Thời của thánh thần 2
Chương 8
Không toàn thây
Nghe theo lời khuyên của ông Nhiêu Biểu, ngay sau lễ tang cụ
bà Đồ Kha, ông bà Lý Phúc đã tìm thầy pháp cao tay sửa lễ tống trùng và cầu an
trong suốt bẩy ngày. Thật lạ, trước ngày sửa lễ, hằng đêm trên ngọn cây muỗm đầu
nhà thờ, có con chim lợn rất to về đậu, kêu tiếng rờn rợn thê lương. Rồi khoảng
canh hai, từng đoàn âm binh kéo về chật sân nhà thờ, tiếng bước chân rầm rập,
chen tiếng vũ khí va đập rợn gáy. Cúng lễ xong thì con chim lợn và đoàn âm binh
biến mất. Chỉ còn duy nhất một bóng áo trắng, lúc như người thật, lúc to bằng cả
đống rơm cứ lặng lẽ ẩn hiện ở bờ ao trước cửa Nguyễn Kỳ Viên. Ông Nhiêu Biểu
bảo rằng đó là oan hồn chưa siêu thoát. Nó còn chờ cơ hội quả báo.
Quả nhiên, tai hoạ tiếp tục ập xuống. Cuộc cải cách ruộng đất
như cơn bão đen, phá tan tành Nguyễn Kỳ Viên.
Cái chết không toàn thây của ông Lý Phúc tưởng đã là đỉnh điểm
của trận bão. Nhưng dường như, đó mới chỉ là sự bắt đầu.
Cái gì đã đưa đẩy, dồn nén dẫn đến cái chết khủng khiếp của
ông Lý Phúc? Việc đi Nam của Nguyễn Kỳ Vọng? Sự ly khai dòng họ của Nguyễn Kỳ
Khôi? Cái chết của cụ Đồ Kha?
Tất cả những sự kiện ấy là khởi thuỷ, như những đợt trầm
tích, chúng cứ tích tụ, bồi lấp dần, khiến con người vốn u trầm, cả nghĩ của
ông Lý Phúc ngày càng chìm lắng trong một khối u uẩn nặng nề. Cho tới khi nhận
được lá thư của Cam thì ông hoang mang, như người đang lạc trong lưng chiều bỗng
bị đẩy và một hẻm đá lạnh.
Kính gửi bác Nguyễn Kỳ Phúc.
Lẽ ra đích thân em phải về gặp bác để có điều kiên trình bày
thấu đáo mọi điều. Nhưng em đang có công việc, ở rất xa, không thể về làng
Động được. Vì sao em có mối cảm tình đặc biệt với gia đình ta, và cần phải
viết gửi bác những dòng này, mong rằng bác sẽ hiểu.
Bác ạ. Sắp tới là một thời kỳ hết sức khó khăn với bác và các
bạn của bác, đặc biệt là bác Hội Thiện. Những người trực tiếp
làm việc với các bác mấy năm qua đều đã hi sinh hoặc đã đi xa cả rồi… bóng đen
rất khó phân giải… Linh tính báo cho em biết rằng sắp tới bác và các
bạn của bác rất có thể là mục tiêu và đối tượng của bần cố nông dân…
Xin bác hãy bảo trong. Và nếu có thể, bác khuyên bác Hội Thiện
và các bác Đồ Sắc, Lang Kiêu, Chánh Hạp… hãy tạm lánh đi một
nơi nào…
Giấy ngắn tình dài. Kính mong bác và toàn gia khang kiên.
Đào Thị Cam.
Ngay sau khi nhận được thư Cam, ông Lý Phúc đã lên Nghi Sơn gặp
ông Chánh tổng Thiện. Ông Thiện cười và bảo rằng:
- Cô Cam quá lo cho anh em mình. Chúng mình đều là con nhà
nông, lại được cha mẹ cho ăn học chút chữ thánh hiền. Quốc gia hưng vong, thất
phu hữu trách. Bác có nhớ câu của Mạnh Tử: "Cùng tắc độc thiện
kỳ tân. Đạt tắc kiêm thiện thiên hạ" (Khi nghèo tự làm việc tốt
cho mình. Khi giàu làm việc tốt cho cả thiên hạ). Mình làm được chút việc lợi
cho dân cũng chính là cho bản thân mình. Dân đánh giá thế nào thì mình được thế
đó. Giai đoạn này quả là khó khăn đấy, nhưng anh em mình phải thật sự tin tưởng
ông Cụ bác ạ. Cụ Hồ Chí Minh là bậc Thánh nhân sáng suốt. Gái có công thì chồng
chẳng phụ…
Ông Hội Thiện, học quá nhiều sách của thánh hiền, trung tín
và trung quân quá. Ông chờ đón cuộc cải cách ruộng đất như chờ đón định mệnh của
mình.
Chỉ sau mấy tuần đầu tiên của cuộc cách mạng nông dân long trời
lở đất nổ ra, vụ xử Chánh tổng Thiện cùng Nghị Điểu người nhiều ruộng nhất huyện
Phương Đình, đã trở thành vụ đấu tố thí điểm của tỉnh Sơn Minh.
Phiên đấu tố Chánh tổng Thiện và Nghị Điểu diễn ra tại cánh đồng
thôn Nghi Sơn, bên bờ đê sông Điền. Đây là vụ xử thí điểm nên thành phần tham dự
có nhiều quan chức Liên Đoàn uỷ, Đoàn uỷ cải cách ruộng đất và các chuỗi rễ, những
cố nông được đôn lên thành cán bộ khắp toàn huyện và một vài huyện bạn. Đặc biệt
có hai người cao to, đeo kính đen cùng với một cô phiên dịch tiếng Hoa đã đến
Nghi Sơn từ mấy hôm trước Đó là hai chuyên gia nước bạn, từng giúp Ban chỉ đạo
Cải cách ruộng đất Trung ương xử thí điểm vụ địa chủ Nguyễn Thị Năm ở Thái
Nguyên.
Từ bốn giờ sáng, dân khắp ba mươi xã và một thị trấn của huyện
Phương Đình đã từ các ngả, mang theo cờ, trống, thanh la, não bạt, băng rôn, biểu
ngữ bằng giấy, bằng cót, bằng mẹt đủ loại, lũ lượt kéo nhau về nơi xử án. "Đả
đảo Nghị Điểu, đại địa chủ cường hào đại gian đại ác", "Đả đảo Chánh
tổng Thiện, cường hào Quốc dân đảng, Việt gian phản động, tay sai phong kiến đế
quốc", "Nhiệt liệt chào đón cuộc cải cách ruộng đất đem quyền lợi về
cho dân nghèo". Có những tốp đi theo gia đình, hoặc chòm xóm, người
già, trẻ con bồng bế nhau như ngày trước đi tản cư, mang theo cả khoai, sắn luộc,
cơm nắm trộn ngô, khoai khô hay rau khúc. Có nhóm đi theo đoàn thể, nhi đồng,
thanh niên, phụ nữ hay dân quân du kích. Tiết mục văn nghệ đặc sắc nhất là những
câu hò tự phóng tác: "Nông dân đói khổ bao đời… Ai đi hò lờ… Phóng tay cải
cách chuyển dời núi sông… Hò lơ hò lơ lắng tai nghe tiếng ai hò
là…"
Hôm ấy là một ngày hanh heo. Cánh đồng sau vụ gặt dạc vàng gốc
rạ. Chưa tan sương, người từ các ngả đã ùn ùn kéo đến. Đến khi mặt trời hoe
vàng, khắp cánh đồng rộng hàng trăm mẫu đã đen kịt những người. Khối người kết
thành đám, thành tảng, khiến hơi nóng toả ra, bốc ngùn ngụt, xua tan sương
trong chốc lát. Những gương mặt đây hưng phấn và căng thẳng nhưng hốc hác nhăn
nheo, không che giấu nổi sự thiếu ăn, sự thất học. Trong giá rét, những đứa trẻ
da tím tái, quần áo rách rưới, phong phanh, những dân quân du kích già trước tuổi
mặt vêu vao, xanh lét, lúc nào cũng nghiêm trang, mắt căng ra như chực lên đồng.
Khối quần chúng còn lại, một màu đất sét, hoặc nâu xỉn, da người lẫn màu quần
áo, rất nhiều những tấm áo đụp, vá chằng vá chịt, hở vai hở sườn, vạt, gấu tua
tớp. Họ hô khẩu hiệu một cách a dua chứ chẳng biết căm thù ai, hoan hô ai, ý thức
giai cấp thế nào. Phần đông theo đi là do háo hức, hiếu kỳ. Đông nhất là trẻ
con, bởi ngày hôm đó các trường trong huyện đều nghỉ học để thầy trò đi tham
gia đấu tố, hun đúc ý chí căm thù địa chủ cường hào.
Có hai loại thành phần bắt buộc phải có mặt tại đấu trường
này: Một là các ông bà bần cố nông cốt cán của các thôn các xã, những rễ chuỗi
tin cậy, những thẩm phán và hội thẩm, quan toà trong các cuộc đấu tố sắp tới.
Hai là các đối tượng trực tiếp của cuộc cải cách, những phú nông và địa chủ, Việt
gian Quốc dân đảng dự kiến của từng thôn xã theo chỉ tiêu đã được cấp trên duyệt.
Ông Lý Phúc và các ông Đồ Sắc, Lang Kiêu, Chánh Hạp bạn ông, nằm trong đối tượng
thứ hai này.
Hội Thiện và Nghị Điểu được hai tốp dân quân dẫn giải ra từ sớm.
Nghị Điểu đi không nổi. Chân tay rúm ró như con chó sắp bị cắt tiết. Từ đũng quần
trở xuống bê bết cứt và nước đái. Hai anh dân quân tay bịt mũi, tay xốc nách
Nghị Điểu lôi xềnh xệch. Hội Thiện thường ngày cao to, nặng tới bẩy mươi cân,
vai u, mặt phương phi chữ điền, chỉ mấy tuần bị đấu tố, tra tấn, đã tọp đi đến
vài chục cân, còn như một cây sậy. Riêng bộ mặt thì phù ra, to bạnh và tím tái.
Hai mắt sưng húp. Chỗ răng cửa, chắc bị xơi gộc tre, trống hoác. Nhìn ông bạn kết
nghĩa của mình, bị trói hai tay giật cánh khuỷu, đứng mấy giờ liền trên đài xử
án, mặc cho các ông bà nông dân lên tố khổ và nhổ nước bọt đầy mặt, Lý Phúc mím
chặt răng, nuốt nước mắt vào trong.
- Thằng Chánh tổng Thiện, mày có biết ông là ai không? - Một
người thấp lùn, răng vẩu, mặt rỗ chằng chịt vừa nhảy lên đài đã thoi vào giữa mặt
Hội Thiện một quả đấm trời giáng - Ông là bố mày đây. Là thằng Đĩ Ngao con ông
Mõ Ngò làng Động chuyên môn giết gà đãi chúng mày đánh tổ tôm ở nhà Lý Phúc
đây! Ông đang thèm rỏ dãi ra vì nghĩ đến những bát cháo gà ông làm không công
cho chúng mày tọng đây. Chúng mày là một lũ ác bá cường hào bóc lột công sức của
bần cố chúng ông. Việt Minh việt méo gì? Hai mang hổ mang gì chúng mày? Mày là
trùm Quốc dân Đảng phản động, chui vào hàng ngũ Việt Minh để phá hoại từ bên
trong. Thì ra bây giờ chúng ông mới biết mày khoác áo Phó Bí thư huyện uỷ giả.
Ai kết nạp mày? Ai bầu mày vào cấp uỷ? Hồi đánh tổ tôm ở nhà Lý Phúc, ông đã
nghi ngờ mày là thằng mật thám, quả không sai. Mày cấu kết với thằng ác ôn đồn
trưởng Trương Phiên giết hại bao nhiêu du kích…
- Ới ông bà nông dân ơi, thằng Chánh tổng Thiện này phải xử tội
voi dày - Một bà mặc váy thâm, áo nâu non, cao to, vú lúc lắc sau lần áo, tốc
váy xông lên đài - Thằng Thiện, mày nhìn bà đã rõ chưa? Mày có nhớ chục năm trước
khi bà còn hơ hớ, da trắng nõn như ngó cần không? Khi ấy bà chưa mãn tang chồng.
Bà đang sầu não héo mòn thì mày đến tán tỉnh bà. Mày đứng gần bà mà cái của nợ
của mày cứ như cái gậy chọc vào mắt bà, khiến bà không chịu nổi. Mày dụ bà rằng
sẽ cưới bà làm vợ bé, rồi cưỡng hiếp bà hàng mấy trăm lần. Có ngày tới cả chục
lần. Có lần bà đang kỳ thấy tháng mày cũng không buông tha, khiến máu chảy hàng
tuần lễ. Lúc ấy bà sướng, bà kêu, thì mày bịt mồm bà đến gần tắc thở. Nhưng rồi
đến khi bà có chửa thì mày bỏ rơi bà, mày gán bà cho lão phó cối…
Cuộc đấu tố đầy chất bi, hài, vừa sặc mùi thế tục, vừa đầy ắp
chất hài hước và cảm hứng sáng tạo dân gian, tưởng không có điểm dừng.
Ông Lý Phúc bỗng nhớ lá thư Cam gần mấy tháng trước. Thì ra
Cam đã tiên đoán trước mọi điều. Một thời buổi không nhân nghĩa, trắng đen lẫn
lộn. Lý Thông cướp công Thạch Sanh. Bọn Khuyển Ưng, Bạc Bà, Bạc Hạnh nhao nhao
phun máu hại người. Rồi ngay cả những công thần Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Đán,
Lê Ngân, Lê Sát cũng sẽ bị hại… Biết trước mà cũng đành bất lực, không có cách
nào minh oan và giải cứu cho Hội Thiện được. Giá như Hội Thiện nghe Cam, nghe
ông mà trốn đi, có phải sẽ thoát khỏi cảnh ngộ bi thương này?
Giờ tuyên án Hội Thiện mà Lý Phúc tưởng như tuyên án chính
mình. Cả mấy nghìn con người đều im phắc hướng về phía kỳ đài làm trên bãi đất
cao, bao quanh bằng cót, trên đó là các cố vấn và hội đồng xử án. Với tội danh
đại địa chủ cường hào ác bá kiêm Quốc dân đảng phản động tay sai phong kiến đế
quốc, cả Chánh tổng Thiện và Nghị Điểu đều lãnh án tử hình, ruộng đất tài sản bị
tịch thu toàn bộ đem chia cho ông bà nông dân. Bản án được thực thi ngay tức thời,
tại địa điểm xử án.
Trong nhạt nhoà nước mắt, Lý Phúc thấy hình ảnh bạn mình bỗng
hiên ngang, vòi vọi. Trong khi Nghị Điểu rúm ró, không thể đi được, sợ hãi đến
phun cứt ra đầy quần, thì Chánh tổng Thiện cố lê bước chân đau, nhếch miệng cười,
nhìn khắp lượt như chào.
Cả chục nghìn người cùng đổ dồn mắt vào Hội Thiện, khi ông
khước từ bịt mắt, nhìn thẳng vào các họng súng và cất tiếng hô dõng dạc:
- Nước Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ tịch vạn tuế!
Năm loạt đạn đều bắn lạc lên trời. Phải đến viên đạn thứ sáu
do đích thân đội trưởng thi hành án bóp cò, Hội Thiện mới ngã gục.
Vì sao Hội Thiện, người được Việt Minh gài vào hàng ngũ địch
để phục vụ kháng chiến, một đảng viên cộng sản, phó Bí thư huyện uỷ, lại trở
thành kẻ thù của cách mạng? Vì sao Việt Minh nỡ thay lòng đổi dạ, rũ bỏ công
lao những người thành phần lớp trên nhưng đã từ bỏ địa vị giai cấp, một lòng
yêu nước đi theo kháng chiến?
Những câu hỏi ấy xoáy vào đầu Lý Phúc làm ông tưởng như ngất
xỉu trên đường lê bước về nhà. Như có một sự sụp đổ, vữa nát, lộn tùng phèo ở
đâu đó, trong óc, trong tim gan hay mật, phổi, lá lách, dạ dày… Nhắm mắt lại,
không muốn nghĩ đến, nhưng trước mắt ông vẫn hiển hiện hình ảnh người bạn tri
âm tri kỷ đổ gục như cây chuối bị đẵn ngang gốc. Ngay sau đó, người ta vùi Hội
Thiện xuống hố đất đào vội, chỉ một mảnh chiếu bọc thân thay cho quan tài.
Ba ngày liền Lý Phúc không thiết ăn uống. Ba đêm liền ông
không hề chợp mắt. Hình ảnh của Hội Thiện trần trụi trong đất làm cho ông lúc
nào cũng lạnh toát sống lưng. Ông bảo vợ: "Tôi sẽ không sống được nếu cứ để
bác Hội nằm như thế". Rồi ông lấy ván sàn từ gác kho lúa, bí mật mời ông
phó mộc làng Nguyễn cùng hai bố con ông phụ giúp, trong hai ngày đóng xong một
cỗ quan tài. Gần nửa đêm hôm sau, đợi lúc trăng lên, ông bảo Cục mang chiếc xe
kéo trong nhà kho ra, chất chiếc quan tài lên, rồi hai bố con lặng lẽ kẻ đẩy,
người kéo, đi dọc đê sông Điền, lên làng Nghi Sơn.
Đi suốt ba giờ đồng hồ, đến gà gáy canh ba thì đến chỗ vùi
thây ông Hội Thiện. Đã thấy lố nhố dưới chân đê hai bà vợ và ba đứa con Hội Thiện,
đã được mật báo trước, cầm sẵn cuốc xẻng, và các đồ an táng đứng đợi. Không dám
khóc, không dám nói to, càng không dám thắp hương, nhóm lửa. Nhờ ánh trăng
suông, mọi người ai nấy vào việc. Chiếc thây bị hành quyết sau một tuần, đã
trương nứt, thối rữa, bốc mùi nồng nặc. Súc miệng đến nửa cút rượu, xoa gần hết
lọ dầu con hổ mà mấy lần Lý Phúc vẫn chực nôn oẹ. Ông cố nuốt nước bọt, cố vận
hết lý trí để thay cho Hội Thiện bộ quần áo mới. Nhưng rồi tới lúc lau mặt cho
Hội Thiện, cả người ông bỗng co rúm lại khi bàn tay ông chạm vào đôi mắt bạn.
Nước mắt, hay dịch nhờn bị phân huỷ, như một chất nhầy thối khắm bò ra hai tay
ông, xộc lên mũi ông. Và kìa, cùng với chất nhầy thối khắm là cảm giác buồn buồn
đang bò lan lên hai cánh tay.
Trời ơi! Dòi. Dòi từ hai hốc mắt Hội Thiện đang lúc nhúc bò
ra, trắng nhờ nhờ dưới ánh trăng suông, theo bàn tay trườn lên người Lý Phúc.
Lý Phúc rùng mình, lạnh buốt từ sống lưng lên đỉnh đầu. Ông ngất xỉu bên xác bạn.
Đám người nháo nhác hoảng loạn. Đến lúc này mới thấy Cục là một người đầy bản
lĩnh. Mới được làm bố trẻ con có khác. Lấy vợ chưa đầy năm, mười bẩy tuổi, Cục
đã có con trai đầu lòng. Cục chững chạc, người lớn như một người đàn ông thực
thụ. Anh ôm chầm lấy bố, vừa lay gọi, vừa làm các động tác thể dục hồi sức, vừa
lấy dầu con hổ xoa khắp người Lý Phúc.
May mà cơn nguy kịch cũng qua.
Vừa tỉnh lại, Lý Phúc lại giục mọi người vào việc. Phải vất vả
lắm xác Hội Thiện mới đặt được vào quan tài.
Tới lúc trời tảng thì nấm mồ Hội Thiện cũng được chôn lại
xong. Lý Phúc lấy từ trong người ra một vuông khăn trắng, chít ngang đầu, lại lấy
ra một cút rượu và một bó hương. Phải vất vả lắm, những nén hương mới chịu bén
trong gió rét thổi ràn rạt trên đồng trống. Hai bà vợ, ba đứa con Hội Thiện và
Cục cùng xếp hàng quì phục sau Lý Phúc. Những tiếng khóc nghẹn lại. Lý Phúc cắm
hương, tưới rượu lên mộ rồi chắp hai tay ngang trán, giọng nghẹn ngào:
- Anh ơi, anh sống khôn chết thiêng, hãy nhận cho em ba lạy
này. Hãy về chứng giám hai chị và ba con của anh đang có mặt ở đây để tưởng nhớ
anh với tất cả tấm lòng yêu thương, kính trọng: Nỗi oan này có trời xanh chứng
giám, có thổ thần soi xét. Nhất định rồi anh sẽ được rửa oan. Chỉ cầu mong anh
nằm yên nghỉ nơi chín suối…
Từ ngày kết nghĩa anh em, cả Hội Thiện và Lý Phúc ai cũng tự
coi mình là em, tôn người kia là anh. Cho đến lúc này thì Lý Phúc càng thấy bạn
mình xứng đáng là người anh cao cả với đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Một đấng
nam nhi cương cường, nghĩa hiệp, tiết tháo, luôn luôn biết hy sinh vì nghĩa lớn,
luôn sống vị tha, nhân ái, bao dung.
Không giữ được cảm xúc đang ứa nghẹn, giọng Lý Phúc bỗng hộc
lên. Tiếng ông khóc ồ ồ như thú bị chọc tiết. Hai bà vợ và ba đứa con Hội Thiện
cùng oà khóc theo.
Bỗng có tiếng súng nổ từ trong làng. Rồi tiếng hô hoán, tiếng
chửi bới cùng ánh đuốc chập chờn mỗi lúc một tiến lại gần. Chỉ trong chốc lát,
tốp người đào trộm mộ đã bị bao vây bởi những họng súng trường, những mã tấu,
đòn càn và những gương mặt sát khí đằng đằng của các ông bà dân quân du kích, dẫn
đầu là Tựu, Đội trưởng Đội cải cách thí điểm:
- Trói tất cả nại giải về đình - Tựu ra lệnh bằng
cái giọng mũi khe khé và tật nói ngọng cố hữu lẫn lộn giữa en-nờ và e-lờ, rồi hất
hàm ra hiệu cho mấy dân quân đang vớ lấy cuốc xẻng.
Mắt Lý Phúc bỗng long lên, ông nhảy hai bước đứng chắn trước
mộ, hai tay dang ra ở thế vừa xuống tấn, vừa ngăn cản.
- Không được đụng đến mộ. Không được làm việc thất đức. Các
ông có thể bắt chúng tôi nhưng xin không được phá mộ. Người đang nằm dưới này
có quyền được mồ yên mả đẹp.
- Thằng lày nà thằng lào? - Tựu vừa hỏi vừa
khoát tay gạt hai người vợ và những đứa con Hội Thiện đang quì xin dưới chân
mình.
Không ai biết Lý Phúc.
- Thằng lày không phải người Nghi Sơn - Tựu khẳng định
- Việt gian phản động muốn phá hoại cuộc cải cách ruộng đất của ông bà lông dân
phỏng? Các đồng chí. Trói cổ thằng lày.
Hai người đàn bà lê lết trên đất, tế ông Đội Tựu như tế sao:
- Chúng con cắn răng cắn cổ lạy ông Đội, tha cho bác ấy. Bác ấy
là Cử Phúc người làng Động, bạn của ông Thiện nhà con…
Đội Tựu cười gằn:
- Ái chà chà, người nàng Động gan tày trời. Lý Phúc tổ tôm
thì cả huyện còn nạ gì? Cũng cùng một giuộc Việt gian phản động với Hội
Thiện. Dám đi gần chục cây số để đào trộm mả. Ha ha… Anh bạn vĩ đại và cảm động
quá nhỉ? Yêng hùng hảo hớn quá nhỉ? Các đồng chí, hãy thực hiện nhiệm vụ chuyên
chính vô sản.
Lý Phúc bị trói đau đến co rúm cả người. Ông muốn cắn lưỡi.
Nhưng Đội Tựu đã đoán biết. Tựu bóp mạnh vào hàm, rồi vớ nắm giẻ tọng kín đầy mồm
Lý Phúc.
Việc Lý Phúc dám cải táng mộ cho Hội Thiện, khiến ông bị giam
ở điếm canh làng Nghi Sơn hai ngày, bị ghi vào sổ đen là phần tử Quốc dân đảng
đặc biệt nguy hiểm, bị đưa vào danh sách đấu tố đợt đầu ở làng Động.
Như một sắp đặt của định mệnh, Đội Tựu lại được điều về làng
Động làm Đội trưởng đội cải cách. Người đàn ông ba mươi tuổi, phát âm giọng kim
và có tật nói ngọng cố hữu này có một tên họ rất lạ: Phèng Cửu Tựu. Chính anh
cũng không biết quê quán mình ở đâu, bố mẹ mình là ai? Cái họ Phèng có vẻ rất
Tàu, nhưng cũng có thể do đọc chệch từ họ Phùng, họ Phan, hay họ Phạm. Còn tật
nói ngọng lẫn lộn en-nờ và e-lờ thì đích thị là dân vùng chiêm trũng. Nghe nói
năm lên bốn tuổi Tựu được đưa từ vùng sông Diêm Điền lên bán cho một người Dao
hiếm con ở Võ Nhai. Mấy năm sau thì bố mẹ nuôi chết, Tựu đi lang thang kiếm sống.
Rồi một cơ may đến với Tựu: Cứu quốc quân thành lập. Tựu trở thành đội viên,
chính thức gia nhập đội quân cách mạng, tham gia đánh đồn Võ Nhai. Anh được học
chữ, học quân sự, học lý luận về đấu tranh giai cấp, rồi tham gia các chiến dịch
Biên giới, Thu Đông và Điện Biên Phủ.
Phẩm chất ưu việt ở Tựu là trung thành tuyệt đối. Đó cũng là
tiêu chuẩn đầu tiên khiến Tựu được cấp trên tin dùng và luôn chọn đặt ở những
điểm nóng. Làng Động, một làng tề, tập trung nhiều phần tử Quốc dân đảng phán động,
được chọn là điềm nóng và nhạy cảm của huyện Phương Đình.
Vừa đặt chân đến làng Động, Tựu đã tìm cách xâu rễ chuỗi ngay
với Cục. Cái buổi sáng bắt Lý Phúc cải táng mả Hội Thiện, nhác thấy Cục, Tựu đã
chú ý ngay. Lúc Cục lẻn trốn lên đê rồi tưởng không ai để ý, dông chiếc xe ba
gác chạy thẳng, Tựu biết cả, nhưng ra hiệu cho dân quân không cần đuổi bắt.
Chuyên chính trong tay, bắt lúc nào chẳng được. Hoá ra động
tác "thả hổ về rừng", lại là cái cớ để Tựu phân hoá Cục với Lý Phúc,
kéo Cục về phía ông bà nông dân bần cố nông.
- Tôi biết cậu nà con luôi Ný Phúc,
chứ không phải con đẻ - Tựu đã cho gọi Cục lên trụ sở Đội cải cách và mở đầu
câu chuyện như thế - Ngay cái tên Nguyễn Kỳ Quặc mà Ný Phúc đặt cho cậu
cũng đã thể hiện sự khinh bỉ và đểu giả. Cậu nà người bị vợ chồng Ný Phúc
bóc nột từ khi mới nọt nòng cất tiếng khóc oe oe chào đời.
Vì thế, Đội cải cách đã đưa cậu vào diện rễ chuỗi đặc biệt của nàng Động.
Con luôi, theo định nghĩa của cách mạng nà thành phần bị
bóc nột. Bời vì huyết thống, dòng máu nà khác giống, khác dòng.
Địa chủ cường hào càng thâm độc, tinh vi càng luôn nhiều con luôn. Bởi vì như
thế chúng càng bóc nột được nhiều, càng chóng nàm giàu Có
đúng như thế không?
- Ông nói sai rồi. Thầy u tôi không hề bóc lột…
- Đừng cãi. Cậu nàm sao hiểu lổi sự thâm
độc của giai cấp tư sản, địa chủ? Ló vừa tinh vi vừa xảo quyệt vô
cùng. Chuyến lày thì Ný Phúc toi rồi. Ló là tên
Việt gian Quốc dân đảng nguy hiểm không kém gì Hội Thiện. Việc thằng Vọng, con
trai ló đi Lam nà lằm trong âm mưu phản động rất
tinh vi.
Thấy Cục nghệt mặt ra, hoang mang, Tựu biết đã bắt đầu nắm được
rễ, liền tiếp tục tấn công:
- Cậu tưởng Ný Phúc cưới vợ cho cậu nà ló thương
cậu đấy phỏng. Nhầm to rồi. Ló thích gái trẻ. Ló bỏ tiền ra
cưới cho cậu để che mắt thiên hạ nhưng kỳ thực tối tối ló vẫn mò đến
ngủ với vợ cậu…
- Ông chỉ nói càn… - Mắt Cục vằn những tia máu.
- Chú em đừng có lổi lóng. Ta lói có
sách, mách có chứng. Vợ cậu đã khai báo với Đội hết cả rồi. Xem chừng ngay cả
thằng con trai mới bốn tháng tuổi cũng chưa chắc đã nà của cậu. Ný Phúc nà một
Quốc dân đảng cáo già, khét tiếng tổ tôm cờ bạc, đến như tên đồn trưởng ác ôn
Trương Phiên cũng phải chịu thua, thì cậu nàm sao chống đỡ lổi… Ấy nà ta
chưa lói đến cánh tay bị niệt của cậu. Ný Phúc nà một
thầy nang có tài. Một vết rắn cắn đối với ló, khó gì Thê mà ló cố
tình để cho cậu bị niệt. Chỉ đơn giản để cậu kém các con trai đẻ của ló. Để
mãi mãi cậu phải nàm lô nệ cho ló…
Còn hơn cả nọc rắn đã ngấm vào Cục mấy năm trước, những lời
ngọt nhạt của Đội trưởng Tựu đã ngấm vào Cục ngay sau buổi giác ngộ đầu tiên
đó. Hành động tức thời là ngay đêm ấy, Cục đã tẩn cho vợ một trận. Máu ghen làm
con người mất khôn. Mà Cục thì lại quá yêu vợ. Càng yêu càng ghen lồng ghen lộn.
Thú thực, cả làng Động đều khen Cục có con mắt tinh đời. Rõ
là mạ già ruộng ngấu, thài lài gặp cứt chó, lấy chồng mấy ngày, Bính cào cào đã
đẹp lên trông thấy. Mông cứ đẫy ra, cong tớn, vú không còn lép kẹp như cá rô đực,
mà mỗi ngày cứ như được bơm, mây mẩy, rồi căng tròn như hai trái bưởi.
Sau khi sinh thằng Cu, Bính bỗng đỏ da thắm thịt, đẹp ngời ngợi,
đến mức anh chàng Cục nhiều khi cứ ngẩn ra nhìn ngắm vợ, rồi lừa bằng được cô
nàng vào buồng, đè ngửa ra mà cấu cắn khắp nơi, rồi thả sức ôm ghì dúi hùng hục
như anh thợ cày khoán.
Cuộc tra khảo vợ của cục kết thúc bằng một cuộc tình tang lên
bờ xuống ruộng. Cục dúi cho cô nàng kêu toáng lên: "Ối thầy u ơi! Ôi anh Cục
ơi, cứ ấy nữa đi, cứ ấy mạnh vào!". Khi Cục nằm thở dốc, có vẻ nguôi
ngoai, Bính mới vuốt lưng chồng và bảo:
- Thầy mà biết anh nghi ngờ thầy với em thì thầy đuổi chúng
mình khỏi nhà.
Câu nói ỡm ở của Bính khiến Cục lại điên lên, đầu óc Cục càng
quay cuồng nỗi ghen tuông chết người.
- Đuổi à? Đề xem ai đuổi ai? Tôi hay ông ấy?
Thế là ngay hôm sau Cục đến gặp Đội Tựu, ký vào tờ khai, xung
phong là người đầu tiên đấu tố Lý Phúc.
- Lý Phúc, mày có biết ông là ai không? - Cục đã lặp lại hoàn
toàn từ lời nói đến điệu bộ cuộc đấu tố của Đĩ Ngao với Chánh tổng Thiện hôm
nào. Anh hùng hổ xông đến trước mặt Lý Phúc, chỉ thẳng vào mặt ông bố nuôi, giọng
run bắn và nhoè nhoẹt vì vừa tu một hơi hết chai ba rượu ngang để lấy dũng khí
- Ông là Nguyễn Kỳ Quặc hay Cục cứt chó mà mày đã bóc lột từ lúc mới đỏ hỏn nhặt
từ gò ông Đống về đây…
Nói đến đó thì Cục quên phắt những gì cần phải tiếp tục. Anh
ngớ người ra một lúc. Chợt nhìn thấy Tựu trên ghế chủ toạ đang mấp máy mồm như
người nhắc vở trong các chiếu chèo, Cục nhớ lại những điều Tựu đã nói, liền lặp
lại, nguyên cả những từ nói ngọng, như con vẹt thuộc tiếng người:
- Ngay cái tên Nguyễn Kỳ Quặc mà mày đặt cho ông cũng đã thể
hiện sự khinh bỉ và đểu giả. Ông bị vợ chồng mày bóc nột từ khi mới nọt
nòng cất tiếng khóc oe oe chào đời. Vì thế Đội cải cách đã đưa ông vào diện
rễ chuỗi đặc biệt của nàng Động. Con luôi, theo định nghĩa của cách mạng nà thành
phần bị bóc nột. Bởi vì huyết thống, dòng máu nà khác giống,
khác dòng. Địa chủ cường hào càng thâm độc, tinh vi càng luôn nhiều con luôn. Bởi
vì như thế chúng càng bóc nột được nhiều, càng chóng nàm giàu.
Có đúng như thế không? Bọn địa chủ chúng mày vừa tinh vi vừa xảo quyệt vô cùng.
Mày tưởng cưới vợ cho ông nà mày thương ông đấy phỏng? Nhầm to rồi.
Mày thích gái trẻ. Mày bỏ tiền ra cưới vợ cho ông để che mắt thiên hạ, nhưng kỳ
thực tối tối mày vẫn mò đến ngủ với vợ ông…
Càng nói, Cục càng như một con rối bị người khác giật dây. Cả
sân đình có lúc lặng đi vì sửng sốt, kinh ngạc, có lúc lại cười ồ lên vì quá
hài hước ngớ ngẩn.
Lý Phúc như người chết đứng. Điều ông chưa từng tưởng tượng
trong đời đang diễn ra. Tam cương ngũ thường đang lộn tùng phèo. Thằng Cục hiền
lành chịu thương chịu khó của ông đang trở thành ác quỉ. Miệng nó đang phun máu
tươi. Mỗi lời nói của nó như một mũi dùi nung đỏ. Trái tim ông như bị một bàn
tay bóp cho ngừng đập rồi lại nặn cho máu phọt trào lên não. Mặt ông đang tím
đen bỗng chuyển sang xanh lét. Ông đổ gục xuống nền sân đình, bất tỉnh.
Cái chết không toàn thây của Lý Phúc diễn ra ngay sau hôm Cục
đấu tố ông năm ngày. Do sức khoẻ bị suy sụp, cuộc đấu tố Lý Phúc được tạm hoãn.
Ông được Đội cho quản thúc tại nhà kết hợp để bà Lý Phúc phục thuốc cho chồng.
Nỗi đau đớn, mất mát, sự hổ thẹn, dằn vặt, uất ức… bị dồn nén
từ sau cuộc phát vãng của anh con thứ ba, cuộc từ họ của anh con trai cả, rồi đến
cái chết của mẹ ông, bạn ông… đã đẩy Lý Phúc gần đến tuyệt vọng. Cuộc đấu tố của
đứa con nuôi, một sự vô ơn cực độ, sự tráo trở vô luân chưa từng có, tiếp tục đẩy
ông đến đỉnh điểm tuyệt vọng. Người quân tử không chịu được nhục, không chịu được
sự xảo trá, tráo trở, càng không chịu được sự phản bội. Năm ngày liền ông chỉ uống
chút nước thuốc cầm hơi. Ông chán sống và thấy cuộc đời trống rỗng vô cùng. Đôi
lúc nhói lên tình thương quặn thắt với người vợ hiền và cô con gái út. Rất
thương yêu, nhưng ông chỉ lặng ngắm vợ và nhẹ nhàng xoa lên mái tóc bé Hậu mà
âm thầm ứa nước mắt chứ không hề nói một lời.
- Con Bính nó giận thằng Cục, bế thằng bé bỏ về bên ngoại rồi
thầy nó ạ - Bà Lý Phúc thỉnh thoảng lại hé một thông tin với chồng - Nó nhờ tôi
xin mình tha tội cho chồng nó. Chấp đứa ngớ ngẩn làm gì. Nó còn trẻ người non dạ.
Có khác gì trẻ con bị người lớn xui ăn cứt gà…
- Thằng Cục lên làng Nguyễn đón vợ con, bị vợ nó và cả nhà
ông Phó Bùng lót tay lá chuối đuổi về thầy nó ạ!
Hôm sau bà Lý Phúc lại hé lộ một thông tin mới:
- Nó vừa đến khóc mếu với tôi, xin mình tha. Nó biết dại rồi.
Chỉ vì nghe lời ông Đội Tựu xúi bẩy…
Ông Lý Phúc cầm tay vợ, nhìn vào mắt vợ rất lâu, rồi bảo:
- Mình lên ông Phó Bùng xin với ông bà nhạc cho con Bính bế
cháu về. Hổ dữ không ăn thịt con. Nói với vợ chồng nó rằng tôi tha thứ. Mẹ con
vợ chồng cố mà cưu mang nhau vượt qua cuộc đại hạn này…
Lời nhắn gửi với vợ, cũng là lời trăn trối cuối cùng của ông
Lý Phúc. Sau khi bà Lý vừa đi lên nhà ông bà thông gia, ông Lý Phúc liền gượng
dậy lau rửa người thật kỹ, tìm mặc bộ quần áo trắng mới tinh, đi lên nhà thờ thắp
khắp lượt các ban một tuần hương, khấn lạy các bậc thần phật, liệt tổ liệt tông
cùng cha mẹ, ông bà nội ngoại, đoạn ông lấy sợi dây thừng trâu đã cất sẵn, cột
chặt vào ngón chân cái rồi bắc thang leo lên chếnh nhà…
Người đầu tiên nhìn thấy ông Lý Phúc trồng cây chuối ngược
trước gian giữa nhà thờ chi họ Nguyễn Kỳ, không phải là Cục mà là bé Hậu. Cô bé
xinh đẹp như nữ tiên đồng đi chơi ô ăn quan hay thả đỉa ba ba ở đâu đó về. Dáng
chừng cô bé đói tìm mẹ xem có củ khoai, khúc sắn nào không. Không thấy bà Lý
Phúc, cũng không thấy ông Lý Phúc, nó gọi réo khắp nhà. Rồi nó lần lên nhà thờ,
hé mở cánh cửa gian bên. Trời ơi, ma! Bóng áo trắng trồng cây chuối ngược khiến
nó đứng sững.
Rồi nó định thần nhìn kỹ. Đến khi nhận ra thầy nó vỡ toác đầu,
óc phọt trắng xoá trong vũng máu lênh láng thì nó hét lên một tiếng kinh hoàng,
nằm bất tỉnh trước bậc cửa.
Thương thay đám tang ông Lý Phúc. Không kèn không trống, chỉ
một dúm người. Giá ông chết sớm một năm, vào sau khi bà cụ Đồ Kha mất, thì chí
ít đám tang ông cũng không kém mẹ, cũng đông hầu khắp cả làng, cũng kèn trống
rước sách linh đình, cũng làm ma từ ba đến bầy ngày. Nhưng số ông không chọn được
giờ chết. Cả làng đang đói lả. Cơm độn ngô khoai, rồi độn cám, độn rau muống,
rau khoai lang khô, độn củ chuối, rau má. Nhiều nhà rút bữa, hoặc một bữa cơm độn,
một bữa cháo. Các bụi chuối bị chặt sạch. Củ chuối cũng chẳng còn. Bọn trẻ con
đi bòn từng ngọn rau má, rau khúc ngoài bờ đồng. Các thùng vũng tát vét đến vài
ba lần, tôm cua ốc đều sạch bách. Từ mờ sáng đến chiều tối cả làng đổ ra đồng để
kiếm miếng ăn. Tối về lại họp hành đấu tố đến khuya. Nhưng cái chính là người
ta sợ liên luỵ đến phú nông, địa chủ. Cả họ Nguyễn làng Động, cả chi họ Nguyễn
Kỳ có máu mặt, chiếm hơn nửa làng, vênh vang, thế lực là vậy, mà bây giờ im như
thóc, ai cũng sợ Đội cải cách ghi sổ đen, sợ bị liên luỵ không dám đến thắp cho
Lý Phúc một nén hương, không dám hỏi han chia buồn lấy một tiếng.
- Tiên sư cái chi họ Nguyễn Kỳ. Bạc như vôi. Cả họ chết hết rồi
hay sao mà không thấy bóng một mống nào - Cụ Nhiêu Biểu là người làng duy nhất
đến thắp hương cho Lý Phúc.
Không chịu được, cụ vuốt chòm râu cước, buông tiếng chửi:
- Mà cái làng Động này cũng là cái làng hèn, làng đểu. Cả
làng nằm bẹp như gián, như rệp. Đội vừa quát đã sợ són đái, nằm im thin thít.
Đã hèn thì còn ham sống làm gì? Đâm đầu xuống chuôm xuống ao mà chết đi! Chết hết
đi! Phải học tấm gương Lý Phúc này. Biết chết, thế mới là người quân tử.
Cụ Nhiêu Biểu cầm cái quạt giấy phất nhựa sung vừa đi dọc
làng, vừa nói oang oang. Chỉ có cụ là bất chấp đội cải cách. Giỏi thì cứ bắt
giam cụ, đưa ra đấu tố đi. Ông cũng đang rất muốn chết đây.
Về nhà rồi, nghĩ cám cảnh cho ông Lý Phúc, cụ Nhiêu Biểu lại
đi lên Nguyễn Kỳ Viên. Hoá ra lời chửi đổng của cụ cũng có tác dụng. Có
thêm hai bà chị, một ông em chú, ba đứa cháu chi họ Nguyễn Kỳ Và mấy người bên
họ ngoại đến khâm liệm và đào huyệt. Số Lý Phúc sao mà khổ đến thế. Ba anh con
trai đẻ không anh nào về nhìn mặt bố lấy một lần. Được cô con gái út đẹp như nữ
tiên đồng, thì sau cú hoảng loạn vấp ngã khi nhìn thấy bố trồng cây chuối ngược,
đang nằm liệt trên giường kia. Có sống, chưa chắc đã thành nhân.
Người quán xuyến lo mọi việc cho đám tang ông Lý Phúc, lại là
Cục. Chiếc mũ nùn rơm và chiếc gậy chống duy nhất trong đám tang là của Cục.
Sau buổi đấu tố ông bố nuôi, sau vụ bế con kéo đi của vợ, Cục bắt đầu ân hận,
nhưng chính cái chết không toàn thây của Lý Phúc mới thức tinh lương tâm Cục
hoàn toàn. Cục hối hận như chính mình đã gây ra cái chết của người đã nuôi dưỡng
dạy dỗ mình. Cục thương bà Lý Phúc và cái Hậu vô cùng. Nhìn bà Lý Phúc lúc ôm
xác chồng, lúc ôm con gái, ngất lên ngất xuống mấy lần, Cục thấy lòng mình tan
nát. Bây giờ thì Cục không sợ Đội Tựu nữa. Cục sẽ nói cho toàn dân làng biết là
Đội Tựu đã dụ dỗ, ép buộc Cục phải đấu tố ông bố nuôi như thế nào?
Dấu hiệu phản thùng của Cục, không qua được mắt Tựu. Cố nông
kiêm thẩm phán nhân dân Đĩ Ngao hằng ngày đã kịp thời báo cáo cho Tựu mọi động
tĩnh bên nhà Lý Phúc, mọi diễn biến tư tưởng của Cục.
Cái chết bất thường của Lý Phúc được Tựu báo cáo gấp lên cấp
trên, và được Đoàn uỷ Đoàn cải cách nhận định đây là một cái chết mang màu sắc
chính trị: Lý Phúc đã chui vào hàng ngũ của ta, làm tới chức Bí thư Đảng uỷ, tức
là đã nắm được rất nhiều bí mật của cách mạng. Lý Phúc là bạn kết nghĩa của Hội
Thiện tức là cùng nằm trong một đường dây của bọn Việt quốc Việt cách gài lại.
Đặc biệt Lý Phúc có thằng con trai thứ ba theo địch di cư vào Nam, rất có thể
đã móc nối với điệp viên của bọn Ngô Đình Diệm từ miền Nam phái ra chống phá
cách mạng. Địch sợ Lý Phúc khai báo nên đã bức tử để bịt đầu mối. Chỉ thị tuyệt
mật nhận định như thế.
Ngay sau đám tang Lý Phúc, Tựu đã cho bắt tạm giam Cục để điều
tra. Không ai biết một thâm ý sâu xa của Tựu: Bắt Cục, ắt Bính phải đến kêu oan
cho chồng. Đây là kế rung cây doạ khỉ, Tựu học được từ ngày đi tham gia cải
cách.
Quả nhiên, ngay buổi chiều ấy, Bính đã tìm đến văn phòng Đội.
Dân gian nói cấm có sai: Gái một con trông mòn con mắt. Tựu nhìn Bính không những
mòn vẹt con mắt mà còn nuốt nước bọt ừng ực. Ở Bính, có một cái gì đó đối với Tựu
rất khó tả. Mắt Tựu bị hút bởi gương mặt rất đàn bà, đôi mắt lúc nào cũng ướt
rượt, đen nhức, đôi môi đầy nhục cảm, bộ ngực như mời gọi, như trêu chọc. Hình
như ở người Bính toát ra một mùi vị gì đó có tính chất kích hoạt tất cả các điểm
nhọn trong người Tựu, ví như mười đầu ngón chân, mười đầu ngón tay, ví như chóp
mũi. Và đặc biệt nhất là cái của nợ ấy. Cái máu đực trong người đàn ông xa vợ
lâu ngày hành hạ Tựu một phần, thì cái chất con cái của Bính khêu gợi, kích
thích Tựu đến chục lần. Ngồi đối diện với Bính qua chiếc bàn cao mà cái của nợ
cứ cứng ngắc, muốn chọc thủng quần, những ngón chân Tựu cứ ngọ nguạy, có lúc
như vô tình chòi sang, quờ quạng lên phía trên rồi dẫm lên bàn chân Bính. Tựu
khịt mũi liên tục, đưa bút cho Bính ký vào tờ giấy, rồi cố tình ngọ nguạy những
ngón tay dùi đục cầm bàn tay Bính.
- Tội anh Cục to nắm. Chúng tôi đã có bằng chứng anh Cục ép
ông Phúc tự tử - Tựu nhìn Bính như muốn ăn sống nuốt tươi đánh đòn cân não.
- Báo cáo Đội, oan cho nhà con lắm - Bính van vỉ - Nhà con
làm sao mà ép thầy con được. Suốt từ hôm trót đấu tố ông cụ, nhà con không dám
giáp mặt…
- Tôi đã lói rồi, nhưng cấp trên không tin. Chuyến lày nhẹ
nhất anh Cục cũng phải đi tù mười lăm.
- Con cắn rơm cắn cỏ lạy Đội. Đội thương chúng con, Đội cứu
giúp nhà con. Con con còn bé…
Tựu tiếp tục đẩy cho câu chuyện lên mức nghiêm trọng, tiếp tục
làm người đàn bà trẻ chịu khuất phục và cầu cạnh mình, rồi làm như vô tình, một
chân chòi sang, chạm lên đùi Bính, một tay ấp lên bàn tay Bính.
- Đừng xưng con… Thương em nắm. Tôi đang nghĩ cách cứu
chồng em. Nhưng em phải nghe tôi…
- Dạ, Đội bảo thế nào con cũng vâng - Bính mừng rỡ.
- Tươi tỉnh thế được rồi. Em cứ về đi. Tôi sẽ thảo cho em một ná đơn.
Em chỉ việc ký tên vào đó để gửi nên cấp trên xem xét. Ngay tối lay tôi
sẽ mang đến nhà. Khoảng chín giờ. Em nhớ vặn nhỏ ngọn đèn hạt đỗ và đợi cửa…
Suốt từ đấy người Tựu bừng bừng hưng phấn. Tựu mường tượng lại
những cuộc ân ái, những cuộc cưỡng đoạt đầy khoái lạc ở Ngho Sơn mấy tháng trước.
Ôi, những người đàn bà ở cái vùng đất Sơn Minh này cuốn hút Tựu còn hơn cả thuốc
phiện. Chỉ ba tháng ở Nghi Sơn, Tựu đã lập được một chiến công hiển hách: Ngủ với
bốn dân quân nữ, khi thì ở bãi ngô, lúc sau đống rơm hay ở trụ sở của Đội cải
cách. Cả bốn người, dù có trường hợp Tựu phải dùng uy quyền để cưỡng đoạt, đều
làm cho Tựu quay quắt vì lạc thú, đều kích thích Tựu ham muốn và liều lĩnh đến
cao độ. Và bây giờ, khi đã thâu tóm được dân chúng làng Động, một làng tập
trung đậm đặc các cô gái và những người đàn bà đẹp, khát vọng khám phá, chinh
phục của Tựu bỗng tăng lên gấp bội. Bính, người đàn bà đầy nhục dục này sẽ là
chiến công khởi đầu của Tựu chăng? Ha ha, cách mạng đang trao cho Tựu ngôi vua
không ngai. Chức Đội trưởng Đội cải cách khác nào ngôi vua không ngai. Sướng nhất
là vua không ngai Phèng Cửu Tựu đây. Chẳng cần trí tuệ, học vấn, dòng tộc; gia
sản gì. Chỉ cần thượng cấp cho một tí quyền lực, thứ quyền lực lấy của địa chủ
thí cho nông dân, thì muốn làm trời đất gì cũng được…
Lòng đầy rạo rực, hăm hở, đúng chín giờ tối, Tựu đeo khẩu
Colt ngang hông, đến Nguyễn Kỳ Viên. Dân làng Động, từ ngày Đội cải cách về,
tám giờ tối đã không ai dám ra khỏi nhà, đi đâu đều phải có từ hai người trở
lên, phải cầm đèn hoặc đuốc nùn rơm. Riêng Tựu và những thành viên trong Đội cải
cách, đội dân quân du kích, và một số cố nông cốt cán… lúc nào cũng được đi lại
như chốn không người.
Lối vào cổng chính Nguyễn Kỳ Viên đã bị ông bà nông
dân rào lại kể từ trước hôm Lý Phúc bị đấu tố. Cả khu nhà chính cũng bị niêm
phong. Hai mẹ con bà Lý Phúc bị dồn lên ở gian đầu hồi và khu nhà thờ, mở lối
ra phía đình cho Đội tiện việc quản lý theo dõi. Vợ chồng Cục mở một lối đi
riêng vào ngôi nhà ngang ông bà Lý Phúc cho từ ngày cưới. Lối đi này vừa độc lập
vừa kín đáo, rất lợi cho cuộc vi hành của Tựu tối nay.
Tín hiệu là ngọn đèn hạt đỗ. Bính đã làm theo đúng lời Tựu dặn.
Tựu như ngửi thấy mùi bồ kết, mùi lá bưởi trên tóc nàng, thấy mùi đàn bà của
nàng thấm vào lục phủ ngũ tạng. Nó kích hoạt mọi điểm nhọn trong người Tựu, nhất
là cái của nợ ấy. Thằng cha cứ ngọ nguạy, hệt như con rắn hổ mang đánh hơi thấy
gà con.
Đến đầu hồi nhà rồi, nhưng rất cảnh giác, như con cáo già trước
khi tiếp cận con mồi, Tựu quay ngoắt lại, vảnh tai nghe ngóng, giương mắt lùng
sục xung quanh. Không thấy gì khả nghi, Tựu rón rén mở cánh cửa đã hé sẵn. Quả
nhiên Bính đang năm trên giương đợi. Thằng con trai nàng ngủ rất say, nằm tít
phía trong.
- Em cứ lằm yên, không cần phải dậy - Tựu nói thì
thào giọng kim và giơ tay ra hiệu cho Bính.
- Thưa Đội, Đội có mang đơn cho con ký không ạ? - Bính ý tứ
ngồi lên, vặn to ngọn đèn.
- Không cần vặn đèn… Đơn đây rồi. Ký núc lào cũng
được. Để anh đọc cho em lào…
Giọng kim của Tựu như bị ngạt mũi. Mắt Tựu rực lên và xoáy
vào khoảng ngực căng đầy trắng phốp của người đàn bà. Tay Tựu xoà tới nắm lấy
cánh tay Bính.
Bính lúng túng, khoanh hai tay ôm lấy ngực. Nhưng Tựu đã áp
sát. Không hiểu bằng cách nào, trong tích tắc, Tựu đã trút bỏ khẩu súng Colt và
chiếc quần. Toàn bộ phần dưới của Tựu phơi ra, hùng hậu như một khẩu đại pháo
siêu nòng.
- Đừng… đừng… Sao Đội lại làm thế - Bính hốt hoảng, hai tay
che lấy mắt, tim muốn nhảy khỏi lồng ngực khi thoáng nhìn thấy cái của quí của
Tựu.
Quả thật, vũ khí của Tựu mới thực là khủng khiếp. Thứ vũ khí
siêu hạng này từng bách chiến bách thắng, khiến Tựu vô cùng tự tin và tự mãn. Sắp
vào cuộc, bao giờ Tựu cũng tung vũ khí thị uy để uy hiếp và hấp dẫn đối phương.
Cứ nhìn thần thái Bính đang tái dại đi thì đủ biết.
Bính run rẩy và vô cùng lúng túng. Bính ngoái ra ngoài sốt ruột.
Chờ đợi một điều gì. Rất có thể Bính sẽ không chống đỡ nổi Tựu. Tựu có sức khoẻ
ghê gớm. Tựu lại còn có thứ vũ khí bất khả chiến bại đối với hết thảy đàn bà.
Chỉ cần chậm một phút nữa, có lẽ Bính sẽ bị khuất phục, sẽ gục ngã trước khẩu đại
pháo đang tìm cách bắn phá vào chị.
Bỗng nghe một tiếng ầm. Cánh cửa chính bị đạp đổ.
- Anh Cục, cứu em… - Bính mừng rỡ hét lên khi thấy cứu tinh.
Chị đẩy Tựu ra và vùng dậy.
Người vừa đạp cửa, chính là Cục. Suốt từ chập tối, khi Bính
mang cơm đến và thông báo về chuyện Tựu hẹn đến nhà lúc chín giờ, người Cục đã
sôi sùng sục như nồi bánh chưng đêm ba mươi tết. Cục không thiết ăn cơm. Cứ tưởng
tượng ra cái cảnh con dê đực ấy cười lên người Bính là Cục đã điên lên, mắt đỏ
đọc như hai cục than và răng nghiến trèo trẹo. Lừa cho bọn dân quân đổi gác, Cục
bẻ hai chiếc chấn song cửa kho chùa, lẻn về nhà.
Nhẹ nhàng như một con mèo hoang, Cục thủ sẵn chiếc chày giã
cua, lướt dọc hàng ô rô không một tiếng động. Đến đầu hồi nhà, Cục nhớ đến con
dao lá lúa vẫn giắt ở gần giọt gianh, liền với xuống, thủ sẵn cạp quần. Có tiếng
thì thào bên trong, có ánh sáng đèn rực lên rồi lại dịu xuống. Cục nén chờ đợi
Phải xem sự thể thế nào đã. Nếu sự việc xoay chuyển, nếu là sự thông đồng, mèo
mả gà đồng gặp nhau, thì Cục sẽ xử cả hai. Nhưng kìa, con dê đực đã chuẩn bị dở
trò. Bính đang hết sức chống cự. Bính đang chờ đợi sự ứng cứu của chồng.
Nhảy ba bước, Cục giáng chiếc chày giã cua xuống vai Tựu.
Không để đối thủ yên, Cục tóm cổ Tựu hất ngược rồi đột ngột buông ra, móc một
quả đấm trời giáng, hất ngược từ dưới quai hàm lên, khiến Tựu ngã ngửa ra sàn.
- Gớm chưa? Đội đoàn gì mày? Ông bắt quả tang mày đến hiếp vợ
ông nhé - Cục gầm lên, nhổ cả nước bọt vào mặt Tựu.
- Buông tôi ra để tôi lói… - Tựu thở lặc lè, cố dùng
cách thoát khỏi thế khoá tay của Cục, cố xoài tay ra với lây chiếc quần và khẩu
súng.
Biết ý, Bính đã thoát ra, vớ lấy chiếc quần ném ra xa và tóm
lấy khẩu súng, như một tang vật.
Hai người đàn ông vật lộn. Mặc dù một tay Cục bị tật nguyền,
nhưng toàn bộ sức mạnh lại dồn lên cánh tay kia, khiến Cục có sức khoẻ của một
đại lực sĩ. Khoá ngoặt cánh tay Tựu ra sau lưng, rồi bảo vợ giữ chặt, Cục kẹp
hai chân dúi đầu Tựu xuống, rồi thoắt cái, Cục lùa tay ra thắt lưng, lấy con
dao lá lúa.
- Ối trời ơi, dân quân đâu, ló giết tôi… - Tựu bỗng
gào lên giọng kim thảm thiết.
Thì ra lưỡi dao lá lúa của Cục đã xoẹt một nhát vào dương vật
Tựu. Con dao sắc lẹm đi một đường ngọt, thẳng băng, làm máu Tựu phọt một đường
cầu vồng.
- Mình ơi, khéo Đội chết - Giọng Bính run bắn.
- Đằng nào thì tôi cũng đi tù. Cho nó tiệt cái nòi chó dái đi
- Cục vẫn không buông tha Tựu. Con dao trong tay anh đang loay hoay tìm cách xẻo
trọn bộ của Tựu như gã đồ tể tùng xẻo bộ ngọc dương của con dê đực.
Vừa lúc ấy, có tiếng quát nhặng xị của Đĩ Ngao, người hàng
xóm láng giềng. Thoắt cái, Đĩ Ngao và mấy tay dân quân đã chĩa súng tua tủa
quanh người vợ chồng Cục.
Chương 9
Tiếng hát nhân dân
Vỹ trở về làng Động khi mọi biến cố đã qua đi như sau một cơn
đại hồng thủy, một trận động đất, hoặc một cơn bão khủng khiếp cấp mười ba, đã
hơn hai năm rồi mà làng Động vẫn xơ xác tiêu điều. Những lũy tre bị chặt hạ, trống
hoác như hàm răng sứt. Những cổng nhà rêu phong uy nghiêm ngày trước, đã bị phá
bằng, thay vào đó là những bó rào tre rấp kín. Hàng trăm đống rơm rạ rải rác khắp
các sân gạch, vườn hoang, xóm ngõ. Đây thực sự là một bát quái trận đồ, nơi lý
tưởng cho bọn trẻ con chơi trốn tìm, cho các cặp mèo mả gà đồng gặp gỡ về đêm,
cho người và chó cùng ỉa, chỗ nào cũng bốc lên mùi cứt đái thum thủm, khăm khẳm.
Ngay trước cửa Nguyễn Kỳ Viên cũng chềnh hềnh một đống rạ chắn ngang.
Muốn vào nhà thờ chi họ Nguyễn Kỳ, nơi mới được ngăn đôi bằng cót, mẹ con bà
Phúc ở hai gian bên và gian thờ, nửa kia cho nhà lão Cỏn, một cố nông ngoài xóm
Lẻ, phải đi quanh hàng rào ô rô, qua một ngõ hẹp, chui qua cái cổng tre tò vò.
Khu nhà của Vỹ đã bị phân chia cho sáu gia đình, toàn loại đầu trộm đuôi cướp,
thành tích bất hảo của làng Động ngày xưa. Cái hồ sen có lầu bát giác giờ thối
um, thầy điệu về bắt nằm giữa sập, đánh một roi dâu lăn con trạch giữa đít. Đấy
là chiếc roi dâu nhớ đời. Cũng là trận đòn duy nhất của thầy. Cũng trên cái sập
gụ gia bảo ấy, những trưa hè, mấy cha con cùng nằm khểnh dưới chiếc quạt kéo bằng
giấy bản phết nhựa sung có sợi dây thừng dòng xuống. Thầy vừa dùng ngón chân
cái ngoằng dây kéo quạt, vừa mở quyền Truyện Kiều chữ Nôm in trên những tờ giấy
bản mỏng tang thơm một mùi rất đặc trưng và quyến rũ.
"Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…"
Ôi, những câu khai tâm đã được thầy đọc cho các con nghe bằng
cái giọng lẩy Kiều độc đáo suốt đời không thể nào quên.
Có lẽ cái máu thi ca, sự mê đắm văn chương của Vỹ được bắt đầu
và nuôi dưỡng từ những buổi trưa kỳ diệu ấy. Đọc hết một đoạn, một cảnh, thầy lại
giảng giải cho mấy anh em, vận dụng thêm các kiến thức sách vở và đời sống, luận
bàn sâu hơn, xa hơn về tam cương ngũ thường, về tứ đức tam tòng, về gia pháp và
đạo làm người…
Sung sướng và ấn tượng hơn cả là những ngày lễ hội trên quê
ngoại, kết hợp đến chơi nhà bác Hội Thiện. Cả nhà rồng rắn trên đê sông Điền, từ
sáng đến thưởng buổi thì đến làng Nghi Sơn. Hội làng quê ngoại vào ngày mười bốn
tháng hai, kéo suốt ba ngày. Những đám rước kiệu rực rỡ màu sắc, tràn ngập âm
thanh, với cờ phướn, quan viên, phường bát âm, múa lân phượng, chú hề… kéo dài
hàng cây số. Những hội cờ người, những đêm hát tuồng, chèo. Nhiều chiếu tổ tôm
thâu đêm. Dường như Vỹ là đứa trẻ được thầy yêu chiều nhất, hơn cả thằng Vọng,
thằng Quặc. Vỹ hay được thầy cho ngồi lọt vào lòng mỗi khi thầy cầm trống chầu
trong buổi hát văn, hay trong hội cờ người. Đến đâu thầy cũng được mọi người
yêu kính, trọng thị. Người ta mời mọc thầy đến chơi nhà và nhân thể xem mạch kê
đơn cho trẻ con, người già. Những lần ấy thầy không bao giờ lấy tiền và thường
mang theo thật nhiều thuốc tễ được bào chế từ mấy tuần trước để phát tặng…
Nước mắt cứ lặng lẽ chảy tràn kẽ tay. Sao Vỹ cứ không tin rằng
thầy anh đã chết. Vỹ càng không tin rằng cái chết của thầy lại khác thường và
đau đớn, khủng khiếp đến thế. Một cái chết kéo theo những hệ luỵ cũng bất thường
và khủng khiếp không kém: Cục bị bắt ngay sau đó, bị kết tội hãm hại cán bộ
cách mạng, có âm mưu chống phá công cuộc cải cách ruộng đất, bị kết án ba năm
tù giam. Còn Hậu, nàng tiên bé nhỏ và xinh đẹp nhất vùng thì mãi mãi trở thành
cô bé tật nguyền. Sau trận ốm thập tử nhất sinh vì chứng kiến cái chết thảm khốc
của cha, cô bé hoàn toàn câm điếc, vĩnh viễn còi cọc suốt đời bị khuôn trong
cái vỏ hình hài của một đứa bé dị dạng năm tuổi.
Những ngày bi kịch ấy, Nguyễn Kỳ Vỹ đang theo học tại trường
Đại học văn hoá ở Tbilixi, thủ đô nước Cộng hoà Gruzia thuộc Liên Xô. Không hiểu
sao người ta lại đưa anh tới cái thành phố miền núi buồn tẻ và hẻo lánh như một
xó nhà quê chứ không phải là thủ đô Matscơva ngập tràn ánh sáng? Ở đó, Vỹ hệt
như một con cóc ngồi dưới đáy giếng, suốt ngày nhìn lên và chỉ nhìn thấy một mảnh
trời tròn như cái nong con, như một vành nón… Vỹ khao khát tin tức ở quê nhà. Vỹ
đọc thuộc làu từng lá thư Khiêm, đọc ngốn ngấu bất cứ một mẩu báo, một cuốn
sách nào từ trong nước gửi sang.
Cái hôm chia tay Khiêm ở ga Hàng Cỏ để qua nước bạn Trung Quốc,
sang Liên Xô, lên tàu rồi mà suýt nữa thì Vỹ nhảy tàu, ở lại. Không muốn xa
Khiêm chút nào. Ở nhà, làm việc gì đi bất cứ nơi đâu cũng được, miễn là được gần
nàng.
Khiêm khóc, van vỉ anh: "Hãy nghe em. Tương lai
chúng mình còn dài. Anh cứ yên tâm sang học bên đó. Dù bao lâu, hoàn cảnh nào,
em cũng chờ…". Khiêm tỏ ra cứng rắn, động viên Vỹ. Mười lăm ngày dằng
dặc qua đất nước Trung Hoa, rồi vùng rừng Taiga Viễn Đông Liên Xô, những cuốn
nhật ký Khiêm viết cho Vỹ, trở thành Kinh Thánh, Vỹ đọc thuộc làu, giúp Vỹ thêm
niềm hy vọng, niềm tin mãnh liệt ở tình yêu. Không có Khiêm, chắc chắn Vỹ sẽ
không qua khỏi những ngày đằng đẵng buồn nản ở xứ người.
Một lần qua một người quen ở Đại sứ quán ta tại Matscơva,
Khiêm gửi cho Vỹ cuốn tiểu thuyết "Cưới chạy" của Đà Giang
vừa được xuất bản.
"Anh Đà Giang muốn em chuyển đến anh cuốn tiểu thuyết đầu
tay của anh ấy, có lời đề tặng cả hai đứa chúng mình. Tất cả nhuận bút anh ấy
mua sách tặng hết bạn bè".
"Cưới chạy" đang gây xôn xao dư luận, là sách
gối đầu giường của sinh viên và trí thức. Đà Giang đang nổi như cồn, chẳng
khác gì hồi nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ của em cho xuất bản tập thơ "Thời của
Thánh Thần"…
"Cưới chạy" làm Vỹ như được thoả cơn khát. Vỹ
đọc ngấu nghiến, vừa đọc vừa cảm phục và yêu mến văn tài của bạn mình. Cải cách
ruộng đất là như thế này ư? Cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn tàn khốc đến thế
này ư? Tình yêu không có đất nảy nở. Cô gái con địa chủ phải tự tử. Chàng vệ quốc
đánh mất lý tưởng, xoá nhoà ranh giới giai cấp, bị bắt giam…
Nhà văn Đà Giang phản ánh một hiện thực cay đắng hay cố tình
bóp méo thực tế cách mạng, công kích cuộc cải cách ruộng đất? Vỹ hoang mang, viết
mấy lá thư liền cho Đà Giang, cho cả Trinh Khiêm, nhưng cũng chăng thấy hồi âm.
Không lẽ đường thư đã bị kiểm duyệt?
Nửa năm sau, cũng qua con đường thư tay do một người quen
sang công tác, Vỹ nhận được thư Đà Giang, kèm theo mấy bài phê bình cuốn tiểu
thuyết "Cưới chạy" Lá thư của Đà Giang đặc kín tám trang giấy.
Có đoạn nhoè mờ như nhuốm nước mắt.
"Vỹ ơi văn chương có tội tình gì? Cuốn sách của
tao chỉ là một cái móng tay của con voi sự thật. Một sự thật đau đớn
và thảm khốc không kém gì cuộc thảm sát của Trần Thủ Độ đối với triều
Lý, của Hồ Quý Ly đối với triều Trần, của Nguyễn Gia Long đối với triều
Tây Sơn… Hàng vạn người yêu nước kháng chiến đã bị thảm sát. Tao trót
bênh vực họ. Và tao đang bị đánh tơi bời. Đánh tứ phía, trên diễn
đàn báo chí, trong các cuộc họp và hội thảo. Mà đánh tao là những ai,
mày có biết không? Toàn bạn bè văn chương, hôm trước còn khen leo lẻo
là tao dũng cảm, tao là lương tâm kẻ sỹ Bắc Hà… Toàn một lũ giả dối,
thớ lợ, đi bằng đầu gối… Người ta ghép tao vào tội nói xấu chế độ, chống phá
cách mạng, liệt tao vào nhóm "Nhân văn Giai phẩm? "Cưới chạy"
vừa in ra, chưa kịp phát hành, cơ quan đã buộc tao phải thôi việc. Tao
không biết "chạy" đi đâu? Tồn tại như thế nào chứ đừng nói gì đến "cưới"?
Một loạt các cây bút mất lập trường như tao cũng lâm vào thảm cảnh.
Thằng Du San vừa in truyện ngắn "Bại luân", liền bị điều đi
nông trường Kim Bôi cải tạo lao động. Hàn Thâm Nho vì bài thơ
"Bến đò ngang" phải chuyển công tác, ngồi
chơi xơi nước viết kiểm điếm. Kẻ đánh bọn tao hăng hái nhất, mày
có biết là ai không? Văn Quyền đấy. Thằng chó là lính xung kích số một trong
chiến dịch thanh trừng vừa rồi, được xếp vào hàng các nhà phê
bình Macxit tiêu biểu, được điều về Ban X, có quyền sinh
sát với văn nghệ sĩ.
Mày quá hạnh phúc vì đã không phải chứng kiến tấn thảm kịch.
Hầu hết những ai muốn làm văn chương chân chính lúc này đều có tâm trạng
như Hămlet: "To be or not to be?"(1).
Tao có được đọc một vài bài viết của
mày in ở bên đó. Nghe nói cơ quan bảo vệ pháp luật đã xếp các bài viết
của mày vào sổ đen… hãy nghe lời tao Vỹ ơi: Quẳng bút đi. Hãy
tìm một công việc gì liên quan đến khoa học kỹ thuật, đến cơ bắp, như
rèn, hàn, gò, đúc… Và nên tìm cách ở lại bên ấy cho yên thân"…
Ngay sau lá thư của Đà Giang, là thư của Chiến Thắng Lợi. Cái
chết của văn chương chưa kịp xanh cỏ, đã đến cái chết của người.
Lá thư của Chiến Thắng Lợi vẻn vẹn mấy dòng:
"Anh không muốn báo cho chú biết sớm. Chú nhận được
tin này thì sắp đến giỗ đầu thầy rồi. Công việc sửa sai của chúng ta cũng đã
thu được những thắng lợi rực rỡ rồi. Gia đình ta đã được sửa sai là địa
chủ kháng chiến…
Thầy mất ngày… tháng… Một cái chết bí hiểm mà sau
đó Đội cải cách có báo cáo mật gửi Ban chỉ đạo Trung ương nhận định
thầy là một phần tử có vấn đề và cái chết của thầy tất nhiên có bàn tay kẻ địch
nhúng vào. Chúng muốn bịt đầu mối… Đợt ấy anh cũng đi chỉ đạo
ở tỉnh khác, nên không về đưa tang thầy được. Thôi, âu là số thầy
chỉ được đến thế. Anh lo cái chết mờ ám của thầy có khi lại ảnh hưởng
đến tiền đồ sự nghiệp của anh và chú. Vì thế hãy cố gắng tu dưỡng lập
trường tư tưởng giai cấp, học tập và phấn đấu để được tổ chức tin cậy…"
Vỹ đau đớn rã rời. Anh đóng chặt cửa phòng, khóc một ngày,
sưng húp mắt. Rồi cả tuần sống trong vật vã mộng mị. Một đêm, đầu nóng hầm hập,
Vỹ bật đèn, viết ào ạt:
"Chữ Đồng Tử trầm mình lội ngược sông Hồng
Từ thuở Âu Cơ đến giờ vẫn khố
Sóng cuồn cuộn chay tận cùng xứ sở
Máu đỏ bầm chứ đâu phải phù sa?
Chàng Trương Chi cất tiếng hát tháng ba
Mắt đói vàng không nhìn ra bến bãi
Mị Nương tít lầu xanh không ngoái lại
Để tiếng hát hhân dân chìm nổi bọt bèo…
Bài thơ dài có thể gọi là khúc bi tráng ca này, Vỹ đặt tên
là "Tiếng hát nhân dân", ngay hôm sau được gửi về Hà Nội, bổ
sung vào tập thơ mới của anh đang xếp hàng ở Nhà xuất bản. Tên bài thơ lập tức
được Nhà xuất bản Tân Đức chọn làm tên cho cả tập.
"Tiếng hát nhân dân" vừa in ra đã gây một cú sốc
dữ dội. Trên các tờ báo lớn ở Hà Nội liên tiếp đăng bài tranh luận.
Riêng bài thơ dài "Tiếng hát nhân dân" còn
được in lại trên một tập san có tên là "Giai phẩm bốn mùa" do
một nhóm các văn nghệ sĩ cấp tiến sáng lập. Tập san này dành hắn mười một trang
ca ngợi Nguyễn Kỳ Vỹ như người tiên phong của văn nghệ, phát ngôn viên của thời
đại, người cách tân thi ca, ngọn gió mới trên thi đàn… với những dòng tít lớn:
"Từ "Thời của Thánh Thần" đến "Tiếng hát nhân
dân", "Nguyễn Kỳ Vỹ, thi sĩ đích thực của Nhân dân" v.v…
Nhưng rồi tai hoạ bỗng giáng xuống.
Trên mục "Sinh hoạt tư tưởng" của một tờ báo lớn bỗng
xuất hiện một bài báo nhỏ không đầy ba trăm chữ, ký tên TV. "Tiếng hát Nhân
dân hay tiếng nói thù địch với cách mạng?", chỉ đích danh tập thơ của
Nguyễn Kỳ Vỹ đang là chiếc loa công kích chế độ, mang màu sắc Nhân văn
Giai phẩm, xoá nhoà cuộc đấu tranh giai cấp.
Lập tức hàng loạt bài phê bình đồng thanh hưởng ứng: "Biểu
tượng hai mặt trong tập thơ "Tiếng hát nhân dân", một
khuynh hướng văn nghệ chống Đáng, "Sự tha hoá của một
ngòi bút", Nguyễn Kỳ Vỹ muốn gì?"…
Hàng loạt hội thảo diễn ra dồn dập. Người ta vạch ra tính hệ
thống trong cuộc trượt dốc, sa ngã, thoái hoá về tư tưởng của Nguyễn Kỳ Vỹ từ
những bài viết gửi về từ Liên Xô gần đây: Tiểu thuyết "Người thứ
41, một cái nhìn nhân bản về chiến tranh", "Khi đàn sếu bay qua, bước
tiến mới của điện ảnh Xô viết", "Tự do và
sáng tác".
Người ta mổ xẻ từng hình ảnh, từng câu chữ trong bài thơ
dài "Tiếng hát nhân dân": hình ảnh Chữ Đồng Tử, Trương Chi nói
gì? Đó là gì nếu không phải để phỉ báng nhân dân, công kích cách mạng. Tại sao
Chữ Đồng Tử đến giờ vẫn khố? Tại sao Trương Chi không cất tiếng hát tháng Tám,
tháng Mười mà lại cất tiếng hát tháng Ba, tháng đói kém mất mùa? Tại sao tiếng
hát Nhân dân, lực lượng quần chúng cách mạng vĩ đại lại chìm nổi bọt bèo? Một hệ
thống ngôn ngữ mang biểu tượng hai mặt, xỏ lá và phản động. Bao nhiêu câu hỏi tại
sao? Tại sao? Riêng bài viết: "Thực chất tác giả Tiếng hát Nhân
dân là ai?" ký tên Văn Quyền, còn đi xa hơn. Không cần phân tích
sự hay dở của văn chương, tác giả chỉ ngay ra sự vô ơn với cách mạng, vạch ra bản
chất giai cấp của Vỹ. Nhờ ai mà Nguyễn Kỳ Vỹ xuất bản được tập thơ đầu
tay "Thời của Thánh Thần" và được lăng xê như một thi sĩ trẻ đầy
tài năng của cách mạng? Nhờ ai mà Vỹ được đi du học ở nước ngoài trong khi biết
bao người khác vẫn đang thầm lặng hy sinh trên các mặt trận sản xuất và chiến đấu?
Rằng, Vỹ vốn xuất thân từ một gia đình đại địa chủ cường hào, cụ nội từng làm
quan lại phong kiến, ông nội là nhà nho yếm thế, trùm mũ che tai trước thời cuộc,
bố từng làm lý trưởng, tham gia Quốc dân Đảng, em trai theo địch vào Nam… Rằng,
bản thân Vỹ đã chính thức đính hôn với con gái nhà đại tư sản Hà Nội, bố và các
anh đều làm tay sai cho Ngô Đình Diệm… Từ nhân thân ấy, đủ biết con người Nguyễn
Kỳ Vỹ và văn chương của anh ta là hình và bóng, không thể nào khác Nguyễn Kỳ Vỹ
trở thành điển hình của sự thoái hóa, biến chất, xa rời mục tiêu, lý tưởng
trong giới văn nghệ sĩ, đặc biệt là các văn nghệ sĩ có tham gia kháng chiến
nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện, có tư tưởng tự do tư sản, muốn thoát ly khỏi
sự lãnh đạo của Đảng, muốn dành quyền lãnh đạo văn nghệ, đang tập trung bôi nhọ
chế độ, công kích những sai lầm trong cải cách ruộng đất vừa qua…
Vỹ bị gọi về nước, kết thúc thời kỳ du học.
