Thứ Sáu, 17 tháng 8, 2018

Dịu dàng trong trẻo như là… trời sinh

Dịu dàng trong trẻo như là… trời sinh
Ngay khi vừa mới xuất hiện trên thi đàn, Thu Nguyệt đã để lại ấn tượng đẹp trong lòng bạn đọc. Ấy là sự tự tin, mới mẻ của cô gái ngày nay so với cô Kiều của cụ Nguyễn Du:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
Câu thơ xưa bỗng bình thường
Khi hôm nay kẻ lên đường là em
Một nửa vầng trăng - tập Điều thật
Ấy là sự tinh tế và đằm thắm khi diễn tả cảnh chia ly độc đáo và đặc sắc:
Mặt trời nằm trong ngực
Mặt trời đừng bước ra
Để thời gian ở mức
Ngày mai em đi xa
Ngày mai em đi xa - tập Điều thật
Đến nay, Thu Nguyệt càng viết càng chắc tay, càng viết càng hay. Chị đã nhận giải thưởng của Văn học nghệ thuật Đồng Tháp, giải thưởng Văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh, giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam. Nhưng điều có ý nghĩa nhất là Thu Nguyệt đã trở thành một cây bút trong làng thơ nữ mang đậm bản sắc Đồng bằng sông Cửu Long và bản sắc riêng của mình: dịu dàng trong trẻo như là… trời sinh.
Một hồn thơ dịu dàng trong trẻo 
Nét nổi bật trong thơ Thu Nguyệt là sự dịu dàng, trong trẻo. Tuổi thơ trong trẻo; lớn lên làm thi sĩ, làm vợ, làm mẹ, vẫn sự trong trẻo đó: Ta trong trẻo đến khóc cười cũng trong (Tết xưa - tập Cõi lạ). Khóc trong trẻo mà cười càng trong trẻo. Vui trong trẻo mà buồn cũng trong trẻo. Vui thì: Nghêu ngao hát với ruộng đồng/ Không không, sắc sắc, không không…tằng tằng…! (Vòm tre - tập Ngộ). Hoặc buồn lẫn với vui thì: Núi ơi là núi xa rồi/ Cái ngày leo núi ta cười trong mưa (Với núi- tập Cõi lạ). Buồn thì cũng buồn trong trẻo, đến mức như là không có buồn:
Giọt buồn nhễu hạt tong tong
Vậy mà cứ tưởng là không…
Thiệt tình!
(Nhà mình - tập Cõi lạ)
Trong mấy câu thơ đề từ cho tập Cõi lạ có một câu quan trọng:
Chuông không ai gióng mà buồn cứ ngân
Người đọc không thể không nhớ đến câu thơ Hồ Xuân Hương cũng về quả chuông lòng: Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.  Tiếng buồn ngân và tiếng sầu om của quả chuông không gióng và chẳng đánh của hai nữ sĩ, hai thân phận ở hai thời khác nhau quả thật khác nhau. Xuân Hương nghiêng về đau, còn Thu Nguyệt thì  nghiêng về trong trẻo.
Tâm hồn dịu dàng, trong trẻo đó trăn trở về quê hương, về nỗi người, nỗi đời, nỗi mình một cách hồn nhiên, trầm tĩnh, nhẹ nhàng mà thấm thía.
Một tình quê chân chất dạt dào
Quê hương Đồng Tháp của Thu Nguyệt cũng giống như mọi miền quê, có vườn cây, có dòng mương, có cầu tre lắt lẻo, có dòng sông, có lục bình, bông điên điển… Điều khác chính là ở chỗ hình ảnh quê hương luôn xanh rười rượi trong thơ. Nó là nơi lưu giữ tuổi thơ, nơi tiễn người ra đi, nơi đón người trở lại. Đó là cội nguồn thẳm sâu và vững chắc của thơ; là sợi dây neo cho cánh diều thơ Thu Nguyệt lộng gió bốn  phương để bay cao. Chị luôn luôn trăn trở về quê:
Tôi trở về nhớ mãi nước mương vơi
 Những mắt cá lìm kìm đầy cơn khát
Vịt có chết chìm đâu? (Tôi buồn tôi hát)
Sao cá lìm kìm cắn mãi…
trái tim tôi
(Hát về con mương nhỏ - tập Điều thật)
Những hình ảnh quê hương thành kỉ niệm, thành tài sản, thành một nỗi niềm. Nhà thơ thấp thỏm với con nước vơi đầy, với con người chân đất tay chai, với người cha một năm  một lần duy nhất: Chiều tết ba mươi chải đầu mang guốc (Cội nguồn - tập Điều thật); với những đứa em vất vả sớm hôm bùn bết tóc,… ngủ giấc nhà nghèo/ Lẫn trong mơ tiếng nhái kêu nhọc nhằn (Quỳnh đêm - tập Ngộ); với những  đứa cháu … gầy bé lắm/ Lá me, trái sắn…tiệc nhà vua/ Cào cào dế nhủi đều đem nướng/ Bóng khách đằng xa đã chạy ùa (Nhớ nhà - tập Ngộ). Quê hương là vòm tre, là dòng sông bình lặng chảy, là ngôi nhà thân thương:
Mái cũ rêu dày xanh mướt
Sân buồn đàn kiến hồi hương
Nửa mảnh gáo dừa đọng nước
Soi gương chú nhện sau vườn
(Quê buồn - tập Ngộ)
Quê hương còn là kỷ niệm tuổi thơ đằm trong lời ru với nỗi ước mơ thiệt thà mà khi xa quê, về quê bất chợt tái tê:
“Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ”
Thiệt thà sao nỗi ước mơ
Chỉ là rau ốc bên bờ ruộng quê…
Trưa nay thành thị ta về
Nghe lời ru bỗng tái tê cả lòng!
(Lời ru - tập Cõi lạ)
Vì tình quê dạt dào như thế nên có khi chỉ bất ngờ một tiếng chim cũng nhói lòng, ứa lệ:
Bất ngờ tiếng chim rơi cuối phố
Điếng lòng trong trẻo tiếng quê xa
Thành thị ta ngồi nghe nước mắt
Tí tách rơi tuôn nỗi nhớ nhà…
(Nhớ nhà - tập Ngộ)
Và khi nhớ quê, nhớ  cồn cào nước kinh mương thì chỉ còn cách:
Buồn! Đem thau nước ra soi bóng mình
Nhưng  chỉ cảm thấy nỗi vô tình nhạt nhẽo:
Cũng bập bềnh, cũng lung linh
Nhạt nhèo một mảnh vô tình như không
(Nhớ nước- tập Cõi lạ)
Quê hương không chỉ là nỗi nhớ, niềm mong, sự băn khoăn, niềm tri ân. Quê hương còn hiện ra máu thịt trong những từ ngữ miệt vườn. Thu Nguyệt đã chọn lọc và đưa vào những phương ngữ Nam Bộ tạo thành một giọng điệu riêng, một chất quê riêng khó lẫn. Những thiệt là, thiệt tình, nhẹ hều, nhẹ bâng, nhẹ hững, rần rần, lương sương, lén khóc, mỏng xíu, mần sao… Những từ ngữ đã nghe quen, thấy quen trên sách vở mà vẫn thấy mới mẻ và sáng tạo trong câu thơ Thu Nguyệt:
Lá nè về ở với ta
Vui buồn lật lại lật qua mấy hồi
(Thương lá - tập Cõi lạ)
Chồng ơi vợ nói nghe nè
Đan tay nhau để cùng nghe khứ hồi
(Tay tình - tập Cõi lạ)
Những từ ngữ như: rong ranh, lủ khủ, thầm thầm làm cho thơ như có nhãn tự, cảnh cú, đọc thật thích thú: 
Gió lùa lá rụng rong ranh
Ta buồn chân giẫm loanh quanh dấu mình
(Thương lá - tập Cõi lạ)
Thiên hạ nôn nao đón chào mới cũ
Mình bộn bề lủ khủ những buồn vui
(Sẽ đến rồi qua - tập Cõi lạ)
Núi ngồi ngắm biển ngàn năm
Sóng ầm ầm sóng, núi thầm thầm xanh
Núi ở biển - tập Cõi lạ)
Một nỗi buồn mang mang cõi người
Dễ nhận ra thơ Thu Nguyệt có một giọng buồn. Nỗi buồn mang mang không giấu diếm. Không coi buồn là gia tài hay đặc sản, cứ tự nhiên mà buồn vậy thôi. Bởi vì cuộc đời quả thật cũng lắm nỗi buồn hơn là niềm vui. Điều đó lại càng đúng với một tâm hồn nhạy cảm và đa cảm. Cũng có lúc buồn không có nguyên cớ, chỉ là Lòng không sao cả hiu hiu khẽ buồn như Xuân Diệu thuở nào. Nhưng buồn trong thơ Thu Nguyệt phần nhiều là nỗi buồn cụ thể. Có thể buồn vì chợt  nhớ bóng cha già lẻ nguyên khi đón tết. Có thể buồn vì Nao lòng chợt nhớ cánh hoa xưa (Thời gian nơi xa - tập Điều thật). Có thể buồn vì ngày mồng tám tháng ba: Không anh em tự mua hoa tặng mình (Thơ ngày 8-3 - tập Điều thật). Có thể buồn vì Con sóng vô tình cay nghiệt/ Xô hoài nỗi nhớ trong nhau (Mình biết - tập Điều thật). Có thể buồn vì Điều bâng quơ cũng có khi đốt lòng ( Nghe hát lý qua cầu trên sông - tập Điều thật). Có thể buồn vì  bất chợt soi gương: Thời gian người tính tháng ngày/ Đời buồn vui tính trên vài nếp nhăn (Soi gương - tập Cõi lạ). Nỗi buồn ấy có khi vì những nguyên cớ rộng hơn, lớn hơn. Đó là buồn vì Kiếp phù du, giấc phù hoa ( Ru đá - tập Cõi lạ). Buồn vì Ngỡ ngàng như một giấc mơ/ Chút mong manh có bất ngờ thành không (Miền tình - tập Cõi lạ). Đó là nỗi buồn thế sự Nụ cười lạ hoắc bon chen đầy đường (Quen - tập Theo mùa).
Buồn phiền đấy, nhưng Thu Nguyệt đã ngộ được nhiều điều. Quy luật cuộc đời là vĩnh cửu, tất yếu:
Tháng ngày nhẹ hững đi qua/ Những điều gần đó rồi xa…thật thường (Sẽ đến rồi qua - tập Cõi lạ). Thời gian là một vòng luân hồi: Ngày tháng bây giờ, ngày tháng xa xưa/ Ngày tháng mai sau… luân hồi vậy vậy/ Mọi vật hồn nhiên mất rồi có đấy (Sinh nhật ta - tập Cõi lạ). Bên kia nỗi buồn là niềm vui, hay vui và buồn là một vòng nối tiếp, hết buồn thì sẽ là vui: Buồn vui như một cái vòng/ Điểm đầu tiên điểm cuối cùng gặp nhau (Hồn nhiên - tập Theo mùa). Có lẽ vì thế mà buồn trong thơ Thu Nguyệt là một nỗi buồn trong trẻo, nỗi buồn cần thiết để con người sống thánh thiện hơn.
Tự cười mình để làm vui
Điều độc đáo ở Thu Nguyệt chính là thơ chị có một nụ cười hài hước, trào lộng. Chính nụ cười này đã làm cho những nỗi buồn trở nên nhẹ nhàng, không quá nặng nề. Có thể gặp nụ cười ấy ở nhiều cung bậc khác nhau, nhiều tình huống khác nhau. Trước hết là cái cười tự trào hồn nhiên và hóm hỉnh:
Rằng nay có nhỏ Nguyệt khùng
Từ trong thành phố ra rừng ngồi chơi
Rất mộng mơ, bỗng hiên ngang
Mặt mày có nét đàng hoàng công dân
(Tấm ảnh - tập Cõi lạ)
Khi tự bạch về mình chị luôn nhấn mạnh gốc gác nhà quê, quê mùa tóc dính đầy rơm khô, mặt mũi lấm lem tóc cháy hoe vàng, cũng không quên kèm lời tự giễu:
Tôi là con bé nhà quê
Đôi khi nhấp chút bùa mê thị thành
Chút văn minh, chút lanh chanh
Chút trăn trở…
thế là thành nhà thơ
(Chọn lựa - tập Ngộ)
Trình bày lý do vì sao mình làm thơ, chị cho rằng vì ước mơ của thời thơ ấu, và cái chính là chẳng  thể làm nghề gì khác:
Lớn lên vào đời xuôi ngược loay hoay
Không thể làm thầy, không kham làm thợ
Vụng về làm mẹ, ngu ngơ làm vợ
(Tự bạch - tập Ngộ)
Chị tự giễu sự nhạy cảm và nỗi vui buồn mộng mơ của mình như là sự thừa thãi trong hành trang:
Khóc cười khẽ chạm là tuôn
Hành trang thừa thãi vui buồn mộng mơ
Ắp đầy lộn xộn vần thơ
(Lạy mình - tập Cõi lạ)
Phát hiện về sự độc đáo của bông So đũa, cũng là hoa nhưng chỉ để nấu ăn mà không để cắm bình, chị cũng tự giễu mình:
Hoa vô tư nở bên đời
Ta vô tình lại học đòi xót xa
(So đũa hoa - tập Cõi lạ)
Con người hay cười, dịu dàng, hiền lành ấy tự biếm hoạ mình:
Chơn tình lúc nhớ lúc quên
Biểu đồ bản tính lúc hiền lúc hung
Thân - sơ… đảo lộn lung tung
Nụ cười tiếp thị đi cùng khắp nơi
(Đi cùng đồ giả - tập Theo mùa)
Nhiều bài thơ khác cũng vẫn là cái giọng tự trào khơi khơi, nhẹ nhàng như Phù phiếm, Cỏ dại ( tập Ngộ); Sóng rơi, Nhân chi sơ, Soi gương, Lá khô, Sự mình… (tập Cõi lạ) Cạn, Con kiến lơ ngơ, Ta nghe nhọc lòng, Phận ta, Thiền giả ( tập Theo mùa)…
Tự cười mình, dám đem mình ra để cười diễu là một biểu hiện của sự tự tin. Nhưng hơn thế, là biểu hiện của người hóm hỉnh, hài hước, sống vui. Có lẽ  không phải là quá đáng hay bốc đồng khi cho rằng Thu Nguyệt là trường hợp nhà thơ nữ tự cười mình, tự giễu mình nhiều nhất trong lịch sử thơ ca dân tộc.
Thu Nguyệt đã in năm tập thơ. Chị có cả một địa chỉ trên mạng về tác phẩm của mình. Những điều viết trên đây chỉ là những điều cơ bản cảm nhận được từ một gia tài thơ giàu có của tác giả.  Có thể coi  bài viết là một kỉ niệm với Thu Nguyệt tôi biết từ ngày chị đi học trường viết văn Nguyễn Du: Một chút tình pha lê/ Như giọt sương bên ánh mặt trời rực rỡ (Bước nhỏ - tập Cõi lạ).
Hà Nội, 26/8/2008
 Vũ Nho
Theo http://thunguyetvn.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị Đèo Prenn ngun ngút sắc trời// Hờ hững ngang chiều dải lụa nàng tiên rơi mùa hội trẩy/ Lả lướt theo ...