1. Đôi điều về vấn đề trung
tâm và ngoại vi trong nghiên cứu văn học
Trung tâm hay ngoại vi là vấn
đề được đặt ra trong khá nhiều lĩnh vực từ văn hóa, địa lý, kinh tế, chính trị…đến
văn học. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã vận dụng lí thuyết này trong các lĩnh
vực nghiên cứu chuyên sâu của mình và đã đạt được những kết quả nhất định.
Thực ra, thuyết "trung
tâm" trong nghiên cứu văn hoá đã được các nhà nghiên cứu thuộc trường phái
"Truyền bá luận" (diffutionisim) Tây Âu đưa ra từ cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỷ XX. Các đại diện tiêu biểu của trường phái này là các nhà nghiên cứu Đức
- Áo, như L. Frobenius, F.Ratsel (1), F. Grabner (2), W. Schmidt (3). Họ cho rằng,
các sáng tạo văn hoá của nhân loại bao giờ cũng xuất phát điểm từ một nơi, thuộc
một cộng đồng nào đó, rồi sau đó lan truyền đi các nơi khác và chính sự lan
truyền ấy tạo nên động lực của sự phát triển văn hoá nói riêng và của xã hội
nói chung. Điều đó cũng có nghĩa là, đối với một số cộng đồng, sự tiến bộ văn
hoá chủ yếu do vay mượn chứ không phải do sự sáng tạo độc lập của cộng đồng ấy
(4).
Những năm cuối thập kỉ 70 và
đầu 80 của thế kỉ XX, các nhà nhân học Xô Viết đã xuất bản công trình "Trung
tâm và ngoại vi trong nghiên cứu văn hoá từ sau các phát kiến địa lí"(6).Các
nhà nghiên cứu người Nga sau khi xem xét vấn đề trung tâm và ngoại vi của văn
hoá từ thực tế hình thành và phát triển các nền văn minh lớn trên thế giới như
văn minh Đông Á, mà văn minh Trung Hoa là trung tâm; văn minh Nam Á, trong đó
văn minh Ấn Độ là trung tâm... đã chỉ ra sự tác động giữa trung tâm và các ngoại
vi văn hoá, như giữa văn minh trung Hoa với các vùng ngoại vi Nhật Bản, Triều
Tiên, Việt Nam...; văn minh Ấn Độ với các nền văn hoá khác ở Nam Á, Đông Nam
Á... Những vấn đề nghiên cứu văn hóa khu vực trong mối quan hệ giữa trung tâm
và ngoại vi vẫn được các nhà nghiên cứu Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam quan
tâm. Đặc biệt gần đây, GS. Michio Sounary (Nhật Bản) đã xuất bản công
trình Trung tâm và ngoại vi từ nghiên cứu thực địa (1999), đề cập tới
các văn hoá khu vực Đông Á.
Tuy không thuộc bản chất văn
học, nhưng vấn đề văn học ngoại vi (peripheral literature) –văn học
trung tâm (centrer literature) lại là một hiện tượng thực tế lâu nay, ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến quá trình phát triển và sự hội nhập của nhiều
nền, dòng văn học cũng như một dân tộc, một địa phương hay khu vực. Ranh giới
giữa văn học ngoại vi và trung tâm được/bị hình thành từ tâm lí xã hội khá phức
tạp, quy định bởi vị trí địa lí-lịch sử, đặc điểm kinh tế - chính trị, văn hóa,
ngôn ngữ, dân số, giá trị của các giải thưởng, chức phận hay địa vị ...-
những điều tưởng chừng không hề liên quan đến lĩnh vực văn chương. Ngay cả khi
tư tưởng tự do dân chủ được truyền bá khắp thế giới, đặc biệt là khi văn hóa
internet phát triển, biến trái đất thành một cái làng toàn cầu thì ranh giới đó
vẫn hiện hữu rõ ràng và bền vững. Đó là thách thức không nhỏ bởi nó được xây dựng
từ cả hai phía: trung tâm (phía mạnh) và ngoại vi (phía yếu).
Trong cuốn The Lexus and the Olive tree (2000), tác giả Th. Friedman
đã chỉ rõ: Chiếc Lexus tượng trưng cho động lực làm giàu và hiện đại hóa còn
cây Ô-liu tượng trưng cho việc bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống một cộng đồng.
Cuộc đấu tranh, giằng co vị thế giữa Lexus và Ô-liu đang xảy ra trên phạm vi
toàn thế giới, trong một khu vực, một đất nước, một cộng đồng và thậm chí, ở thẳm
sâu tâm hồn của mỗi cá nhân. Đây là một thử thách lớn của nhân loại. Nếu trước
đây, bản sắc này tìm mọi cách loại bỏ bản sắc khác thì nay nó còn phải ra sức
chống lại sức mạnh ghê gớm đến từ đời sống hiện đại. Nói một cách hình tượng là
làm sao cho Ô-liu sống cạnh, sống chung và sống với Lexus mà vẫn tốt tươi, xum
xuê hoa trái? Hay, làm sao một cộng đồng, dân tộc, cá nhân,... giữ được bản sắc
mà vẫn có thể hội nhập toàn cầu? Làm sao dung hòa truyền thống với tiến bộ khoa
học kĩ thuật siêu hiện đại? Toàn cầu hóa là xu thế không thể cưỡng lại. Vậy, đứng
trước những nguy cơ và thách thức đến từ các nền văn hóa lớn hơn, các nền kinh
tế mạnh hơn, nền khoa học tiên tiến hơn, ta phải làm gì để không thấy mình nhỏ
bé và bị nhòe mờ đi? Tiếp đó là làm thế nào để vẫn có thể phát triển, hội nhập
mà không bị “hòa tan” vào cơn lũ hiện đại hóa?
Trong văn học, theo tổng kết
của nhà nghiên cứu Inrasara, Đông Nam Á hiện vẫn cứ là vùng trũng của văn học
thế giới. Hai thập niên đầy sôi động vừa qua, chỉ tính Giải Nobel văn chương
thôi, trong lúc các dòng văn học lâu nay bị cho là ngoại vi (the peripheral
literature) đang nỗ lực phấn đấu và đã giành được bao thành tích chói lọi: từ
Guatemala (Assturias), Columbia (Marqués), Chile (Neruda), Ba Lan (Milosz,
Szymsborska) hay Ai Cập (Nagif Makhfuz), Nigieria (Wole Soyinka), Nam Phi
(Nadine Gordimer) cho đến Ấn Độ (Tagore), Trung quốc (Cao Hành Kiện),... - như
thể một cuộc vây ráp tấn công vào vài nền văn học từng ngạo mạn vỗ ngực xưng ta
là trung tâm - thì Đông Nam Á cứ như người ngoài cuộc. Không so đọ đâu
xa, ngay cạnh ta thôi, với những tên tuổi lớn của Nhật Bản như: Kawabata,
Kenzaburo Oe, Haruki Murakami...ta vẫn có thái độ “kính nhi viễn chi”!
Ở Việt Nam, dễ nhận thấy những
sự phân biệt thấp – cao, lớn – bé ở nhiều nơi, nhiều lúc. Về cơ bản, nếu
văn chương thời trung đại chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa từ văn tự,
ngôn ngữ, thể loại, tư duy…thì văn chương hiện đại chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
văn hóa phương Tây. Các giáo trình văn học đều thừa nhận sự tồn tại của các nền
văn học già (trung tâm) và sự ảnh hưởng của nó đến các nền văn học trẻ (ngoại
vi). Phần lớn, người ta cho rằng các nền văn học trung tâm như: Pháp,
Anh, Mỹ, Trung Quốc…là đáng học. Nhưng cách học như thế nào lại là điều
đáng bàn. Khoảng nửa thế kỷ nay, các trào lưu, hiện tượng… văn học thế giới hầu
như không được dạy/cập nhật trong các trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn. Vì thế, các cử nhân văn chương nếu không nỗ lực tự học, tự nghiên cứu thì
khi ra trường hầu như không biết về đời sống văn chương đương đại của nhân loại.
Tạp chí Văn học nước ngoài rất ít khi giới thiệu các tác giả văn học
thế giới sau năm 1970… Ở chiều ngược lại, Việt Nam cũng chưa có chương trình cụ
thể quảng bá văn chương quốc nội ra thế giới. Các tác phẩm văn chương ghi dấu
những giai đoạn quan trọng của lịch sử văn học Việt Nam hiện đại chưa hề được tổ
chức dịch có bài bản để giới thiệu ra thế giới. Việc dịch văn học Việt Nam ra
thế giới lâu nay được làm một cách tự phát và đầy tắc trách, lại hầu như chỉ lựa
chọn đề tài chiến tranh và chính trị, hay vài tác phẩm được dịch để thỏa mãn
trí tò mò của người đọc về một nền văn hóa xa lạ. Các nỗ lực cá nhân, nếu có,
cũng không thấm vào đâu trong vô số tác phẩm đáng được giới thiệu ra thế giới.
Trong một cuộc triển lãm sách, một người khách phương Tây đã vô tư nhận xét về
hai thi phẩm Việt được chuyển ra tiếng Pháp rằng: Đây không phải thơ, đây là
ngôn ngữ thơ Pháp ở đầu thế kỉ… trước! (7).
Tóm lại, còn rất nhiều điều
đáng bàn về thực trạng chồng chéo những khó khăn, bất cập từ nguyên nhân đến tiến
trình, thành tựu của từng nền, dòng văn học trên hành trình hội nhập với quốc
gia, khu vực và thế giới. Song, dù thế nào, trong điều kiện hiện nay với thông
tin liên mạng - thời đại toàn cầu hóa, một nhà văn chân chính phải góp phần,
dù ít hay nhiều, vào sự phát triển chung của văn học dân tộc và quốc gia. Đây
cũng chính là yêu cầu đặt ra cho văn học Việt Nam nói chung, cho văn xuôi các
dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng.
- Thực trạng sáng tác:
Nền văn xuôi các dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại còn rất trẻ. Bắt đầu hình thành từ những năm 50 của thế kỉ
XX, đến nay hơn nửa thế kỉ phát triển, văn xuôi các dân tộc thiểu số đã có được
một đội ngũ người viết tương đối đông và một số thành tựu nhất định góp phần
vào thành tựu chung của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trên thực tế, nền văn học
các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại tồn tại ở 3 khu vực chính là: miền núi
phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Tuy vậy, thành tựu của văn xuôi các dân tộc
thiểu số ở 3 vùng này không phải là bước tiến đồng đều. Ở Tây Nguyên, sau rất
nhiều năm thiếu vắng người viết, đến cuối thế kỉ XX mới xuất hiện tác giả Y
Điêng và Hlinh Niê (tức Linh Nga Niê Kđăm - người Êđê) với một vài tác phẩm
chưa mấy thành công. Sang đầu thế kỉ XXI, xuất hiện thêm những cây bút mới như
Kim Nhất (người Bahnar) và Niê Thanh Mai (người Êđê)...nhưng tác phẩm của họ
cũng hầu như chưa để lại dấu ấn thật đáng kể nào. Cũng chung tình trạng ấy, ở
Tây Nam Bộ, lần đầu tiên có sự xuất hiện tác phẩm văn xuôi của một số dân tộc
như truyện kí Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh (1994)
của Lý Lan (người Hoa), tiểu thuyết Chân dung Cát (2006), Hàng mã
ký ức (2010) của Inrasara (nhà thơ đã thành danh dân tộc Chăm) và một số
truyện ngắn, kí của Trà Vigia (người Chăm) (Lưu ý: với Trà Vigia, tập Chăm
Hri tác giả gửi cho NXB Văn học gồm 14 truyện ngắn nhưng chỉ được chọn in
7 tác phẩm). Như vậy, cả 2 khu vực miền núi rộng lớn gồm 16 tỉnh, thành vùng
Tây Nguyên và Tây Nam Bộ mà số tác giả người dân tộc thiểu số chỉ có thể đếm
trên đầu ngón tay và tác phẩm của họ nhìn chung cũng chưa được phổ biến/ thừa
nhận rộng rãi. Trong khi đó, văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc có
số lượng tác giả, tác phẩm khá lớn và có nhiều thành tựu hơn. Tuy nhiên, ngay tại
khu vực miền núi phía Bắc, sự chênh lệch về số lượng tác giả văn xuôi người dân
tộc thiểu số giữa các tỉnh cũng rất đáng kể. Chẳng hạn, cả tỉnh Tuyên Quang chỉ
có duy nhất một cây bút văn xuôi người dân tộc thiểu số là Ma Thị Hồng Tươi
(sinh năm 1987, dân tộc Tày). Trong khi đó, Cao Bằng tỏ ra là vùng đất có thế mạnh
về lực lượng này với hơn một chục cây bút văn xuôi có sức viết dòi dào. Tiêu biểu
là Vi Hồng, Triều Ân, Cao Duy Sơn, Bế Thành Long, Hữu Tiến, Đoàn Lư, Đoàn Ngọc
Minh, Nông Văn Lập, Mông Văn Bốn, Triệu Thị Mai, Bế Phương Mai... Sự không đồng
đều về số lượng và chất lượng các cây bút văn xuôi giữa dân tộc thiểu số này với
dân tộc thiểu số khác cũng là một thực tế. Văn xuôi dân tộc Tày chiếm vị thế
“áp đảo” trong nền văn xuôi các dân tộc thiểu số và thành tựu sáng tác của họ
đã được ghi dấu đậm nét trên văn đàn dân tộc. Nhiều bạn đọc trong cả nước đã biết
đến các tác phẩm Đường về với mẹ chữ, Người trong ống, Gã ngược
đời…của Vi Hồng, Tiếng khèn A Pá, Như cánh chim trời, Đường qua đèo mây…của
Hoàng Triều Ân, và gần đây là các sáng tác của cao Duy Sơn với nhiều giải thưởng
có giá trị: tiểu thuyết Người lang thang – Giải A Hội Nhà văn Việt
Nam, Giải nhì Hội Văn hóa Hữu nghị Việt – Nhật; tiểu thuyết Đàn trời –
Giải B Hội Văn học nghệ thuật và các dân tộc thiểu số Việt Nam; và đặc biệt, tập
truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối của Cao Duy Sơn cùng lúc nhận 2 giải
thưởng: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2008 và Giải thưởng văn học
Đông Nam Á năm 2009...
- Thực trạng nghiên cứu:
Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX,
trên nhiều kênh thông tin khác nhau đã xuất hiện nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu về văn học dân tộc thiểu số nói chung, văn xuôi các dân tộc thiểu số
nói riêng. Các công trình, bài viết đã quan tâm đến tiến trình phát triển, vấn
đề tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, đội ngũ tác giả…có thể nói là mọi khía
cạnh của mảng văn xuôi các dân tộc thiểu số. Tiêu biểu như: Văn xuôi miền
núi, một thắng lợi mới trong văn học các dân tộc thiểu số (1972) của Vũ
Minh Tâm; Sự hình thành văn xuôi (trong cuốn 40 năm văn hóa nghệ
thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 – 1985) của Phong Lê; Văn học các
dân tộc thiểu số mười năm qua với vấn đề truyền thống và hiện đại (1986) của
Đinh Văn Định; Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1995)
của Lâm Tiến, Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (1997) – Nhiều
tác giả; Văn học và miền núi (2000) của Lâm Tiến; Tuyển tập văn
xuôi dân tộc và miền núi thế kỉ XX (2000) – Nhiều tác giả; Văn học
nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kì đổi mới (2007) của Hội Văn học nghệ
thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam; Triều Ân – tác giả, tác phẩm và dư luận (2008)
của Hồng Thanh… Nhìn chung, các công trình, bài viết kể trên đã phác thảo được
bức tranh về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam nhưng vẫn chưa thật sự bao
quát đầy đủ và nhiều chỗ còn chung chung, đơn giản. Bởi vậy, có thể khẳng định
rằng, so với mảng văn xuôi viết về miền núi của các tác giả người Kinh, văn
xuôi các dân tộc thiểu số chưa thu hút được sự quan tâm đúng mức cùng những
nghiên cứu có chiều sâu học thuật từ phía các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Tình trạng đó cũng diễn ra đối
với việc nghiên cứu vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc - một trong những vấn đề
quan trọng nhất của văn xuôi các dân tộc thiểu số trên hành trình hội nhập. Khảo
sát và tìm hiểu trên cơ sở cứ liệu văn học hiện đại và đương đại của các dân tộc
thiểu số (Tày, Nùng, Thái, Dao, Pà Thẻn...) ở một số tỉnh miền núi phía Bắc
(Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Lào Cai, Sơn La...)
chúng tôi nhận thấy: Văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc khá phong
phú và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được nghiên
cứu một cách hệ thống, sâu sắc và toàn diện. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng
nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số một cách đơn lẻ, chỉ đưa ra nhận
xét chung chung rằng: tác phẩm này, tác phẩm kia, hay sáng tác của nhà văn này,
nhà văn kia... “đậm đà bản sắc dân tộc” mà không lí giải cụ thể; hoặc chỉ chú ý
đến mục tiêu bảo tồn chứ chưa thật sự chú trọng đến việc phát triển bản sắc dân
tộc của mảng văn học quan trọng này. Tại hội thảo quốc gia về Tính dân tộc
và tính hiện đại trong văn học nghệ thuật Việt Nam hiện nay (tổ chức tháng
8 năm 2009), nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đã bàn về vấn đề bản sắc dân tộc.
Phát biểu đề dẫn của Hữu Thỉnh có thể xem như một định hướng đúng đắn cho sự
phát triển của văn nghệ, trong đó có văn nghệ miền núi: “Có người cho rằng,
bản sắc dân tộc chỉ gây cản trở cho sự hòa nhập vào hiện đại, vào toàn cầu
nhưng họ quên rằng, cho dù quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ đến đâu thì
trong văn hóa cốt yếu là bổ sung, chứ không phải thay thế” (7). Quả thực, “Nếu
không có một phương hướng đúng, đến một lúc nào đó con em các dân tộc rất dễ bị
cắt đứt với truyền thống, làm mất đi bản sắc của dân tộc mình. Nghĩa là chúng
ta khó hi vọng có một lớp các nhà văn của các dân tộc trong tương lai” (8).
Khi bàn về văn học dân tộc
thiểu số nói chung, về văn xuôi các dân tộc thiểu số nói riêng, nhiều nhà
nghiên cứu đã quan tâm đến vấn đề truyền thống và hiện đại, vấn đề bản sắc văn
hóa dân tộc - những vấn đề thiết cốt của văn học dân tộc thiểu số. Phần lớn các
nhà nghiên cứu khẳng định: Bản sắc dân tộc là một phương diện được các cây bút
văn xuôi dân tộc thiểu số cố gắng thể hiện và đã có những thành công đáng ghi
nhận. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Toại đã nhận ra bản sắc dân tộc khá rõ nét trong một
số cuốn tiểu thuyết miền núi (9).Khái quát quá trình chuyển biến của văn học
dân tộc thiểu số trong 10 năm (1975 - 1985), Đinh Văn Định chỉ ra những biểu hiện
cơ bản của tính hiện đại và sự kế thừa truyền thống trong văn xuôi dân tộc thiểu
số (10). Phong Lê khẳng định: "Thành tựu của văn xuôi miền núi đã được
xác định ở cố gắng của người viết nhằm đi sâu nắm bắt cho được những nét riêng
trong cảnh sắc sinh hoạt, trong nét dáng tâm lý và ngôn ngữ con người - những
nét hắn chỉ là người viết dân tộc mới có khả năng làm ánh lên được"(11).
Vũ Minh Tâm lại báo động về hiện tượng mờ nhạt bản sắc dân tộc qua một vài hiện
tượng (12). Lâm Tiến, nhà nghiên cứu văn học dân tộc Nùng, người có nhiều công
trình nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số hơn cả đã có nhiều nhận định giàu sức
thuyết phục về vấn đề bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà văn dân tộc
thiểu số. Đặc biệt đáng chú ý là nhận định của Lâm Tiến cho rằng: Bản sắc dân tộc
trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc Tày lớp trước đậm nét hơn, còn "những
nhà văn dân tộc Tày sau này phần nào đã "đô thị hóa" cách viết , làm
cho cách viết của họ hơi xa lạ với cách cảm, cách nghĩ, cách nói của người lao
động miền núi đích thực. Nhưng chỗ mạnh của họ là tăng cường chất tự sự, chất
văn xuôi trong văn học" (13). Những năm gần đây, có một số khóa luận
tốt nghiệp đại học và luận văn thạc sĩ đã bước đầu tìm hiểu bản sắc dân tộc,
tính dân tộc trong sáng tác của một nhà văn dân tộc thiểu số hoặc trong một tác
phẩm văn xuôi dân tộc thiểu số tiêu biểu.
Nhìn chung, vấn đề bản sắc
dân tộc đã được đề cập đến một cách khái quát trong một số công trình nghiên cứu
tổng quan về văn học dân tộc thiểu số, hoặc được chỉ ra đây đó trong những bài
viết về các tác giả, tác phẩm cụ thể. Vẫn còn thiếu một công trình nghiên cứu
mang tính chuyên nghiệp, chuyên sâu về vấn đề bản sắc dân tộc trong văn xuôi
các dân tộc thiểu số, bởi có một thực tế là: Đội ngũ người nghiên cứu lý luận
phê bình về văn học dân tộc thiểu số hiện nay "vừa yếu vừa thiếu" và "giới
lý luận phê bình văn học nghệ thuật chuyên nghiệp lại chưa mấy quan tâm, chưa để
mắt tới lĩnh vực văn học nghệ thuật dân tộc thiểu số"(14). Thực trạng đó
đòi hỏi một sự quan tâm thích đáng về vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong văn
xuôi các dân tộc thiểu số. Làm rõ vấn đề này, chúng ta có thể đánh giá được một
cách khách quan, khoa học về vai trò, vị thế và màu sắc riêng của mảng văn học
dân tộc thiểu số - một mảng sáng tác còn chưa được nhìn nhận một cách thấu đáo
và khách quan trong dòng chảy chung của lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Qua
đó, góp phần xác định được ranh giới và sự xâm lấn, xóa nhòa ranh giới giữa các
dòng văn hóa, văn học ngoại vi và trung tâm (văn xuôi các dân tộc thiểu số và
văn xuôi Việt Nam hiện đại, rộng hơn nữa là sự tiếp cận của văn xuôi Việt Nam với
văn xuôi thế giới) những năm gần đây.
3. Văn xuôi các dân tộc thiểu
số trong nền văn học Việt Nam hiện đại - “dòng riêng giữa nguồn chung”
Như trên đã nói, văn chương
cần được coi là một lĩnh vực đặc biệt, không phân biệt ngoại vi hay trung tâm,
nước lớn hay nước nhỏ, nước già hay nước trẻ, dân tộc thiểu số hay đa số, giàu
hay nghèo, trung ương hay địa phương, chính lưu hay ngoài luồng, trong nước hay
hải ngoại,… Nhưng sự phân biệt đó đã từng xảy ra và ảnh hưởng đến tinh thần
cũng như trang viết của nhà văn. Vượt qua định kiến đó, các nhà văn dân tộc thiểu
số khi sáng tác cũng có thể đạt tiêu chí nghệ thuật cao, tạo ra các tác phẩm có
khả năng xóa nhòa ranh giới giữa trung tâm và ngoại vi. Thành tựu sáng tác của
các nhà văn dân tộc thiểu số hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định điều đó. Do khuôn
khổ có hạn, chúng tôi sẽ đi sâu vào sâng tác của 3 cây bút văn xuôi dân tộc thiểu
số tiêu biểu là Vi Hồng, Cao Duy Sơn và Inrasara – 3 cây bút đã thành danh, đã
và đang mở ra hi vọng cho sự tự tin hội nhập của văn học dân tộc thiểu số trong
tương lai.
Vi Hồng là cây bút tiêu biểu
của nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Với ý thức lao động nghệ
thuật nghiêm túc và “cần cù như một cái cuốc”, chỉ trong khoảng 30 năm cầm bút,
Vi Hồng đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ gồm:15 cuốn tiểu thuyết, 4 tập
truyện vừa, 1 tập truyện ngắn, 7 cuốn sách nghiên cứu và sưu tầm văn học dân
gian. Dù viết về những con người của quá khứ hay hiện tại, dù kể lại những chuyện
vui hay chuyện buồn của cõi đời và cõi người, văn chương Vi Hồng bao giờ cũng
thấm đượm một tinh thần nhân văn cao cả. Cái gốc của tinh thần nhân văn ấy
chính là tình yêu thiết tha với đất nước và con người Việt Nam nói chung và với
đất nước, con người miền núi nói riêng. Và ngọn nguồn của cảm hứng nhân văn ấy
là bởi nhà văn được nuôi dưỡng trong nguồn suối trong lành của truyền thống lịch
sử văn hóa dân tộc. Có thể nói, nguồn suối văn học dân gian đã tắm mát suốt tuổi
thơ Vi Hồng và còn nâng đỡ tinh thần nhà văn suốt cuộc đời dài dặc những đắng
cay và cơ cực. “Thành tựu lớn nhất mà Vi Hồng để lại cho đồng bào các dân tộc
thiểu số được trầm kết trong các trang văn. Mạch lạc và dứt khoát đôi khi đến cực
đoan trong đời riêng, trái tim nhà văn không ngừng đập giữa hai dòng yêu thương
và hờn giận. Song trước sau ông vẫn là con người nhân hậu, giàu lòng yêu thương
và luôn khao khát được yêu thương”(15).
Là một người con dân tộc Tày
sinh ra và lớn lên ở miền núi từ những năm trước Cách mạng tháng Tám, Vi Hồng
có một hoàn cảnh và số phận riêng nhiều cay đắng như ông từng thú nhận: “Cuộc
đời tôi là một chuỗi dằng dặc ngày tháng, rồi năm tiếp năm không bao giờ ngừng
cất tiếng vang vọng khổ đau trong tâm linh của mình”(16). Thế nhưng, Vi Hồng đã
vượt lên hoàn cảnh và nỗi đau riêng để sống nỗi niềm chung của cộng đồng, quê
hương, xứ sở. Nhà văn tâm sự: “Riêng với tôi – tôi cũng chưa hiểu tại sao
những khi buồn nhất thì tôi lại thấy thương thật nhiều, yêu thật nhiều về những
nỗi đau của bè bạn, của người quen và của con người nói chung, buồn cho mọi số
kiếp bất hạnh...Nỗi buồn là ngọn nguồn tạo nên những tiểu thuyết của tôi”(17).
Cầm bút là một cách “tự vệ” của Vi Hồng trước cuộc đời nhiều bất công, ngang
trái. Cầm bút, với Vi Hồng từ chỗ là một hành động “giải tỏa” - giải tỏa những
nỗi buồn chất chứa trong tâm can... đến dấn thân – dấn thân vào nghệ thuật để
tham dự một cách có ý nghĩa vào việc nâng đỡ con người, vào cuộc đấu tranh cho
quyền sống và hạnh phúc của con người. Tâm niệm ấy của nhà văn – nhà giáo Vi Hồng
đã thể hiện rõ nét trên những trang viết tha thiết yêu thương và đầy sức ám ảnh
về cuộc sống và con người miền núi.
Gắn bó với con người và cuộc
sống miền núi, lại trải nghiệm đến tận cùng nỗi đau riêng trong nỗi đau chung,
Vi Hồng là một trong số ít nhà văn dân tộc thiểu số đã thể hiện một cách thấm
thía và xúc động nỗi niềm xót xa, thương cảm cho thân phận con người trước điệp
trùng nỗi khổ luôn bủa vây tứ bề khiến cho họ khó lòng tìm được đường ra. Bất hạnh
và cô đơn dường như luôn là bạn đồng hành của biết bao phận người miền núi trên
hành trình cuộc sống. Tệ nạn nghiện hút thuốc phiện đã đẩy bao người vào cảnh
khốn cùng, việc ép duyên hay rẽ duyên đôi lứa trong xã hội miền núi cũng được
miêu tả một cách đầy ám ảnh. Vi Hồng bằng sự đồng cảm từ nỗi đau riêng và sự nhạy
cảm với nỗi đắng cay của đồng loại đã lên án những hủ tục ngàn đời đẩy con người
vào kiếp sống “đọa đầy” và thể hiện sự trăn trở, xót xa trước những khát vọng về
tình yêu hạnh phúc của con người miền núi.
Là người con nặng lòng với
quê hương xứ sở, hơn ai hết, Vi Hồng thấu hiểu sâu sắc cả “giới hạn” và “điểm
sáng” của con người miền núi. Thâm nhập thật sâu vào “vùng phát sáng” của dân tộc
mình, Vi Hồng còn có những phát hiện tinh tường về sức sống tiềm tàng âm thầm
mà mãnh liệt hầu như chưa bao giờ lụi tắt trong tâm hồn của những con người
nghèo khổ nơi chốn rừng xa. Trong sáng tác của ông, cuộc đấu tranh giành quyền
sống cho con người luôn diễn ra đầy khó khăn, nhiều thử thách và nhân vật có
khi chỉ còn lại hai bàn tay trắng sau bao cố gắng kiếm tìm và giữ gìn hạnh
phúc. Thế nhưng, có một điều không bao giờ mất đi ở những con người hiền lành
và nghèo khổ ấy là niềm tin vào chính mình, vào khả năng chiến thắng của cái
thiện trong cuộc đời. Đứng về phía cái đẹp, cái thiện để lên án cái xấu, cái ác
là sứ mệnh cao cả của người cầm bút mà Vi Hồng tự nguyện đón nhận về mình: “Các
trang viết của tôi là lời tâm tình cùng các dân tộc miền núi, trước hết với người
Tày rằng: hãy yêu thương và biết yêu thương những cái đẹp, nhất là những con
người cao đẹp, cao cả, đồng thời đem hết sức mình ra diệt trừ cái ác, kẻ ác, trừ
khử kẻ phản bội trắng trợn, nguyền rủa những kẻ “béc kha cải”(đại nịnh hót),
khinh bỉ lũ yếu hèn. Tôi cũng cho rằng đây là sứ mệnh cao cả và muôn đời của mọi
nhà văn trên thế giới” (18).
Gieo trồng tư tưởng nhân văn
ngay trên mảnh đất truyền thống mà ông bà xưa để lại là một hướng đi đúng và có
hiệu quả của ngòi bút văn xuôi Vi Hồng. Đào sâu vào cội nguồn văn hóa dân tộc,
những tư tưởng nhân văn của ông đã lay động tới tận chốn thẳm sâu trong tâm hồn
người đọc, khơi gợi về tình yêu thương con người, về sự trân trọng những vẻ đẹp
văn hóa truyền thống, đồng thời lay tỉnh tâm thức người đọc, nhắc nhở về một lối
sống, một thái độ sống trong cuộc đời “đa sự” khi những giả - ngay, thiện - ác,
tốt - xấu, đúng - sai còn đang “lộn nhèo vào nhau thành một cục”. Tuy nhiên,
trong thực tế, bởi những tác động từ nhiều phía, con người hiện đại đang dần đi
xa những quỹ đạo văn hóa truyền thống, một lối viết quá nghiêng về truyền thống
với những kết thúc có hậu, những nhân vật phân cực triệt để giữa hai mặt tích cực
– tiêu cực, nhân văn – phản nhân văn...không phải không có lúc gây nên cảm giác
xa lạ với con người hiện đại. Yêu cầu đặt ra đối với văn học Việt Nam đương đại
là vừa phải giữ gìn, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thồng vừa
phải phát triển nó trong những điều kiện lịch sử mới để đáp ứng yêu cầu hội nhập
với thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa. Văn xuôi Vi Hồng đáp ứng tốt yêu cầu thứ
nhất: giữ gìn, bảo tồn, phát huy nhưng ở yêu cầu thứ hai thì còn có khá nhiều hạn
chế. Một số nhân vật của Triều Ân đa diện hơn. Các nhân vật của cao Duy Sơn
cũng nhiều màu vẻ hơn. Những phức tạp, rối rắm, u ẩn đầy khuất khúc, không dễ
phân định rạch ròi trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác cuả con người
với hoàn cảnh bên ngoài và với chính mình trong sáng tác của Cao Duy Sơn đánh động
mạnh vào tâm thức người đọc, buộc họ phải suy nghĩ, phải trăn trở, phải nhìn
sâu vào bản thân và có nhu cầu hoàn thiện nhân cách. Đó là con đường vừa phát
huy vừa phát triển bản sắc dân tộc trong thời kì mới.
Cao Duy Sơn thuộc thế hệ thứ
hai trong đội ngũ các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Anh viết chậm
và kỹ, từ 1984 đến nay, anh mới chỉ trình làng 5 tập truyện ngắn và 4 cuốn tiểu
thuyết, nhưng lạ là chỉ với ngần ấy thôi, anh đã được đánh giá là cây bút tiêu
biểu nhất của nền văn xuôi các dân tộc thiểu số hiện nay. Cao Duy Sơn là nhà
văn người Tày, sinh ra và lớn lên ở quê ngoại - đất Trùng Khánh - Cao Bằng. Cuộc
sống nghèo khó và những con người hiền lành, chân thật của quê hương đã trở
thành một phần máu thịt của tâm hồn anh. Viết văn là cơ hội để Cao Duy Sơn bày
tỏ tình yêu thiết tha của mình với quê mẹ thân thương. Viết như một sự "trả
nợ" tình cảm. "Viết là một cuộc viễn du về với cội nguồn"(19).
Để có thể khám phá vào tận bề sâu những vỉa tầng văn hóa của dân tộc mình, Cao
Duy Sơn tâm niệm: "Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài miền núi"(20).
Đó là định hướng rõ nét cho con đường nghệ thuật của Cao Duy Sơn. Trong tác phẩm
của anh, hiện lên bức tranh đời sống miền núi với đủ các gam màu sáng - tối, trắng
- đen; với đủ các phận người giàu - nghèo, tốt - xấu, hạnh phúc - bất hạnh; với
đủ các âm điệu vui - buồn, yêu thương - giận hờn - tha thứ; với đủ cả nước mắt
và tiếng cười, cả bình yên và bão tố, cả phong tục và hủ tục... Nhưng dù viết về
vấn đề gì, sáng tác của anh cũng đau đáu một tình yêu quê hương xứ sở, một sự
trân trọng với những giá trị văn hóa cội nguồn.
Nhà văn yêu quý và tự hào biết
bao nhiêu về truyền thống văn hóa quê hương và có ý thức "tích lũy, khám
phá để "mã hóa" những vỉa tầng văn hóa nguyên bản, hồn nhiên của người
dân tộc đưa vào những trang văn"(21). Giọng văn trần thuật của cao Duy Sơn
thực sự reo vui khi kể về những phong tục tập quán đẹp và các vốn văn hóa cổ
truyền của dân tộc mình như tục "Khai vài xuân", tục đi chợ tình; các
làn điệu dân ca say đắm lòng người như điệu Dá hai, điệu lượn then; rồi thuật
tuồng hát minh họa bằng những con rối đầu gỗ...Giọng điệu ngợi ca của Cao Duy
Sơn cũng thể hiện rõ nét khi viết về những con người miền núi. Đó là những con
người hồn nhiên, chất phác, thủy chung, tình nghĩa và giaù đức hi sinh. Xây dựng
nhân vật, Cao Duy Sơn ít chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài. Nhà văn chú trọng khám
phá nhân vật ở chiều sâu tâm hồn và số phận. Anh thường làm "phép thử"
- "nhúng chàm" các nhân vật của mình và sung sướng reo lên khi nhận
ra rằng, qua bao nhiêu thử thách của hoàn cảnh, họ vẫn giữ được cốt cách riêng.
Bên cạnh giọng điệu ngợi ca
tự hào, giọng điệu xót xa thương cảm cũng là biểu hiện của tình yêu đối với quê
hương xứ sở. Yêu đất Mẹ bao nhiêu, Cao Duy Sơn càng xót xa bấy nhiêu trước thực
trạng quê hương còn nhiều điều chua xót... Ám ảnh về một tuổi thơ gắn bó với
vùng quê nghèo, với "những người dân quanh năm, suốt đời áo vá, lầm lũi đi
kiếm ăn trong nắng sớm, mưa chiều"(22)đã theo suốt cuộc đời nhà văn đất Cô
Sầu, khiến anh không thể bao giờ quên. Kỷ niệm hiện hình thành văn chương,
thành câu chữ, thành hình tượng nghệ thuật truyền từ người viết đến người đọc một
cách tự nhiên và xúc động bởi tấm chân thành và tình cảm đậm đặc Cao Duy Sơn
dành cho quê mẹ.
Trong những xung đột thế sự
của con người miền núi, cuộc đấu tranh giữa cái thiện với cái ác trong đời sống
hôm nay là vấn đề được Cao Duy Sơn đặc biệt quan tâm và dành nhiều trang viết để
phân tích, khảo nghiệm. Những ẩn dụ, biểu tượng trong truyện ngắn của Cao Duy
Sơn chứa đựng những dự cảm âu lo về nhiều vấn đề nhân sinh của cuộc sống phức tạp
hôm nay. Bao vấn đề quan thiết được đặt ra để bàn bạc, trao đổi. Bao giờ thì
quê hương được thay đổi? Bao giờ thì miền núi tiến kịp miền xuôi? Làm thế nào để
giữ gìn bản sắc dân tộc khi cuộc sống đang vận động, biến chuyển không ngừng?
... Đó là những câu hỏi day đứt, xót xa, đau đáu trong nhiều trang viết của Cao
Duy Sơn.
Cao Duy Sơn có ý thức hòa trộn
trong tác phẩm của mình cả hai yếu tố truyền thống và hiện đại. Truyện ngắn của
anh vừa xưa xưa như cổ tích lại vừa mang hơi thở của cuộc sống đương đại, đậm đặc
chất tiểu thuyết trong tính đa dạng của chủ đề, trong những yếu tố đời tư,
trong những nếm trải của nhân vật với những độc thoại nội tâm day dứt. Ngôn ngữ
và giọng điệu văn chương của Cao Duy Sơn mang đặc trưng "người vùng
mình" vừa giàu chất trữ tình, chất thơ vừa mộc mạc, chân chất và góc cạnh.
Người đọc có thể cảm nhận qua giọng điệu và ngôn ngữ ấy cái dung dị, hồn nhiên,
ấm áp như tình người miền núi từ ngàn xưa đến nay còn giữ được nhưng cũng không
kém phần khắc khoải, giàu suy tư, chiêm nghiệm trước những thật - giả, hay - dở,
thiện - ác của cuộc đời bởi những trải nghiệm đời sống mà nhà văn cảm thấm được
trong dòng đời bất tận của cõi nhân sinh. Thuộc hiểu sâu sắc đời sống văn hóa
dân tộc mình, Cao Duy Sơn đã cố gắng chuyển tải một cách hiệu quả nhất các vấn
đề của đời sống miền núi đến với người đọc. Quá trình nhà văn "giải
phóng năng lượng của bản thân, khám phá chất người Cô Sầu trong chính
mình"(23) cũng là quá trình anh tìm về với bản chất sâu thẳm của đời
sống văn hóa dân tộc mình. Chính sự gặp gỡ ấy đã đem đến thành công cho sáng
tác của Cao Duy Sơn bởi nó là kết quả của một tình yêu không bao giờ vơi cạn của
nhà văn đất Cô Sầu với quê Mẹ - miền biên viễn. Đó là cơ sở để ta hi vọng vào
những thành công tiếp theo của anh trên con đường tìm về nguồn cội.
Inrasara không phải là người
con của núi rừng phía Bắc như Vi Hồng, Cao Duy Sơn. Là người con tiêu biểu của
dân tộc Chăm, “chôn nhau cắt rốn” tại làng Chăm Chakleng (tỉnh Ninh Thuận) và
được nuôi dưỡng bởi nguồn dinh dưỡng Chăm với kho văn thơ khổng lồ, bất tận…,
Inrasara đã thể hiện nguồn cảm hứng mãnh liệt về con người Chăm, số phận Chăm,
văn hóa Chăm trong tất cả các hoạt động văn học và trước tác của mình. Với nhà
văn này, một mặt, bản sắc dân tộc là phần tinh túy nhất của văn hóa dân tộc đã
được gạn lọc qua hàng ngàn năm lịch sử cần phải được bảo tồn, lưu giữ; mặt
khác, bản sắc không phải là cái gì tĩnh mà là một thực thể động. Con người
hôm nay phải sáng tạo phần mình để đóng góp vào kho văn hóa dân tộc...”(25). Vì
thế, sáng tạo và phát triển cũng là một ứng xử cần thiết của một người con nặng
lòng với quê hương xứ sở. Quan niệm như vậy nên Inrasara đã bình tĩnh, chủ
động từng bước một để thực thi công việc của một Chăm hữu trách với dân tộc: từ
vai trò của người lưu giữ, bảo tồn với các cuốn Từ điển Chăm – Việt, Từ điển
Việt – Chăm (viết chung), Tự học tiếng Chăm; dạy chữ Chăm ở quê; rồi
dần dần soạn được bộ Văn học Chăm, khái luận – văn tuyển dày dặn; chủ
biên tuyển tập Tagalau… Và đến nay, ông đang thực hiện tiếp vai trò của người
sáng tạo, phát triển văn hóa Chăm bằng tiểu thuyết sau khi đã thành công trong
lĩnh vực thơ ca.
Tiểu thuyết, theo quan niệm
của Inrasara, “ngoài khám phá tâm hồn con người trong cách thế khác, còn là kho
lưu trữ sinh hoạt một dân tộc trong thời đại đó, vừa đứng biệt lập vừa bổ sung
cho thiếu hụt của lịch sử. Làm tốt chức năng đó, hình thức tiểu thuyết cũng cần
được thay đổi/ trương nở để đáp ứng trúng nhịp thời đại mình đồng thời với mỗi
đề tài mà nó nhắm tới”(24). Phải chăng đây chính là lí do khiến nhà văn có ý thức
tìm kiếm một cách thức thể hiện mới cho tiểu thuyết của mình. Có thể thấy, dù
không phải là người đi tiên phong theo xu hướng văn học hậu hiện đại ở Việt
Nam, nhưng rõ ràng tiểu thuyết của Inrasara đã trở nên rất mới, rất phức tạp
khi thể hiện gần như tối đa cùng lúc mọi phương diện hậu hiện đại mà nó có thể:
truyện không có cốt truyện, truyện lồng trong truyện, thơ trong truyện và truyện
trong thơ; giọng giễu nhại, chồng xếp; cái chết của thời gian - không gian;
nhân vật và không nhân vật…Độc giả có thể sẽ bất ngờ và thắc mắc trước sự đột
phá của ông. Không thể không đặt ra vô số những băn khoăn và hàng loạt câu hỏi
khi đọc Hàng mã ký ức cũng như trước đó không lâu là Chân dung
cát của Inrasara: Tiểu thuyết dù là câu chuyện của anh ta hi[s-]story
(history) thì người đọc cũng phải hiểu được đó là câu chuyện gì và rồi kể lại
cho người khác nghe được chứ! Rồi, đó là câu chuyện của ai? Đâu là nhân vật
chính? Qua nhân vật này nhà văn gửi gắm điều gì? Chả thấy thắt nút, mở nút ở
đâu? Rồi không – thời gian nghệ thuật như thế nào? Ôi thôi, tất cả đều rối tung
rối mù, từ nội dung tư tưởng đến thi pháp đều chả đâu vào đâu…Người đọc truyền
thống nếu không bình tĩnh dễ vứt ngay cuốn sách vào kho sách và quên rằng mình
đã có nó trong tay. Đó là chưa nói, người nóng tính có thể gạch luôn cả tên nhà
thơ Inrasara vốn đã có ấn tượng tốt đẹp bấy nay…
Tình trạng đó cũng tương tự
đối với phần lớn các nhà phê bình nghiên cứu văn học. Sẽ phải hiểu đây là [câu]
chuyện hay truyện khi chính người sinh thành ra nó còn đắn đo ngay từ dòng Vào
tr[ch]uyện…Tác phẩm gồm 12 chương nhưng mỗi chương một kiểu, có vẻ lôm côm chẳng
đâu vào đâu: chương 1 được viết như hồi kí (“Cha, mẹ, anh chị em & Con sông
quê hương”); chương 10 đích thị là tiểu luận (“Bốn cứu cánh của đạo
sĩ Bà – la – môn & thơ”);còn chương 12 thì lại được viết dưới dạng tùy bút (“Thơ
như là con đường”)…Các nhà văn dân tộc thiểu số thường rất hay đưa vào văn
chương những thổ cẩm, thắng cố, hoa xòe, …để giúp tác phẩm thêm đậm
đà bản sắc dân tộc. Đằng này, Inrasara dường như muốn giễu nhại cả những điều
thiêng liêng khi cho rằng “Lịch sử như là mớ hổ lốn”, thậm chí gọi thẳng
tên những thói tật Chăm không hề giảm tránh như “Tinh thần ‘tùy tiện’ Chăm…”…Và
cũng với giọng văn phi nghiêm cẩn ấy, tác giả đã kể lại tất cả các câu chuyện
dù đó là chuyện tốt hay xấu, hay hoặc dở, buồn hay vui, khôi hài hay rất mực
nghiêm túc…
Nhìn bề ngoài, vẻ như tiểu
thuyết của Inrasara cắt đứt với truyền thống, rời xa truyền thống ở cách đặt vấn
đề và cách viết, nhưng xét cho kĩ lại không hẳn là thế. Vẫn có một minh triết
Chăm ẩn hiện trên các trang văn của Inrasara. “Tinh thần tùy tiện” đã khiến nhà
văn Chăm cho rằng việc lưu giữ ký ức dân tộc không phải công việc duy của sử
gia hay nhà nghiên cứu mà cũng chính là công việc của thi sĩ. Đương nhiên, thi
sĩ – nghệ sĩ – nhà văn sẽ “lập biên bản” tinh thần dân tộc theo cách của kẻ
sáng tạo! Mà trong sáng tạo có sự hủy phá, hay hủy phá để sáng tạo, hủy phá
trong sáng tạo lại chính là tinh thần thoát thai từ tư tưởng Shiva. Song song tồn
tại trong một sinh thể Chăm là tinh thần “tạm bợ” và “vĩnh cửu”, “an phận” và
“phiêu lưu”, “nhát hèn” và “dũng cảm”, “ham chơi” và “chăm chỉ”, “nghiệt ngã”
và “vô tư”… Ranh giới giữa các mặt đối lập ấy e chừng quá mong manh, khiến người
đọc nhập nhòa khó nhận diện, không dám gọi tên. Chẳng hạn: ký ức vốn là cái có
thật, là những chuyện có thật được chủ thể nhớ lại, nhưng đặt sau từ “hàng mã”
thì ký ức đó lại không thể xem là chân thực được nữa. Như vậy, Hàng mã ký ức là
câu chuyện thật thật hư hư. Có thể nói: Làm cho người đọc nghi ngờ độ xác thực
của những câu chuyện nghe có vẻ rất thật, rất nghiêm túc; và ngược lại dường
như cảm thấy những câu chuyện, những vấn đề mà tác giả hư cấu lại có lý, có cơ
sở thực tế…chính là thành công đầu tiên của tiểu thuyết này, theo tinh thần
Chăm.
Nếu minh triết Chăm quan niệm: “Học
không phải để mưu lợi mà để biết” thì nhà văn Chăm đã vận dụng để đưa ra
quan niệm viết: Viết không phải để lưu danh mà để vô danh! Cũng chính vì không
cần lưu danh mà người viết tha hồ tưởng tượng và sáng tạo thỏa thích mà không
lo phải đối diện, đối thoại với bất cứ yêu cầu hay khuôn khổ nào. Chẳng hạn,
nói đến lịch sử là nói đến việc lưu giữ sự thật về quá khứ, về những điều tương
đối nghiêm cẩn, cần thiết đối với một cộng đồng. Nhưng với Hàng mã ký ức thì
“Lịch sử như là mớ hổ lốn” không hơn! Tất nhiên, lịch sử đó “Ai
biết được, nó thật đến mức độ nào!?” bởi chính tác giả tự sẻ chia: “Thật mà
chưa hẳn đúng thật” [tr.8]…
Hành trình văn học nhân loại
nói chung, Việt Nam nói riêng đã từng trao gửi niềm tin vào các đại tự sự (grand
narratives) hay tự sự chủ đạo (master narratives). Đó là những truyện kể
(stories) mà một nền văn hóa hay một dân tộc tường thuật và tin vào. Và cũng
chính nó đã tạo nên tâm thức cộng đồng và duy trì sức mạnh của nền văn hóa hay
dân tộc đó. Song, cùng với thời gian, đã có nhiều tấm màn bí mật về lịch sử, về
quá khứ thần thiêng được vén lên, con người ngộ ra phần nào sự thật. Đó cũng
chính là khi người ta dần bất tín với các đại tự sự. Họ tìm sự cứu chuộc ở các
tiểu tự sự (small narratives) – những truyện kể mang tính cá nhân, địa
phương, tạm bợ trong một hoàn cảnh cụ thể. Không thể đòi hỏi ở các tiểu tự sự
những chân lí phổ quát, ổn định và mong muốn tất cả mọi người tin theo, thậm
chí làm theo… như với các đại tự sự trước kia. Hàng mã ký ức, vì vậy đã
tự do kể về “…cuộc đời tôi và mảnh đời của những người xung quanh thế giới
tôi, sự kiện hay sự việc tôi biết, tôi trải nghiệm, cuốn sách tôi đọc…”(26). Và
chính những câu chuyện vụn vặt như thế đã giúp người đọc nhận chân cuộc sống với
mọi đúng – sai, vui – buồn, cao cả – thấp hèn , hạnh phúc – khổ
đau, sâu lắng – hời hợt, tiến bộ - trì trệ … Nó đúng với bản chất của
mọi sự vật hiện tượng luôn chứa đầy mâu thuẫn, đều luôn vận động, phát triển
trong thế giới bất toàn và biến động luôn luôn. Và tất cả các thuộc tính Chăm
khác dường như cũng đồng hiện trong Hàng mã ký ức như tinh thần thần tùy tiện,
giải sân hận, nghệ sĩ tính, ham nghệ thuật, ham chơi, ngẫu hứng và bấp bênh,
kiêu hãnh và tự ti…
Tiểu thuyết nói riêng và các
sáng tác nói chung của Inrasara có thể xem là những hành động cụ thể nhằm xóa
nhòa ranh giới giữa văn học dân tộc thiểu số và văn học Việt Nam như ông đã từng
thổ lộ: “Có thể nói, tư tưởng chủ đạo của Inrasara là suy tư và hành động ở vạch
đứt lằn ranh ngoại vi/ trung tâm, ở mọi khía cạnh, cấp độ khác nhau”(27). Hàng
loạt bài viết ở nhiều cấp độ, mang tính hệ thống của ông về vấn đề này là minh
chứng cho sự chi phối của tư tưởng đến trang viết của một nhà văn tâm huyết, khắc
khoải mong được đóng góp và hội nhập: "Văn chương, suy nghĩ toàn cầu -
hành động địa phương", tham luận tại Hội thảo Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
11-12-2006; "Văn chương ngoại vi/ trung tâm, từ một góc nhìn", tạp
chí Tia sáng, số 14, 20-7-2006; "Văn học Đông Nam Á trong tâm thế
Hậu thuộc địa", tạp chí Tia sáng số 14, 20-7-2006; Tienve,
2006 ; tạp chí Thơ, Hoa Kì, số 31, mùa Xuân 2006; "Thơ dân tộc
thiểu số, từ một hướng nhìn động", Talawas.org, tháng 4-2004; “Lặn
sâu vào dân tộc để sáng tạo cái mới", Tienve.org, 12-2-2011;
"Sáng tác văn chương Chăm hôm nay", Tienve.org, tháng 2-2000;
"Sáng tác Chăm hiện đại", tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số
12, 2009; "Khủng hoảng thơ trẻ Sài Gòn", tham luận tại Đại hội Hội
Nhà văn TP Hồ Chí Minh, tháng 3-2005; Tienve.org, tháng 3-2005 - về
Nhóm Mở Miệng và làn sóng thơ nữ Sài Gòn; "Văn chương trẻ Sài Gòn ở
đâu?", báo Văn nghệ trẻ, số 45, 11-11-2007; Tienve, 27-11-2007;
"Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố “nữ”, Talawas.org, tháng 12-2005;
tạp chí Nhà văn, tháng 3-2007; "Nhập cuộc và hy vọng", tạp
chí Văn nghệ Ninh Thuận, số 16-2001 - qua sơ bộ lập biên bản sinh hoạt văn
học tỉnh Ninh Thuận và sự có mặt đầy khiêm tốn của nó; "Hậu hiện đại và
thơ hậu hiện đại Việt", Vanchuongviet, 21-12-2007; "Thơ Việt, từ
hiện đại đến hậu hiện đại", Tienve, 18-2-2009; "Văn chương mạng",
tạp chí Tia sáng, số 9, 5-5-2007; báo Văn nghệ, số 20, 19-5-2007;
"Tri thức nền tảng – nhìn từ một vùng ngoại vi", tham luận Hội thảo
Văn hóa đọc, thực trạng và giải pháp, Bộ Văn hóa, Du lịch và Thể thao, TP Hồ
Chí Minh, 16-9-2010; tạp chí Tia sáng, 20-11-2010.
4. Thay lời kết:
Trong bộn bề những lo lắng
và sự đấu tranh giữa truyền thống và hiện đại, giữa ngoại vi và trung tâm… trên
hành trình hội nhập, có nhà nghiên cứu đã cho rằng: “Phương Tây không còn
là trung tâm của sáng tạo nghệ thuật. Thử so qua các giải Nobel sẽ rõ. Nếu trước
kia Yeats, Eliot, Hesse, Quasimodo, Saint-John Perse, Seferis đã mang lại vinh
quang cho thi ca Âu châu, hai thập niên cuối thế kỷ cho thấy sự thắng thế của
văn học ngoại vi. Với nội dung bức bách của lời kêu gào đòi nhân quyền nhân phẩm
chống toàn trị công an, phân biệt màu da, chiến tranh tôn giáo-chủng tộc, tên
tuổi của Milosz, Seifert, Brodsky, Soyinka, Derek Walcott, Szymsborska đã kéo
tiếng thơ đến gần hơn với nỗi thống khổ của con người thời đại. Gần chúng ta
hơn là thơ Trung Quốc với Bắc Đảo, Cố Thành, Đa Đa, Vong Khắc của Mông Lung
phái; là thơ tranh đấu Ấn Độ, Nam Dương; là thơ phản kháng Phi Luật Tân, Việt
Nam...” (28).
Ở Việt Nam, cũng đã có nhiều
tín hiệu của sự đổi mới trên nhiều bình diện, cấp độ khác nhau. Về cơ bản, dù không
phủ nhận sự yếu thế, lép vế của một đất nước, ngôn ngữ “nhược tiểu”(chẳng hạn,
tác phẩm viết bằng tiếng Anh đương nhiên dễ truyền bá hơn tiếng Việt hay tiếng
Thái, tiếng Hàn…) nhưng cũng không vì thế mà phủ nhận sự cố gắng, tự tin hội nhập
của các nhà văn Việt nam với sắc màu và bản lĩnh riêng. Trên hành trình hội nhập
lâu dài, có nhiều cách thức và con đường khác nhau để lấn dần ranh giới
giữa ngoại vi và trung tâm. Có thể đào sâu vào cội nguồn truyền thống như Vi Hồng,
Cao Duy Sơn; cũng có thể bổ sung, phát triển, sáng tạo trên cái nền truyền thống
như Inrasara với quan niệm: “Cá nhân hay cộng đồng kể chuyện về mình, suy
tư, phản ứng hay hành động đầy riêng tư trước vấn đề rất cụ thể mà thế giới đặt
ra cho mình hay cộng đồng mình. Nó không lo lắng cho cả thế giới, nó chỉ lo lắng
cho nó thôi, bởi nó cũng là một thế giới. Khi nó lo lắng cho nó cách rốt ráo là
nó đã lo lắng cho thế giới. Cụ thể hơn, khi ta trồng cây trong khuôn viên nhà
ta, nhắc anh em đừng phá rừng là ta đã giúp nhân loại bảo vệ phần nào môi trường
thế giới rồi”(29). Dù bằng con đường nào thì cái đích cuối cùng của văn chương vẫn
là chuyển tải thật hiệu quả các vấn đề của dân tộc và thời đại đến với người đọc.
Trên tinh thần ấy, những tìm tòi, sáng tạo của các nhà văn dân tộc thiểu số dù chưa
hẳn đạt mức “tới hạn” nhưng nó đã chứng tỏ bản lĩnh, tài năng và tinh thần dân
tộc của nhà văn trên hành trình hội nhập. Vì thế, những đổi mới trong cách
nghĩ, cách viết của họ cần phải được trân trọng và phải được nghiên cứu một
cách khách quan, kĩ lưỡng để tìm ra những yếu tố khả thủ. Đó cũng là định hướng
nghiên cứu của chúng tôi trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo:
(1), (2), (3). Dẫn theo Ngô
Đức Thịnh (2007), Lý thuyết "trung tâm và ngoại vi" trong nghiên
cứu không gian văn hóa, www.ncvanhoa.org.vn
(4). Ngô Đức Thịnh (2004), Văn
hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
(5). Nhiều tác giả (1979),Trung
tâm và ngoại vi trong nghiên cứu văn hoá sau phát kiến địa lí, Nxb. Khoa học,
Maxcơva.
(6), (27), (29). Inrasara
(2006), Văn chương ngoại vi/ trung tâm, từ một góc nhìn, tạp chíTia sáng, số
14, 20-7-2006.
(7). Hữu Thỉnh (2009), Bàn
về vấn đề giữ gìn, phát triển bản sắc văn hóa (Hội thảo “Tính dân tộc và
tính hiện đại trong văn học nghệ thuật Việt Nam hiện nay”, tr.161).
(8). Hùng Đình Quý (1997), Tiếng
nói các nhà văn dân tộc thiểu số, Nhiều tác giả, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
tr.120.
(9). Nguyễn Văn Toại (1981), Về
một vài đặc điểm dân tộc qua một số tiểu thuyết miền núi,Tạp chí Văn học số 4.
(10). (11), (12). Nhiều tác
giả (1997), 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945
- 1985), Nxb Văn hóa, Hà Nội.
(13). Lâm Tiến (2000), Văn
học và miền núi, NXB Văn hóa dân tộc, tr. 27.
(14). Mai Liễu (2010),
Khoảng trống lý luận phê bình VHNT dân tộc thiểu số, Báo Văn nghệ số 20
ngày 15-5-2010.
(15). Vũ Anh Tuấn- Vi Hồng
với mùa xuân Nặm Cáp - Kỷ yếu kỉ niệm Khoa Ngữ văn 35 năm xây dựng và trưởng
thành - NXB Thanh niên, H, 2001, tr 15.
(16), (17)Vi Hồng, Ngả
văn chương, Tchí Vhọc, 1994, số 9, tr 7, 8.
(18). Dương Thuấn, Nhà
văn Vi Hồng như tôi đã biết, Tạp chí Văn nghệ DT và MN, 2002
(19). Nguồn:
http:/WWW.ktdt.com.vn/
(20), (21) (23). Chu Thu Hằng
(2008), Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài về người miền núi, Báo Văn hóa số
1609 ra ngày 12/11/2008.
(22). Hứa Hiếu Lễ (2008), Nhà
văn người Cô Xàu đoạt giải văn chương, Văn hóa - văn nghệ Cao Bằng, 5/12/2008.
(24).Ngọc Lan(2006), Inrasara
- Viết như một công dân thế giới, Báo Thế thao - văn hóa, 14-7-2006
(25). Khánh Phương (2006),
Đôi mắt như niềm bí mật Chăm, Báo Xã hội và Gia đình, tháng 8-2006.
(26). Inrasara (2011), Hàng
mã kí ức, NXB Văn học và Cty Sách Phương Nam, tr. 8.
(28). Chân Phương (1999),
Cái mới đi về đâu?, TC. Việt Úc, số 3, tr.119.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét