Thời của thánh thần 1
Phấn I - CƠN GIÓ BỤI
Chương 1
Nghe tin ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ chuẩn bị được tái dựng
lại, khắp huyện Phương Đình bàn tán xôn xao rằng ông Cục, tên huý là Nguyễn Kỳ
Quặc, con nuôi của ông bà Lý Phúc, đào được lọ vàng dưới gầm bàn thờ tổ.
Không vớ được của, làm sao một lão vừa điếc vừa què, cánh tay
mềm oặt lủng lẳng như cái dẻ khoai nước, với một bà vợ ốm o và một đàn con lúc
nhúc, vắt mũi không đủ vứt vào mồm, bỗng dưng bỏ ra hàng mấy chục cây vàng để
mua lại sáu ngôi nhà của bà con nông dân được chia hồi cải cách ruộng đất, rồi
đùng một cái, phá dỡ sạch bách không còn đến một cái móng, để chuẩn bị xây khu
từ đường mới, nghe. rlói không thua kém gì Văn miếu Quốc Tử giám ngoài Hà Nội?
Thì ra ông trời cũng có mắt cả đấy. Người ta là con nuôi con đòi, chẳng máu mủ
ruột rà gì, nhưng ăn ở có nhân có đức, ắt Trời Phật độ trì.
Người ta bịa ra hẳn một câu chuyện rất li kì. Rằng một đêm
kia, đang ngủ, ông Cục bỗng ngồi vục dậy người toát hết mồ hôi, chân tay bủn rủn.
Rõ ràng ông vừa nhìn thấy một người mặc toàn đồ trắng, râu tóc dựng ngược đang
trồng cây chuối trước gian giữa nhà thờ tổ. Hoảng hốt, ông Cục lấy tay che mặt
không dárn nhìn. Đúng là ông Lý Phúc, bố nuôi của Cục, đã chết trong vụ đấu tố
đợt một thời cải cách ruộng đất.
- Cục ơi, thầy đây mà, đừng sợ… - Người trồng cây chuối bỗng
cất lên tiếng trầm khàn, tiến đến gần Cục.
- Con lạy thầy, thầy sống khôn chết thiêng, thầy hiện về đây
dạy bảo vợ chồng con điều gì? - Cục cầm bàn tay bị liệt đưa lên, vái lạy rối
rít - Con cắn rơm cắn cỏ lạy thầy. Con chỉ đấu tố thầy một buổi thí điểm… Con
không gây nên cái chết cho thầy… oán con lắm thầy ơi…
Bóng áo trắng bỗng cất tiếng cười vang. Tiếng cười trong đêm
rờn rợn như tiếng tre đưa ken két ngoài bờ ao.
- Chuyện cũ qua rồi. Con đừng cả nghĩ. Thầy biết mà. Thời cuộc
lúc ấy nó khốn nạn thế. Tránh không được. Toàn bọn dòi bọ cua ếch lên làm người.
Thế nên thầy tự chọn lấy cái chết. Một cái chết không toàn thây, cái chết đau đớn
nhất…
- Vâng. Con thấy em Hậu nằm vắt trên bậc cửa, nghĩ nó chết,
con hoảng quá. Đến khi nhìn thấy thầy treo ngược thân từ trên xà nhà thì con thất
kinh…
- Tự thầy nghĩ ra cách chết ấy đấy. Thầy bắc thang trèo lên
cái chếnh nhà kia, lấy sợi thừng trâu buộc chặt vào ngón chân cái tính đoạn thừng
vừa đủ khoảng cách nối người với mặt đất, rồi thầy đâm đầu xuống…
- Lúc ấy con vừa ở nhà kho về. Đội cải cách bắt đầu nghi ngờ
con, chỉ cho con canh nhà kho ban ngày. Vừa mở cửa bước vào con liền kêu thét
lên, tưởng ma hiện trong nhà thờ. Chân thầy treo lơ lửng trên đoạn dây thừng, nối
với xà nhà, đầu thầy gieo xuống nền gạch, vỡ ra, óc trắng xoá hoà với máu thâm
đen trên sàn. Một cái chết không toàn thây.
- Cảm giác gieo đầu xuống đất là một cảm giác mạnh, thú vị biết
bao. Thầy không treo cổ chính là muốn được hưởng cảm giác mạnh, muốn được chết
không toàn thây… Nhưng thôi, chuyện cũ rích rồi. Những kẻ bày đặt ra cảnh con
giết cha, vợ giết chồng giờ đã chết cả rồi. Cho qua chuyện cũ đi con…
- Dạ vâng… Nhưng… thầy còn oan ức gì? Sao thầy lại về… - Giọng
ông Cục bỗng run bắn.
- Đã bao nhiêu năm thầy nung nấu về điều này… Bây giờ mới dám
nói với con… Lẽ ra thằng cả Khôi, thằng hai Vỹ, thằng ba Vọng phải lo việc này.
Nhưng chúng là những kẻ phát vãng, vong bản. Chúng không thiết đến quê hương,
không coi trọng gia đình, thậm chí chỉ nghĩ đâu đâu, thế giới đại đồng, không
muốn có tổ quốc nữa… Thầy đau lắm…
- Các anh ấy đi làm cách mạng… Con đui què mẻ sứt nên mới quẩn
quanh xó bếp.
- Ba thằng anh con, mang tiếng là con đẻ của thầy u, nhưng
coi như vứt. Thằng Nguyễn Kỳ Khôi là trưởng, nhưng thầy từ nó rồi. Thằng hai
Nguyễn Kỳ Vỹ mặt trắng thư sinh, thuộc loại "lập thân tối hạ thị văn
chương". Loại người như nó suốt đời chỉ bồi bút thì được chứ không bao giờ
được tin dùng. Hiền lành như thằng ba Vọng, thì lại phát vãng, vật vờ lê lết
quê người… Chỉ còn con thôi, Cục ạ. Con mới là người hiếu đễ trông nom hương hoả.
Vì thế thầy mới bàn với con về việc dựng lại ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ…
Ngôi nhà cốt nhất cái nóc. Dòng họ cốt nhất mồ mả tổ tiên, bàn thờ gia tộc.
Không có những điều linh thiêng đó, còn chi cái giống người? Thấy chi họ Nguyễn
Kỳ nhà ta phát tán đi muôn nơi, anh em thù ghét nhau, thầy đau buồn lắm. Thầy
chết mà không siêu thoát được con ạ…
- Lạy thầy đã dạy. Con tuy không phải do thầy u đẻ ra, nhưng
ơn dưỡng dục còn hơn cả công sinh thành. Ngày nhỏ con được thầy cho học ít chữ
thánh hiền, con phần nào cũng hiểu được đạo lý làm người…
Bóng áo trắng lại cười khà khà, ra chiều đắc ý:
- Thế cho nên thầy mới trông giỏ bỏ thóc… Bao nhiêu năm dạy học
và bốc thuốc, thầy có tích góp được một ít vàng. Thầy chôn ở chân cột nhà thờ…
Số vàng ấy đủ cho con chuộc lại đất của mấy hộ ông bà cố nông và sửa sang lại
ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ…
Câu chuyện người và ma gặp nhau như chuyện Liêu Trai ấy,
không biết do ông Cục kể lại hay ai đó sáng tác ra mà một dạo cứ xầm xì lan đi
khắp làng Động. Phần sau câu chuyện có thể do nhiều người đơm đặt, chứ phần đầu
thì đích thị là của ông Cục. Chuyện ông Cục vẫn thường gặp bóng người quần áo
trắng trồng cây chuối trong nhà thờ là chuyện hoàn toàn có thật, nhất là những
năm sau cải cách và thời kỳ thành lập hợp tác xã nông nghiệp. Ông thì thào với
vợ. Ông vừa thắp hương lầm rầm khấn vái vừa thuật lại với bà Lý Phúc. Ông kể bô
bô ngoài đồng: "Tôi nói sai tôi là con chó. Ông cụ thiêng lắm. Tuần đầu
tháng nào ông cụ cũng hiện về. Lạ lắm. Bao giờ ông cụ cũng mặc bộ quần áo trắng
toát và đứng trồng cây chuối giữa nhà".
Câu chuyện như một ám ảnh ma quái khiến không ai dám bén mảng
đến năm gian nhà thờ. Riêng bọn trẻ con lại càng khiếp đảm, cứ chập tối là xuống
bếp bám lầy váy mẹ, thấy con đom đóm bay vào nhà thờ là sợ vãi đái ra quần.
Những người không tin chuyện thần thánh tà ma thì lại muốn giải
mã việc xây dựng từ đường chi họ Nguyễn Kỳ theo một hướng khác. Họ tập trung
vào người con cả của ông Cử Phúc là Nguyễn Kỳ Khôi, một nhân vật có quyền chức,
địa vị, người thành đạt nhất của chi họ Nguyễn Kỳ dưới chính thể nhà nước Xã hội
chủ nghĩa.
Công bằng mà nói, rất ít người làng Động biết đến cái tên
Nguyễn Kỳ Khôi. Đó là một cái tên chỉ gợi nhớ thời ấu thơ và chỉ những người
trong gia đình thỉnh thoảng còn nhắc tới.
Nguyễn Kỳ Khôi là con bà vợ cả ông Cử Phúc. Năm Khôi hai tuổi
thì bà cả mất vì hậu sản. Ông Cử Phúc lấy bà Vũ Thị Ân, con gái út cụ đồ Hanh
bên kia sông làm vợ kế. Bà Ân sinh được hai con trai là Nguyễn Kỳ Vỹ, Nguyễn Kỳ
Vọng và cô con gái út Nguyễn Thị Kỳ Hậu. Năm anh cả Nguyễn Kỳ Khôi mười lăm tuổi
thì Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Đang học năm cuối lớp đệ nhất, Khôi bỏ, xung
vào đội quân tuyên truyền của cách mạng, rồi thoát ly theo kháng chiến. Lên Việt
Bắc, Khôi được tổ chức đổi tên thành Chiến Thắng Lợi, một cái tên gắn bó máu thịt
với cuộc kháng chiến chống Pháp. Để có được một cái tên như thế, chứng tỏ Nguyễn
Kỳ Khôi đã phải nỗ lực phấn đấu và trung thành tuyệt đối để được tin cậy đến mức
nào.
Những người thuộc thế hệ chống Pháp và chống Mỹ, hầu như ai
cũng biết đến cái tên Chiến Thắng Lợi, đồng chí Chiến Thắng Lợi. Có một bài báo
rất có tiếng vang đăng trên tờ báo Thời Mới, ở chuyên mục "chân dung chiến
sĩ" đã in một bài dài với tựa đề "Anh tôi - Chiến Thắng Lợi".
Tác giả là nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ. Lần đầu tiên bạn đọc biết đến Nguyễn Kỳ Khôi,
tức đồng chí Chiến Thắng Lợi là anh ruột nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ, một cây bút đang
nổi như cồn với tập thơ "Thời của Thánh Thần". Tác giả kể về
làng Động, về tuổi thơ của hai anh em, về cái lần anh Chiến Thắng Lợi từ vùng
ATK về rủ Vỹ trốn nhà lên chiến khu Việt Bắc.
Thời kỳ cải cách ruộng đất, cái tên Chiến Thắng Lợi xuất hiện
khá nhiều trên các văn bản, thông tri. Những người am hiểu về chính trị còn biết
rằng sau này Chiến Thắng Lợi còn là nhà thiết kế, tác giả tinh thần của nhiều
chủ trương lớn có tính chất quyết định những bước ngoặt của nền kinh tế xã hội,
ví như cuộc cải tạo công thương nghiệp ở miền Bắc năm 1960, cuộc chuyển đổi
kinh tế miền Nam năm 1976. Suốt những năm 1980, cái tên Chiến Thắng Lợi đã trở
thành biểu tượng, niềm tự hào không chỉ của làng Động mà của cả huyện, cả tỉnh
quê hương ông.
Cho nên, ông Cục có tài thánh cũng không che được mắt thiên hạ.
Bỏ ra tiền tỷ để chuộc lại đất khu nhà thờ, rồi lại định phá sạch bách, xây mới
toàn bộ khu từ đường chi họ Nguyễn Kỳ, phi bố con ông Chiến Thắng Lợi, mấy anh
em ông Vỹ ông Vọng, ông Cục có mọc thêm ba đầu sáu tay nữa cũng cóc làm nổi.
Người ta cam đoan như đinh đóng cột rằng, chiến dịch "hạ cánh an
toàn" và "chuyển lửa về quê" của ông Chiến Thắng Lợi không thua
kém gì việc Tào Tháo chuẩn bị xây lăng mộ trước khi chết. "Các cụ nói cấm
có sai. Cáo chết ba năm quay đầu về núi. Của nả, bổng lộc tích cóp suốt mấy chục
năm đi làm cách mạng rồi cuối cùng cũng phải chuyển về trả nghĩa tổ tiên, vinh
danh cho dòng họ…" Người ta khẳng định với nhau thế. Có người còn bảo:
"Bố con ông Chiến Thắng Lợi chính là những tư bản đỏ kếch xù. Nguyên vụ đổi
tiền năm 1985, biết trước đồng tiền sẽ mất giá, ông thu gom tiền bạc đổi thành
vàng hết. Chỉ năm sau, đã có cả núi vàng. Rồi anh con trai cả, trùm buôn lậu ở
Nga, thu gom hết hàng hoá ở khu chợ Vòm, chuyển tiền về nước kìn kìn. Mấy bố
con có tới ba trang trại ở Sóc Sơn, Hoà Lạc, Bình Dương, hai biệt thự cao cấp ở
Hà Nội, Sài Gòn, lại nghe nói có vài chục triệu đô la gửi ngân hàng châu âu nữa.
Ông con quý tử Chiến Thống Nhất, mới hơn ba mươi tuổi, đã thành lập công ty
riêng, buôn địa ốc, buôn ô tô, tiền tấn. Khác hẳn tính bố, Chiến Thống Nhất thuộc
loại ăn chơi bốc trời. Một năm thay vài ba xe tô, vài ba cô bồ toàn loại người
mẫu chân dài. Ngày bà cụ Lý Phúc còn sống, Nhất bảo: "Nhờ hồng phúc tổ
tiên, bố cháu mới được như thế này. Rồi cháu sẽ sửa một lễ trọng trình với tổ
tiên xin đổi lại họ Nguyễn Kỳ bà ạ. Cái tên Chiến Thống Nhất nghe nó… pê-đê lắm."
Bà cụ Phúc không hiểu pê-đê là gì, nhưng cụ tin rằng Chiến Thống
Nhất không phải là kẻ mất gốc.
°°°
Gia phả họ Nguyễn ở làng Động ghi lại rằng, tổ họ chính là
người họ Lý, tên huý là Lý Kỳ Phong, quê gốc ở làng Đình Bảng, xứ Kinh Bắc.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Năm Nhâm Thìn, Kiến Trung thứ
tám, 1232, vì Nguyên tổ tên huý là Lý (Trẩn Lý), nhà Trần cho đổi triều Lý
thành triều Nguyễn, vả lại cũng để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng đối với
nhà Lý. Cũng mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường,
Hoa Lârn, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đời khi mọi người uống rượu
say, giật máy chôn sống hết". Bấy giờ tổ họ Nguyễn là người nội tộc, đầu
quân dưới trướng Hoàng tử Lý Long Tường con vua Lý Anh tông, đồn trú ở trấn Vân
Đồn ngoài biển Đông Hải. Có tin mật báo từ kinh đô Thăng Long về âm mưu thâm độc
của Trần Thủ Độ, Hoàng tử Lý Long Tường bèn bí mật tổ chức cuộc vượt biển, đưa
vợ con gia đình rời bỏ đất Đại Việt. Lý Kỳ Phong được giao một nhiệm vụ đặc biệt:
Thu mua hàng trăm con chó đóng cũi nhốt sẵn dưới chiến thuyền. Đây là thực phẩm
trữ sẵn dành cho chuyến vượt biển dài ngày đầy hiểm nguy gian khổ. Lý Kỳ Phong
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Ngài gom được hơn năm trăm con chó tơ, chở ra
Vân Đồn.
Nhưng rồi đến ngày Hoàng tử Lý Long Tường cùng gia tộc, bộ hạ
dong buồm ngược hướng đông bắc nhằm nước Cao Ly khởi hành thì Lý Kỳ Phong phải ở
lại vì vợ ngài trở dạ đẻ, tính mạng thập tử nhất sinh. Sau đó ngài tìm đường
đưa vợ về làng Động quê ngoại đổi họ Lý thành họ Nguyễn để tránh cái hoạ tuyệt
diệt.
Gia phả viết rằng kể từ thượng tổ Lý Kỳ Phong, làng Động khai
sinh dòng Nguyễn Lý. Cho tới thời Mạc - Sùng Khang năm thứ 13, Mậu Dần, 1578,
dòng Nguyễn Lý làng Động tách ra một chi họ Nguyễn Kỳ. Số là, vào thời kỳ đó,
có ông thầy tướng người Tàu được mời về tìm đất để đặt lại ngôi mộ tổ. Do đãi đằng
công sá không chu tất, ông thầy Tàu giở mặt, bèn yểm một lá bùa và truyền rằng,
từ đây, anh em, bố con họ Nguyễn làng Động sẽ ganh ghét, hiềm khích, thậm chí
chém giết nhau. Quả nhiên, ngay sau đó, hai ông trưởng, thứ mỗi ông theo một
phe, ông chi trưởng theo quân của Thường Quốc công Nguyễn Quyện giúp Mạc Mậu Hợp
chống lại nhà Hậu Lê, ông chi thứ theo quân của Tiết chế Trịnh Tùng, phò Lê diệt
Mạc. Và hai anh em họ Nguyễn làng Động đã giết nhau tại cửa ngõ thành Thăng
Long trong trận tử chiến tết Nhâm Thìn 1592, trận đánh quyết định kết liễu triều
đại nhà Mạc.
Kể từ cuộc huynh đệ tương tàn ấy cho đến đời ông Nguyễn Kỳ
phúc đã mười bốn đời. Bố ông Nguyễn Kỳ Phúc là cụ đồ Nguyễn Kỳ Kha, bạn học với
Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền, người làng Bặt, từng tham gia phong trào Đông
Kinh Nghĩa Thục. Ông Nguyễn Kỳ Phúc là con trai độc, được học hành chu đáo tham
gia khoá thi nho học cuối cùng của triều Nguyễn năm 1919, đỗ Cử nhân, nhưng vì
phải phụng dưỡng mẹ già, không ra làm quan, ở quê dạy học và bốc thuốc.
Khu từ đường chi họ Nguyễn Kỳ là tác phẩm nghệ thuật của quan
Đốc học Nguyễn Kỳ Đồng, bố cụ Đồ Kha, ông nội ông Cử Phúc, xây dựng từ thời vua
Tự Đức. Đây là một quần thể kiến trúc đậm tính Á Đông. Công trình chính, nhà thờ
tổ, gồm năm gian chính điện có hậu cung hình chuôi vồ, được nối với nhà tiền tế
bởi một nhà dọc, hai bên có hai giếng trời dùng làm sân hoa và dựng hòn non bộ.
Nghe nói, làm công trình này, quan Đốc học đã nghiên cứu kiểu dáng Khiêm cung
và Khiêm đăng do vua Tự Đức tự xây dựng cho mình ở kinh đô Huế, rồi mướn chính
hiệp thợ làm Khiêm cung thi công.
Chính vì thế mà các bức chạm trổ, phù điêu ở nóc, đầu hồi,
câu đầu quá giang… cho tới hoành phi câu đối đều rất tinh vi đầy tính nghệ thuật.
Hai đầu hồi nhà tiền tế là hai nhà tả hữu vu, dãy làm nhà ở và thư phòng của chủ
nhân, dãy làm lớp học và phòng khách. Tiếp sau đó là các dãy nhà ngang cho con
sen người hầu, khu nhà kho, nhà bếp, góc xa nhất là chuồng trâu bò, lợn gà…
Mênh mông như một sân vận động, lát toàn loại gạch Bát Tràng đỏ au là sân chầu,
nơi diễn ra các hoạt động tế lễ và là nơi quan Đốc cùng bạn hữu chơi cờ người.
Chính tại những cuộc đấu cờ người vô tiền khoáng hậu này mà nơi đây đã từng thu
nhận nhiều tao nhân mặc khách. Cao thủ cờ khắp Bắc Trung Nam từng tìm đến tỉ
thí. Văn nhân nghĩa hiệp mượn chén rượu cuộc cờ để tụ hội quần anh cũng nhiều.
Nghe nói, bài thơ Đánh cờ người, nhại lại giọng điệu của bà chúa Thơ Nôm Hồ
Xuân Hương, cũng được các văn nhân Bắc Hà "sáng tác" tại đây.
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người…
Mới đầu vào chàng liền nhảy mã
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên
Đôi xe hà chàng gác hai bên.
Sợ chiếu hết thiếp liền gánh sĩ.
Chàng thấy thiếp đang trong thế bí.
Liền vội vàng dủ dí tốt vô cung…
Sau bức đại bình phong đắp nổi bằng gốm sứ, là một hồ sen bán
nguyệt, có cầu Nguyệt Kiều nối với đảo Ngọc, trên đảo có lầu Bát Toạ, nơi để
câu cá, làm thơ và thưởng ngoạn. Cả một quần thể công trình kiến trúc văn hoá rộng
tới hai mẫu Bắc Bộ, tương đương bẩy nghìn mét vuông, được xây tường gạch vồ bao
quanh, vừa thâm nghiêm như chốn công đường, vừa ấm cúng êm đềm như một tĩnh
viên rợp bóng cây xanh và rộn tiếng chim lạ.
Cái tên "Nguyễn Kỳ Viên" chính là sự phát hiện, là
quà tặng của một khách văn chương nhân chuyến đến thăm quan Đốc học Nguyễn Kỳ Đồng.
Quá cảm kích và tâm đắc với quà tặng của bạn, quan Đốc học lưu bạn ở lại để lưu
bút rồi sứa một cái lễ trình với tiên tổ, gọi thợ cho xây lại cổng lớn, đắp nổi
ba chữ đại "Nguyễn Kỳ Viên" của khách văn lên.
Cũng nhân việc xin chữ, quan Đốc học lại được bạn khách văn
viết cho ba chữ lớn "Dương Nhất Chân", sau thuê thợ mộc làng Chuồn khảm
trai treo trang trọng trước ban thờ tổ Những người biết chữ nho đều đọc được,
nhưng ít người hiểu được nghĩa ba chữ đại này. Người khách văn giảng giải: Đây
là ý lấy trong hai câu thơ của Đại danh y Hải Thượng Lãn ông viết trên đường
thượng Kinh chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm và thế tử Trịnh Cán: độn thế tòng y dưỡng
nhất chân. Bất tri vi phú khơi tri bần" (Trốn đời theo nghề thuốc để giữ
cái mộc mạc của mình. Không biết làm giàu há có biết chi cái sự nghèo). Ba chữ
đại này còn có ý nói chi họ Nguyễn Kỳ sẽ có người theo nghề y, việc này quả ứng
ngay với con cụ Đồ Kha, tức là ông Cử Phúc. Sau này, có nhà nghiên cứu thư
pháp, đối chiếu mẫu tự, cho rằng người khách văn đó chính là cụ Tam nguyên Yên
Đổ. Nhà thơ Nguyễn Khuyến là bạn của ông Nghè Dương Khuê, người làng Phương
Đình. Ông Nghè Phương Đình lại là chỗ thông gia bạn hữu với quan Đốc học Nguyễn
Kỳ Đồng. Văn chương kim cổ nhi huynh đệ, chính là vậy.
Sau vụ cụ Đồ Kha bị Tây bắt đi tù vì bị nghi một bài thơ cụ
viết có tư tưởng chống đối nước mẹ Đại Pháp và nhất là sau trận ốm liệt giường
cuối đời cụ đồ, kết quả của sáu tháng tù đày trong nhà lao thực dân, gia cảnh
nhà ông Cử Phúc đã sa sút lắm rồi. Những thửa ruộng thượng đẳng điền ở gần làng
và đàn trâu bò lần lượt bị bán đi để lo lót cửa quan, để chạy chữa thuốc thang
cho cụ đồ, rồi lo tiền ăn học cho bốn cậu con trai. Sau ngày cậu cả Khôi, cậu
hai Vỹ đi kháng chiến, thì tốn kém nhất lại là tiền ăn học của cậu ba Vọng. Từ
lớp Đệ tứ, Vọng đã phải đi trọ học trên phủ Phương Đình. Đến khi lên Đệ nhị, Đệ
nhất, Tú tài năm thứ nhất thì phải gửi ra học ngoài Hà Nội. Mỗi bồ chữ là một mẫu
ruộng, một con trâu. Bà Cử Phúc suốt ngày đầu tắt mặt tối, cơm hẩm cà hưu, như
cảnh bà Tú thành Nam của Tú Xương:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng".
Cho tới đợt giảm tô, năm 1954, gia sản của ông bà Cử Phúc chỉ
còn lại sáu mẫu, ba sào ruộng, hai con trâu, một con nghé và khu nhà thờ cổ
kính có tuổi hơn trăm năm, cùng một Nguyễn Kỳ Viên u trầm thơ mộng.
Tuy cảnh nhà sa sút, nhưng ông Cử Phúc lại ngầm có sự mãn
nguyện và kiêu ngạo của kẻ sĩ đắc chí. Là một đại biểu cuối cùng của nền nho học
hủ lậu và yếm thế, ông Cử Phúc từng công khai thú nhận với bạn bè, đồng môn về
sự bỏ đi, sự hèn nhát, bất lực trước thời cuộc của mình. Ông tự hào và kỳ vọng ở
hai cậu con trai Nguyễn Kỳ Khôi, Nguyễn Kỳ Vỹ. Đó là sự kỳ vọng, sự gửi gắm, và
cao hơn thế là sự dâng hiến của đời ông, gia tộc ông cho công cuộc kháng chiến,
giải phóng dân tộc Rất nhiều đêm không ngủ, ông ngồi co ro trên chiếc sập gụ giữa
nhà, uống trà, hút thuốc lào vặt, mắt nhìn sâu vào cõi xa xăm, tai lắng nghe tiếng
ì ùng từ vùng núi Kim Bôi rất xa vọng lại. Và ông tưởng tượng ra cảnh hai thằng
con trai ông đang xông pha chiến trận, đang theo bộ đội Cụ Hồ mở mặt trận Hoà
Bình, Tây Bắc… Chiến thắng Điện Biên Phủ như chớp sáng chói loà, như hào quang
rực rỡ, tưởng sẽ tràn ngập vĩnh cửu thế gian, tuôn tràn nhựa sống khắp làng Động,
khắp Nguyễn Kỳ Viên của ông Cử Phúc, nào ngờ đất trời bỗng tối sầm lại
khi cơn bão đen năm Ất Mùi, 1955, ập đến.
Hai người con trai tham gia kháng chiến cũng không cứu nổi
ông bố bị quy là địa chủ cường hào, không giải thoát nổi ông khỏi cuộc đấu tố
long trời lở đất của ông bà nông dân đang vùng lên tiêu diệt giai cấp bóc lột.
Ông Cử Phúc già sọp như một lão tám mươi. Luồng hắc phong với xú khí nồng nặc
và ám khí tử thần đã đập phá tan tành Nguyễn Kỳ Viên, cuốn bay hai sân hoa
kiểng với nhiều loại kỳ hoa dị thảo hàng trăm năm tuổi, đập vỡ hết thảy những
bình gốm sứ, nghê rồng từ thời Lý, Trần, từ thời Minh, Thanh, Trung Quốc. Lần
lượt lầu Bát Toạ, cầu Kỳ Nguyệt bị giật đổ. Từ hoành phi câu đối cho tới bút
tích của Tam Nguyên Yên Đổ, hàng trăm cuốn sách thuốc, sách chữ thánh hiền đều
bị đốt trụi, bị quăng xuống hồ, lẫn với tre xoan bị chặt hạ, lẫn với ván thôi,
xác chuột và phân người. Cái sân gạch rộng mênh mông như sân đình bị cuốc lên,
chia nhó từng mảnh cho các ông bà nông dân trồng khoai, trồng cà. Sáu hộ bần cố
nông chia nhau quả thực, chiếm giữ hai dãy nhà tả hữu vu, nhà ngang, và cả ngôi
nhà thờ Gạch ở sân được dùng để xây những bức tường ngăn giữa các hộ, như những
lô cốt cố thủ, rồi xây thêm sáu khu bếp, chuồng lợn, chuồng trâu. Riêng chuyện
đi ỉa thì mạnh ai người nấy phóng ra vườn, sau những bụi chuối và các đống rơn
rạ, hoặc phóng thẳng xuống cái hồ nay đã thành một mảnh ao tù.
Hơn bốn mươi năm trôi qua. Nguyễn Kỳ từ đường, Nguyễn Kỳ
Viên tưởng mãi mãi phế tích, tưởng sẽ dần bị huỷ hoại, bị xoá hẳn dấu tích
trên thế gian. Nào ngờ, như trong huyền thoại, vào giữa năm 1995 một dự án lớn
phục chế và tôn tạo Nguyễn Kỳ Viên đã được hình thành. Để chuẩn bị
cho công trình thế kỷ này, ngay từ năm 1985, giai đoạn một của dự án đã hoàn tất.
Khuôn viên bẩy nghìn mét vuông của Nguyễn Kỳ Viên đã được chuộc lại
hoàn toàn. Sáu hộ ngày cải cách ruộng đất giờ đã sinh sôi thành mười tám gia
đình vợ chồng con cái, tạo thành một tụ điểm chật chội và đầy tệ nạn cờ bạc,
hút sách, trộm cắp… Nhưng rồi vợ chồng ông Cục cũng giải quyết êm gọn. Tiền nhiều
là xong béng. Bẩy hộ ẵm tiền vào Lâm Đồng, Sông Bé lập khu kinh tế mới, mua đất
trồng cà phê, cao su. Ba hộ kéo nhau ra Hà Nội bán phở, làm cốp pha. Những hộ
còn lại ra khu dàn dân đầu làng mở quán karaokê, bia hơi, bơm sửa xe máy, xe đạp.
Công cuộc xây dựng lại toàn bộ Nguyễn Kỳ Viên dự kiến
sẽ kéo dài trong hai năm, do ông Nguyễn Kỳ Quặc cùng con trai Nguyễn Kỳ Tác,
con rể Đinh Mạn, được giao quản lý thi công. Đích thân ông Cục đã chầu chực
hàng tuần lễ, mời bằng được thầy Cao, một thầy phong thuỷ và tướng số giỏi nhất
vùng về tính toán giúp. Bản vẽ thiết kế toàn cảnh và thiết kế chi tiết đặt hàng
Viện Quy hoạch và Kiến trúc thực hiện. Đúng như lời dặn của Cụ Hồ: "Còn
non còn nước còn người. Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mum ngày nay". Nguyễn
Kỳ Viên sẽ to đẹp gấp mười lần ngày xưa.
Hãy xem bản vẽ tổng thể do kiến trúc sư vừa tốt nghiệp loại
ưu Nguyễn Kỳ Tác, con trai út ông Cục phác thảo, để mường tượng ra một Nguyễn
Kỳ Viên của ngày mai: Bắt đầu từ ngoài con đường rẽ cuối làng vào là chiếc
cổng lớn có hàng đại tự chữ Hán kèm chữ Quốc ngữ: Nguyễn Kỳ Viên Nguyễn Kỳ
Từ Đường" với bốn hàng trụ biểu, chia thành cổng lớn và hai cồng phụ, hai
trụ chính cao tới hơn mười mét, như hai ngôn tháp. Tiếp đến là chiếc hồ lớn được
tạo dáng và kè bờ bằng đá hộc miết mạch xung quanh như những ho bơi của các khu
resort hay các khách sạn quốc tế năm sao. Giữa hồ là đảo Ngọc, lầu bát giác, được
nối bởi Nguyệt Kiều điệu đàng như một cầu cổ trong Tử Cấm thành của Bắc Kinh.
Chiếc sân chầu ngày xưa nay sẽ mở rộng hơn và được lát bằng thứ gạch bát Giếng
Đáy đỏ au. Quan trọng nhất, vĩ đại nhất, không thua kém gì nhà Thái Học ở Văn
Miếu Quốc Tử Giám là ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ.
Năm gian nhà phỏng theo kiểu cổ, đầu đao cong vút. Xi măng sắt
thép toàn loại thượng hạng, ngói mũi hài Hương Canh, gạch xây, gạch ốp lát Giếng
Đáy, đồ gốm sứ Bát Tràng. Riêng phần gỗ, thì đừng đùa với thợ xẻ làng Động,
toàn chủng loại sưa, trắc, lim, lát, vàng tâm… Độc đáo nhất là những bức chạm
trổ đầu hồi, những bình phong, trụ, xà đều bằng loại gỗ sưa có màu đỏ thẫm và
hương thơm đặc biệt, giá được tính như gỗ trầm, vài trăm nghìn đồng một
kilôgam, thứ đến là hàng cột cái hai mươi tư chiếc, toàn một thứ gỗ lim lõi đặc
chở từ những cánh rừng Thượng Lào về, trong đó mười hai chiếc cột giữa, mỗi cột
cao tới bẩy mét, đường kính khoát ba mươi phân, không thua kém gl những cột
đình được xếp hạng di tích.
Phần diện tích tuy nhỏ nhưng được đầu tư nhiều công sức, tiền
bạc là phần hậu cung chuôi vồ ở gian chính giữa nhà thờ. Gian hậu cũng được xây
cao vượt lên, kiến trúc theo lối nhà chồng diêm tám mái, có lan can, cửa kính
lùa chạy xung quanh. Đây là điện thờ, với những khán thờ cổ xưa, những báu vật
của chi họ, như gia phả, sắc phong, mũ mãng, triều phục, ấn kiếm, tàng thư…
Trong những thứ gia bảo được thờ ở ngôi từ đường mới, sẽ có một
linh vật đặc biệt do chính ông Cục lưu giữ còn hơn con ngươi của mắt mình. Rồi
tự tay ông sẽ bí mật đặt linh vật này vào trong hộp đựng sắc phong của chi họ.
Đó là một sợi dây thừng, tím đen những vết máu, đầu dây lòn
thít chặt một ngón chân cái đã thâm xỉn, như một mẩu gỗ lim.
Chương 2
cục
Năm ấy, hết tháng hai rồi mà trời vẫn rét ngằn ngặt, cánh mạ
chiêm ở đầu làng, ba lần gieo, lần nào hạt mộng cũng thâm đen, không chịu nẩy mầm.
- Trời rét này phải quải thêm gio bếp. Giữ cho mộng ấm chân,
thầy nó ạ! - Sớm tinh mơ, chị hai Phúc dậy khoác tấm áo bông, nói với chồng.
- Còn sớm lắm. Sương giăng mờ mịt thế kia. Đợi hửng rồi hãy
đi. - ông Phúc húng hắng ho, tung chăn trở dậy.
- Thầy nó trông các con giúp tôi. Tôi đi ù một lát rồi về.
Người còn rét muốn rụng ngón tay, nghĩ càng thương cây mạ. Siêu nước sôi tôi ủ
trên bếp thầy nó pha trà uống đi nhé. Nhớ nhắc bà ém chăn kín cho thằng nhỏ…
Đôi thúng gio lèn chặt vít cong chiếc đòn gánh, nhún nhẩy
theo dáng người mềm mại của chị hai Phúc ra đồng. Ông Phúc nhìn theo vợ, thở
dài. Mang tiếng lấy chồng là ông Cử, vừa có nghề bốc thuốc, vừa có nghề dạy học,
lại cai quản một cơ ngơi bề thế nhất làng, mà chị hai Phúc cũng chẳng khác gì một
tá điền. Cũng thức khuya dậy sớm thắt lưng con cón ra đồng từ sớm tinh mơ, về
nhà lúc đã nhọ mặt người. Ngoài tháng năm, ngày mười phải thuê thêm thợ cày cấy,
gặt hái, còn lại những lúc nông nhàn, bao nhiêu công việc đồng áng, nhà cửa, một
tay chị làm cả. Cả làng Động ai cũng lấy ruộng rau muống, chum tương, vại dưa,
vại cà, hũ mắm, bè khoai khô, sào khoai lỗ… nhà chị hai Phúc làm chuẩn mực. Những
thứ lương thực thực phẩm dự trữ chiến lược ấy toàn một tay người đàn bà mới
ngoài hai mươi tuổi ấy lo liệu. Chắt bóp, tằn tiện, căn cơ là phẩm chất cố hữu
đã được truyền từ đời cụ kỵ, sang đời bà, đời mẹ, tới đời chị hai Phúc.
Ra khỏi luỹ tre làng, gió buốt như táp vào mặt. Gánh gio có
lúc như muốn quay tròn, vì gió. Đang định tạt xuống cánh mạ, chị hai Phúc bỗng
đứng sững lại, hai chân như chực khuỵu xuống, khắp người sởn gai ốc. Có tiếng
trẻ con khóc thét ở chân gò ông Đống trước mặt. Tiếng khóc hệt như tiếng cậu ba
Vọng, thằng con trai thứ ba, mới vừa đầy tháng tuổi của chị. Giữ tay trên hai dẻ
quang, chị hai Phúc hơi xoay người lại phía làng để lắng nghe. Hay là thằng bê
giật mình, thức dậy không thấy mẹ? Không phải. Chị trấn tĩnh lại. Rõ ràng tiếng
khóc phát ra từ bụi tầm xuân trên gò ông Đống trước mặt. Thần gốc đa, ma ông Đống.
Hay là ma đói hiện về định bắt nạt người? Chị Phúc toan bỏ gánh gio, chạy về
nhà.
Nhưng rồi tiếng khóc ngằn ngặt của đứa bé cứ níu chân chị lại.
Chị đặt hai thúng tro xuống, cầm ngang chiếc đòn gánh như thứ vũ khí tự vệ, rồi
quả quyết bước tới.
Cái gì kia? Một búi giẻ rách thâm đen bung ra, lăn từ gốc bụi
tầm xuân xuống vệ cỏ, để lộ một cục thịt đỏ hỏn. Chị hai Phúc muốn bổ chứng khi
nhìn rõ khuôn mặt đứa trẻ với đôi mắt sưng húp, cái mũi trắng nhợt, cái mồm cá
ngão khóc ngằn ngặt. Một đứa trẻ hoang thai. Cuống cuồng như chính đứa con của
mình bị ai đó bắt trộm mang bỏ giữa đông, chị Phúc cúi xuống ôm cả đứa bé và
húi giẻ rách vào làng, kéo chiếc áo tơi che gió lạnh, rồi tất tả chạy về nhà.
Lúc đó, ông Cử Phúc đang ngồi xếp bằng trên sập gụ. Chén trà
đầu tiên trong ngày và hơi thuốc lào cần vương vít từ miệng chiếc điếu bát băng
đồng thau sáng bóng đang làm ông ngây ngất. Từ mấy chục năm nay, thói quen buổi
sáng thức dậy của ông Cử Phúc là vậy. Ông có thể ngồi hằng giờ, cho tới khi cạn
ấm trà ủ trong giỏ tích và say lơ mơ trong khói thuốc lào. Thường thì ông tự
làm cho đầu óc mình trống rỗng. Ông không nạp cũng không giải một thứ thông tin
gì trong não bộ. Đây là một phương pháp dưỡng sinh ông tự luyện cho mình. Và thấy
rất hiệu quả không chỉ cho não bộ mà cả toàn bộ hệ kinh mạch.
Nhưng sáng nay, thông lệ đã bị phá vỡ. Suốt đêm qua, và cả
bây giờ, trong đầu ông vẫn bị ám ảnh bởi lá số tử vi của thằng cu Vọng: Nhân đầy
tháng con, cụ Nhiêu Biểu, thầy dạy của ông, đã lập cho thằng bé lá số tử vi.
Hôm qua, suốt cả buổi chiều, hai thầy trò đã cùng giải chi li đến từng tiểu hạn.
Mệnh vô chính diệu. Tuần Triệt ở cung Thân. Thiên liệt, Thiên
khốc ở cung Phụ mẫu. Lưu hà, Kình dương ở cung Di, Thớt
sát, Phá quân, Tham lang trực chiếu cung Mệnh. Thái dương, Thái âm,
Thiên lương đều ở cung Hãm địa. Số thằng này, y hệt như hai thằng anh, suốt
đời phát vãng, lưu tán.
Nhắm mắt lại, ông Cử vẫn nhìn thấy từng vị trí an sao của thằng
con trai. Kỳ lạ nhất là cả ba lá số của ba thằng con ông đều có sao Kình
dương, Kiếp sát đóng ở cung Phụ mẫu. Riêng thằng Vọng, vòng đại hạn từ 36
đến 48 có sao Lưu hà, Thiên mã trực chiếu cung Mệnh, có thể chết vì
sông nước.
- Anh phải có một thằng con nuôi - Cụ Nhiêu Biểu trầm ngâm
giây lâu, rồi nhìn thẳng vào ông Cử nói chậm rãi - Tam nam bất phú đã đành.
Nhưng nếu có thằng con nuôi sẽ thành tứ hổ bất nhược, nó sẽ phá cái thế Tuần,
Triệt, gánh cho ba thằng con anh cái mệnh phát vãng, lưu tán. Còn tôi, còn anh,
cứ ngẫm mà xem. Đem lá số của ba thằng đối chiếu với anh, tôi lo lắm. Anh biết
lúc an sao cho thằng ba Vọng, tôi giật mình về điều gì không?
- Dạ, có phải vì cháu mệnh Vô chính diệu? - ông Cử dè dặt trả
lời cụ Nhiêu.
- Cũng chỉ một phần. Tôi lo nhất là Tuần Triệt đều đóng ở
cung Thân. Sao Tử vi hãm địa ở cung Di. Đối chiếu với Chu dịch, thằng bé ứng
vào quẻ Độn. Kiền trên, Cấn dưới… Độn tức là lui vì vậy quẻ Độn mới nối quẻ Hằng.
Độn là lui, là tránh, bỏ chỗ này đi chỗ kia. Nó là quẻ dưới trời có núi, trời
là vật ở trên, tính Dương tiến lên, núi là vật cao vót, hình tuy cao vót mà thể
thi là vật đậu. Có Tượng tiến lên mà bị đậu lại không tiến lên, trời bèn tiến
lên mà bỏ nó. Dưới lấn lên mà trên bỏ đi, ấy là xa nhau, cho nên là nghĩa lánh
đi. Hai hào âm sinh ở phía dưới, là khí âm đương lớn sắp thịnh, khí dương phải
tiêu mà lui, kẻ tiểu nhân thịnh dần, đấng quân tử lui mà tránh nó, cho nên là
trốn…
Những điều cụ Nhiêu Biểu nói, khiến ông Cử hoang mang. Ông đi
lại kệ sách toan lấy cuốn Kinh Dịch xuống xem lại, thì có tiếng bước chân hốt
hoảng của vợ.
- Kìa u nó, có việc gì phải không?
- Tôi bắt được đứa bé này ngoài gò ông Đống, thầy nó ạ - Tiếng
chị hai khản đặc, run run - Có người hoang thai vứt nó trong bụi cây. Thoạt đầu
nghe tiếng đứa bé khóc, tôi cứ tưởng ma trêu…
Ông Cử Phúc lật đật lấy tã lót của cậu ba Vọng, giúp vợ thay
cho đứa bé. Có sự trợ giúp của chồng, chị hai đã hết run.
Bằng những động tác thuần thục và kinh nghiệm của người mẹ,
chị ủ đứa trẻ trong lớp tã lót mới. Mở ra mới biết đó là một bé trai, dái thâm
như quả hồng xiêm rụng. Ngay phía dưới rốn nó, có một vết da màu lông chuột bằng
đồng xu, như một vết đánh dấu vô tình của tạo hoá.
- Nhà mình có phúc rồi - chợt nhớ đến lời cụ Nhiêu Biểu, ông
Cử Phúc gật gù nói với vơ, - nó đang đói lả đi kìa. U nó cho bú đi.
Chị hai Phúc cởi khuy áo ngoài, thốc tấm yếm màu hoa hiên, lộ
ra bầu vú trắng bóc, căng tròn. Ấn nhẹ hai ngón tay vào núm vú cho sữa chảy ra,
rồi chị ấp miệng thằng bé vào ngực mình. Choàng tỉnh sau cảm đói lả và quặn
rét, thằng bé ngoạm chặt núm vú, như một gã háu ăn và tham lam, nó mút chùn chụt.
Nhìn cái miệng nhỏ xinh loe ra, đôi má hõm vào với một ham muốn
của bản năng sinh tồn, người đàn bà bỗng động lòng trắc ẩn. Những va chạm hít
hà vô thức đã dội vào tâm hồn vốn đa cảm và nhân hậu của chị, đẩy nước mắt trào
ra hai khoé.
- Ầu ơ đói lắm đây mà. Nó tệ quá phải không? Nỡ vứt bỏ người
ta giữa bụi tầm xuân. Nó đâu còn là cái giống người, đúng không? - Chị nói chuyện
với thằng bé, nhìn vào đôi mắt ti hí như mắt chuột của nó với tất cả tình cảm
thân thương của người mẹ. Chị mường tượng ra một người đàn bà trẻ đang như điên
dại ngoái đồng. Người đàn bà ấy đang bị dồn đuổi đến bước đường cùng. Chị ta là
ai? Một cô gái trê bị ăn phải bùa ngải lầm lỡ hay một thân phận lẽ mọn bỉ ruồng
bỏ? Sao chị ta không để lại một lời nhắn gửi, một dấu tích gì? Sao chị ta không
mang đứa trê đến một nhà thương làm phúc hay gửi gắm ở một ngôi chùa? Thằng bé
sẽ lăn xuống ruộng, bị sặc trong bùn, sẽ bị kiến bu, rắn cắn, quạ mổ, hoặc bị
chết rét vì gió bấc, mưa phùn…
Bất giác chị hai Phúc thảng thốt nhìn ra khoảng trời xám ngắt
mờ mịt cuối làng. Vẳng trong gió hình như có tiếng ai gào khóc. Chị như nhìn thấy
rõ một người đàn bà đầu tóc xoã xười quần áo tơi tả, bộ mặt vô hồn đang vật vờ
trên đường đồng hun hút, đang lê bước trở lại bụi tầm xuân trên gò ông Đống với
nỗi dày vò và trái tim giằng xê.
Trong khi chị hai Phúc thầm chuyện trò với đứa bé thì ông Cử
Phúc lặng lẽ đi lên nhà thờ. Năm gian điện thờ im phắc. Mùi hoa huệ thơm thoảng,
tinh khiết và mê hoặc. Khoác chiếc áo the, đội khăn xếp, ông Cử thay nước cúng
rồi thắp một tuần nhang. Khói hương bảng lảng gợi không khí thâm nghiêm huyền
bí ông Cử tưởng như mình đang hầu chuyện các bậc tiền nhân.
- Duy… Việt Nam quốc, Sơn Minh tỉnh, Phương Đình huyện,
Phương Tú xã, làng Động trung thôn. Tin thần tín chủ Nguyễn Kỳ Phúc, kính bái
Cao tằng tổ khảo, Cao tằng tổ tỉ, Bá thúc huynh đệ, Cô di tỉ muội, Táo phủ thần
quân, Lục vị gia thần, trăm muôn vạn mớ lạy…
Ông Cử Phúc như hồi tưởng lại cả một chặng đường xa lắc từ thời
các bậc tiền nhân mở đất ở làng động, cho tới đời ông, đời cha mình. Ông báo
cáo về việc ba thằng con trai của ông có thêm một thằng em trai nữa. Ông kính
xin tổ tiên gia ân phúc cho thằng bé, cho nó một cái tên của dòng họ Nguyễn Kỳ.
°°°
- Con chó này háu ăn lắm. Mình để nuôi, thầy nó ạ - Chị hai
Phúc nói khi ông Cử từ nhà thờ đi xuống. Gương mặt chị bừng sáng như đức Phật
Quan Thế âm vừa cứu vớt một sinh linh. Đôi mắt rời rợi một thứ ánh sáng tràn ngập
hạnh phúc.
Cái cảm giác nhộn nhột đê mê được truyền từng tia sữa, được
đùm bọc che chở cho cái sinh linh bé nhỏ đang nằm gọn trong lòng chị với sự thoả
thuê, mãn nguyện, an bàng, khiến chị không giấu nổi chồng những viễn cảnh ngày
mai - Để hai con chó cùng bú chung, chúng càng thi nhau hay ăn chóng lớn, thầy
nó ạ. Nhà mình thêm một suất đinh, là tứ hổ, chẳng sợ thiên hạ bắt nạt.
Ông Cử Phúc cảm thấy như tâm hồn ông đang được dội từng đợt
sóng hạnh phúc. Ông lại khám phá thêm một phẩm chất tuyệt vời, một tấm lòng vị
tha nhân hậu của người bạn đời đã cùng ông ngọt bùi cay đắng. Mới đó mà đã sáu
năm.
Lại nhớ cái năm chị cả Phúc bị chết vì hậu sản, thằng Khôi mới
vừa hai tuổi. Hằng tháng ròng, đêm đến ông ngồi chong đèn thở dài thườn thượt,
khi thằng cu Khôi khóc ngằn ngặt trong lòng bà nội vì nhớ hơi mẹ. Thương con một
phần, nhưng xót mẹ bội phần. Đợi hết giỗ đầu chị cả Phúc, ông bằng lòng để bà Đồ
Kha sửa cơi trầu xin cưới Ân.
Cô Vũ Thị Ân, mười bẩy tuổi, là con út cụ Nhiêu Hanh, một địa
chủ bị sa sút của vùng bãi trồng dâu dệt lụa. Ngày còn sinh thời cụ Đồ Kha, giữa
cụ đồ và cụ Nhiêu đã có lời hứa sẽ gả con cho nhau để làm chỗ thông gia đi lại.
Hiềm nỗi, năm anh con trai cụ Đồ Kha đến tuổi thành gia thất thì con gái cụ
Nhiêu Hanh quá nhỏ. Hai bên đành thất hứa. Năm chị cả Phúc mất, cô Ân mười sáu
tuổi, nhiều trai làng ngấp nghé, nhưng cụ Nhiêu Hanh nhất định chỉ đánh tiếng với
cụ Đồ Kha bà, muốn nhắc lại lời hứa xưa. Cho nên, với ông Cử Phúc, việc cụ
Nhiêu Hanh gả con gái yêu cho ông là một nghĩa cử cao cả, một kỳ vọng lớn lao,
giống như vua Trần xưa vì nghĩa lớn, vi đại sự quốc gia mà gả Huyền Trân công
chúa cho vua Chiêm Chế Mân vậy. Cô Ân kém ông Cử Phúc hai mươi tuổi đáng tuổi
con, lại đang tuổi dậy thì, đẹp rờ rỡ như đoá hoa hàm tiếu. Cuộc hôn nhân quá bất
ngờ đối với cô Ân, nhưng lại tất yếu như định mệnh, như đạo lý của Khổng Nho
"cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy", khiến cô chỉ xao xuyến, lo âu và hơi
có phần hoang mang khoảng một hai tuần trước ngày cưới. Người đàn ông tục huyền
với cô đã có một cậu con trai ba tuổi, lại đã qua kỳ tam thập nhi lập khiến cô
lo lắng đến trách nhiệm và bổn phận hơn là chờ mong hạnh phúc. Chao ôi, cái đêm
hợp cẩn, là một đêm nhớ đời đối với cả hai người.
Cô Ân nằm nép trong góc giường, người bó chặt trong bộ quần
áo cưới ban ngày, khóc thút thít. Nỗi sợ hãi, chen một chút tủi thân, một chút
nhớ cha mẹ, một chút mặc cảm… làm cho khắp người cô cứ run lên từng đợt. Ông Cử
dường như nhận rõ những điều đó. Ông nằm bất động, hai tay khoanh trước ngực, mắt
nhìn chong chong lên nóc buồng. Ông cảm thấy mình vừa như có lỗi với người vợ
quá cố, vừa như quá tàn nhẫn, ích kỷ, không xứng đáng đối với sự trinh trắng,
ngây thơ của Ân. Thật lạ, trong lòng ông không hề mảy may chút dục vọng. Những
ý nghĩ khiến tâm hồn ông trong suốt, thánh thiện. Ông lặng lẽ khóc và ngủ thiếp
đi từ lúc nào.
Đêm tân hôn trở thành một đêm thuần khiết, không giới tính.
Đó là cột mốc dẫn dắt và định hướng cuộc hôn nhân của họ mỗi ngày thêm tràn đầy
một thứ tình yêu mang đậm màu sắc đạo lý và lòng biết ơn, trân trọng, nâng đỡ
nhau. Ba năm sau, cô Ân, giờ được mọi người gọi là chị hai Phúc, bà Cử Phúc,
sinh bé Nguyễn Kỳ Vỹ, hai năm sau nữa sinh tiếp bé Nguyễn Kỳ Vọng. Ba anh em
nhưng ít ai biết chúng cùng cha khác mẹ. Thậm chí cậu cả Khôi được chị Ân nuông
chiều hơn hai đứa nhỏ. Mọi chuyện từ ăn mặc, thuốc men, học hành bao giờ chị
cũng xếp Khôi ở hàng số một. Khôi là anh cả, phải được ưu tiên đặc biệt thì sau
này mới "quyền huynh thế phụ", giúp các em lo việc gia đình - Chị Ân
thường nhắc với chồng như thế…
- Tam nam bất phú. Giờ mình lại có thêm một nữa là tứ nam. Tứ
hổ bất nhược, nhà nó ạ - ông Cử Phúc kéo một mồi thuốc lào lơ mơ nhìn cụm khói
tản trong gió, tự gật gù vì một ý tưởng chợt đến - Mình sẽ đặt tên cho thằng bé
là Nguyễn Kỳ Quặc, u nó ạ. Nó đến nhà mình là một điều kỳ quặc, bất ngờ không
giải thích nổi. Nhất định là nó không thể mang hoạ, mà chỉ mang phúc đến, như cụ
Nhiêu Biểu đã nói. Dù thế nào tôi với u nó cũng sẽ nuôi thằng bé thành người,
coi nó như con đẻ, như thằng Khôi, thằng Vỹ, thằng Vọng. Nó kém thằng Vọng một
tháng tuổi, phải chịu làm em. Để tôi lấy cho thằng bé một lá số. Cứ coi như giờ
này, ngày này, tháng này u nó đã sinh ra thằng Quặc.
Nguyễn Kỳ Quặc đã được tái sinh ở cửa nhà ông bà Cử Nguyễn Kỳ
Phúc như thế. Nó cùng với cu Vọng bú chung một bầu vú, nằm chung một nôi, một
vòng tay ấp, mặc chung tã lót, áo quần. Nhiều người hiếm con đến nài nỉ, thậm
chí xin chuộc một món tiền lớn để được nhận thằng Quặc làm con, nhưng đời nào
ông bà Cử Phúc chịu nhường.
Hai đứa trẻ, như hai con chó con, suốt ngày bám váy mẹ. Chúng
được bà nội, cụ Đồ Kha, đặt cho hai cái tên xấu xí cho dễ nuôi: Vện và Cục. Cu
Vện thì rõ rồi, Vện đọc chệch từ Vọng. Nhưng cái tên Cục thì lại có nguyên cớ.
Số là khi cu Quặc và cu Vọng biết chạy lon ton, biết gọi u, gọi bà, cũng là lúc
chúng biết giành nhau củ khoai, quả táo, hay những thứ đồ chơi do ông Cử đẽo gọt
từ gỗ, tre. Một lần hai đứa tranh nhau một quả bưởi. Trái cây vẫn còn xanh nên
không thể ăn được, nên cụ Đồ Kha cho hai thằng cháu đá bóng. Cu Vọng cả thèm
chóng chán. Đá một lúc, nó đòi bổ ăn, và cứ ôm chặt giữa chân khiến cu Quặc
không lấy được. Quặc liền chạy đi kiếm một thanh tre phang vào đầu vào mặt thằng
Vọng.
Đến khi cụ Đồ Kha phát hiện ra hai đứa cùng khóc thét, một đứa
cố giữ quả bưởi, một đứa cố giành lại, thì một bên má thằng Vọng đã bị cào rách
sưng vù, máu chảy toe toét. Sau này thằng Vọng bị một vết sẹo ở đuôi mắt trái.
Tên Cục được bà cụ đồ gọi thằng Quặc từ lần ấy.
Càng lớn, thằng Vện và thương Cục càng lộ rõ sự khác biệt của
hai dòng máu. Vện đậm người, da trắng, mắt nai, tính tình nhút nhát, hiền lành.
Cục cao vỏng, mặt xương, mũi cao, mắt xếch pha màu xanh lơ, nghịch ngợm như quỉ
sứ.
Vào năm thằng Vện và thằng Cục lên mười, có một người đàn bà
lạ tìm đến nhà ông Cử Phúc. Chị đóng vai một con bệnh nón mê úp chụp, khăn
vuông đen quấn kín mặt, bụng lùm lùm như chửa năm sáu tháng. Những con bệnh tìm
đến ông Cử Phúc nhiều người từ những nơi rất xa, có người đến ăn nghỉ để chữa bệnh
hàng tuần. Vì thế việc người đàn bà lạ đến đây là sự thường tình. Tuy vậy, sự
xuất hiện của người đàn bà chứa lần này lại khá thận trọng. Chị kín đáo nhìn
quanh. Chị dừng lại ngoài cổng dò xét động tĩnh, rồi nhẹ nhàng đánh tiếng vào
nhà.
Ông Cử bỗng giật mình khi người đàn bà bỏ khăn ra. Một gương
mặt trái xoan trắng hồng, đẹp một cách sắc sảo và cương nghị với đôi mắt phượng
xếch ngược như mắt nàng Tây Thi trong vở tuồng cổ. Thoáng nhìn, ông Cử biết
ngay người đàn bà trạc hai lăm, hai sáu tuổi này hoàn toàn không bệnh tật gì.
- Thưa ông, tôi vừa từ chỗ anh cả Khôi đến.
- Khôi nào nhỉ? - ông Cử Phúc làm ra vẻ ngạc nhiên.
- Anh cả lôi con trai ông - Người đàn bà nhìn ông với ánh mắt
như bảo rằng chị đã biết hết cả, không cần rào đón nữa.
Chị ngó nhìn quanh đầy cảnh giác rồi giở tấm vải quấn quanh bụng,
lấy ra một lá thư được gấp rất nhỏ:
- Anh Khôi có thư cho ông.
Ông cử mở kính, đọc những dòng chữ thân thuộc:
"Kính gửi thầy,
Người cầm thư này là chị Cam, cùng nơi làm việc với con. Chị
Cam sẽ nói với thầy về những điều con không tiện viết trong thư. Thầy u cùng
các em có khoẻ không? Con vẫn luôn nhớ gia đình ta. Kính mong thầy khang kiện.
Con trai, Khôi".
Giờ thì ông Cử không nhìn người đàn bà với con mắt của một thầy
thuốc đối với bệnh nhân nữa, mà ngược lại, chính ông đang có tâm trạng của một
con bệnh. Người đàn bà đến gặp ông đây chính là một cán bộ Việt Minh. Rất có thể
chị ta là cấp trên của con trai ông.
- Tôi hỏi chị khí không phải. Tình hình sức khoẻ và công việc
của cháu Khôi nhà tôi có tốt không ạ?
Thay vì câu trả lời, Cam lấy từ trong lần áo lót ra một tấm ảnh
chân dung đưa cho ông Cử.
- Anh Khôi khỏe mạnh lắm ông ạ. Đây là ảnh anh ấy vừa chụp.
Ông thấy ra dáng một chàng trai khôi ngô tuấn tú không? Anh ấy gửi ảnh này về
cho ông để ông làm cho một tấm thẻ căn cước. Sắp tới Khôi sẽ có việc vào trong
thành Hà Nội.
Ông Cử run run đón bức chân dung đứa con trai suốt ba năm nay
ông không gặp mặt. Vậy là thằng Khôi của ông đã trở thành một đấng nam nhi rồi.
Trông ảnh không ai bảo rằng nó mới mười tám tuổi.
Người đàn bà kéo ghế ngồi sát ông Cử, giọng nhỏ lại:
- Chắc ông cũng biết, lực lượng Việt Minh đang rất lớn mạnh.
Anh Khôi đang được thượng cấp đặc biệt tin cậy giao nhiều trọng trách. Tại Việt
Bắc, chiến cuộc Thu - Đông đã giáng cho quân Pháp những đòn chí mạng…
- Thưa cô. Thế lực quân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ còn hùng hậu
lắm - ông Cử lắc đầu, có ý phản bác những điều Cam vừa nói - Vụ quân Pháp nhảy
dù xuống Phương Đình, Ba Thấu vừa rồi khiến Việt Minh bị mất chỗ đứng…
- Pháp nhảy dù trong thế yếu. Nó chứng tỏ Pháp phải chống trả
với Việt Minh ở ngay sát nách Hà Nội. Theo nhận định của thượng cấp, sắp tới
Pháp sẽ thiết lập một hệ thống đồn bốt dọc tả ngạn sông Điền, lập chế độ tề nguỵ
để bảo vệ vòng ngoài Hà Nội và khống chế Việt Minh ở vùng tự do Liên khu Ba.
Làng Động của ông là một điểm lập bốt của địch.
- Vâng, thưa cô. Bọn chúng đang chọn đình Đụn làng tôi để lập
bốt. Các cụ phụ lão trong làng đang có đơn kêu lên quan phủ, quan tỉnh, phản đối.
- Thưa ông Cử. Tôi được thượng cấp chỉ thị đến gặp ông để bàn
về chuyện này. Chúng ta phải tương kế tựu kế. Địch muốn thiết lập hệ thống
chính quyền cai trị ở vùng tề, thì Việt Minh cần biến hệ thống đó thành cơ sở của
mình để phục vụ kháng chiến. Vậy là chúng ta phải có một đội ngũ những người
làm việc hai mang, ban ngày làm việc với địch, ban đêm là người của ta.
- Tôi hiểu… Nhưng đây là một công việc không dễ dàng…
- Để làm được việc này, Việt Minh phải dựa vào những người
yêu nước như ông, như các bạn của ông là các ông Hội Thiện ở Nghi Sơn, ông Đồ Sắc
ở Chi Hạ, ông Lang Kiêu ở Trầm Bồi…
Ông Cử Phúc tròn mắt, nhìn Cam đầy kinh ngạc.
- Ủa, sao cô lại biết những người bạn của tôi?
- Không có việc gì mà Việt Minh chúng tôi không biết - Cam
nháy mắt, cười, nụ cười vừa tinh nghịch vừa đẹp đến mê hồn - Chúng tôi còn biết
tuần trước tay đồn trưởng Trương tổ tôm và ông đã từ chối. Trương Phiên là tay
chơi tổ tôm khét tiếng lâu nay. Trong khắp huyện Phương Đình này, Trương Phiên
biết chỉ có ông Cử Phúc đáng mặt là đối thủ tổ tôm của hắn mà thôi…
Ông Cử Phúc rùng mình, ớn lạnh.
- Dạ, thưa cô tôi đâu dám… Tôi không thể hầu tổ tôm ông đồn
trưởng Phiên, khi các bô lão làng Động đang phản đối việc Tây lập bốt ở đình
làng.
- Nếu ông nhận lời làm lý trưởng làng Động theo sự bố trí của
Việt Minh; thì ông lại cần phải chơi tổ tôm với đồn trưởng Phiên để nắm được
nhiều thông tin của địch. Nhân đây xin lưu ý với ông rằng viên đồn trưởng Tây
lai Trương Phiên mới gia nhập làng Tây, là một hạt giống mà người Pháp muốn
gieo ở vùng đất này. Trước khi về đồn trú ở đây, Trương Phiên đã tham gia trận
càn ở vùng Khu Trắng và đã phạm một tội ác tày trời…
- Tôi biết vụ sát hại này - ông Cử thở dài - Chính tay Trương
Phiên đã bắn chết ba mươi du kích rồi chặt đầu treo lên cành đa giữa đồng Trầm
Khê.
- Nợ máu này phải trả - Giọng Cam đanh lại - Theo chỉ đạo của
thượng cấp, tên ác ôn này ta muốn khử lúc nào cũng được nhưng vì hắn là một đầu
mối quan trọng nên ta cần khai thác. Vì thế nhiệm vụ của ông Cử là phải kết
thân với hắn. Càng tỏ ra thân thiết càng tốt. Tiếp cận kẻ địch tốt nhất lúc này
lại là lực lượng nhân sĩ trí thức như các vị. Chính vì vậy thượng cấp rất muốn
ông vận động các ông Đồ Sắc, Lang Kiêu, Phó Đại nhận làm các chức sắc cho địch.
Đặc biệt thượng cấp muốn nhờ ông thuyết phục người bạn kết nghĩa của ông là ông
Hội Thiện ra làm Chánh tổng cho Pháp để có điều kiện giúp đỡ Việt Minh…
Ông Cử Phúc nhìn Cam đầy thán phục. Không cái gì qua mặt cô
ta được. Đúng là Hội Thiện là bạn chí cốt của ông, thân nhau tới mức sẵn sàng đổi
vợ như Lưu Bình - Dương Lễ ngày xưa. Hai người cùng là môn đệ ruột của thầy Đồ
Chuông, người bị lỡ chuyến Đông Du với Nguyễn Thượng Hiền vì vướng tang mẹ,
đành về quê ở ẩn, mở trường dạy học. Hội Thiện và Cử Phúc từng cắt máu ăn thề với
nhau ở chùa Phổ Hướng, kết nghĩa huynh đệ suốt đời sướng khổ, hoạn nạn có nhau.
- Theo tôi biết, người Pháp đã đích thân gặp ông Hội Thiện bạn
tôi ba lần, tha thiết mời ông ấy ra làm Chánh tổng, nhưng bạn tôi từ chối - ông
Cử nói.
- Vậy thì ông hãy khuyên ông Hội Thiện nhận làm Chánh tổng
đi. Pháp đang rất cần sự hợp tác của các nhân sĩ trí thức đã từng được đào tạo ở
các trường do người Pháp xây dựng, lại từng giao du với các văn thân yêu nước.
Ông Hội Thiện là người mà Pháp rất cần lôi kéo, tranh thủ. Nếu ông Hội Thiện nhận
vào tổ chức Việt Minh để lọt vào hàng ngũ Pháp là một hành động yêu nước lúc
này. Việt Minh sẽ có người liên lạc và có các chỉ thị với ông Hội Thiện bất cứ
lúc nào. Chính phủ Cụ Hồ sẽ có ghi nhận và có phần thưởng xứng đáng khi nước
nhà độc lập.
Cuộc trò chuyện bí mật với người đại diện của Việt Minh đã tạo
một bước ngoặt trong đời ông Cử Phúc, đưa ông từ một nhà nho yếm thế có tư tưởng
yêu nước chung chung thành một người dám dấn thân, hành động, từ một người bàng
quan, đứng ngoài cuộc kháng chiến thành người của Việt Minh, nhận những chỉ thị
của Việt Minh để hoạt động trong vùng tề. Hai tháng sau cuộc gặp gỡ với Cam,
ông Cử Phúc đã nhận chức lý trưởng càng Động, chính thức mang tên Lý Phúc, tập
hợp quanh mình một hệ thống chức dịch có chung chí hướng như ông: Hoạt động hai
mang, ban ngày, bề ngoài thì làm việc cho chính quyền bù nhìn tay sai của thực
dân Pháp, nhưng thực chất là người của Việt Minh cài cắm vào hàng ngũ địch. Những
người bạn của ông như Đồ Sắc, Lang Kiêu, Chánh Thạp, Cửu Cao, Hội Thiện cũng đều
được Việt Minh cài vào hàng ngũ địch như vậy.
Nhờ sự giới thiệu của ông Cử Phúc, Cam đã làm quen với ông Hội
Thiện, con quan án sát trấn Kinh Bắc, người đã ngấm ngầm ủng hộ Đề Thám trong
cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Hội Thiện là một trí thức kiêm điền chủ lớn, giao du rộng, bạn
hữu nhiều và đặc biệt có uy tín với nhân dân trong vùng. Sau vài cuộc gặp gỡ với
Cam, Hội Thiện đã tự nguyện gia nhập Việt Minh và đồng ý hoạt động hai mang, nhận
chức Chánh tổng Phương Lâm, một tổng lớn của huyện Phương Đình tỉnh Sơn Minh.
°°°
Giả trang một người đàn bà mua lông vịt và đông nát, Cam còn
trở lại gặp ông Lý Phúc vài lần nữa. Một lần để lấy thẻ căn cước cho Nguyễn Kỳ
Khôi và nhận tám trăm đồng bạc Đông Dương của bẩy địa chủ yêu nước trong huyện ủng
hộ chính phủ kháng chiến Việt Minh, mấy lần sau là nhận sơ đồ hệ thống bố phòng
của địch ở bốt làng Động và bốt Phủ.
Còn một mục đích nữa, chuyện riêng tư nhưng vô cùng thiêng
liêng và hệ trọng trong những lần Cam đến gặp ông Lý Phúc. Mãi mãi sau này,
ngoài Cam ra, không ai biết được chủ đích này của nàng. Đó là nỗi khắc khoải được
nhìn thấy mặt thằng Cục.
Cái thằng bé, càng lớn trông nó lại càng khác lạ so với người
anh em cùng tuổi với nó. Bây giờ, khi thằng Vện và thằng Cục đã lên mười và
cùng theo học ở trường làng, chúng khác nhau như thìa với bát nhưng lại dính
nhau như hình với bóng. Thằng Vện ẻo lả thư sinh, còn thằng Cục cao kều, mặt
như Tây lai, mắt xanh, tóc xoăn râu ngô.
Nhiều người ở làng Động xì xầm với nhau rằng thằng Cục hao
hao giống đồn trưởng Trương Phiên. Gã đồn trưởng Tây lai này khét tiếng cả vùng
không chỉ về vẻ ngoài đẹp trai dễ làm xiêu lòng các cô các bà mà còn cả về sự
hiếu sắc và tàn bạo của gã. Trong bất cứ cuộc càn quét tìm diệt nào, tay chân của
gã cũng tìm ra một vài cô gái đẹp để dáng cho gã. Và bao giờ sau khi thưởng thức
xong, gã cũng có cái thú là tháo khoán cho lũ đệ tử chơi hội đồng để gã vừa uống
rượu vừa thưởng ngoạn. Bằng những chiến công tìm diệt du kích, xoá sổ nhiều ổ cộng
sản, gã đã liên tục được gắn mề đay, thăng chức, được điều từ đơn vị lính cơ động
về giữ chốt phòng thủ vành đai quanh Hà Nội. Ngay từ ngày đầu về đóng bốt làng
Động, ai gặp đồn trưởng Trương Phiên cũng liên tưởng đến thằng Cục. Đặc biệt là
ông Cử Phúc. Lần đầu tên đồn trưởng dẫn lũ lâu la đến nhà rủ ông đánh tổ tôm,
ông kinh ngạc quá suýt kêu lên. Sao ông đồn trưởng này lại có nét hao hao giống
thằng Cục con ông? Cũng một khuôn mặt Tây lai không nhầm lẫn được, đặc biệt là
cái mũi thẳng dọc dừa, đôi mắt hai mí sâu phơn phớt xanh. Chỉ có điểm khác duy
nhất là trán thằng Cục hơi ngắn và hẹp, trán ông đồn trưởng cao và gồ lên, dữ dội.
Cũng may mà hôm ấy ông Cử Phúc trấn tĩnh lại được, và cũng may hôm ấy thằng Cục
và thằng Vện đi học vắng, cho nên chính đồn trưởng Trương Phiên cũng không biết
câu chuyện giống nhau kỳ lạ này.
Cam chú ý đến thằng Cục ngay từ lần đầu giả trang làm người
đàn bà chứa tìm gặp ông Cử Phúc. Dường như đó mới là mục đích chính của nàng chứ
không phải là nhiệm vụ của người cán bộ Việt Minh. Lần gặp thằng Cục đầu tiên ấy,
Cam bàng hoàng lặng lặng, tưởng chừng tim nàng như ngừng đập. Nàng loạng choạng
chực buông chiếc tay nải bên vai. Nàng phải đứng dựa vào gốc cây xoan cho khỏi
ngã. Tự dưng những giọt nước mắt nối nhau chảy. Trong làn nước mắt nhoè mờ,
nàng hình dung ra cái buổi chiều gió bấc ràn rát năm nào…
Có những lần, Cam không đến gặp ông Cử Phúc, mà chỉ đến để ngắm
nhìn thằng Cục. Nàng không dám đến gần mà phải ngắm thằng bé từ xa, lúc nếp bên
bụi tre đầu ngõ, lúc giả vờ nhồi sau đống rơm, lúc giả đò xuống rửa ở cầu ao. Rất
ít khi thằng Vện tách rời khỏi thằng Cục. Chúng cùng nhau đi học về. Chúng tha
thẩn bên bờ ao rình bắt những con châu chấu hoặc dùng hoa mướp vàng buộc vào cần
câu để nhử những chú ếch cốm. Có lúc chúng chơi khăng, hoặc đi tìm những chạc
cây và mọc bên mép nước để làm súng cao su. Buồn cười nhất là một lần Cam bắt gặp
hai đứa chơi trò đái thi. Chúng đứng ở bờ ao, cùng tụt quần, cùng kéo chìm ra rồi
thi nhau ưỡn người đái vào hai chiếc lá khoai nước xem đứa nào vừa đái xa vừa
xuyên thủng được lá khoái. Cam để ý trong những cuộc chơi, bao giờ thằng Cục
cũng tỏ ra thành thạo. Rõ ràng Cục đái xa hơn Vện. Nó nhanh nhẹn và đặc biệt hiếu
động. Thằng Vện có vẻ phát tướng về văn, còn thằng Cục lại đặc biệt có tướng mạo
và tư chất theo nghiệp võ. Càng ngắm, Cam lại càng thấy nó giống con người ấy lạ
lùng.
Sao tạo hoá lại nghiệt ngã đến nhường kia? Nàng đã tàn nhẫn
và thú tính đến mức đang tâm vứt bỏ nó như vứt bỏ nắm rẻ rách ngoài đồng, vậy
mà nó vẫn sống, vẫn lồng lộng như một thiên thần. Sao tạo hoá không cho nó một
dáng vẻ bình thường mắt đen, tóc đen, mũi tẹt như bao đứa trẻ khác của xứ sở
này mà lại bắt nó phải mang tiếp hình hài của kẻ đang gây đau thương tang tóc,
kẻ nợ máu với dân tộc nàng?
Quả là một trớ trêu của định mệnh, một trừng phạt khắc nghiệt
với riêng nàng. Những ý nghĩ khiến trái tim nàng đau buốt. Nàng vừa hạnh phúc
khi nhận ra giọt máu bỏ rơi của mình đã có một nơi nương tựa tin cậy, lại vừa dằn
vặt, đau đớn khi biết mình đã vĩnh viễn mất nó.
Rình mãi, rồi Cam cũng tìm được cơ hội để gặp riêng thằng Cục.
- Này Cục. Cô trông cháu chằng giống con nhà ông bà Cử Phúc tẹo
nào. Cháu là con nuôi phải không? - Cam đón đầu thằng bê lúc nó đang đuổi bắt một
con nhái để làm mồi câu.
Cam cho nó gói kẹo caramen để làm quen. Lúc đầu, thằng Cục tỏ
ra đặc biệt thích thú với thứ kẹo bọc giấy mà lần đầu trong đời nó được thấy,
nhưng khi nghe đến chuyện con nuôi con đẻ thì nó trừng mắt, phẫn nộ:
- Bà chỉ nói bậy. Tôi với anh Vện là hai anh em sinh đôi.
- Cháu thử soi gương mà xem. Hai đứa chằng giống nhau tẹo
nào… Với lại, cháu có một cái bớt màu lông chuột ở dưới rốn mà thằng Vện không
có. Các bạn trong xóm hay bảo cháu là thằng con hoang nhặt ngoài bụi tầm xuân
trên gò ông Đống, đúng không?
Thằng Cục cụp mắt xuống, vẻ mặt buồn thiu. Nó lén quay người,
tụt quần nhìn nhanh xuống dưới rốn. Sao người đàn bà này lại biết cái bớt ở dưới
rốn nó nhỉ? Người này đã nhìn thấy nó tắm ở ao đình hay bà ta là một phù thuỷ?
Bà ta lại còn biết rõ cả bọn trẻ con trong làng nữa chứ. Đúng là bọn trẻ láo lếu,
nhất là thằng Ngạnh vẩu con nhà Ngao hay gọi nó là thằng con hoang, thằng bị quạ
thả ngoài đồng.
- Cô nói đùa thế thôi… - Cam bỗng nghẹn ngào.
Cử chỉ ấy khiến thằng Cục chú ý. Người đàn bà này thật lạ
lùng. Phải cảnh giác. Bà ta lấy những cái kẹo đặc biệt quí hiếm này ở đâu để
cho nó? Tặng kẹo thì phải vui lên chứ sao lại sụt sùi chực khóc thế kia?
- Này, cô bảo… Nhớ chia cho anh Vện kẹo để hai anh em cùng ăn
nhé… Nhớ yêu thương nhau, đừng đánh nhau nhé…
Nói rồi Cam rút từ trong người ra một vật. Một chiếc vòng bạc
có kèm chiếc vuốt hổ. Người nàng bỗng run bắn lên khi kéo thằng Cục vào lòng để
đeo vào cổ nó chiếc vòng bạc. Nàng khóc. Những giọt nước mắt lớn chảy xuống tay
thằng bé, khiến nó hoảng hốt vứt trả chiếc vòng, bỏ chạy.
°°°
Cam, chính là người mẹ trẻ đã bỏ thằng Cục ở gò ông Đống đầu
làng Động mười năm về trước. Tên gọi khai sinh của nàng là Bướm, một cái tên
thoạt nghe có vẻ thô lậu, nhưng lại đượm mầu phù phiếm, phong tình.
Theo lời ông Cai Sâm, bố đẻ của Bướm, thì mẹ nàng là con của
một bộ tướng tài ba của nghĩa quân Đề Thám. Vào thời loạn lạc ấy, mẹ nàng mới
chỉ là một cô bé mười tuổi nhưng rất xinh đẹp. Cô bé trở thành chiến lợi phẩm của
một ông Đội khố đỏ, khét tiếng cờ bạc. Đêm trước trận đánh vào khu căn cứ Bố Hạ,
đối thủ của Cai Sâm bị thua cháy túi, phải gán đứa con gái chiến lợi phẩm cho
Cai Sâm. Hôm sau, ông Đội khốn khổ ấy chết trận. Cai Sâm đem cô gái gửi một người
bà con ở vùng Đáp Cầu nhờ nuôi, với ý định đợi lớn một chút sẽ dùng làm thê thiếp.
Và Cai Sâm không phải đợi lâu. Vài năm sau, khi Cai Sâm giải ngũ, cũng là lúc
trái cấm vừa chớm thì. Ông kịp nếm mùi của lạ. Nàng có thai. Đợi tiếp một năm,
đủ thời gian mẹ tròn con vuông, Cai Sâm giữ lại đứa con gái xinh xẻo, gửi người
nuôi tiếp, còn người mẹ trẻ đem bán cho một quan lang ở Mường Bi, lấy mười đồng
bạc hoa xoè.
Trong cuộc đời binh nghiệp, Cai Sâm có hàng tá vợ, hàng đống
con rơi, nhưng chỉ có Bướm, đứa con với người con gái xinh đẹp mang máu huyết
anh hùng của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, được Cai Sâm mang về. Ông nói dối người
vợ sư tử Hà Đông rằng Bướm là con gái yêu của người bạn cùng quân ngũ đã từng lấy
thân mình cứu sống ông trong trận bọn quan binh Pháp lùa những người lính khố đỏ
vào thiên la địa võng của núi rừng Yên Thế.
Càng lớn, Bướm càng đẹp lồ lộ. Mười lăm tuổi, nàng đã phổng
phao hơ hớ như cô gái mười tám. Nhiều chàng trai chỉ ước ao được lọt vào mắt
nàng. Vợ chồng Cai Sâm bỗng lên giá. Hệt như chuyện vua Hùng ngày xưa. Vừa có ý
định kén rể, các Sơn Tinh, Thuỷ Tinh đã lục tục kéo đến. Có những ông Phán, bà
Hàn, bà Đốc quen biết Cai Sâm từ đời tám hoánh, nay bỗng đánh tiếng muốn làm
thông gia. Thế rồi chàng Sơn Tinh đã xuất hiện. Người ấy là Trương Phiên, con
trai út của ông Bếp Tảo, bạn cùng quân ngũ với Cai Sâm. Bếp Tảo đi lính khố đỏ,
biên chế chủ yếu ở đơn vị hậu cần. Do có tài nấu nướng, lại là chỗ họ hàng với
quan Tổng đốc Hoàng Trọng Phu, nên thường được mời làm đầu bếp trong các buổi đại
tiệc các quan Nam triều tiếp các quan nước mẹ Đại Pháp. Có một câu chuyện đàm
tiếu về Bếp Tảo thời kỳ ấy. Ấy là thời gian ông lấy bà Tư Nguyệt. Thị Nguyệt vốn
là một me Tây nổi tiếng ở vùng Đáp Cầu. Trước khi biết Bếp Tảo, Thị Nguyệt đã
là nhân tình của viên quan ba Pháp Fournier. Khi Thị Nguyệt có mang một tháng
thì viên quan ba Fourmer phải điều chuyển đi chiến trường Angiêri. Biết vậy
nhưng vì cần xâm nhập vào giới thượng lưu Pháp, Bếp Tảo sẵn sàng chấp nhận việc
quan ba Fournier đúc cốt để mình tráng men. Rất mừng là Trương Phiên sinh ra
không mang trong mình dòng máu oẳn tà oằn Phi châu mà là sắc trời xanh trong mắt,
mầu đặc trưng của vùng Địa Trung Hãi, miền Nam nước Pháp. Mặc miệng lưỡi thế
gian, theo câu cách ngôn phương Tây: "Chó cứ sủa, đoàn người cứ tiến",
ông Bếp Tảo và bà Tư Nguyệt cùng với cậu con trai Trương Phiên vẫn đạp trên dư
luận, thẳng tiến vào giới thượng lưu.
Mười chín tuổi, Trương Phiên theo nghiệp cha tráng men vào học
trường võ bị Sơn Tây. Ra trường với một bông mai vàng trên ve áo, gặp Bướm lần
đầu tiên, chàng Tây lai đẹp ngời ngợi, cao một mét bẩy mươi nhăm, mẫu người lý
tưởng cho các võ quan tương lai, như người bị bắt mất hồn. Đáp lại, Bướm cũng
như một con thiêu thân, lao hết mình về phía ngọn đèn. Suốt tháng giêng hai, họ
quấn lấy nhau, đưa nhau từ hội chùa Hương đến hội chùa Thầy. "Gái chưa chồng
đến hang Cắc Cớ. lai chưa vợ đến hội chùa Thầy". Hang Cắc Cớ, là cái hang
định mệnh của Bướm. Ở đó, nàng đã trao thân cho Trương Phiên.
Khi Bướm có mang đến tháng thứ hai thì chàng Trương Phiên bỗng
lặn một hơi vô tăm tích. Lý do là ông Bếp Táo được Chính phủ bảo hộ tặng Bắc Đẩu
bội tinh, được Chính phủ Nam Triều tặng hàm thất phẩm và được điều chuyển về Hà
Nội. Lọt vào Hà Thành hoa lệ, Trương Phiên bỗng bị vây bủa, bị choáng ngợp bởi
thế giới thượng lưu với hàng trăm tiểu thư khuê các. Ba tháng sau, chàng sĩ
quan tương lai của Chính phủ bảo hộ làm lễ đính hôn với nàng Kiều Nhi, con gái
quan Tham tá Bùi Tử Do, một yếu nhân của Hội đồng Dân biểu Bắc Kỳ.
Cái Sâm như người bị ỉa vào mặt, mấy lần mang cây súng kíp
chĩa vào giữa ngực Bướm định bóp cò. Rồi ông gầm lên như con cọp bị trúng
thương, vứt khẩu súng như vứt một que củi vớ chai rượu ngang tu ừng ực. Bướm muốn
phát điên. Nàng trốn cha, bỏ nhà đi lang thang vào trong tít vùng núi Kim Bôi,
Hoà Bình.
Cái thai, như một nghiệp chướng, suốt chín tháng trời quăng
quật, thậm chí bị đày ải, bị nguyền rủa, bị hành hạ, cuối cùng mới chịu chui ra
và bị Bướm vứt ở bụi tầm xuân gò ông Đống làng Động. Vứt con đi rồi, nàng mới
thấy hành động của mình là điên rồ, là mất nhân tính. Chiều tối, với lòng hối hận
tột cùng và sự dày vò của lương tâm, nàng trở lại tìm con, nhưng thằng bé đã bặt
vô âm tín. Hoảng loạn, điên khùng, nàng băng qua cánh đồng, lao ra bờ sông và
nhảy ùm xuống dòng nước buốt giá.
Hệt như trong truyện cổ tích. Đêm trăng suông giá rét ấy, vợ
chồng người kéo vó bè trên sông đã cứu sống Bướm. Biết được cảnh ngộ éo le của
nàng, họ đến gặp sư cụ chùa Phổ Hướng, một ngôi chùa cổ trơ trọi giữa đồng, xin
cho nàng ăn mày cửa Phật.
Mười bẩy tuổi, Bướm xuống tóc, lấy pháp danh Thích Đàm Hiên.
Những năm 1939-1940, phong trào Dân chủ và Mặt trận Bình dân
tan rã, Pháp trở lại đàn áp phong trào cách mạng ở thuộc địa. Chùa Phổ Hướng, nằm
ở ven sông, xa làng, bốn bề bao bọc bởi luỹ tre ken dày song mây và um tùm bóng
cổ thụ, trở thành cơ sở bí mật, nơi nuôi giấu các chiến sĩ cách mạng.
Ni sư Thích Đàm Hiên bản tính hiếu động, quyết liệt, tràn trề
đam mê, khám phá, dù không tự giác, mặc nhiên dần thành cầu nối, giao liên giữa
những người cộng sản.
Và rồi, sự nghiệt ngã của định mệnh một lần nữa lại kéo ni sư
Thích Đàm Hiên trở về với cõi tục. Nàng yêu Lê Thuyết, uỷ viên Liên khu uỷ Hữu
ngạn, một chiến sĩ cách mạng trung kiên. Nàng tình nguyện gia nhập tổ chức cộng
sản của Lê
Thuyết và theo anh rời chùa Phổ Hướng đi hoạt động ở các xóm
thợ, vùng quê.
Từ đây, với mật danh Đào Thị Cam, ai sư Thích Đàm Hiên, tức
cô Bướm ngày xưa, thực sự trở thành người của Việt Minh, hoạt động trong một đường
dây bí mật khắp các tỉnh châu thổ sông Hồng.
°°°
Từ ngày thằng Cục gặp người đàn bà tên Cam, tính tình nó bỗng
nhiên đổi khác. Chiếc vòng bạc nó vứt trả, đã được người đàn bà giắt ở chạc ba
cây sung. Ngay sau đó Cục đã quay lại và tìm thấy. Nó cất thật kỹ chiếc vòng bạc
có vuốt hổ trong một túi vải, lâu lâu lại mở ra ngắm nghía, như ngắm một thứ
bùa hộ mệnh. Nó trầm lặng, ít nói và hay tách rời thằng Vện, tha thẩn đi chơi một
mình.
Cục thường xem lại cái bớt màu lông chuột ở dưới rốn nhiều lần
và cứ vơ vẩn nghĩ về những điều mà người đàn bà lạ đã nói với nó. Rồi không thể
đừng được, Cục mang mối hoài nghi này hỏi bà nội. Bà Đồ Kha vốn không biết nói
dối bao giờ. Bà ngạc nhiên về cái vòng bạc và người đàn bà đã tặng thằng Cục vật
quí. Bà thú nhận rằng thằng Cục đúng là được sinh ra từ bụi tầm xuân gò ông Đống.
- Nhưng ai đẻ ra cháu hở bà? Vẫn là mẹ Phúc đấy chứ?
- Thì mẹ Phúc chứ còn ai nữa? Cháu với anh Vện vẫn là anh em
sinh đôi mà… Mà này, đừng nghe ai xui nữa nhé. Gặp người đàn bà ấy thì hãy
tránh xa ra cháu nhé… - Bà Đồ Kha giải thích qua loa rồi vội đánh trống lảng
sang chuyện khác.
Ý nghĩ về nơi sinh của mình luôn trở đi trở lại trong giấc ngủ
của thằng Cục. Nó mơ tưởng đến gò ông Đống như con chiên mơ về vùng đất thánh.
Và rồi, như câu chuyện Thạch Sanh bà Đồ Kha thường kể cho các cháu nghe, Cục
cũng có khát vọng như chàng Thạch Sanh muốn trở lại gốc đa xưa nơi đã sinh ra
mình. Nó lầm lùi ra bờ ao đẵn một cây trúc bánh tẻ thật già, chọn một đoạn thật
thẳng, dài hai sải tay, lừa lúc giữa trưa, thằng Vện và cả nhà thiu thiu ngủ, một
mình nó ra gò ông Đống. Khóm tầm xuân trên gò giờ đã trở thành một búi to rậm rạp.
Bọn trẻ chăn trâu thường bảo nhau tránh xa bụi tầm xuân này vì sợ trong đó có
ma quỉ. Nhưng thằng Cục cóc sợ Nó cần phải biết nơi đẻ ra nó như thế nào. Với
dũng khí của chàng Thạch Sanh, nó lom khom bò lên gò ông Đống, tiến đến sát bụi
tầm xuân. Chà chà, những đoá tầm xuân cánh trắng, nhị vàng giống như loài hoa hồng
trắng thơm điếc mũi. Mẹ nó thật khéo chọn, nơi sinh hạ nó thật là độc đáo. Những
cây tầm xuân vươn dài ra, uốn cong, tạo thành một vòm, kín, như vòm cung điện.
Cục đảo quanh bụi tầm xuân một vòng. Tự nhiên nó nảy sinh một
nỗi ham muốn bồng bột rất trẻ con là được chui vào nằm giữa bụi tầm xuân, giữa
vòm cây ken dày lá xanh và hoa trắng thơm ngát, giữa trưa nắng mà vẫn râm mát
như một cung điện, nơi mười năm trước nó đã được sinh ra, xem cảm giác êm khoái
đến mức nào. Bằng một động tác rất thận trọng, nó ép người xuống cỏ, đưa chiếc
gậy trúc vào giữa bụi, gạt mấy cành gai và từ từ trườn vào.
Cục nhắm mắt lại. Hai cánh mũi nó mở thật to, hít thật sâu
mùi hương thanh khiết, nồng nàn của hoa tầm xuân. Nó tưởng tượng mình đang ở
trong một cung điện nguy nga đầy hương thơm và tràn ngập những hào quang. Hình
như đâu đây có tiếng xiêm áo sột soạt. Hình như những nàng tiên với những tà áo
dài tha thướt như suông khói đang từ trong cung điện tiến ra chào đón nó.
Bỗng, búp. Một tiếng kêu rất nhẹ. Bàn tay trái thằng Cục buốt
nhói. Một con rắn hổ trâu đen trũi loáng qua mắt Cục.
Toi rồi. Nó vừa bị rắn mổ. Phản xạ đầu tiên của thằng Cục là
toại người ra khỏi bụi tầm xuân, lăn một vòng xuống chân gò.
Chỉ nửa tiếng nửa, nó sẽ chết. Y nghĩ ấy khiến Cục rùng mình,
toát hết mồ hôi. Nó dùng bàn tay phải nắm chắc cổ tay trái để nọc không chạy
lên tim. Thấy. không an toàn nó cởi dây rút quần quấn quanh cánh tay mây vòng
thật chặt.
Khi thằng Cục chạy về đến cổng nhà, cũng là lúc nó ngất xỉu,
mắt trợn ngược không biết gì. Ông Cử Phúc lao thẳng từ trong nhà ra, ôm lấy thằng
con.
Bằng linh tính nghề nghiệp, ông biết phải làm gì. Chỉ chậm
vài phút nữa, thằng bé sẽ chết. Cánh tay trái thằng Cục sưng vù, tím đen. Ông Cử
Phúc chích tĩnh mạch nặn máu nhiễm độc và bằng thứ thuốc đặc hiệu gia truyền,
ông cho Cục uống để tiêu nọc, trợ tim.
Thằng Cục được cứu sống, nhưng từ đó, tai nó bị nghễnh ngãng,
tay trái bị teo cơ, suốt đời mềm oặt như dải khoai nước.
Cũng từ đó, không bao giờ Cục đặt chân đến gò ông Đống. Nó cố
quên cái nơi nó sinh ra, cố quên người đàn bà đã xui nó tìm ra gò ông Đống để
khiến nó tật nguyền suốt đời.
Chương 3
cuộc tình éo le
Trong số những cán bộ nòng cốt được tổ chức đưa về lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền tháng 8 năm 1945 ở huyện Phương Đình có Đào Thị
Cam.
Năm ấy Cam hai mươi bốn tuổi, đẹp đến mức hằng ngày nàng phải
trộn bồ hóng với tro bếp thoa lên mặt để người ta đỡ nhìn. Sự xuất hiện của
nàng trong cuộc diễn thuyết dưới gốc cây muỗm cổ thụ trước cổng chùa Phổ Hướng,
là một sự kiện xưa nay chưa từng có. Tóc búi để lộ chiếc cổ cao ba ngấn, áo nâu
non chẽn ngang bởi chiếc thắt lưng to bản, lại cài hai trái lựu đạn mỏ vịt,
càng tôn thêm bộ ngực căng tròn và đôi hông nở đầy khêu gợi… Cánh đàn ông nhìn
không chớp mắt. Nhiều ông cứ há hốc mồm như muốn nuốt chửng lấy nàng, không cần
biết nàng nói những gì.
Khi hàng vạn người từ các thôn, các xã trong vùng đã tập hợp
đông chật bãi cỏ trước chùa, tiếng hô xé trời, cờ, biểu ngũ, giáo mác, đòn càn,
gậy gộc… đâm lên tua tủa, cũng là lúc lệnh khởi nghĩa được phát ra. Cam cùng ba
người đàn ông trong ban lãnh đạo dẫn đầu cuộc biểu tình, dương cao lá cờ đỏ sao
vàng, cờ búa liềm tiến về huyện đường Phương Đình. Hình ảnh ấy, tư thế ấy của
Cam không kém gì hình ảnh Bà Trưng kéo quân về thành Mê Linh hỏi tội Thái thú
Tô Định. Người ta trầm trồ về vẻ đẹp lộng lẫy, tư thế oai phong lâm liệt của
nàng. Người ta càng kinh ngạc hơn khi nhận ra nàng chính là ni sư Thích Đàm
Hiên của chùa Phổ Hướng mấy năm trước.
Người bị Cam làm cho choáng ngợp, làm hút hồn ngay từ lần đầu
gặp mặt là cậu học trò Nguyễn Kỳ Khôi. Hoá ra nhà lãnh đạo cách mạng của huyện
lại là thầy tiểu xinh đẹp của chùa Phổ Hướng mấy năm trước đã từng làm Khôi chết
mê chết mệt.
Ấy là những năm Khôi học lớp Đệ ngũ, Đệ tứ ở trường tiều học
Tảo Khê. Từ nhà đến trường đi bộ chừng bẩy cây số, qua mấy cánh đồng, qua chùa
Phổ Hướng và một dẫy ao chuôm trước khi ra tới bờ sông. Nghe đồn chùa Phổ Hướng
mới có một thầy tiểu đẹp ngang tiên nữ giáng thế, mấy đứa học trò tinh nghịch bọn
Khôi liền phân công nhau thám thính. Chúng trèo cây, vượt qua nhà tam bảo lẻn
vào chùa để nhìn tận mặt.
Quả nhiên danh bất hư truyền. Lúc ấy thầy tiểu đang vớt bèo
dưới ao, chỉ nhìn thấy dáng người phía sau, một eo lưng thon mềm, mông nở căng
sau bộ nâu sồng, và đặc biệt khêu gợi là hai bắp chân trắng ngần thon lẳn. Khôi
giả vờ bẻ một cành khô đánh động. Thầy tiểu giật mình quay lại. Trời ơi, tiên nữ
thế kia mà nỡ trốn vào chùa, có phí hoài không?
Lần gặp tiểu ấy khiến Khôi ngơ ngẩn hàng tháng trời. Khôi
tương tư. Khôi phải lòng tiểu Hiên và lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chùa. Cậu đang ở
tuổi phát dục nên thường tưởng tượng đến thân thể đàn bà. Khôi như nhà thám hiểm
khao khát phát hiện những vùng đất mới. Rất nhiều buổi trưa cậu hay lang thang ở
bờ ao nhà ông xã Duyên để rình nhìn trộm đàn bà tắm. Ao ông xã Duyên là chiếc
ao rộng, sâu nhất làng, nước trong đến mức nhìn rõ cả từng búi rong đuôi chó, từng
đàn cá chuối dẫn nhau đi ăn mồi. Chiếc cầu ao ở gốc sung hầu như dành riêng cho
đàn bà con gái xóm Thượng tắm. Đứng rình phía bên kia cầu ao, sau bụi tre, dưới
gốc cây gạo, giả vờ đang câu ếch hoặc bắt cua mà nhìn trộm đàn bà tắm thì thật
là tuyệt. Tha hồ mà xem như sau này người ta xem phim sex.
Béo, gầy, trắng, đen, vú to, vú nhỏ, mông lép, mông mẩy… phô
bầy ra hết. Thú nhất là đoạn các bà các cô thay quần. Có người kín đáo quấn
quanh người chiếc khăn vuông đen hoặc chụp qua đầu chiếc váy, rồi tụt quần ra.
Có người nhìn quanh không thấy ai, liền cởi bỏ hết cả, trắng nồng nỗng, đen
nhưng nhức. Những lúc ấy, Khôi chỉ biết nuốt nước bọt, mắt mở căng. Ước gì có
cái ống nhòm mà nhìn cho bõ.
Uớc muốn được nhìn tiểu Thích Đàm Hiên tắm bắt đầu nảy sinh từ
cái hôm Khôi nhìn thấy bắp chân trần của tiểu lúc vớt bèo dưới ao. Không để cho
một đứa bạn nào biết, Khôi ngấm ngầm thực hiện một kế hoạch. Cậu bỏ hẳn một buổi
chiều đi thám thính quanh chùa và phát hiện một nơi đột nhập vào chùa rất lý tưởng.
Chỉ cần đu lên cành nhãn bên cổng ngách là có thể chuyền sang cây muỗm gần ao.
Từ đây dễ dàng trườn sang nóc nhà tam quan, lên gác chuông, rồi leo vào gian
trái nhà ngang hay bất cứ nơi nào trong chùa. Tìm thấy đường, ắt đi tới đích.
Suốt kỳ nghỉ hè năm ấy, Khôi ta nói dối thầy u đi học thêm, mang mấy cuốn sách
giáo khoa thư, lẻn tót lên gác chuông chùa Phổ Hướng giả vờ ôn bài, nhưng kỳ thực
là chờ cơ hội rình xem tiểu Hiên tắm.
Kỳ công đến cả tuần lễ mà vẫn không ăn thua gì. Vẫn chỉ một
chiếc khăn nâu quấn kín quanh đầu, vẫn một dáng nâu sồng bí ẩn.
Cho đến một buổi, Khôi bỗng nhận ra tiểu Hiên trong một dáng
vẻ rất khác lạ. Nàng có vẻ thẫn thờ, có vẻ bồn chồn trông ngóng một ai đó. Đang
cuốc đất hùng hục ở ngoài vườn, nàng bỗng vứt cuốc, chạy đến cầu ao vã nước lên
mặt, xắn cao quần khoả nước lên đùi, rồi lại xăm xăm ra vườn, vớ lấy cuốc, bổ
phầm phập. Được một lúc, nàng dừng cuốc, đứng thừ người. Có chuyện gì đang đến
với tiểu Hiên? Nàng đang mòng ngóng ai chăng? Khôi chợt thắt lòng như muốn ghen
với ai đó.
Hướng theo ánh mắt bồn chồn của tiểu Hiên, Khôi nhận ra một vạt
ngô đang kỳ xây bắp. Những cây ngô xanh mướt, cây nào cũng mang một hai bắp
trên mình. Đột ngột, tiểu Hiên buông cuốc, đi xăm xăm đến vạt ngô, tìm bẻ một bắp
to nhất giấu vào vạt áo. Thì ra nàng đói. Khôi như hiểu ra. Cậu cố thử đoán xem
nàng sẽ ăn ngô như thế nào?
Nhưng sao chỉ có một bắp? Sao nàng không vào bếp để nướng hoặc
luộc mà lại xăm xăm đi vào nhà kho thế kia? Khôi lại căng óc theo dõi và phán
đoán. Chờ mãi, không thấy tiểu Hiên ra, Khôi càng nóng ruột. Cậu luồn từ gác
chuông, qua chái tam quan, qua cây bưởi đầy gai đến nóc nhà kho. Có tiếng thở dốc,
rồi tiếng rên quằn quại. Thôi chết, tiểu Hiên làm sao? Khôi áp tai vào mái
ngói. Tiếng thở, tiếng rên càng rõ hơn. Chắc là Hiên bị trúng gió hoặc bị ngộ độc
thức ăn? Lao xuống đất, phá cửa nhà kho vào cứu tiểu Hiên chăng? Không được! Sẽ
bị lộ. Sư thầy sẽ chạy đến, hô hoán lên, hoá ra lạy ông tôi ở bụi này!
Rất may, Khôi nhìn thấy mấy viên ngói vỡ gần nóc. Trườn tới dỡ
viên ngói nhòm xuống. Khôi bỗng bàng hoang phát hiện ra một cảnh lạ lùng; Tiểu
Hiên đang nửa nằm nửa ngồi trên nắp chiếc vại đựng khoai khô, trong một tư thế
gần như khoả thân, khăn áo nâu sồng vứt dưới chân, mái tóc đang mọc lởm chởm bết
mồ hôi, ôm lấy gương mặt đỏ bừng vừa như đang rất đau đớn, vừa như đang ở đỉnh
điểm thoả mãn, khoái cảm. Kỳ lạ nhất là đôi bàn tay. Một tay nàng xoa bóp bầu
vú, như mơn trớn, như vày vò, tay kia đang cầm một vật gì đó kẹp chặt giữa đùi.
Càng kẹp, nàng càng quằn quại, rên rỉ. Cố kìm nén mà tiếng kêu của nàng cứ hộc
lên…
Dí mắt xuống sát khe ngói một chút nữa, Khôi nhìn thấy mấy bẹ
bắp ngô non vừa bị lột, rơi dưới đất như những cánh hoa…
Chiều hôm ấy, Khôi không biết bằng cách nào mình đã về được đến
nhà, bằng cách nào Khôi đã rời khỏi mái nhà kho chùa Phổ Hướng mà tiểu Hiên
không biết. Đũng quần cậu đẫm ướt. Cậu cảm thấy mình đã trở thành đàn ông. Khôi
đã khám phá ra chốn sâu kín nhất của người đàn bà đầy khát khao ham muốn nhưng
phải giam hãm tù túng chốn cửa thiền.
Ba tháng sau, tiểu Hiên bỗng biệt tung tích. Không ai biết
nàng đi đâu. Sư cụ trụ trì chùa Phổ Hướng thì bảo: "Căn quả của người ấy nặng
lắm, Đức Phật cũng không độ được".
°°°
Cuộc hội ngộ giữa Tháng Tám - Mùa Thu khiến Khôi hạnh phúc đến
tột cùng. Nàng đã trở về sau hơn ba năm mai danh ẩn tích. Cuộc trở về chùa Phổ
Hướng của nàng lần này trong một tư thế thượng phong thác hẳn. Cách mạng phải
hoành tráng và cuốn hút như thế chứ. Sẽ khối kẻ choáng váng vì nghĩ rằng cách mạng
chỉ toàn người lao khổ khố rách áo ôm. Thì kia, hãy mở to mắt nhìn. Cách mạng
có một nữ thủ lĩnh đẹp đến mê hồn.
Sẵn khí thế hừng hực của hàng vạn người lao khổ vùng lên, giờ
lại được truyền thêm chất men say và vẻ đẹp đầy quyến rũ, đầy lãng mạn của mỹ nữ
cách mạng, Khôi như người nhập đồng, bừng bừng và cuồng nhiệt, háo hức và đam
mê, xả thân và liều lĩnh. Ở đâu có Cam là có Khôi. Khôi đi phá kho thóc của Nhật
chia cho dân nghèo. Khôi tiến vào huyện đường tước ấn tín của quan huyện, đốt hết
sách vở, giấy tờ liên quan đến phong kiến đế quốc.
- Đồng chí Khôi là con ông Cử Phúc, đúng không? Đồng chí giỏi
lắm.
Chỉ một ánh mắt, một câu nói của Cam đủ làm Khôi run lên. Sao
nàng biết tên ta? Nàng biết rất rõ về gia đình ta nữa?
Khôi cầm bàn tay nhỏ nhắn của nàng đưa cho mà cảm giác như
máu của nàng truyền bang người mình, giârl giật, nóng bỏng, cảm thấy tim mình
có lúc như ngừng đập.
Sau này, chính Khôi cũng không lý giải nổi rằng, ngay sau cuộc
cách mạng long trời lở đất ấy, anh đã bỏ học, trốn ông bà Cử Phúc, thoát ly gia
đình đi làm cách mạng, là vì ý thức giai cấp lòng căm thù đế quốc sài lang hay
vì ánh mắt, nụ cười và vẻ đẹp đầy quyến rũ, mê hoặc của Cam?
Suốt những năm tiếp theo, hình ảnh của Cam lúc nào cũng ngự
trị trong trái tim chàng trai đang tuổi trưởng thành. Và có điều này thật kỳ lạ:
Hằng tháng, thậm chí hằng tuần, anh vẫn gặp nàng trong mơ. Những giấc mơ thường
gắn với hình ảnh nàng gần như khoả thân lên rỉ và quằn quại trong gian nhà kho
chùa Phổ Hướng ngày nào. Lần nào mơ thấy nàng, đũng quần Khôi cũng đẫm ướt.
Nàng như mục tiêu khoái cảm, như chất đôping của đời anh.
Không hiểu bằng cách nào đó, trong tay Khôi có một tấm ảnh của
Cam. Khôi hôn hít ngắm nghía hàng nghìn lần. Khôi sáng tác hẳn một bài thơ chép
sau tấm ảnh, cất nó trong một túi vải, lúc nào cũng đeo trước ngực.
Choáng ngợp hồn ta sắc đỏ cờ
Môi nàng cũng sắc lửa Mùa Thu
Đường cách mạng dù chông gai bão tố
Ta xiết tay nhau quyết thắng thù!
Đó là bài thơ tình và cũng là bài thơ cách mạng đầu tiên của
Khôi. Nhất định đến một lúc nào đó, anh sẽ đọc tặng nàng.
Thế rồi cái ngày định mệnh ấy đã đến.
Theo sự bố trí của tổ chức, Khôi từ vùng căn cứ Cầu Dậm sang
nhận chỉ thị chuyến công tác mới. Địa điểm cho cuộc gặp là nhà một cơ sở ở Chợ
Đanh, nơi giáp ranh giữa vùng tự do và vùng tề. Đây là địa chỉ hòm thư lưu mà
lâu nay Khôi đã từng lui tới. Chỉ một động tĩnh nhỏ, có dấu hiệu khả nghi, thuyền
của ta sẽ đưa Khôi vượt sông sang vùng an toàn.
Thượng cấp mà Khôi gặp, không ngờ lại là Cam. Tấm khăn vuông
đen che kín mặt, chỉ để hở đôi mắt. Vậy mà thoáng nhìn, Khôi đã run lên. Suốt
ba năm xa cách, nhưng hầu như không lúc nào anh không nghĩ đến nàng, không dò
la tin tức về nàng. Khôi biết, người có mãnh lực kéo Cam ra khỏi chùa Phổ Hướng
ngày ấy là Lê Thuyết, uỷ viên Liên khu uỷ Hữu Ngạn, người đã dẫn dắt nhiều trí
thức tham gia phong trào vô sản hoá. Cuộc tình ấy khiến Khôi ghen tị, nhưng anh
bất khả kháng. Cho đến khi tin Lê Thuyết bị Quốc dân Đảng giết ở Hải Phòng thì
trong Khôi thầm nhen lên một hy vọng mơ hồ. Khôi ái ngại khi Cam trở thành goá
bụa, nhưng anh cũng thầm chờ đợi một cơ hội…
Ánh nhìn của Khôi báo hiệu cho Cam biết anh đã vào độ trưởng
thành. Mười tám tuổi, mặt đầy trứng cá. Cao to, vồng ngực căng nở, cánh tay vạm
vỡ. Trông ra dáng đàn ông lắm rồi. Khôi để một hàng ria mép đen ánh vừa như một
chú ngựa non mới lớn, lại giống một gã dê choai.
Trong khi họ đang thì thầm trao đổi công việc ở trên nhà, thì
có ánh đèn pin loang loáng và tiếng giày đinh của bọn lính nguỵ ở bờ sông.
Không theo con đường đê mọi ngày, bọn lính ở bốt Chợ Đanh đi từ dưới sông lên.
Chúng có cả một ca nô có gắn đèn pha cực mạnh đang túc trực bên bờ. Vậy là đường
rút qua sông đã bị chặn. Ông già chủ nhà là một người giàu kinh nghiệm và rất bản
lĩnh. Ông thong thả rít hết một mồi thuốc, vầng trán cau lại nghĩ ngợi mưu kế,
rồi ông ném mảnh chăn nâu lên chiếc phản, nơi đứa cháu đang ngủ, bên gian trái
nhà, bảo Cam và Khôi phải đóng vai hai vợ chồng ôm nhau nằm ngủ, ông sẽ tìm
cách xoay xoả với bọn lính.
Quả nhiên, sau khi ông già bê vò rượu thơm phức mời mỗi đứa một
bát, rồi chỉ vào trong nhà nói có hỏi vợ chồng đứa cháu ngoài Đồng Vàng vào
buôn cau, mệt nằm ngủ, bọn lính tin ngay. Chúng xoáy nải chuối và rổ ngô luộc rồi
bỏ đi.
Những phút giây cập kề giữa cái sống và cái chết ấy vẫn chen
lấn những tích tắc thần tiên. Khôi đang nằm bên người đàn bà mà anh yêu đến mê
muội. Anh cảm thấy hơi thở của nàng nóng rực, thân thể nàng với những đường
cong tuyệt mỹ như bao bọc lấy anh, bộ ngực nàng dường như không thể ngăn được
tiếng con tim đập, cứ hoảng loạn, phập phồng. Lạ quá, bất chấp cả tiếng súng va
chạm, tiếng cười hô hố của bọn lính tuần, những hình ảnh của tiểu Hiên trong
gian nhà kho năm ấy bỗng thoáng hiện về. Người Khôi như quả bom chờ nổ.
Cho tới lúc bọn lính đã đi xuống bờ sông, và ông già còn đang
lo việc tống tiễn chúng, Khôi thấy vòng tay của người đàn bà bỗng ôm xiết lấy
anh. Như một phản xạ, Khôi quay mặt lại. Kỳ diệu quá, đôi môi ướt át và mềm ấm
của người đàn bà bỗng gắn lấy môi anh. Ngây ngất. Nghẹt thở. Dường như rất lâu
rồi, nàng bị kìm nén, bị phong toả. Cánh tay của nàng, đôi môi của nàng nói vậy.
Khôi đang định xoay người ôm xiết lấy nàng, thì nàng ngồi vục dậy, chân khoả xuống
nền nhà, bới lại tóc.
Vừa lúc ấy, ông già chủ nhà quay lại.
- Chúng mình rút thôi - Cam nói ráo hoảnh, như vừa nãy chẳng
có chuyện gì xảy ra - Khi nào có thẻ căn cước của anh chúng ta sẽ gặp lại.
Lần đầu tiên nàng gọi Khôi bằng anh. Nàng hẹn sẽ gặp lại anh.
Khôi sung sướng như muốn phát điên lên. Và thực sự anh đang run. Đến mức không
thể cất lên lời. Anh dúi vội vào tay nàng mẩu giấy mà anh đã nắn nót chép sẵn
bài thơ anh làm chỉ để tặng nàng. Như hiểu ý, nàng cất mảnh giấy vào lần áo lót
trước ngực.
°°°
Cuộc chờ đợi của cả hai người lâu như một thế kỷ. Đó là khoảng
thời gian mà Cam ba lần giả trang để đến vận động ông Cử Phúc và các bạn bè ông
gia nhập lực lượng Việt Minh và cũng là dịp để Cam tìm gặp lại thằng Cục, đứa
con mà nàng đã vứt bỏ.
Cái tối giả vợ chồng và nụ hôn cháy bỏng ở chợ Đanh ấy khiến
cả hai đều nhớ về nhau đến quay quắt. Chỉ bốn câu thơ, Khôi đã gửi trọn thông
điệp tình yêu với Cam. Đây là lần đầu tiên trong đời có người làm thơ tặng Cam.
Khôi khác hẳn với Trương Phiên và Lê Thuyết. Trương Phiên tung bùa mê thuốc lú
để chiếm đoạt nàng. Lê Thuyết kéo nàng trở về với đời thường trong khi nàng còn
ngơ ngác và mặc cảm tội lỗi. Khôi khác hẳn bọn họ. Anh trong trắng, không vụ lợi,
không vẩn đục bởi những dục vọng và tính vị kỷ. Anh có niềm say mê thánh thiện
và sự tôn thờ tuyệt đối, có khả năng gột rửa và trả lại cho nàng ve tinh khôi
ngà ngọc, những khát vọng trinh nữ và thậm chí cả những cuồng say tăm tối mà đã
bao lâu nàng phải kìm nén. Dường như cho đến bây giờ, ở tuổi hăm sáu, Cam mới
thực sự được đánh thức những khát vọng, thế giới tâm hồn đầy khao khát yêu
đương của nàng mới được hé mở. Rào cản ngăn cách chị em chỉ là một lớp màng giả
tạo, khi sắp được dỡ bỏ, lại càng có sức kích hoạt, mời gọi, chờ đón. Cam như
ngọn núi lửa chứa đầy mình dung nham nghìn độ. Sau cái chết của Lê Thuyết, Cam
đã tự thề với lòng mình sẽ không yêu ai nữa. Nàng lao vào hoạt động cách mạng để
trả thù cho chồng. Nàng tự rèn mình thành sắt đá, noi gương các liệt nữ, tiết hạnh
khả phong. Nhưng rồi, chính Khôi đã phá vỡ lớp vỏ bọc sắt đá ấy. Anh đã điểm
huyệt đúng miệng núi lửa. Và dung nham tuôn trào không gì cưỡng được. Lần đầu
tiên kể từ ngày gia nhập tổ chức, Khôi đã tự phá luật lệ, từ khu an toàn, vượt
sông vào vùng tề để tìm Cam.
- Anh liều lĩnh quá. Thượng cấp biết anh vô tổ chức thế này sẽ
không để yên đâu - Nàng trách. Nhưng chính đôi mắt của nàng lại mách bảo rằng:
Anh cừ khôi lắm, đáng mặt đàn ông lắm. Em nhớ anh đến quay quắt, biết không?
Trong vai một cặp vợ chồng từ Hà Nội đi tìm người tản cư, họ
đã sống với nhau ba ngày thần tiên tại một nhà trọ sang trọng ở phố Phương
Đình. Bằng kinh Nghiệm từng trải của một người đàn bà từng qua những cuộc chăn
gối; với năng lượng tích tụ và sự ham muốn bị kìm giữ lâu ngày, nàng đã bày
cách dẫn dụ anh chàng trai tơ Nguyễn Kỳ Khôi vào vòng tình ái một cách ngoạn mục
và cuồng loạn. Đó là những ngày tuyệt đỉnh nhất của đời Khôi. Anh từ run rẩy,
ngơ ngác, bàng hoàng đến mê đắm, cuồng si và bạo liệt.
Nạ dòng vớ được trai tơ
Đêm nằm hí hùng như mơ được vàng.
Những ngày gặp Khôi, Cam có cả một kho vàng. Mà nàng đâu phải
nạ dòng. Cho đến bây giờ vào tuổi hai mươi sáu nàng mới thực sự đàn bà. Mười
năm qua, kể từ tuổi mười sáu trao thân cho Trương Phiên, rồi mấy năm bôn ba làm
vợ Lê Thuyết, nhưng đến bây giờ mới là đỉnh điểm của ái tình. Nếu như với người
đàn ông, sự phá trinh một thiếu nữ chính là lễ hiến tế thiêng liêng của tình
ái, thì với người đàn bà, được tận hưởng nguyên khí của người con trai cũng là
tuyệt đỉnh của khoái cảm, thăng hoa của hạnh phúc.
Sang ngày thứ hai, khi đã "càng quen thuộc nết, càng dan
díu tình", Khôi mới kể cho Cam về câu chuyện cậu học trò đa tình ngày nào
đã nằm phục trên mái ngói nhà kho chùa Phổ Hướng để nhìn trộm tiểu Hiên thủ dâm
ra sao. Chưa nghe hết câu chuyện, Cam đã túm lấy Khôi đấm thùm thụp.
- Anh hư lắm. Đi dòm người ta. Thế mà lúc ấy em chẳng biết
gì.
- Mình còn mải rên và quằn quại. Mà này, bắp ngô hay nhỉ…
- Ư ừ… Chỉ nói xấu người ta. Tưởng đi tu được mà dễ đấy à? Em
ở chùa được bẩy tháng là giỏi lắm rồi… Thôi, ứ nói chuyện ấy nữa. Nói chuyện
khác đi.
- Chuyện gì?
- Chuyện cái bắp ngô này này…
Cam khúc khích cười, luồn tay xuống dưới bụng Khôi.
Lần này thì nàng cẩn trọng và nhẹ nhàng. Bàn tay ấm mềm của
nàng mơn man, dịu dàng như nâng niu báu vật. Vừa dẫn dụ vừa mê hoặc, nàng phả
vào Khôi sự mê đắm cuồng nhiệt, dẫn dắt Khôi vào một vũ điệu mới.
Hiếm hoi lắm mới có một khoảng lặng họ dành cho công việc:
- Gặp thầy tôi, mình có thấy ông cụ là một người tuyệt vời
không? - Khôi hỏi sau một giấc ngủ mê mệt.
- Không thích tôi mình đâu - Cam làm mặt giận - Anh chê em
già hơn anh nhiều phải không? Những tám tuổi cơ mà…
- Thì thôi vậy…
- Anh quen mồm… Thôi nào, nói tiếp đi. Thầy anh thế nào?
- Ông cụ là một nhà nho trọng nghĩa khinh tài, nhưng lại quá
lo cho gánh nặng gia đình. Vận động được ông cụ đồng ý tham gia với Việt Minh
là một thắng lợi rất lớn.
- Nhưng anh cứ lo… Nhỡ có vị du kích Việt Minh nào không hiểu
được việc thầy anh làm, họ khử ông cụ…
- Ừ nhỉ. Một công việc tưởng như đơn giản nhưng lại cực kỳ
nguy hiểm. Nhiệm vụ hai mang, chỉ người trong tổ chức mới biết được. Địch biết,
nó cũng khử…
- Đồn trưởng Trương Phiên là một tên ác ôn khét tiếng. Nó
đánh tổ tôm với thầy anh là để khống chế và thăm dò ông cụ. Đi với ma dù có mặc
áo giấy vẫn bị phát hiện như thường.
Nhắc đến Trương Phiên, Cam bỗng nhớ đến thằng Cục.
- Lạ nhỉ, thầy u anh đặt tên hai thằng bé đến buồn cười. Ai lại
gọi là Vện và Cục.
- Gọi thế để người ta đỡ quở quang, cho dễ nuôi. Em thấy hai
thằng bé có đáng yêu không?
- Ước gì em có một đứa con như thế - Cam bỗng nhớ thằng Cục đến
thắt lòng. Nàng thở dài, quàng tay ôm lấy Khôi.
- Này, nhỡ chúng mình có con thì chết. Chúng mình chưa phải vợ
chồng của nhau. Tổ chức sẽ kỷ luật… - Khôi nói và thử nhẩm tính. Chỉ trong ngày
hôm nay họ đã làm tình với nhau tới bẩy lần.
- Anh sợ tổ chức lắm à? Chửa thì đẻ chứ sao. Em muốn có với
anh một đứa con, một thằng cu sau này đẹp trai như thằng Cục…
- Không được đâu. Anh còn phải phấn đấu nữa chứ…
Khôi lắc đầu mặt nghe như một đứa trẻ. Cam ngắm anh, bỗng trỗi
dậy niềm ham muốn mới. Nàng trườn xuống, nhẹ nhàng hôn từ gót chân Khôi. Đôi
môi người đàn bà chạm tới đâu người Khôi lại gai lên, cương nở. Nàng dừng lại ở
giữa hai đùi Khôi rất lâu, khơi gợi ở anh một chu kỳ mới. Sau một giấc ngủ,
Khôi lại tràn trề sinh lực. Anh lùa tay dưới hai bầu vú căng mọng của nàng, kéo
nàng nhích dần lên, cho tới khi anh có cảm giác xuyên qua người nàng.
Cũng là khi họ bắt đầu cuộc tình ái thứ tám trong ngày…
°°°
Sau ba ngày thần tiên, Nguyễn Kỳ Khôi mang tên trong thẻ căn
cước là Nguyễn Khắc Khang, được tổ chức đánh vào nội thành Hà Nội với công tác
đặc biệt: Vận động các trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà tư sản dân tộc lên chiến
khu Việt Bắc, phụng sự kháng chiến.
Đó là những ngày hoạt động sôi nổi, hứng thú nhưng cũng đầy
nguy hiểm của Khôi. Anh cùng các đồng chí trong tổ chức vừa tìm cách khéo léo
che mắt địch, vừa móc nối, tiếp cận với quần chúng giác ngộ giúp đỡ vận động
các nhân sĩ trí thức, vùa tìm cách đấu trí, đấu cả tính mạng với bọn Việt quốc
Việt cách phản động cũng đang lôi kéo những người yêu nước.
Khôi nhớ Cam với nỗi nhớ của kẻ nghiện thuốc phiện bị đứt bữa.
Hai lần anh giấu tổ chức ra vùng tự do để tìm Cam, nhưng không gặp.
Công việc trên chiến khu đang cần Khôi. Hơn một năm sau, Khôi
ngược Thái Nguyên, qua Đại Từ, vượt Đèo Khế sang vùng ATK Tuyên Quang.
Đúng như lá số tử vi ông Cử Phúc đã lập cho Khôi, vừa bước
chân đến rừng, con ngựa kỳ như trở về nơi sinh, gặp đất đắc địa. Nhiều nhân sĩ
trí thức do Khôi vận động từ Hà Nội lên đã nói tốt về anh với tổ chức, do vậy,
vừa lên chiến khu, Khôi đã được thượng cấp đặc biệt tin cậy. Đích thân đồng chí
Tư Vuông giao nhiệm vụ và kèm cặp Khôi. Đồng chí Tư Vuông là một thượng thượng
cấp của Việt Minh. Được tiếp xúc và nhất là được là thuộc cấp trực tiếp của ông
là một diễm phúc.
Sau sáu tháng thử thách với nhiều loại công việc khác nhau,
nhiều tình huống, ứng xử khác nhau để bộc lộ năng lực và phẩm chất tuyệt đối
trung thành, Khôi được phiên chế vào một đơn vị đặc biệt, với những nhiệm vụ đặc
biệt. Và rồi, một đặc ân bất ngờ đã đến với Khôi: Anh được thượng cấp tin cậy
yêu mến, đổi tên thành Chiến Thắng Lợi. Từ đây, cuộc đời Khôi lật sang một
trang mới, giống như một anh chàng mãi võ được đeo đai thứ hạng đen, trắng, một
cầu thủ chân đất được lên chân giày khoác áo sân cỏ, vượt lên một đẳng cấp mới.
Chiến Thắng Lợi hoàn toàn không hay biết cuộc tình sét đánh
và éo le với Cam, đã đơm hoa kết quả. Có lẽ ở cái lần thứ tám thăng hoa ấy. Cam
tin như vậy.
Khác với lần có thai với Trương Phiên trước đây, khi nàng mười
sáu tuổi thơ ngây khờ dại, hoảng loạn vô phương hướng, lần này nàng nâng niu ấp
ủ đứa con trong bụng như Đức Mẹ Đồng trinh mang thai Chúa Hài Đồng.
Thời kỳ chuẩn bị sinh nở, Cam về sống ở nhà cơ sở một cô hàng
xén, cùng trang lứa, tên Nhạn.
Nhạn không xinh đẹp bằng Cam, nhưng hấp dẫn bời vẻ dung dị và
nữ tính. Gánh hàng xén của Nhạn là hai chiếc bồ cao chất ngất, trong đó chứa đủ
mọi thứ, từ cái kim sợi chỉ, chiếc đèn hoa kỳ, hộp sữa, gói thuốc lá Cô táp…
cho đến cái xoong nhôm và các loại quần áo, dầy dép… Hằng ngày, bốn giờ sáng Nhạn
đã trở dậy sắp xếp đi chợ. Đôi quang bồ cồng kềnh, chất ngất, nặng oằn hai vai
kẽo kẹt đi năm cây số, qua bờ mương, qua cánh đồng, đến chợ lúc trời đã tảng.
Gian hàng xén của Nhạn ở ngay đầu chợ Mới, cách bốt làng Động gần cây số Khoảng
cách ấy, lúc nào cũng nằm gọn trong tầm ngắm ống nhòm của đồn trưởng Trương
Phiên. Ở vùng thôn quê một cô gái sạch sẽ, ngon lành như Nhạn, làm sao lọt khỏi
mắt một kẻ hám gái như Trương Phiên?
Cuộc chạm trán bất ngờ giữa Cam và Trương Phiên như cuộc đụng
độ của định mệnh, không tránh khỏi.
Chiều ấy nàng đang nấu cơm dưới bếp đợi Nhạn đi chợ về, thì
nghe tiếng xe Jeep đỗ ngoài cổng. Đồn trưởng Tây lai Trương Phiên mũ bê rê đen
đội lệch, binh phục mầu cứt ngựa, giày săng đá, súng ngắn lệch bên hông, như một
con gà trống đỏm dáng bước xuống trước, đỡ gánh hàng cho Nhạn. Nhìn qua lỗ thủng
trái bếp, trống ngực Cam đập thình thịch như trống trận. Máu từ đâu bỗng dồn hết
lên đầu, lên mặt. Trương Phiên vẫn chẳng khác gì mười mấy năm trước, khi gã tán
tỉnh gạ gẫm nàng. Vẫn khuôn mặt Tây lai đỏm dáng, đôi mắt hai mí sâu phớt xanh
đa tình, cái mũi dọc dừa và hàng ria mêp hung mềm xén tỉa rất cẩn thận. Trời
ơi, sao thằng Cục lại giống gã đến thế, một bộ mặt mà ngay cả khi nhắm mắt lại,
cảm giác ghê lạnh vẫn làm nàng gai người. Nàng căm thù gã, kẻ đã giết chết tuổi
thiếu nữ của nàng. Ý định vứt bỏ đứa con trong bụng nàng, bắt đầu từ khi nàng
biết đám cưới giữa gã và tiểu thư Kiều Nhi được tổ chức tại nhà hàng Gô-đa Hà Nội.
Nàng thề suốt đời sẽ không thèm nhìn mặt thằng Sở Khanh ấy. Vậy
mà số phận vẫn luôn chống lại nàng. Nàng và gã đã trở thành đối thủ ở hai chiến
tuyến. Đã không dưới một lần Trương Phiên nằm trong tầm súng của nàng và các đồng
chí của nàng. Nhưng rồi vì tuân thủ kỷ luật của tổ chức, gã vẫn nhơn nhơn. Cuộc
đời gã dường như không có lực cản. Kể từ ngày tốt nghiệp trường võ bị Sơn Tây,
gã đã nhanh chóng thăng tiến trên con đường binh nghiệp. Việc gã được thăng lon
trung uý, giữ chức đồn trưởng bốt làng Động là một bước tiến khá dài, chứng tỏ
gã đã lập nhiều thành tích bắn giết đồng bào mình để báo vệ nước mẹ Đại Pháp.
Theo sự phân loại của Việt Minh, Trương Phiên liệt vào danh sách đen, một trong
những phần tử ác ôn, nợ máu.
Cam liếc nhìn quanh, như một phản xạ, tìm chỗ nấp. Nhưng quái
ác, nồi cơm đang sôi, không thể nào xoá dấu vết. Nàng vơ vội chiếc khăn vuông,
đội xụp quá mi mắt, ngồi thu lu bên bếp lửa.
Mặc cho Nhạn can ngăn, Trương Phiên vẫn nhất định đòi vào
nhà. Chừng như Trương Phiên nhận ra vẻ không bình thường của Nhạn, hắn xông
ngay xuống bếp.
- Việt Minh hả? - Bằng một động tác thô bạo, gã lật chiếc
khăn. vuông của Cam.
Hốt hoảng, Nhạn chạy đến kéo tay Trương Phiên.
- Kìa trung uý. Đừng làm em nó sợ. Em gái con ông chú ruột em
đó. Nó đến ở với em để chờ đến nhà hộ sinh.
Chiếc khăn vuông tuột khỏi đầu, sổ ra một mớ tóc dài đen mướt.
Cam quay lại, xoáy đôi mắt phượng nhìn Trương Phiên trừng trừng, sẵn sàng chấp
nhận cuộc đụng đầu. Tên đồn trưởng bỗng lùi lại, sững sờ giây lát rồi kêu lên:
- Bướm? Đúng Bướm thật rồi. Em còn đẹp hơn cả ngày xưa.
- Chào ông đồn trưởng. Ông nhầm rồi. Cái tên Bướm đã chết từ
lâu rồi.
- Nhầm sao được, em Bướm. Anh đi tìm em suốt hơn mười năm
qua. Ha ha, Ni sư Thích Đàm Hiên, rồi nữ Việt Minh Đào Thị Cam và cô thiếu nữ
Chu Thị Bướm chỉ là một. Không ngờ trái đất tròn, để chúng ta có buổi gặp gỡ
hôm nay.
- Ông đồn trưởng quá giàu trí tưởng tượng. Ông định nói đến
cô Chu Thị Bướm nào vậy?
- Kìa Bướm, em đừng đóng kịch nữa. Con của chúng ta đâu? Suốt
những năm qua không lúc nào anh không đi tìm mẹ con em…
Tự nhiên mắt Cam bỗng cay xè. Nàng nhớ đến thằng Cục. Nàng thầm
cảm ơn ông bà Cử Phúc đã cưu mang, nuôi nấng thằng Cục. Liệu nó có biết tên đồn
trưởng ác ôn Trương Phiên là cha đẻ của nó không? Và lẽ nào Trương Phiên, trong
những lần đến đánh tổ tôm ở nhà Lý Phúc lại không nhận ra thằng Cục giống hắn?
Hay là hắn đã biết thằng Cục và cố tình tra khảo nàng? Định mệnh thật trớ trêu.
Hằng ngày cha con hắn vẫn trương gặp nhau mà hắn vẫn như kẻ có mắt như mù.
- Ông quá nhầm rồi, ông đồn trưởng ạ. Tôi chưa bao giờ là vợ
ông. Tôi chưa bao giờ có con với ông.
- Đừng đùa dờn nữa Bướm ơi. Con của tôi đâu?
Trương Phiên định cầm cổ tay Cam, nhưng nàng đã nhoài người
ra sau, đứng vụt dậy. Trương Phiên tròn mắt kinh ngạc khi nhận ra nàng đang sắp
đến cữ đẻ.
- Trời ơi! Lại con của một thằng cộng sản? Thằng Lê Thuyết đã
chết rồi? Cô đang có chửa với ai?
- Chuyện tôi có thai không liên quan gì tới ông, thưa ông đồn
trưởng. Nếu ông định bắt tôi về đồn, thì xin cứ việc.
Thái độ bất cần của Cam, cái bụng chửa vượt mặt của nàng khiến
Trương Phiên nhún vai, ngán ngẩm.
- Nữ Việt Minh Đào Thị Cam. Quan năm Hăng ri đờ Cuôrsơ, Tư lệnh
vùng Hữu Ngạn đang treo cái đầu của cô giá năm ngàn quan đó.
- Vậy thì ông đang có cơ hội lĩnh món tiền thưởng lớn kèm
thêm một chiếc mề đay nữa… - Cam cười khẩy, giễu cợt. Nụ cười ấy đã đánh trúng
lòng tự trọng và tính thượng võ của Trương Phiên.
- Nể tình nghĩa hơn mười năm trước và tỏ lòng nhân đạo với đứa
trẻ cô đang mang trong người, ta tha cho cô lần này. Và chỉ một lần này thôi,
nghe chưa? Lần sau, chớ có để mỗ này phải ra tay.
Trương Phiên cười gằn, hất khẩu Braoninh trên tay như trò
tung hứng rồi hầm hầm bước ra xe.
Sau lần chạm trán với Trương Phiên ấy, Cam phải thay đổi nơi ở.
Nàng tìm một cơ sở tít vùng đồng chiêm Khu Trắng quanh năm nước ngập để sinh
con. Bé trai nàng sinh giống Nguyễn Kỳ Khôi lạ lùng. Nàng đặt tên con là Lê Kỳ
Chu, lấy họ Lê của Lê Thuyết ghép tên đệm của Khôi và họ khai sinh của nàng.
Chương 4
chàng thi sĩ của cách mạng
Từ ngày được thay tên mới, Chiến Thắng Lợi đã trở thành một
cán bộ chững chạc, kiên định đường lối cách mạng. Như thép được tôi trong lửa đỏ
và nước lạnh, vào tuổi hai mươi hai, anh đã có tố chất của một người đàn ông
tam thập nhi lập. Đi với thượng cấp, anh chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là tuân lệnh
và phục tùng. Cấp trên ra lệnh, không cãi, không bàn lùi, không chần chừ, tuyệt
đối tuân thủ và bằng mọi giá hoàn thành nhiệm vụ. Trong công việc chỉ được phép
nhận chỉ thị từ người trực tiếp truyền đạt cho mình. Chỉ bàn bạc trong tổ tam
tam và xin chỉ thị của thượng cấp. Thấy dấu hiệu khả nghi, phải lập tức báo cáo
với thượng cấp. Không được nghe đài địch, đọc tin tức, truyền đơn của địch. Phải
coi tổ chức thiêng liêng hơn tất cả, hơn cả gia đình, bố mẹ, vợ con. Sẵn sàng
hy sinh chuyện riêng tư, thậm chí không có chuyện riêng tư càng tốt. Mọi thư từ,
tin tức của người thân ruột thịt đều phải báo cáo với tổ chức. Những nguyên tắc
ấy đã được Chiến Thắng Lợi quán triệt từng ngày, từng giờ. Từ con người cá
nhân, Chiến Thắng Lợi đã hoàn toàn trở thành con người của tổ chức.
Có một lần đi công tác với thượng cấp, Chiến Thắng Lợi đã lập
một chiến tích thầm lặng. Lần ấy, nước lũ bỗng đột ngột đổ về. Con ngầm đang
qua trở thành dòng thác. Đồng chí thượng cấp trượt chân, bị lũ cuốn trôi hơn
trăm mét. Chỉ còn chừng ba mươi mét nữa là đến thác, con thác hung dữ sẽ cuốn
phăng tất cả mọi vật xuống vực xoáy. Đang cơn nguy kịch thì Chiến Thắng Lợi chạy
vòng bờ vực, chặn đầu, lao xuống dòng lũ. Anh quăng đoạn dây và rất may là đồng
chí thượng cấp bám được. Sau lần cứu mạng ấy, thượng cấp càng tin tưởng và lưu
ý cất nhắc, đề bạt Chiến Thắng Lợi. Cuối năm 1952, anh được cử làm đoàn phó một
đoàn công tác từ chiến khu Việt Bắc về các tỉnh đồng bằng để vận động đồng bào
trong vùng tự do và vùng địch hậu tổ chức các đoàn dân công hoả tuyến, đóng thuế
nông nghiệp, động viên sức người sức của cho kháng chiến.
Sau bốn năm ở rừng, Chiến Thắng Lợi trở về đồng bằng với ngột
khí thế bừng bừng, một tâm thức mới. Cuộc kháng chiến đã vượt qua giai đoạn cầm
cự và phòng ngự, tiến sang giai đoạn phản công. Chiến thắng Biên Giới, chiến thắng
Hoà Bình, rồi chiến thắng Tây Bắc cuối năm 1952 đã hoàn toàn làm thay đổi cục
diện chiến trường. Khí thế bộ đội Cụ Hồ như chẻ tre. Các loại vũ khí hạng nặng:
xe tăng, đại bác, của Việt Minh lần đầu tiên xuất hiện khiến thực dân Pháp kinh
hoàng. Các binh đoàn chủ lực đang được lệnh mở mặt trận Tây Bắc và Thượng Lào.
Đoàn công tác thuế nông nghiệp của Chiến Thắng Lợi có một số
nhà văn và nhạc sĩ, có người trong số họ đã được anh vận động đưa từ Hà Nội lên
Việt Bắc từ năm 1948. Một lần, trong một căn hầm trú ẩn tại một nhà dân ở Nho
Quan, Ninh Bình, nhà văn Trần Nguyễn, một cây bút tên tuổi từ thời Tự lực Văn
đoàn, đưa cho Chiến Thắng Lợi xem một bài thơ in trong tạp chí Bông Lúa, một ấn
phẩm in ti pô của Hội Văn nghệ Liên khu Ba. Ông lè lưỡi lắc đầu:
- Tác giả Nguyễn Kỳ Vỹ này là một thằng cha mới toanh. Nhưng
thơ hắn thì tuyệt quá. Giọng điệu vừa mới, vừa trẻ. Không kém gì Ximônốp,
Baudelaire, Lamartine.
Vừa liếc thấy tên tác giả Nguyễn Kỳ Vỹ, tim Chiến Thắng Lợi
đã đập liên hồi. Anh đọc như nuốt từng câu:
SỐNG
Anh đã chết sau những ngày tăm tối
Sau trăm năm kiếp nô lệ lầm than
Nước mất, nhà cũng tan như nước
Gót giày đinh cày ngang dọc quê hương
Đành gác lại nụ hôn chờ kiếp khác
Đừng trách anh hờ hững hỡi em yêu
Vì nước, thà bọc thây da ngựa
Chí nam nhi sao tiếc một Giáng Kiều
Anh không thẻ sống kiếp đời nô lệ
Nàng thơ ơi, đừng níu giữ chiến bào
Trống đồng giục, gọi trai Phù Đổng
Rũ bùn bay tới triệu vì sao.
Chiến Thắng Lợi nhìn mãi vào cái tên tác giã Nguyễn Kỳ Vỹ ở đầu
bài thơ. Đúng là thằng em trai anh rồi. Nguyễn Kỳ Vỹ. Bài thơ này của nó thật rồi.
Lợi đưa mắt nhìn nhà văn Trần Nguyễn thăm dò. Phải cảnh giác với ông nhà văn
này. Ông ấy biết Nguyễn Kỳ Vỹ là em trai mình chăng? Tuổi nó sao lại viết bài
thơ này nhỉ? Toàn yêu đương trai gái. Giữa lúc cả dân tộc lo đánh giặc mà lại
làm thơ hôn hít nhau. Sặc mùi tiểu thư sản, uỷ mị, sướt mướt, phản động. Ông
nhà văn này lập trường có vấn đề. Vẫn rơi rớt giọng điệu sướt mướt, nhập nhoà
giai cấp từ thời Tự lực Văn đoàn, Tiểu thuyết Thứ Bảy. Hay ông ta định thử lập
trường giai cấp của mình? Hãy coi chừng những viên đạn bọc đường.
- Theo em, bài thơ này phản động anh ạ. Lập trường tiểu tư sản.
Thơ ca cách mạng không thể như thế này được. Nguy hiểm lắm. Trai gái sẽ hôn hít
nhau lung tung và quên ý chí cách mạng, thủ tiêu đấu tranh giai cấp… Ông Tổng
biên tập Bông Lúa này có vấn đề. Cần phải báo cáo với thượng cấp.
Nhà văn Trần Nguyễn trố mắt nhìn Chiến Thắng Lợi như đang
nhìn một dị vật. Ông lắc đầu, lấy bi đông rượu, rót ra chiếc chén mắt trâu mầu
da lươn lúc nào cũng đem theo mình, chiêu một hớp rồi khà một tiếng.
- Quan điểm về nghệ thuật của chú mày không ổn. Anh thất vọng
đấy. Tao là dân văn xuôi, nhưng không đến nỗi ngu si không biết thưởng thức thơ
như chú mày tưởng đâu. Thơ của thằng Nguyễn Kỳ Vỹ này mới là thơ chính hiệu.
Thơ yêu nước, thơ cách mạng hẳn hoi đó. Mày quen xài thứ thơ ca hò vè hô khẩu
hiệu thì làm sao sực nổi loại thơ này. Tay Tổng biên tập tờ Bông Lúa có con mắt
xanh đó.
Định gác lại nụ hôn chờ kiếp khác
Đừng trách anh hờ hững hỡi em yêu
Vì nước, thà bọc thây da ngựa
Chí nam nhi sao tiếc một Giáng Kiều
Thấy chưa? Lập trường giai cấp, tình yêu nước, lòng căm thù
giặc Pháp của thằng cha này gấp vạn lần anh em mình. Tình yêu là thuộc tính của
con người. Tình yêu trai gái càng thiêng liêng trân trọng. Vậy mà người con
trai đành gác lại nụ hôn để ra đi cứu nước. Nụ hôn của tình yêu đôi lứa là một
tín hiệu thiêng liêng. Nhưng tình yêu nước còn thiêng liêng hơn. Khi Tổ quốc
còn rên xiết dưới gót dày ngoại bang thì nụ hôn người yêu là sự tủi sầu, là
hành vi thấp kém của một kẻ nô lệ. Tình yêu cá nhân phải nằm trong tình yêu lớn
dân tộc. Đã là người Việt Nam ta, ai cũng có tình yêu nước, và họ yêu nước theo
cách riêng của mình. Giữa Trần Thủ Độ và Trần Quang Khải, giữa Hồ Quý Ly và Lê
Lợi… chưa chắc ai đã có tình yêu nước hơn ai. Đừng độc quyền tình yêu nước. Phải
khách quan nhìn nhận và nâng niu tình yêu nước ở mỗi người. Nguyễn Kỳ Vỹ đã nói
được tiếng nói của tuổi trẻ, của cả một thế hệ đang cầm súng kháng chiến. Đời
người làm thơ chỉ ước viết được những câu thơ như thế. Tay Nguyễn Kỳ Vỹ này xứng
đáng là thi sĩ của cách mạng. Mày biết các chiến sĩ ta đang truyền tay nhau đọc
bài thơ này không? Quần chúng tinh nhạy lắm. Thơ hay là họ ngửi thấy liền. Bao
nhiêu chàng trai đã chép vào sổ tay và học thuộc bài thơ này đó…
- Thật vậy hả anh? - Chiến Thắng Lợi giỏng tai, há hốc miệng.
- Một bài thơ hay có sức mạnh bằng cả một sư đoàn. Ông Lênin
từng nói như vậy. Cho nên ông ta mới coi Gorki là con chim báo bão, là nghệ sĩ
lớn của cách mạng. Maiakôpski là nhà thơ tiên phong của giai cấp công nhân, người
hiệu triệu của chính quyền Xô Viết. Cho nên Cụ Hồ Chí Minh mới chỉ thị cho các
chú gọi bọn tớ lên tập họp ở Việt Bắc để phụng sự kháng chiến. Chính sách đối với
văn nghệ, với trí thức của ông Cụ là tài tình lắm. Chỉ một lời hiệu triệu của
ông Cụ là bao nhiêu người tài giỏi từ Pháp, từ Nhật, từ Anh, từ Nga Xô, Trung
Quốc cho đến những người tài trùm chăn ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn… đều lên chiến
khu, bưng biền phụng sự kháng chiến cả. Việt Minh sẽ chiến thắng bọn thực dân đế
quốc Pháp vì họ đã làm được một kỳ tích là tập hợp toàn dân trong một đại hội
Diên Hồng mới, phát động toàn dân triệu người như một…
Nhà văn Trần Nguyễn lại nhấp một tợp rượu, rồi tự ông rót một
chén đưa cho Chiến Thắng Lợi.
- Chú mày tiếp xúc nhiều với cánh văn nghệ sĩ bọn anh, phải
thấm nhuần lời dạy của ông Cụ là phải biết nâng niu tài năng, trọng kẻ sĩ. Hiền
tài là nguyên khí quốc gia, đó là tư tưởng của cha ông mình, đã từng được ghi
trong văn bia Văn Miếu - Quốc Tử Giám: Nói thực với chú, bọn anh cũng có cái
kiêu của kẻ có tài. Để có một tài năng, một người tài, ngoài cái trời cho, còn
phải nhờ tư chất, nhờ ghen di truyền, nhờ khổ luyện. Người thường có thể có
hàng triệu, nhưng người tài thì chỉ có một vài. Tay Nguyễn Kỳ Vỹ này là một người
tài. Anh dám chắc với chú mày điều này. Rồi chú mày xem. Nếu được tin dùng, được
cách mạng trọng dụng, Nguyễn Kỳ Vỹ sẽ là một con chim báo bão, một thi sĩ đích
thực của cách mạng…
Chiến Thắng Lợi như nuốt lấy từng lời. Chưa bao giờ anh thấy
nhà văn Trần Nguyễn lại cởi mở hết ruột gan như lúc này. Nếu quả đúng như ông
nhà văn nói, thì sau đợt công tác này anh phải về qua nhà, phải rủ Nguyễn Kỳ Vỹ
lên chiến khu Việt Bắc. Chính anh sẽ giới thiệu Vỹ với tổ chức. Chính anh sẽ bồi
dưỡng Vỹ về phẩm chất chính trị, lập trường giai cấp tư cách đạo đức. Anh em ruột
thịt còn gì hơn là giúp nhau lúc này. Anh sẽ có công với cách mạng, và Vỹ cũng
được dịp làm rạng rỡ gia đình, dòng họ. Với trình độ Thành chung, giỏi tiếng
Pháp, lại có tài thơ, nếu được làm báo Vệ Quốc, báo Độc Lập hay một công việc
gì đó dính dáng đến tuyên huấn, văn chương, chắc chắn Vỹ sẽ trở thành một ký giả
xuất sắc, một thi sĩ tài năng của cách mạng.
°°°
Trong trang phục một ký giả, quần áo màu ghi, mũ phớt xám,
Chiến Thắng Lợi về làng Động gần giờ giới nghiêm.
Làng Động, ba năm nay, từ khi có bốt địch đóng sừng sững giữa
làng, trở thành một làng tề an toàn nhất của địch. Cùng với hệ thống bốt Liên Đạo,
Phủ Cũ, Thanh Am, Can Xá, Đanh, Tiêu Bồ, thực dân Pháp đã thiết lập được một
vành đai bảo vệ Hà Nội, bao vây vùng Khu Trắng, khu an toàn bất khả xâm phạm của
Việt Minh. Từ hệ thống đồn bốt vành đai, thỉnh thoảng địch tổ chức các trận càn
thọc sâu xuống những làng Trầm tiêu hao lực lượng kháng chiến.
Mấy năm xa làng, cuộc trở về lần này khiến Chiến Thắng Lợi có
cảm giác lạ lẫm, hệt như một đứa trẻ từ ao tù đi ra biển rộng, nay lại về thăm
chốn cũ.
Làng Động của anh đây, một vùng quê nghèo, xung quanh bao bọc
kín mít bởi những luỹ tre dày, nổi lên giữa ba bề đồng trống, như một ốc đảo.
Nghe các cụ nói lại, ngày ông thượng tổ Lý Kỳ Phong rời trang Vân Đồn về lập
nghiệp, làng Động mới là một gò đất giữa mênh mông nước. Mùa gặt chưa tới, bọn
cướp ngày từ vùng đồng trũng ven sông Hồng, sông Điền đã kéo nhau từng đàn vào
gặt trộm. Chúng cưỡi trên hàng trăm chiếc thuyền tam bản, phi như bay trên đồng
ngập trắng. Liềm, hái, đòn xóc, sào tre vừa là công cụ gặt trộm vừa là vũ khí
giết người lợi hại. Nhưng thượng tổ Lý Kỳ Phong vốn là dân sông nước, võ nghệ
siêu quần, không phải tay vừa. Ông trồng tre ken dày quanh làng, dày tới mức
tên bắn không qua. Ông cho đan những chiếc bồ tre khổng lồ, hàng chục người ôm,
cao mấy đầu người để trữ thóc. Ông dựng những chòi canh trên ngọn cây cao, nhìn
xa hàng mấy dặm, tít xuống những làng Trầm dưới kia. Ông cho làm nhiều thuyền
nan, nhiều câu liêm, dao quăng, nhiều cung tên để chiến đấu với giặc cướp. Làng
Động từ đó thực sự trở thành một pháo đài…
Xét theo góc độ lịch sử, dòng họ Lý, sau này đổi thành Nguyễn
Kỳ, có công lao khai phá, dựng nghiệp, nhưng đồng thời lại trở thành những đại
địa chủ bóc lột bần cố nông, càng đến thời kỳ phong kiến thực dân gần đây, càng
bộc lộ tính chất phản động, ngăn cản sự tiến hoá của xã hội. Những ngày ở chiến
khu Việt Bắc, được đả thông tư tưởng, học tập lý luận, bồi dưỡng quan điểm giai
cấp, Chiến Thắng Lợi đã nhìn nhận cái làng Động của anh, cái dòng họ Nguyễn Kỳ
của anh với một góc nhìn hoàn toàn khác, một cái nhìn đậm tính duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Sẽ đến lúc phải phá bỏ những luỹ tre nghìn đời cổ hủ, phong
kiến kia đi. Sẽ đến lúc đập bỏ cái sào huyệt Nguyễn Kỳ Viên mà thầy
anh đang ôm giữ khư khư kia nữa. Sẽ phải tiến tới thế giới đại đồng, giai cấp
vô sản làm chủ toàn cầu…
Theo sự chỉ dẫn của cơ sở, Chiến Thắng Lợi tránh đi lối đình,
nơi bọn lính bảo an đóng bốt, để vòng qua ngõ xóm Thượng về Nguyễn Kỳ Viên.
Qua rặng tre um tùm, qua những cái vườn bỏ hoang, nơi xưa kia
là sào huyệt của bọn ma tịt, Chiến Thắng Lợi đã nhìn thấy khu nhà thâm nghiêm của
anh sáng rực ánh đèn. Có chuyện gì mà đèn đuốc sáng chói vào giờ này? Không thể
vào nhà bằng cổng chính, anh men theo bờ rào, lọt qua một khe bí mật chỉ riêng
mình anh biết, rồi vòng qua khu nhà ngang, trèo lên cây muỗm um tùm, dõi mắt
nhìn hai chiếc xe con, một chiếc xe Jeep nhà binh, một chiếc Renault màu sữa, đỗ
ngay gần sát cổng. Một tên lính áo vàng, súng lăm lăm trong tay đang đi lại tuần
tra. Lẽo đẽo theo hắn là con bécgiê cực lớn có sợi xích trắng quấn quanh cổ.
Bọn địch ở bốt làng đã đoán Khôi về, phục kích đón lõng
chăng? Kiểm tra lại khẩu súng giắt trong người, Chiến Thắng Lợi nằm ép trên cây
muỗm nghe ngóng rồi tìm cách trườn sang nóc dãy nhà ngang. Kia rồi, thầy anh,
ông Cử Phúc, bây giờ dân làng gọi là Lý Phúc, đang ngồi giữa một bàn tổ tôm.
Tất cả có sáu người. Ánh sáng ngọn đèn ba dây và hai cây đèn
toạ đăng chiếu vào chiếc sập gụ gian bên nhà thờ cho anh nhận ra một người
quen: ông Hội Thiện người làng Nghi Sơn, bạn thân của thầy anh. Bên cạnh là một
người trẻ tuổi mặc vestông trắng, tiếp nữa là ba sĩ quan nguy, hai người chơi
bài, một người chầu rìa. Theo như phán đoán của Chiến Thắng Lợi, thì tên sĩ
quan ngồi cạnh ông Hội Thiện trông giống Tây lai, có thể là Trương Phiên, đồn
trưởng bốt làng Động, kẻ khét tiếng ăn chơi và là một tay tổ tôm cự phách trong
vùng.
Một nỗi đau, chen nỗi uất ức trào lên, khiến mặt Chiến Thắng
Lợi nóng bừng bừng. Thầy anh không phải làm nhiệm vụ hai mang như Cam đã từng
nói với anh trong ba ngày gặp nhau ở Phương Đình ấy, mà ông đang làm tay sai
cho địch thật rồi. Gần mực thì đen. Những cuộc cờ bạc thâu đêm này bắt đầu từ
bao giờ? Cái tin ông Cử Phúc ra làm lý trưởng làng Động đã đến tai Chiến Thắng
Lợi từ khi anh còn trên chiến khu. Tin ấy đến cả tai tổ chức. Làm sao mà bào chữa
được? Bây giờ thì tận mắt anh nhìn thấy cha mình đang thản nhiên, thậm chí hứng
thú khi ngồi chơi tổ tôm với kẻ thù của nhân dân.
Cố nuốt mấy lần mà cái cục trong yết hầu vẫn chẹn ngang cổ,
Chiến Thắng Lợi muốn ném một quả lựu đạn, xả mấy băng đạn vào giữa bàn tổ tôm
kia. Nhưng rồi nhìn thấy con bécgiê như con cọp xám, tên lính vệ sĩ to như ông
hộ pháp cắp khẩu tiểu liên đi lại trước cái sân rộng mênh mông, anh đành nuốt
nước mắt, bất lực.
°°°
Cuộc tổ tôm đã ù đến ván thứ mười ba. Ông Lý Phúc ù ba ván Bạch
định, bốn ván Thông tôm lèo, hai ván Chi chi. Còn lại bốn ván thì Trương Phiên
chiếm ba, ông khách ù một ván suông. Hoá ra Lý Phúc vẫn là một tay tổ tôm sừng
sỏ không có đối thủ. Cay cú nhất là Trương Phiên. Gã đã chót khoe với Phán
Liêu, người mặc complê trắng, hiện đang có chân trong Hội đồng dân biểu Bắc Kỳ,
rằng đêm nay gã sẽ móc túi Lý Phúc đến đồng xu cuối cùng.
Thực ra cuộc sát phạt này không phải là mục đích chính của
Phán Liêu. Đầu tháng tới nếu không có gì thay đổi, ông sẽ được bổ nhiệm tri huyện
Phương Đình thay viên quan huyện cũ nhu nhược để cho Việt Minh lấn lướt. Đây là
dịp quan huyện tương lai tiếp xúc với Chánh tổng Thiện và Lý Phúc để dò la xem
hai người cộng sự sắp tới của ông như thế nào. Đã có những chứng cứ của điệp
viên nằm vùng cho hay hai nhân vật này do Việt Minh cài vào hàng ngũ của Pháp.
Bằng cứ rõ nhất là tháng trước Lý Phúc vừa bị quan Tây bốt Phủ
tống giam hai ngày vì đã cố tình che giấu một tên cộng sản đầu sỏ ở trong làng.
Chuyến ấy không có Chánh tổng Thiện và Trương Phiên xin khéo thì Lý Phúc có thể
bị án tù vài năm.
Có một người mà trong suốt cuộc tổ tôm cứ đi như con thoi từ
trên nhà xuống bếp khiến Chiến Thắng Lợi căng mắt quan sát và suy đoán mãi.
Không phải Vỹ, Vọng. Cũng không phải Cục. Chắc dì và ba thằng em đã đi ngủ từ
lâu rồi. Phải một lúc sau Lợi mới nhận ra anh Đĩ Ngao mặt rỗ chằng rỗ chịt bên
hàng xóm, con ông Mõ Ngò, người chuyên giết lợn và làm cỗ thuê trong làng. Đĩ
Ngao là loại mạt hạng cùng đinh nhất làng Động, bố và ông nội là dân ngụ cư,
xin làm mõ cho làng, được cụ Đồ Kha hết lòng cưu mang, cho hẳn một dải đất ven
ao làm nhà. Từ đời ông nội Lợi đã coi bố con Đĩ Ngao như con cái kẻ ăn người
làm trong nhà, có đám, có việc gì Đĩ Ngao đều đánh hơi mò đến, cúc cung tận
tuy. Dĩ nhiên, thớt có tanh tao ruồi mới đến. Cả nhà Đĩ Ngao đã thành tinh
trong việc ăn vụng, ăn bớt. Kia, cái món ở dưới bếp ngào ngạt mùi thơm kia hẳn
là ông thầy ăn một, bà cốt ăn hai. Đĩ Ngao đang bứng lên một nồi cháo gà thơm
phức, thận trọng múc ra những bát ô tô to bằng sứ Giang Tây…
Đến lúc này Chiến Thắng Lợi mới thấy đói cồn cào. Hơi cháo gà
bay ngạt ngào khiến con becgiê cũng khụt khịt như thèm thuồng.
Bỏ lên chiến khu ư? Cuộc trở về làng Động sau bốn năm biền biệt
lại ngao ngán và đắng đót như thế này sao? Chợt nghĩ đến Nguyễn Kỳ Vỹ và bài
thơ "Sống" Chiến Thắng Lợi đành dằn lòng lại. Thời gian này
là lúc Vỹ đang nghỉ hết năm học để chuẩn bị lên học tú tài. Bằng mọi giá anh phải
gặp Nguyễn Kỳ Vỹ, thuyết phục Vỹ lên chiến khu Việt Bắc. Nếu quả thực Vỹ là tác
giả bài thơ sống thì chuyến này anh sẽ làm được công việc chiêu hiền ngang với
tam cố thảo lư của Lưu Bị cầu Gia Cát Khổng Minh. "Thân hiền giá hiền dã,
năng tiến hiền già diệc hiền dã". Tự mình hiền tài thì là nhân tài rồi,
nhưng biết tiến cử người hiền tài cũng là nhân tài. Câu nói của Lưu Hướng đời
Hán mà thầy vẫn dạy cho Khôi ngày trước, anh ghi tận đáy lòng. Khôi trườn trên
nóc nhà, tìm đến gian nhà ngang nơi ba đứa em của anh ngủ. Có ánh đèn hắt lên
khe ngói. Rất có thể Vỹ chưa ngủ. Nhẹ nhàng tháo một viên ngói ở đầu hồi, nhìn
xuống, Khôi nhận ra Vỹ đang ngồi trước bàn. Ngọn đèn hoa kỳ hắt xuống một cuốn
sách đang để mở.
- Tắc kè… tắc kè… tắc kè.
Ba tiếng tắc kè bỗng vang lên. Không phải năm tiếng như con tắc
kè vẫn kêu ở trên cây muỗm đầu nhà thờ, mà chỉ có ba tiếng. Đó là ám hiệu chỉ
riêng Khôi và Vỹ ngầm biết với nhau từ ngày Khôi còn ở nhà.
Tên lính cận vệ dừng lại, dỏng tai nghe ngóng.
Nguyễn Kỳ Vỹ dừng đọc sách, ngẩng lên mái nhà. Bằng linh cảm,
Vỹ biết anh Khôi đã trở về. Đúng là anh Khôi rồi. Ba tiếng tắc kè này Vỹ đã chờ
đợi suốt bẩy năm, từ ngày anh Khôi thoát ly gia đình đi theo cách mạng. Rất nhiều
đêm không ngủ, Vỹ nằm chong mắt nhìn lên mái nhà nghĩ về anh Khôi và mơ ba tiếng
tắc kè.
Lách qua khe cửa, Vỹ len lén đi phía sau, nơi có đống rơm và
những bụi chuối. Quan sát bốn phía, rồi Vỹ bắc loa tay hướng về phía cây muỗm
đáp lại ba tiếng tắc kè… tắc kè… tắc kè… Đó là ám hiệu anh em đã nhận ra nhau.
Cho đến khi hai anh em ôm chầm lấy nhau ở chân đống rơm góc
vườn, sau dãy nhà ngang, thì Chiến Thắng Lợi hoàn toàn tin rằng tiếng tắc kè của
anh đã trở thành nỗi chờ đợi đau đáu trong lòng đứa em cùng cha khác mẹ biết chừng
nào.
- Em nhớ anh từng ngày. Em không muốn đi học nữa. Em muốn lên
Việt Bắc với anh.
Đó là những câu nói đầu tiên của Nguyễn Kỳ Vỹ với người anh
trai sau mấy năm xa cách. Với Vỹ, Khôi là niềm tự hào, là ngưỡng vọng, là biểu
tượng của kháng chiến. Ở trường, Vỹ công khai khoe với bạn bè có anh trai đi
làm cách mạng. Đã hai lần Vỹ ẩu đả, đấm thẳng vào mồm thằng Hạnh mặt lưỡi cày
khi nó dám nói xấu anh Khôi, thoá mạ kháng chiến. Tin tức về những chiến thắng
dồn dập của Việt Minh ở Việt Bắc lan truyền trong các lớp học. Rồi mỗi tuần, mỗi
tháng lại có một vài học trò bỏ lớp, ra vùng tự do theo bộ đội. Không khí học
đường tan tác như phiên chợ chiều, càng khiến Vỹ như ngồi trên đống lửa. Vỹ
ngán ngẩm, thậm chí vứt xó tất cả những cuốn tiểu thuyết chàng, nàng của Khái
Hưng, Nhất Linh và nhóm Tự lực Văn đoàn. Anh không thiết đọc La Martin, Huygô,
Bođơle, Volte và trường phái cách tân, lãng mạn Pháp. Anh chép vào trang đầu cuốn
sổ những câu thơ trong bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Vỹ tự ví mình như con hổ bị giam cầm mà chốn rừng xanh có ý
ám chỉ vùng Việt Bắc xa xôi, nơi có anh Khôi và những người yêu nước đang kháng
chiến.
- Đêm nay thầy phải tiếp tổ tôm đồn trưởng Trương Phiên đến
khuya. Chúng nó biết anh về thì nguy hiểm lắm. Tạm thời anh phải nằm chờ ở dưới
hầm. Em phải lên nhà xem động tĩnh thế nào.
Vỹ thì thầm vào tai Chiến Thắng Lợi và dẫn anh trai xuống căn
hầm bí mật ngay dưới chân bụi tre sau dãy nhà ngang. Căn hầm bí mật này ông Lý
Phúc đã cho đào ngay sau khi ông nhận chức lý trưởng làng Động. Đó là một căn hầm
khá kiên cố, dài ba mét, rộng hai mét hai, cao ngập đầu người, thông từ ngách
kho lúa xuyên ra giữa bụi tre, có thể chứa hơn chục người. Căn hầm bí mật đã
giúp Lý Phúc làm việc hai mang một cách suôn sẻ. Nhiều cuộc họp bí mật của các
cốt cán Việt Minh trong vùng đã được tổ chức ngay dưới hầm. Có thời kỳ Bí thư
huyện uỷ Phương Đình ở trong nhà Lý Phúc cả tuần. Có trường hợp, trên nhà Lý
Phúc đánh tổ tôm với đồn trưởng Trương Phiên, nhưng dưới hầm cán bộ Việt Minh vẫn
ung dung hội họp. Mới hơn một tháng trước đây, nhờ căn hầm này mà một thượng cấp
của Việt Minh về chỉ đạo phong trào đã được cứu thoát. Chuyến ấy Lý trưởng Phúc
bị bắt giam trên bốt Phủ hai ngày, bị ghi vào sổ đen nghi có cảm tình với Việt
Minh. Ngay cả đồn trưởng Trương Phiên cũng bị khiển trách, suýt bị hạ một gạch
sao.
Tờ tạp chí Bông Lúa mà Chiến Thắng Lợi dúi vào tay
Vỹ ở cửa hầm còn hơn cả mọi thứ quà tặng quí giá. Người Vỹ cứ run lên, con tim
như muốn nhảy khỏi lồng ngực khi anh đọc thấy tên Nguyễn Kỳ Vỹ và bài thơ "Sống" của
mình. Vậy là chị Cam đã giữ đúng lời hứa. Chị Cam đã gửi bài thơ Vỹ viết cho
anh Khôi. Và anh đã giận in trên tạp chí Bông Lúa này đây.
Vỹ nhớ lại lần gặp chị Cam hồi năm ngoái, khi chị đóng vai một
bệnh nhân của thầy đến ở trong căn hầm bí mật. Cả tuần lễ chị Cam hay hỏi Vỹ về
Khôi, lúc nào cũng hỏi về anh Khôi. Chị bảo đã quen anh Khôi từ ngày Tổng khởi
nghĩa. Giữa hai người có nhiều kỷ niệm với nhau trong những ngày hoạt động bí mật.
"Vỹ viết thư đi, chị sẽ gửi anh Khôi cho" - Chị nài nỉ Vỹ.
Tiếp xúc với Cam, Vỹ không chỉ thấy ở chị những nét đẹp hình
thể, mà ở chị luôn toát lên vẻ đẹp tinh thần. Đôi mắt tuyệt đẹp của người nữ
cán bộ Việt Minh luôn nhìn Vỹ một cách khác lạ ấy, hay đôi môi hình trái tim đầy
quyến rũ của Mai, cô bạn gái xóm Chùa, đã gợi tứ cho Vỹ viết bài thơ "Sống"?
Lạ thế, chưa từng hôn một người con gái nào mà bài thơ ấy Vỹ chỉ viết trong một
đêm, viết như nhập đồng, viết trong một cảm xúc thăng hoa, ngây ngất. "Em
vừa viết được một bài thơ. Em nhờ chị gửi cho anh Khôi em nhé!" Vỹ khoe với
Cam. Chị đọc xong và bảo: "Chị không biết thưởng thức thơ. Nhưng nếu chị
là cô gái được em làm thơ, thì chị hạnh phúc lắm. Chị sẽ gửi lên việt Bắc cho
anh Nguyễn Kỳ Khôi bài thơ này".
Những kỷ niệm cứ nhảy nhót, reo vui như tiếng reo của ánh lửa
ngọn đèn dầu, ru Vỹ vào giấc ngủ chập chờn. Anh nằm gục trên bàn, hai tay vòng
ôm cuốn tạp chí để mở.
°°°
Quá nửa đêm thì chiếu tổ tôm tan. Người khách mặc vestông trắng
và thầy trò đồn trưởng Trương Phiên cùng con chó becgiê leo lên xe Jeep và chiếc
Renault về đồn.
Có tiếng thì thào của hai người đàn ông bên tai Vỹ. Anh lờ mờ
nhận ra tiếng của thầy và bác Hội Thiện:
- Thằng cha dân biểu này có nước bài chờ ù thông tôm lèo rất
hiểm. Mấy lần tôi ra hiệu mà bác không hiểu ý.
- Tôi biết. Nhưng không muốn lộ liễu. Vậy là chúng ta đã biết
rõ kế hoạch của thằng Phán Liêu trong ba ngày tới. Trừ hắn sớm ngày nào cơ sở của
chúng ta đỡ bể ngày ấy.
- Mai hắn đi thị sát bốt Ba Thấu.
- Phải mật báo với cơ sở của ta tìm cách khử hắn ở đầu cầu Ba
Thấu chiều tối mai.
- Bác cứ yên tâm. Sáng sớm mai X5 sẽ nhận được kế hoạch.
Tiếng thì thào mỗi lúc một xa dần.
Vỹ vùng tỉnh dậy. Trước mặt anh là ông Lý Phúc. Ông vừa nói
chuyện với bác Hội Thiện về tay dân biểu mặc áo vestông trắng.
- Con đã hứa với thầy là không thức khuya rồi cơ mà - ông Lý
Phúc đặt tay lên vai Vỹ, nhìn anh nghiêm khắc. Rồi ông chợt chớp mắt nhìn thật
kỹ cuốn tạp chí dưới tay Vỹ - Cái gì thế này? Tạp chí Bông Lúa à? Ở
đâu ra? Ai đưa cho con tạp chí này? Nguy hiểm lắm, con ơi. - Ông Lý Phúc thoáng
nghi ngờ, nhìn quanh.
- Dạ thưa thầy…
Vỹ sực nhớ anh Khôi vẫn ở dưới hầm. Có nên nói với thầy
không? Bác Chánh tổng Thiện đêm nay ngủ lại, nói có tiện không?
Thấy Vỹ ấp úng, ông Lý Phúc càng nghi ngờ. Ông lật giở vài
trang, và chợt đọc thấy cái tên Nguyễn Kỳ Vỹ và bài thơ "Sống" của
anh.
- Dạ, thưa thầy, anh Khôi mang về cho con cuốn tạp chí này.
- Nó đâu? Anh Khôi con đâu? - Mặt Lý Phúc thất sắc. Ông lắng
nghe tiếng chó sủa rộ lên ở đầu xóm Chùa - Sao con không nói với thầy ngay lúc
anh con về?
- Dạ, con sợ… Con giấu anh dưới hầm… Chắc là anh Khôi đang
đói…
Ông Lý Phúc vào buồng đánh thức vợ. Cả nhà cuống cuồng. Bữa
ăn tối cho Khôi được gấp rút chuẩn bị. Nhưng đến khi ông Lý Phúc và Vỹ xuống hầm
thì Khôi đã nằm duỗi dài trên chiếc chõng tre kê ở góc hầm ngáy pho pho.
Suốt ngày hôm sau, hai anh em chơi với nhau dưới hầm bí mật.
Việc Khôi về nhà được giữ kín cả với thằng Vện, thằng Cục và cái Hậu, cô con
gái út mới ba tuổi.
°°°
- Em có biết nhà văn Trần Nguyễn không? - Chiến Thắng Lợi nhớ
lại cuộc nói chuyện ở Nho Quan, Ninh Bình.
- Một nhà văn hàng đầu trong nhóm "Tiểu thuyết Thứ Bẩy"
- Vỹ đáp - Con người ngang tàng và lãng tử ấy đi theo kháng chiến khiến cho uy
tín của Việt Minh tăng lên gấp bội. Thầy dạy văn em bảo, văn ông có hơi vã mùi
riêng biệt, không lẫn lộn với bất kỳ nhà văn đương đại nào. Một con người rất
có cá tính. Em phục nhất loạt bài ông viết về cái chết của nhà văn tả chân Vũ
Trọng Phụng. Trời ơi, không có tình bạn nào cao cả hơn tình bạn của các văn
nhân. Đọc "Đêm đưa ma Phụng" của Trần Nguyền, em khóc ròng…
- Con người đầy cá tinh và kiêu căng ấy khen em đến không bút
nào tả xiết. Ông gọi em là "chàng thi sĩ của cách mạng". Chính nhà
văn Trần Nguyễn đã cho anh đọc bài thơ "Sống" của em đó.
Ông cất giữ tờ tạp chí Bông Lúa, như một báu vật.
- Thật thế ư? - Vỹ sửng sốt. Đôi mắt sáng lấp lánh trong bóng
tối căn hầm - Vậy mà em cứ tưởng chị Cam đã gửi nó cho anh.
Chiến Thắng Lợi giật nẩy người khi nghe nói đến Cam.
Bốn năm rồi anh không gặp nàng. Không ngờ cuộc chia tay ở phố
Lương Đình xa dằng dặc không có ngày gặp lại. Thời kỳ mang tên thẻ căn cước
Nguyễn Khắc Khang hoạt động trong nội thành Hà Nội đã mấy lần anh tự vi phạm kỷ
luật, trốn tổ chức, trở về tìm nàng. May mà năm đó anh không phát điên, nỗi nhớ
quằn quại hành hạ anh hằng đêm. Nhắm mắt lại là anh thấy nàng. Đôi mắt phượng
nhìn xoáy vào tim. Nụ cười với hàm răng trắng loá đến mê hồn. Anh sẵn sàng đánh
đổi hàng trăm thiếu nữ mười tám đôi mươi nhan sắc, để có được nàng. Nàng đã cho
anh ăn canh ngải bùa mê khiến anh lú lẫn, lúc nào cũng mơ tưởng, như người mộng
du. Hồi về tìm nàng ở phố Phương Đình cỏ người bảo Cam có chửa và đã sinh con.
Có người lại bảo Cam theo một gã buôn bè, sống phiêu bạt trên sông Điền. Có chửa
với ai? Sinh con với ai? Đi với thằng nào trên sông Điền? Mối ngờ vực dày vò
Khôi mấy tháng liền. May mà sau đó thượng cấp điều anh lên chiến khu chấm dứt
thời kỳ yêu đương mù quáng, điên rồ.
Việt Bắc quả là trường học vĩ đại của cách mạng. Giống như một
con chiên khi đã quì trước bàn thờ Chúa, chỉ còn biết rũ bỏ thế giới trần tục,
gột rửa mọi tội lỗi để hướng tới đấng Cứu thế, mơ được cứu rỗi, được hé mở tới
cỡi thiên đàng, Nguyễn Kỳ Khôi cũng đã biết cách trút bỏ mối tình ngang trái đầy
mê hoặc của tuổi mới lớn để tu thân và mong được thượng cấp tin dùng. Trong cuộc
sám hối và đoạn tuyệt quá khứ đầy cực nhọc và vất vả này, Khôi đặc biệt cám ơn
cuốn cẩm nang "Mười điều răn". Anh thuộc lòng từng câu từng chữ mười
điều răn và mỗi ngày nhẩm đọc đúng hai mươi lần.
Một là đừng mất lập trường
Hai là tư tưởng dẫn đường Mác-Lê
Ba là giai cấp phân chia
Bốn là đạo đức không lìa lương tâm
Năm là xa lánh tà dâm
Sáu là kim chỉ của dân chớ màng…
Hoá ra cuộc tình éo le chênh lệch tuổi tác giữa anh và Cam nằm
trong điều răn thứ năm. Thực chất của nó là tội hủ hoá, suy đồi đạo đức. Bằng
kinh nghiệm lọc lõi và trải đời của một người đàn bà có mấy đời chồng, Cam đã
cám dỗ và lùa Khôi vào con đường truỵ lạc. Và Khôi, do không kìm nén được dục vọng,
sự ham muốn nhục đục, thể xác, đã đồng loã và kích thích thói dâm ô ở Cam. Ai
có thể tin nổi rằng, một cặp trai gái lại có thể quấn quít lấy nhau suốt ba
ngày trời, tức là bầy mươi hai tiếng đồng hồ không kể ngày đêm, và ngày nào
cũng quấn nhau bầy, tám cuộc tình? Mèo mả với gà đồng. Bà già gặp kẻ cắp. Hay
là thói dâm ô đã đẩy lên thành bệnh hoạn? Tội hủ hoá và đồi truỵ là kẻ thù rất
nguy hiểm của cách mạng.
Như kẻ phàm trần đã ngộ ra mọi điều, quyết chí xuống tóc hầu
cửa Phật, Khôi đã xé hết đốt hết mọi thư từ, nhật ký, vật dụng có liên quan đến
Cam, xoá cả hình ảnh, kỷ niệm, nhớ nhung trăn trở về nàng. Khôi nhận ra cuộc
dan díu với Cam là một sự điên rồ, nguy hiềm. Chi cần tổ chức phát hiện ra,
tương lai, tiền đồ của anh sẽ tiêu tan hết. Gặp ai từng quen Cam, nói về nàng,
Khôi đều lảng tránh, không biết hoặc không nghe. Anh thực sự muốn cắt bỏ, muốn
xoá sạch dấu vết quãng thời gian yêu đương tội lỗi với người đàn bà đầy quyến
rũ và nguy hiểm ấy.
Rất may, thời gian có sức công phá và xoá bô mọi điều, dù đó
là tình yêu của thánh thần. Rất may, tổ chức đã đặt cho Khôi cái tên mới Chiến
Thắng Lợi. Anh đã trở thành một con người khác. Không có quá khứ. Không có những
mối ràng buộc cũ. Nhiều lá thư gửi lên Việt Bắc, đề tên Nguyễn Kỳ Khôi, bị văn
thư gửi trả lại hoặc ném vào sọt rác, coi như không có người nhận. Thảng hoặc
có lá thư nào đến tay anh, Chiến Thắng Lợi liền khước từ, hoặc nhận rồi đốt đi
ngay.
Có một lần lá thư của Cam đã đến tay Chiến Thắng Lợi. Đó là lần
Cam là đại biểu phụ nữ của Liên khu Ba lên Việt Bắc họp Hội nghị động viên Phụ
nữ Toàn quốc. Mười hai ngày đi đường, ba ngày họp và ngần ấy ngày về, nhưng Cam
dành hầu hết thời gian chỉ để tim kiếm Khôi. Ngày cuối cùng rời Việt Bắc, Cam
viết hú hoạ một lá thư, gửi trực tiếp một người ở cơ quan dân vận đưa đến tận
nơi Lợi ở. Sau hàng chục lá thư bặt vô âm tín, sau hàng năm trời tìm kiếm, nàng
đã kiệt sức mỏi mòn. May mà nàng không phát điên lên. May mà nàng đã rèn được sự
vô cảm. Thư của nàng viết vậy. Nàng nguyền rủa Khôi là kẻ hèn nhát, kẻ không
tim. Và nàng tuyên bố: Từ nay, với nàng, Nguyễn Kỳ Khôi đã chết.
Nếu Chiến Thắng Lợi phúc đáp lá thư đó, có lẽ Cam sẽ tha thứ.
Bởi vì tận trong sâu thẳm cõi lòng, nàng vẫn yêu anh. Nhưng Lợi đã im lặng, đã
cho bức thư của Cam và mối tình của nàng đi tầu suốt. Dào ôi, ôm rơm rặm bụng.
Nuối tiếc nhớ nhung chỉ là tình cảm tiểu tư sản. Hãy vứt tất cả vào sọt rác.
- Đúng là chị Cam đã gửi bài thơ này của em cho anh phải
không? - Vỹ hỏi gừng mấy lần. Vỹ nhìn anh thăm dò rồi chen một câu tiếng Pháp
"II me semble que'lle t'aime?"(1)
Chiến Thắng Lợi lắc đầu, chối đây đẩy:
- Non, je ne la connais pas(2). Anh đã nói rồi. Anh
không quen ai tên là Cam. Có một sự lầm lẫn nào đó rồi. Mà này, từ nay đừng gọi
anh là Nguyễn Kỳ Khôi nữa. Anh được tổ chức đặt tên mới là Chiến Thắng Lợi. Em
ghi nhớ nhé: Chiến Thắng Lợi.
- Ôi tuyệt vời! Có thật thế không? Một cái tên cách mạng. Thượng
cấp quí và tin dùng anh lắm nên mới được đặt tên này đó.
- Quả là một ân sủng. Ngày xưa, phải các công thần tin cẩn mới
được nhà vua đặc ân cho mang quốc tính. Ví như Ngô Tuấn được vua Lý cho mang
tên Lý Thường Kiệt. Nguyễn Trai được Lê Lợi cho mang tẽn Lê Trai. Tên Chiến Thắng
Lợi cũng có thể coi là một quốc tính đó.
- Anh ơi, em lên Việt Bắc, anh nói với thượng cấp đặt cho em
là Chiến Thành Công nhé. Anh Chiến Thắng Lợi thì em phải Chiến Thành Công. Tuyệt
vời quá phải không?
- Anh sẽ cố gắng - Chiến Thắng Lợi gật đầu lấy lệ, rồi nhắc lại
- Em nhớ đấy. Hãy gọi anh là Chiến Thắng Lợi hay anh Lợi. Chứ không phải Kỳ
Khôi. Có lẽ vì anh thay họ tên, nên rất nhiều thư từ gần đây không nhận được
Như chợt nhớ ra, Khôi, nắm tay Vỹ - Mà này, gặp chị Cam không được nói chuyện
anh đổi tên đấy nhé.
Vy thấy anh trai mình có điều gì đó khó hiểu.
- Sao anh bảo không quen biết chị Cam?
- Không, không… Anh không quen biết thật mà - Chiến Thắng Lợi
biết mình vừa lỡ lời, vội chữa - Rất có thể có người đàn bà do địch gài vào để
dò la tin tức về anh. Nói chung em không nên nói về anh với ai. Ngay cả chuyến
về thăm nhà của anh lần này, em phải hết sức giữ bí mật.
- Anh đừng nghĩ sai về chị Cam. Em tin chắc chị là người của
Việt Minh. Một cán bộ cỡ lãnh đạo cao chứ không phải thường đâu nhé. Có thể bài
thơ của em in là do chị chép gửi cho tạp chí Bông Lúa.
- Thôi, quên chuyện chị Cam của em đi - Lợi muốn lái câu chuyện
- Đợt về này anh mừng là thầy đã giác ngộ, hợp tác với Việt Minh, nhưng anh lại
lo vì thầy tỏ ra thân thiện quá với địch…
- Nhiều người bảo, nếu thầy không đứng ra nhận chân lý trưởng
thì khối anh chị du kích làng mình bị chặt đầu rồi.
- Chúng có hạch sách gì thầy về chuyện anh không?
- Chiều hôm qua, tên đồn trưởng Trương Phiên bảo thầy:
"Ông nên gọi thằng con ông về chiêu hồi. Nó sẽ được khoan hồng. Tôi xin lấy
tư cách bạn ông và danh dự quân nhân để bảo lãnh. Bằng không, sắp tới nước mẹ Đại
Pháp sẽ làm sạch cô Việt Bắc, Tây Bắc. Con trai ông sẽ đi ngủ với giun…"
- Đấy là những lời của kẻ giãy chết. Em đừng tin luận điệu của
địch. Cứ đà này, kháng chiến sắp thành công rồi.
Nhân nói đến chiến cục, Lợi hào hứng giảng giải cho Vỹ nghe về
chiến lược cầm cự, phòng ngự, phản công của Việt Minh, về những chiến thắng
vang dội của bộ đội Cụ Hồ trên khắp các mặt trận trong cả nước, đặc biệt là những
chiến thắng có ý nghĩa chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ.
- Anh muốn cho em biết một tin tuyệt mật - Lợi kéo Vỹ lại gần
- Sau khi bị thua liểng xiểng khắp mặt trận Biên giới và Hoà Bình, danh tướng số
một của nước Pháp Delattre de Tassigny được điều sang Đông Dương làm Tổng chỉ
huy kiêm Cao uỷ, hòng xoay chuyển tình thế. Nhưng rồi Delattre cũng thất bại,
phải thay bằng tướng Salan. Salan đại bại trên khắp các mặt trận. Nghe đâu tướng
Navarre sắp được điều sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh… Rất có thể xảy
ra cuộc quyết chiến chiến lược giữa Pháp và ta… Đoàn công tác bọn anh về đồng bằng
đợt này là để huy động sức người sức của cho chiến trường Tây Bắc sắp tới đó…
Những điều Lợi nói càng củng cố thêm quyết tâm của Vỹ:
- Em đã quyết rồi. Mặc thầy u. Em không ra Hà Nội học lấy bằng
tú tài đâu. Anh cho em lên Việt Bắc với nhé.
- Có nên xin ý kiến thầy u không? - Lợi băn khoăn - Đọc bài
thơ của em, anh thêm hiểu em hơn. Làm trai phải có lý tưởng sống. Không thể cam
chịu làm dân một nước nô lệ. Anh biết em đang đứng ở ngã ba đường. Em có biết
câu thơ của Tố Hữu, nhà thơ lớn của cách mạng: "Bâng khuâng đứng giữa
hai dòng nước. Chọn một dòng hay để nước trôi" không?
- Em rất thích bài thơ này. Bọn học sinh chúng em nhiều đứa
thuộc lòng. Học tú tài để làm gì? Làm ông ký, ông phán, hay thông ngôn thì cũng
là làm tay sai cho Pháp, góp phần giết hại đồng bào mình. Không, em không thế
trở thành kè bán nước hại dân. Đến như thầy, vốn an bần lạc đạo, muốn mũ ni che
tai để yên thân, nhưng ròi vẫn phải nhúng tay vào chính trị. May mà thầy thức
thời, đồng ý hợp tác với Việt Minh…
Hai anh em trò chuyện với nhau cả một ngày. Khi biết dự định
của Chiến Thắng Lợi là sẽ giới thiệu Vỹ với báo Vệ Quốc hoặc báo Độc Lập ở chiến
khu Việt Bắc thì Vỹ ôm choàng lấy cổ anh, sướng đến phát điên lên. Họ quyết định:
Sẽ bí mật trốn khỏi nhà, lên chiến khu Việt Bắc, không để ông bà Lý Phúc biết.
Trước giờ lên đường, Vỹ viết một lá thư để lại:
"Kính lạy thầy u,
Con và anh Khôi phải trốn ra đi, bởi không muốn nhìn thấy cảnh
thầy u, cảnh các em và bà nồi rơi lệ nhớ thương. Nói vậy tức là chúng con hoàn
toàn toàn thầy u sẽ đồng tình với cuộc ra đi vì nghĩa lớn này. Tổ Quốc lâm
nguy, thất phu hữu trách. Lời dạy của thầy chúng con luôn ghi tạc. Thầy u hãy
cho chúng con cơ hội để tô chí làm trai, góp công sức phụng sự Tổ Quốc.
Chúng con ngàn lần xin thầy u tha tội và đại xá.
Hai con trai của thầy u.
Nguyễn Kỳ Khôi - Nguyễn Kỳ Vỹ"
Chú thích:
(1) Hình như chị ấy yêu anh? (tiếng Pháp)
(2) Không, anh không quen cô ấy (tiếng Pháp)
Chương 5
cắn răng bẻ một chữ đồng
Tập thơ đầu tay của Nguyễn Kỳ Vỹ "Thời của Thánh Thần"
vừa xuất bản ở chiến khu Việt Bắc, lập tức đã tạo một cơn dư chấn, giống như
tác động của một trận động đất cấp 10 độ rích te làm rung chuyển tận tâm can
hàng triệu người. Tập thơ mỏng, ba mươi hai bài, in bằng thứ giấy rơm vàng xỉn,
với công nghệ xếp chữ thủ công, mực in nhoè mờ, vậy mà hàng vạn chiến sĩ khắp
các chiến trường Việt Bắc, Tây Bắc, Khu Ba, Khu Bốn, Khu Năm, Tây Nguyên, Tứ
giác Long Châu Hà, vùng rừng U Minh và cả chuồng cọp Côn Đảo chuyền tay nhau đọc,
chuyền nhau chép lại trong sổ tay và học thuộc, từng câu, từng bài.
Tác giả Nguyễn Kỳ Vỹ - chỉ sau hai năm đi theo kháng chiến, vừa
tròn 18 tuổi đã trở thành một hiện tượng, một vì tinh tú chói sáng trên bầu trời
văn học kháng chiến. Tuyệt vời hơn nữa là tập thơ lại được chính đồng chí Tư
Vuông, người xếp vị trí quan trọng trong ban lãnh đạo của Việt Minh, viết lời tựa.
Tên thật đồng chí Tư Vuông là Nga Sỹ Liên, một cái họ rất lạ. Có nguồn tin lại
bảo rằng tên gốc ở quê do bố mẹ đặt cho đồng chí là Lún, Nga Sỹ Lún. Vì quá yêu
Liên Xô, đất nước mà đồng chí coi là tổ quốc thứ hai của mình, đồng chí đổi Lún
thành Liên. Khi làm thơ, một tờ báo xếp chữ nhầm, họ Nga thành họ Ngô, đồng chí
biết nhưng lờ đi, sau thành quen, thành bút danh Ngô Sỹ Liên. Bút danh này khiến
những người có học liên tưởng đến nhà sử học nổi tiếng Ngô Sỹ Liên thời Lê, người
đã viết bộ "Đại Việt sứ ký toàn thư", một bộ chính sử vào bậc
nhất của nước Đại Việt. Việc lấy tên các bậc tiền bối làm tên mình, quả là một
phát kiến táo bạo, tuy ban đầu có gây phản cảm cho nhiều người, nhất là những
người am hiểu văn hoá lịch sử. Nhưng tổ chức đã thừa nhận tức là có ý tuyên bố
ngầm ủng hộ. Thế nên, đã tạo thành thói quen sau này, làm gương cho nhiều quan
chức noi theo, như các trường hợp liên quan tới những danh nhân Lê Quý Đôn,
Nguyễn Du, vân vân…
Lời tựa của nhà thơ Ngô Sỹ Liên thực sự là một tôn vinh, một
ưu ái ngoài sức tưởng tượng của nhiều người đối với cây bút trẻ Nguyễn Kỳ Vỹ:
"Âm hưởng chủ đạo của tập thơ "Thời của Thánh Thần" là
ca ngợi lãnh tụ, ca ngợi nhân dân, ca ngợi kháng chiến. Nếu như ở các bài
"Bi phẫn", "Hận lửa, những thôn làng đã qua tác giả tập trung tố
cáo chế độ hà khắc, tàn ác của bọn thực dân Pháp, sự hèn mạt của vua quan phong
kiến nhà Nguyễn, nỗi thống khổ của hàng triệu người cần lao, thì với bài
"Thời của Thánh Thần" - bài thơ chủ đạo được lấy làm tựa đề cho
cả tập thơ, Nguyễn Kỳ Vỹ đã nhân hoá giai cấp vô sán, những người lao khổ như
Thần Thánh, như Phù Đổng Thiên vương, rũ bùn vươn tới những vì sao. Sự hoán cải,
sự hoá thân ấy, chính là sự mầu nhiệm của cách mạng, sự đổi đời, quật khởi của
cuộc đấu tranh giai cấp. Nguyễn Kỳ Vỹ với tập thơ ("Thời của Thánh Thần" xúng
đáng là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hoá, văn nghệ".
Ngợi ca như thế, lăng xê như thế thì quả là độc nhất vô nhị
trong nền phê bình văn học cách mạng.
Trong bảng phong thần của nền thi ca vô sản, ngoài những tên
tuổi đã lừng lững trước cách mạng từ thời Tự lực Văn đoàn, Tiểu thuyết Thứ Bẩy,
Thơ Mới… có thêm một tiểu tướng sản sinh cùng với kháng chiến, con đẻ của cách
mạng là Nguyễn Kỳ Vỹ.
Thực ra; để có vụ lăng xê hết ý này, công đầu không phải là
tài năng của Nguyễn Kỳ Vỹ, mà chính là do sự bày binh bố trận của Chiến Thắng Lợi.
Do vị trí và mối quan hệ công tác, Chiến Thắng Lợi được làm việc dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của đồng chí Tư Vuông. Vừa đưa Nguyễn Kỳ Vỹ từ quê lên Việt Bắc, Chiến
Thắng Lợi đã tiến cử em trai với đồng chí Tư Vuông. Nhìn cậu học sinh Thành
chung khôi ngô, nhanh nhẹn, thông minh, đồng chí Tư Vuông đã có cảm tình.
- Trời ơi, tác giả bài thơ "Sống" đây ư?
Giỏi lắm. Đáng mặt anh hào lắm, hỉ. Tôi sẽ ghi công giới thiệu nhân tài cho đồng
chí Chiến Thắng Lợi. Cách mạng đang rất cần những người tài. Đồng chí là một
tài năng trẻ. Tốt lắm. Phải bổ sung anh em trí thức trẻ cho cách mạng, cho
kháng chiến. Có thích làm báo Vệ quốc không? Mình sẽ giới thiệu đồng
chí xuống đó.
Cuộc gặp gỡ lần đầu tiên, nhà thơ Ngô Sỹ Liên đã đặt Nguyễn Kỳ
Vỹ trên một đường bay lớn để từ đó anh cất cánh.
Liên tiếp trong các số báo Vệ quốc sau đó, bắt đầu
xuất hiện các bài phóng sự mặt trận, những bài thơ của Nguyễn Kỳ Vỹ. Thế rồi,
như một bảo mẫu đầy tận tuỵ và trách nhiệm, Chiến Thắng Lợi lặng lẽ cắt từng
bài thơ của Nguyễn Kỳ Vỹ dán thành tập. Cho đến khi được đủ ba mươi sáu bài,
nhân dịp kỷ niệm sinh nhật của nhà thơ Ngô Sỹ Liên, Chiến Thăng Lợi liền đem
trình nhà thơ:
- Báo cáo anh, thằng em em nó không dám. Nhưng em mạo muội
trình anh tập thơ này, dâng lên anh như một món quà mừng sinh nhật. Em nghĩ,
không có anh, thằng Kỳ Vỹ nhà em đâu có được như ngày hôm nay. Anh là cha đỡ đầu,
là người khai sinh…
- Đừng, đừng nói vậy, ngoa ngôn, phạm thượng, Lợi ơi. Mình
xin… Mình chỉ dám nhận là người cổ vũ lớp nhà thơ kháng chiến…
Một tuần sau, nhà thơ Ngô Sỹ Liên gọi Chiến Thắng Lợi lên và
bảo:
- Cậu là người có con mắt xanh đấy. Mình đọc tập thơ của Nguyễn
Kỳ Vỹ và rất thích. Bỏ đi bốn bài thì in được. Lấy tên tập thơ là "Thời
của Thánh Thần", hỉ. Bảo Vỹ nó lên gặp mình. Mình sẽ viết giấy cho nó đem
xuống nhà in.
Năm ngày sau, Vỹ tức tốc từ Đoan Hùng, đi suốt một ngày một
đêm về gặp nhà thơ Ngô Sỹ Liên. Trước mặt nhà thơ lớn, Vỹ run lẩy bẩy đến thảm
hại. Anh run vì quá sung sướng, vì quá xúc động khi được một con người mà anh
ngưỡng vọng tôn thờ, quan tâm đến.
Gần hai tháng sau thì tập thơ "Thời của Thánh Thần"
ra khỏi nhà in, phát hành trong toàn quân.
Như có sức nổ dây chuyền, hiện tượng Nguyễn Kỳ Vỹ tạo nén một
luồng sinh khí trên khắp các mặt trận, có sức động viên hiệu triệu, thúc giục
hàng triệu chiến sĩ, dân công hoả tuyến; nông công binh trí, đặc biệt khuấy động
phong trào giảm tô, cải cách ruộng đất ở đồng bằng Sông Hồng, trung du Bắc Bộ,
vùng Thanh Nghệ Tĩnh, truyền cho bộ đội sức mạnh dời non lấp bể tiến vào trận
đánh huyết chiến cuối cùng: chiến dịch vĩ đại Điện Biên Phủ.
"Thời của Thánh Thần" lập tức được mười hai nhạc sĩ
cùng phổ nhạc. Ấn tượng nhất là trường ca "Sao ơi" của nhạc sĩ tài
danh Đường Thanh:
Từ ao tù bùn đọng bốn ngàn năm
Ta đứng dậy vươn vai thần Phù Đổng
Máu tuôn trào đỏ ngập trời, như sóng
Búa liềm ơi, vàng rực, sao sao ơi!
°°°
Vượt qua vòng vây kiểm soát thiên la địa võng của thực dân
Pháp, từ căn cứ địa Việt Bắc, tập thơ của Nguyễn Kỳ Vỹ được các lực lượng yêu
nước trong thành Hà Nội đón nhận như đất hạn gặp mưa rào. Hào hứng nhất là giới
học sinh, sinh viên, trí thức. Người ta chép vào sổ tay những bài thơ trong tập
"Thời của Thánh Thần" cùng với những tin tức về các trận đánh vào đồi
Độc Lập, Bản Kéo, cầu Mường Thanh. Người ta vừa thầm hát trường ca "Sao
ơi", vừa lắng nghe tin chiến sự Điện Biên Phủ, tin về hội nghị Giơnevơ, về
đình chiến và lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Vào đúng mùa hè nóng bỏng năm 1954 ấy, khi cậu học trò Nguyễn
Kỳ Vọng con ông Lý Phúc đang ở Hà Nội dự thi Tú tài phần I, cũng là lúc Vọng có
được trong tay tập thơ "Thời của Thánh Thần".
- Có đúng nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ là anh trai của toi không?
- Tạ Đôn, thằng bạn học cùng trường dúi vào tay Vọng tập thơ "Thời của
Thánh Thần" và nhìn cậu với bộ mặt rất nghiêm trọng - Người ta đồn hai ông
anh toi là Việt Minh? Tập thơ này hay nhưng sặc mùi cộng sản.
Mặt Vọng thất sắc. Cậu cầm tập thơ, giấu trong ngực áo, bấm mạnh
tay Tạ Đôn, ghé vào tai bạn:
- Khe khẽ cái mồm. Moi đang bị theo dõi.
Quả thật, suốt mấy tháng nay, từ ngày lên học ôn để dự thi tú
tài I, Vọng cảm thấy có một ai đó luôn lẽo đẽo theo sát mình. Lúc thì người đó
đội mũ phớt đeo kính đen, lúc lại đội mũ nỉ trắng, mặc áo ký giả. Hôm nghe xướng
danh, cả trường Phương Đình của Vọng, bốn mươi hai đứa dự thi chỉ có Vọng và Tạ
Đôn đỗ tú tài ban B và ban C. Vọng sướng đến phát điên lên. Vừa ôm Tạ Đôn xong,
đã thấy một người đàn ông chen vào giữa hai đứa, bắt tay Vọng. Rồi người đó
theo Vọng về nhà trọ và bảo: "Cậu là trò duy nhất của tỉnh Sơn Minh cuối
năm đệ nhị vừa qua được phần thưởng của Quốc trưởng Bảo Đại. Chính phủ bảo hộ rất
chú ý đến cậu. Cậu là tương lai của nền Cộng hoà, của nước mẹ Đại Pháp. Đợt tới
này cậu có danh sách chuyển vào Nam đầu tiên".
Hai tiếng vào Nam, lần đấu Vọng nghe, cũng là lúc chiến trường
Điện Biên Phủ vào hồi kết cục. Khắp Hà Nội người ta loan tin bộ đội Việt Minh
đã bao vây Đồi A1 và hầm tướng Đờ Cát Rồi đồi A1 đã bị chiếm. Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đã cùng đại diện Cộng hoà Pháp ký hiệp định Giơnevơ. Người
Pháp đã tuyên bố đầu hàng Việt Minh.
Vọng chỉ mới kịp đọc một hai bài của tập thơ "Thời
của Thánh Thần" thì người đeo kính đen đội mũ phớt đã xuất hiện tại nơi Vọng
trọ học.
- Tôi khuyên cậu không nên đọc bất kỳ một tài liệu gì của Việt
Minh. Cậu Tạ Đôn mới đưa cho cậu tập thơ của anh trai cậu, đúng không? Hãy đưa
cho tôi. Tôi khuyên cậu. Cậu muốn an toàn tính mạng thì hãy đưa cho tôi giữ. Nước
Đại Pháp chỉ tạm thời thua trận ở Điện Biên Phủ, nhưng nhất định người Pháp sẽ
quay trở lại. Người Mỹ không bao giờ bỏ rơi người Pháp. Tàu chiến, máy bay của
họ đang có mặt ở Nam Bộ. Quốc trưởng Bảo Đại, người trao cho cậu phần thưởng cuối
lớp Đệ nhị vừa qua, đang rất cần có những người con trung thành như cậu. Cậu
hãy chuẩn bị để theo Chúa vào Nam.
- Nhưng ông là ai? Tại sao ông lại quan tâm đến tôi? - Vọng gặng
hỏi.
- Tôi là người biết cậu từ ngày cậu được nhận phần thưởng của
Quốc trưởng Bảo Đại, là người có trách nhiệm bảo vệ và đưa cậu vào Sài Gòn bằng
cách an toàn nhất nay mai. Cậu chỉ cần hiểu như thế là được. Lúc này cậu có rất
ít cơ hội lựa chọn. Đường về quê Sơn Minh đã bị phong toả. Bốt làng Động đã bị
du kích san bằng. Ông bà Lý Phúc và các em cậu đã chuẩn bị đi Nam rồi…
- Tôi phải về gặp bố mẹ và các em.
- Không được. Chúng tôi có trách nhiệm chuyển tin tức của cậu
cho ông bà Lý Phúc. Cậu không phải về quê. Và có muốn về cũng không được. Cậu
nên nhớ lúc này, tính mạng mình là quan trọng…
- Nhưng tôi không theo đạo công giáo. Thầy u tôi thờ Phật.
- Tất cả mọi người đều là con của Chúa. Với lại, Phật cũng
vào Nam theo nước mẹ Đại Pháp và theo Quốc trưởng Bảo Đại Cậu không còn thiếu
thời gian suy nghĩ nữa đâu. Thắng trận Điện Biên rồi, Việt Minh sẽ tràn về Hà Nội.
Sẽ có một cuộc tắm máu. Tất cả những ai dính líu đến Chính phủ Đại pháp, đến Quốc
trưởng Bảo Đại sẽ bị Việt Minh tùng xéo. Cả bố cậu, ông Lý Phúc, từng làm lý
trưởng cho Pháp cũng sẽ bị tùng xẻo, nếu không đi theo nước mẹ…
Vọng thấy khắp người ớn lạnh. Sao người đeo kính đen này lại
biết rõ hoàn cánh, lý lịch của Vọng cặn kẽ thế. Có phải người của phòng Nhì
không? Nếu Vọng trốn về quê có bị bọn người này ám sát không?
Người đeo kính đen dúi vào tay Vọng một tờ giấy có in sẵn tên
Nguyễn Kỳ Vọng, đóng dấu triện hình bầu dục.
- Đây là tích kê máy bay của cậu. Cậu sẽ đi cùng chuyến với Tạ
Đôn.
Vọng sững sờ và hoang mang vô cùng. Hay là Tạ Đôn, vì muốn Vọng
đi cùng vào Nam mà bày đặt ra chuyện thuê người đội mũ phớt, đeo kính đen đến dụ
dỗ mình?
Tạ Đôn. là con ông Cả Đáo, người làng Miệng Thượng, có họ xa
với bà Lý Phúc. Miệng Thượng là làng công giáo toàn tòng, có nhà thờ to nhất
huyện, tháp chuông cao ngất. Ông Cả Đáo học trường dựng, sau phá ngang đi làm
ký bưu điện, lấy được vợ bé con nhà giầu ở phố Sinh Từ. Tạ Đôn là con bà cả ở
quê, cùng học với Vọng từ lớp Đệ nhất, cùng ra Hà Nội ôn thi Tú tài. Tạ Đôn có
cô em gái xinh đẹp, con bà bé, tên Thu Uyên, kém Vọng một tuổi. Đôn có ý ngầm
gán ghép Uyên cho Vọng. Vọng thích, đêm thường mơ thấy nàng, nhưng gặp thì lại
thẹn và nhút nhát, không dám nhìn… Chẳng lẽ người đội mũ phớt, đeo kính đen lại
biết cá mối quan hệ giữa Vọng và Uyên, em gái Tạ Đôn ư?
°°°
Cùng được ông Lý Phúc kèm cặp học chữ nho từ lúc nhó, cùng
theo học lớp đồng ấu, lớp sơ học yếu lược, nhưng giữa Vọng và Quặc lại là hai
thực thể hoàn toàn trái ngược. Vọng học đâu nhớ đó, thậm chí học chữ Nho khó
như vậy mà chỉ sau khi ông Lý Phúc dạy cách viết, cậu đã nhớ mặt chữ viết nét sổ,
nét ngang, nét móc đâu ra đấy. Ngược lại, dù nhồi nhét cách nào, Cục cũng chỉ
nhớ mỗi một chữ nhất là một gạch ngang, đến chữ rihí, hai gạch ngang thì nó lại
viết thành hai gạch dọc. Phức tạp như cái chữ ngã (tôi) chữ quốc (nước) thì Cục
đành chịu, dù ông Lý Phúc có bắt nó đặt cả hai bàn tay lên phản mà dùng thước
đánh đến chảy máu, nó cũng không thể viết được. Khi hai đứa cùng đi học lớp đồng
ấu, Vọng luôn đứng đầu lớp, còn Cục thì xếp cuối bảng. Vọng chăm học, ngăn nắp,
vở sạch chữ đẹp bao nhiêu thì Cục ngược lại, luôn coi việc học là một khổ sai,
sách vở lúc nào cũng nhầu nát, quăn mép, hai bàn tay rồi mặt mũi đầy vết mực. Để
đối phó với ông bà Lý Phúc, Cục luôn năn nỉ Vọng chép hộ bài, giải hộ bài tập
và đừng để thầy u biết nó bị điểm kém. Bù lại Cục nhận làm thay Vọng hết thảy
những việc nhà, như nấu cơm, rửa bát, quét sân. Lên học sơ học yếu lược, Cục
liên tiếp hai năm bị lưu ban. Cho đến khi Cục bị rắn cắn liệt một cánh tay, rồi
trong một lần đi hôi cá, bị chủ ao ném bùn đầy lỗ tai, khiến tài nó có mủ, thối
hoắc, sinh ra bệnh nghễnh ngãng, thì việc học của nó hoàn toàn không có hy vọng.
Cục tự trói tay quì phủ phục trước mặt ông Lý Phúc, nài nỉ: "Thầy thương
con, tha cho con không phải đi học". Ông Lý Phúc nhìn nó lắc đầu, ứa nước
mắt, đành để mình Vọng tiếp tục học lên bậc tiểu học.
Khác hẳn hai anh Khôi và Vỹ, giỏi thơ văn và các môn học xã hội,
Nguyễn Kỳ Vọng giỏi và ham học các môn học tự nhiên. Ngày Pháp nhảy dù Phương
Đình, lập vành đai trắng, đóng bốt làng Động, trường trung học công lập đầu
tiên được thành lập ở nhà thờ Miệng Hạ. Vọng ghi tên học lớp Đệ lục. Để đỡ tốn
tiền của thầy u, hàng ngày Vọng cuốc bộ tám cây số đến trường. Mùa đông nón lá,
áo tơi để chống lại gió bấc mưa phùn. Có ngày dậy sớm quá đi hết cánh đồng làng
lên bờ đê mà trời vẫn chưa tảng. Có ngày mưa rét quất vào mặt, đến lớp ướt như
chuột lội, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập hai bàn tay vặn vẹo vào nhau hàng
nửa giờ vẫn không cầm nổi quản bút. Chao ơi, những ngày ấy sao rét dữ đến thế.
Bụng càng đói cồn cào, người càng rét run. Mùa hè, lại cực theo kiều khác. Bàn
chân bé nhỏ bỏng rẫy trên đường đá răm, mồ hôi ướt đầm quần áo. Nhưng cuốc bộ
tám cây số, với Vong lại là quãng đường tự học tốt nhất. Chỉ trong một năm đi bộ
mà Vọng đã thuộc làu cả quyển từ điển Pháp Việt bỏ túi.
Từ ngày hai anh Nguyễn Kỳ Khôi, Nguyễn Kỳ Vỹ trốn nhà lên Việt
Bắc, ông bà Lý Phúc càng dồn hết tiền bạc, quyết tâm để lo cho Vọng học lên. Đầu
năm 1953, chiến cuộc lan tràn, ông bà Cử Phúc liền nghĩ ngay đến việc gửi Vọng
lên Hà Nội học. Vẫn biết lên Hà Nội là nhiêu khê, tốn kém, nhưng phía bà Lý
Phúc có ông anh họ làm ký ga, nhà ở vườn hoa Tập Kèn, có thể nhờ vả được. Ông
Ký nọ lại là anh họ của mẹ Tạ Đôn, nên Vọng vừa có nơi trọ học chu đáo. vừa có
thằng bạn học tâm đầu ý hợp lúc này cũng được bố đón ra Hà Nội. Ông Lý Phúc bảo
vợ: "Thời buổi mũi tên hòn đạn này, không biết thế nào. Hai thằng anh nó,
coi như hiến cho đất nước. Thằng Quặc thì không tính làm gì. Nó vào cửa nhà này
là để hứng chịu tất cả những rủi ro thua thiệt cho ba thằng anh nó. Còn thằng Vọng,
phải cố mà giữ lấy. Sểnh hai thằng anh, còn có thằng em". Vọng như món gia
tài cuối cùng, canh bạc cuối cùng, ông Lý Phúc quyết không để mất. Cho nên, dù
vẫn cộng tác với Việt Minh, có hai con trai theo Việt Minh, nhưng ông Lý vẫn
tính một bài toán khác, thực chất là ông vẫn phải lo hai mang, chân này chân
kia, vẫn để ngỏ cửa với người Pháp.
Phần thưởng của Quốc trưởng Bảo Đại trao cho Nguyễn Kỳ Vọng
càng khiến ông củng cố quyết tâm cho Vọng ăn học đến cùng, thậm chí ông trao trọng
trách cho Vọng phải bằng mọi cách kiếm được một suất học bổng du học tại Pháp
sau khi có bằng Tú tài.
Thời gian ở Hà nội tuy ngắn ngủi, nhưng đối với Vọng quí giá
vô cùng. Ngoài giờ học ở trường, Vọng đi dạy tư để có tiền, giảm gánh nặng cho
thầy u. Lúc rảnh rỗi, Vọng đi lang thang đến các toà báo Tia Sáng, Chính
Đạo, Con Vịt… đến các quầy sách báo lẻ để đọc ké. Thú vị nhất là báo Con
Vịt. Bao nhiêu là truyện cười, vừa lý thú vừa bồ ích.
Có một người bạn nhỏ Vọng làm quen và kết thân trong thời kỳ
này là cậu bé Lê Đoàn. Đoàn kém Vọng ba tuổi, cao gầy và đen trũi, người Hà
Nam, bị thất lạc gia đình hồi tản cư được gom vào trại tế bần, rồi chuyển sang
học ở Cô Nhi viện, gần vườn hoa Tập Kèn. Mười tuổi, Đoàn đã nói tiếng Pháp làu
làu. Mười ba tuổi, cậu học nhảy cóc ba lớp, thông thạo tiếng Pháp, đến mức bọn
Tây Lê Dương nghe cậu nói đều lè lưỡi lắc đầu, phục sái cổ. Một ngày chủ nhật,
Đoàn hớt hải đến tìm Vọng:
- Đi với em. Có chuyện này cực kỳ hay.
- Chuyện gì mà hấp dẫn vậy?
- Cứ đi khắc biết thế nào là nước mẹ Đại Pháp. Nhưng nhớ mang
theo một chiếc khăn bịt mũi.
Đoàn kéo Vọng lên xe điện ngược Cầu Giấy. Đi hai ga thì hai đứa
nhảy xuống, rẽ vào khu bãi trống đối diện với chùa Kim Sơn. Đã thấy thoang thoảng
mùi phân người. Mỗi lúc một nồng nặc. Rồi thối khẳm, không thể chịu được, dù đã
lấy khăn đút nút hai lỗ mũi.
Đoàn đưa tay chỉ khoảng sân rộng mênh mông, dày đặc phân bắc,
giải thích:
- Đây là bãi phơi phân. Những người đổ thùng vệ sinh sẽ thu
gom phân người từ khắp thành phố về đây để bán cho công ty phân của ông Năm Diệm.
Phân được phơi khô, sau đó đóng vào các thùng gỗ, dán mác "Made in
Annam" để chở về nước mẹ Đại Pháp.
- Để làm gì nhi? - Vọng hỏi ngây thơ.
- Để bón cho những cánh đồng nho ở xứ Boócđô hoặc ở Brơtanhơ
quê hương mẫu quốc. Anh thấy nước mẹ có vĩ đại không? Bòn rút đến không từ hòn
cứt của dân thuộc địa An Nam - Rồi Đoàn buông một câu kết như đinh đóng cột -
Em thề dù được học bổng cũng không bao giờ sang Pháp du học. Loại thực dân bòn
cả cứt như thế, em khinh.
Thái độ khinh bỉ và coi thường nước Đại Pháp của cậu bé Lê
Đoàn cứ day trở mãi trong đầu Vọng, khi cân nhắc đến chuyện đi và ở. Đi, sẽ
theo học trường Pháp hay trường Mỹ?
Báo chí đang nói nhiều đến chuyện người Mỹ sẽ thay người Pháp
ở miền Nam. Học lên nữa, học với người Mỹ để giành những đinh cao học vấn, hoặc
trở về quê, cái làng Động nghèo khổ và tối tăm, để chứng kiến cảnh tắm máu? Những
giằng xé ấy khiến hai đêm liền Vọng không ngủ. Vọng viết vào sổ nhật ký. Vọng
viết thư cho thầy u, các anh Khôi, Vỹ và em Cục em Hậu…
Vào một đêm trở bão, lúc mười giờ, Lê Đoàn bỗng hớt hải đến
tìm Vọng. Nó đi lom khom, tay ôm một bọc gì có vẻ rất nặng trước bụng. Vọng chột
dạ: Hay là Đoàn đã đoán được cuộc ra đi của Vọng và đến đưa tiễn?
- Khuya rồi, Đoàn đến có việc gì thế?
- Đỡ cho em với. Nặng quá.
Tay Vọng bỗng chạm vào những viên đạn lạnh buốt. Hàng trăm
viên đạn súng ngắn, lấp lánh dưới ánh đèn hắt từ đầu hồi nhà.
- Nhiều đạn không - Đoàn nói như reo - Một trăm sáu mươi bẩy
viên đấy. Em lấy trộm của bọn Lê Dương ở trại Tập Kèn đấy. Tán dóc với tụi nó một
hồi. Cho mỗi thằng vài điếu thuốc Cô táp, rồi em lừa chúng, khoắng luôn. Em đã
có sẵn khẩu Rulô lần trước xoáy của thằng Joyli rồi. Đợi hôm nào bộ đội ta về
tiếp quản Thủ đô, hai anh em mình sẽ bắn hết số đạn này chào mừng.
- Nhưng mình không biết bắn súng - Vọng thở dài và tự cảm thấy
vô cùng xấu hổ.
- Em sẽ dạy anh. Dễ ẹc. Chỉ một lúc là biết bắn thôi mà -
Đoàn chuyển những viên đạn sang tay Vọng - Bây giờ anh cho em gửi số đạn này ở
đây. Để ở chỗ em sẽ bị lộ. Lơ mơ bị bắt giam như bỡn.
Đoàn đang dồn Vọng vào tình thế vô cùng khó xử. Biết nói thế
nào cho Đoàn hiểu? Hay là nói hết những dự định của mình?
Rất may, bà Ký Thọ đã xuất hiện đúng lúc. Bà giục Vọng vào đi
ngủ. Vọng nói nhỏ vào tai Đoàn:
- Đoàn cứ mang đi giấu tạm ở chỗ nào. Bác Ký Thọ biết, nguy
hiểm lắm.
Đoàn về rồi mà Vọng cứ dằn vặt suốt. Vọng thầm khâm phục Đoàn
và tự xỉ vả mình. Nếu mai kia, khi thấy Vọng bỗng nhiên biến khỏi Hà Nội thì
Đoàn sẽ khinh bỉ và nguyền rủa Vọng biết chừng nào.
Không tài nào ngủ được. Đúng 12 giờ khuya, Vọng rón rén cầm
cuốn Truyện Kiều đi ra đầu nhà. Dưới ánh sáng ngọn đèn điện đỏ quạch ở đầu hồi,
Vọng kính cẩn ấp hai bàn tay vào cuốn sách, lầm rầm khấn vái: "Lạy vua Từ
Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều". Đó là lời khấn mà bà nội
Vọng, bà Đồ Kha, thường khấn mỗi lần bói Kiều. Kỳ lạ thay là người bà không biết
chữ của Vọng. Chữ nho cũng không mà chữ quốc ngữ càng mù tịt. Vậy mà bà cụ thuộc
làu làu cả cuốn Truyện Kiều. Không những đọc xuôi, mà bà cụ còn đọc ngược. Nói
đến đoạn nào là cụ lại đọc vanh vách đoạn ấy. Độc đáo nhất là cụ Đồ Kha có tài
bói Kiều. Bất cứ nhà có việc gì, lành dữ, con cháu có điều gì uẩn khúc, mắc mớ,
bà cụ lại mang Truyện Kiều ra bói. Vọng nhớ như in từng cử chỉ, và nét mặt đầy
thành kính, trang nghiêm của bà. Rồi bà giở một trang bất kỳ, mở cuốn sách trước
mặt, bảo Vọng đọc cho bà nghe.
"Trai tay trái, gái tay phải. Tuỳ người muốn bói là nam
hay nữ mà đọc trang lẻ hay trang chẵn con à".
Sau khi khấn vái xong, Vọng mở trang Kiều, nhìn vào trang bên
trái:
"Tông đường chút chưa cam lòng
Cắn răng bẻ một chữ đồng làm đôi?
Không tin ở mắt mình, Vọng chớp chớp mắt, rồi đọc lại. Đúng
là câu Kiều thứ 1954: "Cắn răng bé một chữ đồng làm đôi". Chẳng lẽ lời
cụ Nhiêu Biểu nói với ông Lý Phúc hồi Tết vừa rồi lại linh nghiệm chăng? Vọng
nhớ lại buổi nói chuyện giữa ông cụ Nhiêu Biểu với thầy:
- Văn chương cụ Nguyễn Tiên điền tài tình lắm ông ạ. Còn tôi
còn ông, rồi xem. Đây này, câu thơ "Cắn răng bẻ một chữ đồng làm
đôi", đúng vào câu thứ 1954. Thế là nhà ông có chuyện. Mà có khi cả nước
nhà cũng có chuyện. Năm nay là năm Giáp Ngọ, theo công lịch là năm thứ 1954,
năm chia lìa, ly tán. Nhất định rồi ông ạ. Cuộc tao loạn này nhất định rồi phải
kết thúc. Nhưng không phải là sự đại đoàn viên. Tôi bấm quẻ, xem âm dương, ngắm
sao trên trời đều thấy triệu chứng chia đôi, phân ly ông ạ.
Phân ly. Đến bao giờ? Loáng thoáng có người nói với Vọng:
Pháp đồng ý với Việt Minh sẽ hiệp thương trong hai năm. Hai năm nữa, chính phủ
liên hiệp thống nhất sẽ được thành lập. Thời gian ấy đủ cho Vọng học xong Tú
tài phần hai, với nhiều cơ hội thi vào đại học. Vọng sẽ đi du học nước ngoài hoặc
trở về Hà Nội học tiếp. Vọng Bẽ lại gặp thầy u, anh em, bạn bè.
Một tháng sau ngày hiệp định Giơnevơ được ký kết, giữa trưa
ngày hạ tuần tháng 8 năm 1954, chiếc máy bay Dakota chở Nguyễn Kỳ Vọng cùng Tạ
Đôn, Tạ Thu Uyên và bốn mươi hai đồng bào Công giáo từ phi trường Gia Lâm đáp
xuống phi trường Tân Sơn Nhất.
Sài Gòn mùa hè ấy nắng chói chang. Ánh nắng phương Nam mang sắc
vàng của vùng đất mới và vị mặn của biển. Hàng trăm lều vải dựng tạm, những chiếc
dù màu cứt ngựa, san sát xung quanh nhà ga chính. Sân bay như một chảo lửa.
Vừa từ máy bay bước xuống, Vọng đã bị vây bủa bời hàng nghìn
đồng bào di cư từ các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Nam Định, Hà Nam, Ninh
Bình… Đây là đợt di cư bằng đường hàng không dành cho những người có tiêu chuẩn
đặc biệt, gia đình con em những công chức… Tiếng loa chói tai, như đẩy cái nóng
hầm hập ong ong vào màng nhĩ: "Đây là phi trường Tân Sơn Nhất. Nhiệt liệt
chào đón đồng bào miền Bắc vừa thoát khỏi chính quyền cộng sản trở về với nước
Chúa, với cộng đồng dân tộc". Xin đồng bào lưu ý: Theo sự chỉ dẫn của nhân
viên, quí vị sẽ đến nơi đón tiếp đồng bào di cư để làm thủ tục. Không nên chen
lấn, xô đẩy. Hãy phát huy tinh thần tương thân tương ái, người khoẻ giúp đỡ người
yếu, người già, con trẻ… "
Một chiếc ô tô nhà binh từ ngoài cổng bỗng lao đến đám đông.
Một tấm bảng hiệu trên ghi một dòng chữ bằng mực tân, được một người mặc bộ đồ
trắng ngồi trên ghế lái giơ lên: "Gia đình ông Tạ Đáo".
Ông Tạ Đáo, bố Tạ Đôn, có người em ruột là chủ đồn điền Hố
Nai. Đợt di cư này Vọng được đi phi cơ là nhờ Tạ Đôn. Do cước phí vận chuyển
quá đắt, chủ yếu đồng bào di cư sẽ được đi tàu thuỷ từ cảng Hải Phòng. Chỉ những
người có tiêu chuẩn đặc biệt mới được đi theo đường hàng không từ phi trường
Gia Lâm. Cha mẹ Tạ Đôn và em gái cùng chạy xô về nơi chiếc xe.
Tạ Đôn tần ngần đứng lại, cầm tay Vọng.
- Mình nói với cậu mợ để vọng về cùng chỗ ở. Nhưng cậu tớ bảo
ốc đang không mang nổi mình ốc. Ý muốn nói cậu mợ mình cũng đang phải nhờ vả
người ta… Thôi, Vọng về Bệnh viện Bình dân nhé. Hẹn gặp nhau sau nhé.
Tạ Đôn dúi vào tay Vọng mấy đồng bạc Đông Dương, gạt nước mắt,
rồi cùng chạy lại chỗ chiếc xe. Tạ Thu Uyên đang đi vội quay lại:
- Kìa, anh Vọng cũng cùng đi với nhà mình chứ?
Tạ Đôn ngăn em lại.
- Không. Cậu ấy đi theo đoàn. Anh em mình sẽ gặp Vọng sau.
Uyên nhìn Vọng thẫn thờ. Đôi mắt đen nhoà ướt. Đôi chân tưởng
chừng không cất nổi.
Chưa bao giờ Nguyễn Kỳ Vọng cảm thấy bơ vơ và cô đơn như bây
giờ. Chiếc ba lô để bộ quần áo và mấy thứ đồ dùng sinh hoạt như kéo lệch một
bên vai. Đôi mắt Vọng nhoè mờ. Nước mắt giàn giụa hai khoé từ lúc nào. Qua làn
nước mắt, trước mặt Vọng như những cảnh phim loang loáng qua.
Nhốn nháo, nhếch nhác. Lếch thếch, xộc xệch. Hàng vạn đồng
bào di cư miền Bắc tha thếch kéo về những chiếc lều vải như một đội quân bại trận,
vật vờ, dẻo dặt, như những con chiên bị Chúa bỏ rơi, không biết phương hướng.
Mình đã giã từ cha mẹ, giã từ miền Bắc thật rồi sao? Chao ôi
mới mấy tiếng đồng hồ trước đây, khi máy bay bay qua bầu trời Hà Nội, nhìn xuống
sông Hồng, hồ Gươm, Vọng thầm hẹn một ngày trở lại. Nhưng bây giờ, khi một mình
đứng trơ trọi giữa phi trường nóng lửa này, Vọng lại nghĩ rằng, thế là hết.
Vĩnh viễn. Sẽ không có ngày trở lại với thầy u, với làng Động
thân thương, với các anh em ruột thịt. Vọng đã trở thành một kẻ lưu vong, một kẻ
phát vãng. Vọng đang là kẻ vong bản, mất quê hương.
Chương 6
năm cửa ô đón chào
Mùa thu ấy Hà Nội sống trong ngây ngất và chờ đợi. Ngây ngất
như trong cuộc đại tiệc chếnh choáng, thăng hoa, như trong cuộc tình sét đánh,
choáng ngợp, đắm đuối, như trong cuộc hồi sinh bàng hoàng, thảng thốt. Chờ đợi
vì chưa hết hoang mang, mơ thực, vì đang kỳ vọng và viễn tưởng, đang toan tính
và dự liệu…
Lúc không giờ ngày 10 tháng 10 năm 1954, Hà Nội chứng kiến giờ
giao ban của trời đất với những bước đi đầu tiên của đoàn quân thiên thần từ thủ
đô kháng chiến Việt Bắc, từ lòng chảo Điện Biên ngập đầy thuốc súng, xác thù và
máu, từ khắp năm cửa ô, tiến vào Hà Nội.
Năm cửa ô đón chào
Đoàn quân tiến về.
Như đài hoa đón mừng
Nở năm cánh đào
Cháy dòng sương sớm long lanh…
Bài hát "Tiến về Hà Nội" của Văn Cao hoà với gió, với
sóng sông Hồng tràn vào từng cửa ô, góc phố, phần phật reo trên ngàn vạn lá cờ
đỏ sao vàng, rập rờn trên những vòm đại thu quanh Hồ Gươm cổ kính. Sóng nhạc của
Văn Cao như ngân reo trong tóc, trong mắt, trên môi từng người Hà Nội.
°°°
Trong đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô ngày ấy, làng Động
có hai người con của ông bà Lý Phúc. Chiến Thắng Lợi đi theo phiên chế của phái
đoàn Chính phủ trong một đội hình đặc biệt có ô tô đặc chủng và đội vệ binh hộ
tống. Nhà thơ trẻ Nguyễn Kỳ Vỹ đi trong đội hình chính thức của năm đại đoàn chủ
lực và các binh chủng hợp thành tiến vào trung tâm Hà Nội theo hướng từ phía đê
Yên Phụ, dọc đường Cổ Ngư, diễu binh qua Quảng trường Ba Đình rồi tiến vào ba
mươi sáu phố phường để đến tập kết tại quảng trường Nhà Hát Lớn.
Để chuẩn bị cho đoàn quân chiến thắng tiến vào tiếp quản Thủ
đô ngay từ ba tháng trước, trong toàn quân đã có sự bình chọn, sàng lọc kỹ lưỡng.
Từng tiểu đội, trung đội, đại đội bình bầu; chọn những chiến sĩ có thành tích
xuất sắc trong chiến đấu, trẻ về tuổi đời, đẹp về ngoại hình, lý lịch trong sạch.
Những người được chọn lựa, qua hai tháng an dưỡng, luyện tập rèn luyện về quân
kỷ, tác phong, quan điểm lập trường chính trị, lại được sàng lọc một lần nữa để
chính thức đưa vào đội hình hành tiến. Được chọn vào đoàn quân danh. dự tiếp quản
Hà Nội quả là niềm vinh hạnh lớn lao, có một không hai của đời chiến sĩ. Nguyễn
Kỳ Vỹ, nhà thơ trẻ gần ba tuổi quân, người nổi tiếng như cồn với tập thơ "Thời
của Thánh Thần" được phiên chế trong hàng quân đi đầu, những chàng Vệ quốc
hào hoa và đặc biệt xuất sắc. Họ là những nhân vật trung tâm, là dàn diễn viên
chính để các máy quay phim chụp ảnh ghi hình. Cao một mét bẩy mươi, gương mặt
thư sinh thanh tú, đôi mắt to ẩn dưới hàng mi rợp, lông mày lưỡi mác, Nguyễn Kỳ
Vỹ như sinh ra để diện bộ quân phục màu cỏ úa, áo trấn thủ, mũ vải lưới nguỵ
trang xanh. Oai nhất là Vỹ được đeo khẩu Ru lô chiến lợi phẩm do đồng chí Chính
uỷ Đại đoàn 312 đơn vị chủ công đánh đồi Him Lam, người đặc biệt mến mộ tác giả
"Thời của Thánh Thần" trao tặng. Nghe nói khẩu Ru lô này chính là báu
vật bất ly thân của quan ba Lan de Courcy, viên sĩ quan Pháp dòng họ quí tộc
cháu nội của tướng Roussel de Courcy, người từng làm Thống tướng của Chính phủ
Pháp tại An Nam sau cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ 2 (1881-1885). Khẩu Ru lô sáng
xanh ánh thép đựng trong túi da đeo lệch bên sườn, kéo chiếc thắt lưng kiểu Mỹ
to bản với rất nhiều hàng đanh, khiến Vỹ càng thêm nổi bật trong hàng quân.
Ước mơ đặt chân đến Hà Nội bao nhiêu năm của Vỹ, bây giờ mới
thành hiện thực. Tiếng là con ông Cử, cháu cụ Đồ, dòng tộc danh giá giàu có nhất
làng Động, vậy mà ngay cả khi lên học đến Thành chung, Vỹ vẫn chỉ mới mon men
được đến đất phố huyện, thị xã. Làng Động chỉ cách Hà Nội dăm chục cây số đường
chim bay, hằng đêm đứng ở gốc đa đầu làng nhìn về phương bắc, Vỹ và bọn trẻ
trong làng đều nhận ra Hà Nội trong quầng sáng mờ huyền ảo hắt lên từ chân trời.
Vầng sáng ấy bao năm vẫy gọi, thôi thúc, để rồi Vỹ phải làm một cuộc hành trình
dài hàng ngàn cây số vòng qua Kim Bôi, Hoà Bình, vượt qua sông Đà, sông Thao,
qua Phú Thọ, Tuyên Quang, vòng qua Pha Đin, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ… và hôm
nay hùng dũng hiên ngang trở về Hà Nội.
Trùng trùng quân đi như sóng.
Lớp lớp đoàn quân tiến về
Lời thơ và âm nhạc của Văn Cao đã nói hộ Vỹ tất cả. Mắt Vỹ
bao lần mờ đi, nhoà đi. Những phố phường đất kinh kỳ Thăng Long với mái ngói
thâm nâu, tường vôi loang lổ, những vòm cây thấp thoáng, giờ được choàng lên sắc
cờ đỏ thắm, và hàng ngàn hàng vạn gương mặt trẻ già, hàng rừng tay cầm cờ hoa
reo vẫy. Và kìa. Liệu tài Vỹ có nghe nhầm không? Đúng là bài trường ca
"Sao ơi" của nhạc sĩ Đường Thanh phổ nhạc bài thơ của Vỹ. "Máu
tuôn trào đỏ ngợp trời như sóng/ Búa liềm ơi, vàng rực, sao sao oi!" Trời
ơi! Thơ của Nguyễn Kỳ Vỹ đang ngân reo giữa lòng Hà Nội. Một tốp các nghệ sĩ vừa
nam vừa nữ, complê, áo dài đủ mầu, đàn ắccoócđêông, đàn ghita, đàn măngđôlin…
đang hát vang trường ca "Sao ơi" Bài hát đang đến đoạn cao trào, bỗng
vang lên những loạt súng từ trên tầng thượng một ngôi nhà. Vỹ ngước nhìn lên.
Anh chợt nhận ra một cậu bé tóc rối bù, cao gầy và đen trũi
đang vừa chĩa khẩu súng ngắn lên trời xiết cò, vừa vẫy vẫy tay như cười riêng với
Vỹ. Cậu bé ấy chinh là Lê Đoàn, bạn của Nguyễn Kỳ Vọng.
Khi đoàn quân hành tiến vào khu phố cổ Hàng Bông, Hàng Gai
thì Vỹ bỗng gặp sự cố. Mấy trăm ngày đêm quen đi dép cao su quai hậu, giờ được
xỏ chân vào đôi giày xăng đá chiến lợi phẩm, cổ chân phải của anh bị giày xiết
vào đau rát.
Rồi, như trớ trêu, một viên sỏi từ đâu lọt vào đế giày chân
trái, khiến mỗi bước đi viên sỏi lại xiết vào gan bàn chân buốt nhói. Không thể
dừng lại buộc lại giày, vứt hòn sỏi, đành cố nhịn đau bước hùng dũng trong
hàng. Gồng người chịu đau để không ai biết. Gần đến Hồ Gươm phố phường càng như
tắc nghẽn lại. Đồng bào từ hai bên hè ùa tràn cả xuống phố. Hàng trăm máy ảnh,
máy quay phim xông ra đón đầu. Hoa từ trên gác hai, gác ba, từ tầng thượng các
mái nhà rắc xuống. Hoa từ tay các em bé, các thiếu nữ ùa ra trao vào tay các
chiến sĩ.
Trong hàng người ken đặc, Vỹ bỗng chú ý đến một thiếu nữ.
Nàng dịu dàng trong bộ áo dài màu trắng tinh khôi, tóc thề xoã vai. Lạ kỳ thay,
Vỹ bỗng quên cả đôi chân đau. Anh nhìn người thiếu nữ không chớp mắt. Có ai đó
khẽ đầy sau lưng nàng, hay một động lực nào thôi thúc, nàng bỗng băng từ bên hè
đường đến trước Vỹ, trao cho anh bó hoa lay on trắng muốt.
Như bị thôi miên, Vy đứng sưng lại. Anh chỉ kịp đưa tay đón lấy
bó hoa và nhận ra một gương mặt kiều diễm với đôi mắt to đen choáng ngợp. Hình
như trong giây phút, những ngón tay anh như chạm vào tay nàng. Một luồng điện bỗng
truyền thẳng vào tim, làm trống ngực Vỹ đập loạn xạ. "Ôm hôn đi!" có
tiếng một cậu lính trẻ nào đó từ phía sau. Rồi những tiếng lao xao: "Đẹp
quá! Thiếu nữ Hà Nội!"… Vỹ chớp mắt như trong chiêm bao. Thoắt cái, nàng
đã quay đi, cắm đầu chạy.
- Em tên gì?
Vỹ bỗng thốt lên, những âm thanh như bật ra từ vô thức. Chính
anh cũng không biết mình gọi nàng hay trái tim anh bật gọi.
Nàng vụt quay lại, trước khi hoà vào đám đông, bàn tay thon mềm
như búp hoa che ngang miệng:
- Em là… Đào… Trinh… Khiêm…
°°°
Nàng mất hút trong đám đông, nhưng cái tên nàng thì thánh
thót ngân vang trong hồn Vỹ tựa hồ như có một tiếng chuông nào thả từ trời cao,
từ gió thu, nắng thu lấp lánh sặc mau. Đào Trinh Khiêm. Lần đầu trong đời, Vỹ
nghe thấy một cái tên thiếu nữ đẹp và kỳ diệu đến thế.
Ngay đêm đó bài thơ Vỹ viết tặng riêng Khiêm, đã được hoàn
thành. Vỹ viết trong một cảm xúc tuôn trào, ào ạt. Cả một ngày đầy ắp không khí
phố phường với đoàn quân chiến thắng hùng dũng đi giữa rừng cờ hoa, rừng người,
với ào ạt gió thu, nắng thu, cứ tràn về, ùa về réo gọi từng con chữ. Tất cả
khung cảnh phố phường, con người, trời đất ấy đã tạo nền cho bức tranh sơn dầu
hoành tráng đầy sắc màu ấn tượng. Và điểm nhấn duy nhất, nhãn lực của bức tranh
ấy là gương mặt thánh thiện, kiều diễm của Đào Trinh Khiêm. Lần đầu tiên trong
đời, Vỹ gặp một người con gái như Khiêm. Suốt những năm đi học trường huyện, và
ba năm đi kháng chiến nhưng chưa bao giờ Vỹ có cảm giác yêu. Hồi viết bài
thơ "Sống" có một cô Mai cùng làng cũng làm Vỹ bâng khuâng,
và anh có nghĩ tới nàng; nhưng đó chỉ là một cái cớ để anh làm thơ. Rồi ngày ở
Sơn Dương làm báo Vệ quốc, cô gái Tày, Nông Thị Ngần, có đôi mắt đen láy
và lúm đồng tiền trên hai má bánh đúc trắng hồng cũng làm Vỹ xốn xang mấy tuần.
Nhưng rồi, sau lần đơn vị chuyển địa điểm, hình ảnh Ngần cũng phải nhạt dần. Lần
này với Khiêm thì khác hẳn. Dường như đã có sự sắp đặt của tạo hoá. Vỹ lên Việt
Bắc, Vỹ ngủ hầm vượt suối trèo non, cùng các chiến sĩ trải qua 56 ngày đêm chiến
dịch điện Biên Phủ, là để dẫn đến cuộc kỳ ngộ giữa Hà Nội hôm nay. Vườn Thuý là
nơi gặp gỡ trao duyên giữa chàng Kim và nàng Kiều. Còn Hà Nội ngày chiến thắng
là nơi gặp gỡ giữa Nguyễn Kỳ Vỹ và Đào Trinh Khiêm. Cứ liên tưởng như thế là Vỹ
đã thấy xốn xang, đã muốn thêu dệt ra một cuộc tình lãng mạn mà tâm hồn thi sĩ
và óc tưởng tượng của anh không bao giờ có điểm dừng. Vỹ chép nắn nót bài thơ
vào tờ giấy pơluya mỏng tang, ướp nước hoa thơm phức, gấp trong phong bì, đặt
trong túi áo quân phục, đi tìm nàng.
Đơn vị Vỹ đóng trong khu nhà thương Đồn Thuỷ. Đây vốn là khu
nhượng địa của Pháp từ cuộc khai phá thuộc địa lần thứ hai, sau trở thành khu Đồn
Thuỷ, rồi trở thành nhà thương chữa trị cho quân Pháp trong cuộc chiến ở Đông
Dương. Không có xe đạp, tranh thủ ngày nghỉ, Vỹ cuốc bộ ra phố Huế, đón tàu điện
lên Bờ Hồ, rồi đi bộ lên Hàng Gai. Bắt đầu từ dốc Hàng Gai, tim Vỹ bỗng đập
liên hồi. Vết sẹo ở cổ chân phải tái đau, làm anh nhớ lại quang cảnh lúc gặp
nàng. Anh như người đang làm một công việc vụng trộm, chỉ sợ người khác bắt gặp.
Hết nhìn qua phải, rồi lại nhìn sang trái, nhìn trước rồi lại nhìn sau. Không một
thiếu nữ nào qua đường mà anh không dò tìm. Anh nhìn lên các ban công, các cửa
sổ tầng hai, tầng ba. Hôm ấy nàng rẽ đám đông từ bên hè phố kia, chỗ đối diện với
cây đa cổ thụ có những chùm rễ gân guốc áp sát vào bên cửa ngách ngôi chùa cổ.
Nàng cầm bó hoa lay ơn ào ra đường tới trước mặt Vỹ. Rồi nàng lại trở về chỗ cột
điện kia. Tiếng "Em là Đào Trinh Khiêm" nàng thốt lên từ cột điện ấy.
Chị bán hàng tạp hoá bên hè đường với chiếc tủ kính ba ngăn
có bốn bánh xe ở chân đã chú ý tới Vỹ từ mấy buổi nay, giờ thấy Vỹ đi lại quãng
phố tới lần thứ ba, liền đánh tiếng hỏi:
- Anh bộ đội tìm ai?
- Dạ không - Vỹ giật thót người, định tháo từ, nhưng rồi nhận
ra gương mặt phúc hậu của người đàn bà bốn mươi tuổi, anh liền đánh bạo - Chị
ơi, em là bộ đội…
- Tôi biết rồi. Tôi còn nhớ là đã gặp chú hôm đi diễu binh…
- Dạ vâng. Chị có thể giúp em…
- Chú cứ nói. Được giúp bộ đội Cụ Hồ như các chú, việc khó đến
mấy tôi cũng làm…
- Em đang đi tìm một người họ hàng chị ạ - Vỹ nhanh ý bịa ra
một cái cớ để khỏi ngượng.
- Ai? Ở phố nào, nhà số mấy?
- Em không biết số nhà. Chỉ biết ở quãng phố này.
- Cả khu phố này, nhà ai tôi cũng biết. Chú tin tôi đi. Tôi
là Mỹ, bán hàng xén ở đây gần hai chục năm rồi.
- Thế chị có biết cô gái nào tên là Đào Trinh Khiêm không? Một
cô gái chừng mười bẩy tuổi…
- Thế mà cứ vòng vo mãi - Người đàn bà lườm Vỹ một cái rõ dài
- Xinh nhất khu phố này đấy. Cô Khiêm con ông Ký Lạng, người giàu nhất nhì Hà nội
ai mà chả biết. Nghe nói sắp lấy chồng rồi. Con trai ông Đốc tờ Huyên ở Hàng Bè
đang muốn xin cưới rồi dinh tê vào Sài gòn.
Mặt Vỹ bỗng biến sắc. Mấy hôm nay cả đơn vị đang được phổ biến
về chủ trương cải cách nhộng đất, cải tạo tư sản, về âm mưu của Mỹ và tay sai
đang kêu gọi đồng bào giáo dân, các nhà tư sản và công chức xuống khu ba trăm
ngày ở Hải Phòng để di cư vào Nam. Những thiếu nữ như Khiêm rất có thể sẽ biến
khỏi Hà Nội. Sẽ chỉ còn lại công nông binh. Cả Hà Thành sẽ tràn ngập màu áo nâu
thôn dã và màu xanh áo thợ…
- Cám ơn chị… em xin lỗi - Vỹ lắp bắp và toan bước đi.
- Không tìm cô Khiêm nữa à? - Đôi mắt người đàn bà vẫn như
không muốn buông tha chàng bộ đội đẹp trai. - Cô Khiêm không ở phố này. Chú rẽ
vào phố Lương Văn Can, tìm hiệu may Phúc Hoà.
Biết mình đang tìm bóng chim tăm cá, nhưng Vỹ vẫn không thể
điều khiển được bước chân mình. Theo lời chị bán hàng tạp hoá mách bảo, mấy hôm
sau Vỹ tìm đến phố Lương Văn Can. Kia rồi, Hiệu may Phúc Hoà, chuyên comple áo
dài, ở gần giữa phố. Đó là một ngôi nhà ba tầng mái ngói, sâu hun hút, có ban
công chìa ra mặt phố. Sừng sững hai dãy tủ kính hai bên là những manơcanh, với
đủ loại nam và nữ, trắng và đen. Manơcanh nam với những bộ veston đủ loại, mang
đậm phong cách Paris. Manơcanh nữ trong những bộ áo dài màu trắng, màu thanh
thiên, màu hồng và hoàng yến khiến mỗi manơcanh là một cô dâu, một hoa hậu lộng
lẫy nhưng lại đậm nét truyền thống Việt.
Những cư dân ở khu phố cổ Hồ Gươm đều biết rất rõ những hiệu
may áo dài nổi tiếng dọc phố Lương Văn Can, đều có chung một cái tên Hoà phía
sau: Phúc Hoà, Ứng Hoà, Phương Hoà, Hải Hoà, Ngọc Hoà, Thanh Hoà… Hỏi ra mới biết
tất cả những hiệu áo dài này đều là anh em họ hàng do người làng Trạch Xá, Hoà
Lâm, một làng vùng đồng chiêm Ứng Hoà thuộc tỉnh Hà Đông lập ra. Người mở tiệm
comple áo dài đầu tiên ở phố Lương Văn Can là cụ Quản Tập. Cụ có ông nội làm
quan nội y thời vua Tự Đức nên đã nối nghề gia truyền của cha ông để lại. Đến đời
con cụ Quán Tập là ông Ký Trùng thì nghề may cực kỳ phát đạt. Ông Ký Lạng mở rộng
ngành nghề, đưa anh em còn cháu từ Hoà Lâm ra, mua một xưởng dệt kim của Cự
Doanh ở ngõ Cự Lộc và mua nhà mở thêm cơ sở kinh doanh may mặc ở các phố Lê Văn
Hưu, Thi Sách, Hàng Ngang, Hàng Đường cho các con. Con trai cả Ký Lạng là Đốc
Khẩn lại mở tiếp tổng đại lý vải ở phố Huế và xây một Hotel bốn tầng ở gần ga
Hàng Cỏ, tậu một đội xe khách chạy tuyến Hà Đông - Phương Đình. Riêng hiệu may
Phúc Hoà, thương hiệu lâu năm và uy tín nhất, ông Ký Lạng để cho bà Ba Yên với
hai người con là cô tám Đào Trinh Khiêm và cậu út Đào Phan Khánh kinh doanh.
Bà Ba Yên, vợ ba ông Ký Lạng tên đầy đủ là là Phan Thị Hà
Yên, con gái yêu cụ Đốc Phan Quảng, từng giữ chức Bố chánh tỉnh Bắc Giang. Do
dính líu đến cuộc khởi nghĩa Đề Thám, chính quyền bảo hộ buộc chính phủ Nam Triều
bãi chức Phan Quảng. Ông về Hà Nội mở trường dạy học và tham gia phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục, cùng cụ cử Lương Văn Can ngầm tuyển chọn các thanh niên
ưu tú đưa đi du học tại Nhật Bản và trung Quốc. Con trai cụ Đốc, ông Phan Quyến
tốt nghiệp trường sư phạm Đông Dương, vốn ghét Pháp và yêu thích nghề dạy học,
ông vận động em rể và em gái bỏ vốn lập trường tư thục ở gần hồ Thiền Quang đế
dạy trẻ. Ông Ký Lạng, vốn rất yêu bà Ba Yên, nhưng vẫn sợ bà cả, bà hai và các
con ghen tỵ, nhân dịp này bí mật rút một phần vốn ở xưởng dệt kim Cự Lộc, đầu
tư cho bà Ba Yên xây trường. Trường tư thục có tên Đất Việt, gồm 2 tầng 12
phòng dạy hai ca sáng chiều, do bà Phan Thị Hà Yên làm chủ nhiệm, ông Phan Quyến
làm hiệu trưởng.
Trường tư thục Đất Việt ngay từ khi thành lập đã gắn bó thân
thiết với hai chị em Đào Trinh Khiêm. Chính ở ngôi trường của gia đình, với những
thầy cô giáo vốn rất thân thiết với mẹ và bác Phan Quyến, Khiêm cùng cậu em
trai Đào Phan Khánh đã học qua bậc tiểu học. Đến năm lên học trung học, Khiêm
chuyển sang trường nữ sinh Đồng Khánh. Ước mơ lớn nhất của Khiêm là học xong tú
tài, sẽ vào trường sư phạm, để rồi lại theo nghiệp của mẹ và bác Phan Quyến… Với
ý thức như thế, ngày nào sau giờ học ở trường Đồng Khánh hoặc trong những ngày
chủ nhật, Khiêm cũng đến trường tư thục Đất Việt, khi thì giúp mẹ hoàn thiện sổ
sách, học bạ cho học trò, khi thì lên lớp phụ đạo cho các em, hoặc dạy thay giờ
các thầy cô vắng lớp. Khiêm thích đến trường hơn là về hiệu may Phúc Hoà ở phố
Lương Văn Can.
Chiều nay, khi những cơn gió bấc đầu mùa xao xác trên những
hàng cây quanh hồ Thiền Quang, Khiêm bỗng thấy se lạnh. Có thể đó là cái lạnh
tâm lý từ mấy hôm nay, khi ông Ký Lạng cùng bà cả và vợ chồng anh Phán Lục, anh
Tư Khoa cùng con cháu một đoàn hơn hai chục người kéo nhau xuống Hải Phòng đợi
chuyến tàu di cư vào Nam? Chẳng ai dính dáng gì đến nhà thờ Công giáo, ngoài vợ
anh Phán Lục, con dâu thứ hai ông Ký Lạng. Nhưng Phán Lục trước sau rất kiên
quyết.
- Không thể để cả nhà mình chơi canh bạc này với Việt Minh được.
Nhất định rồi sẽ dẫn tới cảnh cộng chồng, cộng vợ, cộng tất cả tài sản thành của
chung. Tin họ rồi có ngày treo niêu cả nút. Ai không muốn đi thì cứ ở lại Hà Nội.
Hai năm sau hiệp thương lại đoàn tụ với nhau thì nhà mình còn đại phúc.
Khiêm và Khánh kiên quyết thuyết phục mẹ ở lại. Bà Ba Yên gạt
nước mắt tiễn ông Ký Lạng cùng các con bà cả, bà hai. Khiêm và Khánh là những
người lạc quan nhất. Thậm chí họ còn chế giễu bố và các anh là những kẻ vong bản
tình nguyện làm tay sai cho Pháp, Mỹ, những kẻ bi quan chủ nghĩa.
Khiêm đạp xe từ trường tư thục Đất Việt về phố Lương Văn Can.
Vừa dừng xe bên hè, bỗng sững người khi nhìn thấy anh bộ đội mặc áo trấn thủ
đang đứng tần ngần bên tủ kính.
Những anh bộ đội, thậm chí từng tốp từng đoàn bộ đội, áo trấn
thủ, mũ nan tre nguỵ trang, trông anh nào cũng hao hao giống nhau với vẻ mặt chất
phác, hơi ngô ngố kiểu thôn quê, thậm chí nhiều khi ngơ ngác như người đồng rừng,
lâu nay với Khiêm quen quá đi rồi. Nhưng anh bộ đội kia có nét gì đó khác hẳn,
làm Khiêm phải chú ý. Trông quen quá. Hình như Khiêm đã gặp anh ở đâu rồi.
Như có luồng điện sau gáy, Vỹ quay lại. Anh muốn kêu lên:
"Đào Trinh Khiêm. Em không nhận ra tôi ư?" Nhưng không hiểu sao, Vỹ cứ
đứng sưng như trời trồng.
Khiêm bỗng bật cười. Nàng vừa đưa tay che miệng vừa chạy vào
chỗ gian bán hàng của người giúp việc.
- Ôi em buồn cười quá. Chị hỏi anh bộ đội kia xem anh ấy đinh
mua gì?
Mặt Vỹ đỏ bừng, rồi khắp người anh bỗng nóng râm ran. Anh
không nghĩ mình lại trở thành lố bịch trước mặt nàng. Vỹ đưa tay lên má, tựa hồ
như anh vừa có một vết nhọ.
Thoắt cái, Khiêm đã lên trên gác rồi nàng xuống cầu thang với
chiếc áo len màu hoàng yến và tấm khăn van trắng muốt. Biết mình vừa đùa anh
chàng bộ đội kia một cách quái ác nàng cố làm ra vẻ nghiêm trang.
- Dạ, anh cần may comple hay muốn gặp ai ạ?
- Cô là… Đào Trinh Khiêm… - Vỹ bấm thật đau vào tay mình, giọng
nghiêm trang.
- Dạ. Sao anh biết tên em?
- Có người tìm cô Khiêm suốt hai tuần nay.
- Vì việc gì thế anh?
- Để nhờ tôi gửi một lá thư - Vỹ lấy từ trong áo trấn thủ bì
thư anh đã dán cẩn thận - Người ấy nói sẽ rất sung sướng nếu cô vui lòng… và
mong nhận được hồi âm sớm.
Tay Khiêm bỗng run bắn khi nàng chạm vào lá thư. Nàng có cảm
giác như đó là một trái bom hẹn giờ. Nó sẽ nổ bất cứ lúc nào. Nó có thể làm cho
trái tim nàng ngừng đập hoặc nổ tung xác pháo.
MÙA THU HÀ NỘI
Tặng Đ.T.K
Em choàng lên vai Mùa Thu Hà Nội
Cả kinh thành lộng lẫy sắc cờ hoa
Tên em ngân giữa trời cao xanh thẳm
Gieo vào hồn anh khúc tình ca.
Anh mang Việt Bắc về đây, ơi Hà Nội
Ròng rã chín năm gối súng ngủ hầm
Rượu Hồ Gươm chỉ soi mà không uống
Đủ làm say nghiêng ngả trăm năm.
Anh muốn ôm cá phố phường Hà Nội
Những Đồng Xuân, Cầu Gỗ, Hàng Đào
Ao dài ơi, cứ thướt tha như nắng
Đừng để anh lẫn thực với chiêm bao…
Khiêm ấp bài thơ trong lần áo ngực, bên trái tim mình. Rồi
nàng ép vào giữa cuốn sổ nhật ký, chốc chốc lại mở ra, mắt mở to nhìn vào giữa
những dòng chữ, như đọc được điều gì ở đó Nàng không thể tưởng tượng rằng tác
giả của bài thơ viết tặng nàng lại chính là người nổi tiếng như cồn với bài
thơ"sống và tập thơ "Thời của Thánh Thần" mà suốt cả năm học
qua, bọn nữ sinh trường Đồng Khánh của nàng đã chuyền cho nhau đọc và chép tập
thơ đến nhàu nát. Nàng là gì mà con người nổi tiếng và khá bảnh trai ấy lại tự
mình viết hẳn một bài thơ rồi cất công tìm đến tận nơi để tang - Khiêm ghi vào
nhật ký:
Ngày 24 tháng 10
Mình đến chết mất vì quá sung sướng, hạnh phúc. Anh như tia
chớp vụt loé trong cuộc đời mình. Bài "Mùa Thu Hà Nội" như một trái
bom làm nổ tung mọi dự định, toan tính.
Quả nhiên, mình quyết định cùng mợ và em Khánh ở lại Hà Nội
là sáng suốt. Hôm qua cậu nhắn tin lên là tàu đã rời Hải Phòng. Bao giờ thì vào
đến Sài Gòn Cuộc chia ly này dài hai năm hay bao nhiêu năm. Mình ở lại Hà Nội
chính là để có cuộc kỳ ngộ này chăng? Kỳ lạ thật. Mình như đoán biết trước có
người đang đón đợi. Chính là anh đấy. Anh thực sự là một hiệp sỹ hào hoa. Khối
đứa phát ghen với mình mất. Tuấn còi mà đứng cạnh anh thì có khác gì gã hầu
phòng bên chàng Nam tước. Mợ ơi, đừng bắt con phải gắn bó cuộc đời với gã ký
còm bần tiện ấy. Giàu có mà tâm hồn trống rỗng thì thật thảm hại. Bây giờ đã
khác rồi. Không còn là thời của kẻ giàu. Đây là thòi của lý tưởng. Cả trường
lúc nào cũng ngâm thơ Tố Hữu: "Ơi anh vệ quốc quân. Sao mà yêu anh thế".
Cả trường đang dấy lên phong trào yêu và lấy bộ đội. Thương binh cũng lấy. Buồn
cười quá. Cái Oanh nó khoe dì nó đang làm mối cho nó một thương binh hỏng mắt.
Nó bảo mấy hôm nay nó đang tập dắt người mù qua đường. Trông nó làm điệu bộ dắt
anh thương binh, cười đến thắt ruột.
Ngày 29 tháng 10
Anh lại mang đến tập thơ "Thời của Thánh Thần" với
lời đề: "Tặng Kh, thời của em". Anh bảo: "Lẽ ra phải tặng Khiêm
tập thơ này từ hôm mới gặp. Nhưng không còn sách. Phải đi lùng mua mấy ngày.
Mua ở hiệu sách cũ, đừng chê nhé". Tế nhị và hào hoa đến thế là cùng. Mình
tiễn anh. Hai đứa đi dọc Bờ Hồ. Có bao nhiêu điều muốn nói mà sao lúc ấy mình
ngố và đần đến thé. Anh đọc một câu của Jacques Prévert: Et il est parti / Sous
ỉa pluie/ Sans une parole/ Sans me regarder/Et moi j'ai pris/ Ma tête dans ma
main/ Et j'ai pleuré(1). Mình tròn mắt kinh ngạc và kính nể. Giọng Paris rất
chuẩn. Anh muốn mượn câu thơ ấy để nói hộ lòng mình.
Ngày 17 tháng 11
Gần mười ngày nay không thấy tin tức gì của anh. Muốn phát
điên lên. Suốt ngày mong ngóng, đờ đẫn như đứa mất hồn. Mình là con bé đần nhất
trên đời. Sao không hỏi địa chỉ của anh. Chỉ sợ người ta bào là cọc đi tìm trâu
cơ. Sĩ diên dởm. Bây giờ thì tìm anh ở đâu? Có lúc mình như một con ngố đi tha
thẩn trước khu nhà thương Đồn Thuỷ, gặp anh bộ đội nào cũng nhòm như đi bắt kẻ
cắp.
Vẫn biệt tăm. Hay anh bị tai nạn Hay cô ả nào đã cuỗm anh đi?
Trời ơi, con ngố. Mày yêu mất rồi.
Chú thích:
(1) Rồi người đi/ Dưới trời mưa/ Chẳng có một lời / Chẳng
nhìn tôi / Còn tôi / Bưng đầu trong tay/ và bật khóc
Chương 7
cưới chạy
Phúc cho người từ trong quê ra tìm Vỹ và Chiến Thắng Lợi. Bà
Đồ Kha ốm nặng, khó qua khỏi.
Vỹ vừa thu xếp xong đồ đạc quần áo cho vào ba lô thì Chiến Thắng
Lợi đi xe commăngca đến. Anh lái xe trẻ măng, có vẻ kiêm cần vụ, vì có súng ngắn
đeo bên sườn. Trên xe có cả Là, vợ Lợi, lúc ấy đã có mang đến tháng thứ ba.
Chuyện Chiến Thắng Lợi lấy vợ, mãi sau ngày tiếp quản Thủ đô
anh em gặp nhau, Vỹ mới biết. Hoá ra đó cũng là một đám cưới chạy. Trước khi cơ
quan Lợi rục rịch chuyển từ Sơn Dương về Hà Nội, anh em phải đứng ra tổ chức cưới
gấp.
- Lúc ấy chú còn đang phỏng vấn tù binh ở mãi bên Sơn La. Có
báo chú cũng chẳng sang dự được - Lợi nói với Vỹ hôm giới thiệu hai chị em với
nhau và cố tình xuê xoa câu chuyện. Đám cưới thời chiến, tổ chức được như thế
là tốt lắm rồi. Với lại thầy từng dạy chúng mình: "Thê thiếp như y phục"
vợ chỉ là cái áo thay hàng ngày. Sự nghiệp mới là mục đích của đấng nam nhi.
Là không đẹp, nhưng rất đàn bà. Con gái Tày da trắng bóc, mặt
tròn, má bánh đúc đỏ hây hây như lúc nào cũng vừa từ bếp lửa ra. Là là con gái
út ông Ma Kin Siu, chủ nhà cơ quan Chiến Thắng Lợi đến ở nhờ thời kỳ chuyển từ
Đại Từ sang.
Liếc thấy Lợi, Là đã tít mắt. Cũng phải thôi. Đẹp trai, cán bộ
triển vọng, lại chưa vợ, Lợi như miếng mỡ ngon luôn treo trước miệng các ả mèo.
Khối bà nạ dòng bờm xơm tán tỉnh, nhưng Lợi chẳng dại. Bài học với Cam lúc nào
cũng như cành cây cong, khiến con chim Chiến Thắng Lợi luôn cảnh giác. Có chết
thì chết ở biển cả chứ đừng có chết ở ngòi khe. Cho nên, mới chuyển đến ở ngày
thứ hai, Lợi đã tăm thấy ngay cái vòng mông nở, đôi bắp chân trắng nõn và bộ ngực
lúc nào cũng như ấn vào mắt người ta. Tiếp đến mới là đôi mắt. Đôi mắt một mí,
dài có đuôi, đa tình một cách lộ liễu không cần giấu giếm. Đôi mắt ấy chết đứ đừ
khi gặp mắt Lợi thôi miên.
Kỷ luật trong khu ATK tất nhiên là rất nghiêm ngặt, nhưng dù
tai mắt của tổ chức tinh tường đến đâu, cũng không thể kiểm soát được tất cả
núi rừng, khe suối, hang động trong vùng. Trai gái đã thích nhau, trời cũng chẳng
ngăn được. Lợi ngủ với Là thật dễ dàng. Vừa đụng vào người, Là đã ngã lăn ra thảm
lá dày dưới vòm tre trúc dày đặc. Từ đó, tuần nào Lợi cũng hẹn gặp Là một lần.
Là ham tới mức nhiều khi bỏ cả việc nhà sang nấu cơm cho bếp cán bộ để đợi Lợi
rủ ra rừng. Có lần Lợi đi công tác vắng, Là còn tìm cách đón đường ngay từ lúc
Lợi mới về đến con suối đầu bản.
Cho tới khi tin chiến thắng Điện Biên Phủ truyền đi, hiệp định
Giơnevơ lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, các cơ quan Chinh phủ chuẩn bị
về Thủ đô, thì một hôm ông Ma Kin Siu tìm gặp thủ trưởng cơ quan Lợi, với vẻ mặt
đầy nghiêm trọng.
- Hoà bình rồi, các cán bộ về xuôi thì tốt rồi. Nhưng anh Chiến
Thắng Lợi thì không về được đâu.
- Vì sao thế bác? - Thủ trưởng của Lợi, đồng chí Lê Công Trạng,
một người chín chắn và điềm đạm, ngạc nhiên hỏi.
- Tưởng anh Lợi phải báo cáo với thủ trưởng rồi chứ?
- Chuyện riêng tư của mỗi người, tổ chức chúng tôi luôn tôn
trọng - ông Trạng như phần nào đã hiểu ra.
- Không được đâu. Anh Lợi định chạy làng là không tốt đâu! Mấy
hôm nay cháu Là nhà tôi khóc sưng cả mắt. Nó lo anh Lợi bỏ về Hà Nội, không ai
nuôi con nó.
Ông Trạng hiểu ra sự việc nghiêm trọng.
- Tôi hiểu rồi. Bác bình tĩnh lại đi. Cơ quan chúng tôi sẽ
thu xếp việc này.
- Phải giải quyết trước khi các đồng chí về tiếp quản Thủ đô
chứ.
- Tất nhiên rồi. Để chúng tôi sẽ bàn với đồng chí Lợi. Đơn vị
sẽ thay mặt gia đình đồng chí Lợi có lời với hai bác cùng gia đình và cô Là.
Những nếp nhăn trên gương mặt ông già người Tày giãn hết cả
ra.
- Có thế chứ. Phải tổ chức cưới đàng hoàng chứ. Tôi sẽ cho
con gái tôi cùng về Hà Nội, báo cáo với đồng bào…
Thấy bố Là sang gặp thủ trưởng cơ quan, Chiến Thắng Lợi đoán
ngay được câu chuyện. Không để rơi vào thế bị động, ngay sau khi ông Siu về, Lợi
đã mở chiếc hòm bằng gỗ nghiến nặng trịch như két sắt, có bộ ổ khoá bé xíu
nhưng rất chắc chắn, moi từ dưới đáy cùng lên chiếc mật gấu khô và hai lạng cao
hổ, tần ngần ngắm nghía một lúc, rồi tặc lưỡi, đút túi, đi tìm gặp ông Trạng.
Với vẻ mặt khổ não của một kẻ tội đồ luôn ăn năn, dằn vặt, Lợi
đã báo cáo hết với ông Trạng mối quan hệ của anh với Là.
- Báo cáo anh… Thực tình em luôn coi anh như hàng cha chú.
Anh dạy bảo mắng chửi em là giúp em nên người. Chuyện của em với Là, cũng là
khuyết điểm của tuổi trẻ…
- Ờ cái cậu này, hay nhỉ? Yêu nhau sao lại gọi là khuyết điềm?
Trai chưa vợ, gái chưa chồng, yêu nhau ai có quyền cấm nào?
- Dạ, nhưng…
- Nhưng có điều, cô cậu yêu đương quá đà. Có thể xếp vào tội
hủ hoá. Cậu lại là người của tổ chức, tức là đã xa rời lập trường quan điểm
giai cấp, vi phạm đạo đức cách mạng. Mười điều răn "Đạo đức Cách mệnh"
cậu nhớ không?
- Dạ thưa anh, em nhớ. Năm là xa lánh tà dâm…
- Tà dâm chó gì? - ông Trạng bật cười - Cô cậu yêu đương quá
đà chứ không phải tà dâm. Lẽ ra phải báo cáo tổ chức. Tức là tớ phải biết trước,
chứ không phải đợi đến bây giờ cô Là ễnh bụng ra mới đến báo cáo. Tội của cậu
là tội lừa dối tổ chức. Nếu cấp trên biết, nhẹ nhất là khai trừ, ghi lý lịch,
đuổi về quê… - ông Lê Công Trạng bắt đầu thấy sốt ruột. Vừa nói, ông vừa nhìn
xoáy vào bàn tay Lợi cứ thập thò mãi trong túi áo.
Lợi thấy lạnh toát xương sống. Khép vào tội hủ hoá, lừa dối tổ
chức là ăn cứt rồi. Hoặc là anh sẽ bị ghi lý lịch, tống cổ về quê. Hoặc là anh
cứ việc cưới vợ, sinh con đẻ cái, rồi anh hãy ở lại đây chờ cho đến khi Kinh
già hoá Thổ. Chúng tôi sẽ về Thủ đô, còn anh chị cứ ở lại với núi rừng nhé.
Tự dưng hai hàng nước mắt Lợi rơi lã chã. Lợi đã tiên lượng
thấy bao điều khủng khiếp sẽ diễn ra nếu Lợi không nhanh tay tự cứu mình. Không
chút chần chừ, anh rút cái mật gấu khô và hai lạng cao hổ cốt, phù phục quỳ xuống,
đặt trước mặt ông Trạng.
- Cái gì thế? Cậu đừng làm thế. Đứng dậy đi - ông Trạng đưa
hai tay đỡ Lợi dậy, vờ như ngạc nhiên - Đồ sính lễ để tổ chức cưới phải không?
- Dạ không. Em đã chuẩn bị cho lễ cưới rồi, nhưng còn chờ xin
ý kiến anh. Đây là chút lễ mọn kính anh. Cao hổ cốt với mật gấu này đều là của
thật ở rừng thượng nguồn sông Gâm. Gọi là có chút quà, sắp tới anh đem về quê
biếu các cụ…
- Thằng này vẽ chuyện - ông Trạng cười xoà, lấy tay đẩy gói
quà - Vấn đề của cậu bây giờ là phải chuộc lỗi với tổ chức, lấy lại lòng tin
trong quần chúng nhân dân. Sắp chuyển về tiếp quản Thủ đô rồi, phải giữ hình ảnh
người cán bộ kháng chiến sao cho đẹp.
- Dạ thưa, đó cũng là mục đích của em hôm nay. Em đến báo cáo
anh, xin anh, xin cơ quan cho chúng em tổ chức cưới.
- Cậu không muốn, chúng mình cũng bắt cậu phải cưới - Vừa
nói, ông Trạng vừa thản nhiên cầm gói quà đút vào túi - Không cưới thì dân người
ta ỉa vào mặt, mà đơn vị mình cũng mất sạch danh hiệu thi đua. Bản thân tớ có
thể cũng bị cảnh cáo khai trừ…
Đám cưới Lợi - Là được tổ chức gấp rút ngay sau đó. Một đám
cưới đời sống mới, nhưng cũng phải thịt hai con lợn và mấy chục con gà. Vừa cưới,
vừa tổ chức chia tay với đồng bào nơi chiến khu cách mạng.
Là là người đàn bà ruột để ngoài da, phúc hậu và tốt bụng. Chị
coi vừa lấy được Lợi vừa được về ở giữa Thủ đô là diễm phúc lớn của đời mình.
Chỉ có điều Là hơi buồn và ngượng với Lợi: tưởng có chửa, hoá không phải. Chậm
kinh hai tuần, nhưng rồi máu lại ra ồ ồ. Có lẽ do Lợi khoẻ quá, từ hôm báo cáo
ông Trạng, công khai với thiên hạ rồi, ngày nào cũng như giã giò thai nào mà trụ
được?
Mấy tháng về Hà Nội, phải thay đổi nơi ở vài ba lần, Là vẫn
ngoan ngoãn ôm đồ đạc đi theo chồng. Chị chăm sóc, phục vụ Chiến Thắng Lợi như
một con sen mẫn cán, chẳng bao giờ kêu ca, phàn nàn. Hơn Vỹ một tuổi, nhưng Là
lại luôn xưng em với Vỹ. Vỹ bảo:
- Không được xưng hô như thế. Gia đình mình nề nếp, gia giáo
ít tuổi nhưng ở bậc trên vẫn là chị. Chị cứ gọi như thế, về nhà thầy u biết, mắng
em đấy.
- Nhưng trông anh Vỹ người lớn lắm, xưng chị ngượng chết - Là
sửa mấy gần, nhưng vẫn không quen.
°°°
Đã một năm nay sức khoẻ cụ bà Đồ Kha sút hẳn. Cụ phát bệnh từ
cái đêm Việt Minh đánh bốt làng Động.
Trước đó năm ngày, do đã được cơ sở ta báo trước, nên ông bà
Lý Phúc cùng bé Hậu đã tản cư trước lên nhà ông Chánh tổng Thiện ở làng Nghi
Sơn đầu huyện. Thuyết phục mãi, nhưng cụ Đồ Kha nhất định không đi tản cư. Đành
phải để Cục ở lại trông bà.
Nửa đêm hôm sau, du kích bao vây đồn. Cuộc chiến kéo đài hơn
năm tiếng đông hồ. Đích thân đồn trưởng Trương Phiên chỉ huy một đại đội lính
Âu Phi và hai đại đội lính địa phương quân chống trả điên cuồng. Lô cốt xây bằng
gạch bị giật đổ, chúng kéo vào trong đình tứ thủ. Ngôi đình trở thành một pháo
đài vững chắc. Đã có lúc địch đánh nống ra tận dãy giao thông hào xóm Am, đánh
bật Việt Minh ra cuối làng. Nếu quân tiếp viện từ bốt Phủ xuống kịp, có thể
tình thế của Việt Minh sẽ bị lật ngược lại. Trận chiến càng về cuối càng quyết
hệt. Đã có trận giáp lá cà giữa những người cảm tử với lính Âu Phi. Đạn
moocchiê, súng trung liên, lựu pháo… bay chiu chíu qua đầu hai bà cháu. Tiếng
loa địch vận, giọng nữ rất trong và vang, đề nghị anh em binh lính đầu hàng đế
tránh thương vong, chốc chốc lại lẫn trong tiếng lóng. Rồi có tiếng xe xích sắt,
xe cam nhông chạy rầm rập. Không biết quân tiếp viện từ bốt Phủ xuống hay
Trương Phiên đang mở đường máu thoát thân.
Đến gần sáng thì quân Pháp chạy thoát khói đình làng Động. Cả
làng đang hả hê háo hức ra đình thu chiến lợi phẩm, thì bỗng nghe những tiếng nổ
khủng khiếp. Tiếng nổ của những gói bộc phá lớn. Thì ra du kích sợ lính Pháp từ
bốt Phủ điều xuống tái chiếm lại, nên đã đặt bộc phá giật đổ ngôi đình. Ngôi
đình dọc, thường gọi là đình Đụn, chứ không phải đình ngang như mọi nơi, bốn
mái đầu đao cong vút, những dãy cột lim to hai người ôm, những bức trạm trổ kỳ
công và tinh xảo…, công trình kiến trúc, văn hoá, lịch sử của làng Động, vào loại
to và đẹp nhất huyện, bị phá huỷ.
Nằm bẹp dưới hầm bí mật, bà cụ Đồ Kha không bị mảnh đạn nào,
cũng không hề bị sức ép của đạn pháo, nhưng gần trưa, khi thằng Cục từ đâu về
mang theo một khẩu súng lục, hai hộp bánh bích quy chiến lợi phẩm, rồi nó hí hửng
mô tả chiến thắng của quân ca, mô tả quang cảnh ngôi đình Đụn bị bộc phá đánh sập…
thì bà cụ Đồ bỗng ngất xỉu. Suốt từ đó, bệnh cụ Đồ ngày càng trầm trọng.
Khi cụ Đồ Kha trở bệnh, mạch có lúc lặn, không tìm thấy, ông
Lý Phúc thường nghĩ nhiều đến những công việc hậu sự. Ông mang lá số của Cục ra
nghiền ngẫm nhiều đêm. Rồi để kiểm chứng những điều tiên cảm của mình, ông cầm
lá số tử vi của Cục đến nhà cụ Nhiêu Biểu.
- Thưa cụ, từ hôm bà cụ tôi ốm nặng, tôi cứ nghĩ mãi về lá số
của thằng cháu Quặc…
- Tôi biết rồi, bác có nhớ tôi đã nói với bác về thằng bé này
từ hồi bác nhờ tôi lấy lá số cho thằng ba Vọng không? - Cụ Nhiêu Biểu đưa tay bấm
độn, nói chậm rãi - Từ hồi có thằng Quặc, cài thế thần triệt của hai thằng anh
nó đã bị phá. Nó là phụ nhìn lại gánh phần chính, là thứ nhưng lại làm việc trưởng.
Người xưa có nói "Phu hiếu giả, thiên kế nhân chi chí, thiên thuật nhân
chi sự giả dã", là vận đúng vào lá tử vi của cậu Tư Quặc. Cậu này sẽ biết
thừa kế chí khí của cha anh, nối sự nghiệp dòng họ. Năm nay cậu này phải lấy vợ.
Ông Lý Phúc giật mình.
- Tôi đang muốn thưa chuyện với cụ về việc này. Quả là không
có việc gì qua được mắt cụ. Bà cụ nhà tôi chắc không qua khỏi. Không cưới đợt
này cho cháu thì phải đợi ba năm nữa.
- Bác nghĩ thế là phải. Thằng Quặc lớn lắm rồi. Bác còn nhớ hồi
đầu năm tôi nói với bác về lời sấm của cụ Nguyễn Tiên Điền viết trong Truyện Kiều
không? "Tông đường chút chửa cam lòng. Cắn răng bẻ một chữ đồng làm
đôi". Câu sau ứng với câu thứ 1954, một câu sấm thớt tài tình. Năm nay có
đúng là năm Giáp Ngọ 1954 không? Cái chữ đồng bị bẻ làm đôi không chỉ ứng với
nước mình, mà ứng với cả mọi nhà! Rồi bác cứ nghiệm lời tôi mà xem. Chữ đồng bị
bé đôi tức là bất đồng, dị đồng. Tan tác, ly tán không chỉ bắc nam, mà ngay từ
trong mỗi nhà, ngay giữa cha con, anh em, vợ chồng. Cho nên nếu tụ được, hợp được
thì chớ có bỏ lỡ cơ hội. Tôi xem ra, bà cụ nhà yếu lắm. Bác tìm vợ cho thằng Quặc
dịp này là thuận!
Nghe lời cụ Nhiêu Biểu, ông Lý Phúc về bàn với vợ, đánh tiếng
xin hỏi cô Bính con ông Phó Bùng trên làng Nguyễn cho Cục. Cô Bính hơn Cục hai
tuổi, cao kều, da bánh mật, không xinh nhưng chắc khoẻ và rất hay làm. Mười tám
tuổi, nhưng hình như Bính trốn tuổi dậy thì, người cứ khô như con cào cào trước
sau như một, chẳng thấy mông thấy vú gì. Bọn thanh niên trong xã thường gọi là
Bính cào cào, để phân biệt với các Bính khác. Trai gái Phương Đình có tục tảo
hôn. Mười ba, mười bốn đã lấy chồng lấy vợ khắp lượt. Mười sáu, mười bẩy đã con
bồng con bế. Tuổi như Bính mà vẫn chưa có người rước tức là ế. Bù lại, gia đình
ông Phó Bùng lại rất căn bản. Ông Bùng từng có thời làm Phó hội trong làng, có
nhà ngói cây mít, con cái khuôn phép, gia giáo. Suy đi tính lại, ông bà Lý Phúc
không thấy đám nào hơn. Ông Lý ướm hòi Cục:
- Thầy u muốn cưới vợ cho con, ý con thế nào?
Cục nghênh bên tai lành lắng nghe, rồi bảo:
- Con đợi các anh Khôi, anh Vỹ, anh Vàng cưới trước. Với lại
người ngợm con thế này, ai lấy?
- Các anh con đều có phúc có phận, kệ các anh ấy. Thầy đã nhắm
rồi. Cô Bính, con ông Phó Bùng ở làng trên, có ưng không?
Cục mường tượng ngay ra Bính cào cào từng đi mót lúa non với
Cục mấy lần dưới cánh đồng Bói. Cao thế mà lần nào lội xuống đồng, Bính cũng xắn
quần tới bẹn. Trông gầy ngẳng mà đùi trắng và to ra phết. Y nghĩ ấy khiến Cục mặt
đỏ tía tai, ngượng ngùng gãi đầu.
- Nhưng mà chị Bính hơn tuổi con.
- Gái hơn hai, trai hơn một. Cô Bính tuổi Tý, con tuổi Dần, đẹp
đôi lắm.
Cục lại chợt nhớ đến lần đi xem chèo ở chợ Mới. Bính cao, lại
đứng ở trên, che hết cả sân khấu. Cục cao hơn cả Bính, nhưng vẫn phải cố chen
lên, chen mãi, tới lúc thấy mình đụng phải Bính. Bất ngờ đũng quần của Cục cứ
căng ra. Lặng lẽ, Bính chổng mông đẩy lại. Cứ đùn đẩy như thế một hồi, cả hai,
đũng quần đều ướt đầm đìa, thích quá, chẳng cần xem nữa.
- Dạ, tuỳ thầy u - Cục nói nhanh, sợ ông Lý Phúc đổi ý - Thầy
u đặt đâu thì con xin ngồi đấy.
- Thầy không ép. Như vậy là con đồng ý rồi nhé. Cưới nhau rồi
nếu thích ở riêng, thầy u cho hai vợ chồng cái nhà ngang, cho bẩy sào ruộng
trên hai thửa ở cánh đồng Giục và cánh Cửa Ao, với con nghé hoa…
- Con không ở riêng - Cục chối đây đẩy - con phải ở với thầy
u để còn chăm bà và em Hậu.
- Thôi được. Cứ lo xong vợ đi đã. Con Bính tuổi Bính Tý. Chuột
vàng đấy con ạ.
Ông bà Lý nhờ người đánh tiếng. Ông bà Phó Bùng lập tức phát
tín hiệu đồng ý. Được làm thông gia với dòng họ Nguyễn Kỳ thì đanh giá quá. Cậu
tư Quặc tiếng là con nuôi nhưng chẳng khác gì con đẻ. Tuy khuyết tật một tí
nhưng trông khôi ngô sáng sủa, lại chịu khó hay làm. Con mình quá lứa lỡ thì,
được vào nhà ấy khác nào chuột sa chĩnh gạo. Ông Phó Bùng bảo với vợ như thế để
quán triệt mà dạy bảo con gái.
Lễ vấn danh được gấp rút tiến hành. Nhà gái thách cưới thế
nào, cần bao nhiêu lễ, thủ tục ra sao… tất tật mọi yêu cầu nhà trai chấp thuận
cả. Đây là chủ ý của ông Lý Phúc, bởi ông nghĩ cưới chạy không có nghĩa là cưới
chui, lấy cớ để làm ăn chớt chát. Với lại ông muốn để làng xóm biết rằng, ông
không phân biệt con nuôi con đẻ, rằng, nếu mẹ ông có mệnh hệ nào thì bà cụ cũng
được mát lòng vì đứa cháu nội cụ đã yên bề gia thất.
Vợ chồng anh em Chiến Thắng Lợi về đến nhà, thì cụ bà Đồ Kha
đang hôn mê. Ông Lý Phúc hầu như không lúc nào rời mẹ. Bao nhiêu vị thuốc tốt
nhất, đắt nhất, ông đã cắt cho bà eụ. Những ngày này ông phải dùng đến nhân sâm
để phục dưỡng, kéo dài thời gian hưởng thọ cho mẹ và cũng là để chờ mấy thằng
cháu đích tôn.
Chưa bao giờ làng Động đón những đứa con về làng trên một chiếc
xe commăngca oách đến như thế. Từ thượng cổ đến giờ chưa một người làng Động
nào có ô tô hoặc được ô tô rước về làng. Nếu kể đến một người sang nhất làng là
ông Nghè Đặng Dụng Chu, đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân khoá thi triều Lê, năm Bính
Thân 1776, có tên ghi ở bia Văn Miếu Quốc Tử Giám, thì hồi ấy ông Nghè cũng chỉ
vinh quy bái tổ bằng kiệu và ngựa, chứ làm gì có ô tô như thế này. Thế cho nên,
xe về đến chợ Mới là trẻ con đã xúm đen đặc, như đàn kiến bu quanh con mồi.
Đích thân Cục và thằng Ngạnh vẩu phải dùng roi tre quất đen đét vào đít vài đứa,
chúng mới chịu giãn ra để xe đi. Còn cách Nguyễn Kỳ Viên chừng hai
trăm mét thì lại tắc đường. Hầu như cả họ, cả làng cùng mang gỗ ván ra bắc qua
một chỗ tát nước cho xe vào nhà.
Người ta bàn tán râm ran:
- Họ Nguyễn Kỳ có phúc lớn. Cả hai người con ông Lý Phúc đi
kháng chiến, vào sinh ra tử trăm trận mà đều không có dính mũi tên hòn đạn nào
nhé. Ông Hai Bồng cũng hai người con đi bộ đội thì một người nằm lại ở Điện
Biên Phủ. Bà Cả Choắt có mống con độc nhất thì ngoẻo cú tỏi ở mặt trận Đông
Khê. Ông Giáo Điển đến ngày hoà bình rồi còn bị mìn tiện đứt một chân…
- Ông bà Lý Phúc kỳ này mát mặt với làng nước. Đi hai về ba,
một lúc có tới hai người con trai làm quan to trên Trung ương người nào cũng
đeo súng ngắn sệ đít. Mà cái anh cả. Khôi thật khéo chọn vợ. Rõ dáng bồ cu chân
nhện. Da trắng như trứng gà bóc. Đàn bà to vú nở mông. Vừa biết chiều chồng
lại khéo nuôi con…
Sung sướng nhất là vợ chồng ông Lý Phúc. Khỏi phải nói tâm trạng
ông bà như thế nào khi thấy chiếc commăngca chở các con đi vào cổng lớn có ba
chữ đại Nguyễn Kỳ Viên do chính tay bậc tài danh Tam Nguyên Yên Đổ đề
tặng. Bà Lý Phúc mừng đến cuống cuồng, nhầm lẫn lung tlmg. Ông Lý vốn có cốt
cách của bậc túc nho thâm trầm, cũng không giấu nổi vẻ rạng rỡ trên gương mặt vốn
quá lo âu mệt mỏi trong những ngày vừa qua.
Sau các thủ tục vấn an thăm hỏi bà nội và thầy u, các chú bác
cô dì anh em trong họ, giới thiệu Là, thành viên mới của gia đình, Lợi và Vỹ mới
sực nhớ đến hai đứa em: Chú ba Nguyễn Kỳ Vọng và cô em gái út Nguyễn Thị Kỳ Hậu.
- Ừ nhỉ con bé đâu rồi nhỉ?
Bà Lý Phúc nhớn nhác tìm con gái. Mãi sau ai đó mới phát hiện
ra cô bé Hậu từ lúc các anh chị về cứ đứng thập thò sau cánh cửa buồng nhìn ngắm
một cách e ấp và thoả thuê.
- Trời ơi, thầy u phải đặt tên em là Nguyễn Thị Hoa Hậu mới
đúng.
Vỹ bế bổng bé Hậu, công kênh nó trên vai. Hậu quá xinh. Ngày
anh lên Việt Bắc, Hậu còn chưa nói sõi. Giờ hơn bốn tuổi mà nó phổng phao như đứa
trẻ lên sáu. Cô bé thơm vào má anh, thì thào: "Em nhớ anh Vỹ lắm".
Ôi, bé đáng yêu quá. Người nó toả ra mùi thơm khó tả. Nước da nó trắng hồng, má
phính, đôi mắt đen láy như hai hạt nhãn.
Riêng Cục thì Cả Lai và Vỹ đều không thể nhận ra. Cậu chàng
cao vỏng như một cây sào, mái tóc xoăn râu ngô và đôi mắt đã chuyển từ màu xanh
sang nâu, trầm tĩnh và u buồn. Cục có vẻ mặc cảm về cánh tay trái bị liệt và
đôi tai nghễnh ngãng, nên ngại tiếp xúc với hai anh và chị dâu mới.
Đợi khách khứa về vãn, ông Lý Phúc gọi hai con trai lên nhà
thờ nói về chuyện cưới vợ cho Cục.
- Thầy đã xem kỹ mạch của bà. Cùng lắm là được ba ngày nữa.
Anh chị Khôi được tổ chức đứng ra lo cho, giờ lại sắp có tin mừng, thầy u mãn
nguyện lắm. Giờ còn em Quặc. Nó vất vả nhất nhà. Thay các anh quán xuyến mọi việc
đồng áng, nhà cửa. Nó lại là con nuôi. Thầy u lo cho các anh một thì phải lo
cho nó hai. Đấy là đạo lý, đấy cũng là để phúc để đức cho nhà mình. Có đứa em
dâu, các anh chị đi xa cũng không phải lo lắng gì cho thầy u…
- Tức là thầy muốn cưới chạy cho chú Quặc? - Lợi đã quen họp
hành, không thích nói vòng vo, vào việc luôn.
- Thì anh cứ để thầy nói hết - Vỹ đưa mắt sang lợi, ý không bằng
lòng. Hai tiếng "cưới chạy" làm Vỹ bỗng nhớ đến tên cuốn tiểu thuyết
mà nhà văn Đà Giang, bạn anh, đang dự định viết. Đây là đề tài nóng bỏng về giảm
tô và cải cách ruộng đất đợt thí điểm đầu tiên ở Đại Từ, Thái Nguyên. Một anh vệ
quốc yêu con gái nhà giàu đang bị đội cải cách xếp vào hàng địa chủ gian ác. Cô
gái lấy cớ bà nội ốm nặng sắp chết, giục người yêu cưới chạy. Tổ chức cương quyết
không cho anh vệ quốc lấy con địa chủ. Anh vệ quốc tìm cách đưa người yêu đi trốn…
Cốt truyện của Đà Giang gần giống với đám cưới của Quặc và Bính. Chỉ khác chăng
là ông Lý Phúc không phải là địa chủ…
- Thầy chỉ đợi các anh chị về để lo việc cho em - ông Lý Phúc
nói tiếp - Mọi thủ tục đã chuẩn bị hết rồi. Cỗ bàn đơn giản cũng phải một trăm
hai mươi mâm. Ba giờ sáng ngày kia làm lễ rước dâu.
- Cỗ bàn phải xem lại - Lợi khoát tay, thực sự vào vai anh
con trưởng - Phải tiết kiệm tối đa. Chỉ nên mười lăm, hai mươi mâm thôi.
- Thầy tính nát nước ra rồi. Lần đầu định tổ chức cưới con. Họ
hàng đông. Bạn bè nhiều. Vả lại đây cũng là dịp mừng các con đi kháng chiến trở
về, dịp cám ơn dân làng đã thăm hỏi bà… Tiếng là lo việc hỷ nhưng cũng là lo
luôn cả việc hiếu. Bà nằm xuống, thầy chỉ mời trầu cau dân làng…
Vỹ tán đồng ngay:
- Con thấy thầy tính như thế là phải. Chú Quặc phải được ưu
tiên hàng đầu.
- Nhưng về thời gian thì phải tính lại - Lợi vẫn không chịu -
Sao không phải là bẩy, tám giờ sáng cho nó đàng hoàng mà lại đi đón dâu lúc đêm
hôm rét mướt?
- Thầy nhờ cụ Nhiêu Biểu bấm ngày giờ rồi. Tuổi hai đứa, phải
giờ ấy mới hợp.
- Vẽ vời quá - Lợi lắc đầu - Chúng ta đang bắt đầu một thời đại
mới, thời đại xoá bỏ tận gốc rễ những tàn dư của phong kiến đế quốc, xoá bỏ triệt
để mê tín dị đoan. Nếu không có anh em chúng con, thầy muốn làm gì mặc thầy.
Nhưng bây giờ, khi vợ chồng anh em chúng con đã về, thì mọi việc phải khác. Con
xin thầy nhớ cho rằng anh em chúng con bây giờ đã là cán bộ cách mạng. Nhất cử
nhất động quần chúng đều nhìn vào đánh giá, bọn phản động nhòm ngó xuyên tạc.
- Thì thầy cũng tham gia cách mạng chứ kém gì các anh - ông
Lý buộc phải nói - Nhà mình chẳng có ai Việt gian phản động cả.
Chiến Thắng Lợi sực nhớ đến Vọng. Vì sao Vọng không ở nhà lúc
này? Có chuyện gì khuất tất mà cả thầy u đều có vẻ lúng túng khi nhắc đến Vọng?
Lợi hỏi thẳng ông Lý Phúc:
- Dạ, còn em Vọng? Em Vọng con đâu hả thầy?
Ông Lý ngồi lặng. Đây là nỗi đau nhất của ông trong những
ngày này. Đau vì thương con trai, trẻ người non dạ, nghe kẻ xấu xui bẩy, vì lo
cho con không biết sống ra sao, nhờ cậy ai ở nơi đất khách quê người. Nhưng đau
nhất là ông nghĩ rằng mình đã vĩnh viễn mất Vọng. Câu sấm của cụ Nguyễn Du là ứng
với thằng này. Rồi nó sẽ như tên đồn trưởng Trương Phiên, ngày càng dấn sâu vào
tội lỗi, phản bội dân tộc.
Thằng Trương Phiên đã chạy thoát khỏi bốt làng Động, khiến
ông ân hận là đã không kiên quyết đề nghị khử nó từ sau trận địch càn Khu Trắng
phá bỏ nhiều cơ sở của ta. Cứ nghĩ đến chuyện Trương Phiên chạy thoát vào Sài
Gòn, gặp thằng Vọng của ông ở trong đó, rồi chúng câu kết với nhau mà ông đau
buốt tới tận óc. Nhiều lúc ông muốn quên Vọng, muốn gạt Vọng ra khỏi tên những
đứa con ông. Lá thư của Vọng viết trước khi rời Hà Nội gửi thầy u và các anh em
vẫn để trong ống quyển trên ban thờ kia. Ông không muốn nhìn thấy nữa. Ông càng
không muốn đưa ra lúc này. Thậm chí ông không muốn cho Khôi và Vỹ biết Vọng đã
vào Nam.
- Nó chạy theo thằng đồn trưởng Trương Phiên rồi phải không
thầy?
Câu hỏi của Lợi khiến ông Lý Phúc giật bắn mình. Ông ấp úng
nhưng rồi vẫn phải nói ra sự thật:
- Nó bỏ đi Nam rồi. Nó có thư để lại cho các anh…
Không để ông Lý nói hết, Lợi đã đập hai tay xuống chiếc tràng
ký, rít qua kẽ răng:
- Thầy giết anh em chúng tôi rồi.
- Thì thầy u cũng như các anh. Nó đi rồi mới biết. Nó nghe
chúng bạn rủ rê… - Đầu ông Lý Phúc rũ xuống, như một tội đồ.
- Chúng bạn nào rủ rê? Thầy xui nó. Thầy muốn bắt cá hai tay.
Rút cục thầy vẫn lòi ra cái bản chất tư sản phong kiến, chân nọ chân kia. Thằng
Vọng cam tâm làm tay sai cho địch rồi. Nó đã nhảy sang chiến tuyến bên kia rồi.
Nó chính là một thằng Việt gian phán động. Tôi mà biết âm mưu phản dân hại nước
của nó từ trước, tôi sẽ bắn bỏ - Lợi vừa nói dằn tìm tiếng vừa đưa tay vào bao
súng, như một phản xạ - Hai thằng chúng tôi không quản hy sinh xương máu, đi
theo cách mạng là muốn cứu cho cái lý lịch bất hảo của gia đình này. Vậy mà thầy
và nó đã làm hỏng tất cả.
- Anh đừng nghĩ thế - ông Lý Phúc cố kìm nén - Ai làm người ấy
chịu. Thằng Vọng làm, cùng lắm là tôi với u các anh phải chịu chứ không đến lượt
các anh. Chính phủ Việt Minh sẽ công tâm mà nhận ra chuyện này…
Lợi vò đầu, bứt tóc. Anh giơ tay đấm vào ngực mình thùm thụp.
anh tiên cảm thấy hiểm hoạ mà Vọng sẽ mang đến.
- Đã đến nước này thì tôi cũng nói thật với thầy. Tôi phải từ
thằng Vọng. Từ nay thầy u và cái chi họ Nguyễn Kỳ này đừng gọi tôi là Nguyễn Kỳ
Khôi nữa. Thằng Khôi đã chết rồi. Mấy năm ở Việt Bắc, tôi đã có tên mới là Chiến
Thắng Lợi…
Ông Lý Phúc nhìn con trai trừng trừng, hai hốc mắt bỗng đó đọc
như hai hòn than và toé những tia lửa. Nó đã bước qua cái ranh giới cha con rồi.
Dù nó là ông giời thì nó cũng không có quyền nói với thằng bố đẻ ra nó những
câu mất dạy đó.
Chưa bao giờ ông Lý Phúc giận dữ đến như thế. Ông chỉ tay vào
mặt Lợi, giọng hộc lên như bị trúng thương:
- Anh không còn là con tôi nữa. Bước ngay ra khỏi cái nhà
này.
Chiếc commăngca đưa vợ chồng Chiến Thắng Lợi rời khỏi làng Động
ngay đêm hôm đó. Người làng không ai biết cuộc xô xát của bố con ông Lý Phúc.
Người ta thì thầm với nhau: "Anh Khỏi đang giữ chức gì to và quan trọng lắm.
Về đến nhà chưa kịp ấm chỗ, cấp trên đã có điện gọi đi ngay".
Riêng Vỹ vẫn ở lại. Anh sẽ làm phù rể cho Cục trong đám rước
dâu.
Nhưng rồi một sự kiện tưởng như sẽ làm đảo lộn tất cả: Chiều
hôm sau, cuối giờ Thân, trong lúc con cháu đang lo dựng rạp, bắt lợn để làm tiệc
cưới ở nhà ngoài, thì ở nhà trong, cụ bà Đồ Kha lặng lẽ đi.
Lúc ấy, ông Lý Phúc đang ở bên mẹ. Với một bản lĩnh hiếm có
ông nuốt nước mắt, vuốt mắt cho mẹ, rồi ra hiệu tất cả phải im lặng, cấm hé lộ
một điều gì với cậu Quặc và mọi người, đoạn ông rỉ tai ông em chú, bảo xuống
ngay nhà cụ Nhiêu Biểu.
Cụ Nhiêu Biểu vừa bấm độn, vừa giở sách ra xem, lắc đầu:
- Bà cụ chết vào ngày trùng, giờ trùng. Quá độc. Nhà ông Lý
Phúc gay rồi.
Đắn đo mãi, cuối cùng đích thân cụ Nhiêu Biểu phải lên nhà,
thì thào với ông Lý Phúc hồi lâu.
- Cưới hay không?
Đầu ông Lý Phúc có lúc muốn nổ tung, có lúc lại như chực ngất
xỉu. Đời người, chỉ cần rơi vào tình thế éo le bi kịch này một lần, đủ già đi
hàng chục tuổi. Trong luân thường, đạo lý, thì chữ hiếu phải đặt hàng đầu. Giá
là đám cưới thằng Khôi, thằng Vỹ, thằng Vọng, chắc chắn ông sẽ cho hoãn lại để
lo đám tang cho mẹ. Nếu họ nhà gái không đồng ý hoãn, thì huỷ. Đoạn tang, lại
tìm đám khác. Nhưng đây là đám cưới của thằng Quặc, đứa con nuôi, lại tật nguyền.
Nhà gái sẽ vu cho vợ chồng ông rẻ rúng, hắt hủi nó. Dân làng sẽ cười ông hủ lậu,
không thức thời. Thằng Quặc sẽ hận ông suốt đời.
Buông tấm màn cho mẹ, như bà cụ đang giấc ngủ say, đích thân
ông Lý Phúc ra nhà ngoài thu xếp lễ rước dâu và tổ chức cưới theo đúng kế hoạch.
Đoàn họ nhà trai đi đón dâu phải dùng đèn bão và đuốc. Đi
trong cái lạnh của ngọn gió bấc thổi ràn rát và ánh lửa bập bùng, Vỹ bỗng liên
tưởng đến cảnh hồng hoang thời Sơn Tinh mang sính lễ xin cưới con gái Vua Hùng.
Đuốc hoa thắp cầu vồng hư ảo
Đêm mung lung hương tóc người thương
Câu thơ gợi nhớ Khiêm da diết. Đó là phác thảo cho một bài
thơ tình Vỹ sẽ viết tặng Khiêm nay mai.
Chuyện về đám cưới chạy tang sẽ chẳng còn gì đáng nói, nếu buổi
trưa hôm ấy không xuất hiện một chiếc xe con nữa về làng.
Đó là một chiếc Peugeot màu xanh, sang trọng hơn cả chiếc
Commăngca của Lợi. Trên xe, ở hàng ghế sau, có hai phụ nữ, một người ngoài ba
mươi, đẹp một cách quí phái, người kia dáng còn thiếu nữ, mảnh dẻ và khiêm nhường.
Xe dừng ở chợ Mới để hỏi đường đến nhà ông Lý Phúc.
- Này, tôi góp ý nhá - ông phó cạo, trung tâm thu phát tin tức
của cả vùng, chỉ vào bó hoa lay ơn ở sau xe, giọng nghiêm trang - Đừng mang hoa
đến đám cưới này. Bà mẹ ông Lý Phúc chết chiều qua rồi. Đang nằm đắp chiếu ở
trong nhà. Chờ đón dâu xong là phát tang. Cứ nghe tôi, nên mua mấy thẻ hương với
chục cau là hơn.
Mấy người nhìn nhau, chưng hửng. Rồi nhanh chóng họ thay đổi
kế hoạch, tặng lại ông phó cạo bó hoa. Ông phó cạo được người đẹp tặng hoa, sướng
quá, cười toe toét, giở giọng nịnh đầm:
- Trông bà đẹp và quen quá. Giống như ni cô Đàm Hiên ở chùa
Phổ Hướng năm nào…
Người đàn bà giật mình. Ông phó cạo này đã nhận ra nàng.
- Tôi là Cam, đang công tác trên tỉnh. Tôi về thăm ông Lý
Phúc.
Cam không nói rõ chức danh, thậm chí ngay cả những người quen
biết, nàng cũng ít khi nói hiện nàng đang là Chánh văn phòng Phụ nữ Liên khu Hữu
Ngạn. So với tuổi nàng, đây là một chức vụ không phải nhỏ. Nhưng nếu nàng không
mất liên lạc với tổ chức trong thời kỳ sinh bé Lê Kỳ Chu, chắc chắn nàng đã cầm
chắc cái ghế Phó Hội trưởng Hội phụ nữ Liên Khu, hoặc Hội trưởng Phụ nữ Tỉnh. Lần
về làng Động này, chính là vì đám cưới Cục. Dù đi đâu, làm gì, nàng vẫn theo
dõi từng bước đi của Cục. Ngày biết tin thằng bé bị rắn cắn, trở thành tật nguyền,
nàng đã khóc bao nhiêu. Nhưng nàng hiểu đó là số phận. Nàng càng biết ơn ông bà
Lý Phúc. Nếu Cục không vào cửa nhà ấy, đời nó chưa biết sẽ ra sao?
Sự có mặt của Cam là sự bất ngờ lớn với ông Lý Phúc. Ông biết
bây giờ mới bắt đầu là thời của người nữ cán bộ Việt Minh này. Có chức quyền,
danh giá thế mà người đàn bà này vẫn không quên ông, một lý trưởng hai mang do
nàng móc nôi.
Suy nghĩ đắn đo mãi, Cam vẫn chưa tìm được cách xưng hô đối với
ông Lý Phúc, vì thế mà gặp ông, nàng cứ ấp úng rnăt đỏ chín như người say nắng.
Chưa bao giờ nàng sống trong trạng thái đầy mâu thuẫn, éo le như bây giờ. Đóng
vai nào đây, khi vẻ danh nghĩa tổ chức, quan hệ xã hội, nàng là đồng chí của
ông Lý Phúc, nhưng về quan hệ riêng tư, nàng lại là nàng dâu không chính thức của
ông. Khôi có về không? Khôi đâu, sao chỉ có mình Vỹ? Trong phút chốc, mối tình
với Khôi bỗng trỗi dậy. Thú thực, lần về này, ngoài chuyện mừng cưới Cục nàng
còn muốn gặp Khôi, bố của thằng Lê Kỳ Chí của nàng. Đến bây giờ thì Khôi không
thể lẩn trốn nàng Nàng phải giành giật lại người đàn ông của đời mình.
- Anh Khôi em đâu, sao không về?
Cam dành câu hỏi này cho Vỹ. Người thân thiết và tin cậy nhất
ở nhà này với nàng giờ là Vỹ. Nhưng Vỹ đã làm nàng thất vọng. Khôi có điện gọi
đột xuất, đã về Hà Nội. Khôi đã quên nàng từ lâu. Khôi đã lấy vợ và sắp có con.
Đau khổ nhất là Cam đang phải đóng một vai diễn không phải của
mình. Nàng muốn gào lên, muốn đập đầu vào tường, muốn cởi hết xống áo chạy ào
ra giữa trời mà cười điên loạn. Nàng chỉ là một người đàn bà với bản năng yếu
đuối, bất lực mà sao phải chịu những trừng phạt khủng khiếp như vậy?
Người nữ nhân viên đi cùng hình như đã nhận ra tình trạng sức
khoẻ của Cam, cứ cuống quít giục nàng bảo lái xe đưa tới trạm y tế huyện. Cam
khoát tay, lắc đầu, bảo cô gái đi tìm chú rể và cô dâu lại.
Cục hôm nay khá bảnh trai, một gương mặt hao hao Tây lai, lún
phún bộ ria mép, rất đàn ông. Không hề hay biết gì việc bà nội vừa mất, nên Cục
hoàn toàn sung sướng, mãn nguyện. Còn Bính thì khỏi nói. Chưa đụng hơi trai mà
đã như thài lài gặp cứt chó. Đó là lời bình của những người dự đám cưới.
Cam cầm tay Cục và Bính khá lâu. Nàng nhìn Cục, không cầm được
nước mắt. Rồi nàng lấy từ trong túi xách ra hai chiếc nhẫn vàng, đeo vào tay
hai vợ chồng trẻ.
- Cô chẳng có gì, chỉ có món quà nhỏ này mừng hạnh phúc hai
cháu. Vợ chồng hãy thương yêu nhau đến đầu bạc răng long nhé…
Cả Cục, cả Bính và tất cả mọi người có mặt, không ai tin ở mắt
mình. Cục đã nhận ra người đàn bà từng nói anh là con nuôi bà Lý Phúc chứ không
phải con đẻ, người biết trong người anh có một cái bớt lông chuột. Cũng chính
vì người đàn bà này mà anh bị rắn cắn ở bụi tầm xuân ông Đống đầu làng. Cục đắn
đo định trả lại quà tặng, nhưng thấy Bính vui quá, anh không nỡ. Rồi Cục chợt
nghĩ, chắc đây chỉ là hai chiếc nhẫn vàng tây bán ở hàng xén chợ Mới. Anh đưa cả
cho Bính.
Cục đâu biết rằng, cách đây ba ngày, khi nghe tin anh lấy vợ Cam đã đem đôi khuyên tai mẹ cho, kho vàng duy nhất mà nàng có, thuê thợ kim hoàn đánh thành hai chiếc nhẫn cưới.
Hoàng Minh Tường
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét