:
Vàng thu lá đổ muôn nơi
Cành trơ vuốt mặt cho thời gian trôi
Choàng trăng đi dạo một hồi
Vài dòng thơ vụng chợt rơi xuống hồ.
“Cành trơ vuốt mặt” của Synh giống “con bọ ngựa chống kiếm” của Duyên Anh. Nó chả đả động đến con người nhưng làm con người chợt bình tỉnh. Chàng Synh “thiền” để mà “tĩnh” đến nỗi thấy cả “cành trơ” cục cựa “vuốt mặt“. Tức tâm nhập vào cảnh trời đất rồi còn gì? Sao không chịu “tĩnh” tiếp cho “cành trơ” xuống tí nữa… “vuốt râu”? Khiếp quá! “Con bọ ngựa chống kiếm” của Duyên Anh lập tức chìm vào “mơ màng” rồi… thăng luôn! Dè đâu, Thủy Lâm Synh này ngông, bắt chước Lý Bạch lôi trăng (choàng trăng) đi dạo như bạn bè. Lý Bạch ôm trăng… vật xuống sông bơi để… uống nước sông thay vì uống rượu, tắc thở. Thủy Lâm Synh có chữ “Thủy” chống chèo nên thoát kiếp ma sặc nước bên hồ! Hú vía, anh chàng lỡ tay đánh rớt: “Vài dòng thơ vụng chợt rơi xuống hồ”, ngông tập hai tới nơi !
“Cành trơ vuốt mặt” của Synh và đụng “vuốt mặt” khác của Phan Tưởng Niệm. Một cái tên nghe qua đã thấy “phút mặc niệm” rợn người, còn đầu bài thơ lại là “Vuốt mặt” nữa thì y như… “vuốt mắt”:
Ta vuốt mặt nhìn đời
Ta thấy đời đen thẩm
Ta ngước mặt nhìn em
Ta thấy em thầm lặng.
Tại sao trong tư thế đĩnh đạc “vuốt mặt“, vuốt râu nhìn trời lại chuyển qua nhẹ nhàng “ngước mặt” nhìn em mà không “vuốt mặt” nhìn em? Bỗng không người “em thầm lặng” này được nâng cao lên một bậc trên đời. Đời ngang ngữa với ta mà đen thui nên ta phải “vuốt mặt“. Em cao hơn phải “ngước”. Vì sao? Trong cuộc “đời đen thẩm”, em là kẻ chịu đau với nỗi đau “thầm lặng” (chẳng rõ là đau vì chuyện gì?). Chỉ có kẻ chịu hy sinh, chịu nhẫn nhịn mới thầm lặng mà thôi. Bấy nhiêu đó, em đã “cao cả” hơn đời tức là “ta” chứ nào phải là tấc thước chiều cao!
Thủy Lâm Synh trong “từ khi trở lại” Nha Trang – Quy Nhơn đã vì sự cao cả của “Em” này mà “chẳng dám nhìn lâu”, “không nói nên lời” thì làm sao Phan Tưởng Niệm kia không… chạy thục mạng, chạy… mất dép?:
Ta lẫn trốn cuộc đời
Vì thấy đời loạn lạc.
Chữ “trốn” giống như “mùa hè đi trốn” mùa thu “vàng lá rụng” của Phan Tưởng Niệm rơi vào “Viễn mộng” của Tín Bảo:
Ai người đang trong mơ mộng
Hạnh phúc dù tìm có, vẫn không.
Cuối cùng, mấy ông nội có những mối “tình tính tang cô mình rằng này cô mình ơi” đã bỏ chạy hết, phủi tay coi như “Tình đã như xong“:
Anh đi buồng tim nâng bỗng
Anh về đầu bạc, răng long
Anh đi lòng bao hy vọng
Anh về có mộng bằng không.
“Hạnh phúc dù tìm có, vẫn không” của Tín Bảo chạm cái “sắc sắc không không” của Nguyễn Thành Kim: “Anh về có mộng bằng không“. Mộng gì đây? Gặp cố nhân? Một kẻ xanh mồ, một em xa lạ phương nào, một em không dám nhìn… Tại sao vậy? “Mộng dưới hoa” đã trở thành cổ tích, dệt bản tình ca nữa làm gì! Người “em” của Thủy Lâm Synh “hóa bụi sang sông’.Người “em” của Nguyễn Thành Kim cũng qua cầu nhân duyên:
Chiều nay tìm em phố rộng
Âm thầm sáo đã sang sông.
Chao, man mác dư âm ca dao:
Ai đưa con sáo sang sông
Để cho con sáo sổ lồng bay xa.
Thời buổi “điểu tận, cùng tàn”, hết chim, bắt sáo xào lòng nhậu chơi! Bớt buồn chút ít chăng?
Phan Tưởng Niệm “Quay lối về thăm phố biển Quy Nhơn” đến cửa Thị Nại gặp con sông Hà Giao (sông Côn) trong ca dao:
Sông Côn nối tiếp sông Ba
Sông anh cũng đã tiếp vào sông em.
Sông anh, sông em với Grành Ráng cát vàng, trái tim hoang dại, nước xanh biếc, không ai không nhớ khi một lần đến!
 Lưu Hồng Phúc trong “Thu sầu” nâng niu, xót xa:
Lặng lẽ đêm thâu tiếng thở dài
Lòng nghe nức nở nhớ thương ai.
Bao mùa xa cách, dù xa cách
Kỷ niệm còn đây với tháng ngày.
Hai câu đầu thương nhớ “thường” nhưng cái ngữ “xa cách dù xa cách” sao mà cuồn cuộn sóng nhớ thương “kỷ niệm còn đây với tháng ngày“. Là tiếng lòng. Là tấm chân tình. Thơ sống được nhờ hai chút tình này!
Phan Tưởng Niệm về Quy Nhơn với con đường Nguyễn Huệ. Sóng Quy Nhơn của Xuân Diệu “hôn mãi ngàn năm không thỏa” là đây. Tình cũ ấy còn đầy nhưng hiện tại thì quá phủ phàng! Nói ra từ “tan nát” thì không nỡ nên người thơ chỉ nhè nhẹ bỏ xuống từ “mộng bằng không“. Thế thì ôm cái trứng ngỗng bằng cái lu vào cuối đời!
Với biển, biển hiền hòa nhưng không bao giờ yên lặng và cũng như con người:
Chiều lặng thầm nghe sóng biển giận hờn
Ta từng bước nhẹ tìm quen dấu tích
Ghế đá cũ bây giờ ai xê dịch
Lệch bóng chiều rẽ ngã lối yêu thương.
Bóng chiều của Thủy Lâm Synh là bóng chiều nghiêng. Bóng chiều của Phan Tưởng Niệm là bóng chiều lệch. Nghiêng, lệch gì cũng là sự xê dịch mơ hồ, lỏng lẻo cả. Không như mà bỗng nhiên, tiếng sóng biển giận hờn ở Quy Nhơn chưa kịp vuốt ve cho dịu thì Tsunami disaster với những con sóng thần khổng lồ đã dửng dưng ập ào Indonesia, India, Thailand, Srilanka… kinh hoàng, khủng khiếp như một giấc mơ! Biển dịu êm nay cớ sao giận dữ đã trở thành tên sát thủ không tên? Nước mắt cũng đã cạn khô. Tôn Ngộ không đã thành Bồ Tát cớ sao Long Vương còn muốn trả thù cái nhục: “Tề Thiên Đại Thánh, đại náo thuỷ cung” ngàn thế kỷ trước? Sơn Tinh đã nên đôi cùng Ngọc Hoa công chúa sao Thủy Tinh cớ gì vẫn hờn ghen tàn ác hằng năm? Những lý giải ngây ngô vẫn được muôn đời chấp nhận như để xoa dịu nỗi đau nhân loại. Con sóng thần, kẻ sát thủ ghê gớm, bất chấp thủ đoạn cao tới 30 mét ngày xưa đã từng vùi chôn hai trăm tàu siêu lớn và các tàu container đã được vệ tinh Maxwav chụp được vào năm 2001 bỗng nhiên quay trở lại vùng Châu Á vốn đã nghèo nàn, trấn nước họ:
Sóng vô hình, tình chẳng có, biển khơi
Chữ “tàn ác” ngàn đời, ta nguyền rủa.
Người còn sống? Ôm “mắn may” làm của
Dốc hết lòng nhân ái để thương nhau.
Kẻ sống sót không ôm cái “may mắn làm của” thì ôm cái gì? Người đời không giữ lấy “nhân” thì giữ lấy chữ gì? “Tình yêu” là cái nền của yêu thương sao lắm kẻ hợt hời? Câu “trời kêu ai nấy dạ” không là câu “phủ phàng”, quay lưng mà chỉ là tiếng thở dài an ủi. Dĩ nhiên, tất cả đau thương gì tang tóc nào cũng được thời gian đưa vào dĩ vãng và ta vẫn phải bước qua.
Biển hung dữ rồi cũng trở lại hiền hòa trong Phan Tưởng Niệm (Bây giờ có đang ngồi “tưởng niệm” người đã bị sóng cuốn hay không?):
Ba mươi năm rồi ta mãi vấn vương
Con nắng ấm gió ru tình của biển
Chiều Nguyễn Huệ – con đường yêu thánh thiện
Tìm chân quen ngày cũ bước em về.
“Em” của Tưởng Niệm đã là cái bóng mờ nhạt ở “ngôi trường cũ”!
Kết thúc của dòng thơ bao giờ cũng là vị đắng, hơi hơi cay. “Đường Nguyễn Huệ – Qui Nhơn chìm ước vọng. Giờ chỉ còn tiếng đọng của con tim!”. “Con nắng ấm, gió ru tình” của Tưởng Niệm là những kỷ niệm đã trôi xa trên vùng “biển nhớ”. Cuối bài thơ, hình ảnh người đàn ông giữa phố đứng đó cô đơn:
 Ta bây giờ đứng giữa thành phố quê
Ôm dĩ vãng nửa đời mang thương tích.
Em – chim én bay – trời xa mù mịt
Biết có còn nhớ chút gió hương quê!?
Một chấm than bối rối, một chấm hỏi nghẹn ngào như chấm hết ngày về thăm phố biển. Tôi muốn bỏ một chấm hỏi cho Phan: “Mai có về chốn ấy nữa hay không?” Con “chim én bay” của Phan làm tôi nhớ lại bài hát “Tạm biệt chim én” của Trần Tiến đã từng vang lên ở thành phố này, ngôi trường này: “Em như chim bay xa, những đàn chim bay trong phong ba, góc trời kia, chim én thương ai, thương ai, đợi chờ ai?…“.
Hình ảnh đó, em bay – con chim én – đã “lìa đàn” hay “lạc đàn” đã trở thành một ngã rẽ, với hai quan điểm bất đồng nhưng kết quả: Vô cùng đau xót!
Nha Trang, Quy Nhơn còn lắm nỗi u hoài trong Phan Tưởng Niệm, Thủy Lâm Synh và những tha nhân còn luyến lưu hương xưa quê nhà nơi quê người, đất khách.
Mượn câu thơ “nên xin gởi chút hương thời xa xưa” trong “heo may” của Thuỷ Lâm Synh:
Heo may chợt níu mùa thu lại
Có lá vàng hơn nỗi nhớ xưa.
để tạm kết thúc cho cuộc hành trình về quê hương bằng con tàu giai điệu thơ ca.
Những hạt ngọc hải ngoại vẫn còn rãi rác, vẫn còn trầm tích với Nhật Quang, Minh Nhã, Bích Huyền, Nguyễn Thành Kim, Lưu Hồng Phúc, Khinh An, Phan Tưởng Niệm, Thủy Lâm Synh… hay còn những ẩn danh trong năm châu bốn bể chưa có duyên hội ngộ trên bàn tròn văn chương.
Dòng văn học người Việt hải ngoại mở đầu chỉ là những nét chấm phá những bức tranh mùa thu, mái trường kỷ niệm, con đường thân thương qua những vần thơ mộc mạc nhưng đầm thắm tình quê. Tình quê và tình người đã góp phần cho Hồn Thơ sống mãi với bốn mùa mưa nắng tuyết sương, với những thăng – trầm cuộc đời!
Duyên nợ văn chương gặp nhau, dở hay gì cũng nhắc nhở nhau: Người bạc đầu, chân bước đã run run. Kẻ tóc xanh, chân chập chững vào đời! Chung quy lại, về một thoáng những rung động cho hương xưa vẫn thắm thiết về một quê hương đầy “tình yêu và nỗi nhớ” với những hạt ngọc còn trầm tích giữa lòng biển nghĩa tình của văn chương.
Tháng 1/01/2005
Ngọc Thiên Hoa
Tư liệu tham khảo có sử dụng:
Thơ Phan Tưởng Niệm, Thủy Lâm Synh, Nhật Quang, Bích Huyền, Hồng Phúc, Trí Bảo, Nguyễn Thành Kim… (Bán nguyệt san Chicago ViệtBáo).
Xin chân thành cám ơn
(Nhìn lại bến bờ, Nxb HNV – 2008)
Theo https://ngocthienhoa.com/

Nhạc phẩm Kiếp Người - Nhạc Tổng Hợp - Tu Viện Quảng Đức

Nhạc phẩm Kiếp Người
Nhạc của Thủy Lâm Synh
Trình bày: Ca Sĩ Lan Phương
Mừng ngày Đản Sanh 
Nhạc Thủy Lâm Synh - Ca sĩ Thùy Dương
Nhớ Mẹ mùa Vu Lan 
Nhạc Thủy Lâm Synh - Ca sĩ Trường Hải, Karaoke
 Trường Sa hành khúc
Nhạc: Thủy Lâm Synh - Ca sĩ: Thanh Sử
Hòa âm: NS Nguyễn Duy - Video: Tấn Uyên

Ôn lại cuộc tình 
Nhạc Thủy Lâm Synh, ca sĩ Triệu Lộc, 
Hòa âm NS Nguyễn Duy, Karaoke by NS Quốc Anh
Miền Trung quê em 
Nhạc Thủy Lâm Synh, Ca sĩ Bảo Yến 
Sáng tác sau trận bão lụt miền Trung Việt Nam 
Mùa đông năm 2009

Khung cửa mùa xuân 
 Nhạc Thủy Lâm Synh - Karaoke - Ca sĩ: Triêu Lộc, 
Diệu Hiền - Hòa âm: NS Nguyễn Duy, Video NS: Quốc Anh
Nhớ chi lạ Huế ơi 
Nhạc Thủy Lâm Synh, Ca sĩ Thanh Mãi, Karaoke
Ngàn trùng cách xa 
Nhạc: Thủy Lâm Synh – Thơ: Tấn Xuân 
Ca sĩ: Tâm Thư

 Thủy Lâm Synh
Theo thuylamsynh@gmail.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...