Sau gần hai năm học tập ở Liên Xô, ngày Vỹ về nước không khác
gì một kẻ bại trận. Không kèn không trống. Chuyến bay của hãng hàng không
Aeroflot chậm mười sáu giờ, đáp xuống sân bay Gia Lâm lúc mười một giờ đêm.
Người duy nhất mà Vỹ ngóng chờ là Khiêm.
Nhưng nàng bặt vô âm tín.
Chắc máy bay sai giờ, nàng không đợi được? Hay nàng bị ốm?
Nàng bị tai nạn? Vỹ hoang mang cùng cực, mệt mỏi rã rời.
Rất may, cuối cùng, một người bạn văn chương của Vỹ cũng xuất
hiện. Nhà văn Đà Giang, tác giả tiểu thuyết "Cưới chạy" rúm ró trong
bộ quân phục cũ nhàu nát, khật khưỡng cầm chiếc điếu cày từ một quán rượu ngoài
cổng sân bay ngơ ngác tìm kiếm ai đó. Khi nhận ra Vỹ, anh ào đến ôm bạn.
- Tao tưởng mày đã nghĩ lại, không về nước.
- Khiêm đâu? Khiêm báo cho mày biết tao về phải không? Sao
mày lại đi một mình?
- Khiêm bảo tao ra đón. Nàng không thể ra được. Mày phải hết
sức thông cảm.
Vỹ cười miệng méo xệch.
- Mày nói như trợ lý Bộ Ngoại giao đi đón khách quốc tế. Vì
sao Khiêm không đi? Khiêm làm sao? Đã bỏ đi theo thằng cha nào rồi phải không?
- Đừng nghĩ bậy - Đà Giang giơ chiếc điếu cày lên - Nàng mua
một bó hoa bắt tao mang ra từ sáng. Nhưng chiếc máy bay chết tiệt chậm đến gần
một ngày. Tao vứt đi rồi.
- Vứt ai? Mày vứt cái gì?
- Thằng này tâm thần nặng. Nghe cho rõ: Tao vứt bó hoa đi rồi.
Có ánh đèn flash chợt loé lên ở đâu đó. Hình như có
ai lén chụp ảnh. Mãi tới sau này trước khi lên K27, Vỹ mới được nhìn thấy tấm
hình ấy. Còn bây giờ thì cả hai đều không thể biết ai đã lén chụp cuộc gặp gỡ của
họ. Vỹ chỉ biết nhờ ánh đèn nghìn oát ấy, anh đã nhìn thấy gương mặt gầy thảm hại
của bạn. Một gương mặt thiếu ăn đói ngủ, vêu vao, chỉ có hai hốc mắt là sáng quắc
lên một cách kỳ lạ.
- Tối qua Khiêm hớt hải đến tìm tao và bảo rằng nàng không thể
ra sân bay được. Nàng nhờ tao, bằng mọi giá phải đi đón mày. Nàng khóc và bảo:
"Nói với anh Vỹ, em ngàn lần xin tha lỗi. Và Vỹ hãy quên em đi. Sự có mặt
của em lúc này sẽ càng làm cho đời Vỹ bi kịch". Tao đã mong manh hiểu ra rồi.
Có một thế lực nào đó đang đe doạ nàng, ngăn cản không cho nàng đến với mày.
Trong thời gian chờ để lấy đồ đạc, Đà Giang đã thông báo vắn
tắt với Vỹ những thông tin mới nhất:
- Mày còn nhớ thằng Văn Quyền không? Tao nghi cái thằng Giave
ấy đã đến gặp Khiêm để nói về việc mày phải về nước. Thằng Du San nói với tao
hôm kia đã thấy nó cùng Khiêm vào hiệu sách Mai Lĩnh…
Suốt cả một tuần Vỹ như kẻ mộng du. Khiêm đã lẩn trốn anh, lẩn
trốn cả Đà Giang, Du San, Hàn Thâm Nho, Trần Biện, những người bạn văn chương của
Vỹ. Nhưng rồi cuối cùng, Vỹ đã được gặp nàng. Khiêm chủ động nhờ Đà Giang hẹn gặp
Vỹ ở đầu đường Cổ Ngư.
Vỹ không thể nhận ra Khiêm. Nàng tiên kiều diễm của anh, giờ
là một thiếu nữ bé nhỏ, gầy mảnh và xanh xao. Vỹ đứng sững lại giây lâu, nước mắt
chực trào. Thương đến thắt lòng. Anh ào đến ôm nàng, nhưng nàng giật mình lùi lại.
- Đừng anh… Hãy quên em đi… Em đến gặp anh lần cuối.
Nàng khóc và như không đứng vững. Vỹ bối rối không biết nên
làm gì. Mãi sau họ mới tìm được một gốc phượng già. Vỹ dìu nàng tựa vào gốc
cây.
- Đừng nói gì vội. Hãy để cho anh ngắm em…
- Chúng mình chỉ nên gặp nhau một lát thôi… Người ta đang
theo dõi… Em không muốn để anh phải liên luỵ. Nghĩ đến những ngày sắp tới của
anh, em lo quá…
Vỹ cười khẩy Tự nhiên anh muốn ôm choàng lấy Khiêm rồi hai đứa
cùng nhảy xuống hồ. Đã có bao cặp tình nhân Hà Nội cùng ôm nhau nhảy xuống Hồ
Tây để cùng chôn vùi những cuộc tình ngang trái. Nếu không có Khiêm, hẳn Vỹ đã
trở thành kẻ lưu vong ở xứ sở băng tuyết rồi.
- Hãy nói cho anh nghe đi. Vì sao em muốn lẩn trốn anh?
- Anh đã đọc cuốn "Cưới chạy" của anh Đà
Giang chưa? - Khiêm không trả lời mà hỏi lại.
- Những tấn bi kịch của thời mông muội giờ muốn lặp lại?
- Thế đấy! Tương lai và địa vị của anh còn ở phía trước. Em
chỉ là một đứa con gái nhà tư sản. Bố em có tội với cách mạng… Tiền đồ của em
và cậu Đào Phan Khánh đen tối lắm. Hiệu may Phúc Hoà nhà em đã đóng. cửa rồi.
Muốn bán nhưng chính quyền họ không cho. Trường học của bác và mẹ thì Sở Giáo dục
đã quản lý. Mẹ con em đành phải nhận len về đan thuê. Khu phố không cho chúng
em đi sinh hoạt thanh niên. Không trường nào nhận em vào học. Xin đi rửa bát
cho cửa hàng ăn mậu dịch cũng không được… Anh hãy quên em đi - Khiêm nói dồn dập,
nói thổn thức như muốn tuôn hết những ẩn ức trong lòng.
- Khiêm ơi, sao lại thế? Anh có thay đổi gì đâu? Anh yêu em
hơn cả lần đầu. Anh không cần em phải đi học đại học. Anh không quan tâm đến lý
lịch, đến thành phần giai cấp. Những ngày qua ở xứ người, lúc nào anh cũng nhớ
đến em. Đợi sau cải táng thầy anh, anh sẽ cưới em…
- Đừng nói đến chuyện ấy. Anh hãy tìm một người con gái khác.
Thiếu gì người xứng với anh… Mợ em đã kiên quyết không cho em quan hệ với anh nữa
rồi. Mợ em bảo, nhà em thành phần xấu xa thế, sớm muộn rồi anh cũng bỏ…
Vỹ thoáng nghĩ đến chuyện Du San từng gặp Khiêm vào hiệu sách
với Văn Quyền. Cổ anh đắng nghét.
- Cứ nói thẳng với nhau đi. Em đã có ai rồi?
- Có rồi đấy. Hội phụ nữ thành phố vận động một phong trào lấy
thương binh. Mợ đã đăng ký cho em một anh. Mợ bảo em phải hy sinh để cứu gia
đình, để mở đường cho tương lai cậu Khánh. Anh thương binh này bị mất một cánh
tay ở đồi Him Lam. Tính rất hiền. Anh ấy bảo có chú ruột làm ở tổ chức, sẽ xin
cho em vào học trường sư phạm cấp một, em Khánh sẽ vào làm ở nhà máy bia…
- Thật thế ư?
- Sao em nỡ nói dối anh được. Em đến đây để xin anh tha lỗi.
- Thế thì… chẳng còn điều gì phải nói.
Lòng Vỹ nguội lạnh và trống trơn như cánh đồng vừa qua một trận
bão. Hai người ngồi như chết dưới ánh trăng bàng bạc mờ nhoà giữa trời và nước.
Rồi Khiêm ra về từ lúc nào. Có một gói gì đó trong mảnh khăn
dù để bên bờ cỏ, Vỹ cũng không cần biết nữa.
Vỹ ngồi lại một mình. Cuộc gặp sau hai năm nhớ nhung yêu
đương cuồng dại, có khác nào một đám tang. Anh tự thấy mình hèn, mình đáng
khinh vô cùng, vì không đủ dũng cảm để nhảy xuống hồ.
Người đầu tiên cho Vỹ biết cái tội tày đình của anh, nguyên
do buộc anh phải về nước, lại là người chẳng hiểu gì về văn chương, nghệ thuật:
Chị Là. Người đàn bà Tày ruột để ngoài da, giờ đã là đồng chủ nhân một căn biệt
thự tại một con phố rợp bóng cây cổ thụ. Hoá ra chỉ mới gần ba năm thôi mà Chiến
Thắng Lợi đã thăng tiến đến chóng mặt. Anh là nhân vật cao cấp của cải cách ruộng
đất, cấp Đoàn uỷ, phụ trách cả một cụm liên tỉnh của châu thổ sông Hồng. Sau sửa
sai, Lợi được điều về Ban X, được phân nửa căn biệt thự, tiêu chuẩn tương đương
Bộ, Thứ trưởng.
Câu chuyện của hai chị em, chỉ qua vài lời thăm hỏi xã giao,
đã bập ngay vào chủ đề chính.
- Chú đã biết tội của mình chưa? Anh nói, tội của chú khó gỡ
lắm…
- Tội gì? Anh bảo tôi mắc tội gì?
- Chú làm thì chú khắc biết… Tôi mà là chú thì cứ tránh xa
văn chương thơ phú. Cứ như tôi đây này, đang học dở lớp sáu bổ túc, anh chú xin
cho về cửa hàng, một mình tôi cũng nuôi nổi cả nhà.
- Chị làm cửa hàng gì mà nuôi được cả nhà?
- Tôi biết ngay mà, chú cứ khinh thường tôi. Tôi làm ở Tôn Đản,
cửa hàng chuyên bán hàng tiêu chuẩn cho cán bộ bìa A, B thuộc diện Trung ương
quản lý. Tôi chỉ là nhân viên bán thịt lợn, đậu phụ, mà mỗi ngày cũng dôi ra được
vài lạng thịt, dăm bìa đậu phụ, vài ngày được một cỗ lòng… Chẳng cần tham ô
gian lận gì đâu. Công việc nó thế. Lộc đến thì mình hưởng. Không ăn hết thì bán
đi, mua, hoặc đổi thứ khác để bồi dưỡng cho anh và các cháu chú… Buồn cười lắm
nhé. Có ông cán bộ tập kết mê tôi chú ạ. Chức gì cũng to lắm, bìa B hẳn hoi,
tháng nào cũng tặng tôi một ô phiếu năm lạng thịt. Ông ấy bảo ở độc thân, một
mình mỗi tháng hai cân thịt, ăn không hết. Sức vóc như ông ấy, làm gì mà chẳng
hết, chú nhỉ. Ông ấy mê tôi nên tìm cớ để tỏ tình, tôi biết tỏng. Từ chối không
được, tôi bán giúp rồi mua một cái gì đó giá tương đương, trả lại người ta. Thế
mà ông ấy tưởng tôi yêu, làm hẳn một bài thơ tặng tôi chú ạ. Tôi thuộc lòng. Để
tôi lấy chú xem nhé.
Chị Là tìm trong cuốn sổ bán thịt, lấy cho Vỹ một tờ pơluya mỏng,
chữ mực tím rất nắn nót:
"Mỗi lần anh đến cửa hàng
Thịt cá không màng, chỉ ngắm nhìn em.
Đánh đường nhờ phiếu với tem
Để tình anh gửi tới em mỗi ngày…
- Có khi hay hơn thơ của chú đấy - Chị Là đi lấy phích nước,
rồi quay lại nói với Vỹ - Này, nhưng đừng cho anh chú biết đấy nhé. Anh ghen
thì khủng khiếp lắm. Sẵn sàng đẩy tôi đi khỏi cửa hàng…
- Thơ thế này thì ai chẳng ghen…
- Nói vui thế thôi. Bì sao được với thơ chú viết tặng cô
Khiêm? Hôm nào nhận được thơ chú, Khiêm cũng mang khoe với tôi. Chú không tưởng
tượng được Khiêm hạnh phúc đến thế nào đâu. Tôi ghen với cô ấy nhiều đêm đến
không ngủ. Phải yêu nhau say đắm đến thế nào người ta mới làm được thơ hay như
thế, mới sung sướng đón nhận thơ đến rồ dại như thế…
- Nhưng Khiêm đã khước từ tình yêu của tôi rồi… - Giọng Vỹ bỗng
buồn rũ.
- Làm gì có chuyện ấy? Tôi không tin. Không bao giờ tin cô
Khiêm thay lòng đổi dạ.
- Tôi nói dối chị làm gì?
- Hay là… - Chị Là vò hai bàn tay mũm mĩm, ra chiều nghĩ ngợi
- Nếu thế thì phải có một tác động cực mạnh. Chỉ có tiền, hoặc tình. Hay là vừa
có tay nào chen vào?
Vỹ bỗng thấy buốt nhói trong tim khi gương mặt kiều diễm
của Khiêm như hiển hiện trước mặt. Nàng đã có người khác. Nàng đã quyết dứt
tình. Tất cả những bài thơ Vỹ viết, những quà tặng Vỹ gửi, đều bị chối bỏ. Tình
yêu của Vỹ đã bị nàng gói ghém trong mảnh khăn dù chiến lợi phẩm ở mặt trận Điện
Biên Phủ anh tặng, vứt lại bên hồ? Cảm giác tự sỉ ấy, giờ lại thấy ram ráp ở mặt
khi Vỹ chạm vào ánh mắt đầy thương hại của chị Là.
- Anh cũng bảo nếu chú lấy cô Khiêm thì sự nghiệp sẽ tan
tành. Bây giờ chú lại dính vào chuyện thơ phú…
- Thơ phú thì sao? - Tự nhiên Vỹ muốn nổi cáu.
- Nghe cấp trên nói với anh thì thơ chú là loại chống phá chế
độ, đả kích cách mạng, nối giáo cho giặc. Suốt ngày thấy anh nói trong điện thoại
về một bọn nhân văn giai gái gì đó. Anh bảo chú không phải trong nhóm đó, nhưng
người ta cứ khẳng định chú điều khiển từ nước ngoài. Anh em trong nhà, tôi
không muốn giấu chú. Để tôi lấy chú xem.
Chị Là vào trong buồng, mở tủ mang ra một chiếc cặp ba dây
dày cộp có êtikét dòng chữ "Hồ sơ NVGP", góc trên phía bên phải là
hai chữ "tuyệt mật".
Hết giờ làm việc cơ quan, đêm nào anh chú cũng hí húi với cặp
tài liệu này đến quên cả vợ con. Những bài chú gửi về in trên các báo, cả những
bài chú viết in trên báo chí Liên Xô, anh chú đều cắt ra để hết vào trong này.
Theo tay chị Là giở, Vỹ đọc thấy tít hàng loạt bài báo và bài
thơ anh viết mấy năm gần đây: Người thứ bốn mốt, Khi đàn sếu bay qua; Quan
hệ giữa chính trị và văn nghệ; Tự do và sáng tác; Người nghệ sĩ cần một chân trời
sáng tạo; Tiếng hát nhân dân… Tất cả các bài đều được gạch chân,
khoanh dấu hỏi, đánh dấu bằng bút đỏ chi chít.
Vỹ bỗng rùng mình như có một làn khí lạnh sượt qua gáy. Chiếc
cặp ba dây có khác nào cánh cổng vào một nhà tù.
- Tôi phải đến gặp anh ngay bây giờ - Vỹ đột ngột đứng dậy, vớ
lấy chiếc xe đạp lao ra cổng khiến Là không kịp giữ lại.
Vỹ lao như một cua rơ siêu hạng trên đường phố đông nghịt người
ngày chủ nhật. Mười phút sau anh đã có mặt trước cổng cơ quan Chiến Thắng Lợi.
Ban X nằm ở một khu phố yên tĩnh, không có biển đề, nhưng có
trạm gác và đội bảo vệ. Anh chiến sĩ trực ban trẻ măng, nhưng có gương mặt lạnh
lùng với đôi mắt gườm gườm rất khó gần.
- Đồng chí có việc gì? Ngày chủ nhật cơ quan không làm việc.
- Dạ, tôi là em ruột đồng chí Chiến Thắng Lợi. Gia đình nói
anh Lợi tôi hôm nay làm việc tại cơ quan - Vỹ đưa giấy tờ cho người cảnh vệ -
Tôi mới công tác ở nước ngoài về, có việc cần gặp anh tôi. Mong đồng chí giúp.
- Đồng chí họ Nguyễn, sao lại là em ruột của thủ trưởng Lợi?
- Chiến sĩ cảnh vệ chĩa một tia nhìn săm soi đầy cảnh giác vào Vỹ
Vỹ rất muốn đấm vào cái bộ mặt non choẹt nhưng đã sớm cụ non
và khinh người như mẻ kia, như anh đã từng đấm một thằng ôn con Ivan tại
Tbilisi khi nó dám hỗn xược bảo anh là mọi đầu đen. Nhưng rồi anh chép miệng.
Giời đất này, đâu cũng thế cả. Và đành kiên nhẫn trình bày, nài nỉ một hồi lâu.
Người cảnh vệ quay máy điện thoại nội bộ. Lúc sau bảo Vỹ:
- Đồng chí làm phiền thủ trưởng tôi quá. Thủ trưởng trốn nhà
đến đây làm việc ngày chủ nhật. May mà hôm nay thủ trưởng dễ tính… Để lại giấy
tờ ở đây rồi vào căn phòng khách ngôi nhà ba tầng kia. Thủ trưởng Lợi không có
thời gian nhiều đâu.
Vỹ đã toan bỏ đi. Nhưng đắn đo mãi, anh đành nặng nề bước qua
khoảng sân rộng.
Giây phút anh em gặp nhau sau mấy năm xa cách nào ngờ trở
thành một nhát cứa mà suốt những năm sau cũng không thể chữa lành.
- Sao chú lại tự tiện đến đây tìm tôi? Chú có biết rằng đây
là nơi nào không? Chú phải giữ cho tôi chứ? Mỗi bước đi của chú từ khi về nước
đều có tai mắt cả đấy. Chú đang huỷ hoại cả sự nghiệp của chú, giờ lại muốn
gieo hoạ cho tôi nữa…
Bộ mặt đẫy ra của Lợi đỏ tím lịm, hai bên thái dương giần giật
Anh nhìn đứa em trai như một kẻ tội đồ. Cái nhìn chứa chất cả sự tức giận, cả nỗi
hoảng sợ mơ hồ, tựa như người đang tiếp xúc với một tên tù trốn trại đang bị lệnh
truy nã.
Ban đầu thì Vỹ rã rời, kinh ngạc. Làm sao mà ông anh trai quý
mến lại nổi xung thiên lên thế? Có chuyện gì nguy hiểm đâu mà mất cả tình ruột
thịt như thế. Nhưng rồi đột ngột máu dồn cả lên đầu lên mắt, Vỹ nhỏm khỏi ghế,
nhìn Lợi như tóe lửa.
- Em sẽ đi khỏi đây ngay để anh khỏi liên lụy. Nhưng hãy trả
lời em, em mắc tội gì mà anh lập hồ sơ theo dõi?
Lợi quay ra đóng sầm tấm cửa kính để âm thanh khỏi lọt ra
ngoài. Giọng anh rít lên:
- Tội gì ư? Đến bây giờ mà chú vẫn lú lẫn không chịu hiểu ư?
Tội lập bè phái chống phá cách mạng. Bôi xấu, xuyên tạc chế độ. Gieo rắc tư tưởng
Trôtskít, xét lại. Bọn Nhân văn Giai phẩm đang suy tôn chú là tiểu tướng,
người lĩnh xướng cho tự do sáng tác. Đài Sài Gòn đang ra rả tâng bốc Nguyễn Kỳ
Vỹ là người anh hùng, là thi sĩ chống cộng. Nhục nhã chưa?
- Đấy là anh quy kết. Em nghĩ mình chẳng có tội gì…
- Chẳng có tội gì à? Tội ăn cháo đái bát. Tội lừa thầy phản bạn.
Ai đã đưa một cậu học trò vừa hết Thành chung, mới vừa thôi mặc quần thủng đít,
thành một thi sĩ trẻ của kháng chiến? Ai đã cặm cụi cắt dán từng bài thơ thành
tập thơ "Thời của Thánh Thần", ai đã lên xin ý kiến cấp trên,
xin được lăng xê tập thơ như một hiện tượng của thơ ca cách mạng? Ai đã gợi ý
cho mười hai nhạc sĩ nhất tề phổ nhạc những bài thơ của một cây bút vừa mới xuất
hiện, để được hàng triệu công nông binh đón đợi? Chưa hết. Chính đồng chí Tư
Vuông đã gợi ý tổ chức đưa chú sang Liên Xô học. Bát cơm phiếu mẫu nhớ ơn ngàn
vàng. Đến loài cẩu trệ nó còn biết ơn chủ. Vậy mà đùng một cái quay ngoắt một
trăm tám mươi độ, viết bài thơ "Tiếng hát nhân dân" để chửi
chế độ… Đồ mất dạy. Đồ khốn nạn…
- Anh quá nóng giận - Vỹ cười giễu - Suy diễn và chụp mũ tư
tưởng là bản chất tư sản và tiểu nông, Lênin đã từng viết thế trong "Bút
ký triết học". Người lãnh đạo văn nghệ phải có tầm nhìn vượt trên mọi
thiên kiến chính trị. Cuộc cách mạng này không chỉ của riêng ai. Không ai được
phép độc quyền tình yêu Tổ Quốc. Những bài em viết, và cả tập thơ em mới in, chỉ
chứng minh một tình yêu Đất Việt. Chỉ tại các anh cao ngạo quá đấy thôi. Người
cách mạng không tỉnh táo và khiêm tốn rất dễ trở thành những kẻ độc tài. Các
anh tự cho mình cái quyền cầm cân nảy mực, quyền cưỡi trên đầu người khác. Các
anh nhầm lẫn và đang muốn đồng nhất giữa chính trị và văn nghệ.
- Câm ngay - Chiếc cốc trên bàn nảy lên suýt rơi xuống đất
sau cú đập trời giáng của Lợi - Tao có thể gọi cảnh vệ bắt mày ngay bây giờ.
Hãy xoá ngay cái mớ lý thuyết sặc mùi tư sản, cái tư tưởng phản cách mạng ấy
trong đầu mày! - Lợi nghiến hàm răng, cố ghìm. Đôi mắt anh đỏ đọc, ngấn ướt như
có máu rỉ - Mày có biết anh mày đau đớn suốt mấy tháng nay khi có thằng em đâm
đầu xuống bùn như mày không? Mày có biết tác giả TV của bài báo "Tiếng hát
nhân dân hay tiếng nói thù địch với cách mạng?" là ai không? Anh Tư Vuông
đấy. Đích thân nhà thơ Ngô Sỹ Liên viết bài không phải chuyện đùa. Anh Tư gọi
tao lên, lệnh phải viết một bài trên mục "Sinh hoạt tư tưởng" để anh
ký tên. Vì tình anh em, tao đã cố tình viết nhẹ đi rất nhiều. Tao viết "Tiếng
hát nhân dân, một khúc hát sai nhịp", nhưng anh Tư không đồng ý, bắt sửa
thành "tiếng nói thù địch với cách mạng". Rồi anh tự
viết lại. Khi Anh Tư đã đích thân ra roi thì mày biết rồi đấy. Hàng loạt bài viết
hưởng ứng. Có những tên tuổi mà chính tao cũng không ngờ. Họ không ganh ghét gì
mày đâu, nhưng họ sợ và muốn lấy lòng Anh Tư, muốn được cấp trên tin dùng và cất
nhắc. Riêng Anh Tư thì tao hiểu. Anh đang rất kỳ vọng ở mày. Bởi chính anh đã
trót nâng mày lên mây xanh với bài thơ "Sống", với tập thơ đầu
tay "Thời của Thánh Thần" của mày. Khi bị phản bội thì người ta đau đớn
đến mức nào. Anh Tư nói với tao: "Hoặc thằng em trai cậu phải cải tà quy
chính, đáo công chuộc tội, hoặc phải loại bỏ khỏi hàng ngũ. Gương ức Trai Nguyễn
Trãi tày liếp đó. Mày làm sao sánh với cái móng tay của Ức Trai? Tao chỉ lo rằng
thằng anh mày vì mày mà bị liên luỵ đấy Vỹ ơi!
Giọng Lợi méo đi, ngạt đi, trong nỗi tức giận tột cùng.
- Tôi đề nghị một cuộc tranh luận dân chủ - Vỹ bỗng thay đổi
cách xưng hô - Hãy học tập tấm gương của Hồ Chủ tịch, dám tự phê bình trước
toàn Đảng, toàn dân, dám khóc về những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Hãy
tranh luận công khai trên báo chí. Chúng ta đang rất cần một môi trường tự do
dân chủ. Hãy tổ chức những diễn đàn để toàn dân cùng biết và tham gia. Hãy mổ xẻ
và công khai những âm mưu loại bỏ những người kháng chiến không cùng phe cánh,
làm tan hoang cả một nông thôn với những giá trị văn hoá truyền thống ngàn đời
mà cuộc cải cách ruộng đất chính là sự phản dân tộc tiêu biểu nhất, dã man nhất.
Về quê, tôi mới hiểu sức tàn phá khủng khiếp của cuộc cải cách mà các anh đã tiến
hành. Con nhổ vào mặt cha. Vợ phản bội lại chồng. Anh em thù ghét lẫn nhau… Một
cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn. Cái chết đau đớn của thầy là do ai?
Vì sao cái Hậu nhà mình vĩnh viễn câm điếc và còi cọc như một cụ già? Vì sao
các anh đang tâm xử bắn ông Hội Thiện, một đảng viên cộng sán, một Phó Bí thư
huyện uỷ? Cuộc cách mạng này nếu không có những địa chủ như thầy, như ông Hội
Thiện, như bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên thì làm sao có thể thành công? Cuộc
lên đường của toàn dân tộc trong chín năm kháng chiến thần thánh đang là cơ hội
chấn hưng nước Việt đã bị chặn đứng vì những mưu toan quyền lực. Anh vừa nói đến
Ức Trai, nhưng anh làm sao hiểu được con người vĩ đại ấy. Vụ án Lệ Chi viên là
vết đen lớn nhất của lịch sử. Là khúc đại bi thương của nước Việt. Hết cuộc săn
thì chim ưng và chó nhà đều bị làm thịt. Cuộc giành giật công lao và quyền lực
đã giết chết biết bao người con ưu tú đã từng chung một chiến hào. Tôi xấu hổ,
tôi đau đớn vì anh đã góp bàn tay vào cái chết của thầy. Bát cơm phiếu mẫu đấy.
Các anh mới là kẻ đái bát. Các anh là những tên đao phủ…
- Cút ngay! Xéo ngay! Mày là giặc thật rồi… - Lợi gầm lên, vớ
lấy chiếc bút phi về phía Vỹ. Âm thanh đạt tới một trăm đềxiben, làm những cửa
kính rung bần bật.
Chú thích:
(1) Tồn tại hay không tồn tại?
Chương 10
Giai phẩm và giai nhân
Chẳng có anh bộ đội thương binh nào Khiêm định lựa chọn là ý
trung nhân cho mình cả. Chỉ có cách nói ấy mới đủ sức nặng để Vỹ cắt bỏ tình
yêu với nàng. Phải dũng cảm lắm, đau đớn lắm, như tự tay mình bóp chết con chim
tình yêu đang ca hót trong lòng mình, Khiêm mới nói được với Vỹ những câu dối
lòng ấy.
Lẽ ra Vỹ phải thông minh và nhạy cảm đoán ra Khiêm đã nói dối
mình chứ. Lẽ ra anh không có quyền dễ dãi chấp nhận và phó mặc Khiêm lấy một
người khác, càng không thể tàn nhẫn bỏ mặc Khiêm ra về. Lên xe rồi mà Khiêm chỉ
mong có tiếng anh gọi lại, chỉ mong anh chạy ào níu giữ Khiêm lại. Khi ấy Khiêm
sẽ oà vào lòng anh vừa khóc nức nở, vừa lấy cho anh xem lá thư anh Lợi đã gửi
cho Khiêm trước ngày Vỹ từ Liên Xô về.
"Cô Khiêm thân mến.
Tôi là anh trai Vỹ. Phải viết cho cô lá thư này, cũng vì
trách nhiệm của một người anh, quyền huynh thế phụ, thay cha lo cho tương lai
em trai mình.
Tôi có biết tình yêu của hai người. Nhưng lại biết
rằng cuộc tình này chỉ mang lại kết cục không tốt đẹp. Về phía cô và gia
đình, chắc cô hiểu hơn tôi. Cuộc đấu tranh giai cấp sẽ còn rất phức tạp và
quyết liệt. Bởi những mưu toan chống phá Chú nghĩa xã hội và cuộc đấu
tranh thống nhất đất nước, bởi những viên đạn bọc đường mà kẻ thù đang nhằm
vào những người kém lập trường tư tưởng, xa rời vị trí chiến đấu. Về
phía Vỹ do những sai lầm của nó, như cô biết trên
báo chí gần đây, nó sẽ phải về nước. Tương lai của Vỹ là tuỳ
thuộc vào sự hối cải của nó và mối quan hệ đối với cô. Bản thân Vỹ đã khó
có thể vượt dốc nổi, thêm gánh nặng của gia đình cô nữa thì
nó hoàn toàn bị kéo xuống hố sâu.
Tôi tin cô đủ thông minh và nhạy cảm cũng như cả tấm lòng từ
bi, để hiểu những điều tôi nói. Một phụ nữ xinh đẹp và đầy
tự trong như cô, ắt biết phải làm gì?
Lá thư này chỉ mình cô biết, không để cho người thứ
hai đọc.
Tôi biết ơn cô rất nhiều.
Nguyễn Kỳ Khôi"
Lá thư không ký tên Chiến Thắng Lợi, gửi theo đường công vụ,
do một anh cảnh vệ mang đến trao tận tay Khiêm.
Những dòng chữ của một người có quyền lực, nằm trong guồng
máy tổ chức, thực chất là một tối hậu thư. Vậy là đã rõ. Việc Vỹ phải về nước,
có sự chỉ đạo của Lợi: Bước tiếp theo là phá bỏ tình yêu giữa hai người nhằm
kéo Vỹ trở lại đường ray đã định sẵn.
Khiêm viết trong nhật ký:
"Ngay trước hôm anh từ Liên Xô về, đích thân anh
Chiến Thắng Lợi cho Văn Quyền đến gặp em, nói không được ra
sân bay đón anh. Đây là lệnh của tổ chức. Văn Quyền nói, anh đang trong một đường
dây hoạt động chính trị, được tổ chức nước ngoài cài về Việt Nam.
Gặp anh lúc này sẽ rất nguy hiểm. Không còn sự lựa chọn nào khác. Em đành chấp
nhận mọi thua thiệt, để sự nghiệp của anh không bị liên luỵ. Em trách
anh Lợi. Một người bằng sắt, không có trái tim. Nhưng khi nghe Văn
Quyền nói về anh thì em lại phần nào thông cảm với anh Lợi…
Anh còn nhớ Văn Quyền, người cùng dự trại sáng tác Vĩnh Yên với
anh mà anh đã đưa em lên "khoe" ấy không? Anh ta làm thơ
hay viết văn xuôi em chẳng nhớ. Quyền có giọng nói như tiếng vịt đực nghe
đến tức cười. Một lần Quyền đạp xe đến tìm em và cho em biết một tin
sét đánh: Anh đã yêu một cô gái Nga. Em không tin. Quyền liền đưa ra bài thơ
anh vừa gửi về in trên tạp chí Văn học, bài "Tuyết ở xứ người" có
lời đề tặng Đatrikha. Anh ta nói huyên thuyên một hồi về
cô Đatrikha ấy. Nào là hai người yêu đương nhau lãng mạn như thế nào,
anh ghen rồi đánh lộn nhau với một anh chàng Ivan người Nga ra sao. Liều
lĩnh hơn, hai người còn rủ nhau về Matxcơva, thuê khách sạn ngủ với
nhau, bị Đại sứ quán ta bắt được, lập biên bản, định trục xuất về nước…
Anh ta cứ thao thao bịa tạc đủ thứ xấu xa về anh. Tệ hại nhất là anh ta quy kết
anh về tội chính trị. Anh ta bảo, tổ chức xếp anh vào thành phần xét lại. Vì những
bài viết ca ngợi tiểu thuyết "Người thứ 41" phim "Những
đàn sếu bay qua," một cuốn sách và một bộ phim phản động, xoá nhoà
ranh giới giai cấp, địch ta… Ban đầu em cũng tưởng thật. Uất đến muốn
chết. Em đi tìm hiểu những thông tin có liên quan tới nơi học của anh. Rồi
em chợt nhớ ra, có lần anh viết thư cho em, đặt cho em cái tên Nga là
Đatrikha, viết tắt từ Đào Trinh Khiêm. Bài thơ "Tuyết ở xứ người" ấy
anh viết cho em. Em cạch mặt Văn Quyền từ ngày đó.
Sau lá thư anh Lợi gửi em, Văn Quyền bỗng lại xuất
hiện. Em tránh mặt không được. Hoá ra anh ta đã được điều về
công tác dưới quyền anh Lợi. Quyền nói, là bạn thân của anh nên anh ta tự thấy
phải có trách nhiệm với em. Chuyến này về nước, nhẹ nhất là Vỹ
buộc phải ra khỏi quân đội, phải điều sang một cơ quan dân sự và chắc chắn
không được giữ một trọng trách gì. Đây là phương án tối ưu nhất, nếu thủ
trưởng Lợi, bằng uy tín của mình thuyết phục được Anh Tư. Phương
án xấu hơn, Vỹ có thể bị đi tù hoặc đi trại cải tạo. Nghe Quyền
nói vậy, em không còn hồn vía nào nữa. Em lo và thương anh vô cùng. Chẳng lẽ những
bài thơ bài báo của anh lại nguy hiểm đến thế ư?
Quyền báo em: "Nếu em thực sự yêu và
thương Vỹ, em phải hy sinh tình yêu để cứu Vỹ. Tội lỗi của Vỹ, nếu
cộng thêm với lý lịch tư sản có bố theo chế độ Ngô Đình Diệm của em nữa, thì vô
phương cứu chữa. Em thiếu gì người để lựa chọn, việc gì phải đâm
đầu vào Vỹ để cùng tự sát. Em tin lần này thì Văn Quyền
nói thực lòng. Chắc Quyền cũng lo cho anh như anh Lợi chăng?"
Khiêm phờ phạc và buồn trĩu như người vừa đánh mất tuổi xuân
của mình. Mỗi lần đạp xe từ cửa hàng ăn uống cuối Phố Huế, nơi Khiêm được tạm
tuyển làm nhân viên phục vụ, qua đoạn hồ Thiền Quang, lại thấy nhói trong lòng
một nỗi đau mất mát.
"Gốc lim trắng nằm lả bên mép hồ kia, anh còn nhớ không?
Nó ghi dấu nụ hôn đầu tiên em trao cho anh sau lần anh về quê ra tìm gặp em.
Thú thực là em rất hoang mang, sợ mất anh vô cùng sau bao lần em đến tìm anh tại
nơi đóng quân trong khu nhà thương Đồn Thuỷ mà không gặp.
Và buổi tối ấy, em đã hối hả, đã hoàn toàn trao phó, oà vào
ngực anh, không cần che chắn, tự vệ. Bài thơ "Mùa thu Hà Nội" của
anh, như thứ bùa ngải đã hút hết hồn em từ ngày ấy. Bọn bạn em chúng nó thi
nhau khoe có người yêu là bộ đội. Em chỉ cười thầm, muốn bảo rằng, tao còn có
người yêu là bộ đội thi sĩ nữa kia. Trẻ con quá nhỉ. Nhưng em yêu và tự hào về
anh vô cùng: Lần đầu tiên trong đời em biết thế nào là nụ hôn. Có lúc em muốn tắc
thở vì anh hôn dài quá. Nhưng mà thích, thích ghê lắm ấy. Em không muốn rời anh
tẹo nào, nếu không có mấy anh tự vệ đến nhắc đã hết giờ chơi đêm…"
Mới đó mà đã thành giấc mơ. Ngôi trường tư thục Đất Việt của
mẹ và bác nằm ở góc hồ kia, đã trở thành trường công, xa lạ như của ai đó, lâu
lắm rồi Khiêm cũng không đặt chân đến.
Mất hết cả rồi…
- Kìa Khiêm, Khiêm ơi! - Tiếng gọi khàn khàn mừng rỡ làm
Khiêm sững. lại. Văn Quyền. Khiêm nhận ra vẻ sung sướng thái quá của anh ta qua
nụ cười nhăn nhở.
- Anh đang muốn gặp Khiêm. Có tin mới về Vỹ đây. Chúng mình
vào quán bên hồ kia đi.
- Xin lỗi, em bận lắm - Nói vậy, nhưng Khiêm lại dắt xe đi
theo Quyền, như người mộng du.
Quyền lăng xăng kéo ghế, gọi cà phê.
- Anh và thủ trưởng Chiến Thắng Lợi đang thu xếp để Vỹ được gặp
đồng chí Tư Vuông. Nếu Anh Tư đồng ý cho gặp thì mọi việc chắc sẽ ổn thoả. Anh
biết trong thâm tâm Anh Tư vẫn quí tài năng của Vỹ và tiếc cho cậu ta lắm. Chỉ
cần biết thành thật nhận lỗi, biết hối cải. Ví dụ viết một vài bài trên báo chí
nhận rõ cái sai của mình. Hơn lúc nào hết, tổ chức đang muốn qui tụ nhân tài, tất
cả văn nghệ sĩ đều tụ hội dưới ngọn cờ vô sản…
Quyền vừa nói vừa hoa tay như người diễn thuyết. Nhưng Khiêm
như vô cảm. Nàng buông một câu như dội gáo nước lạnh:
- Em chẳng quan tâm đến những chuyện của Vỹ. Chúng em thôi
nhau rồi.
Quyền ngớ người. Anh liếc nhanh Khiêm rồi cười xoà.
- Anh thử em thế thôi. Chứ gái goá làm sao lo nổi việc triều
đình. Anh Tư đời nào chịu nghe anh để gặp một nhà thơ tép diu như Vỹ. Chuyện của
Vỹ phức tạp lắm. Cậu ấy dính vào vụ Nhân văn Giai phẩm. Là đầu mối chỉ đạo
vòng ngoài. Ở trong nước, ngoài nhóm đầu sỏ Trần, Trương, Phan, Trần Đức, Nguyễn
Hữu… là một lũ lâu la, trong đó có Đà Giang, Du San, Hàn Thâm Nho, Trần Biền…
Nhóm này đã lộ mặt. Đang tập hợp những phần tử bất mãn, chống đối, đòi ra báo
riêng, nhà xuất bản riêng. Chúng công khai xoá bỏ thành quả của Chủ nghĩa xã hội:
Tôi bước đi
Không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.
Chúng công kích chế độ ta là trại lính, nhà tù: "Đem bục
công an đặt giữa trái tim người". Có nhiều tài liệu cho thấy Vỹ là tiểu tướng
của nhóm Nhân văn. Bài thơ "Tiếng hát nhân dân" đăng trên
"Giai phẩm bốn mùa" là bản tuyên ngôn của nhóm ly khai. Chắc em
biết Vỹ có quyết định ra quân rồi chứ? Nếu ngoan cố, khó mà tránh khỏi phải đi
cải tạo. Anh mới gặp Vỹ hai tuần trước. Thương cậu ấy lắm. Nhưng chứng nào vẫn
tật ấy. Bây giờ lại thêm tật nát rượu… Có chuyện này không biết có nên nói với
em không?
Sự mập mờ của Quyền lập tức có hiệu quả. Khiêm nôn nóng:
- Chuyện gì thê anh?
- Tưởng Khiêm đã biết rồi. Mà thôi, đàn ông bọn anh đứa nào
chẳng thế…
- Thói trăng hoa chứ gì? Em không quan tâm…
- Không phải trăng hoa mà là sa đoạ Khiêm ạ… Thế thì em vẫn
chưa biết gì hết. Cậu ta đang sống với cô đào Diễm Mỹ của đoàn Kim Phụng, đã bỏ
chồng, hơn cậu ta tới chục tuổi…
Đòn tâm lý của Văn Quyền quá mạnh để đủ hạ gục một thiếu nữ yếu
đuối như Khiêm. Khiêm lảo đảo đứng dậy.
- Em phải về. Xin lỗi, em không muốn ai nhắc đến anh ta nữa.
- Kìa em - Quyền níu cánh tay Khiêm - Còn một chuyện nữa anh
muốn giúp em. Anh sẽ gửi em đi học trường thương nghiệp. Chú họ anh là hiệu trưởng,
đã nhận lời rồi. Chỉ cần em đưa hồ sơ lý lịch cho anh…
- Em cám ơn - Khiêm dứt khoát đứng lên, dắt xe xuống hè
- Em chỉ sợ anh không đủ sức gánh nổi con một nhà tư sản phản
động.
Thông tin mà Văn Quyền cho Khiêm biết, có một phần sự thật. Vỹ
phải ra quân và chuyển công tác về Nhà xuất bản Bình Dân, nơi chuyên ấn hành loại
sách phổ biến kiến thức và văn hoá quần chúng.
Nhà xuất bản Bình Dân nằm sâu trong một phố hẻm. Cả cơ quan vẻn
vẹn hơn hai chục người. Công việc của họ là in các khẩu hiệu, tranh cổ động, áp
phích, các diễn ca, ca dao hò vè tuyên truyền cho đấu tranh thống nhất đất nước,
vận động vào hợp tác xã nông nghiệp, cải tạo tư bản tư doanh…
Vỹ được phân ở cùng ông Hiệu, một cán bộ lưu dung, chuyên sửa
morat cho một nhà in cũ. Căn phòng chỉ có chín mét vuông, kê vừa đủ chiếc giường
một, chiếc bàn gãy chân, cái chạn bát và một bếp điện bằng dây may xo tự tạo.
Phần mặt đất, nơi thiết cốt, cơ bản nhất này phải để dành cho người đến trước
là ông Hiệu. May mà người chủ cũ đã làm sẵn một gác xép cao chừng mét hai, có bậc
thang là những thanh sắt gắn vào tường. Vỹ ngủ và làm việc trên cái gác xép ấy
Lên hết bậc thang cuối cùng, phải bò hoặc cúi lom khom.
Mấy lần vô ý Vỹ đã cụng đầu vào trần nhà đau điếng. Trên cái
gác xép, một cái kho chứa đồ thì đúng hơn, ngay sau hôm nhận "phòng",
Vỹ đã kiếm được một cái bàn vứt đi ngoài vườn, cưa bốn chân, như chiếc bàn trà
của người Nhật Bản, thế là thành chiếc bàn viết. Ghế thì đã có báo cũ và sách.
Ngồi xếp bằng tròn, hoặc ngồi xổm đều rất thoải mái. Ý định xoay ra viết tiểu
thuyết bắt đầu hình thành từ phòng văn này. "Chân trời hoang tưởng",
đó là tựa đề của cuốn tiểu thuyết sẽ để đời của Vỹ.
Ông Hiệu, là người hiền lành tốt bụng, có nghề phụ gia truyền
là chữa bệnh trĩ. Khách tự kháo nhau mà tìm đến, chủ yếu là các quý ông và quý
bà. Ngoài giờ hành chính, ông Hiệu đi suốt. Căn phòng chín mét vuông trở thành
nơi sáng tác lý tuồng của Vỹ. Nhiều hôm khuya về, ông Hiệu vẫn thấy Vỹ gò lưng
trước chiếc bàn cưa chân trên gác xép, hí hoáy viết.
Một tuần sau ngày Vỹ chuyển về nhà xuất bản Bình Dân, Đà
Giang bỗng kéo nhà văn Du San đến.
- Tao có quyết định chuyển về Ty Văn hoá Sơn Nam rồi - Đà
Giang chìa tờ giấy có dấu đỏ chói cho Vỹ xem - Thằng Du San tuy mắc khuyết điểm
viết truyện ngắn "Bại luân" nói xấu cải cách ruộng đất, nhưng đã
thành khẩn nhận lỗi, vẫn được thượng cấp cho ở lại cơ quan cũ, tuy nhiên bị
chuyển từ phòng chuyên môn xuống phòng hành chính.
- Đầu gà còn hơn đuôi trâu. Mày về Sơn Nam khác gì châu về Hợp
Phố - Vỹ động viên bạn.
- Hợp chó gì. Đang ở biển về ngòi. Trên này còn nghí ngoáy được,
về quê quá đi tù ngồi - Đà Giang rút chiếc điếu cày nhỏ xíu như sáo trúc, nạp
thuốc, rít đến hõm má rồi nhả khói mù mịt - Tay trưởng ty văn hoá nghe tin tao
về, liền đánh công văn không tiếp nhận. Nó tung tin tao về sẽ phá nát thuần
phong mỹ tục đất Sơn Nam.
- Thôi, mackênô - Du San móc túi áo ngực - Tao có
tiền đây. Bọn mình kéo nhau ra chợ Đuổi làm chầu lòng lợn tiết canh cho tiêu hết
sầu đời.
Những ngày đầu về Nhà xuất bản Bình Dân là thời kỳ làm việc
quyết liệt nhất của Vỹ. Đủ loại, từ sáng tác thơ, truyện ngắn, mẩu chuyện, bài
báo, đến khảo cứu, dịch thuật. Với vốn tiếng Pháp khá tốt, đọc được nguyên bản
Huygô, Banzắc, La Mác-tin… lại thêm vốn tiếng Nga thành thạo, Vỹ hoàn toàn tự
tin có thể sống bằng ngòi bút của mình.
Nhưng lạ quá. Đích thân anh mang bài đến từng tờ báo, từng
nhà xuất bản. Họ cám ơn, hứa hẹn. Nhưng mãi không thấy đăng một bài nào. Lại
kiên nhẫn chép lại, kiên nhẫn gửi đi đều bặt vô âm tín.
Một hôm ông Hiệu mang về một nửa con vịt luộc, cút rượu quốc
lủi rủ Vỹ đánh chén, rồi bảo:
- Thấy chú hì hụi viết lách suốt đêm, tôi thương chú quá. Nếu
chú không khinh thường thì tôi mạn phép truyền cho chú phương thuốc bí truyền
chữa bệnh trĩ của tổ phụ tôi. Không cao siêu gì. Thậm chí còn có vẻ tầm thường
đối với kẻ sĩ, nhưng mà sống được.
- Bác không sợ tôi cướp cơm của bác à? - Vỹ nhìn ông Hiệu cảm
động.
- Sợ thì tôi đã không nói với chú. Kinh Phật có câu: "Cứu
một người phúc đẳng hà sa". Thấy chú viết lách hoài mà không được in, tôi
ái ngại quá. Tài năng như chú mà bỏ phí hoài, tôi thấy như mình cũng có tội…
- Thầy tôi cũng từng là lương y. Nhưng anh em chúng tôi không
ai nối được nghiệp cụ… - Giọng Vỹ bỗng buồn rũ - Thầy tôi bảo: "Nghề y cứu
được người, nhưng không cứu được tất cả". Ý thầy tôi là muốn anh em tôi
theo nghề khác. Vì thế mà tôi mới chọn nghề văn chương. Lập thân tối hạ thị văn
chương. Cổ nhân nói đúng đấy bác ạ. Nhưng đã trót mang cái nghiệp văn chương
vào rồi, không làm cách nào bỏ đi được. Tôi sẽ tiếp tục viết. Nhất định sẽ được
in mà…
Tự nhiên ông Hiệu nhìn Vỹ chằm chằm rồi ứa nước mắt. Hình như
ông say quá rồi. Ông rất muốn nói với Vỹ rằng anh quá ngây thơ, rằng cả cơ quan
đều biết tội của anh là tội tày đình, anh như con chiên bị rút phép thông công,
không có cơ hội để giao tiếp với độc giả, không còn khả năng sinh kế. Một
chỉ thị không thành văn đã được thông báo tới tất cả các cơ quan xuất bản báo
chí trung ương và địa phương: Không sử dụng mọi bài viết, mọi sáng tác
mang tên tác giả Nguyễn Kỳ Vỹ.
Quay nhìn xung quanh, như sợ có người nghe trộm, ông Hiệu định
nói với Vỹ những thông tin ấy, nhưng rồi lại thở dài, im lặng.
- Bác có việc gì giấu tôi - Vỹ như đoán ra - Tôi biết mình
đang như một thằng hủi, không ai muốn giây vào… Nhưng bác thì không trốn khỏi
tôi đâu. Bởi thượng đế chỉ cho phép chúng ta có chín mét vuông này. Nào, cạn đi
bác. C ẻst une vie de chienne(1) Đời không đáng một
cái tổ trĩ…
Ông Hiệu bật cười, giàn giụa nước mắt. Ông vừa nghe một câu
lý thú.
- Ha ha… Đời không đáng một cái tổ trĩ… - Mà này, chú Vỹ, tôi
nghĩ ra một diệu kế rồi.
- Kế gì hả bác?
- Nhưng chú tuyệt đối không được nói với ai nhé. Chỉ có hai
anh em mình biết với nhau thôi nhé. Nào, ngoặc tay và thề.
Vỹ ngoặc tay với ông Hiệu, hai người rót đầy chén, uống cạn rồi
cùng úp chén xuống.
- Từ giờ, các bài viết của chú hãy đưa hết cho tôi.
- Bác mua à?
- Ừ mua. Tôi chịu khó chép lại. Gửi in đâu là quyền của tôi.
Chú chỉ cần nhuận bút.
- Tôi chỉ cần được in thôi bác ạ.
- Tên chú, không báo nào chịu in cho đâu - ông Hiệu cay đắng
lắc đầu - Chú vẫn chưa hiểu ra à? Phải coi như bài của tôi. Tôi là tác giả. Chó
vàng hay chó mực, không thành vấn đề miễn là được ăn cứt.
Vỹ cười sằng sặc, nhoài người ôm lấy vai người bạn già.
- Chó vàng hay chó mực, không cần, miễn là được ăn cứt. Đời
không đáng một cái tổ trĩ… ha, ha…
- Ngày xưa, Hàn Tín muốn lên nghiệp lớn phải hạ mình chui qua
háng thằng mổ thịt lợn. Thời nay có hàng nghìn thằng mổ thịt lợn, chú cũng phải
kiên nhẫn chui qua háng chúng bằng hết. Cổng làng tôi có ba chữ đại tự "Cửu
tắc trưng". Chữ Cửu viết giống chữ Nhân nhưng có thêm dấu chấm ở đầu nét
phẩy, nghĩa là lưu cữu, chìm xuống. Nhiều người đọc được ba chữ ấy, nhưng không
biết nghĩa là gì. Ông nội tôi giải nghĩa cho bố tôi rằng, người làng tôi muốn
làm nên phải biết nhẫn nhục, chịu đựng, phải chìm xuống, ẩn mình đi rồi mới nổi,
mới sáng rõ giữa thanh thiên bạch nhật…
Tức là tôi cũng phải "cửu tắc trưng"
- Lúc này là phải vượt qua được cơn bĩ cực. Tại chú phát
nhanh quá, nổi tiếng sớm quá. Cái đại hạn này nặng đấy. Nhưng chú đừng lo. Sẽ
có quí nhân phù trợ. Tôi tuy tiểu nhân thôi nhưng cũng tặng chú một bút danh.
- Bút danh gì? - Vỹ sốt ruột.
- Tên tôi là Phạm Văn Hiệu. Bây giờ không phạm vào văn hiệu nữa,
mà đã hữu hiệu. Lấy bút danh là Hữu Hiệu được chưa? Một cái tên
thật đa nghĩa. Vừa là: được việc, vừa là: Có Hiệu tôi đây!
- Tuyệt quá! - Vỹ dốc ngược chai nhưng không còn giọt rượu
nào - Tôi chịu bác. Chó vàng hay chó mực, không cần, miễn là được ăn cứt. Đời
không đáng một cái tổ trĩ. Ha ha…Bác mới là Lưu Bang, còn tôi không đáng là Hàn
Tín.
Chỉ trong vòng một tháng, tác giả Hữu Hiệu đã liên tục xuất
hiện trên nhiều tờ báo lớn. Để giúp ông Hiệu đỡ phải chép lại bản thảo, Vỹ tìm
đến hiệu đồ cũ mua một máy chữ Optima từ hồi đầu thế kỷ.
Tổ hợp sản xuất văn chương báo chí của Vỹ - Hiệu có vẻ ăn nên
làm ra. Nhưng tất cả đều không qua mắt được Tiến Tới, giám đốc Nhà xuất bản
Bình Dân.
Tới vốn là dân xe thồ tại chiến dịch Điện Biên Phủ. Có dạo Tới
đã thồ tới con số kỷ lục 320 cân, được phóng viên mặt trận chụp ảnh và viết bài
đăng báo. Sau lần ấy, Tới bị sụn lưng, tưởng phải về quê theo đít con trâu.
Nhưng rồi với tài văn nghệ, nhất là chất giọng rất hợp với các điệu hò lơ, hò
sông Mã, Tới được giao phụ trách văn hoá quần chúng của một đơn vị hậu cần mặt
trận. Rồi bầu dục bỗng nhiên đến bàn thứ tám, về Thủ đô, với cương vị đang tham
gia cấp uỷ, thư ký công đoàn, Tới được trên phân công tiếp quản Nhà xuất bản Thời
Nay. Chìa khoá đã trong tay, chỉ cần múa may dăm đường cơ bản, lại có người đồng
hương phụ trách tổ chức, Tiến Tới nghiễm nhiên trở thành giám đốc Nhà xuất bản
Bình Dân.
Việc Hữu Hiệu bỗng nhiên trở thành một tác giả chững chạc,
khiến Tới liên tưởng ngay đến chuyện mình từ gã xe thồ trở thành giám đốc nhà
xuất bản. Tới chữ nghĩa ít, nhưng còn có cái mác chính trị, lại có người đỡ đầu,
chứ ông Hiệu sửa morat, có mà viết báo viết văn cái máu l…
Tiến Tới gọi ông Hiệu lên phòng làm việc và phủ đầu ngay:
- Anh đang can tội lừa dối cấp trên, tiếp tay cho Nhân
văn Giai phẩm.
Ông Hiệu làm bộ, mặt nghệt ra, không hiểu mô tê răng rứa gì.
- Ông làm sao đóng kịch nổi với tôi? Muỗi đực muỗi cái bay
qua, thằng Tới này còn biết chúng đã đ. nhau bao nhiêu lần. Tôi quản lý ông,
còn lạ gì? Ông thì chỉ sáng tác cái đánh chịn. Ông tụt quần các bà để họ chổng
mông mà chữa trĩ thì được chứ nhét thêm một bồ chữ vào đầu cũng không rặn ra nổi
thơ văn đâu. Văn chương không phải là thứ dành cho những thằng nông dân chúng
mình. Ông nói thẳng ra đi. Giúp cậu Vỹ hay là lợi dụng hoàn cảnh Vỹ để trục lợi?
Biết không thể giấu Tới được, ông Hiệu phải khai hết.
- Ông nói với tôi sớm, tôi sẽ bầy cách giúp Vỹ "hữu hiệu"
hơn cơ đấy - Tới nói - Nhưng giờ vẫn chưa muộn. Vỹ đang là phần tử chống đối
nguy hiểm, cấp trên giao về đây cho tôi trực tiếp theo dõi. Chỉ cần tôi báo cáo
việc ông cho Vỹ đội tên để tiếp tục lợi dụng công cụ báo chí tuyên truyền chống
phá chế độ là cả ông và Vỹ đều đi toi. Nhưng thôi, ăn ở phải để đức cho con
cháu. Tôi thấy Vỹ nó chẳng có mưu mô, tâm địa gì, ta chặn đường sinh kế của cậu
ấy là gây tội ác. Phải lấy chữ Nhân làm đầu ông ạ. Cấp trên không dùng Vỹ thì
ta dùng. Miễn là tất cả đều có lợi, ai giữ chùa đều được ăn oản. Của đồng chia
ba của nhà chia đôi, đúng không? Nhà xuất bản mình có rất nhiều việc phải làm.
Nhưng tôi tính rồi, việc sáng tác, ngoài Vỹ ra không ai đảm đương nổi. Kế hoạch
trên giao, chúng ta phải xuất bản mấy tập diễn ca về phong trào hợp tác hoá
nông nghiệp và công tư hợp doanh. Tôi đã đặt mấy ông nhà thơ, nhưng ông thì
kênh kiệu không thèm làm loại thơ con cóc, ca dao hò vè; ông thì đòi nhuận bút
cao ngất trời và ngâm tôm cả năm không giao bản thảo, nhờ cậy ở họ thì chết cả
nút. Tôi đang lo nhiệm vụ chính trị của nhà ta không hoàn thành…
- Cậu Vỹ chắc chắn giúp chúng ta được việc này - ông Hiệu quả
quyết - Tôi chữa trĩ thế nào thì Vỹ cũng sáng tác thơ như thế.
- Tức là đã tụt quần người ta ra là xong béng chứ gì? Cái ông
này đến hóm, ví von tài tình. Tôi nhờ ông làm đầu mối việc này. Ông nên nói với
Vỹ. Tôi nói không tiện, sợ Vỹ hiểu lầm rằng tôi là người do tổ chức phân công
thử anh ta. Vỹ viết chữ nào tôi in chữ ấy, nhuận bút tính barem cao nhất. Thậm
chí sẽ thưởng thêm năng suất, chất lượng. Chỉ có điều là…
- Tôi hiểu… Của đồng chia ba…
- Việc ấy thuộc luật chơi rồi, miễn bàn… Y tôi muốn nói là
nên ký một cái tên tác giả khác cho nó… phong phú…
Ông Hiệu lại à lên:
- Tôi hiểu… Việc này đối với Vỹ rất đơn giản, vì lúc này cậu
ta đâu cần danh, tôi có thể quyết ngay. Với những bài báo và các bài thơ lẻ Vỹ
vẫn ký tên Hữu Hiệu như đã làm, còn với các tác phẩm lớn, ví như diễn ca, truyện
thơ, hoạt cảnh… sẽ ký… Tiến Tới, tên anh. Chẳng gì anh cũng đường đường là giám
đốc một nhà xuất bản, chữ nghĩa phải đầy mình…
Tới nhoài người, dang tay thật rộng ôm lấy hai vai Hiệu.
- Cái ông này… đến hóm. Thế mà lâu nay tôi cứ loay hoay đi
tìm trưởng phòng hành chính tận đẩu đâu. Ông làm tôi kinh ngạc đấy…
Vậy là, chỉ sau một tuần, Vỹ đã sản xuất xong diễn ca "Hợp
tác xã là nhà" với bốn trăm hai mươi tám câu lục bát niêm luật hoàn chỉnh.
Nửa tháng nữa Vỹ lại hoàn thành truyện thơ "Công tư hợp doanh, con đường hạnh
phúc" với ba trăm tám mươi sáu câu song thất lục bát. Cả hai thi phẩm này
đều ký tên tác giả Tiến Tới.
Hoạt động của Nhà xuất bản Bình Dân diễn ra rất khẩn trương
nhộn nhịp. Hai tác phẩm của Tiến Tới được in với số lượng kỷ lục, bốn mươi lăm
vạn bản, sẽ phân phối đến từng hộ nông dân, từng gia đình tiểu thương, tiểu chủ
và hệ thống thư viện, tủ sách toàn miền Bắc…
Vỹ chuẩn bị khai bút viết tiếp tập tráng ca "Bài ca thống
nhất" theo đơn đặt hàng của Tới, thì anh lăn ra ốm. Hậu quả của sự lao lực
quá sức và kém dưỡng chất đã mở đường cho căn bệnh viêm phế quản cấp. Ban đầu
chỉ uể oải, ho khan và sốt. Cả ông Hiệu và giám đốc Tiến Tới đều lo mất ăn mất
ngủ.
- Gay quá, nhà xuất bản mình đã đăng ký thi đua với trên rồi.
Vỡ kế hoạch thì hoá ra tôi là thằng lừa dối tổ chức? - Tới nói với ông Hiệu -
Tôi mới đọc được một câu của văn hào Lỗ Tấn viết cho vợ: "Anh là một con
bò, suốt đời chỉ biết ăn cỏ để tiết ra sữa cho đời". Văn hào có khác,
khiêm tốn mà sâu sắc ghê. Cậu Vỹ còn hơn cả con bò của nhà xuất bản mình. Phải
cố gắng phục dưỡng sức khoẻ cho cậu ấy. Tôi sẽ cử cô Nguyệt đến cùng với ông
chăm sóc Vỹ.
Nguyệt là thủ quỹ cơ quan, gia đình tiểu thương, bố mở hiệu cắt
tóc ở phố Huế. Có được chân thủ quỹ "giàu thủ kho, no thủ trưởng", dưới
trướng một giám đốc xôi thịt như Tới, Nguyệt cũng đành phải cho Tới chấm mút tí
chút. Nhưng biết tính chồng Nguyệt, Tới kín đáo và khôn khéo lắm. Ở cơ quan,
trước mọi người, Tới tỏ ra rất nghiêm với Nguyệt, quát tháo om sòm, thậm chí
đưa ra cơ quan kiểm điểm tới số về kỷ luật giờ giấc thiếu tính đấu tranh phê
bình…, nhưng mỗi tháng, Tới thường tìm mọi cách điều Nguyệt đi đâu đó, khỏi Hà
Nội, rồi bày trò mèo vờn chuột, tận hưởng Nguyệt suốt đêm…
Nguyệt có phẩm chất của một hộ lý tận tình. Ba ngày liền chị
cùng ông Hiệu đun lá xông, đánh gió giải cảm, nấu cháo hành chăm sóc Vỹ mà bệnh
tình không hề thuyên giảm. Cứ chiều đến là sốt cao, thân nhiệt lên tới ba chín,
bốn mươi độ. Ông Hiệu phát hoảng, đề nghị giám đốc Tới cho Vỹ đi cấp cứu bệnh
viện.
- Ông tìm ngay nhà văn Đà Giang cho tôi - Tới bàn với ông Hiệu
- Bạn văn chương với nhau, họ ới một tiếng là cả bọn kéo nhau đến như ruồi.
Riêng cánh nhà văn, nhà thơ, tôi công nhận là họ rất cưu mang nhau.
- Đà Giang bị đuổi về quê rồi. Nghe nói cũng bị treo bút.
- Thế thì phải báo cho gia đình Vỹ. Tôi đã cho cô Nguyệt đến
báo cho cô Là ở cửa hàng Tôn Đản. Nghe nói cậu Vỹ có cô người yêu là Khiêm…
- Thôi đúng rồi - ông Hiệu như hiểu ra - Trong lúc sốt cao mê
sảng, Vỹ toàn nhắc đến tên Khiêm.
- Phải báo ngay cho cô Khiêm - Tới vỗ hai tay vào nhau, bắt
chước điệu bộ ông Tổng thư ký Hội Nhà văn - Anh Văn Quyền biết rất rõ cô này.
Ông đến nhờ anh Quyền tìm giúp Khiêm cho tôi.
Là có mặt tại bệnh viện ngay sau hôm Vỹ từ phòng cấp cứu chuyển
sang khu điều trị. Từ hôm nghe chồng kể về vụ xô xát giữa hai anh em ở cơ quan,
Lợi giận quyết từ mặt em, chị Là càng thương Vỹ. Chị đưa cả cậu con trai Chiến
Thống Nhất đến thăm, cùng với cân ruốc thịt và một bọc nặng đường sữa, hoa quả.
- Đường sữa là của anh gửi cho chú - Chị Là nói đầy về ngượng
ngùng, vì đó là câu nói dối, khác với bản tính thật thà của chị. Hai mẹ con
không dám nói với Lợi về chuyện vào thăm Vỹ ở bệnh viện - Còn cân ruốc này tôi
làm từ thịt thăn mua ở tem phiếu của ông cán bộ tập kết. Ông ấy tặng tôi, tôi lại
biếu chú… Tội nghiệp lắm. Lại viết tặng tôi mấy bài thơ nữa, chú ạ. Anh ấy bảo,
đang chuẩn bị về Nam. Trong ấy chúng nó giết đồng bào mình nhiều lắm. Quê hương
đang vẫy gọi. Anh ấy đã viết đơn tình nguyện gửi lên Uỷ ban Thống Nhất rồi… Hồi
này gặp tôi, Anh ấy có vẻ buồn. Nghĩ cũng thương…
Vỹ đã dứt cơn sốt sau khi bệnh viện phát hiện viêm phế quản cấp,
tiêm dồn dập kháng sinh liều cao. Vẻ mệt mỏi của anh phần nào đã tan đi nhờ sự
có mặt của thằng cháu Chiến Thống Nhất. Anh nắm chặt tay thằng bé và nhìn nó
chăm chú. Nhanh thật. Mới ngày nào, chị Là về Thủ đô với cái bụng lặc lè mà giờ
đã sắp đi học lớp một rồi. Nó giống mẹ hơn là bố, một gương mặt tròn đầy, măng
sữa rất đáng yêu.
- Chú ơi, thế cháu với chú có họ thật à? - Thằng bé thì thầm
vào tai Vỹ.
- Có chứ. Chú là em ruột bố cháu, tức là chú ruột của cháu.
Chú sẽ yêu cháu như con.
- Ứ ừ chú nói dối. Chú họ Nguyễn, còn cháu với bố họ Chiến cơ
mà…
Vỹ cười xoa đầu cu cậu.
- À, bố cháu đổi họ để đi làm cách mạng cho tiện. Tên gốc của
bố cháu là Nguyễn Kỳ Khôi. Cháu phải nhớ cái tên ấy nhé.
- Nhưng cháu thích bố cháu là Chiến Thắng Lợi. Bọn bạn ở lớp
bảo cháu thuộc họ nhà quan.
- Bảo các bạn đừng nói thế. Bây giờ không còn ai là quan với
dân nữa. Cháu với các bạn đều là con em công nông binh…
- Thế thì cháu là con nhà binh. Bố cháu có súng lục nhé.
- Đấy là khẩu súng gỗ thôi. Súng để doạ trẻ con.
- Súng thật mà - Thằng Nhất lại ghé sát tai Vỹ thì thào - Buổi
tối cháu mở mắt, thấy bố bắn, mẹ kêu thét lên.
Vỹ không dám cười vì câu chuyện ngây thơ của con trẻ.
Thằng bé làm Vỹ chú ý đến chỗ yết hầu thở khó nhọc và cái
dáng đang đẫy ra của bà chị dâu.
- Chú thấy tôi lạ lắm hả? - Là thoáng nhìn xuống bụng mình, e
thẹn - Tôi sẽ đẻ liền cho anh chú mấy đứa. Nhưng chỉ sợ cửa hàng Tôn Đản cho
nghỉ việc. Anh chú phải động viên tôi mãi đấy.
- Thế thì cu Nhất cũng phải tập bế em bé từ bây giờ - Vỹ cù
vào nách thằng bé, khiến cu cậu thích chí xoà vào lòng anh đùa lại.
- Thôi nào, Nhất, chú đang mệt, để chú nghỉ - Chị Là nhắc
con, rồi xếp đường sữa vào ngăn tủ, lặng lẽ để thêm ít tiền bên cạnh.
- Chị cầm tiền về đi - Vỹ cầm tiền trả lại - Mẹ con đến thăm
em là quí lắm rồi. Nói với anh, em gửi lời cảm ơn.
- Ơn huệ gì. Chú cứ cầm để bồi dưỡng. Anh em máu mủ, tay đứt
ruột xót. Anh bận việc lắm, chú phải hết sức thông cảm. Tôi đã báo về trong nhà
để bà và chú thím Cục ra thăm chú. Nghe nói từ hồi chú Cục đi tù về, vợ chồng
làm ăn tu chí lắm. Anh Lợi nhà tôi đã viết thư về xã, nói với địa phương cho vợ
chồng chú ấy vào hợp tác… Mà này, cô Khiêm đã đến chưa? Chú đã báo cho Khiêm biết
chưa? Khiêm chưa đến là lỗi ở chú. Chị em tôi vẫn gặp nhau luôn. Lần nào nhắc đến
chú, Khiêm cũng khóc. Tôi thấy không ai yêu chú như Khiêm đâu.
- Chắc Khiêm đang bận công việc - Vỹ lắc đầu mệt mỏi - Chị đừng
cho Khiêm biết. Em cũng sắp ra viện rồi.
- Sao lại thế? Cô chú yêu nhau kiểu gì tôi không hiểu? - Chị
Là nói sẵng, dắt tay con đứng dậy - Tôi phải đi tìm cô Khiêm ngay bây giờ.
Chị Là xăng xái dắt con đến nhà may Phúc Hoà.
Bà Ba Yên tiếp chị với vẻ mặt buồn rầu.
- Lâu lắm rồi không thấy anh Vỹ đến chơi. Không biết quan hệ
giữa hai đứa thế nào. Tôi hỏi, cháu nó chỉ khóc mà không nói…
- Có trục trặc đấy bác ạ. Thời buổi bây giờ người hun vào thì
ít, kẻ ngãng ra thì nhiều… Ngay cả nhà cháu cũng không muốn tác thành cho cô
chú ấy đâu. Anh ấy sợ hai bên đều lý lịch nặng nề quá, sau này con cái nó khổ.
Nhưng ý cháu lại khác. Cháu phải vun vào cho cô chú lấy nhau bằng được. Cô
Khiêm hợp tính cháu lắm. Trai tài gái sắc, không kết với nhau thì phí…
- Tôi cũng muốn thế. Nhưng xem ra con Khiêm nhà tôi đang đứng
giữa ngã ba đường. Có nhiều người săn đón…
- Ai hả bác? Cô Khiêm đã nhận lời với ai?
- Vừa có anh bộ đội nào đấy đến rủ đi. Nói là đi xin học.
Nhưng tôi đoán không phải thế. Anh này gần đây thường săn đón con Khiêm nhà
tôi.
- Bác có biết tên anh ta không? Người như thế nào?
Bà Ba Yên lục trong trí nhớ rồi mô tả lại với Là.
- Có khi lại là một anh chàng Sở… gì ấy rồi. Bác nhắc Khiêm
là không được đi đêm đấy nhé. Báo Khiêm đợi cháu. Tối cháu lại đến. Có chuyện
quan trọng lắm…
Khiêm đi với ai? Câu hôi xoáy trong đầu Là. Chị ghen như
chính mình đang bị phản bội.
Là không hề biết rằng, anh chàng săn đón Khiêm chính là Văn
Quyền, người hằng ngày vẫn thường thập thò đến báo cáo thưa gửi với thủ trưởng
Chiến Thắng Lợi.
Đích thân ông Hiệu đã đến gặp Quyền, chuyển lời đề nghị của
giám đốc Nhà xuất bản Bình Dân nhờ tìm Khiêm đến bệnh viện chăm sóc cho Vỹ. Quyền
hứa với ông Hiệu, sẽ tìm và báo tin cho Khiêm. Nhưng cái mục đích khởi đầu và đầy
tính nhân đạo ấy, bị Quyền ỉm đi ngay khi anh rủ được Khiêm đến gặp ông chú họ
làm hiệu trưởng trường thương nghiệp.
Dọc đường đi, Văn Quyền lại diễn lại câu chuyện về cô đào Diễm
My đang sống già nhân ngãi non vợ chồng với Vỹ:
- Anh em đoàn văn công họ phản đối ghê lắm. Thiếu gì chỗ mà cậu
Vỹ và cô Diễm My ăn ngủ với nhau ngay cả trong khu chứa phông màn. Buồn cười lắm
nhớ. Có bao nhiêu thơ thẩn, anh chàng tuôn ra hết. Viết cả vào giấy đi vệ sinh
để tặng cô nàng. Anh em người ta nhặt được, gửi đến chỗ anh…
- Xin anh đừng nói những chuyện này… - Khiêm như muốn nôn.
Nàng phải dừng xe bên đường trấn tĩnh lại.
Tưởng như một dấu hiệu, Văn Quyền vội dừng xe lại, đỡ Khiêm
ngồi dựa vào gốc cây.
- Anh chỉ muốn thông báo lại để em cân nhắc… Đấy là mới nói về
mặt đạo đức, nhân cách. Còn về quan điểm chính trị thì ghê gớm lắm. Bọn anh đã
có đủ hồ sơ về Vỹ do bên an ninh cung cấp. Nếu không sớm gọi Vỹ về nước, cậu ta
sẽ là một trung tâm gây rối ở hải ngoại. Hiện đã có đầy đủ bằng chứng để quy tội
Vỹ đồng loã với bọn Nhân văn Giai phẩm. Nhưng đấy chỉ là chuyện vặt, chuyện
theo đóm ăn tàn. Vấn đề nguy hiểm hơn là Vỹ đang có chân trong tổ chức Xét lại,
do nhóm thân Liên Xô cầm đầu. Đây sẽ là một vụ án chính trị lớn, chứ không đơn
thuần là văn nghệ. Về bọn Nhân văn Giai phẩm, sắp tới sẽ xử nhóm cầm đầu gồm
năm tên nguy hiểm nhất để trừng trị và răn đe. Cấp trên đã cân nhắc trường hợp
Vỹ, cho đáo công chuộc tội. Cụ thể là sau đợt chỉnh huấn toàn giới văn nghệ sĩ
sắp tới, sẽ cho Vỹ đi lao động cải tạo dài ngày. Tương lai chàng thi sĩ của em
mờ mịt lắm…
Quyền nói thao thao. Nhưng Khiêm càng như vô cảm. Nàng lảo đảo
vịn vào gốc cây đứng dậy. Nhanh như một con báo, Quyền luồn cánh tay, kéo Khiêm
vào lòng. Hơi thở anh gấp gáp, phả làn hơi sặc mùi hành tỏi vào mặt Khiêm.
- Khiêm… anh…
- Anh đừng làm thế… - Khiêm gạt mạnh tay, đứng vụt dậy khiến
Quyền ngã bệt xuống vệ cỏ.
Để mặc anh chàng lồm cồm bò dậy, Khiêm nháy lên xe, đạp như
có ma đuổi.
Cho tới khi gặp chị Là đứng đợi ở đầu phố, chưa kịp hoàn hồn,
thì lại nghe tin về Vỹ. Khiêm bủn rủn khắp người, tưởng như đất sắp sập dưới
chân mình.
Khiêm lao đến bệnh viện. Một cuộc chạy marathon tới đích tình
yêu đúng với cả nghĩa đen và nghĩa bóng của nó.
Hoá ra lâu nay Khiêm vẫn sống giả vờ.
Cả Vỹ cũng sống giả vờ.
Tình yêu thật kỳ lạ. Nó như một cuộc chơi trốn tìm bất tận mà
kẻ này thừa biết kẻ kia đang nấp ở đâu, nhưng cứ vờ như đang mò kim đáy biển.
Cuộc chơi càng kéo dài, càng nhiều tình huống éo le, nhiều pha gay cấn thì độ hứng
thú và đam mê càng tăng lên gấp bội. Cho đến lúc tưởng chừng vô vọng thì họ bỗng
oà vào nhau, ôm xiết lấy nhau, tràn ngập niềm hạnh phúc thơ ngây và trong trẻo.
Khiêm và Vỹ cũng kết thúc cuộc trốn tìm như thế. Khiêm oà vào
lòng Vỹ khi anh đang ngồi buồn bã trên chiếc ghế đá ở một góc khuất sân bệnh viện
trong buổi hoàng hôn nhập nhoà.
- Em ghét anh lắm. Anh bỏ mặc em bao nhiêu đêm, bao nhiêu
ngày…
Thay cho hết thảy mọi lời phân trần, xin lỗi, Vỹ áp cả gương
mặt râu ria lởm chởm vào ngực Khiêm và khóc nấc lên như đứa trẻ oan uổng và tội
nghiệp.
Đám cưới của Vỹ và Khiêm được tổ chức sau đợt toàn giới văn
nghệ sĩ đi thâm nhập thực tế dài ngày. Một đám cưới đời sống mới, với phương
châm tiết kiệm, giản dị tới mức gần như một cuộc cưới chui.
Người có công đầu, vừa là ông bầu, người môi giới, nhà tổ chức,
vừa là nhà tài trợ chính, là nhà văn Đà Giang. Sau đợt thâm nhập thực tế ba
tháng ở mỏ than Hà Lầm, Đà Giang trúng một quả lớn: Anh vừa viết, vừa trực tiếp
dàn dựng cho công nhân vùng than vở kịch nói "Lửa trong lòng đất" đoạt
giải nhất Hội diễn Quần chúng Toàn quốc. Nhuận bút và giải thưởng là một chiếc
Mobilet cá xanh đập hộp trị giá bằng cả một năm lương cán sự bốn của anh. Nhận
giải thưởng từ ban tổ chức, Đà Giang giong ngay con chiến mã về căn phòng chín
mét vuông của Vỹ ở khu tập thể Nhà xuất bản Bình Dân.
Không biết đi xe, Đà Giang vừa dắt vừa đẩy, mồ hôi nhễ nhại,
khiến bao nhiêu con mắt trên đường phố cứ tưởng nhầm anh là một tên đạo chích.
- Tao hỏi lại mày lần cuối cùng - Dựng chiếc xe láng bóng trước
cửa phòng Vỹ, không đợi hàn huyên gì, Đà Giang đã sồn sồn hỏi bạn - Quan hệ giữa
mày và Khiêm bây giờ thế nào? Hai đứa có định lấy nhau không?
- Sao? Cậu định mang cái giải nhất văn chương này để đánh đổi
à?
- Không có đùa. Tao hỏi thật. Mày với Khiêm có còn yêu nhau nữa
hay thôi?
Thấy nét mặt bạn rất nghiêm trang, Vỹ đành thú nhận:
- Tao với nàng làm lành với nhau rồi.
- Thế thì cưới - Đà Giang chỉ tay vào chiếc Mobilét - Tao sẽ
bán chiếc xe này để tổ chức cưới cho hai đứa. Lấy vợ phải cưới liền tay. Chưa
thay áo được cho ông cụ, cũng đành xin tạ tội với thầy. Mày mà còn chần chừ, khối
kẻ sẽ nẫng tay trên. Đừng để cho nàng thấy mày là một thằng lần khân, nhu nhược…
Tưởng đùa cho vui, nào ngờ ngay chiều hôm ấy Đà Giang giắt xe
ra chợ Giời bán thật. Bọn cò xe chê bủng chê beo, bảo là xe cũ đã mông má lại,
chỉ chịu trả giá bằng hai chiếc xe đạp Thống Nhất, tức là hơn năm trăm đồng. Đà
Giang tặc lưỡi. Xong béng. Lộc bất tận hưởng. Mình viết có ba đêm xong vớ kịch.
Cũng phải chia chác cho bọn buôn xe chút đỉnh. Có tiền, Đà Giang liền triệu tập
mấy thằng bạn văn chương đến, bàn cách tổ chức đám cưới. Việc đầu tiên là anh rủ
Du San và Hàn Thâm Nho ốp bằng được Vỹ về làng Động đón bà Cử Phúc cùng một ông
chú họ mang trầu cau đến thưa chuyện với bà Ba Yên xin cưới Khiêm cho Vỹ.
Bà Ba Yên ký cả hai tay. Tưởng người Hà Nội, lại dòng dõi
danh giá, từng có máu mặt đất Hà Thành thì phải cầu kỳ, nhiêu khê, nào ngờ bà
Ba Yên còn thông thoáng, lập trường hơn khối người cách mạng. Bà bảo:
- Tôi biết anh Vỹ, bộ đội kháng chiến, lại là văn nghệ sĩ, vô
sản chẳng có gì. Mọi phí tồn, tôi lo hết. Chỉ có điều thời buổi này, bày vẽ ra,
tổ chức người ta sẽ phê bình anh Vỹ, mà thiên hạ cũng chẳng ai khen. Cứ giản dị
đời sống mới thôi…
Cho mãi tới sau này, mỗi khi nghĩ đến đám cưới ấy, Vỹ lại có
cảm giác như mình là một tên vô lại, một kẻ biển lận, nỡ tâm đánh cắp cuộc đời
con gái của Khiêm. Không có complê, áo dài. Chú rể mặc bộ quân phục màu cỏ úa,
chính là bộ quân phục Vỹ từng mặc ngày tiếp quản Hà Nội, ngày gặp Khiêm đầu
tiên. Cô dâu, mặc dù có tới một tá áo dài đủ màu sắc, những cánh áo thướt tha
thời thiếu nữ, mỗi lần Khiêm mặc lại hút hồn biết bao chàng trai trên đường,
nhưng ngày cưới, để tương xứng với bộ quân phục của chàng rể, nàng đành vận chiếc
sơ mi trắng, mặc quần láng đen giản dị như bao cô dâu khác. Không có đến một
đám rước dâu, dù là một đám rước dâu cưới chạy vào giữa nửa đêm như đám cưới của
Cục và Bính ngày nào. Có lẽ do tâm trạng hoảng sợ của toàn giới văn nghệ sĩ sau
đợt chỉnh huấn căng thẳng, do cảnh ngộ một kẻ bất đắc chí của mình mà Vỹ không
muốn bày biện một đám cưới rùm beng? Có lẽ do tâm trạng bà Ba Yên chỉ muốn con
gái có một tấm chồng hợp pháp và không muốn phô phang trong hoàn cảnh lý lịch
gia đình bà đang đè nặng lên số phận từng người? Có lẽ do cả thái độ không ủng
hộ của anh cả Chiến Thắng Lợi? Tất cả những cơn cớ ấy, đã khiến Khiêm và Vỹ
cùng đám bạn bè văn nghệ Đà Giang, Du San, Hàn Thâm Nho, Trần Biện… đồng tình
ngay với đề xuất của Tiến Tới, giám đốc Nhà xuất bản Bình Dân, là cơ quan sẽ đứng
ra tổ chức một đám cưới sống mới mẫu mực, tức là mời hai họ nhà trai nhà gái,
cùng bạn bè cô dâu chú rể và quan khách đến hội trường ăn kẹo, hút thuốc lá, uống
nước trà, hát dăm ba bài cây nhà lá vườn để công nhận cuộc hôn nhân của họ.
Sau đám cưới, bà Ba Yên nhường căn phòng trên gác hai nhà may
Phúc Hoà cho vợ chồng Vỹ.
Tuần trăng mật của cặp vợ chồng trẻ như lạc giữa thiên đường.
Lần đầu tiên Vỹ được sống trong một căn phòng sang trọng, có tiện nghi, giữa
lòng Hà Nội. Từ nay anh mãi mãi có Khiêm. Những ngày ấy, huyền vi sao, cả Hà Nội
mưa dầm. Nằm trùm chăn ôm nhau, không một mảnh vải trên người, hai đứa như hoà
vào nhau, tan vào nhau, rồi lại song song bên nhau, lặng im nghe tiếng mưa rì rầm
trên mái ngói, nghe tiếng gió lao xao trên tán bàng đầu nhà. Không cần biết
đang ngày hay đêm, đang trưa hay chiều. Cả tuần lễ liền đôi uyên ương ở lỳ
trong phòng, đến bữa ăn, bà Ba Yên gọi ời ời không chịu dậy. Khiêm biết con gái
thế là hư. Nhưng nàng cũng biết rằng mẹ rất vui khi lần đầu trong đời con gái
dám làm nũng mẹ…
Cuối tuần trăng mật, Đà Giang bỗng xuất hiện với bộ mặt hơn hớn,
tay huơ cao tờ tạp chí:
- Kẻ cưới chui đã được trắng án. Toà đại hình tuyên bố khoan
hồng.
Cuống cuồng, Khiêm lẻn vào ngách buồng chải lại mớ tóc.
Còn Vỹ vội vàng đến mức, cài nhầm khuy áo.
- Có chuyện gì mà dân Sơn Nam rùm beng lên thế? - Vỹ nói khi
vừa nhìn thấy nụ cười rộng hoác trên gương mặt đen trũi của bạn.
- Trời ơi, gã này từ khi cưới vợ đâm lú lẫn chẳng hiểu sự đời
là gì sất. Tôi phải kiện hoa hậu Đào Trinh Khiêm đã dùng mỹ nhân kế để làm ngu
đần một thi sĩ tài danh. Hơ hơ, cả nước đang rùm beng lên về bài bút ký "Sau
luỹ tre làng" của một phần tử chống đối cách mạng đã cải tà quy chính, mà
vợ chồng nhà này vẫn bình chân như vại… Đây này, tạp chí Văn Chương hẳn
hoi nhé. Cậu mợ đọc đi.
Không khí hoạt náo của Đà Giang làm cả Khiêm và Vỹ đều cười
như nắc nẻ. Gương mặt Khiêm rạng ngời với mềm hạnh phúc tràn ngập khi nàng nhìn
thấy cái tên Nguyễn Kỳ Vỹ và bài bút ký của chồng in trang trọng ngay trên
trang đầu của tờ tạp chí.
Cuộc thâm nhập thực tế của toàn giới văn nghệ sĩ không khác
gì một đại chiến dịch trên mặt trận văn hoá tư tưởng.
Đây là một cuộc đại chỉnh huấn, tẩy rửa tận gốc chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng tư sản, khuynh hướng xét lại, một cuộc nhào nặn lại đầu óc vô sản,
lập trường giai cấp, ý chí tiến công cách mạng.
Hàng loạt các tác phẩm xuất sắc, ví như vở kịch "Lửa
trong lòng đất" của Đà Giang, và nhiều truyện ngắn, bút ký và thơ của
nhiều nhà văn nhà thơ đã được hoàn thành trong đợt đi thực tế sản xuất chiến đấu
cùng công nông binh này.
Riêng Vỹ, sau ba tháng ăn ở, làm việc tại một hợp tác xã nông
nghiệp vừa hình thành ở Phủ Cừ, Hưng Yên, anh đã viết một bài ký có tên là
"Sau luỹ tre làng". Bài viết, hoàn toàn Vỹ không có ý định in báo, chỉ
như một thu hoạch cá nhân, kể lại những ngày cùng ăn cùng ở, cùng làm việc với
những người nông dân hiền lành chất phác, sự đồng cảm với thân phận của họ, sự
sám hối của kẻ sỹ trước những giọt mồ hôi và bát cơm kết tinh bao nhọc nhằn, khốn
khó… Bài viết có tính chất thu hoạch này, không biết vô tình hay hữu ý, đã đến
tay các cấp lãnh đạo. Đích thân đồng chí Tư Vuông đọc bản thu hoạch cá nhân của
Vỹ. Hiếm khi ông đọc một văn bản nào lâu và nhiều lần như vậy. Thận trọng và
khách quan hơn, ông cho gọi Chiến Thắng Lợi đến phòng làm việc và bảo:
- Mình không ngờ cậu Vỹ lại viết được một bài như thế này. Vừa
sâu sắc vừa rất có lập trường giai cấp. Có thực tế sinh động của một bút ký, lại
có hơi hướng của một truyện ngắn. Ông đọc rồi cho mình biết chính kiến, hỉ?
- Dạ, em đã đọc. Các anh trong Ban muốn kính chuyển lên anh để
anh cho ý kiến chỉ đạo…
Đồng chí Tư Vuông nheo mắt nhìn Lợi, cười khẩy:
- Các ông khôn lắm. Đá quả bóng lên để cột trách nhiệm cho
mình… Mình nói thế này để ông yên tâm nhé. Thằng em ông nó bắt đầu biết sợ rồi
đấy. Đọc hắn là biết ngay. Đợt thực tế vừa rồi là một cuộc thử vàng thau. Nhân
văn thật giả nhận ra ngay. Mao Chủ tịch nói: "Kẻ nào không đi với ta là kẻ
thù của ta". Nguyễn Kỳ Vỹ vẫn đi với ta. Hắn vấp ngã thì ta nâng đỡ. Người
cộng sản chân chính không được phép thù vặt. Vỹ lại là đứa có tài. Một tướng
tài có giá bằng hàng ngàn tinh binh. Dùng Vỹ tức là một cách khoá mồm bọn Nhân
văn lại.
- Dạ, anh quả là Mạnh Thường Quân của giới văn nghệ.
- Ông lại nịnh mình rồi. Mạnh Thường Quân thì phải có tiền,
phải bao cấp được văn nghệ sĩ. Mình chỉ có cái đầu và tư tưởng chỉ đạo. Cách mạng
phân công thì mình phải làm hết sức thôi…
Đồng chí Tư Vuông phẩy tay rồi thuận đà cầm bút, săm soi lại
từng dấu phẩy, thận trọng cắt đi hai dòng, bỏ một dấu hỏi, rồi bút phê bên lề
bài viết "Sau luỹ tre làng": "Gửi tạp chí VC. Bài
này ưu tiên in trong mục "Thu hoạch nhà văn sau đợt thâm nhập thực tế".
Có shapeau của toà soạn. Nhớ in tên tác giả Nguyễn Kỳ Vỹ. TV".
- Bài này in sẽ rất có ý nghĩa. Ông nói thư ký cho chuyển đến
tạp chí Văn Chương ngay.
Tay Lợi run run cầm bài viết có bút phê của thượng cấp. Anh
lướt đọc, rồi ngập ngừng:
- Dạ, ý anh là từ nay chú Vỹ lại được ký tên ở những tác phẩm
xuất bán?
Đồng chí Tư Vuông nheo mày, rồi chặt tay xuống bàn:
- Chỉ ký tên riêng bài này thôi. Vẫn phải thử thách tiếp. Nhắc
các báo chí và các nhà xuất bản khi dùng các tác phẩm của Vỹ vẫn phải có ý kiến
của mình. Đời hắn còn dài. Phải mài cho hắn tròn như hòn bi ve, hỉ?
Vậy là sau gần hai năm vắng bóng trên văn đàn, nhờ đồng chí
Tư Vuông, tên tuổi Nguyễn Kỳ Vỹ lại i được xuất hiện trang trọng trên tạp
chí Văn Chương.
Chú thích:
(1) Đời khổ như chó (tiếng Pháp)
Chương 11
Đinh cao muôn trượng
Con gái đầu lòng của Vỹ và Khiêm được đầy năm thì Hà Nội và
các thành phố lớn trên miền Bắc bắt đầu vào chiến dịch cải tạo tư sản, tiến
hành công tư hợp doanh và thành lập các tổ hợp, hợp tác xã thủ công, dịch vụ.
Rút kinh nghiệm cuộc cải cách của nông dân, lần này các nhà tư sản dân tộc, các
tiểu chủ, tiểu thương không bị đấu tố nhiều. Phương pháp tự khai báo của cải,
tài sản, nhân công bóc lột, cộng với sự tố giác của quần chúng, sự nắm chắc địa
bàn của từng cán bộ tổ, phường, cán bộ tài chính, thuế vụ và ban cải tạo… xem
ra rất có hiệu quả.
Nếu ví cuộc cải cách ruộng đất là quả đấm thép, thì cuộc cải
tạo tư sản bây giờ là một quả đấm nhung. Có lẽ vì các nhà tư sản dân tộc Việt
Nam, hầu hết đều xuất thân từ nông thôn, có dây mơ rễ má với nông dân, nhiều
người là con cháu của địa chủ cường hào, nên quả đấm thép vừa rồi họ tuy không
bị đấm mà đau nhừ tử, kinh hồn táng đởm đến già. Thế là họ như cua gặp ếch, như
gián bị thuốc xịt, len lén, nơm nớp, chưa ho đã vãi đái, chưa kháo đã
xưnh". Nhiều người yếu bóng vía, sợ không chịu được đấu tố, giam cầm vội tẩu
tán tài sản, bán đổ bán tháo lấy ít vốn giắt lưng rồi tìm đường về quê chờ thời,
hoặc dắt bầu đoàn thê tử lên những tỉnh miền ngược.
Thảng hoặc có người quẫn trí do cửa nhà lục đục vì chia bôi
tài sản, hoặc do ngầm tiếc số của cải khổng lồ cả đời tích cóp không tự chủ được,
đã uống thuốc chuột tự tử. Ấy là nói trường hợp cá biệt. Chứ đa phần, giới tư sản
rất đáng. biểu dương. Noi gương các nhà tư sản lớn như Trịnh Văn Bô, Đỗ Đình
Thiện, Nguyễn Sơn Hà… dốc hết của nả hầu bao hàng nghìn cây vàng cho cách mạng,
hàng loạt các nhà tư sản như Cự Doanh, Cự Phát, Cự Lộc, Minh Đức, Vạn Nhất…
cũng tự nguyện hiến tặng một phần tài sản, xung phong vào công tư hợp doanh…
Bà Phan Thị Hà Yên, chủ nhiệm trường tư thục Đất Việt, cùng
anh trai là ông hiệu trưởng Phan Quyến, đều bị xếp vào diện tư sản dân tộc, bị
tập trung học tập một tháng ròng. Nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước, cùng
với sự giác ngộ, tình nguyện hiến cho nhà nước toàn bộ ngôi trường và một số cửa
hàng, nhà cửa, cả hai anh em đều không phải đi cải tạo tập trung mà còn được biểu
dương như những nhà tư sản tiến bộ, có thái độ hợp tác tốt với chính quyền.
Để trù tính cho con gái và con rể có một chỗ ở tươm tất, độc
lập với mẹ và em trai, trước khi khai báo tài sản giao nộp nhà nước, bà Ba Yên
đã khôn khéo giấu đi một ngôi nhà. Ấy là căn hộ hai tầng ở giữa phố Huế, trước
kia vốn là kho chứa vải vóc của nhà ông Ký Lạng. Năm 1954, trước khi di cư vào
Nam, ông Ký Lạng đã làm văn tự để lại cho bà Ba Yên sau này cho cô con gái Đào
Trinh Khiêm làm của hồi môn. Bà Ba Yên, vì quá thương người, thấy hoàn cảnh vợ
chồng ông Thước, người bà con xa cùng quê, sau hoà bình tản cư về không có tiền
thuê nhà, ở tạm cho đến khi nào Khiêm lấy chồng. Vợ chồng và sáu đứa con ông
Thước ở tầng hai, gian dưới rộng chừng bốn mươi mét vuông, ngăn phía trong làm
bếp phía ngoài vợ bán hàng xén, chồng mở hiệu cắt tóc.
Nguyệt là con gái lớn của ông Thước, được anh cán bộ phụ
trách thuế vụ trong địa bàn tên là Sành xin cho làm thủ quỹ Nhà xuất bản Bình
Dân. Nghe tin rục rịch phải vào công tư hợp doanh, bố mẹ Nguyệt đã thuyết phục
cô lấy Sành, để gia đình dễ bề nhờ cậy. Sành sinh ở nông thôn nhưng gốc gác ở
đâu không rõ, nạn đói năm 1945 bố mẹ chết hết, một mình lang bạt lên Hà Nội,
khi ở đợ, khi làm thuê, rồi kết nhóm bạn bè bốc vác ở chợ Mơ. Không biết bằng
cách nào, sau hoà bình, Sành có giấy chứng nhận từng tham gia quân báo nội
thành rồi hoạt động bí mật vùng địch hậu. Với lý lịch ấy, Sành thuộc diện cốt
cán, được tin dùng ngay. Nghe tin rục rịch bà Ba Yên muốn lấy lại căn nhà cho vợ
chồng Khiêm ở, Sành liền bàn với ông Thước một mặt tìm cách hợp thức hoá ngôi
nhà phố Huế, một mặt rủ thêm hai người thợ cắt tóc lang thang ngoài vỉa hè, cho
họ kê nhờ ghế, rồi viết đơn xin thành lập hợp tác xã cắt tóc treo biển hiệu
"Tổ hợp cắt tóc Cờ Đỏ" đàng hoàng.
Bà Bá Yên mang giấy tờ đến nhà ông Thước để dàn xếp việc đòi
nhà cho vợ chồng Khiêm nhiều lần. Ông bà Thước vốn người hiền. lành, thật thà,
không nỡ trở mặt, chỉ khất lần:
- Xin bà cứ thư thư để vợ chồng tôi thu xếp. Bà mà đuổi bây
giờ, vợ chồng con cái, kể cả hai vợ chồng cháu Sành, Nguyệt là chín nhân khẩu
không biết ở vào đâu. Hay là bà làm giấy tờ cho chúng tôi thuê tiếp. Giá cả thế
nào, bà cứ nói, chúng tôi xin thu xếp hàng tháng trả đủ.
- Nếu thừa chỗ ở thì tôi đã không đòi - Bà Ba Yên nghẹo đầu,
nói như người đi ăn xin - Trường học, cửa hàng chúng tôi đã giao nộp nhà nước hết
cả. Chỉ còn nhà may Phúc Hoà. Giờ vợ chồng con cháu Khiêm cần có chỗ ở riêng…
Ông bà với các cháu cứ đi thuê chỗ khác. Tôi sẽ phụ giúp ông bà một số tiền
công thuê nhà những tháng đầu…
Chịu mất tiền để người ta trả nhà cho mình, mà rồi cũng không
xong. Cho đến khi biển hiệu "Tổ hợp cắt tóc Cờ Đỏ" treo
lên, thì ý định đòi nhà của bà Ba Yên hoàn toàn bị dập tắt.
Chính Sành, anh con rể quý hoá của ông bà Thước đã hoàn thành
nốt phần kịch bản viết dở.
- Bố mẹ vợ tôi lâu nay không hiểu pháp luật, nên chưa giải
đáp cho bà cặn kẽ - Sành nói với bà Ba Yên - Thứ nhất là ngôi nhà này không phải
sở hữu của bà, mà của Ký Lạng. Thằng Ký Lạng theo Mỹ Diệm vào Nam, đang gây bao
nhiêu tội ác chúng tôi chưa muốn nói đến. Theo pháp luật, mọi tài sản của các
phần tử di cư vào Nam, đều thuộc về nhân dân. Bố mẹ vợ tôi đã tiếp quản ngôi
nhà này từ hoà bình lập lại, bây giờ đã được chính quyền cách mạng công nhận
quyền sở hữu. Thứ hai, bà có nhìn thấy tấm biển treo ngoài kia không? Có thấy
những xã viên hợp tác xã cắt tóc đang phục vụ nhân dân không? Đó là bằng chứng
cho thấy gia đình tôi đã tích cực chấp hành đường lối cải tạo công thương nghiệp
tư bản tư doanh, tình nguyện tham gia làm ăn tập thể, hăng hái đi lên Chủ nghĩa
xã hội. Chỉ những kẻ bị bọn Mỹ Diệm giật dây mới dám xoá bỏ cái tổ hợp Cờ Đỏ
kia, tức là công khai chống phá công cuộc cải tạo tư sản và kiến thiết đất nước
hôm nay…
Bà Ba Yên lạnh toát khắp người, nhưng mồ hôi lại xâm xấp
trán.
- Xin anh đừng nói thế…
- Tôi nói tiếp - Sành chỉ tay - Thứ ba nữa, bà có biết anh
con rể bà là ai không? Một nhân vật của Nhân văn Giai phẩm kiêm Xét lại,
chưa bị trừng trị đấy, thưa bà. Cô Nguyệt vợ tôi cùng làm ở nhà xuất bản với
anh Vỹ, tôi còn lạ gì? Cho tới bây giờ nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ vẫn bị treo bút. Và
có thể là vĩnh viễn, nếu không thực sự ăn năn hối cải. Bà biết không, hằng ngày
vẫn có một đội quân theo dõi từng hành vi và những mối quan hệ của anh ta đấy.
Đi đâu? Làm gì? Tiếp xúc với ai? Đều có sổ đen ghi hết. Bây giờ chúng tôi có mời,
anh Vỹ với chị Khiêm cũng không dám đến ở ngôi nhà này. Ai cho phép? Ai dám
ngang nhiên tháo bỏ tấm biển kia? Chuyên chính vô sản là thiên la địa võng, những
kẻ phản bội dân tộc làm sao lọt lưới nổi…
Cái trò rung cây doạ khỉ của Sành đã khiến bà Ba Yên vãi cả
linh hồn. Nhưng Sành không dừng ở đó. Anh tiếp tục truy đuổi đến cùng. Sành viết
đơn gửi lên Ban cái tạo Công Thương tố cáo bà Ba Yên ngấm ngầm liên lạc với Ký
Lạng trong Nam, cố tình giấu giếm tài sản, không thành thật khai báo…
Đơn tố giác của Sành, tất nhiên có hiệu quả. Nhà may Phúc Hoà
tiếp tục bị trưng thu vào công ty hợp doanh. Gia đình bà Ba Vên, bao gồm cả vợ
chồng và con gái Khiêm Vỹ bị đẩy lên gác hai. Ba tháng sau, vì thấy quá vô lý
và nhẫn tâm, chính quyền phân thêm gian nhà xép trên tầng thượng trường tư thục
Đất Việt, nay mới được đổi tên là Trường cấp I Thiền Quang, để giãn bớt mật độ
nhân khẩu. Bà Ba Yên nhường lại căn gác hai nhà may Phúc Hoà, nay được đổi
thành Cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh số 5, cho cháu ngoại và vợ chồng Khiêm. Bà
và anh con trai Đào Phan Khánh cùng người cô già đến ở gian nhà xép của ngôi
trường cũ.
Cuộc cải tạo tư sản đã thành công rực rỡ. Hà Nội vẫn có nhiều
người nghèo, nhưng cũng không còn người giàu. Hàng vạn gia đình quá neo đơn, những
vô sản thành thị với đúng nghĩa đen của nó, lũ lượt theo xe lên miền ngược khai
hoang, xây dựng khu kinh tế mới. Cùng xung phong đi với họ là hàng ngàn trí thức
trẻ Thủ đô, những cô tú, cậu cử, những thầy cô giáo mới vào nghề nhưng chưa tìm
được việc làm.
Dân số Hà Nội ngày ấy chừng bốn mươi vạn người, càng trở nên
phong quang, trầm mặc bởi những mái ngói thâm nâu, bởi chỉ còn những gam màu chủ
đạo là màu xanh lam áo thợ, màu xanh rêu áo lính.
Cả Miền Bắc là một đại công trường xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản.
Công trình đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải nghiêng trời đổ nước, thau chua rửa mặn,
huy động hàng triệu lao động. Những điển hình gió Đại Phong, sóng Duyên Hải, cờ
Ba Nhất, trống Bắc Lý làm nức lòng người. Dẫu còn nghèo, còn gian khổ, nhưng
hình như không có sự cách biệt. Ai cũng khổ như nhau, hoặc gần bằng nhau, tự khắc
người ta sẽ nghĩ mình không khổ nữa. Sự ít cách biệt về vật chất lại được kiểm
soát phong toả chặt chẽ về tinh thần; rà xiết, khuôn phép về mặt trật tự, kỷ
cương; nên ít có cảnh bon chen, thớ lợ, sách nhiễu, cửa quyền, hối lộ, đĩ điếm,
chộp giật. Thói đạo đức giả chưa có đất nảy nớ. Bữa ăn ở nông thôn độn ngô,
khoai, thì ở thành thị cũng mười ba cân gạo hẩm độn ngô sắn. Nông thôn không
tem phiếu thực phẩm, nhưng lại nuôi được gà, vịt, kiếm được con cua, mớ tép.
Râu tôm nấu với ruột bầu. Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon. Bữa cơm gia đình
công nhân viên chức chỉ bìa đậu phụ, bát rau muống luộc dầm sấu, đĩa trứng
tráng mỏng tang với mấy quả cà, mà ai cũng xì xụp mãn nguyện.
Những năm đầu thập kỷ sáu mươi ấy, sau bao năm đói kém, binh
lửa, có được những ngày hoà bình hiếm hoi, quả là thiên đường. Nhà thơ lớn Tố Hữu
có câu thơ thần mở đầu thời kỳ này:
Chào sáu mốt đinh cao muôn trượng
Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại ngàn xưa trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu…
Cái gia đình nhỏ của vợ chồng Vỹ ngày ấy, cũng là một thiên
đường. Bé Trinh Mai thừa hưởng những nét duyên của mẹ, như đoá hoa nở sáng căn
nhà. Khiêm đã trở thành cô giáo cấp một, được dạy ngay tại ngôi trường của mẹ
ngày trước.
Còn Vỹ, ngoài việc sáng tác những bài diễn ca, truyện thơ cho
Nhà xuất bản Bình Dân ký tên giám đốc Tiến Tới, ngoài việc viết những bài báo với
bút danh Hữu Hiệu để lấy tiền cho vợ đi chợ, nuôi con, anh còn nhận thêm công
việc dịch sách cho các nhà xuất bán. Có tiểu thuyết dịch chung với nhóm văn học
Lê Quý Đôn, có những bài thơ của P. Valéry, Baudelaire, Puskin, Lécmôntốp… Có cả
những tài liệu triết học của Nietzche, Jean-Paul Sartre, Camuy… Dường như đã
quen với việc giấu mình đi, quên mình đi để ẩn dưới tên những người khác Vỹ viết
và dịch như một người thợ kim hoàn khéo tay quen chế tác những đồ trang sức
hàng chợ, như ông thợ mộc đóng những giường tủ bày bán ngoài cửa hiệu.
Chính thời kỳ này, Vỹ đã quen thân và trở thành đệ tử của nhà
triết học Trần Đức. Đây là một học giả lớn, từng du học nhiều năm ở Paris, được
cách mạng đưa về nước phụng sự kháng chiến. Giáo sư Trần bị quy kết cầm đầu
nhóm Nhân văn Giai phẩm, bị điều về bộ phận tu thư, suốt ngày dịch các tài
liệu do cấp trên yêu cầu. Gặp giáo sư Trần, Vỹ mới hiểu câu nói của
Nietzche: "Để sống một mình phải là một con vật hay một thánh thần.
Aristốt nói như vậy. Nhưng có trường hợp thứ ba nữa: Người ta phải vừa là thú vật
vừa là thần thánh, đó là triết gia". Vỹ thấy mình nhiều khi cũng có khả
năng sống đơn độc, như một triết gia. Có những đêm không ngủ, Vỹ len lén dém
màn cho vợ con, ra ngồi một mình trước bàn, đốt thuốc, trầm ngâm hàng giờ. Những
lúc ấy, Vỹ thấy mình bỗng thành một người khác, như bước hẳn ra khỏi cõi người.
Hoàn toàn đơn độc, cô quạnh. Hình ảnh một Nguyễn Kỳ Viên tan hoang, một
làng Động tiêu điều buồn tẻ, nghiêm ngặt như một trại lính, sớm chiều từng đoàn
người lam lũ đứng túm tụm hàng giờ trước cổng đồng đợi ông đội trưởng, cô thư
ký phân công công việc, rồi theo tiếng kẻng ra đồng, về nhà, uể oải, phờ phạc
như những cỗ máy vô hồn, để đổi lấy dăm ba điểm, tương đương vài lạng thóc…
luôn ẩn hiện trước mặt. Trong đoàn người ấy, Vỹ thấy u và cái Hậu đang lom khom
trên đồng, tìm mót những củ khoai giun phớt hồng loăn xoăn bé như đầu ngón tay
từ những nhánh mầm xanh nhợt còn sót từ tháng trước. Có lúc u lội xuống cánh đồng
đã gặt, nước ngập ngang ngực, dùng liềm vớt những bông lúa non loi thoi trổ cuối
mùa. Rồi Vỹ bỗng nhìn thấy thầy mặc quần áo trắng vật vờ giữa bãi tha ma. Thầy
lộn cây chuối, cào lên những mớ rau má, rau khúc đưa cho u và cái Hậu "thứ
này vừa là lương thực vừa là thuốc nam thần diệu, xưa từng nuôi Bá Di, Thúc Tề
trốn nhà Chu vào núi". Thầy nói vậy và cười như khóc… Rồi thầy bỗng khóc
thật, khóc hu hu khi chợt nhìn thấy thằng Vọng, trong bộ binh phục ác ôn rằn ri
Mỹ Diệm đang xả súng bắn vào những tù nhân nhà lao Phú Lợi…
Nước ướt đầm hai hốc mắt Vỹ lúc nào. Vỹ vò những trang diễn
ca trên bàn vứt vào sọt rác, rồi cắm cúi chép vội những ý nghĩ vừa vụt hiện. Có
lẽ Vỹ phải viết tiểu thuyết. Chỉ có tiểu thuyết mới chứa đựng được tư tưởng của
nhà văn. Thơ không đủ sức dung nạp những mảng hiện thực bi tráng của đời sống.
Thơ là thứ vulnerable (nguy hiểm, bất an), như nhà thơ Hàn Thâm Nho bạn
anh từng nói.
Vỹ đâu hay rằng Khiêm nào có ngủ. Nàng nằm ôm con và lặng lẽ
nhìn chồng. Nàng cũng có nỗi đau giấu chồng từ mấy hôm nay.
Lặng lẽ đến bên Vỹ, vô tình nàng để rơi giọt nước mắt lớn
trên trang ghi chép viết dở.
- Kìa, sao em khóc? - Giật mình, Vỹ quay lại, choàng tay ôm
Khiêm ngồi xuống lòng mình.
- Em định không cho anh biết… Nhưng em không giấu nổi.
- Có chuyện gì thế em?
- Cậu Khánh bỏ nhà đi mấy hôm nay rồi. Mợ bảo với em hôm qua.
Nghe nói nó theo bạn lên nông trường Quan Chi…
- Sao lại có chuyện đó? Anh tưởng cậu Khánh đã vào làm ở đội
chiếu bóng Cầu Giấy rồi kia mà? Đồng chí trưởng phòng văn hoá huyện đã hứa với
anh…
- Đi làm được một tuần, tự nhiên cậu ấy bỏ việc. Mợ hỏi vì
sao, cậu ấy nói là không thích làm. Sáng sớm hôm thứ hai, mợ dậy, không thấy
Khánh. Cậu ấy mang hết quần áo, để lại cho mợ lá thư này. Đây, anh xem đi.
Thư Khánh viết nắn nót trên giấy vở học trò. Nét chữ chàng học
sinh lớp mười học giỏi nhất trường, đẹp như chữ viết bằng khen:
"Mợ kính yêu,
Công việc ở đội chiếu bóng rất hợp với
con và con rất thích.
Không phải con tự ý bỏ đội mà con bị họ sa thải. Một đơn
vị làm nhiệm vụ tư tưởng văn hoá, truyền bá đường lối, chủ trương chính
sách, đời nào lại chấp nhận một anh chàng gia đình tư sản, có bố và các
anh chị em đi Nam, phản bội quê hương xứ Bắc. Với lý lịch bất hào này, con sẽ
không thể tìm được việc làm ở Hà Nội, và rồi suốt đời cũng
không thể ngóc đầu lên được. Cha mẹ trót ăn mặn thì con phải chịu khát nước.
Đành xa Hà Nội, xa mợ và anh chị để đi chuộc lại tội
lỗi, gột rửa lý lịch gia đình. Con đã xác định, dù có phải lao động
khổ sai, cũng quyết lập thân, chứng tỏ một thanh niên có lý tưởng.
Mợ cùng anh chị và cháu đừng lo lắng gì cho con cả. Hãy giữ sức
khoẻ, mợ nhé. Mợ nhớ đừng xách nước lên tầng thượng. Buổi tối mợ chịu khó
xuống vòi nước của trường. Con đã nhờ Hạnh hằng ngày đến giúp mợ.
Đến nơi làm việc mới, con sẽ tin về cho mợ ngay.
Con trai của mợ.
Đào Phan Khánh"
- Cậu Khánh khá lắm - Vỹ đưa lại cho Khiêm lá thư, giọng tỏ
ra cứng cỏi, nhưng không giấu nổi tiếng thở dài - Đi như thế là phải. Một sự lựa
chọn khôn ngoan. Cuộc sống ở nông trường sẽ rèn giũa cậu ấy trưởng thành. Nếu
đúng Khánh ở nông trường Quan Chi thì tuần sau anh sẽ xin nghỉ phép, lên xem cậu
ấy ăn ở thế nào.
Chuyến Vỹ lên nông trường Quan Chi, có thêm Hạnh, người yêu của
Khánh. Hạnh là em gái Đức, bạn học cùng lớp với Khánh một cô gái hồn nhiên, đầy
cá tính. Ngay từ đầu năm học cấp ba, Hạnh đã thầm mê bạn của anh trai mình.
Táo bạo hơn, Hạnh còn chủ động tấn công Khánh trước. Có dịp
nào đi xem phim, xem kịch, Hạnh cũng bắt anh trai phải mua vé cho cả ba, và bao
giờ nàng cũng tranh ngồi giữa. Có lần, cả buổi, Hạnh chẳng thiết xem gì, thỉnh
thoảng lại quay nhìn Khánh như hút lấy anh. Rồi không biết từ lúc nào, bàn tay
Hạnh tìm nắm bàn tay Khánh. Khánh bàng hoàng, rồi hiểu ra. Họ đến với nhau từ đấy.
Yêu nhau rồi, Khánh mới biết Đức và Hạnh là con gái thượng tá
Võ Khang, một sĩ quan quân đội từng được quân Pháp gọi là hùm xám Khu Năm
trong thời kỳ kháng chiến chín năm.
- Chúng mình hãy coi nhau như bạn. Tình yêu sẽ chẳng dẫn đến
kết cục gì đâu - Khánh đã chủ động nói với Hạnh.
- Vì sao? Em không xứng đôi với anh ư?
- Vì bố Hạnh và bố mình đang ở hai đầu chiến tuyến đối nghịch.
Con một vị sĩ quan cao cấp đời nào chịu lấy con gia đình tư sản, có bố đi Nam.
- Mo phú hết. Em cấm Khánh không được nhắc đến chuyện
này nữa. Em là nữ hồng quân Marutxia trong phim "Người thứ bốn mốt" của
đạo diễn Grigôri Chukhơrai, còn anh là tên Bạch vệ mắt xanh đáng yêu thì đã
sao? - Hạnh bướng bỉnh và quyết liệt giành giật và bảo vệ tình yêu.
Lên thăm Khánh đợt này, Hạnh muốn báo cho anh một tin mừng:
Cô vừa có giấy báo đỗ vào Đại học Y khoa. Sáu năm nữa, Hạnh trở thành bác sĩ.
Ngày ấy, nếu Khánh vẫn muốn lập nghiệp ở nông trường, Hạnh sẽ tình nguyện lên sống
cùng anh. Với cô, Khánh là thủ đô của hạnh phúc và tình yêu.
Hai anh em lai nhau trên chiếc xe đạp Peugeot cũ. Nếu đi đường
ô tô thì phải mua vé từ bến xe Kim Mã lên Đại Từ, rồi đi bộ chừng hai chục cây
số. Muốn có một đôi vé xe khách thì phải xếp hàng từ nửa đêm. Có người đến từ
đêm trước, xếp lốt bằng một hòn gạch hoặc chiếc nón mê xí chỗ. Đã kỳ công và khổ
ải thế, mà nhiều khi đến lượt mình thì hết vé. Đành đợi đến mai hoặc mua lại của
con phe giá đắt gấp hai, ba lần.
Thế nên hai anh em đi xe đạp cho chủ động. Chỉ khổ thân Vỹ.
Người gầy lỏng khỏng, lai cô thiếu nữ béo lẳn nặng hơn năm chục ký, lên dốc đạp
méo mặt, nhưng tính sĩ diện không dám kêu ca gì. Chặng đường năm chục cây số, tịnh
không hàng quán. Hoà bình rồi mà vẫn chẳng khác gì ngày kháng chiến. Nghiêm cấm
các hàng ăn, rượu quốc lủi, các loại bánh trái, như bún, phở làm từ ngũ cốc. Nạn
thiếu lương thực khiến các nhà chức trách, nhất là các địa phương phải xin gạo
trợ cấp của trung ương, cấm đủ thứ. May mà đến bến phà Sông Công bỗng gặp một
quán hàng. Một bà cụ mà Vỹ cứ tưởng suốt những năm 1950 vẫn ngồi đây. Vẫn vài
gióng tre lợp lá cọ sơ sài ba thanh ghế dài, một cái chõng, trên để lọ kẹo vừng,
bịch thuốc lào, mấy cái bánh tẻ, đĩa trứng vịt luộc, giỏ nước chè xanh, ngay
phía trên, toòng teng vài nải chuối rừng.
- Bắt đầu từ đây là chúng ta đã lọt vào vùng ATK của cuộc
kháng chiến chín năm, có phải không cụ nhỉ? - Vỹ rít thuốc lào khoái trá, vừa
thả khói mù mịt, vừa nói với Hạnh và bà cụ hàng nước - Đám cưới nổi tiếng và
tai tiếng của đại tá Trần Dụ Châu, cục trưởng Cục Hậu cần, người sau đó bị Hồ
Chủ tịch ký sắc lệnh tử hình vì tội tham nhũng, được tiếp tế hàng hoá từ Hà Nội
lên cũng qua đường phà sông Công này. Lát nữa đến sát chân Tam Đảo, anh sẽ chỉ
cho em nơi Trần Dụ Châu tổ chức đám cưới hồi ấy…
Con đường lên nông trường Quan Chi gợi trong Vỹ nỗi nhớ cồn
cào hai năm cuối cùng của cuộc kháng chiến. Những vết xe trâu hằn sâu, uốn lượn
giữa những vạt đồi, khe suối. Qua phà sông Công, một con phà tự hành bằng dây
cáp buộc căng hai bờ, thuỷ thủ và hành khách cùng kéo bằng tay và móc sắt, đã
thấy thấp thoáng những mái nhà sàn, những nương chè lượn sóng. Dãy Tam Đảo chia
ranh giới hai tỉnh Vĩnh Yên, Thái Nguyên. Ngược đường phân thuỷ lên hướng tây bắc,
qua Đại Từ ở Đèo Khế, Đèo De là đến Sơn Dương, Định Hoá, thủ đô gió ngàn. Những
ngày làm báo Vệ quốc ngắn ngủi nhưng khắc những dấu ấn trong đời Vỹ,
không thể phai mờ. Đó là trường đại học vĩ đại và duy nhất của Vỹ. Hầu hết những
bài thơ trong tập "Thời của Thánh Thần", anh viết trong những
căn nhà sàn ven rừng, dưới chiến hào, giữa hai trận đánh. Bây giờ đọc lại, vẫn
thấy rưng rưng, vẫn một tình cảm chân thành và da diết.
Vỹ còn nhớ như in, lần đầu tiên trong đời anh đặt chân đến
cái xóm Chòi, dưới chân dãy Tam Đảo kia. Nơi ấy là đại bản doanh của các văn
nghệ sĩ với những tên tuổi lừng lẫy: Tố Hữu, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,
Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Kim Lân, Bùi Xuân
Phái, Văn Cao… đang và sẽ mãi mãi ngự trị nền văn nghệ cách mạng và kháng chiến.
Xóm Chòi cũng là nơi ở của đồng chí Tư Vuông, người anh lớn của giới văn nghệ.
Mặc dù đã có lá thư giới thiệu của anh Chiến Thắng Lợi, lại được đích thân đồng
chí Tư Vuông lệnh đến gặp, mà sao Vỹ vẫn run rẩy, lo sợ. Rất may là người Vỹ gặp
đầu tiên ở xóm Chòi lại là nhà văn Trần Nguyễn, người đã từng khoe với Chiến Thắng
Lợi bài thơ "Sống" trong chuyến đi vào vùng địch hậu năm
nào. Trần Nguyễn gặp Vỹ như bắt được vàng, cười ha hả rồi dắt Vỹ đi hết các lán
giới thiệu với từng nhà văn, nhà thơ, các nhạc sĩ và hoạ sĩ…
- Tác giả "Thời của Thánh Thần" đến thăm bọn ta các
ông ơi. Bỗng nhiên rồng đến nhà tôm, vĩ nhân đến với người trần, hớ hớ… - Trần
Nguyễn bỗ bã mà chân tình.
Ngay lập tức ông coi Vỹ như bạn vong niên, như kẻ bằng vai phải
lứa, làm tim Vỹ cứ rung thon thót. Vỹ rưng rưng như một kẻ cuồng tín đầy sùng
bái và ngưỡng vọng, như một con chiên trước các đấng thánh thần. Anh được bắt
tay từng nhà thơ, nhà văn, nhà danh hoạ lớn của đất nước. Bắt tay với tất cả sự
run rẩy của kẻ được ban phước lớn, mà không dám ngước nhìn vào mắt người đối diện.
Ấn tượng nhất là khi Vỹ được dẫn đến gặp đồng chí Tư Vuông.
Qua dãy lán dùng làm nơi ở và làm việc của cơ quan văn nghệ, theo con đường mòn
sạch sẽ chạy giữa vườn chè thì đến chiếc lán của người anh lớn.
- Vỹ đấy phải không? Trẻ quá, hỉ. Vào đây, mình đợi Vỹ từ
lâu!
Ngay những câu giao tiếp đầu tiên, đồng chí Tư Vuông đã xoá
đi những mặc cảm, ngăn cách giữa cấp trên và cấp dưới, khiến Vỹ bớt tự ti và dè
dặt.
- Dạ, báo cáo bác, cháu đến thăm bác…
- Thứ nhất là không có bác cháu ở đây - Đồng chí Tư Vuông giơ
hai bàn tay vỗ vỗ trước mặt - Hãy gọi tôi là đồng chí. Chúng ta cùng là đồng
chí. Thứ hai, đây không phải cuộc đến thăm mà là làm việc. Đồng chí có trách
nhiệm viết một bài báo phản ánh khí thế của những văn nghệ sĩ đang dồn sức phục
vụ kháng chiến, phục vụ những chiến dịch lớn, có tính quyết định của vận mệnh
dân tộc sắp tới…
Suốt cả buổi, Vỹ chỉ ngồi nghe đồng chí Tư Vuông nói. Nghe và
ghi chép không sót một chữ trong cuốn sổ tay mặt trận. Những tư liệu này, chỉ một
tuần sau đã xuất hiện trên báo Vệ quốc với cả một trang phóng sự đầy ấn
tượng: "Chở chữ vào chiến dịch".
- Công việc xong rồi. Bây giờ chúng mình là bạn bè văn
chương - Kết thúc buổi làm việc, đồng chí Tư Vuông bỗng đổi giọng. Ngay lúc ấy,
người cần vụ pha một ấm trà mới, và bưng ra một đĩa hồng ngâm vàng suộm - Trái
ngon Việt Bắc đó, Vỹ ăn đi.
Tự tay đồng chí Tư Vuông đưa cho Vỹ trái hồng to nhất, ngon
nhất. Rồi ông đi vào sau bức vách ngăn, cầm ra một cuốn sách.
- Mình vừa in tập thơ "Thủ đô gió ngàn", tặng
Vỹ đọc cho vui. Nếu có thời gian và thấy tiện thì góp ý cho mình…
Tim Vỹ như muốn ngừng đập. Anh lấy hơi thở gấp, tay run run lật
giở trang đầu. Không thể tin ở mắt mình. Những dòng chữ viết nghiêng, mềm mại
và nắn nót bằng thứ mực bút Parker xanh đậm:
Tặng Nhà thơ trẻ Nguyễn Kỳ Vỹ, người tri âm.
Việt Bắc, mùa Thu.
Ngô Sỹ Liên
Bằng một trí nhớ thần đồng, lại được bao bọc bời lòng tôn
kính, ngưỡng vọng, chỉ trong tuần lễ, Vỹ đã thuộc làu từng bài thơ trong tập "Thủ
đô gió ngàn" của nhà thơ Ngô Sỹ Liên. Anh viết một bài dài đăng trên
báo "Văn" giới thiệu tập thơ, tất nhiên chủ đề chính vẫn là ngợi ca,
khẳng định một thành tựu thi ca cách mạng. Tuy nhiên, với bản tính không thích
xu nịnh, khen chê rõ ràng, ở phần cuối bài, Vỹ vẫn chua thêm mấy dòng: "Đáng
tiếc, có cảm giác ở một số bài, độc giả vẫn thấy nhà thơ có phần dễ
dãi, ngôn ngữ thơ hoặc còn nôm na, hoác còn gương ép, chưa thật. Có
bài còn hơi hướng của những dòng khẩu hiệu… "
Chỉ mấy dòng ấy thôi mà suốt từ đó, Vỹ gặp tai vạ. Nó trở
thành ngòi nổ, thành cái cớ cho những người tôn thờ chủ nghĩa "nghệ thuật
vị nghệ thuật" lợi dụng để mở cuộc tranh luận mấy năm sau về tính nghệ thuật,
tính hiện thực của tập thơ "Thủ đô gió ngàn". Nguyễn Kỳ Vỹ trở
thành một tiểu tướng ngông cuồng ở bên kia chiến tuyến, người đầu tiên dám chống
lại nhà thơ cách mạng Ngô Sỹ Liên.
Những thông tin trên, sau ngày từ Liên Xô về nước, Đà Giang mới
cho Vỹ biết. Đà Giang bảo: "Sự nghiệp văn chương của mày đã chấm hết sau
những câu phê bình thật thà một cách ngu xuẩn đó. Cũng như những "vĩ
nhân" đang được khoác cho chiếc mũ Nhân văn Giai phẩm, thực chất cũng
chẳng phải vì học thuật, văn chương cao xa gì, mà chỉ đơn thuần vì đã dám mó
dái cọp, dám phủ nhận, tranh đoạt ngôi vị của một đại công thần…"
Bây giờ, trở lại vùng thánh địa xưa, nghĩ lại những kỷ niệm
cũ, mà Vỹ cứ man mác buồn.
Trái ngược lại, Hạnh như con chim sáo, nhảy tung tăng suốt dọc
đường. Cái gì với nàng cũng mới lạ, khác thường.
- Anh bảo cơ quan văn nghệ thời kháng chiến đóng ở chỗ nào?
Dưới chân đỉnh núi hình chóp nón kia ư? Tại sao người ta lại gọi là Quan Chi hả
anh? Có phải có một ông quan nào đó không biết tên là chi chi gì, đã lên đây,
và người dân đã đặt câu hỏi ấy cho địa danh này không?
Hạnh hỏi liên tục, khiến Vỹ không kịp trả lời.
Quan Chi vốn là một đồn điền chuyên trồng chè và trẩu, thầu dầu
do người Pháp khai khẩn từ hồi đầu thế kỷ. Suốt những năm kháng chiến, đồn điền
bị bỏ hoang hoá. Sau hoà bình những người lính của Đại đoàn 312 từng là mũi chủ
công của mặt trận Điện Biên Phủ, cùng với lực lượng bộ đội tập kết Nam Trung Bộ
được điều về đây xây dựng nông trường. Họ khôi phục và trồng mới những đồi chè
bị bỏ hoang, trồng thêm hàng trăm hecta mía và chăn nuôi bò sinh sản.
Giữa năm ngoái, có lệnh khẩn điều động toàn bộ lực lượng tập
kết về tham gia đường dây 559, chuẩn bị cho công cuộc giải phóng miền Nam. Để
bù đắp quân số thiếu hụt, một đại đội thanh niên tình nguyện Thủ đô, chủ yếu là
những cô cậu tú tốt nghiệp lớp mười, những bạn học cùng lớp, cùng trường, cùng
thế hệ với Đào Phan Khánh, được tăng cường cho nông trường Quan Chi. Nói là
tình nguyện, nhưng thực chất họ không còn đường lựa chọn nào khác. Toàn gia
đình lý lịch bất hảo, hoặc bố xô nhầm giầy Tây để đánh ta, hoặc gia đình phong
kiến, tư sản, từng ăn trên ngồi trốc, thuộc loại quan lại, tay sai thực dân, hoặc
tư săn, hoặc có bố mẹ anh em dinh tê vào Nam… Nhân thân phức tạp và bất tín như
thế, nhưng về mặt trí tuệ, họ xứng đáng là những thanh niên trí thức ưu tú nhất
của Hà Nội. Hầu hết là thủ khoa, học sinh xuất sắc của các trường học nội
thành, là con em các gia đình tư sản, tiểu chủ, công chức thời Pháp. Cá biệt có
cả vài anh đang là sinh viên giói của trường đại học nhưng bị liệt vào danh
sách đen, tư tưởng có vấn đề, phải đi lao động "thâm nhập thực tế"…
Lê Đoàn, bạn của Đào Phan Khánh, người viết thư rủ rê Khánh bỏ đội chiếu bóng
lên nông trường Quan Chi, thuộc loại cá biệt này. Lê Đoàn chính là cậu bé học lỏm
tiếng Pháp từ mấy anh lính tẩy, từng là bạn của Nguyễn Kỳ Vọng năng nào. Bằng ý
chí tự học Đoàn đã thi đỗ vào khoa văn sử Đại học Tổng hợp. Một sinh viên giỏi,
tiếng Pháp nói như gió. Đoàn là đệ tử sùng bái đến mức mê tín nhà triết học Trần
Đức và mấy nhà thơ trong nhóm Nhân văn Giai phẩm. Bị phát giác có tàng chứa
những ấn phẩm Bốn Mùa đang cấm lưu hành, Lê Đoàn bị đình chỉ học tập.
Nghe tin có đại hội tình nguyện thanh niên Thủ đô, Đoàn đã ghi tên, xung phong
lên nông trường.
Chưa từng cầm cày cầm cuốc, chưa từng chân đất, ngủ rừng, mấy
tháng đầu đám công tử tiểu thư chuyên cày đường nhựa này trở thành gánh nặng của
nông trường. Có anh ba hôm cầm cuốc tay đã toé máu. Có cô chân phồng rộp phải
nhờ người cõng. Rồi cáo ốm, bỏ ăn. Có kẻ đang đêm bỏ trốn về Hà Nội. Có cậu lạc
trong rừng hai ngày không biết đường về… Nhưng rồi, họ quyết trụ lại. Chất
"sỹ" và nghị lực tuổi trẻ đã nâng dắt họ. Họ đã quen dần với công việc
thổ mộc, thậm chí còn hăng hái hơn cả những anh bộ đội xuất ngũ. Họ mang đến
cho nông trường một luồng gió mới và một khí thế dời non lấp biển.
Cho nên thật là dễ hiểu, khi nghe tin nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ và
hoa khôi trường Phổ thông công nghiệp Hà Nội, Võ Thu Hạnh đến thăm, cả nông trường
bỗng lên cơn sốt, ai cũng như chực nhập đồng. Các chiến sĩ của Đại đoàn 312,
nhiều người từng biết Vỹ, nhiều người đọc thơ Vỹ. Riêng đại đội thanh niên xung
kích Hà Nội thì chẳng ai không thuộc thơ Vỹ. Nguyễn Kỳ Vỹ, cho đến bây giờ vẫn
là thần tượng của họ.
Tất nhiên Đào Phan Khánh là người hạnh phúc nhất, mãn nguyện
nhất. Đang cùng mấy người bạn đào một gốc lim xanh giữa đồi chè, thì anh bạn Lê
Đoàn chạy bổ đến, gào lên:
- Khánh ơi, về ngay, có lệnh truy nã mày.
- Đồng chí Đoàn nói năng với cấp trên cho cẩn thận - Khánh
nghiêm mặt, nhưng ánh mắt đã lộ vẻ bối rối vì hai tiếng "truy nã" của
Đoàn.
- Nói nhanh kẻo mất thời gian. Cậu có cấp trên nào tên là Võ
Thu Hạnh không?
- Sao? Thu Hạnh thì sao? - Khánh chột dạ.
Đoàn định đùa dai thêm chút nữa, nhưng thấy gương mặt Khánh đỏ
nhừ thì thương hại:
- Về ngay để bám váy đàn bà… Nàng và nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ anh
rể cậu vừa từ Hà Nội lên đón cậu về tổ chức cưới.
Không đợi Đoàn nói gì thêm, Khánh nhảy vọt khỏi hố đất, ba
chân bốn cẳng chạy thẳng về nông trường bộ.
Hạnh xuất hiện quá bất ngờ. Nàng đẹp rực rỡ. Khánh sững lại
như không tin ở mắt mình. Họ cùng nhìn nhau như đang mơ, rồi bất ngờ chạy đến
ôm chầm lấy nhau như trong phim.
Tiếng hò reo. Tiếng vỗ tay ran tứ phía.
- Hôn nhau đi… i… i…
- Cho chúng tao hôn ké với, Khánh ơi…
Ai đó nhanh tay đã vớ lấy cây guitare dập liên hồi. Rồi ngay
chớp nhoáng đã hình thành một dàn đồng ca vây quanh cặp tình nhân:
"Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa
Đây bao la tiếng hát vui chan hoà…"
Tin nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ đến thăm nông trường, chỉ mấy tiếng
đồng hồ sau đã lan đến khắp những đội hẻo lánh nhất. Cuối giờ chiều, khi mặt trời
vừa khuất sau dãy Tam Đảo, thì từ khắp các đội sản xuất, người kéo đến nông trường
bộ đông nghìn nghịt.
Vỹ e ngại nói với giám đốc nông trường, nguyên là chính trị
viên đại đội của Đại đoàn 312:
- Tập trung đông người quá, có tiện không anh? Tôi đang thuộc
diện phần tử bất hảo. Có cần báo cáo chính quyền…
- Anh yên tâm đi - Giám đốc rít thuốc lào hõm má, rồi vừa nhả
khói mù mịt, vừa nói – Chính quyền là chúng tôi chứ ai? Không dễ gì người ta
kéo đến như thế này đâu. Phải là một nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Kỳ Vỹ mới có
sức cuốn hút đến thế.
Quả nhiên, rất nhiều chiến sĩ đã từng gặp Vỹ, từng là nguồn cảm
hứng cho anh làm thơ, là nhân vật của anh trong những trang ghi chép mặt trận.
- Có đúng là Nguyễn Kỳ Vỹ "Thời của Thánh Thần"
không? Tao đây, Tao ở đại đội pháo DKZ Lũng Lô đây.
Nhớ rồi. Cái anh chàng có cái tên kỳ cục, từng làm Chính uỷ
Trung đoàn Quảng Lạc điên tiết muốn đập vỡ tan chiếc điện thoại, khi ông hỏi
vào máy: "Đồng chí là ai?" "Là Tao này" "Trả lời cho
nghiêm túc. Đồng chí có biết đang nói chuyện với chính uỷ Quảng Lạc
không?" "Báo cáo Chính uỷ, Tao đây ạ! Em đang rất nghiêm túc. Em là
Nguyễn Văn Tao"…
- Còn tớ, tớ đố Vỹ nhận ra đấy. Tớ từng cõng nhà thơ qua ngòi
Thia…
- Quên sao được? Anh Lê Bìu, anh nuôi xuất sắc toàn quân…
- Đúng. Tưởng quên thì phạt nặng. Tớ cải tên rồi. Từ nay gọi
tớ là Lê Bùi. Chì cần hoán vị hai nguyên âm là được một cái tên thơ mộng mà bố
và mẹ mình vì mù chữ mà cả đời không nghĩ ra.
Tíu tít nhất là các cô cậu trong đội thanh niên tình nguyện
Hà Nội. Họ bao vây mấy vòng quanh Vỹ, tranh nhau tự giới thiệu và xin chữ ký.
- Em là Nguyễn Văn Nức, gia đình tư sản thuốc lào, tú tài trường
Bưởi, rất hâm mộ nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ.
- Em, Nguyễn Thị Hinh, gia đình tiểu thương chợ Đồng Xuân, học
dở lớp chín trường Lý Thường Kiệt…
- Anh có nhớ cậu bé người hàng phố của chị Khiêm, đã từng làm
giao liên đưa thư của chị Khiêm đến cho nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ không? Cậu bé ấy
chính là Hoàng Họp, đang đứng trước mặt anh đây…
Lê Đoàn chìa ra trước mặt Vỹ cuốn sổ tay chép thơ.
- Em biết anh từ cái hôm anh đi trong đoàn quân tiến về giải
phóng Thủ đô. Em đứng trên nóc nhà phố Hàng Bông bắn một loạt súng chào mừng…
Vỹ bỗng nhớ lại những giờ phút thiêng liêng không thể nào
quên ấy. Những chiến sĩ giải phóng đi trong ngợp trời hoa và những bản hành
khúc vang dội. Một cậu bé tóc rối bù, cao gầy và đen trũi đứng trên tít tầng
thượng của ngôi nhà bỗng làm Vỹ chú ý. Anh chợt liên tưởng chú bé trên nóc nhà
kia với hình ảnh người anh hùng trẻ tuổi Gavơrốt của Vichto Huygô. Rồi cậu bé
Gavơrốt của anh chĩa khẩu súng ngắn lên trời, vừa bắn vừa hét thật to:
"Kính chào những người lính anh hùng trở về giải phóng Thủ đô"…
- Em còn biết anh là anh trai Nguyễn Kỳ Vọng…
- Trời, thật không Em quen Vọng à? Giờ nó ở đâu?
- Em và Vọng cùng ở một khu phố gần vườn hoa Tập Kèn. Anh Vọng
vì muốn được học thêm, đã theo bạn vào Nam. Từ ấy chúng em bặt tin nhau… - Đoàn
ghé tai Vỹ nói nhỏ - Em bị đuổi khỏi trường Đại học Tổng hợp và phải lên nông
trường này vì tội dám chép bài thơ "Tiếng hát nhân dân" của
anh vào sổ tay và tuyên truyền trong ký túc xá sinh viên đấy…
Thật vậy ư? Vì chép thơ của Vỹ mà bị đuổi học? Vỹ không tin
mình vừa nghe câu nói đó. Nhưng sau này, khi tình bạn của anh và Lê Đoàn trở
nên khăng khít, thì anh hoàn toàn tin rằng, chính anh là một tác nhân đã góp phần
làm xoay chuyển, biến dạng cuộc đời của Đoàn.
Ba chiếc đèn măng xông cùng lúc bỗng rực sáng. Hội trường
nông trường bộ đã đông chật người. Người ta tranh nhau tự giới thiệu và xin chữ
ký của Vỹ vào sổ tay lưu niệm, nhiều người đê nghị anh đọc cho chép những bài
thơ mới nhất.
Vỹ sực nhớ đến quyển sổ ghi chép của mình. Tất cả những bài
thơ anh mói sáng tác, cả những bài thợ yêu thích của bạn bè mà anh chép lại, đều
nằm trong cuốn cẩm nang này. Có thể anh để quên ở nhà? Có thể lúc qua phà sông
Công, cuốn sổ trong chiếc xắc cốt đã bị rơi xuống nước?
- Định đọc tặng các bạn những bài thơ mới nhất. Nhưng bản thảo
đang bị thất lạc. Xin khất các bạn để tôi có thời gian nhớ lại Bây giờ xin giới
thiệu ca sĩ Võ Thu Hạnh sẽ hát tặng những bài hát hay nhất của mình.
Cuộc giao lưu văn nghệ độc nhất vô nhị từ ngày thành lập nông
trường tới giờ, với đủ mặt lãnh đạo nông trường bộ và mấy trăm nông trường
viên, chật ních hội trường, kéo tràn ra ngoài hành lang, như một lễ hội tưng bừng.
Hạnh hát bài Câu hò trên bến Hiền Lương hay đến mức khối anh cứ há hốc
mồm như muốn hứng lấy từng lời. Bất ngờ hơn nữa là tài ngâm thơ của Lê Đoàn,
bây giờ mới phát lộ. Anh mở đầu bằng bài thơ "Lên Miền Tây", viết
đúng tâm trạng và lý tưởng của những chàng trai cô gái Hà Nội, làm nhiều người
rưng rưng nước mắt:
"Xe chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núi
Lên miền Tây vời vợi ngàn trùng,
Sống ở Thủ đô mà dạ để mười phương
Ngàn khát vọng chất chồng mơ ước lớn… "
Bài thơ vừa ngâm xong, tiếng vỗ tay tán thưởng chưa dứt, nhìn
quanh đã chẳng ai thấy Đào Phan Khánh và Võ Thu Hạnh, hai nhân vật trung tâm của
đêm liên hoan đâu. Giữa đồng mía, đồi chè và rừng cây bạt ngàn, có trời cũng chẳng
tìm thấy họ.
Chỉ còn lại mình Vỹ độc diễn trước hàng trăm người hâm mộ.
Anh đọc liền một mạch như người nhập đồng những bài thơ được thính giá yêu cầu: "Sống", "Thời
của Thánh Thần", "Mùa thu Hà Nội", "Tiếng hát nhân
dân"…
Bài thơ cuối cùng đọc chưa dứt, bỗng cả ba bóng đèn măng xông
đều tắt phụt. Cả hội trường chết lặng. Rồi tiếng la hét, tiếng huýt gió. Có cả
tiếng chỉn tục:
- Đ mẹ. Thằng nào tắt đèn? Thơ đang hay.
- Phản động à? Đốt đuốc lên! Kéo ra ngoài sân mà đốt lửa trại
lên.
- Bắt lấy bọn phá hoại? Tống giam ngay kẻ nào tắt đèn!
- Mẹ kiếp. Mackêno. Tiếp tục đọc thơ đi, anh Vỹ ơi…
Nhốn nháo, loạn xạ. Có nhiều tiếng con gái kêu thét lên ở đâu
đó. Trong ánh sáng nhập nhoạng của mấy que diêm vừa bật lên, người ta thấy
loang loáng bóng một vài công an ở cửa.
Tiếng giám đốc nông trường hét khản cả giọng:
- Xin lỗi… Xin thông báo với tất cả các đồng chí và các bạn,
vì lý do kỹ thuật, cuộc sinh hoạt văn nghệ phải đừng ở đây. Đề nghị mọi người về
nghỉ, mai tiếp tục ra đồng.
Cuốn sổ tay ghi chép mà Vỹ tưởng bỏ quên ở nhà hoặc bị rơi ở
phà sông Công, hoá ra đã từng nằm chỏng trơ trên bàn làm việc ở nhà xuất bản
Bình Dân. Trong lúc Vỹ vội vàng làm nốt một số việc và xin nghỉ phép để lên
thăm Khánh, anh đã bỏ quên vật bất ly thân này.
Nguyệt là người duy nhất nhìn thấy quyển sổ trên bàn. Sẽ chẳng
có chuyện gì, nếu Nguyệt cất đi để rồi trả lại Vỹ. Nhưng vốn ngưỡng vọng và yêu
mến anh, chị đem về nhà, chép lại một số bài thơ, rồi khoe với chồng.
Sành vốn không am hiểu lắm về thơ phú. Nhưng thấy Nguyệt có vẻ
tâm đắc, đã sinh nghi. Đến như vợ mình mà anh ta cũng "ru ngủ" được
thì hẳn là có vấn đề?
Cuốn sổ bỗng không cánh mà bay.
Nguyệt lục tìm khắp nhà cả buổi chiều. Vẫn biệt vô tăm tích.
- Rõ ràng em để quyển sổ của anh Vỹ dưới đầu giường. Anh lấy
đi đâu rồi? - Nguyệt hỏi Sành.
- Anh nhìn thấy, nhưng không thèm đọc. Loại thơ phản động này
chỉ đáng vứt sọt rác.
- Này, đừng có giấu đầu hở đuôi. Trả lại đi. Mai anh Vỹ về,
em phải trả anh ấy.
- Việc gì mà phải trả? Coi như không biết, không quan tâm.
- Anh đừng có làm cái trò gì để hại người ta đấy nhớ… Thấy
anh ấy bỏ quên, cất giúp anh ấy, mới là người đứng đắn.
Sành liếc vợ đầy ngờ vực. Cái cô này cũng có vấn đề rồi.
Không biết chừng, ăn phải bùa thơ rồi phải lòng hắn ta cũng nên? Động nói đến Vỹ
là bênh chằm chằm.
- Tôi xé chùi đít rồi. Quyển sổ nháp ba lăng nhăng, có gì mà
quan trọng.
- Anh không đùa đấy chứ?- Nguyệt ức đến nghẹn tận cổ - Để em
ra nhà cầu xem thử. Đã biết là bản thảo của nhà thơ mà còn…
Nguyệt ra hố xí thật. Sành cười khẩy:
- Đùa đấy. Tưởng chỉ mình cô mới biết giá trị của văn thơ
thôi ư? Nói cho nhanh nhé. Ban đầu tôi cũng chỉ nghĩ đây là quyển giấy nháp ba
lăng nhăng. Hoá ra không phải như vậy. Một tài liệu cực kỳ nguy hiểm. Có giá hời
đấy… Đây mang bán rồi!
- Anh bán đi đâu? Cho ai? Để em đi chuộc - Nguyệt hốt hoảng.
- Nếu bảo là vô giá cũng không ngoa. Làm sao cô em có đủ tiền
chuộc? - Sành lại gần, đưa tay xoa cái bụng lùm lùm của vợ - Cũng chỉ vì cái
tác phẩm tôi gửi mình ở trong này này. Đẻ con rồi phải lo cho nó chỗ ở, cho
tương lai sau này của nó. Muốn bà Ba Yên và các con vĩnh viễn từ bỏ ý định đòi
lại căn nhà xoá sổ địa điểm tổ hợp cắt tóc Cờ Đỏ, phải liên tục dồn họ vào bước
đường cùng, em hiểu không? Tầng trên phải là sở hữu chắc chắn của ông bà bô. Tầng
dưới này, chỉ đội lốt tổ hợp Cờ Đỏ vài năm, sau đó vợ chồng mình sẽ tìm cách đuổi
mấy lão thợ cạo đi mà chiếm lấy. Đẻ thêm hai ba đứa con thì bốn chục mét vuông
này thấm tháp gì? Bước một hãy cứ tính thế đã. Cho nên lúc này là cơ hội nghìn
vàng. Chỉ nhắc đến Ký Lạng đang làm tay sai cho Mỹ Diệm là bà Ba Yên sợ ỉa ra
quần. Cầm cuốn sổ tay của Vỹ, tôi nghĩ ngay đến chuyện phải bỏ tù anh ta. Vỹ đã
bị khốn đốn vì nghiệp văn, thì vợ chồng làm sao dám đòi lại căn nhà này?
Nguyệt dãy nảy:
- Trời ơi, anh nghĩ thế thật à? Làm thế độc ác lắm. Anh không
nghĩ trời phật quả báo, làm sao mà em sinh đẻ mẹ tròn con vuông được?
- Thời đại này, không có mê tín dị đoan. Phải có cái nhìn biện
chứng. Nhân cơ hội này làm cho tay Vỹ không ngóc đầu lên được. Vả lại phải để
cho tổ chức tin tưởng. Diệt trừ Nhân văn Giai phẩm là góp phần vào cuộc
đấu tranh giai cấp, kiên định lập trường vô sản…
- Em xin anh. Hãy vì mẹ con em mà làm chuyện phúc đức. Anh Vỹ
không có thù oán gì với nhà mình. Anh ấy làm thơ cũng chẳng hại ai… Anh đưa em
quyển sổ để em mang trả lại người ta…
- Tôi nói từ nãy tới giờ mà cô vẫn không chịu nghe. Ăn gì mà
ngu lâu thế? Đây không phải là thù hằn. Mà là nhiệm vụ cách mạng. Chúng ta đều
là tai mắt của cách mạng. Phát hiện thấy âm mưu phản động, sao ta lại ỉm đi,
sao lại lừa dối tổ chức? Cô không nhớ câu của Mao Chủ tịch: "Thà giết nhầm
còn hơn bỏ sót ư?
Biết không thể lay chuyển con người sắt đá và nhẫn tâm ấy
Nguyệt chỉ ngồi ôm bụng khóc.
Sành rỉ rả:
- Tôi còn đang trù tính cho mình một chức vụ ở nhà xuất bản.
Chế độ này, dù có tài năng bằng giời, dù có là thánh tướng nhưng không là đảng
viên thì chỉ có ăn đất. Chỉ có người của Đảng mới được bố trí vào bộ máy quyền
lực, mới được làm lãnh đạo. Cụ Mác sẽ cài người nắm tất cả, từ chức tổ trưởng tổ
phó, nghĩa là tất tần tật. Cô mới được tay Tiến Tới nó kết nạp Đảng, thì phải
nhân đà này mà "tiến tới" lên. Là con em gia đình cơ bản, đương kim
thủ quỹ cơ quan, vậy tại sao không nghĩ đến cái ghế phó giám đốc nhà xuất bản
nhỉ? So với Tiến Tới, một gã xe thồ ở chiến dịch Điện Biên Phủ, cô kém cạnh gì?
Hắn viết diễn ca, truyện thơ cái đầu b… Ai mà chả biết tất cả là của tay Vỹ.
Lừa sao được thằng Sành này. Nó lợi dụng chuyện kết nạp cô để ve vãn, sờ l… bóp
vú cô thế nào, sao tôi lại không biết? Tôi còn để tội nó đấy. Giờ bàn đến chuyện
tay Vỹ đã. Yên tâm đi. Quyển sổ của Vỹ đang trong tay nhà chức trách có trách
nhiệm. Tất nhiên là khi báo cáo, tôi đã nói là công lao của cô. Cô rất có nhãn
quan chính trị có triển vọng của một phó giám đốc tương lai…
Trong khi nồi với vợ những lời ngọt nhạt ấy, Sành mường tượng
lại cuộc gặp gỡ giữa anh và Văn Quyền. Nhớ nhất là cặp mắt một mí của Văn Quyền
bỗng loé lên khi nhìn thấy quyển sổ tay của Vỹ. "Làm sao đồng chí có được
tài liệu này?" "Dạ, vợ tôi thấy Vỹ bỏ quên trên bàn làm việc. Tôi thấy
có trách nhiệm phải báo với tổ chức. Tôi nghĩ ngay đến anh, người mà tôi được
hân hạnh tiếp xúc tại cuộc truyền đạt nghị quyết cuối tháng vừa rồi". Quyền
lật dở từng trang, không ngớt gật gù: "Cô Nguyệt ở Nhà xuất bản Bình Dân
thì tôi có biết. Vợ đồng chí tuyệt lắm. Rất xuất sắc và có nhãn quan chính trị
nhạy bén. Chúng tôi sẽ đặc biệt chú ý bồi dưỡng nhân vật này. Nhưng đồng chí nhớ
nhắc Nguyệt không được nói gì với Vỹ. Cứ coi như anh ta đánh rơi ở đâu, không
biết. Chuyện này lộ ra nguy hiểm lắm. Tôi đặc biệt lưu ý hai vợ chồng đồng chí
điều này: Tuyệt đối không được nói đã nộp cho tổ chức tài liệu này. Đây là
nguyên tắc của tổ chức. Nếu vi phạm thì hậu quả sẽ khôn lường…". Sành bỗng
như thấy sống lưng ớn lạnh. Anh ân hận vì đã trót nói với Nguyệt. Cô ấy mà bô
lô ba la với Vỹ thì chết cả lũ.
- Em có cần anh nói người đang có trách nhiệm giữ quyển sổ
tay của Vỹ không? - Sành dịu giọng, ve vuốt Nguyệt - Không cần chứ. Mà em cũng
không nên biết làm gì. Bây giờ thì em phải hoàn toàn tin tưởng ở anh, ở tổ chức.
Vợ chồng mình đang chơi một canh bạc. Chỉ cần em bí mật tuyệt đối là chắc thắng
trăm phần trăm. Nếu em lộ ra, tổ chức sẽ không để em yên. Với Vỹ, em cứ chối phắt,
không thấy gì, không biết gì thế thôi.
- Anh làm em không còn ra cái giống người - Nguyệt khóc nấc
lên.
- Em vẫn là vợ yêu quý của anh - Sành ghé môi hôn vợ, nhưng bị
đẩy ra - Chúng mình đang có một cơ hội đổi đời… Chi vài năm nữa thôi, biết đâu
em sẽ vượt qua cả cái thằng giám đốc xe thồ?
Chương 12
Khách không mời
Những ngày hoà bình, ngắn ngủi như bóng câu qua cửa sổ.
Ngày 5 tháng 8 năm 1964, tàu Ma-đốc của Hải quân Mỹ xâm phạm
lãnh hải Việt Nam, gây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại
của không quân và hải quân Mỹ trên miền Bắc, mở rộng cuộc chiến tranh huỷ diệt
trên toàn cõi Việt Nam.
Những cuộc ném bom của không quân Mỹ từ vĩ tuyến 17 trở ra
ngày càng dã man và khốc liệt. Cầu Thanh Am, cây cầu bé nhỏ nằm trên con đường
liên tỉnh dẫn về làng Động bị đánh sập. Cây cầu gần như vô danh ít có tên trên
bản đồ này mà sao lại nằm trong những mục tiêu đầu tiên của không quân Mỹ? Những
ai am tường lịch sử và có chút ít kiến thức quân sự thì hiểu ra rằng người Mỹ ở
tít bên kia bán cầu nhưng đã lia đôi mắt xanh lè sang vùng đất hẻo lánh này từ
lâu rồi.
Từ thời Lý, Trần, Lê, con đường thiên lý từng qua đây. Theo
đường thuỷ, từ kinh thành Thăng Long, xuôi sông Đáy, sông Hoàng Long, qua cửa
Gián Khẩu là tới cửa Thần Phù, dong buồm xuôi biển, tiến thẳng vào đất Chiêm
Thành. Cũng từ sông Đáy, rẽ qua sông Châu vào sông Hồng, rồi cắt ngang sông Luộc,
phong toả con đường biển tiến vào hệ thống sông Thái Bình. Đi đường bộ, từ kinh
đô, qua đây sẽ thăng tới Biện Sơn, án ngữ vùng Tam Điệp hiểm yếu. Đây là con đường
của Lý Thường Kiệt, Lý Thánh Tông, Trần Anh Tông, Lê Thánh Tông… từng đi chinh
phạt phương nam và mở mang bờ cõi Đại Việt. Quang Trung Nguyễn Huệ, người anh
hùng kiệt kiệt cũng từng hành binh thần tốc qua đây để tiêu diệt hai mươi vạn
quân Thanh mùa Xuân năm Kỷ Sửu 1789. Cho nên, không quân Mỹ quyết phá cầu Thanh
Am để chặn các ngả sang đường số Một, hoặc vòng qua Nho Quan, Ninh Bình để vào
hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh.
Cạnh cầu Thanh Am, có một chợ huyện sầm uất thường họp năm
ngày một phiên. Từ sáng tinh mơ, người từ các ngả đã kéo nhau về nườm nượp.
Hàng trăm thứ sản vật vùng quê. Có hẳn cả một bãi rộng chuyên mua bán trâu bò,
lợn gà. Chợ họp ngay trên bờ đê sông Điền, tràn xuống tận cầu.
Lần đầu tiên những người dân quê nhìn thấy máy bay Mỹ. Mới đầu
chỉ nghe tiếng ầm ì từ xa, nhìn thấy những dải khói trắng mảnh như tơ. Rồi tiếng
gầm rít xé trời. Không ai kịp chạy. Không còn chỗ để ẩn nấp. Trong nháy mắt, những
đàn quạ sắt hung thần đã tặng cho những người dân quê hiền lành vô tội mấy chục
quả bom tấn mang nhãn hiệu USA. Ngay sau những tiếng nổ động trời là những cột
lửa da cam, những cột khói đen đặc lẫn đất đá, bùn, nước, xác người, xác động vật,
rau cỏ, cây cối, hàng hoá, đồ vật, tro than… dựng lên tít trời cao.
Hơn một trăm người bị chết. Hàng trăm người đi cấp cứu bệnh
viện. Nhiều người đào bới mấy ngày sau vẫn không tìm thấy xác. Nhiều người chỉ
còn là những búi thịt đen xỉn, không thể nhận ra. Nhiều người khi gom xác lại
thì thiếu chân tay, phủ tạng…
Trong những nạn nhân của phiên chợ huyện ấy có Bính, vợ Cục
Cái cô Bính cào cào ngày nào, bây giờ đã là người đàn bà bốn
con, lại đang chửa đứa thứ năm, bụng cao vượt mặt.
Mười một năm làm vợ, cũng ngần ấy năm làm mẹ, người đàn bà
thôn quê này hầu như không có tuổi xuân. Khi thằng Nguyễn Kỳ Công, con trai cả,
chưa đầy hai tuổi, thì Bính lại đẻ thằng Nguyễn Kỳ Cái. Đây là thời kỳ cực nhục
nhất của Bính. Thằng bé mới thành hình trong bụng chưa được hai tháng thì bố nó
phải ngồi tù vì tội dám xẻo dái ông đội trưởng Đội cải cách Phèng Cửu Tựu. May
mà ông Tựu không chết, chỉ phải đi cấp cứu vá lại của quý. Cục bị khép tội làm
tay sai cho địch, âm mưu phá hoại cuộc cải cách ruộng đất, giết hại cán bộ cách
mạng, bị tù giam hai năm. Mãn hạn tù, người làng Động đón Cục như một anh hùng.
Ai cũng ngầm khen Cục là người thuỷ chung, có khí phách, uy vũ bất năng khuất.
Chiến công của Cục đã được lan truyền khắp hàng huyện hàng tỉnh,
làm cả làng hả hê. Cục được tín nhiệm đến mức, xã viên đề nghị bổ sung anh vào
ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp, nhưng chính quyền địa phương giữ ý với cấp
trên, chỉ cho giữ chân đội phó đội sản xuất. Cũng thời kỳ này, hứng chí, Cục tặng
tiếp Bính một thằng con trai nữa, đặt tên là Nguyễn Kỳ Cách. Rồi hai năm sau,
cô con gái rượu có tên Nguyễn Thị Ruộng ra đời. Bốn cái tầu há mồm biến hai vợ
chồng Cục như những con trâu cày. Nhưng nghĩ đến câu "tam nam bất phụ, Cục
vẫn ấm ức. Phải "sản xuất" cho được một cu ngảu nữa cho đủ tứ hổ, cho
hoàn thành đủ năm cái tên Công, Cải, Cách, Ruộng, Đất, như Cục đã dự tính.
Vất vả nhất là Bính. Chị già đi đến chục tuổi. Thật đúng với
câu: "Gái ba mươi tuổi đã toan về già". Bù lại sự vất vả nuôi con,
Bính có niềm hạnh phúc bình dị và niềm vui không bờ bến của người đàn bà mãn
nguyện vì đang dần hoàn thành thiên chức vĩ đại của mình. Mỗi sáng dậy, ngồi vấn
lại mớ tóc, chị lặng ngắm chồng ngực phanh trần, hai tay dang rộng, nằm ngáy
như kéo bễ sau cuộc hoan lạc cuồng si và cực mãn, ngắm ba thằng con trai trùng
trục nằm ôm gác lên nhau trong giấc say li bì, ba quí tử mang cái gien trội của
bố, đứa nào cũng hao hao như Tây lai, tóc xoăn, mũi thẳng, mắt sâu, ăn bất cứ
thứ gì ngủ bất cứ chỗ nào, khiến Bính nở từng khúc ruột. Thế là chỉ kịp ra chiếc
vại bên gốc cau, múc gáo nước mưa, ngửa cổ súc miệng òng ọc, đong đầy nước vào
lòng bàn tay phả lên mặt, là chị có thể làm quần quật cho tới đêm khuya.
Đứa con trong bụng lần này, Bính tin lại là trai. Cục muốn
phá cái thế tam nam, thêm một thằng cho thành tứ hổ. Tứ hổ bất nhược. Cụ Đồ Biểu
bảo, hay Cục bảo, Bính chiều tuốt.
Ngũ hổ, cửu hổ, với Bính có nhằm nhỏ gì. Nhiều lúc Bính tự thấy
mình như chị gà mái dẫn đàn con bới đất trong vườn, như ả lợn nái nằm ườn thả
chùm vú cho bầy lợn con thi nhau mút chùn chụt. Bính muốn Cục chỉ mãi mãi là
riêng của mình, Bính sẽ đẻ cho Cục đến khi nào hết trứng thì thôi…
Càng đến ngày nằm ổ, Bính càng tham công tiếc việc. Tối hôm
trước, chị thức đến gần nửa đêm để đánh nốt khoanh thừng. Làng Động có nghề làm
thừng truyền thống từ mấy đời, Đàn bà con gái, ngày đi làm đồng, tối về lại chẻ
giang, nứa, bện thừng. Khoanh thừng mười đôi, làm trong ba ngày, trừ vốn liếng,
cũng được năm hào, đủ tiền mua hai cân gạo.
Thừng của Bính thường săn và đẹp nhất làng, ba sợi xoắn chặt
vào nhau, trắng nuột và đều tăm tắp, vừa làm xong đã có người đến cất buôn.
Nhưng phiên chợ Thanh Am này thì tự Bính muốn đem bán. Nhân tiện có ổ trứng gà,
buồng chuối tiêu và mấy bó khoai nước mới cắt từ tối qua. Bính muốn dồn tiền
mua vải may cho bố con mỗi người một cái áo, còn lại mua mớ tôm về làm mắm ăn dần.
Thằng Công sắp lên lớp bẩy, cần phải trưng diện với bạn bè, mà chỉ có đôi áo cộc
thay nhau mặc sà sã, sờn rách hết bả vai và ngắn cũn cỡn.
Nhìn cái bụng chửa lặc lè của vợ loay hoay mãi giữa hai dóng
quang chất đầy khoai nước, lại quàng thêm mấy khoanh thừng và buồng chuối tiêu,
Cục thương đến thắt lòng. Sao mà có loại đàn bà tham công tiếc việc, ki bo từng
đồng xu. Chửa đẻ mấy lần mà lúc nào cũng chắt bóp, nhịn ăn nhịn mặc để phần cho
chồng con. Tối qua đã bảo rồi. Không đi chợ nữa. Để hết thừng cho người ta cất
buôn. Để buồng chuối rấm mà bồi dưỡng. Chồng chất thế kia, vác bụng không nổi,
còn gồng gánh làm sao?
- Để thằng Công nó gánh đỡ cho - Cục chạy lại đỡ gánh hàng
cho vợ.
- Trông cồng kềnh thế thôi. Nhẹ không ấy mà.
Bính khoát tay, rồi như sực nhớ ra, chạy vào bếp, đon đả mang
ổ trứng gà vùi trong rổ trấu đặt giữa những khoanh thừng. Đang định cất gánh
lên vai thì Cục giữ lại.
- Đã bảo rồi. Có mấy quả trứng, để mà bồi dưỡng. Bụng chửa, cửa
mả. Không ăn vào mồm thì lấy sức đâu cho con, cho mẹ?
- Vẽ. Chẳng có trứng gà tôi cũng đẻ được. Bốn đứa kia, tôi chỉ
hắt hơi một cái là tòi ra. Hồi cải cách với sửa sai ấy thì trứng gà trứng vịt ở
đâu? Thầy nó cứ vẽ chuyện. Rổ trứng này bằng nửa yến gạo, ăn trứng ngang với ăn
sâm. Tôi muốn dồn tiền mua cho bố con mình cái áo…
Nhìn cái cổ gầy ngẳng của vợ, máu Cục sôi lên.
- Bố con tôi đéo cần áo. Cời truồng ra cũng chẳng sao. Để trứng
này cho thằng cu Đất…
Cục cầm phắt cái rổ trứng lên. Nhưng Bính còn hăng máu hơn.
Chị níu hai tay giằng lại.
Vợ chồng giằng co nhau. Rổ trứng rơi xuống đất, vỡ nhoe nhoét
vàng.
Vụ xô xát ấy báo hiệu một ngày bi thảm.
Đang khơi con mương cạn ngoài cánh đồng Cửa Ao, thấy tiếng
máy bay phản lực quần đảo, rồi những cột khói ngất trời bốc lên từ phía cầu
Thanh Am, Cục bỗng thấy nhói trong ngực.
Tiếng người thất thanh khắp đồng:
- Làng nước ôi, Mỹ bỏ bom rồi!
- Nó bỏ bom bệnh viện Phương Đình… ình… ình…
- Cả cầu Thanh Am nữa. ối giời ơi, đang phiên chợ Thanh Am.
Thế này thì chết cả làng…
Cục quăng cái cuốc xuống mương, vắt chân lên cổ chạy tắt đồng.
Suốt từ lúc rổ trứng vỡ, Cục luôn tự phỉ nhổ mình. Cái tay lành cầm cái tay tật
nguyền, Cục vả đánh bốp vào mồm mình. Cho chừa cái thói cục cằn. Càng nghĩ càng
thương vợ đến thắt lòng. Chỉ nhịn ăn mặc để dành cho chồng con chứ nào có nghĩ
đến mình. Tại cái tính khí hổ lửa của Cục mà mấy lần đã làm khổ vợ con. Linh
tính báo cho anh biết, Bính nguy mất.
Sau trận bom, người từ khắp ngả đổ về, bất chấp cả máy bay Mỹ
có thể quay lại. Học sinh từ trường cấp ba, từ các trường cấp một, hai gần đó
cũng đồng loạt nghỉ học kéo đến đen đặc. Tiếng kêu khóc, gào thét tìm người
thân náo loạn.
Cục đứng giữa một vùng khói bom khét lẹt, đất đá cày xới, như
thuở hồng hoang. Cánh tay liệt buông thõng xuống như một dấu than bất lực.
Không còn dấu vết đâu là dãy hàng xén, đâu hàng thịt, đâu hàng rau cỏ, quang thừng.
Chắc là Bính ngồi ở chỗ hàng chuối và rau lợn. Có khi mà bán hàng xong Bính đã
về nhà…
- Bố ơi, con nhìn thấy đôi quang gánh của nhà ta ở búi tre đằng
kia - Thằng Công từ đâu bỗng chạy đến bên Cục, mặt cắt không còn giọt máu.
- Đâu? Ở đâu? Có thấy mẹ mày không? - Cục run bần bật cầm tay
con chạy đến chỗ bụi tre bị chẻ tan như sơ mướp, từng búi rễ gộc chổng ngược
lên trời. Trên chót đầu mấy ngọn tre treo những vòng thừng trắng lốp như khăn
tang.
- Mẹ và em mày… - Cục mếu máo nhìn quanh, rồi anh bỗng hộc
lên khi nhận ra chiếc khăn vuông cùng mớ tóc dài của Bính phơ phất trên đỉnh một
cây dừa cụt ngọn.
- Ối bố ơi! Mẹ con… em con…
Thằng Công khóc thét lên nhảy bổ xuống đáy hố bom sâu như một
cái giếng gần đó. Cục và mọi người cũng nhảy ào theo. Đào bới một lúc thì thi
thể Bính hiện ra. Một cánh tay Bính bay đâu mất. Khoang bụng trống hoác, chỉ là
một khối thịt và máu lùng bùng. Mặt Bính biến dạng. Cả mớ tóc dài và mảng gáy
cũng bay mất…
Bất chấp mọi người ngăn cản, thằng Công lăn xả, ôm lấy mẹ:
- Ối mẹ ôi là mẹ ôi! Chỉ vì thằng Mỹ mà mẹ và em chết thê thảm
thế này…
Đang gào, thằng Công bỗng trợn mắt nhìn ngược lên, ánh mắt
như muốn đốt cháy cá bầu trời.
- Đ. m. thằng Mỹ, tao sẽ giết mày…
Quá đau đớn vì căm thù, nó ngất lịm đi bên xác mẹ…
Bính chết không toàn thây. Đứa con trong bụng chưa rõ hình
hài cũng bay đâu mất. Nhiều nạn nhân xấu số khác cũng chết không toàn thây. Các
lực lượng dân quân, thanh niên xung kích toàn huyện đào bới suốt một ngày cũng
không tìm thấy cánh tay và phần ổ bụng của Bính. Hai mẹ con để chung một cỗ
quan tài mà vẫn bị vẹt một góc.
Đám tang Bính, người đen đặc cả cánh đồng. Chính quyền địa
phương muốn biến đau thương thành lòng căng thù giặc Mỹ, đã huy động cả xã về
đây. Từ xưa đến giờ làng Động mới có một đám tang đông như thế. Nhìn ông chồng
và ba đứa con trai, một mụn con gái trứng gà trứng vịt bọc kín trong mớ khăn áo
xô vật vờ đi sau quan tài, không ai cầm được nước mắt. Duy mỗi cái Hậu, Nguyễn
Thị Kỳ Hậu, mười bẩy tuổi rồi, mà vẫn chẳng biết gì. Nó lũn cũn lúc đi bên bà
Phúc, lúc chạy đến cõng cái Ruộng, cô tha cháu mà như nhái tha cóc, vẫn còi cọc,
nhỏ xíu như cô bé lên năm. Gương mặt Hậu già nhăn nheo trùm trong chiếc khăn trắng,
thỉnh thoảng cứ ngửa lên nhìn bầu trời chỉ trỏ rồi nhăn nhở cười.
Lúc sắp hạ huyệt, người ta bỗng thấy một đám người hớt hải từ
cổng đồng đi ra. Dẫn đầu là cái dáng cao gầy cửa Vỹ. Tiếp đó là mẹ con Khiêm và
mẹ con chị Là. Thằng Chiến Thống Nhất được về quê như chim sổ lồng, một mình đội
vòng hoa tang trên đầu, chạy vống lên phía trước. Bé Mai trằn xuống khỏi lưng mẹ,
vừa chạy theo vừa gọi anh Nhất ời ời.
Chín giờ đêm qua, nghe bản tin thời sự của Đài tiếng nói Việt
Nam, vợ chồng Vỹ đã biết tin giặc Mỹ ném bom cầu Thanh Am, đúng lúc phiên chợ
huyện đông nhất. Cả đêm hai vợ chồng không ngủ. Làng Động chỉ cách cầu Thanh Am
hai cây số theo đường chim bay. Không khéo ma làng có giỗ trận. Quả nhiên sáng
ra thì có điện khẩn. Rồi mẹ con chị Là đi xe commăngca đến, bảo về ngay, thím Cục
trúng bom.
Xe không qua được cầu Thanh Am, phải đi vòng đường khác về
làng, xa gần hai chục cây số. Đứng trước đoạn đường cấm người xe, Vỹ nhận ra
bãi bom kéo dài tới gần dốc bệnh viện. Cái đoạn đê qua cầu Thanh Am này suốt từ
thời ấu thơ đã quá quen thuộc với Vỹ. Đã có bao lần bọn học sinh lớp Vỹ kéo
nhau lên chỗ tháp cống, nơi con sông Đào chảy vào sông Điền để nhìn bọt sóng
sôi réo qua cửa cống mùa nước lũ. Cái cầu bé nhỏ và những người dân lương thiện
nào có tội tình gì?
Hình ảnh trận bom do từng đàn máy bay Hen-cát và Khu trục của
Pháp giết hại gần một trăm dân công ở dốc Cò Nòi trên đường vào Điện Biên năm
nào lại hiện về. Vỹ là một trong những phóng viên mặt trận có mặt tại hiện trường
đâu tiên. Khắp nơi ngổn ngang đất đá, cây đổ và bốc lên mùi tử khí. Cái mùi của
chết chóc, ở đâu cũng không lẫn được. Đế quốc Mỹ bây giờ và thực dân Pháp trước
đây có gì khác nhau? Chúng cùng một duộc. Thậm chí Mỹ còn dã man tàn ác hơn, vì
chúng đã có công nghệ huỷ diệt.
Suốt từ khi xuống xe cho tới lúc ra nghĩa địa, cả bầu đoàn
thê tử Hà Nội không ai nói một lời nào. Thấy đám người đội khăn trắng đứng đông
nghịt, mấy đứa trẻ nem nép sợ hãi. Bé Mai mọi khi vẫn nhũng nhẽo bắt mẹ bế, hôm
nay bỗng cun cút đi một mình.
Ông Chủ tịch xã Lưu Văn Ngao, tức Đĩ Ngao, người hàng xóm đã
từng bắt bỏ tù Cục trong vụ cắt của quí của Đội Tựu ngày nào, thay mặt chính
quyền, đọc một bài điếu văn dài, hình như chép sẵn từ một bài xã luận báo,
trong đó chủ yếu lên án Đế quốc Mỹ xâm lược:
- Tội ác của giặc Mỹ trời không dung, đất không tha - Giọng
Chủ tịch Ngao hừng hực căm thù - Theo thống kê sơ bộ của huyện, ngày hôm qua giặc
Mỹ đã giết hại một trăm ba mươi sáu người. Nếu kể chị Bính và đứa con sắp đến
tháng đẻ là một trăm ba mươi tám. Đó là chưa kể những người vãng lai thuộc các
tỉnh, huyện khác. Riêng làng Thanh Am, nơi bị bom, số người chết lên tới bốn
mươi ba người. Ngoài ra còn có hai trăm sáu mươi tám người bị thương, có mười bẩy
người đang rất nguy kịch… Để biến đau thương thành hành động, ngay từ giờ phút
này cả xã ta sẽ phải tiến hành một chiến dịch đào hầm hào trú ẩn. Tất cả các xã
viên ra đồng đều phải có nùn rơm, mũ rơm, túi thuốc bông băng. Một trăm phần
trăm dân quân du kích phải có súng và giáo mác, sẵn sàng đề phòng biệt kích và
bắt phi công giặc. Nhân đây xin thông báo một tin vui: Ngày hôm qua quân và dân
miền Bắc đã bắn rơi tám máy bay Mỹ, trong đó quân dân Hàm Rồng, Thanh Hoá hạ
rơi bốn chiếc F4, một F105…
Bài điếu văn kết thúc bằng những lời hiệu triệu:
- Hãy biến đau thương, căm thù thành hành động cách mạng cụ
thể. Hãy thực hiện khẩu hiệu "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người". Cụ thể trong đợt giao quân vào ngày mười hai tháng tới, toàn xã ta
sẽ giao vượt mức hai mươi hai thanh niên lên đường nhập ngũ… Chị Bính ơi, chị mất
đi là một tổn thất vô cùng lớn lao của anh Nguyễn Kỳ Quặc và các cháu Công; Cải,
Cách, Ruộng. Cái ý định sinh một thằng cu Đất nữa cho đủ bộ tứ cũng đã bị giặc
Mỹ xoá bỏ. Tội ác của Đế quốc Mỹ trời không dung, đất không tha… Chúng tôi, những
người ở lại xin hứa với chị, biến những cánh đồng quê ta thành cánh đồng diệt Mỹ,
đạt năng suất năm tấn một hecta…
Những nắm đất được ném xuống huyệt mộ.
Thằng Công đâm bổ xuống nắp quan tài. Mấy thanh niên khoẻ phải
kéo mãi mới đưa nó lên được. Những tảng cỏ cuối cùng đã ấp lên phần mộ. Vòng
hoa duy nhất được mang từ Hà Nội về, như tấm huân chương cho người xấu số.
Vỹ thay mặt gia đình nói lời cảm tạ:
- Gia đình chúng tôi không biết nói gì để cám ơn tấm lòng của
bà con làng xóm, họ hàng nội ngoại cùng anh em bạn bè… đã đến tiễn đưa mẹ con
thím Bính về nơi an nghỉ cuối cùng… không ai ngờ rằng, những ngày hoà bình của
chúng ta lại ngắn ngủi thế, rằng chúng ta tưởng đã đánh đuổi sạch kẻ thù trên mặt
đất, nào ngờ bây giờ chúng lại đột ngột kéo đến từ chân trời. Một kẻ thù vô
cùng hiểm độc và man rợ…
Theo ánh mắt Vỹ, tất cả mọi người đều ngước nhìn lên. Và cũng
giống như anh, tất cả đều giàn giụa nước mắt, nhưng đanh sắc hận thù.
Ngay sau lễ tang, mẹ con Là phải theo xe về Hà Nội, vì xe mượn
của cơ quan Chiến Thắng Lợi, không thể ngủ qua đêm.
Trước khi đi, chị Là thắp hương, khóc nức nở, rồi móc trong
túi áo ra tất tật tiền nong, tem phiếu, đặt vào cái đĩa để trước bài vị Bính.
- Nói là chị em dâu với nhau, nhưng chưa bao giờ được hàn
huyên trọn một ngày. Thím Bính mất đi, vợ chồng tôi đau xót lắm. Anh Lợi bận
công tác trung ương không về được, uỷ quyền cho tôi về chia buồn với chú và các
cháu. Tính tôi có sao nói vậy, số tiền và tem phiếu này vợ chồng tôi thêm cặp
vào để giúp chú Cục nuôi các cháu. Tôi hứa, từ nay mỗi tháng sẽ gửi tiếp tem
phiếu về…
Thằng Chiến Thống Nhất cũng bắt chước mẹ, móc từ trong túi quần
ra cả một cuộn tiền.
- Con cũng góp vào với mẹ để nuôi em Ruộng với em Cải, Cách…
Ai cũng tròn mắt ngạc nhiên vì số tiền của thằng Nhất còn nhiều
hơn cả số tiền của chị Là. Thì ra đó là tiên tiết kiệm ăn sáng của Nhất: Cả bố
và mẹ cùng cho cậu, khiến cậu tiêu mãi mà không hết.
Tiễn mẹ con Là về rồi, Khiêm thầm nói với chồng:
- Em đã đi kiểm tra khắp cả trong buồng ngoài nhà. Không biết
chú thím ấy có gửi đâu không, chứ vừa gặt xong mà trong bồ chỉ còn vỏn vẹn hai
thúng thóc, dăm cân gạo, một vại khoai kilô với chục bắp ngô giống treo trên xà
nhà. Toàn bộ số lương thực kia chỉ đủ nuôi con lợn còi cọc trong chuồng, con
chó ghẻ, chứ không nói gì đến người. Không biết rồi bố con chú Cục sống làm
sao?
- Thím Bính đã đành… Bây giờ cần nhất là lo cho người sống…
- Anh ạ, hay mình thưa với u và chú Cục xin cho bé Ruộng ra ở
với bé Mai nhà mình. Anh có để ý hai đứa nó hí húi chơi với nhau thân thiết đến
thế nào không?
- Anh biết rồi - Vỹ như đọc thấy ý nghĩ của vợ - Em muốn giúp
chú Cục, bớt cho chú ấy một miệng ăn lúc này…
- Vâng. Ái ngại cho chú ấy quá. Gà trống một nách bốn đứa
con…
- Anh lại nghĩ rộng hơn… Về lâu dài, vợ chồng mình phải đón u
và em Hậu ra ở cùng… Trước mắt, u với em Hậu phải giúp bố con chú Cục. Tất
nhiên vợ chồng mình phải hỗ trợ phía sau. Mình nuôi con Ruộng là mới bớt cho
chú ấy một miệng ăn. Còn ba cái tầu há mồm kia, mình Cục không kham nổi. Phải dồn
tất cả bà cháu vào một bếp. U và cái Hậu cũng phải sang ở cùng bố con chú Cục để
bà tiện chăm sóc các cháu và hỗ trợ chú ấy công việc nhà…
- Em có chiếc vòng mợ cho từ ngày trước, chẳng có dịp nào
dùng đến. Em muốn đưa cho u để đong mấy tạ thóc trợ cấp cho bố con chú Cục anh ạ…
Những lúc lâm sự thế này, Vỹ mới thấy hết tài đảm đang và
quán xuyến của Khiêm. Như người tổng chỉ huy, từ nghĩa địa về, nàng xông ngay
xuống bếp, đưa tiền nhờ người mua gạo nếp, gạo tẻ, mua gà, rau, củ, cắt đặt người
nấu nướng ngay một mâm cơm cúng và mấy mâm cơm cho những người ở xa. Tự tay
nàng lôi con Ruộng, thằng Cách ra bể nước, kỳ cọ tắm táp cho chúng, bắt hai thằng
anh Công, Cải cũng phải làm theo. Rồi, như có phép lạ, nàng lấy từ trong túi
xách ra cho mỗi đứa một bộ quần áo còn thơm phức mùi băng phiến.
Cả cái Hậu, cả Cục cũng có quần áo nức mùi băng phiến. Thì
ra, không biết tự bao giờ, nàng đã gom những bộ quần áo của nàng, của bà Ba
Yên, của Vỹ, của cả cậu Khánh, đã lâu không mặc tới, tự tay nàng sửa chữa, cắt
vá lại, để dành mang về quê.
Ý định của Khiêm được Vỹ chấp thuận ngay. Anh quyết định triệu
tập cuộc họp toàn gia đình, có mời cả ông bà Phó Bùng, bố mẹ Bính tham dự, với
mục đích giúp bố con Cục ổn định cuộc sống.
Chưa họp, bà Phó Bùng đã ôm mặt khóc ời ời.
- Chỉ con chết đi là thiệt, con ơi. Tiên sư cha cái thằng giặc
ác…
Ông Phó Bùng vốn là một lực điền. Hơn bẩy mươi, chòm râu rễ
tre đốm bạc, vểnh ngược, trông lúc nào cũng quắc thước như nhân vật Châu Xương
con nuôi Quan Vân Trường trong Tam Quốc, vậy mà từ hôm qua đã già sọm thêm chục
tuổi Cái khối u trên gáy ông như càng gồ cao, đẩy mái tóc rễ tre trĩu xuống.
Tai vốn nghễnh ngãng, lúc này ông cố nghiêng bên này bên kia mà cung không hiểu
vợ chửi ai, chửi cái gì. Lắc đầu thất vọng, ông đập đập vào tay bà ra hiệu đừng
khóc lóc nữa, rồi nói:
- Trách móc làm gì cho thêm rối ruột. Bà có giỏi thì sang nước
Mỹ mà bắt thằng giặc nó đền trả con bà. Tôi bàn với bà rồi. Vợ chồng lão già
này tuy sắp xuống hố, nhưng tự tay còn lật cỏ bới đất kiếm miếng ăn được. Có thằng
chú út năm nay mười chín tuổi, sắp tới tôi cho đi nghĩa vụ, trả thù cho chị nó.
Người sống lúc này là phải biết làm những việc gì. Nhân đây thưa với bà và hai
bác Vỹ từ Hà Nội về. Bà và hai bác cho nhà chúng tôi xin bốn đứa trẻ về nuôi
cho chúng ăn học.
Ông phó Bùng chưa nói hết, bà phó đã lại khóc ồ ồ.
- Cho tôi nuôi cả bốn đứa cháu tôi. Cả thằng Công, thằng Cải,
thằng Cách, con Ruộng. Ối con ơi là con ơi. Vì thằng Mỹ mà con phải bỏ bốn đứa
con giữa đường giữa chợ. Thầy u không bỏ các con con đâu. Thầy u sẽ thưa với bà
Phúc xin được nuôi cả bốn cháu…
Cuộc họp đã xoay chuyển hẳn so với dự kiến của Vỹ và Khiêm. Ý
định xin đem con Ruộng ra Hà Nội để bé Trinh Mai có chị có em, giờ đưa ra lại
thành chuyện vuốt đuôi, chuyện đãi bôi. Nhưng với cương vị người anh, người có
trách nhiệm thu xếp công việc gia đình lúc này, buộc Vỹ phải có một quyết sách
hợp lý.
- Thưa u, thưa ông bà Phó - Vỹ nói – Đây là lúc bố con chú Cục
cần có tình máu mủ ruột rà. Tấm lòng của ông bà Phó, khiến chú Cục và cả gia
đình cháu ghi ân lắm. Tuy nhiên, cần phải có sự chia sẻ trách nhiệm, kết hợp với
hoàn cảnh và điều kiện cụ thể từng trường hợp. Ông bà Phó cũng đã già rồi. Tuổi
già cần được nghỉ ngơi, tĩnh tại. Vả lại chú Cục cũng phải có các cháu bên cạnh
để bảo ban, giúp đỡ. Cháu xin phép ông bà Phó được đề xuất cách giải quyết thế
này: Từ nay u và em Hậu sẽ sang ở với chú Cục để giúp chú Cục trông nom cửa
nhà. Thằng Công, anh cả, cùng với thằng Cải, hai cháu đều đã lớn, cần ở với bố
để được rèn cặp. Các cháu vừa đi học, vừa lao động thêm để giúp đỡ bố, Thằng
Cách đã học lớp hai, cũng đã biết làm việc vặt, nay xin được ở với ông bà ngoại
để ông bà nuôi và cho ăn học. Riêng cháu Ruộng, con gái út, còn thơ dại, mất mẹ
là thiệt thòi nhất. Con bé rất hợp với cháu Trinh Mai. Vợ chồng cháu xin được
đưa cháu Ruộng ra Hà Nội để chị em chúng có nhau…
Phương án của Vỹ, cân đi nhắc lại, ai cũng thấy hợp lý. Cả
nhà cùng nhất trí cao.
Hội nghị gia đình đang định giải tán, thì bà Lý Phúc bỗng như
sực nhớ điều gì, tất tả chạy về nhà thờ. Vỹ bảo Khiêm về theo. Lúc sau, hai mẹ
con trở lại với một gói vải lụa đỏ, bé như quả quýt trên tay bà Phúc.
- Suốt mấy năm trời, tôi quên bẵng đi - Bà Phúc vừa quệt nước
mắt vừa nói - Đây là đôi nhẫn cưới của vợ chồng nhà Cục. Mẹ Bính nó lo xa,
không dám dùng đến, nên đã gửi tôi. Tôi vẫn cất giữ cho mẹ Bính từ ngày đó. Nay
tôi đưa lại để bố Cục bán đi mà nuôi con. Phần tôi với con Hậu, không nói làm
gì: Tôi thương nhất bốn bố con nhà Cục. Một đứa về ở với ông bà ngoại, một đứa
ra Hà Nội ở với nhà Vỹ là phải rồi. Còn ba bố con anh Cục, giờ thì không cho,
tôi cũng cứ ở. Gà trống nuôi con một mình khổ lắm. Bố nó lại đâu có được lành lặn
như người ta…
Mọi người không ai hiểu vì sao lại có đôi nhân cưới này. Cục
nhìn, như lần đầu tiên biết đến thứ kim loại quí hiếm màu vàng.
- U cứ giữ lại - Cục đưa lại đôi nhẫn vàng cho bà Phúc - Bây
giờ con chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến vàng.
Cục cố nhớ lại. Anh đưa tay vỗ lên mớ tóc xoăn màu râu ngô.
Chợt như có một luồng sáng loé trong đầu Cục. Từ giữa luồng sáng ấy, vụt hiện
hình ảnh người đàn bà, dáng lịch lãm từng trải, đi xe ô tô từ thị xã về dự đám
cưới vợ chồng Cục năm nào. Bà Cam, đúng rồi. Người đàn bà từng tha thẩn rình
hai cậu bé Cục và Vện chơi bên bờ ao ngày xưa, người hay đóng giả bà mua đồng
nát thường lui tới nhà ngày ông Lý Phúc còn bốc thuốc và giữ chân lý trưởng.
Chính bà Cam ấy đã tặng cậu bé Cục chiếc dây bạc vuốt hổ mà con Ruộng đang đeo
trên cổ kia. Chính đôi nhẫn kia nữa, bà Cam đã đeo vào tận tay Cục và Bính
trong đám cưới chạy của hai người.
Bà Cam, người phụ nữ tốt bụng và bí ẩn ấy, giờ ở đâu?
Chương 13
Nỗi đau người mẹ
Ni sư Đàm Hiên, người đẹp chùa Phổ Hướng năm nào, giờ đã là
bà Cam, phó chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh, một vị thiếu phụ tuổi ngoài bốn mươi.
Đóa hoa, dù rực rỡ lộng lẫy nhường nào, cũng chỉ có một thời.
Người đẹp, dù sắc nước hương trời như các đại mỹ nhân Trung Hoa: Tây Thi, Điêu
Thuyền, Dương Quý Phi, Võ Tắc Thiên… rồi cũng đến lúc tàn phai. Với Cam, quy luật
của sắc đẹp nghiệt ngã hơn nhiều. Chị như nhân vật trong câu nói của người xưa:
"Gái ba mươi tuổi đã toan về già". Chị tưởng như chưa hề có tuổi
xuân, chưa hề được trải qua đời thiếu nữ, chưa hề biết đến hạnh phúc làm vợ,
làm mẹ. Đôi lúc, trong đâu đó ký ức, xa hút, mờ mịt như ở một thế giới nào, hiện
về hình ảnh ba ngày thần tiên ở phố Phương Đình. Đời đàn bà của Cam chỉ có ba
ngày thần tiên ấy. Triền miên trong suốt mấy chục giờ đồng hồ. Thỏa thuê giữa
thanh thiên bạch nhật. Ngây ngất tận hưởng nguyên khí tinh khôi của người trai
cuồng nhiệt mê đắm. Nếu kể từ cái buổi chiều như muốn phát điên vì phải dồn nén
quá nhiều thèm khát dục tình trong cái nhà kho chùa Phổ Hướng ấy, thì ba ngày
thần tiên ở Phương Đình, là sự bù đắp tuyệt vời, là đỉnh điểm của ái tình, đủ
cho Cam sống một đời. Và cũng chỉ thế thôi. Sau đó là những chuỗi ngày dài dằng
dặc kìm giữ và giấu mình, thậm chí phải lên gân cốt, đạo đức giả. Cách mạng,
theo đúng nghĩa đen của mọi thời, gần với tôn giáo ở bản tính hà khắc, cay nghiệt
và thói đạo đức giả, vì tính mục đích của nó, đã vô tình triệt tiêu đến mức tối
đa bản năng con người. Bản năng lớn nhất, thậm chí duy nhất là tính dục. Vì thế
bao nhiêu tuổi xuân đã bị chôn vùi. Tuổi xuân của Cam cũng vậy. Suốt từ mối
tình vụng trộm và kết trái ở Phương Đình, chị hầu như đã xong thiên chức đàn
bà.
Ngắn ngủi vậy sao, một phận đàn bà? Câu hỏi này thoạt đầu khiến
Cam bâng khuâng, lo âu hàng nửa tháng trời. Sau đó thì đau đớn, cay đắng, nuối
tiếc khôn nguôi.
Sự kết thúc thiên chức đàn bà của Cam xảy ra cách đây một
năm. Đó là thời kỳ Cam được triệu tập về học trường Chính trị cao cấp, một khóa học mười hai tháng đào tạo cơ bản cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và cấp bộ,
ngành trung ương. Mười hai tháng, chia làm bốn học kỳ, tương đương với bốn năm
học chính quy. Tốt nghiệp khoá học này, coi như không cần học thêm một văn bằng
chứng chỉ nào.
Giống như những Cử nhân thời Tây, đã qua trường hậu bổ là có
quyền làm quan cai trị ở bất cứ đâu. Chương trình học không khó, nhưng nhiều
khái niệm mới, mơ hồ và trừu tượng, buộc học viên chỉ có cách duy nhất là thuộc
lòng. Chỉ cần học thuộc lòng, không cần hiểu, là có thể đạt điểm cao. Như hầu hết
học viên trong khoá học, những bí thư, chủ tịch huyện, trưởng, phó ty, vụ trưởng,
vụ phó, giám đốc, trưởng phó ban, ngành… những người xuất thân từ công nông
binh, Cam cũng ù ù cạc cạc như cô học trò lớp hai phải theo học chương trình đại
học. Không biết thì càng phải cố. Học ngày học đêm, bất kể ngày lễ chủ nhật. Hoảng
nhất là viết thu hoạch, kiểm tra hết học phần. Cả lớp đối phó. Lừa giáo viên ra
ngoài để copy giở sách. Chưa xong phần Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, đã
đến phần Kinh tế chính trị học. Rồi hai con đường. Rồi lịch sử giai cấp… Chỉ
sau ba tháng học vẹt, Cam đã sút năm cân. Không thể do ăn uống kham khổ. Thời nằm
bờ ngủ bụi hoạt động bí mật trong vùng địch hậu khu Ba, nhịn đỏi là thường mà
Cam vẫn phây phây. Vậy thì tại sao mỗi ngày cơ thể Cam cứ teo tóp? Có lần, nhặt
được một mảnh gương vỡ còn bằng cánh cửa sổ, Cam mang về phòng, giữa trưa, đóng
chặt cửa lại, cời hết quần áo để soi. Nồng nỗng trong gương, Cam tưởng như mình
đang gặp một mụ già lạ hoắc nào. Cam tiếc ngẩn ngơ cái thời phồn thực thầy tiểu
Hiên ở chùa Phổ Hướng, tiếc xót xa ba ngày thần tiên với Khôi ở Phương Đình. Bầu
vú mới hôm qua còn ngồn ngộn, căng đầy, giờ đã tóp lại, chảy xệ. Cam mơ hồ cảm
thấy trong người mình có sự đổi khác. Và quả nhiên, vào đúng cái tháng thứ ba của
khoá học, đúng kỳ thi hết phần một giáo trình, Cam chờ đợi mãi vẫn không thấy
kinh nguyệt.
Chẳng lẽ mới hơn bốn mươi tuổi Cam đã tắt kinh? Câu hỏi này
sâu xoáy trong đầu, có lúc nhức buốt như có ai đó xọc một chiếc kim dài xuyên
suốt hai bên thái dương, có lúc tê dại, choáng váng như bị giáng một vật nặng từ
trên cao. Bốn đêm liền Cam không chợp mắt. Hay là mình có thai? Chỉ có ý nghĩ
có vẻ như ngớ ngẩn này mới đủ chứng cứ khoa học để có thể giải thích được hiện
tượng tắt kinh ở người đàn bà đang còn tuổi sinh nở. Nhưng có thai với ai? Bao
giờ? Điều này thì Cam quá biết rõ mình. Suốt từ ngày đẻ bé Lê Kỳ Chu, Cam không
hề có sự đụng chạm với bất kể người đàn ông nào. Sự phản bội của Khôi khiến Cam
căm thù và ghê tởm tất cả bọn giống đực. Có lẽ như vậy. Nhưng cũng còn do hoàn
cảnh chiến tranh và sự nghiêm khắc của tổ chức nữa. Đã nhiều lúc Cam cũng tự cảm
thấy mình như đang biến đổi giới tính. Cam mọc râu mép và rậm rì lông nách. Cam
mạnh mẽ và lạnh lùng, lý trí và vô cảm.
Rồi Cam cũng cố tìm ra nguyên nhân. Phải rồi. Nếu tính từ buổi
sáng đồng chí Chiến Thắng Lợi, Phó Ban X, đến giảng bài chuyên đề "Hai con
đường" cho tới khi Cam tắt kinh, đã gần hai tháng.
Tưởng thầy giáo Chiến Thắng Lợi là ai, hoá ra chính là Nguyễn
Kỳ Khôi, người mà Cam từng kỳ công tìm kiếm suốt mười mấy năng trời.
Cố tình thu nhỏ người lại, và ngồi tận góc dãy bàn cuối lớp học,
mà Cam vẫn tưởng như mình trần truồng, loã lồ dưới ánh mắt sáng rực như đèn pha
của đồng chí Chiến Thắng Lợi. Chính sự kinh ngạc đến sững sờ khi chợt phát hiện
ra Cam, rồi ánh mắt xăm xoi bỡn cợt của đồng chí đã khiến Cam có ý nghĩ ấy.
Khôi giờ đã là người đàn ông với tất cả sự hoàn hảo và thành đạt. Một giảng
viên tầm cỡ dạy ở một trường hậu bổ tối cao của chính thể. Nhưng đôi mắt sâu có
phần âm u, bí hiểm và ánh nhìn sáng quắc mỗi khi chiếu rọi, thì vẫn là của
chàng trai mười tám tuổi trong ba ngày thần tiên ở Phương Đình ấy. Cam tin chắc
là Khôi nhận ra nàng ngay, dù nàng ngồi ở bất cứ xó xỉnh nào trong lớp học.
Trong giây lát, khi ánh mắt họ gặp nhau, Cam cảm giác như mình bỗng lên con sốt
Nhật kỳ lạ. Xen giữa tâm trạng yêu thương xa xót là sự căm ghét, hận thù. Cơn sốt
giờ đã giần giật trong từng li ti huyết quản. Mặt nóng phừng phừng. Cam đưa tay
lên trán. Thân nhiệt chắc đã lên tới bốn mươi độ.
Nhưng phải đợi đến giờ nghỉ giữa tiết học, Cam mới báo cáo lớp
trưởng, trốn về phòng. Cơn sốt nóng lui, liền chen cơn sốt rét. Phải đắp chăn
bông và đi tất dài.
Buổi chiều, giảng viên Chiến Thắng Lợi đột ngột đến thăm. Đó
là bất ngờ lớn nhất mà Cam không lường trước. Cam cố gượng ngồi dậy, nhưng Lợi
đưa tay ngăn chị lại.
- Suốt mười mấy năm qua tôi vẫn đi tìm Cam.
Cam biết Lợi nói dối, anh đã quá quen với thói đạo đức giả,
nhưng chị không muốn nói lại.
- Chiến tranh… biết làm sao được. Cam hãy tha lỗi cho tôi. Và
chúng ta hãy giữ mãi kỷ niệm với một thời tuổi trẻ bồng bột.
- Thôi thầy đừng nói nữa. Tôi đã quên lâu rồi… Tôi thậm chí
không nhận ra giảng viên Chiến Thắng Lợi là ai khi thầy bước lên bục giảng. Với
tôi, Nguyễn Kỳ Khôi đã chết…
Giờ thì Lợi hiểu ra rằng Cam vẫn không tha thứ cho sự trốn chạy
của anh. Nghe câu nói đủ biết Cam căm thù, nhưng vẫn còn yêu…
Im lặng hồi lâu, như chẳng còn điều gì để nói. Bỗng Lợi ngồi
vào mép giường, cầm tay Cam.
- Cam vẫn còn giấu tôi. Hình như giữa chúng mình vẫn còn một
giọt máu… Con chúng ta ở đâu?
- Hình như ư? Không có chuyện ấy đâu - Cam hất tay Lợi ra, cố
ngồi dậy, ánh mắt đầy giễu cợt - Người trần làm sao có thai được với ma? Thầy
hãy yên tâm rằng giữa chúng ta không dính líu điều gì. Với tổ chức thầy vẫn
trong sạch và hoàn toàn được tin cậy. Đường quan lộ của đồng chí Chiến Thắng Lợi
vô cùng thênh thang rộng mở…
- Cam, đừng giấu tôi. Nếu chúng ta có con, thì giờ là lúc tôi
có điều kiện chuộc tội lỗi… Bằng bất kỳ giá nào, tôi sẽ lo cho con… Cho cả Cam
nữa. Hết khoá học này, Cam có thể đề đạt nguyện vọng…
- Thưa thầy Chiến Thắng Lợi, đồng chí Chiến Thắng Lợi, câu
chuyện của chúng ta nên chấm dứt ở đây! - Cam hất mớ tóc qua vai Coi như chưa
bao giờ tôi gập anh Nguyễn Kỳ Khôi… - Tôi mệt lắm. Tôi cần được nghi ngơi.
Chiến Thắng Lợi ra ra khỏi phòng, Cam úp mặt xuồng gối, khóc
xối xả, như vừa chôn cất nửa đời mình.
Tới nửa đêm, khó nhọc lắm, giấc ngủ mới đến chập chờn. Cam mơ
thấy mình trở lại phố nhỏ Phương Đình. Thầy giáo Chiến Thắng Lợi từ trên bục giảng,
cắp theo tập giáo trình "Hai con đường", chạy theo Cam về tận căn nhà
có giàn hoa giấy. Rồi thày trải kín tập giáo trình lên giường, thành một chiếc
đệm, dày mà êm ái. Những trang giáo trình biến thành những trang "Tố Nữ
kinh". Thầy Lợi cởi quần áo, thoắt trở thành chàng trai mười tám tuổi Nguyền
Kỳ Khôi, với những cơ bắp cuồn cuộn, sung mãn, với khẩu đại pháo dũng mãnh, lúc
nào cũng căng một góc bốn mươi lăm độ. "Anh mới đọc được bộ sách "Tố
Nữ kinh", một bí truyền về cách làm tình của vua chúa Trung Hoa. Sách dạy
có chín kiểu làm tình của bậc đế vương. Anh sẽ bù lại cho em bằng lần lượt các
kiều "Long phiên" (Trứng lộn ngược), "Hổ bộ" (con hổ bước
đi), "Viên bác" (con vượn chạy), "Thiền phụ" (con ve bám),
"Qui đằng (con rùa bay lên)…"
Không đợi Cam có đồng tình hay không, bằng hàng loạt động tác
mạnh mẽ, dứt khoát và chính xác, Khôi lột hết quần áo trên người Cam, rồi ôm xiết
lấy nàng mà ngấu nghiến, cào xé…
Có lẽ Cam đã tắt kinh từ đêm mơ ấy?
Sau lần ấy, Cam vĩnh viễn chấm dứt một kiếp đàn bà.
Cam trở về làng Động lúc đã xế chiều. Vụ máy bay Mỹ bỏ bom cầu
Thanh Am, ngay hôm sau, đài báo đã loan tin, nhưng tin Bính, vợ Cục, bị chết
trong trận bom ấy thì một tuần sau chị mới biết.
Cam tưởng như mình cũng vừa bị bom Mỹ thả trúng đầu. Tin sét
đánh làm bật dậy tình mẫu tử tưởng bao năng đã ngủ quên trong chị. Ở người cán
bộ phụ vận lúc nào cũng tất bật vì những công việc, lúc nào cũng đăm chiêu
nghiêm nghị trước những chỉ thị, nghị quyết, hoá ra vẫn ẩn kín những phấp phỏng
lo âu, những ái ố hỉ nộ của kiếp người. Tận góc thẳm sâu, trong đáy trái tim,
trong góc não bộ, Cam vẫn luôn dành cho Cục, cho Chu, hai giọt máu oan nghiệt của
đời chị một tình mẫu tử thiêng liêng.
Với Lê Kỳ Chu, Cam đã công khai ghi trong lý lịch công tác,
khai bố Chu chính là đồng chí Lê Thuyết, một cán bộ cách mạng kiên cường bị Quốc
Dân đảng giết ngay sau ngày chị có mang. Vì hoàn cảnh công tác, Chu phải gửi về
ở với bà ngoại ở Mường Bi. Nhưng với Cục, giọt máu oan nghiệt với tên ác ôn
Trương Phiên thì Cam phải giấu biệt. Cục là nỗi day dứt khôn nguôi của Cam. Đã
có lúc chị muốn đầu thú với tổ chức. Muốn trở thành con người thật của mình. Muốn
được công khai làm mẹ, làm bà. Rồi muốn ra sao cũng mặc. Chị sẽ đón vợ chồng
con cái Cục về Mường Bi dựng một nếp nhà ở chung với Chu, nơi có phần mộ của
người mẹ khốn khổ vừa mới qua đời.
Nhưng rồi Cam vẫn không thể thoát khỏi cái vỏ bọc của mình.
Chị là con người của tổ chức. Cô Bướm ngày xưa đã chết từ cái buổi chiều rét mướt
khi cô điên dại mang đứa con đỏ hỏn vứt bỏ ở búi tầm xuân ông Đống đầu làng Động
ấy rồi. Nặng trĩu nỗi đau và sự ân hận, dày vò, Cam men theo bờ mương, cùng cô
thư ký và anh tài xế đi thẳng ra bãi tha ma cuối làng.
Không cần ai chỉ dẫn, chị nhận ra ngay nơi Bính nằm. Cả bãi
tha ma chỉ có một ngôi mả mới.
Anh tài xế châm hương, đưa cho chị, rồi cùng cô thư ký kính cẩn
lùi lại, chắp hai tay đứng đợi. Cam cầm bó hương cháy giần giật trong gió, đứng
lặng như trời trồng trước ngôi mộ mới.
"Con dâu của mẹ? Mẹ là Đào Thị Cam, mẹ đẻ của Quặc, mẹ
chồng của con đây. Đau xót quá. Cứ tưởng rằng vợ chồng con sẽ sống yên ổn cùng
các con con. Dù cuộc sống còn vô vàn khó khăn thiếu thốn, thiếu cả tình thương
của mẹ, nhưng rồi cũng đắp đổi qua ngày, rồi cũng trôi qua những kiếp người. Vậy
mà giặc Mỹ bỗng từ bên kia biển ập đến, giết hại con một cách dã man, tàn ác.
Con ơi, mẹ không một ngày được ở bên con, được làm mẹ chồng con, cũng không một
ngày được sống bên hai con và các cháu. Nhưng lúc nào mẹ cũng canh cánh một nỗi
nhớ mong, lúc nào cũng cầu Trời Phật phù hộ cho các con.
Mất mát này quá lớn. Sao những người tốt như con, như ông Lý
Phúc lại phải chết oan uổng, hả con? Mẹ cầu mong cho hương hồn con được siêu
thoát. Con hãy phù hộ cho chồng và các con con trên cõi dương gian này…"
Cam san nửa bó hương cho anh lái xe đi cắm ở những ngôi mộ
xung quanh. Chị tìm mộ ông Lý Phúc, thắp ba nén nhang cầu khấn. Phần nửa còn lại,
chị cắm lên mộ Bính, và cứ ngồi phủ phục trước gò đất cho đến khi cô thư ký nhắc
khẽ, chị mới như bừng tỉnh.
- Dạ, muộn rồi. Chúng ta có vào nhà gia chủ nữa không cô? -
Cô thư ký nhìn đong hồ hỏi nhỏ.
- Chúng ta vào nhà chia buồn với gia chủ em ạ. Anh Quặc là
con trai cụ Lý Phúc, người đồng chí và cơ sở của ta hồi kháng chiến…
Cô thư ký trẻ lần đầu đi với nữ thủ trưởng về thăm cơ sở, thấy
ngạc nhiên vô cùng về tính đa cảm và tình thương người của thủ trưởng mình trước
gia đình người xấu số. Vừa nhìn thấy ba chiếc khăn tang trên đầu ba bố con, Cam
đã xoà tay ồm lẩy Cục cùng thằng Công, thằng Cài và khóc nức nở.
- Khổ thân các con cháu tôi. Giữa đường gà trống nuôi con…
Còn thằng Cách, cái Ruộng đâu?
- Dạ cháu. Ruộng ra Hà Nội với bác Khiêm, bác Vỹ. Cháu Cách
sang ở với ông bà ngoại cháu… - Cục trả lời rồi dẫn chị Cam tới bàn thờ.
Cam thắp hương và đứng sụt sùi hồi lâu trước bài vị Bính.
Không ai hiểu tâm trạng Cam lúc này. Một tâm trạng giằng xé đau khổ của người mẹ
phải đóng vai một người khác, phải giấu mình đi trước ánh mắt thế gian, trước cả
phần máu mủ ruột rà của mình.
Không gì có thể bù đắp cho Cục và các cháu, Cam mở túi sách lấy
hết tiến trong túi dúi vào tay Cục.
- Thay mặt Hội Phụ nữ tỉnh, cô và các đồng chí trong cơ quan
đến thắp hương Bính và chia buồn cùng gia đình… Còn đây là tiền của riêng cô.
Cháu cầm lấy thêm cặp vào để nuôi các con… Ngày ông Lý Phúc còn sống, ông Lý
coi cô như người trong nhà. Cháu hãy coi cô như một người thân. Bất cứ lúc nào
khó khăn, cháu hãy báo cho cô…
Nói dứt những lời ấy, không kịp để Cục từ chối, Cam vội bỏ chạy
ra xe.
Ô tô về đến cơ quan Hội Phụ nữ tỉnh cũng là lúc loa phát
thanh trên ngọn cây sấu đầu nhà đang phát buổi thời sự cuối ngày. Cả nước đang
sôi sục như một lò lửa. Đồng bào Nam Bộ thắng lớn ở Bến Tre, Củ Chi. Giặc Mỹ ồ ạt
leo thang bắn phá Vĩnh Linh, Đồng Hới, Bến Thuỷ, Hàm Rồng, Hải Phòng, Việt Trì…
Cả một làng chài bên cửa Nhật Lệ bị bom Mỹ huỷ diệt.
Đội nữ dân quân Ngư Thuỷ bắn đuổi tàu chiến Mỹ. Hàng vạn
thanh niên nông thôn Thái Bình, Nam Định, Hà Tây… viết đơn bằng máu tình nguyện
ra mặt trận. Một nghìn bốn trăm ba mươi sinh viên các trường Đại học Bách Khoa,
Đại học Y khoa, Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm Hà Nội tình nguyện nhập ngũ…
Tiếng phát thanh viên chưa dứt, đã vang lên tiếng hát Bích Liên với "Bài
ca năm tấn": "Năm tấn thóc để góp phần đánh Mỹ. Ruộng đất quê ta
không muốn nghỉ một ngày…"
Trong lúc Cam bật chiếc bóng đèn điện đỏ quạch ở hành lang và
loay hoay mở cửa phòng, thì người bảo vệ cơ quan cứ quanh quẩn mãi mới dám đưa
cho chị công văn thư từ trong ngày.
- Dạ thưa thủ trưởng. Có công văn khẩn của Thương vụ triệu tập
sáng mai thủ trưởng sang họp gấp.
- Chuyện đào hầm hào và sơ tán đây mà. Trung ương vừa ra Nghị
quyết về tình hình mới, triệt để sơ tán các cơ quan đầu não ra khỏi các trọng
điểm đánh phá của giặc Mỹ. Tất cả các nơi đều phải đào hầm hào phòng tránh bom
- Cam như biết rõ mọi chuyện - Buổi phát thanh thời sự báo hôm nay ta hạ bao
nhiêu máy bay hả đồng chí?
- Dạ, mười một chiếc. Riêng Hàm Rồng bắn rơi tám chiếc. Hải
Phòng hai, Vinh một.
- Rồi còn rụng như sung. Máy bay phản lực của ta từ Liên Xô
đã về nước rồi.
Cam nói như đang đứng giữa hội trường, khiến người bảo vệ cơ
quan cũng thấy mình như được truyền thêm năng lượng. Ông hắng giọng, móc trong
túi áo một lá thư.
- Dạ, cậu thanh niên đến tìm thủ trưởng suốt cả buổi chiều. Cậu
ấy có gửi thư lại cho thủ trưởng.
Cam thấy lạnh toát sống lưng, nhưng lòng lại nóng như lửa đốt.
Lá thư trên tay Cam cứ rung bần bật.
Thư của Lê Kỳ Chu.
"Kính gửi mẹ,
Trường con có phong trào tình nguyện lên đường nhập ngũ. Bọn
học sinh lớp mười tụi con không đứa nào thiết học nữa. Con đã viết đơn bằng
máu xin được vào Nam chiến đấu để trả thù cho cha con và đồng bào bị giặc
Mỹ giết hại. Hai ngày nữa chúng con sẽ tập trung tại huyên. Con đến chào mẹ trước
khi lên đường. Nếu mẹ quá bận thì cũng chẳng cần phải về tiễn con đâu. Con
lớn rồi, mẹ đừng lo gì cho con cả…
Con trai của mẹ.
Lê Kỳ Chu"
Mới đó mà đã mười tám năm. Giọt máu của Cam và Khôi, kết quả
của cuộc tình vụng trộm ba ngày ở phố Phương Đình ấy, giờ đã là một chàng trai
mười bẩy tuổi. Nếu không có mẹ, người đàn bà mà ông Cai Sâm đã nếm trái cấm để
sinh ra Bướm rồi bán cho ông quan lang người Mường Bi lấy mười đồng bạc trắng
hoa xoè, có lẽ số phận thằng Chu cũng chẳng hơn gì thằng Cục. May mà bà Bưởi, mẹ
Cam lấy được người chồng nhân đức. Ông quan lang thất thế cuối đời sống ẩn dật
với bà vợ ba trong một thung lũng đá vôi trắng xoá hoa mơ mỗi độ xuân về. Bà Ba
Bưởi kịp sinh với ông quan lang hai người con, một trai một gái, trước khi ông
quan lang ốm chết khi bị giam thời cải cách ruộng đất. Người ta gọi bà là Mế
Ba.
Mế có nghề bốc thuốc lá chữa bệnh phù thũng, một phương thuốc
gia truyền do ông quan lang để lại. Trong cái thung cũng heo hút, hoang dã và
thơ mộng ấy, không mấy người biết Chu là con của Cam. Chính cậu bé Chu cho mãi
tới sau hoà bình mới biết mình có một người mẹ. Chu gắn bó với Mế Ba, cậu Quách
Liêu và dì Quách Thị Phin như mẹ con, anh em ruột.
Sau ngày Mế Ba mất, cũng là khi Cam đã có một vị trí xã hội,
có tiêu chuẩn cán bộ cấp tỉnh, có nhà công vụ, nhiều lần chị đã định đón Chu về
ở với mình. Nhưng rồi lại đắn đo nhiều lẽ. Chị thường xuyên phải đi công tác
lưu động, xuống cơ sở rồi họp hành liên miên, quản một cậu con trai hiếu động
không dễ chút nào. Vả lại, tuy có nhà công vụ, nhưng cũng chỉ một gian trong
khu tập thể, kê vừa một giường cá nhân, một bàn làm việc, một bàn nước tiếp
khách. Đón Chu về ở, sẽ phải trình bày đủ lý do hoàn cảnh với tổ chức, phơi hết
quãng đời tư vốn thầm kín và thiêng liêng của mình, Cam không muốn.
Và còn lý do này nữa, lý do tưởng như vụn vặt, chẳng có cơ sở,
chứng cớ gì nhưng lại khiến Cam băn khoăn lo lắng hơn cả.
Ấy là sự giống nhau giữa Lê Kỳ Chu và Nguyễn Kỳ Khôi như
khuôn đúc. Kỳ lạ, sao cá hai đứa con của Cam đều giống bố chúng đến lạ lùng. Thằng
Cục, nếu đứng cạnh Trương Phiên, có khác gì hai phiên bản của cùng tác giả. Thằng
Chu còn giống Khôi hơn nữa. Sau này, Cam đọc một tài liệu viết rằng, những cuộc
tình lén lút, những cuộc giao phối vụng trộm, thường đẻ những đứa con có tính
gien trội, hoặc giống bố, hoặc có những tố chất đặc biệt. Cho tới khi Cam đã biết
chắc đồng chí Chiến Thắng Lợi, người thường xuyên về làm việc với lãnh đạo tỉnh,
thường xuyên đến các hội nghị phụ nữ giảng bài, chính là chàng trai Nguyễn Kỳ
Khôi người làng Động thì chị hoàn toàn loại bỏ dự định đưa Chu về thị xã ở với
mình. Cam lo sợ tổ chức sẽ biết một quãng đời mà chị đã giấu kín, đã muốn phi
tang. Một cán bộ chủ chốt như Cam không cho phép khai man lý lịch, giấu giếm tổ
chức một điều gì. Cam sẽ phạm vào giới luật, vi phạm lời thề thiêng liêng. Tổ
chức sẽ không tha thứ nếu biết Chu là con đẻ của Chiến Thắng Lợi. Sẽ mất hết. Cả
mấy mươi năm gian khổ nằm gai nếm mật đi theo cách mạng. Cả địa vị xã hội, tiền
đồ, tương lai của bản thân mình và những người thân… Điều lo lắng của Cam còn
liên quan cả đến Chiến Thắng Lợi. Ông ta cũng sẽ mất hết. Một địa vị như thế, mấy
ai dám mơ tưởng? Tuy hận thù, khinh bỉ, nhưng trong sâu thẳm lòng mình, Cam vẫn
dành cho Lợi một góc yêu thương. Đó tưởng như mâu thuẫn, nhưng cũng là đạo lý
người của chị.
Sau hai ngày học nghị quyết, Cam về đến Mường Bi, thì Lê Kỳ
Chu, ngay đêm trước, đã theo đơn vị bí mật lên đường.
Chu đi đâu?
Cam hụt hẫng, tưởng đất dưới chân mình đổ sụp. Đứa con của chị,
giọt máu và sự kỳ vọng duy nhất của chị, lại giống như Bính, đứa con dâu xấu số,
sẽ làm mồi cho bom đạn giặc Mỹ ư?
Sau cả tuần tìm kiếm, bằng đủ mọi nguồn thông tin, qua chằng
chịt những mối quan hệ, cuối cùng Cam phong thanh biết rằng Chu đang đóng quân ở
vùng Suối Hai, Sơn Tây.
Anh được phiên chế vào một đơn vị đặc biệt, sẽ được huấn luyện
cấp tốc ba tháng để chuẩn bị vượt sông Bến Hải trước mùa mưa.
Bản tính kiêu hãnh và gan góc không thua kém gì đàn ông của
Cam, cộng với lý tưởng sáng ngời, lập trường kiên định, ý chí xả thân do tổ chức
rèn cặp bao năm, cuối cùng cũng không thắng nổi trái tim mềm yếu của người mẹ.
Chấp nhận để Chu đi chiến trường, đối đầu trực diện với bộ máy chiến tranh tàn
bạo và hiện đại nhất của đế quốc Mỹ, tức là Cam đã cầm sẵn tấm giấy báo tử của
Chu. Không! Dù Cam có bị loại khỏi tổ chức, tước hết mọi quyền lợi, địa vị, bị
sa thải về quê chị cũng không thể để con trai chị đi vào chỗ chết. Cả đời chị
chỉ còn mình nó. Chị đã chịu nhiều hy sinh, cay đắng để mong nó được nên người.
Với học lực xuất sắc và tư chất thông minh, năm nào cũng đứng đầu lớp, chỉ hơn
tháng nữa nó sẽ tốt nghiệp lớp mười. Cậu tú tài của Cam sau đó sẽ vào đại học,
sẽ được gửi đi đào tạo ở Liên Xô, Trung Quốc, sẽ trở thành kỹ sư, bác sĩ… Hỏi
có đứa trẻ nào thiệt thòi, chịu nhiều bi kịch mà tự phấn đấu vượt lên như nó
không? Có phải chị đi làm cách mạng cũng là vì nó không? Nó là lẽ sống, niềm hạnh
phúc, nơi gửi gắm mọi ước vọng của đời chị. Chị sẽ không xứng đáng là người mẹ,
chị sẽ chỉ là kẻ có trái tim bằng phân trâu mới cam chịu nhìn con mình phơi xác
giữa rừng.
Giữa lúc đau đớn, giằng xé ấy, Cam nghĩ đến Chiến Thắng Lợi.
Chỉ có Lợi mới có thể cứu được Chu ra khỏi guồng máy chiến tranh. "Nếu
chúng ta có con, thì giờ là lúc tôi có điều kiện chuộc tội lỗi. Bằng bất kỳ giá
nào, tôi sẽ lo cho con". Câu nói của Lợi khi đến thăm Cam ốm ở khoá chính
trị cao cấp ấy, luôn văng vẳng trong đầu, Cam thức trọn đêm để viết cho Lợi một
lá thư dài tám trang giấy pơluya. Nhưng rồi chị lại xé nát. Chị phải trực tiếp
gặp Lợi.
Lần đầu tiên Cam đặt chân đến cổng cơ quan Ban X. Nhìn cơ
ngơi, trạm gác, phòng trực ban, chị hiểu ngay vị thế và vai trò của đồng chí
Chiến Thắng Lợi.
Chiếc sân rộng đỗ chật các loại xe con mang biển số khắp các
tinh. Phía trước tiền sảnh, một dãy xe tải, xe commăngca đang chất tài liệu,
bàn ghế, đồ đạc chuẩn bị đến noi sơ tán. Không phải một cơ quan quân sự, nhưng
nơi đây luôn như đại bản doanh của mọi chiến dịch.
Người đầu tiên Cam gặp ở phòng khách là Văn Quyền, trợ lý đắc
lực của Chiến Thắng Lợi. Quyền đang nói chuyện gì đó với nhà văn Đà Giang vừa từ
dưới tỉnh lên.
- Kìa chị Cam. Chị đến họp hay có việc gì? - Quyền xăng xái đứng
lên bắt tay Cam. Cam cố nở nụ cười xã giao, nhưng ánh mắt chị lại nhìn về phía
người khách của Quyền.
- Hình như nhà văn Đà Giang…? - Cam đi lại chỗ người khách.
- Tôi tưởng chị đã quên - Đà Giang kéo ghế đứng lên, trên tay
vẫn cầm chiếc điếu cày, lúng túng mãi anh mới chuyển sang tay kia để đáp lại
cái bắt tay đang đợi.
Với Đà Giang thì Cam quá quen thuộc. Nhà văn hóm hỉnh lúc nào
cũng cặp kè bên tay cuốn sổ ghi chép và chiếc điếu cày này, chị đã từng gặp
trong Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua. Anh ta xoay Cam đến chóng mặt với những
câu lục vấn tỉ mẩn từ chuyện hoạt động hai mang trong vùng địch hậu đến cả những
chuyện đời tư, yêu đương, con cái… Cam nhớ, lần đầu tiên Cam nói với một người
không thân thiết về một phần đời tư về cậu con trai Lê Kỳ Chu của mình. Sau lần
gặp ấy, một truyện ký với tựa đề "Người đẹp Sơn Minh hay là huyền thoại
về Ni cô Đàm Hiên" ký tên tác giả Đà Giang đăng trên tạp chí Văn, khiến
từ đó đến đâu, Cam cũng được người ta cũng chỉ trỏ, bàn tán xì xào.
- Anh gán cho tôi một cái tên làm tôi ngượng chín cả người, đến
giờ cũng không dám xuất hiện trước đám đông - Cam nhắc Đà Giang nhớ lại bài viết
ngày nào.
- Nếu được viết thêm về chị, tôi sẽ chua thêm rằng bây giờ
Người đẹp Sơn Minh còn đẹp hơn cả ngày xưa…
Văn Quyền vỗ vai Đà Giang, thầm công nhận sự dẻo mỏ của anh
nhà văn nổi tiếng có duyên tán gái. Rồi đột ngột Quyền chuyển câu chuyện:
- Nếu chị cần gặp thủ trưởng Lợi thì tranh thủ lên ngay đi.
Mười giờ thủ trưởng có cuộc họp với Anh Tư. Để tôi lên báo cáo trước với thủ
trưởng.
Qua cách nói, đủ thấy Văn Quyền hình như đoán biết mối quan hệ
giữa người đẹp Sơn Minh và thủ trưởng của mình.
Chiến Thắng Lợi quá bất ngờ khi Cam đến gặp. Lạ thế, đã được
Quyền báo cáo trước, mà cho tới lúc nhìn thấy Cam xuất hiện ở cửa phòng, mặt Lợi
vẫn tái nhợt, chưa qua khỏi cơn choáng váng.
- Cam gặp tôi có việc gì cần kíp lắm phải không?
Cam tự kéo ghế ngồi. Chính chị cũng đang rất bối rối không biết
nên mở đầu thế nào.
- Tôi sẽ bố trí gặp Cam vào lúc khác, ở một nơi khác cho thoải
mái nhé? Tôi đang chuẩn bị cho cuộc họp gấp với Anh Tư.
Lợi nhìn quanh, rồi đi ra chốt cửa lại.
- Anh cứ mở cửa ra. Tôi đến đây không có gì khuất tất. Anh ngại
gặp tôi ở đây lắm phải không? Sợ tổ chức hay sợ cô Là vợ anh?
Lợi lại đi ra mở chốt cửa, nhưng vẫn thận trọng khép hờ. Rồi
Lợi rót nước và nhìn đồng hồ.
- Thôi được. Tôi có thể tiếp Cam ba mươi phút. Rồi chúng ta sẽ
gặp nhau tiếp. Tất nhiên là ở một nơi kín đáo và thuận tiện. Tôi cũng có nhiều
chuyện cần nói với Cam…
Đôi mắt Cam sầm tối, tựa hồ vừa bị một cơn choáng. Anh ta sợ
gặp mình. Anh ta muốn trốn chạy quá khứ. Chị nhận chân quá rõ sự hèn kém trong
con người Lợi. Có còn trông mong gì ở con người vừa thề non hẹn biển, đã lại rũ
bỏ ngay những gì thiêng liêng nhất của mình? Giá như có thể, Cam đã nôn oẹ, đã
nhổ một bãi nước bọt mà rũ áo đứng dậy, đi, không bao giờ ngoảnh lại. Suốt mười
tám năm qua, nhục nhã, ê chề, cay đắng… mà Cam còn bất cần, còn dám ngẩng cao đầu,
thì hà cớ gì, bây giờ, chị phải cầu xin, quỵ luỵ.
Cam đứng vụt lên.
- Kìa Cam, bình tĩnh đã nào. Có chuyện gì, cứ nói. Tôi sẽ gọi
điện báo cáo với đồng chí Tu Vuông xin chậm lại một giờ…
Cái chạm tay, rất nhẹ của Lợi, làm cơn hoả trong đầu Cam dịu
lại. Chị cố trấn tĩnh, tự nhủ thầm: Vì con, mẹ đành nhẫn nhục.
Đợi Lợi quay số điện thoại, nói với ai đó ở đầu dây bên kia
xong, Cam nói, giọng lạnh băng:
- Tôi chỉ xin anh mười lăm phút thôi - Chị lấy trong túi xách
ra một tấm ảnh chân dung đen trắng khổ bằng bàn tay, đặt trước mặt Lợi - Anh có
nhận ra ai đây không?
Mắt Lợi mở to hết cỡ, nhìn như hút lấy tấm ảnh.
- Cam vẫn giữ tấm ảnh tôi ngày ấy?
- Anh lầm rồi. Tôi đã đốt tấm ảnh Nguyễn Kỳ Khôi từ sau ngày
gặp anh ở Phương Đình. Anh nhìn kỹ lại xem. Giống anh lắm phải không? Nó đấy. Lẽ
ra tôi không bao giờ cho anh biết điều này…
Cam bỗng bật khóc. Nhưng rồi chị thanh chóng lấy mùi soa chấm
mắt, cầm lại tấm ảnh, cất vào túi xách.
Người Lợi run như cơn sốt rét rừng ngày nào bỗng ập về. Tiếng
anh méo đi:
- Thật vậy sao? Có đúng là con chúng ta không em? Nó đang ở
đâu?
- Anh hãy bình tĩnh… Tôi đặt tên nó là Lê Kỳ Chu. Họ Lê là
anh Lê Thuyết. Họ Chu của tôi. Chỉ có một chữ Kỳ của anh thôi nhưng ngay chữ
tên đệm ấy, anh cũng đã vứt đi rồi. Tôi biết anh không muốn và không cần có nó.
Nó sẽ là gánh nặng trong cuộc đời cách mạng của anh, thậm chí sẽ là vật cản
trên bước đường anh thăng tiến. Nhưng với tôi, nó là tất cả.
- Tôi hạnh phúc vô cùng, Cam ạ. Linh tính luôn báo với tôi rằng,
giữa tôi và em có ruột sự gắn kết thiêng liêng… Tôi đã từng nói với em, bằng bất
kỳ giá nào tôi cũng lo cho con, nếu chúng mình có chung một giọt máu…
- Không cần phải như thế. Tôi tin, chỉ ít phút nữa, khi bình
tĩnh lại, anh sẽ muốn rút lại đề nghị ấy của mình. Bởi nếu chuyện thằng Chu vỡ
lở ra, hạnh phúc gia đình anh sẽ tan vỡ. Anh sẽ mắc tội man trá với tổ chức.
Anh sẽ mất hết. Có bao nhiêu kẻ sẽ lợi dụng sự việc này để giành lấy chiếc ghế
của anh…
Mồ hôi vã ra trên trán Lợi.
- Cả tôi cũng sẽ mất hết. Chúng ta đều quá hiểu sự nghiêm khắc
của tổ chức… Vì thế chuyện này chỉ riêng anh biết. Tôi đã viết cho anh một lá
thư dài. Nhưng thấy giấy trắng mực đen là quá nguy hiểm nên đã xé đi và buộc phải
đến gặp anh hôm nay.
- Có chuyện gì xảy ra với con?
- Đây là câu chuyện có liên quan đến sinh mạng của nó. Tôi gặp
anh để nói với anh rằng, bằng mọi cách anh phải làm thế nào để nó không phải đi
chiến trường.
- Vậy ư? Nó đang ở đâu?
- Tôi hết sức bất ngờ về quyết định nhập ngũ của nó. Tôi gửi
nó học ở Mường Bi. Còn hơn tháng nữa sẽ tốt nghiệp cấp ba thì nó viết đơn bằng
máu, tình nguyện đi bộ đội. Hiện nó đang ở một đơn vị huấn luyện đặc biệt ở Suối
Hai, Sơn Tây. Ba tháng nữa người ta sẽ đưa nó vào mặt trận.
Lợi cúi gục xuống bàn, hai tay ôm lấy đầu.
- Tôi không thể làm được việc này vì nó là con tôi, nó lại viết
đơn tình nguyện. Mà chính tôi, người mẹ đẻ của nó, lại là người đang hô hào động
viên thanh niên lên đường tòng quân giết giặc.
Lợi ngẩng lên, như kẻ vô hồn. Cái lắc đầu nhẹ của anh không
qua được ánh mắt Cam.
- Buộc phải nói với anh chuyện này là tôi đang ở bước đường
cùng. Thằng Chu là tất cả đời tôi. Không còn nó, tôi sống vô nghĩa.
Lợi biết mình đang nghe một tối hậu thư.
- Tôi đã nghĩ đến phương án mình phải lên báo cáo hết sự thật
với Ban Tổ chức trung ương. Nhưng nếu nói nó là con của anh Lê Thuyết thì vừa tủi
cho nó, vừa xúc phạm đến linh hồn của người đã khuất.
- Đừng tôi xin Cam, đừng làm thế… Để tôi lo việc này! Cam viết
cho tôi họ tên, ngày tháng năm sinh của con, cả địa chỉ nơi con đang đóng quân.
Đã chuẩn bị sẵn những điều Lợi cần ra một tờ giấy, Cam chỉ việc
lấy trong cuốn sổ công tác đưa cho Lợi.
- Cho tôi xin tấm ảnh của con - Lợi tần ngần, khi thấy Cam định
đi.
- Anh chẳng cần giữ ảnh nó làm gì - Cam cất tấm ảnh vào túi
xách - Nhờ anh chỉ một lần này thôi. Hãy để thằng Chu tin rằng cha nó đã hy
sinh.
Đôi mắt Cam hoe đỏ. Chị nói như hụt hơi và bước nhanh ra khỏi
phòng.
Hoàng Minh Tường
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét