Góp thêm một cách hiểu câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử
Trong thời gian qua, đã có rất nhiều bài viết trao đổi về câu thơ “Lá trúc che
ngang mặt chữ điền” trên mặt báo. Để trả lời câu hỏi “mặt chữ điền” là gương mặt
của ai? Mặt cô gái hay chàng trai, cho đến này dường như vẫn chưa thật ngã ngũ
một cách thỏa đáng.Theo tôi, nên đặt câu thơ và chỉnh thể nghệ thuật Đây thôn Vĩ Dạ để xem xét sẽ thấy đây là câu thơ tả cảnh thôn Vĩ chứ không phải tả mặt người.
Như chúng ta đã biết, Hàn Mặc Tử sinh ở Quảng
Bình nhưng sống chủ yếu ở Quy Nhơn, có thời gian ra Huế học hai năm sau đó vào
Bình Định làm ở Sở Đạc Điền rồi vào Sài Gòn làm báo. Từ nằm 1936 ông bị bệnh
phong, từ đó ông sống trong trại phong Quy Hòa – Quy Nhơn.
Trong thời gian làm ở Sở Đạc Điền, Hàn Mặc Từ
yêu đơn phương Hoàng Cúc, con ông chủ Sở Đạc Điền, nhưng do hoàn cảnh hai gia
đình quá khác biệt nên Hàn Mặc Tử không dám thổ lộ, về sau Hoàng Cúc theo cha về
Huế sống ở Vĩ Dạ. Năm 1936, Hàn Mặc Tử về Quy Nhơn nhưng không gặp Hoàng Cúc nữa.
Từ năm 1937, ông vào trại phong. Khi Hoàng Cúc nghe tin ông mắc bệnh hiểm nghèo
đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu ảnh chụp cảnh sông nước bến thuyền kèm theo lời
hỏi thăm sức khỏe và lời trách: “Sao lâu nay không ra thăm Vĩ Dạ?”
Hàn Mặc Từ xúc động mạnh, năm 1937, ông viết bài thơ gửi Hoàng Cúc, bà đã giữ bài thơ cho đến lúc từ trần (1989).
Xuất xứ bài thơ đặc biệt như thế nhưng chúng ta không nên hiểu hạn hẹp đây là bài thơ tình dành riêng cho Hoàng Cúc. Thực ra bài thơ nói đến những vấn đề lớn trong cuộc đời Hàn Mặc Tử. Đó là cuộc đời người mắc bệnh vô phương cứu chữa, bị cách li, bị ghẻ lạnh, cuộc sống khép kín oan nghiệt khiến nhà thơ khao khát đắm đuối một cách vô vọng cuộc sống bên ngoài.
Nhân việc Hoàng Cúc gửi thư, thiếp thăm hỏi, Hàn Mặc Tử đã trải lòng mình, đã trút bầu tâm sự vào bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
Nhan đề bài thơ lấy thôn Vĩ Dạ làm không gian nghệ thuật, mọi chi tiết nghệ thuật đều triển khai từ không gian này và thuộc không gian này với đặc trưng phong cảnh nhà vườn soi bóng dòng Hương. Vào năm 1937 đối với Hàn Mặc Tử thì thôn Vĩ không thuần túy mang tính chất không gian địa lí mà là không gian tâm lý, có tính khái quát là cõi ngoài kia: Cõi đời thơm tho, tràn trề hạnh phúc non tơ quyến rũ (Trái ngược với cõi trong này: Là hồn, là máu, điên cuồng thét gào tuyệt vọng). Tâm sự này rất rõ ở nhiều bài khác:
Ngoài kia xuân đã thắm duyên chưa
Trời ở trong đây chẳng có mùa
Không niềm trăng và ý nhạc
(Nhớ thương)
Hàn Mặc Từ xúc động mạnh, năm 1937, ông viết bài thơ gửi Hoàng Cúc, bà đã giữ bài thơ cho đến lúc từ trần (1989).
Xuất xứ bài thơ đặc biệt như thế nhưng chúng ta không nên hiểu hạn hẹp đây là bài thơ tình dành riêng cho Hoàng Cúc. Thực ra bài thơ nói đến những vấn đề lớn trong cuộc đời Hàn Mặc Tử. Đó là cuộc đời người mắc bệnh vô phương cứu chữa, bị cách li, bị ghẻ lạnh, cuộc sống khép kín oan nghiệt khiến nhà thơ khao khát đắm đuối một cách vô vọng cuộc sống bên ngoài.
Nhân việc Hoàng Cúc gửi thư, thiếp thăm hỏi, Hàn Mặc Tử đã trải lòng mình, đã trút bầu tâm sự vào bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
Nhan đề bài thơ lấy thôn Vĩ Dạ làm không gian nghệ thuật, mọi chi tiết nghệ thuật đều triển khai từ không gian này và thuộc không gian này với đặc trưng phong cảnh nhà vườn soi bóng dòng Hương. Vào năm 1937 đối với Hàn Mặc Tử thì thôn Vĩ không thuần túy mang tính chất không gian địa lí mà là không gian tâm lý, có tính khái quát là cõi ngoài kia: Cõi đời thơm tho, tràn trề hạnh phúc non tơ quyến rũ (Trái ngược với cõi trong này: Là hồn, là máu, điên cuồng thét gào tuyệt vọng). Tâm sự này rất rõ ở nhiều bài khác:
Ngoài kia xuân đã thắm duyên chưa
Trời ở trong đây chẳng có mùa
Không niềm trăng và ý nhạc
(Nhớ thương)
Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
(Lưu Luyến)
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
(Lưu Luyến)
Câu thơ đầu tiên có lẽ xuất phát từ ý lời nhắn
gửi của Hoàng Cúc, với sáu thanh bằng nhè nhẹ như tiếng thở dài, bỗng vút lên một
thanh trắc và dấu hỏi cuối câu làm cho âm điệu bài thơ có phần da diết, nức nở
như đọng đầy nước mắt: Làm sao còn có thể trở về cuộc sống bình thường nữa!
Năm dòng thơ tiếp theo miêu tả cảnh thôn Vĩ đẹp tươi đầy sức sống, trong trẻo, long lanh và ấm áp với những nắng mới, hàng cau, vườn mướt, xanh như ngọc, lá trúc, gió, mây, dòng nước…Câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” nằm trong đoạn này. Sở dĩ tôi cho rằng nên hiểu đây là câu thơ tả cảnh thôn Vĩ còn vì: Năm 1996 tôi cùng đoàn cán bộ quản lý của Yên Bái đi thực tế trong Huế, tôi có tới Vĩ Dạ (Tất nhiên bây giờ đã khác nhiều) và qua gặp gỡ một số đồng nghiệp, nhân nói đến câu thơ này mọi người cho biết Vĩ Dạ thời đó là một thôn với những nhà vườn xinh xắn thơ mộng bên dòng Hương, nơi này chủ yếu các quan triều đình về già được vua ban đất và nhà để nghỉ ngơi. Ở Vĩ Dạ lúc đó trồng nhiều trúc bên lối đi, cổng nhà trường có tấm “Chấn Phong” để chắn gió, trên đó thường đắp nổi hoặc viết một chữ điền (bằng chữ Hán) vừa cho đẹp vừa hàm ơn là đất vua ban khi tuổi già xế bóng. Gặp một vài người già ở Huế hỏi điều này, họ xác nhận như vậy nhưng quan trọng nhất là đặt trong mạch thơ đầy lưu luyến hồi tưởng về thôn Vĩ, về cuộc sống bên ngoài, tôi thấy hợp lý.
Bài thơ chủ yếu nói đến nỗi nhớ, nỗi băn khoăn của một tâm hồn khao khát níu giữ cái đẹp trong tâm khảm nên tác giả chú trọng diễn tả tâm hồn người chứ không chú trọng tả mặt người. Có một số dòng thơ nhắc đến người đều dùng đại từ phiếm chỉ: Vườn ai, thuyền ai, ai biết, tình ai… và càng về sau càng “mờ nhân ảnh” trong nhạt nhòa, bất định.
Năm dòng thơ tiếp theo miêu tả cảnh thôn Vĩ đẹp tươi đầy sức sống, trong trẻo, long lanh và ấm áp với những nắng mới, hàng cau, vườn mướt, xanh như ngọc, lá trúc, gió, mây, dòng nước…Câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” nằm trong đoạn này. Sở dĩ tôi cho rằng nên hiểu đây là câu thơ tả cảnh thôn Vĩ còn vì: Năm 1996 tôi cùng đoàn cán bộ quản lý của Yên Bái đi thực tế trong Huế, tôi có tới Vĩ Dạ (Tất nhiên bây giờ đã khác nhiều) và qua gặp gỡ một số đồng nghiệp, nhân nói đến câu thơ này mọi người cho biết Vĩ Dạ thời đó là một thôn với những nhà vườn xinh xắn thơ mộng bên dòng Hương, nơi này chủ yếu các quan triều đình về già được vua ban đất và nhà để nghỉ ngơi. Ở Vĩ Dạ lúc đó trồng nhiều trúc bên lối đi, cổng nhà trường có tấm “Chấn Phong” để chắn gió, trên đó thường đắp nổi hoặc viết một chữ điền (bằng chữ Hán) vừa cho đẹp vừa hàm ơn là đất vua ban khi tuổi già xế bóng. Gặp một vài người già ở Huế hỏi điều này, họ xác nhận như vậy nhưng quan trọng nhất là đặt trong mạch thơ đầy lưu luyến hồi tưởng về thôn Vĩ, về cuộc sống bên ngoài, tôi thấy hợp lý.
Bài thơ chủ yếu nói đến nỗi nhớ, nỗi băn khoăn của một tâm hồn khao khát níu giữ cái đẹp trong tâm khảm nên tác giả chú trọng diễn tả tâm hồn người chứ không chú trọng tả mặt người. Có một số dòng thơ nhắc đến người đều dùng đại từ phiếm chỉ: Vườn ai, thuyền ai, ai biết, tình ai… và càng về sau càng “mờ nhân ảnh” trong nhạt nhòa, bất định.
Mọi người đều thống nhất rằng bài thơ rất giầu
chất hội họa bởi đó chính là bức tranh thôn Vĩ được tái hiện từ một tâm hồn cô
đơn đau đớn phấp phỏng lo âu trước số phận phũ phàng. “Lá trúc che ngang mặt chữ
điền” là một nét phác thảo đẹp trong bức tranh ấy, cái tĩnh của mặt chữ điền,
cái động của ngọn trúc nhẹ lay trước gió làm cho cảnh sắc thêm sống động biết
bao.
Nhân đọc những bài viết trao đổi của các thầy,
cô giáo và các em học sinh, tôi mạo muội nêu thêm cách hiểu trên để bạn đọc
cùng tham khảo và góp ý.
Dương Hiền Nga
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét