Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Thời của thánh thần 1

Thời của thánh thần 1

Phần I - CƠN GIÓ BỤI 
Chương 1
Nghe tin ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ chuẩn bị được tái dựng lại, khắp huyện Phương Đình bàn tán xôn xao rằng ông Cục, tên húy là Nguyễn Kỳ Quặc, con nuôi của ông bà Lý Phúc, đào được lọ vàng dưới gầm bàn thờ tổ.
Không vớ được của, làm sao một lão vừa điếc vừa què, cánh tay mềm oặt lủng lẳng như cái dẻ khoai nước, với một bà vợ ốm o và một đàn con lúc nhúc, vắt mũi không đủ vứt vào mồm, bỗng dưng bỏ ra hàng mấy chục cây vàng để mua lại sáu ngôi nhà của bà con nông dân được chia hồi cải cách ruộng đất, rồi đùng một cái, phá dỡ sạch bách không còn đến một cái móng, để chuẩn bị xây khu từ đường mới, nghe. rlói không thua kém gì Văn miếu Quốc Tử giám ngoài Hà Nội? Thì ra ông trời cũng có mắt cả đấy. Người ta là con nuôi con đòi, chẳng máu mủ ruột rà gì, nhưng ăn ở có nhân có đức, ắt Trời Phật độ trì.
Người ta bịa ra hẳn một câu chuyện rất li kì. Rằng một đêm kia, đang ngủ, ông Cục bỗng ngồi vục dậy người toát hết mồ hôi, chân tay bủn rủn. Rõ ràng ông vừa nhìn thấy một người mặc toàn đồ trắng, râu tóc dựng ngược đang trồng cây chuối trước gian giữa nhà thờ tổ. Hoảng hốt, ông Cục lấy tay che mặt không dárn nhìn. Đúng là ông Lý Phúc, bố nuôi của Cục, đã chết trong vụ đấu tố đợt một thời cải cách ruộng đất.
- Cục ơi, thầy đây mà, đừng sợ… - Người trồng cây chuối bỗng cất lên tiếng trầm khàn, tiến đến gần Cục.
- Con lạy thầy, thầy sống khôn chết thiêng, thầy hiện về đây dạy bảo vợ chồng con điều gì? - Cục cầm bàn tay bị liệt đưa lên, vái lạy rối rít - Con cắn rơm cắn cỏ lạy thầy. Con chỉ đấu tố thầy một buổi thí điểm… Con không gây nên cái chết cho thầy… oán con lắm thầy ơi…
Bóng áo trắng bỗng cất tiếng cười vang. Tiếng cười trong đêm rờn rợn như tiếng tre đưa ken két ngoài bờ ao.
- Chuyện cũ qua rồi. Con đừng cả nghĩ. Thầy biết mà. Thời cuộc lúc ấy nó khốn nạn thế. Tránh không được. Toàn bọn dòi bọ cua ếch lên làm người. Thế nên thầy tự chọn lấy cái chết. Một cái chết không toàn thây, cái chết đau đớn nhất…
- Vâng. Con thấy em Hậu nằm vắt trên bậc cửa, nghĩ nó chết, con hoảng quá. Đến khi nhìn thấy thầy treo ngược thân từ trên xà nhà thì con thất kinh…
- Tự thầy nghĩ ra cách chết ấy đấy. Thầy bắc thang trèo lên cái chếnh nhà kia, lấy sợi thừng trâu buộc chặt vào ngón chân cái tính đoạn thừng vừa đủ khoảng cách nối người với mặt đất, rồi thầy đâm đầu xuống…
- Lúc ấy con vừa ở nhà kho về. Đội cải cách bắt đầu nghi ngờ con, chỉ cho con canh nhà kho ban ngày. Vừa mở cửa bước vào con liền kêu thét lên, tưởng ma hiện trong nhà thờ. Chân thầy treo lơ lửng trên đoạn dây thừng, nối với xà nhà, đầu thầy gieo xuống nền gạch, vỡ ra, óc trắng xoá hoà với máu thâm đen trên sàn. Một cái chết không toàn thây.
- Cảm giác gieo đầu xuống đất là một cảm giác mạnh, thú vị biết bao. Thầy không treo cổ chính là muốn được hưởng cảm giác mạnh, muốn được chết không toàn thây… Nhưng thôi, chuyện cũ rích rồi. Những kẻ bày đặt ra cảnh con giết cha, vợ giết chồng giờ đã chết cả rồi. Cho qua chuyện cũ đi con…
- Dạ vâng… Nhưng… thầy còn oan ức gì? Sao thầy lại về… - Giọng ông Cục bỗng run bắn.
- Đã bao nhiêu năm thầy nung nấu về điều này… Bây giờ mới dám nói với con… Lẽ ra thằng cả Khôi, thằng hai Vỹ, thằng ba Vọng phải lo việc này. Nhưng chúng là những kẻ phát vãng, vong bản. Chúng không thiết đến quê hương, không coi trọng gia đình, thậm chí chỉ nghĩ đâu đâu, thế giới đại đồng, không muốn có tổ quốc nữa… Thầy đau lắm…
- Các anh ấy đi làm cách mạng… Con đui què mẻ sứt nên mới quẩn quanh xó bếp.
- Ba thằng anh con, mang tiếng là con đẻ của thầy u, nhưng coi như vứt. Thằng Nguyễn Kỳ Khôi là trưởng, nhưng thầy từ nó rồi. Thằng hai Nguyễn Kỳ Vỹ mặt trắng thư sinh, thuộc loại "lập thân tối hạ thị văn chương". Loại người như nó suốt đời chỉ bồi bút thì được chứ không bao giờ được tin dùng. Hiền lành như thằng ba Vọng, thì lại phát vãng, vật vờ lê lết quê người… Chỉ còn con thôi, Cục ạ. Con mới là người hiếu đễ trông nom hương hoả. Vì thế thầy mới bàn với con về việc dựng lại ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ… Ngôi nhà cốt nhất cái nóc. Dòng họ cốt nhất mồ mả tổ tiên, bàn thờ gia tộc. Không có những điều linh thiêng đó, còn chi cái giống người? Thấy chi họ Nguyễn Kỳ nhà ta phát tán đi muôn nơi, anh em thù ghét nhau, thầy đau buồn lắm. Thầy chết mà không siêu thoát được con ạ…
- Lạy thầy đã dạy. Con tuy không phải do thầy u đẻ ra, nhưng ơn dưỡng dục còn hơn cả công sinh thành. Ngày nhỏ con được thầy cho học ít chữ thánh hiền, con phần nào cũng hiểu được đạo lý làm người…
Bóng áo trắng lại cười khà khà, ra chiều đắc ý:
- Thế cho nên thầy mới trông giỏ bỏ thóc… Bao nhiêu năm dạy học và bốc thuốc, thầy có tích góp được một ít vàng. Thầy chôn ở chân cột nhà thờ… Số vàng ấy đủ cho con chuộc lại đất của mấy hộ ông bà cố nông và sửa sang lại ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ…
Câu chuyện người và ma gặp nhau như chuyện Liêu Trai ấy, không biết do ông Cục kể lại hay ai đó sáng tác ra mà một dạo cứ xầm xì lan đi khắp làng Động. Phần sau câu chuyện có thể do nhiều người đơm đặt, chứ phần đầu thì đích thị là của ông Cục. Chuyện ông Cục vẫn thường gặp bóng người quần áo trắng trồng cây chuối trong nhà thờ là chuyện hoàn toàn có thật, nhất là những năm sau cải cách và thời kỳ thành lập hợp tác xã nông nghiệp. Ông thì thào với vợ. Ông vừa thắp hương lầm rầm khấn vái vừa thuật lại với bà Lý Phúc. Ông kể bô bô ngoài đồng: "Tôi nói sai tôi là con chó. Ông cụ thiêng lắm. Tuần đầu tháng nào ông cụ cũng hiện về. Lạ lắm. Bao giờ ông cụ cũng mặc bộ quần áo trắng toát và đứng trồng cây chuối giữa nhà".
Câu chuyện như một ám ảnh ma quái khiến không ai dám bén mảng đến năm gian nhà thờ. Riêng bọn trẻ con lại càng khiếp đảm, cứ chập tối là xuống bếp bám lầy váy mẹ, thấy con đom đóm bay vào nhà thờ là sợ vãi đái ra quần.
Những người không tin chuyện thần thánh tà ma thì lại muốn giải mã việc xây dựng từ đường chi họ Nguyễn Kỳ theo một hướng khác. Họ tập trung vào người con cả của ông Cử Phúc là Nguyễn Kỳ Khôi, một nhân vật có quyền chức, địa vị, người thành đạt nhất của chi họ Nguyễn Kỳ dưới chính thể nhà nước Xã hội chủ nghĩa.
Công bằng mà nói, rất ít người làng Động biết đến cái tên Nguyễn Kỳ Khôi. Đó là một cái tên chỉ gợi nhớ thời ấu thơ và chỉ những người trong gia đình thỉnh thoảng còn nhắc tới.
Nguyễn Kỳ Khôi là con bà vợ cả ông Cử Phúc. Năm Khôi hai tuổi thì bà cả mất vì hậu sản. Ông Cử Phúc lấy bà Vũ Thị Ân, con gái út cụ đồ Hanh bên kia sông làm vợ kế. Bà Ân sinh được hai con trai là Nguyễn Kỳ Vỹ, Nguyễn Kỳ Vọng và cô con gái út Nguyễn Thị Kỳ Hậu. Năm anh cả Nguyễn Kỳ Khôi mười lăm tuổi thì Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Đang học năm cuối lớp đệ nhất, Khôi bỏ, xung vào đội quân tuyên truyền của cách mạng, rồi thoát ly theo kháng chiến. Lên Việt Bắc, Khôi được tổ chức đổi tên thành Chiến Thắng Lợi, một cái tên gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến chống Pháp. Để có được một cái tên như thế, chứng tỏ Nguyễn Kỳ Khôi đã phải nỗ lực phấn đấu và trung thành tuyệt đối để được tin cậy đến mức nào.
Những người thuộc thế hệ chống Pháp và chống Mỹ, hầu như ai cũng biết đến cái tên Chiến Thắng Lợi, đồng chí Chiến Thắng Lợi. Có một bài báo rất có tiếng vang đăng trên tờ báo Thời Mới, ở chuyên mục "chân dung chiến sĩ" đã in một bài dài với tựa đề "Anh tôi - Chiến Thắng Lợi". Tác giả là nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ. Lần đầu tiên bạn đọc biết đến Nguyễn Kỳ Khôi, tức đồng chí Chiến Thắng Lợi là anh ruột nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ, một cây bút đang nổi như cồn với tập thơ "Thời của Thánh Thần". Tác giả kể về làng Động, về tuổi thơ của hai anh em, về cái lần anh Chiến Thắng Lợi từ vùng ATK về rủ Vỹ trốn nhà lên chiến khu Việt Bắc.
Thời kỳ cải cách ruộng đất, cái tên Chiến Thắng Lợi xuất hiện khá nhiều trên các văn bản, thông tri. Những người am hiểu về chính trị còn biết rằng sau này Chiến Thắng Lợi còn là nhà thiết kế, tác giả tinh thần của nhiều chủ trương lớn có tính chất quyết định những bước ngoặt của nền kinh tế xã hội, ví như cuộc cải tạo công thương nghiệp ở miền Bắc năm 1960, cuộc chuyển đổi kinh tế miền Nam năm 1976. Suốt những năm 1980, cái tên Chiến Thắng Lợi đã trở thành biểu tượng, niềm tự hào không chỉ của làng Động mà của cả huyện, cả tỉnh quê hương ông.
Cho nên, ông Cục có tài thánh cũng không che được mắt thiên hạ. Bỏ ra tiền tỷ để chuộc lại đất khu nhà thờ, rồi lại định phá sạch bách, xây mới toàn bộ khu từ đường chi họ Nguyễn Kỳ, phi bố con ông Chiến Thắng Lợi, mấy anh em ông Vỹ ông Vọng, ông Cục có mọc thêm ba đầu sáu tay nữa cũng cóc làm nổi. Người ta cam đoan như đinh đóng cột rằng, chiến dịch "hạ cánh an toàn" và "chuyển lửa về quê" của ông Chiến Thắng Lợi không thua kém gì việc Tào Tháo chuẩn bị xây lăng mộ trước khi chết. "Các cụ nói cấm có sai. Cáo chết ba năm quay đầu về núi. Của nả, bổng lộc tích cóp suốt mấy chục năm đi làm cách mạng rồi cuối cùng cũng phải chuyển về trả nghĩa tổ tiên, vinh danh cho dòng họ…" Người ta khẳng định với nhau thế. Có người còn bảo: "Bố con ông Chiến Thắng Lợi chính là những tư bản đỏ kếch xù. Nguyên vụ đổi tiền năm 1985, biết trước đồng tiền sẽ mất giá, ông thu gom tiền bạc đổi thành vàng hết. Chỉ năm sau, đã có cả núi vàng. Rồi anh con trai cả, trùm buôn lậu ở Nga, thu gom hết hàng hoá ở khu chợ Vòm, chuyển tiền về nước kìn kìn. Mấy bố con có tới ba trang trại ở Sóc Sơn, Hoà Lạc, Bình Dương, hai biệt thự cao cấp ở Hà Nội, Sài Gòn, lại nghe nói có vài chục triệu đô la gửi ngân hàng châu âu nữa. Ông con quý tử Chiến Thống Nhất, mới hơn ba mươi tuổi, đã thành lập công ty riêng, buôn địa ốc, buôn ô tô, tiền tấn. Khác hẳn tính bố, Chiến Thống Nhất thuộc loại ăn chơi bốc trời. Một năm thay vài ba xe tô, vài ba cô bồ toàn loại người mẫu chân dài. Ngày bà cụ Lý Phúc còn sống, Nhất bảo: "Nhờ hồng phúc tổ tiên, bố cháu mới được như thế này. Rồi cháu sẽ sửa một lễ trọng trình với tổ tiên xin đổi lại họ Nguyễn Kỳ bà ạ. Cái tên Chiến Thống Nhất nghe nó… pê-đê lắm."
Bà cụ Phúc không hiểu pê-đê là gì, nhưng cụ tin rằng Chiến Thống Nhất không phải là kẻ mất gốc.
Gia phả họ Nguyễn ở làng Động ghi lại rằng, tổ họ chính là người họ Lý, tên huý là Lý Kỳ Phong, quê gốc ở làng Đình Bảng, xứ Kinh Bắc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Năm Nhâm Thìn, Kiến Trung thứ tám, 1232, vì Nguyên tổ tên huý là Lý (Trẩn Lý), nhà Trần cho đổi triều Lý thành triều Nguyễn, vả lại cũng để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng đối với nhà Lý. Cũng mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lârn, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đời khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết". Bấy giờ tổ họ Nguyễn là người nội tộc, đầu quân dưới trướng Hoàng tử Lý Long Tường con vua Lý Anh tông, đồn trú ở trấn Vân Đồn ngoài biển Đông Hải. Có tin mật báo từ kinh đô Thăng Long về âm mưu thâm độc của Trần Thủ Độ, Hoàng tử Lý Long Tường bèn bí mật tổ chức cuộc vượt biển, đưa vợ con gia đình rời bỏ đất Đại Việt. Lý Kỳ Phong được giao một nhiệm vụ đặc biệt: Thu mua hàng trăm con chó đóng cũi nhốt sẵn dưới chiến thuyền. Đây là thực phẩm trữ sẵn dành cho chuyến vượt biển dài ngày đầy hiểm nguy gian khổ. Lý Kỳ Phong đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Ngài gom được hơn năm trăm con chó tơ, chở ra Vân Đồn.
Nhưng rồi đến ngày Hoàng tử Lý Long Tường cùng gia tộc, bộ hạ dong buồm ngược hướng đông bắc nhằm nước Cao Ly khởi hành thì Lý Kỳ Phong phải ở lại vì vợ ngài trở dạ đẻ, tính mạng thập tử nhất sinh. Sau đó ngài tìm đường đưa vợ về làng Động quê ngoại đổi họ Lý thành họ Nguyễn để tránh cái hoạ tuyệt diệt.
Gia phả viết rằng kể từ thượng tổ Lý Kỳ Phong, làng Động khai sinh dòng Nguyễn Lý. Cho tới thời Mạc - Sùng Khang năm thứ 13, Mậu Dần, 1578, dòng Nguyễn Lý làng Động tách ra một chi họ Nguyễn Kỳ. Số là, vào thời kỳ đó, có ông thầy tướng người Tàu được mời về tìm đất để đặt lại ngôi mộ tổ. Do đãi đằng công sá không chu tất, ông thầy Tàu giở mặt, bèn yểm một lá bùa và truyền rằng, từ đây, anh em, bố con họ Nguyễn làng Động sẽ ganh ghét, hiềm khích, thậm chí chém giết nhau. Quả nhiên, ngay sau đó, hai ông trưởng, thứ mỗi ông theo một phe, ông chi trưởng theo quân của Thường Quốc công Nguyễn Quyện giúp Mạc Mậu Hợp chống lại nhà Hậu Lê, ông chi thứ theo quân của Tiết chế Trịnh Tùng, phò Lê diệt Mạc. Và hai anh em họ Nguyễn làng Động đã giết nhau tại cửa ngõ thành Thăng Long trong trận tử chiến tết Nhâm Thìn 1592, trận đánh quyết định kết liễu triều đại nhà Mạc.
Kể từ cuộc huynh đệ tương tàn ấy cho đến đời ông Nguyễn Kỳ phúc đã mười bốn đời. Bố ông Nguyễn Kỳ Phúc là cụ đồ Nguyễn Kỳ Kha, bạn học với Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền, người làng Bặt, từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Ông Nguyễn Kỳ Phúc là con trai độc, được học hành chu đáo tham gia khoá thi nho học cuối cùng của triều Nguyễn năm 1919, đỗ Cử nhân, nhưng vì phải phụng dưỡng mẹ già, không ra làm quan, ở quê dạy học và bốc thuốc.
Khu từ đường chi họ Nguyễn Kỳ là tác phẩm nghệ thuật của quan Đốc học Nguyễn Kỳ Đồng, bố cụ Đồ Kha, ông nội ông Cử Phúc, xây dựng từ thời vua Tự Đức. Đây là một quần thể kiến trúc đậm tính Á Đông. Công trình chính, nhà thờ tổ, gồm năm gian chính điện có hậu cung hình chuôi vồ, được nối với nhà tiền tế bởi một nhà dọc, hai bên có hai giếng trời dùng làm sân hoa và dựng hòn non bộ. Nghe nói, làm công trình này, quan Đốc học đã nghiên cứu kiểu dáng Khiêm cung và Khiêm đăng do vua Tự Đức tự xây dựng cho mình ở kinh đô Huế, rồi mướn chính hiệp thợ làm Khiêm cung thi công.
Chính vì thế mà các bức chạm trổ, phù điêu ở nóc, đầu hồi, câu đầu quá giang… cho tới hoành phi câu đối đều rất tinh vi đầy tính nghệ thuật. Hai đầu hồi nhà tiền tế là hai nhà tả hữu vu, dãy làm nhà ở và thư phòng của chủ nhân, dãy làm lớp học và phòng khách. Tiếp sau đó là các dãy nhà ngang cho con sen người hầu, khu nhà kho, nhà bếp, góc xa nhất là chuồng trâu bò, lợn gà… Mênh mông như một sân vận động, lát toàn loại gạch Bát Tràng đỏ au là sân chầu, nơi diễn ra các hoạt động tế lễ và là nơi quan Đốc cùng bạn hữu chơi cờ người. Chính tại những cuộc đấu cờ người vô tiền khoáng hậu này mà nơi đây đã từng thu nhận nhiều tao nhân mặc khách. Cao thủ cờ khắp Bắc Trung Nam từng tìm đến tỉ thí. Văn nhân nghĩa hiệp mượn chén rượu cuộc cờ để tụ hội quần anh cũng nhiều. Nghe nói, bài thơ Đánh cờ người, nhại lại giọng điệu của bà chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, cũng được các văn nhân Bắc Hà "sáng tác" tại đây.
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người…
Mới đầu vào chàng liền nhảy mã
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên
Đôi xe hà chàng gác hai bên.
Sợ chiếu hết thiếp liền gánh sĩ.
Chàng thấy thiếp đang trong thế bí.
Liền vội vàng dủ dí tốt vô cung…
Sau bức đại bình phong đắp nổi bằng gốm sứ, là một hồ sen bán nguyệt, có cầu Nguyệt Kiều nối với đảo Ngọc, trên đảo có lầu Bát Toạ, nơi để câu cá, làm thơ và thưởng ngoạn. Cả một quần thể công trình kiến trúc văn hoá rộng tới hai mẫu Bắc Bộ, tương đương bẩy nghìn mét vuông, được xây tường gạch vồ bao quanh, vừa thâm nghiêm như chốn công đường, vừa ấm cúng êm đềm như một tĩnh viên rợp bóng cây xanh và rộn tiếng chim lạ.
Cái tên "Nguyễn Kỳ Viên" chính là sự phát hiện, là quà tặng của một khách văn chương nhân chuyến đến thăm quan Đốc học Nguyễn Kỳ Đồng. Quá cảm kích và tâm đắc với quà tặng của bạn, quan Đốc học lưu bạn ở lại để lưu bút rồi sứa một cái lễ trình với tiên tổ, gọi thợ cho xây lại cổng lớn, đắp nổi ba chữ đại "Nguyễn Kỳ Viên" của khách văn lên.
Cũng nhân việc xin chữ, quan Đốc học lại được bạn khách văn viết cho ba chữ lớn "Dương Nhất Chân", sau thuê thợ mộc làng Chuồn khảm trai treo trang trọng trước ban thờ tổ Những người biết chữ nho đều đọc được, nhưng ít người hiểu được nghĩa ba chữ đại này. Người khách văn giảng giải: Đây là ý lấy trong hai câu thơ của Đại danh y Hải Thượng Lãn ông viết trên đường thượng Kinh chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm và thế tử Trịnh Cán: độn thế tòng y dưỡng nhất chân. Bất tri vi phú khơi tri bần" (Trốn đời theo nghề thuốc để giữ cái mộc mạc của mình. Không biết làm giàu há có biết chi cái sự nghèo). Ba chữ đại này còn có ý nói chi họ Nguyễn Kỳ sẽ có người theo nghề y, việc này quả ứng ngay với con cụ Đồ Kha, tức là ông Cử Phúc. Sau này, có nhà nghiên cứu thư pháp, đối chiếu mẫu tự, cho rằng người khách văn đó chính là cụ Tam nguyên Yên Đổ. Nhà thơ Nguyễn Khuyến là bạn của ông Nghè Dương Khuê, người làng Phương Đình. Ông Nghè Phương Đình lại là chỗ thông gia bạn hữu với quan Đốc học Nguyễn Kỳ Đồng. Văn chương kim cổ nhi huynh đệ, chính là vậy.
Sau vụ cụ Đồ Kha bị Tây bắt đi tù vì bị nghi một bài thơ cụ viết có tư tưởng chống đối nước mẹ Đại Pháp và nhất là sau trận ốm liệt giường cuối đời cụ đồ, kết quả của sáu tháng tù đày trong nhà lao thực dân, gia cảnh nhà ông Cử Phúc đã sa sút lắm rồi. Những thửa ruộng thượng đẳng điền ở gần làng và đàn trâu bò lần lượt bị bán đi để lo lót cửa quan, để chạy chữa thuốc thang cho cụ đồ, rồi lo tiền ăn học cho bốn cậu con trai. Sau ngày cậu cả Khôi, cậu hai Vỹ đi kháng chiến, thì tốn kém nhất lại là tiền ăn học của cậu ba Vọng. Từ lớp Đệ tứ, Vọng đã phải đi trọ học trên phủ Phương Đình. Đến khi lên Đệ nhị, Đệ nhất, Tú tài năm thứ nhất thì phải gửi ra học ngoài Hà Nội. Mỗi bồ chữ là một mẫu ruộng, một con trâu. Bà Cử Phúc suốt ngày đầu tắt mặt tối, cơm hẩm cà hưu, như cảnh bà Tú thành Nam của Tú Xương:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng".
Cho tới đợt giảm tô, năm 1954, gia sản của ông bà Cử Phúc chỉ còn lại sáu mẫu, ba sào ruộng, hai con trâu, một con nghé và khu nhà thờ cổ kính có tuổi hơn trăm năm, cùng một Nguyễn Kỳ Viên u trầm thơ mộng.
Tuy cảnh nhà sa sút, nhưng ông Cử Phúc lại ngầm có sự mãn nguyện và kiêu ngạo của kẻ sĩ đắc chí. Là một đại biểu cuối cùng của nền nho học hủ lậu và yếm thế, ông Cử Phúc từng công khai thú nhận với bạn bè, đồng môn về sự bỏ đi, sự hèn nhát, bất lực trước thời cuộc của mình. Ông tự hào và kỳ vọng ở hai cậu con trai Nguyễn Kỳ Khôi, Nguyễn Kỳ Vỹ. Đó là sự kỳ vọng, sự gửi gắm, và cao hơn thế là sự dâng hiến của đời ông, gia tộc ông cho công cuộc kháng chiến, giải phóng dân tộc Rất nhiều đêm không ngủ, ông ngồi co ro trên chiếc sập gụ giữa nhà, uống trà, hút thuốc lào vặt, mắt nhìn sâu vào cõi xa xăm, tai lắng nghe tiếng ì ùng từ vùng núi Kim Bôi rất xa vọng lại. Và ông tưởng tượng ra cảnh hai thằng con trai ông đang xông pha chiến trận, đang theo bộ đội Cụ Hồ mở mặt trận Hoà Bình, Tây Bắc… Chiến thắng Điện Biên Phủ như chớp sáng chói loà, như hào quang rực rỡ, tưởng sẽ tràn ngập vĩnh cửu thế gian, tuôn tràn nhựa sống khắp làng Động, khắp Nguyễn Kỳ Viên của ông Cử Phúc, nào ngờ đất trời bỗng tối sầm lại khi cơn bão đen năm Ất Mùi, 1955, ập đến.
Hai người con trai tham gia kháng chiến cũng không cứu nổi ông bố bị quy là địa chủ cường hào, không giải thoát nổi ông khỏi cuộc đấu tố long trời lở đất của ông bà nông dân đang vùng lên tiêu diệt giai cấp bóc lột. Ông Cử Phúc già sọp như một lão tám mươi. Luồng hắc phong với xú khí nồng nặc và ám khí tử thần đã đập phá tan tành Nguyễn Kỳ Viên, cuốn bay hai sân hoa kiểng với nhiều loại kỳ hoa dị thảo hàng trăm năm tuổi, đập vỡ hết thảy những bình gốm sứ, nghê rồng từ thời Lý, Trần, từ thời Minh, Thanh, Trung Quốc. Lần lượt lầu Bát Toạ, cầu Kỳ Nguyệt bị giật đổ. Từ hoành phi câu đối cho tới bút tích của Tam Nguyên Yên Đổ, hàng trăm cuốn sách thuốc, sách chữ thánh hiền đều bị đốt trụi, bị quăng xuống hồ, lẫn với tre xoan bị chặt hạ, lẫn với ván thôi, xác chuột và phân người. Cái sân gạch rộng mênh mông như sân đình bị cuốc lên, chia nhó từng mảnh cho các ông bà nông dân trồng khoai, trồng cà. Sáu hộ bần cố nông chia nhau quả thực, chiếm giữ hai dãy nhà tả hữu vu, nhà ngang, và cả ngôi nhà thờ Gạch ở sân được dùng để xây những bức tường ngăn giữa các hộ, như những lô cốt cố thủ, rồi xây thêm sáu khu bếp, chuồng lợn, chuồng trâu. Riêng chuyện đi ỉa thì mạnh ai người nấy phóng ra vườn, sau những bụi chuối và các đống rơn rạ, hoặc phóng thẳng xuống cái hồ nay đã thành một mảnh ao tù.
Hơn bốn mươi năm trôi qua. Nguyễn Kỳ từ đường, Nguyễn Kỳ Viên tưởng mãi mãi phế tích, tưởng sẽ dần bị huỷ hoại, bị xoá hẳn dấu tích trên thế gian. Nào ngờ, như trong huyền thoại, vào giữa năm 1995 một dự án lớn phục chế và tôn tạo Nguyễn Kỳ Viên đã được hình thành. Để chuẩn bị cho công trình thế kỷ này, ngay từ năm 1985, giai đoạn một của dự án đã hoàn tất. Khuôn viên bẩy nghìn mét vuông của Nguyễn Kỳ Viên đã được chuộc lại hoàn toàn. Sáu hộ ngày cải cách ruộng đất giờ đã sinh sôi thành mười tám gia đình vợ chồng con cái, tạo thành một tụ điểm chật chội và đầy tệ nạn cờ bạc, hút sách, trộm cắp… Nhưng rồi vợ chồng ông Cục cũng giải quyết êm gọn. Tiền nhiều là xong béng. Bẩy hộ ẵm tiền vào Lâm Đồng, Sông Bé lập khu kinh tế mới, mua đất trồng cà phê, cao su. Ba hộ kéo nhau ra Hà Nội bán phở, làm cốp pha. Những hộ còn lại ra khu dàn dân đầu làng mở quán karaokê, bia hơi, bơm sửa xe máy, xe đạp.
Công cuộc xây dựng lại toàn bộ Nguyễn Kỳ Viên dự kiến sẽ kéo dài trong hai năm, do ông Nguyễn Kỳ Quặc cùng con trai Nguyễn Kỳ Tác, con rể Đinh Mạn, được giao quản lý thi công. Đích thân ông Cục đã chầu chực hàng tuần lễ, mời bằng được thầy Cao, một thầy phong thuỷ và tướng số giỏi nhất vùng về tính toán giúp. Bản vẽ thiết kế toàn cảnh và thiết kế chi tiết đặt hàng Viện Quy hoạch và Kiến trúc thực hiện. Đúng như lời dặn của Cụ Hồ: "Còn non còn nước còn người. Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mum ngày nay". Nguyễn Kỳ Viên sẽ to đẹp gấp mười lần ngày xưa.
Hãy xem bản vẽ tổng thể do kiến trúc sư vừa tốt nghiệp loại ưu Nguyễn Kỳ Tác, con trai út ông Cục phác thảo, để mường tượng ra một Nguyễn Kỳ Viên của ngày mai: Bắt đầu từ ngoài con đường rẽ cuối làng vào là chiếc cổng lớn có hàng đại tự chữ Hán kèm chữ Quốc ngữ: Nguyễn Kỳ Viên Nguyễn Kỳ Từ Đường" với bốn hàng trụ biểu, chia thành cổng lớn và hai cồng phụ, hai trụ chính cao tới hơn mười mét, như hai ngôn tháp. Tiếp đến là chiếc hồ lớn được tạo dáng và kè bờ bằng đá hộc miết mạch xung quanh như những ho bơi của các khu resort hay các khách sạn quốc tế năm sao. Giữa hồ là đảo Ngọc, lầu bát giác, được nối bởi Nguyệt Kiều điệu đàng như một cầu cổ trong Tử Cấm thành của Bắc Kinh. Chiếc sân chầu ngày xưa nay sẽ mở rộng hơn và được lát bằng thứ gạch bát Giếng Đáy đỏ au. Quan trọng nhất, vĩ đại nhất, không thua kém gì nhà Thái Học ở Văn Miếu Quốc Tử Giám là ngôi từ đường chi họ Nguyễn Kỳ.
Năm gian nhà phỏng theo kiểu cổ, đầu đao cong vút. Xi măng sắt thép toàn loại thượng hạng, ngói mũi hài Hương Canh, gạch xây, gạch ốp lát Giếng Đáy, đồ gốm sứ Bát Tràng. Riêng phần gỗ, thì đừng đùa với thợ xẻ làng Động, toàn chủng loại sưa, trắc, lim, lát, vàng tâm… Độc đáo nhất là những bức chạm trổ đầu hồi, những bình phong, trụ, xà đều bằng loại gỗ sưa có màu đỏ thẫm và hương thơm đặc biệt, giá được tính như gỗ trầm, vài trăm nghìn đồng một kilôgam, thứ đến là hàng cột cái hai mươi tư chiếc, toàn một thứ gỗ lim lõi đặc chở từ những cánh rừng Thượng Lào về, trong đó mười hai chiếc cột giữa, mỗi cột cao tới bẩy mét, đường kính khoát ba mươi phân, không thua kém gl những cột đình được xếp hạng di tích.
Phần diện tích tuy nhỏ nhưng được đầu tư nhiều công sức, tiền bạc là phần hậu cung chuôi vồ ở gian chính giữa nhà thờ. Gian hậu cũng được xây cao vượt lên, kiến trúc theo lối nhà chồng diêm tám mái, có lan can, cửa kính lùa chạy xung quanh. Đây là điện thờ, với những khán thờ cổ xưa, những báu vật của chi họ, như gia phả, sắc phong, mũ mãng, triều phục, ấn kiếm, tàng thư…
Trong những thứ gia bảo được thờ ở ngôi từ đường mới, sẽ có một linh vật đặc biệt do chính ông Cục lưu giữ còn hơn con ngươi của mắt mình. Rồi tự tay ông sẽ bí mật đặt linh vật này vào trong hộp đựng sắc phong của chi họ.
Đó là một sợi dây thừng, tím đen những vết máu, đầu dây lòn thít chặt một ngón chân cái đã thâm xỉn, như một mẩu gỗ lim.
Chương 2
Cục
Năm ấy, hết tháng hai rồi mà trời vẫn rét ngằn ngặt, cánh mạ chiêm ở đầu làng, ba lần gieo, lần nào hạt mộng cũng thâm đen, không chịu nẩy mầm.
- Trời rét này phải quải thêm gio bếp. Giữ cho mộng ấm chân, thầy nó ạ! - Sớm tinh mơ, chị hai Phúc dậy khoác tấm áo bông, nói với chồng.
- Còn sớm lắm. Sương giăng mờ mịt thế kia. Đợi hửng rồi hãy đi. - ông Phúc húng hắng ho, tung chăn trở dậy.
- Thầy nó trông các con giúp tôi. Tôi đi ù một lát rồi về. Người còn rét muốn rụng ngón tay, nghĩ càng thương cây mạ. Siêu nước sôi tôi ủ trên bếp thầy nó pha trà uống đi nhé. Nhớ nhắc bà ém chăn kín cho thằng nhỏ…
Đôi thúng gio lèn chặt vít cong chiếc đòn gánh, nhún nhẩy theo dáng người mềm mại của chị hai Phúc ra đồng. Ông Phúc nhìn theo vợ, thở dài. Mang tiếng lấy chồng là ông Cử, vừa có nghề bốc thuốc, vừa có nghề dạy học, lại cai quản một cơ ngơi bề thế nhất làng, mà chị hai Phúc cũng chẳng khác gì một tá điền. Cũng thức khuya dậy sớm thắt lưng con cón ra đồng từ sớm tinh mơ, về nhà lúc đã nhọ mặt người. Ngoài tháng năm, ngày mười phải thuê thêm thợ cày cấy, gặt hái, còn lại những lúc nông nhàn, bao nhiêu công việc đồng áng, nhà cửa, một tay chị làm cả. Cả làng Động ai cũng lấy ruộng rau muống, chum tương, vại dưa, vại cà, hũ mắm, bè khoai khô, sào khoai lỗ… nhà chị hai Phúc làm chuẩn mực. Những thứ lương thực thực phẩm dự trữ chiến lược ấy toàn một tay người đàn bà mới ngoài hai mươi tuổi ấy lo liệu. Chắt bóp, tằn tiện, căn cơ là phẩm chất cố hữu đã được truyền từ đời cụ kỵ, sang đời bà, đời mẹ, tới đời chị hai Phúc.
Ra khỏi luỹ tre làng, gió buốt như táp vào mặt. Gánh gio có lúc như muốn quay tròn, vì gió. Đang định tạt xuống cánh mạ, chị hai Phúc bỗng đứng sững lại, hai chân như chực khuỵu xuống, khắp người sởn gai ốc. Có tiếng trẻ con khóc thét ở chân gò ông Đống trước mặt. Tiếng khóc hệt như tiếng cậu ba Vọng, thằng con trai thứ ba, mới vừa đầy tháng tuổi của chị. Giữ tay trên hai dẻ quang, chị hai Phúc hơi xoay người lại phía làng để lắng nghe. Hay là thằng bê giật mình, thức dậy không thấy mẹ? Không phải. Chị trấn tĩnh lại. Rõ ràng tiếng khóc phát ra từ bụi tầm xuân trên gò ông Đống trước mặt. Thần gốc đa, ma ông Đống. Hay là ma đói hiện về định bắt nạt người? Chị Phúc toan bỏ gánh gio, chạy về nhà.
Nhưng rồi tiếng khóc ngằn ngặt của đứa bé cứ níu chân chị lại. Chị đặt hai thúng tro xuống, cầm ngang chiếc đòn gánh như thứ vũ khí tự vệ, rồi quả quyết bước tới.
Cái gì kia? Một búi giẻ rách thâm đen bung ra, lăn từ gốc bụi tầm xuân xuống vệ cỏ, để lộ một cục thịt đỏ hỏn. Chị hai Phúc muốn bổ chứng khi nhìn rõ khuôn mặt đứa trẻ với đôi mắt sưng húp, cái mũi trắng nhợt, cái mồm cá ngão khóc ngằn ngặt. Một đứa trẻ hoang thai. Cuống cuồng như chính đứa con của mình bị ai đó bắt trộm mang bỏ giữa đông, chị Phúc cúi xuống ôm cả đứa bé và húi giẻ rách vào làng, kéo chiếc áo tơi che gió lạnh, rồi tất tả chạy về nhà.
Lúc đó, ông Cử Phúc đang ngồi xếp bằng trên sập gụ. Chén trà đầu tiên trong ngày và hơi thuốc lào cần vương vít từ miệng chiếc điếu bát băng đồng thau sáng bóng đang làm ông ngây ngất. Từ mấy chục năm nay, thói quen buổi sáng thức dậy của ông Cử Phúc là vậy. Ông có thể ngồi hằng giờ, cho tới khi cạn ấm trà ủ trong giỏ tích và say lơ mơ trong khói thuốc lào. Thường thì ông tự làm cho đầu óc mình trống rỗng. Ông không nạp cũng không giải một thứ thông tin gì trong não bộ. Đây là một phương pháp dưỡng sinh ông tự luyện cho mình. Và thấy rất hiệu quả không chỉ cho não bộ mà cả toàn bộ hệ kinh mạch.
Nhưng sáng nay, thông lệ đã bị phá vỡ. Suốt đêm qua, và cả bây giờ, trong đầu ông vẫn bị ám ảnh bởi lá số tử vi của thằng cu Vọng: Nhân đầy tháng con, cụ Nhiêu Biểu, thầy dạy của ông, đã lập cho thằng bé lá số tử vi. Hôm qua, suốt cả buổi chiều, hai thầy trò đã cùng giải chi li đến từng tiểu hạn. Mệnh vô chính diệu. Tuần Triệt ở cung Thân. Thiên liệt, Thiên khốc ở cung Phụ mẫu. Lưu hà, Kình dương ở cung Di, Thớt sát, Phá quân, Tham lang trực chiếu cung Mệnh. Thái dương, Thái âm, Thiên lương đều ở cung Hãm địa. Số thằng này, y hệt như hai thằng anh, suốt đời phát vãng, lưu tán.
Nhắm mắt lại, ông Cử vẫn nhìn thấy từng vị trí an sao của thằng con trai. Kỳ lạ nhất là cả ba lá số của ba thằng con ông đều có sao Kình dương, Kiếp sát đóng ở cung Phụ mẫu. Riêng thằng Vọng, vòng đại hạn từ 36 đến 48 có sao Lưu hà, Thiên mã trực chiếu cung Mệnh, có thể chết vì sông nước.
- Anh phải có một thằng con nuôi - Cụ Nhiêu Biểu trầm ngâm giây lâu, rồi nhìn thẳng vào ông Cử nói chậm rãi - Tam nam bất phú đã đành. Nhưng nếu có thằng con nuôi sẽ thành tứ hổ bất nhược, nó sẽ phá cái thế Tuần, Triệt, gánh cho ba thằng con anh cái mệnh phát vãng, lưu tán. Còn tôi, còn anh, cứ ngẫm mà xem. Đem lá số của ba thằng đối chiếu với anh, tôi lo lắm. Anh biết lúc an sao cho thằng ba Vọng, tôi giật mình về điều gì không?
- Dạ, có phải vì cháu mệnh Vô chính diệu? - ông Cử dè dặt trả lời cụ Nhiêu.
- Cũng chỉ một phần. Tôi lo nhất là Tuần Triệt đều đóng ở cung Thân. Sao Tử vi hãm địa ở cung Di. Đối chiếu với Chu dịch, thằng bé ứng vào quẻ Độn. Kiền trên, Cấn dưới… Độn tức là lui vì vậy quẻ Độn mới nối quẻ Hằng. Độn là lui, là tránh, bỏ chỗ này đi chỗ kia. Nó là quẻ dưới trời có núi, trời là vật ở trên, tính Dương tiến lên, núi là vật cao vót, hình tuy cao vót mà thể thi là vật đậu. Có Tượng tiến lên mà bị đậu lại không tiến lên, trời bèn tiến lên mà bỏ nó. Dưới lấn lên mà trên bỏ đi, ấy là xa nhau, cho nên là nghĩa lánh đi. Hai hào âm sinh ở phía dưới, là khí âm đương lớn sắp thịnh, khí dương phải tiêu mà lui, kẻ tiểu nhân thịnh dần, đấng quân tử lui mà tránh nó, cho nên là trốn…
Những điều cụ Nhiêu Biểu nói, khiến ông Cử hoang mang. Ông đi lại kệ sách toan lấy cuốn Kinh Dịch xuống xem lại, thì có tiếng bước chân hốt hoảng của vợ.
- Kìa u nó, có việc gì phải không?
- Tôi bắt được đứa bé này ngoài gò ông Đống, thầy nó ạ - Tiếng chị hai khản đặc, run run - Có người hoang thai vứt nó trong bụi cây. Thoạt đầu nghe tiếng đứa bé khóc, tôi cứ tưởng ma trêu…
Ông Cử Phúc lật đật lấy tã lót của cậu ba Vọng, giúp vợ thay cho đứa bé. Có sự trợ giúp của chồng, chị hai đã hết run.
Bằng những động tác thuần thục và kinh nghiệm của người mẹ, chị ủ đứa trẻ trong lớp tã lót mới. Mở ra mới biết đó là một bé trai, dái thâm như quả hồng xiêm rụng. Ngay phía dưới rốn nó, có một vết da màu lông chuột bằng đồng xu, như một vết đánh dấu vô tình của tạo hoá.
- Nhà mình có phúc rồi - chợt nhớ đến lời cụ Nhiêu Biểu, ông Cử Phúc gật gù nói với vơ, - nó đang đói lả đi kìa. U nó cho bú đi.
Chị hai Phúc cởi khuy áo ngoài, thốc tấm yếm màu hoa hiên, lộ ra bầu vú trắng bóc, căng tròn. Ấn nhẹ hai ngón tay vào núm vú cho sữa chảy ra, rồi chị ấp miệng thằng bé vào ngực mình. Choàng tỉnh sau cảm đói lả và quặn rét, thằng bé ngoạm chặt núm vú, như một gã háu ăn và tham lam, nó mút chùn chụt.
Nhìn cái miệng nhỏ xinh loe ra, đôi má hõm vào với một ham muốn của bản năng sinh tồn, người đàn bà bỗng động lòng trắc ẩn. Những va chạm hít hà vô thức đã dội vào tâm hồn vốn đa cảm và nhân hậu của chị, đẩy nước mắt trào ra hai khoé.
- Ầu ơ đói lắm đây mà. Nó tệ quá phải không? Nỡ vứt bỏ người ta giữa bụi tầm xuân. Nó đâu còn là cái giống người, đúng không? - Chị nói chuyện với thằng bé, nhìn vào đôi mắt ti hí như mắt chuột của nó với tất cả tình cảm thân thương của người mẹ. Chị mường tượng ra một người đàn bà trẻ đang như điên dại ngoái đồng. Người đàn bà ấy đang bị dồn đuổi đến bước đường cùng. Chị ta là ai? Một cô gái trê bị ăn phải bùa ngải lầm lỡ hay một thân phận lẽ mọn bỉ ruồng bỏ? Sao chị ta không để lại một lời nhắn gửi, một dấu tích gì? Sao chị ta không mang đứa trê đến một nhà thương làm phúc hay gửi gắm ở một ngôi chùa? Thằng bé sẽ lăn xuống ruộng, bị sặc trong bùn, sẽ bị kiến bu, rắn cắn, quạ mổ, hoặc bị chết rét vì gió bấc, mưa phùn…
Bất giác chị hai Phúc thảng thốt nhìn ra khoảng trời xám ngắt mờ mịt cuối làng. Vẳng trong gió hình như có tiếng ai gào khóc. Chị như nhìn thấy rõ một người đàn bà đầu tóc xoã xười quần áo tơi tả, bộ mặt vô hồn đang vật vờ trên đường đồng hun hút, đang lê bước trở lại bụi tầm xuân trên gò ông Đống với nỗi dày vò và trái tim giằng xê.
Trong khi chị hai Phúc thầm chuyện trò với đứa bé thì ông Cử Phúc lặng lẽ đi lên nhà thờ. Năm gian điện thờ im phắc. Mùi hoa huệ thơm thoảng, tinh khiết và mê hoặc. Khoác chiếc áo the, đội khăn xếp, ông Cử thay nước cúng rồi thắp một tuần nhang. Khói hương bảng lảng gợi không khí thâm nghiêm huyền bí ông Cử tưởng như mình đang hầu chuyện các bậc tiền nhân.
- Duy… Việt Nam quốc, Sơn Minh tỉnh, Phương Đình huyện, Phương Tú xã, làng Động trung thôn. Tin thần tín chủ Nguyễn Kỳ Phúc, kính bái Cao tằng tổ khảo, Cao tằng tổ tỉ, Bá thúc huynh đệ, Cô di tỉ muội, Táo phủ thần quân, Lục vị gia thần, trăm muôn vạn mớ lạy…
Ông Cử Phúc như hồi tưởng lại cả một chặng đường xa lắc từ thời các bậc tiền nhân mở đất ở làng động, cho tới đời ông, đời cha mình. Ông báo cáo về việc ba thằng con trai của ông có thêm một thằng em trai nữa. Ông kính xin tổ tiên gia ân phúc cho thằng bé, cho nó một cái tên của dòng họ Nguyễn Kỳ.
- Con chó này háu ăn lắm. Mình để nuôi, thầy nó ạ - Chị hai Phúc nói khi ông Cử từ nhà thờ đi xuống. Gương mặt chị bừng sáng như đức Phật Quan Thế âm vừa cứu vớt một sinh linh. Đôi mắt rời rợi một thứ ánh sáng tràn ngập hạnh phúc.
Cái cảm giác nhộn nhột đê mê được truyền từng tia sữa, được đùm bọc che chở cho cái sinh linh bé nhỏ đang nằm gọn trong lòng chị với sự thoả thuê, mãn nguyện, an bàng, khiến chị không giấu nổi chồng những viễn cảnh ngày mai - Để hai con chó cùng bú chung, chúng càng thi nhau hay ăn chóng lớn, thầy nó ạ. Nhà mình thêm một suất đinh, là tứ hổ, chẳng sợ thiên hạ bắt nạt.
Ông Cử Phúc cảm thấy như tâm hồn ông đang được dội từng đợt sóng hạnh phúc. Ông lại khám phá thêm một phẩm chất tuyệt vời, một tấm lòng vị tha nhân hậu của người bạn đời đã cùng ông ngọt bùi cay đắng. Mới đó mà đã sáu năm.
Lại nhớ cái năm chị cả Phúc bị chết vì hậu sản, thằng Khôi mới vừa hai tuổi. Hằng tháng ròng, đêm đến ông ngồi chong đèn thở dài thườn thượt, khi thằng cu Khôi khóc ngằn ngặt trong lòng bà nội vì nhớ hơi mẹ. Thương con một phần, nhưng xót mẹ bội phần. Đợi hết giỗ đầu chị cả Phúc, ông bằng lòng để bà Đồ Kha sửa cơi trầu xin cưới Ân.
Cô Vũ Thị Ân, mười bẩy tuổi, là con út cụ Nhiêu Hanh, một địa chủ bị sa sút của vùng bãi trồng dâu dệt lụa. Ngày còn sinh thời cụ Đồ Kha, giữa cụ đồ và cụ Nhiêu đã có lời hứa sẽ gả con cho nhau để làm chỗ thông gia đi lại. Hiềm nỗi, năm anh con trai cụ Đồ Kha đến tuổi thành gia thất thì con gái cụ Nhiêu Hanh quá nhỏ. Hai bên đành thất hứa. Năm chị cả Phúc mất, cô Ân mười sáu tuổi, nhiều trai làng ngấp nghé, nhưng cụ Nhiêu Hanh nhất định chỉ đánh tiếng với cụ Đồ Kha bà, muốn nhắc lại lời hứa xưa. Cho nên, với ông Cử Phúc, việc cụ Nhiêu Hanh gả con gái yêu cho ông là một nghĩa cử cao cả, một kỳ vọng lớn lao, giống như vua Trần xưa vì nghĩa lớn, vi đại sự quốc gia mà gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm Chế Mân vậy. Cô Ân kém ông Cử Phúc hai mươi tuổi đáng tuổi con, lại đang tuổi dậy thì, đẹp rờ rỡ như đoá hoa hàm tiếu. Cuộc hôn nhân quá bất ngờ đối với cô Ân, nhưng lại tất yếu như định mệnh, như đạo lý của Khổng Nho "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy", khiến cô chỉ xao xuyến, lo âu và hơi có phần hoang mang khoảng một hai tuần trước ngày cưới. Người đàn ông tục huyền với cô đã có một cậu con trai ba tuổi, lại đã qua kỳ tam thập nhi lập khiến cô lo lắng đến trách nhiệm và bổn phận hơn là chờ mong hạnh phúc. Chao ôi, cái đêm hợp cẩn, là một đêm nhớ đời đối với cả hai người.
Cô Ân nằm nép trong góc giường, người bó chặt trong bộ quần áo cưới ban ngày, khóc thút thít. Nỗi sợ hãi, chen một chút tủi thân, một chút nhớ cha mẹ, một chút mặc cảm… làm cho khắp người cô cứ run lên từng đợt. Ông Cử dường như nhận rõ những điều đó. Ông nằm bất động, hai tay khoanh trước ngực, mắt nhìn chong chong lên nóc buồng. Ông cảm thấy mình vừa như có lỗi với người vợ quá cố, vừa như quá tàn nhẫn, ích kỷ, không xứng đáng đối với sự trinh trắng, ngây thơ của Ân. Thật lạ, trong lòng ông không hề mảy may chút dục vọng. Những ý nghĩ khiến tâm hồn ông trong suốt, thánh thiện. Ông lặng lẽ khóc và ngủ thiếp đi từ lúc nào.
Đêm tân hôn trở thành một đêm thuần khiết, không giới tính. Đó là cột mốc dẫn dắt và định hướng cuộc hôn nhân của họ mỗi ngày thêm tràn đầy một thứ tình yêu mang đậm màu sắc đạo lý và lòng biết ơn, trân trọng, nâng đỡ nhau. Ba năm sau, cô Ân, giờ được mọi người gọi là chị hai Phúc, bà Cử Phúc, sinh bé Nguyễn Kỳ Vỹ, hai năm sau nữa sinh tiếp bé Nguyễn Kỳ Vọng. Ba anh em nhưng ít ai biết chúng cùng cha khác mẹ. Thậm chí cậu cả Khôi được chị Ân nuông chiều hơn hai đứa nhỏ. Mọi chuyện từ ăn mặc, thuốc men, học hành bao giờ chị cũng xếp Khôi ở hàng số một. Khôi là anh cả, phải được ưu tiên đặc biệt thì sau này mới "quyền huynh thế phụ", giúp các em lo việc gia đình - Chị Ân thường nhắc với chồng như thế…
- Tam nam bất phú. Giờ mình lại có thêm một nữa là tứ nam. Tứ hổ bất nhược, nhà nó ạ - ông Cử Phúc kéo một mồi thuốc lào lơ mơ nhìn cụm khói tản trong gió, tự gật gù vì một ý tưởng chợt đến - Mình sẽ đặt tên cho thằng bé là Nguyễn Kỳ Quặc, u nó ạ. Nó đến nhà mình là một điều kỳ quặc, bất ngờ không giải thích nổi. Nhất định là nó không thể mang họa, mà chỉ mang phúc đến, như cụ Nhiêu Biểu đã nói. Dù thế nào tôi với u nó cũng sẽ nuôi thằng bé thành người, coi nó như con đẻ, như thằng Khôi, thằng Vỹ, thằng Vọng. Nó kém thằng Vọng một tháng tuổi, phải chịu làm em. Để tôi lấy cho thằng bé một lá số. Cứ coi như giờ này, ngày này, tháng này u nó đã sinh ra thằng Quặc.
Nguyễn Kỳ Quặc đã được tái sinh ở cửa nhà ông bà Cử Nguyễn Kỳ Phúc như thế. Nó cùng với cu Vọng bú chung một bầu vú, nằm chung một nôi, một vòng tay ấp, mặc chung tã lót, áo quần. Nhiều người hiếm con đến nài nỉ, thậm chí xin chuộc một món tiền lớn để được nhận thằng Quặc làm con, nhưng đời nào ông bà Cử Phúc chịu nhường.
Hai đứa trẻ, như hai con chó con, suốt ngày bám váy mẹ. Chúng được bà nội, cụ Đồ Kha, đặt cho hai cái tên xấu xí cho dễ nuôi: Vện và Cục. Cu Vện thì rõ rồi, Vện đọc chệch từ Vọng. Nhưng cái tên Cục thì lại có nguyên cớ. Số là khi cu Quặc và cu Vọng biết chạy lon ton, biết gọi u, gọi bà, cũng là lúc chúng biết giành nhau củ khoai, quả táo, hay những thứ đồ chơi do ông Cử đẽo gọt từ gỗ, tre. Một lần hai đứa tranh nhau một quả bưởi. Trái cây vẫn còn xanh nên không thể ăn được, nên cụ Đồ Kha cho hai thằng cháu đá bóng. Cu Vọng cả thèm chóng chán. Đá một lúc, nó đòi bổ ăn, và cứ ôm chặt giữa chân khiến cu Quặc không lấy được. Quặc liền chạy đi kiếm một thanh tre phang vào đầu vào mặt thằng Vọng.
Đến khi cụ Đồ Kha phát hiện ra hai đứa cùng khóc thét, một đứa cố giữ quả bưởi, một đứa cố giành lại, thì một bên má thằng Vọng đã bị cào rách sưng vù, máu chảy toe toét. Sau này thằng Vọng bị một vết sẹo ở đuôi mắt trái. Tên Cục được bà cụ đồ gọi thằng Quặc từ lần ấy.
Càng lớn, thằng Vện và thương Cục càng lộ rõ sự khác biệt của hai dòng máu. Vện đậm người, da trắng, mắt nai, tính tình nhút nhát, hiền lành. Cục cao vỏng, mặt xương, mũi cao, mắt xếch pha màu xanh lơ, nghịch ngợm như quỉ sứ.
Vào năm thằng Vện và thằng Cục lên mười, có một người đàn bà lạ tìm đến nhà ông Cử Phúc. Chị đóng vai một con bệnh nón mê úp chụp, khăn vuông đen quấn kín mặt, bụng lùm lùm như chửa năm sáu tháng. Những con bệnh tìm đến ông Cử Phúc nhiều người từ những nơi rất xa, có người đến ăn nghỉ để chữa bệnh hàng tuần. Vì thế việc người đàn bà lạ đến đây là sự thường tình. Tuy vậy, sự xuất hiện của người đàn bà chứa lần này lại khá thận trọng. Chị kín đáo nhìn quanh. Chị dừng lại ngoài cổng dò xét động tĩnh, rồi nhẹ nhàng đánh tiếng vào nhà.
Ông Cử bỗng giật mình khi người đàn bà bỏ khăn ra. Một gương mặt trái xoan trắng hồng, đẹp một cách sắc sảo và cương nghị với đôi mắt phượng xếch ngược như mắt nàng Tây Thi trong vở tuồng cổ. Thoáng nhìn, ông Cử biết ngay người đàn bà trạc hai lăm, hai sáu tuổi này hoàn toàn không bệnh tật gì.
- Thưa ông, tôi vừa từ chỗ anh cả Khôi đến.
- Khôi nào nhỉ? - ông Cử Phúc làm ra vẻ ngạc nhiên.
- Anh cả lôi con trai ông - Người đàn bà nhìn ông với ánh mắt như bảo rằng chị đã biết hết cả, không cần rào đón nữa.
Chị ngó nhìn quanh đầy cảnh giác rồi giở tấm vải quấn quanh bụng, lấy ra một lá thư được gấp rất nhỏ:
- Anh Khôi có thư cho ông.
Ông cử mở kính, đọc những dòng chữ thân thuộc:
"Kính gửi thầy,
Người cầm thư này là chị Cam, cùng nơi làm việc với con. Chị Cam sẽ nói với thầy về những điều con không tiện viết trong thư. Thầy u cùng các em có khoẻ không? Con vẫn luôn nhớ gia đình ta. Kính mong thầy khang kiện.
Con trai, Khôi".

Giờ thì ông Cử không nhìn người đàn bà với con mắt của một thầy thuốc đối với bệnh nhân nữa, mà ngược lại, chính ông đang có tâm trạng của một con bệnh. Người đàn bà đến gặp ông đây chính là một cán bộ Việt Minh. Rất có thể chị ta là cấp trên của con trai ông.
- Tôi hỏi chị khí không phải. Tình hình sức khoẻ và công việc của cháu Khôi nhà tôi có tốt không ạ?
Thay vì câu trả lời, Cam lấy từ trong lần áo lót ra một tấm ảnh chân dung đưa cho ông Cử.
- Anh Khôi khỏe mạnh lắm ông ạ. Đây là ảnh anh ấy vừa chụp. Ông thấy ra dáng một chàng trai khôi ngô tuấn tú không? Anh ấy gửi ảnh này về cho ông để ông làm cho một tấm thẻ căn cước. Sắp tới Khôi sẽ có việc vào trong thành Hà Nội.
Ông Cử run run đón bức chân dung đứa con trai suốt ba năm nay ông không gặp mặt. Vậy là thằng Khôi của ông đã trở thành một đấng nam nhi rồi. Trông ảnh không ai bảo rằng nó mới mười tám tuổi.
Người đàn bà kéo ghế ngồi sát ông Cử, giọng nhỏ lại:
- Chắc ông cũng biết, lực lượng Việt Minh đang rất lớn mạnh. Anh Khôi đang được thượng cấp đặc biệt tin cậy giao nhiều trọng trách. Tại Việt Bắc, chiến cuộc Thu - Đông đã giáng cho quân Pháp những đòn chí mạng…
- Thưa cô. Thế lực quân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ còn hùng hậu lắm - ông Cử lắc đầu, có ý phản bác những điều Cam vừa nói - Vụ quân Pháp nhảy dù xuống Phương Đình, Ba Thấu vừa rồi khiến Việt Minh bị mất chỗ đứng…
- Pháp nhảy dù trong thế yếu. Nó chứng tỏ Pháp phải chống trả với Việt Minh ở ngay sát nách Hà Nội. Theo nhận định của thượng cấp, sắp tới Pháp sẽ thiết lập một hệ thống đồn bốt dọc tả ngạn sông Điền, lập chế độ tề nguỵ để bảo vệ vòng ngoài Hà Nội và khống chế Việt Minh ở vùng tự do Liên khu Ba. Làng Động của ông là một điểm lập bốt của địch.
- Vâng, thưa cô. Bọn chúng đang chọn đình Đụn làng tôi để lập bốt. Các cụ phụ lão trong làng đang có đơn kêu lên quan phủ, quan tỉnh, phản đối.
- Thưa ông Cử. Tôi được thượng cấp chỉ thị đến gặp ông để bàn về chuyện này. Chúng ta phải tương kế tựu kế. Địch muốn thiết lập hệ thống chính quyền cai trị ở vùng tề, thì Việt Minh cần biến hệ thống đó thành cơ sở của mình để phục vụ kháng chiến. Vậy là chúng ta phải có một đội ngũ những người làm việc hai mang, ban ngày làm việc với địch, ban đêm là người của ta.
- Tôi hiểu… Nhưng đây là một công việc không dễ dàng…
- Để làm được việc này, Việt Minh phải dựa vào những người yêu nước như ông, như các bạn của ông là các ông Hội Thiện ở Nghi Sơn, ông Đồ Sắc ở Chi Hạ, ông Lang Kiêu ở Trầm Bồi…
Ông Cử Phúc tròn mắt, nhìn Cam đầy kinh ngạc.
- Ủa, sao cô lại biết những người bạn của tôi?
- Không có việc gì mà Việt Minh chúng tôi không biết - Cam nháy mắt, cười, nụ cười vừa tinh nghịch vừa đẹp đến mê hồn - Chúng tôi còn biết tuần trước tay đồn trưởng Trương tổ tôm và ông đã từ chối. Trương Phiên là tay chơi tổ tôm khét tiếng lâu nay. Trong khắp huyện Phương Đình này, Trương Phiên biết chỉ có ông Cử Phúc đáng mặt là đối thủ tổ tôm của hắn mà thôi…
Ông Cử Phúc rùng mình, ớn lạnh.
- Dạ, thưa cô tôi đâu dám… Tôi không thể hầu tổ tôm ông đồn trưởng Phiên, khi các bô lão làng Động đang phản đối việc Tây lập bốt ở đình làng.
- Nếu ông nhận lời làm lý trưởng làng Động theo sự bố trí của Việt Minh; thì ông lại cần phải chơi tổ tôm với đồn trưởng Phiên để nắm được nhiều thông tin của địch. Nhân đây xin lưu ý với ông rằng viên đồn trưởng Tây lai Trương Phiên mới gia nhập làng Tây, là một hạt giống mà người Pháp muốn gieo ở vùng đất này. Trước khi về đồn trú ở đây, Trương Phiên đã tham gia trận càn ở vùng Khu Trắng và đã phạm một tội ác tày trời…
- Tôi biết vụ sát hại này - ông Cử thở dài - Chính tay Trương Phiên đã bắn chết ba mươi du kích rồi chặt đầu treo lên cành đa giữa đồng Trầm Khê.
- Nợ máu này phải trả - Giọng Cam đanh lại - Theo chỉ đạo của thượng cấp, tên ác ôn này ta muốn khử lúc nào cũng được nhưng vì hắn là một đầu mối quan trọng nên ta cần khai thác. Vì thế nhiệm vụ của ông Cử là phải kết thân với hắn. Càng tỏ ra thân thiết càng tốt. Tiếp cận kẻ địch tốt nhất lúc này lại là lực lượng nhân sĩ trí thức như các vị. Chính vì vậy thượng cấp rất muốn ông vận động các ông Đồ Sắc, Lang Kiêu, Phó Đại nhận làm các chức sắc cho địch. Đặc biệt thượng cấp muốn nhờ ông thuyết phục người bạn kết nghĩa của ông là ông Hội Thiện ra làm Chánh tổng cho Pháp để có điều kiện giúp đỡ Việt Minh…
Ông Cử Phúc nhìn Cam đầy thán phục. Không cái gì qua mặt cô ta được. Đúng là Hội Thiện là bạn chí cốt của ông, thân nhau tới mức sẵn sàng đổi vợ như Lưu Bình - Dương Lễ ngày xưa. Hai người cùng là môn đệ ruột của thầy Đồ Chuông, người bị lỡ chuyến Đông Du với Nguyễn Thượng Hiền vì vướng tang mẹ, đành về quê ở ẩn, mở trường dạy học. Hội Thiện và Cử Phúc từng cắt máu ăn thề với nhau ở chùa Phổ Hướng, kết nghĩa huynh đệ suốt đời sướng khổ, hoạn nạn có nhau.
- Theo tôi biết, người Pháp đã đích thân gặp ông Hội Thiện bạn tôi ba lần, tha thiết mời ông ấy ra làm Chánh tổng, nhưng bạn tôi từ chối - ông Cử nói.
- Vậy thì ông hãy khuyên ông Hội Thiện nhận làm Chánh tổng đi. Pháp đang rất cần sự hợp tác của các nhân sĩ trí thức đã từng được đào tạo ở các trường do người Pháp xây dựng, lại từng giao du với các văn thân yêu nước. Ông Hội Thiện là người mà Pháp rất cần lôi kéo, tranh thủ. Nếu ông Hội Thiện nhận vào tổ chức Việt Minh để lọt vào hàng ngũ Pháp là một hành động yêu nước lúc này. Việt Minh sẽ có người liên lạc và có các chỉ thị với ông Hội Thiện bất cứ lúc nào. Chính phủ Cụ Hồ sẽ có ghi nhận và có phần thưởng xứng đáng khi nước nhà độc lập.
Cuộc trò chuyện bí mật với người đại diện của Việt Minh đã tạo một bước ngoặt trong đời ông Cử Phúc, đưa ông từ một nhà nho yếm thế có tư tưởng yêu nước chung chung thành một người dám dấn thân, hành động, từ một người bàng quan, đứng ngoài cuộc kháng chiến thành người của Việt Minh, nhận những chỉ thị của Việt Minh để hoạt động trong vùng tề. Hai tháng sau cuộc gặp gỡ với Cam, ông Cử Phúc đã nhận chức lý trưởng càng Động, chính thức mang tên Lý Phúc, tập hợp quanh mình một hệ thống chức dịch có chung chí hướng như ông: Hoạt động hai mang, ban ngày, bề ngoài thì làm việc cho chính quyền bù nhìn tay sai của thực dân Pháp, nhưng thực chất là người của Việt Minh cài cắm vào hàng ngũ địch. Những người bạn của ông như Đồ Sắc, Lang Kiêu, Chánh Thạp, Cửu Cao, Hội Thiện cũng đều được Việt Minh cài vào hàng ngũ địch như vậy.
Nhờ sự giới thiệu của ông Cử Phúc, Cam đã làm quen với ông Hội Thiện, con quan án sát trấn Kinh Bắc, người đã ngấm ngầm ủng hộ Đề Thám trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Hội Thiện là một trí thức kiêm điền chủ lớn, giao du rộng, bạn hữu nhiều và đặc biệt có uy tín với nhân dân trong vùng. Sau vài cuộc gặp gỡ với Cam, Hội Thiện đã tự nguyện gia nhập Việt Minh và đồng ý hoạt động hai mang, nhận chức Chánh tổng Phương Lâm, một tổng lớn của huyện Phương Đình tỉnh Sơn Minh.
Giả trang một người đàn bà mua lông vịt và đông nát, Cam còn trở lại gặp ông Lý Phúc vài lần nữa. Một lần để lấy thẻ căn cước cho Nguyễn Kỳ Khôi và nhận tám trăm đồng bạc Đông Dương của bẩy địa chủ yêu nước trong huyện ủng hộ chính phủ kháng chiến Việt Minh, mấy lần sau là nhận sơ đồ hệ thống bố phòng của địch ở bốt làng Động và bốt Phủ.
Còn một mục đích nữa, chuyện riêng tư nhưng vô cùng thiêng liêng và hệ trọng trong những lần Cam đến gặp ông Lý Phúc. Mãi mãi sau này, ngoài Cam ra, không ai biết được chủ đích này của nàng. Đó là nỗi khắc khoải được nhìn thấy mặt thằng Cục.
Cái thằng bé, càng lớn trông nó lại càng khác lạ so với người anh em cùng tuổi với nó. Bây giờ, khi thằng Vện và thằng Cục đã lên mười và cùng theo học ở trường làng, chúng khác nhau như thìa với bát nhưng lại dính nhau như hình với bóng. Thằng Vện ẻo lả thư sinh, còn thằng Cục cao kều, mặt như Tây lai, mắt xanh, tóc xoăn râu ngô.
Nhiều người ở làng Động xì xầm với nhau rằng thằng Cục hao hao giống đồn trưởng Trương Phiên. Gã đồn trưởng Tây lai này khét tiếng cả vùng không chỉ về vẻ ngoài đẹp trai dễ làm xiêu lòng các cô các bà mà còn cả về sự hiếu sắc và tàn bạo của gã. Trong bất cứ cuộc càn quét tìm diệt nào, tay chân của gã cũng tìm ra một vài cô gái đẹp để dáng cho gã. Và bao giờ sau khi thưởng thức xong, gã cũng có cái thú là tháo khoán cho lũ đệ tử chơi hội đồng để gã vừa uống rượu vừa thưởng ngoạn. Bằng những chiến công tìm diệt du kích, xoá sổ nhiều ổ cộng sản, gã đã liên tục được gắn mề đay, thăng chức, được điều từ đơn vị lính cơ động về giữ chốt phòng thủ vành đai quanh Hà Nội. Ngay từ ngày đầu về đóng bốt làng Động, ai gặp đồn trưởng Trương Phiên cũng liên tưởng đến thằng Cục. Đặc biệt là ông Cử Phúc. Lần đầu tên đồn trưởng dẫn lũ lâu la đến nhà rủ ông đánh tổ tôm, ông kinh ngạc quá suýt kêu lên. Sao ông đồn trưởng này lại có nét hao hao giống thằng Cục con ông? Cũng một khuôn mặt Tây lai không nhầm lẫn được, đặc biệt là cái mũi thẳng dọc dừa, đôi mắt hai mí sâu phơn phớt xanh. Chỉ có điểm khác duy nhất là trán thằng Cục hơi ngắn và hẹp, trán ông đồn trưởng cao và gồ lên, dữ dội. Cũng may mà hôm ấy ông Cử Phúc trấn tĩnh lại được, và cũng may hôm ấy thằng Cục và thằng Vện đi học vắng, cho nên chính đồn trưởng Trương Phiên cũng không biết câu chuyện giống nhau kỳ lạ này.
Cam chú ý đến thằng Cục ngay từ lần đầu giả trang làm người đàn bà chứa tìm gặp ông Cử Phúc. Dường như đó mới là mục đích chính của nàng chứ không phải là nhiệm vụ của người cán bộ Việt Minh. Lần gặp thằng Cục đầu tiên ấy, Cam bàng hoàng lặng lặng, tưởng chừng tim nàng như ngừng đập. Nàng loạng choạng chực buông chiếc tay nải bên vai. Nàng phải đứng dựa vào gốc cây xoan cho khỏi ngã. Tự dưng những giọt nước mắt nối nhau chảy. Trong làn nước mắt nhoè mờ, nàng hình dung ra cái buổi chiều gió bấc ràn rát năm nào…
Có những lần, Cam không đến gặp ông Cử Phúc, mà chỉ đến để ngắm nhìn thằng Cục. Nàng không dám đến gần mà phải ngắm thằng bé từ xa, lúc nếp bên bụi tre đầu ngõ, lúc giả vờ nhồi sau đống rơm, lúc giả đò xuống rửa ở cầu ao. Rất ít khi thằng Vện tách rời khỏi thằng Cục. Chúng cùng nhau đi học về. Chúng tha thẩn bên bờ ao rình bắt những con châu chấu hoặc dùng hoa mướp vàng buộc vào cần câu để nhử những chú ếch cốm. Có lúc chúng chơi khăng, hoặc đi tìm những chạc cây và mọc bên mép nước để làm súng cao su. Buồn cười nhất là một lần Cam bắt gặp hai đứa chơi trò đái thi. Chúng đứng ở bờ ao, cùng tụt quần, cùng kéo chìm ra rồi thi nhau ưỡn người đái vào hai chiếc lá khoai nước xem đứa nào vừa đái xa vừa xuyên thủng được lá khoái. Cam để ý trong những cuộc chơi, bao giờ thằng Cục cũng tỏ ra thành thạo. Rõ ràng Cục đái xa hơn Vện. Nó nhanh nhẹn và đặc biệt hiếu động. Thằng Vện có vẻ phát tướng về văn, còn thằng Cục lại đặc biệt có tướng mạo và tư chất theo nghiệp võ. Càng ngắm, Cam lại càng thấy nó giống con người ấy lạ lùng.
Sao tạo hoá lại nghiệt ngã đến nhường kia? Nàng đã tàn nhẫn và thú tính đến mức đang tâm vứt bỏ nó như vứt bỏ nắm rẻ rách ngoài đồng, vậy mà nó vẫn sống, vẫn lồng lộng như một thiên thần. Sao tạo hoá không cho nó một dáng vẻ bình thường mắt đen, tóc đen, mũi tẹt như bao đứa trẻ khác của xứ sở này mà lại bắt nó phải mang tiếp hình hài của kẻ đang gây đau thương tang tóc, kẻ nợ máu với dân tộc nàng?
Quả là một trớ trêu của định mệnh, một trừng phạt khắc nghiệt với riêng nàng. Những ý nghĩ khiến trái tim nàng đau buốt. Nàng vừa hạnh phúc khi nhận ra giọt máu bỏ rơi của mình đã có một nơi nương tựa tin cậy, lại vừa dằn vặt, đau đớn khi biết mình đã vĩnh viễn mất nó.
Rình mãi, rồi Cam cũng tìm được cơ hội để gặp riêng thằng Cục.
- Này Cục. Cô trông cháu chằng giống con nhà ông bà Cử Phúc tẹo nào. Cháu là con nuôi phải không? - Cam đón đầu thằng bê lúc nó đang đuổi bắt một con nhái để làm mồi câu.
Cam cho nó gói kẹo caramen để làm quen. Lúc đầu, thằng Cục tỏ ra đặc biệt thích thú với thứ kẹo bọc giấy mà lần đầu trong đời nó được thấy, nhưng khi nghe đến chuyện con nuôi con đẻ thì nó trừng mắt, phẫn nộ:
- Bà chỉ nói bậy. Tôi với anh Vện là hai anh em sinh đôi.
- Cháu thử soi gương mà xem. Hai đứa chằng giống nhau tẹo nào… Với lại, cháu có một cái bớt màu lông chuột ở dưới rốn mà thằng Vện không có. Các bạn trong xóm hay bảo cháu là thằng con hoang nhặt ngoài bụi tầm xuân trên gò ông Đống, đúng không?
Thằng Cục cụp mắt xuống, vẻ mặt buồn thiu. Nó lén quay người, tụt quần nhìn nhanh xuống dưới rốn. Sao người đàn bà này lại biết cái bớt ở dưới rốn nó nhỉ? Người này đã nhìn thấy nó tắm ở ao đình hay bà ta là một phù thuỷ? Bà ta lại còn biết rõ cả bọn trẻ con trong làng nữa chứ. Đúng là bọn trẻ láo lếu, nhất là thằng Ngạnh vẩu con nhà Ngao hay gọi nó là thằng con hoang, thằng bị quạ thả ngoài đồng.
- Cô nói đùa thế thôi… - Cam bỗng nghẹn ngào.
Cử chỉ ấy khiến thằng Cục chú ý. Người đàn bà này thật lạ lùng. Phải cảnh giác. Bà ta lấy những cái kẹo đặc biệt quí hiếm này ở đâu để cho nó? Tặng kẹo thì phải vui lên chứ sao lại sụt sùi chực khóc thế kia?
- Này, cô bảo… Nhớ chia cho anh Vện kẹo để hai anh em cùng ăn nhé… Nhớ yêu thương nhau, đừng đánh nhau nhé…
Nói rồi Cam rút từ trong người ra một vật. Một chiếc vòng bạc có kèm chiếc vuốt hổ. Người nàng bỗng run bắn lên khi kéo thằng Cục vào lòng để đeo vào cổ nó chiếc vòng bạc. Nàng khóc. Những giọt nước mắt lớn chảy xuống tay thằng bé, khiến nó hoảng hốt vứt trả chiếc vòng, bỏ chạy.
Cam, chính là người mẹ trẻ đã bỏ thằng Cục ở gò ông Đống đầu làng Động mười năm về trước. Tên gọi khai sinh của nàng là Bướm, một cái tên thoạt nghe có vẻ thô lậu, nhưng lại đượm mầu phù phiếm, phong tình.
Theo lời ông Cai Sâm, bố đẻ của Bướm, thì mẹ nàng là con của một bộ tướng tài ba của nghĩa quân Đề Thám. Vào thời loạn lạc ấy, mẹ nàng mới chỉ là một cô bé mười tuổi nhưng rất xinh đẹp. Cô bé trở thành chiến lợi phẩm của một ông Đội khố đỏ, khét tiếng cờ bạc. Đêm trước trận đánh vào khu căn cứ Bố Hạ, đối thủ của Cai Sâm bị thua cháy túi, phải gán đứa con gái chiến lợi phẩm cho Cai Sâm. Hôm sau, ông Đội khốn khổ ấy chết trận. Cai Sâm đem cô gái gửi một người bà con ở vùng Đáp Cầu nhờ nuôi, với ý định đợi lớn một chút sẽ dùng làm thê thiếp. Và Cai Sâm không phải đợi lâu. Vài năm sau, khi Cai Sâm giải ngũ, cũng là lúc trái cấm vừa chớm thì. Ông kịp nếm mùi của lạ. Nàng có thai. Đợi tiếp một năm, đủ thời gian mẹ tròn con vuông, Cai Sâm giữ lại đứa con gái xinh xẻo, gửi người nuôi tiếp, còn người mẹ trẻ đem bán cho một quan lang ở Mường Bi, lấy mười đồng bạc hoa xoè.
Trong cuộc đời binh nghiệp, Cai Sâm có hàng tá vợ, hàng đống con rơi, nhưng chỉ có Bướm, đứa con với người con gái xinh đẹp mang máu huyết anh hùng của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, được Cai Sâm mang về. Ông nói dối người vợ sư tử Hà Đông rằng Bướm là con gái yêu của người bạn cùng quân ngũ đã từng lấy thân mình cứu sống ông trong trận bọn quan binh Pháp lùa những người lính khố đỏ vào thiên la địa võng của núi rừng Yên Thế.
Càng lớn, Bướm càng đẹp lồ lộ. Mười lăm tuổi, nàng đã phổng phao hơ hớ như cô gái mười tám. Nhiều chàng trai chỉ ước ao được lọt vào mắt nàng. Vợ chồng Cai Sâm bỗng lên giá. Hệt như chuyện vua Hùng ngày xưa. Vừa có ý định kén rể, các Sơn Tinh, Thuỷ Tinh đã lục tục kéo đến. Có những ông Phán, bà Hàn, bà Đốc quen biết Cai Sâm từ đời tám hoánh, nay bỗng đánh tiếng muốn làm thông gia. Thế rồi chàng Sơn Tinh đã xuất hiện. Người ấy là Trương Phiên, con trai út của ông Bếp Tảo, bạn cùng quân ngũ với Cai Sâm. Bếp Tảo đi lính khố đỏ, biên chế chủ yếu ở đơn vị hậu cần. Do có tài nấu nướng, lại là chỗ họ hàng với quan Tổng đốc Hoàng Trọng Phu, nên thường được mời làm đầu bếp trong các buổi đại tiệc các quan Nam triều tiếp các quan nước mẹ Đại Pháp. Có một câu chuyện đàm tiếu về Bếp Tảo thời kỳ ấy. Ấy là thời gian ông lấy bà Tư Nguyệt. Thị Nguyệt vốn là một me Tây nổi tiếng ở vùng Đáp Cầu. Trước khi biết Bếp Tảo, Thị Nguyệt đã là nhân tình của viên quan ba Pháp Fournier. Khi Thị Nguyệt có mang một tháng thì viên quan ba Fourmer phải điều chuyển đi chiến trường Angiêri. Biết vậy nhưng vì cần xâm nhập vào giới thượng lưu Pháp, Bếp Tảo sẵn sàng chấp nhận việc quan ba Fournier đúc cốt để mình tráng men. Rất mừng là Trương Phiên sinh ra không mang trong mình dòng máu oẳn tà oằn Phi châu mà là sắc trời xanh trong mắt, mầu đặc trưng của vùng Địa Trung Hãi, miền Nam nước Pháp. Mặc miệng lưỡi thế gian, theo câu cách ngôn phương Tây: "Chó cứ sủa, đoàn người cứ tiến", ông Bếp Tảo và bà Tư Nguyệt cùng với cậu con trai Trương Phiên vẫn đạp trên dư luận, thẳng tiến vào giới thượng lưu.
Mười chín tuổi, Trương Phiên theo nghiệp cha tráng men vào học trường võ bị Sơn Tây. Ra trường với một bông mai vàng trên ve áo, gặp Bướm lần đầu tiên, chàng Tây lai đẹp ngời ngợi, cao một mét bẩy mươi nhăm, mẫu người lý tưởng cho các võ quan tương lai, như người bị bắt mất hồn. Đáp lại, Bướm cũng như một con thiêu thân, lao hết mình về phía ngọn đèn. Suốt tháng giêng hai, họ quấn lấy nhau, đưa nhau từ hội chùa Hương đến hội chùa Thầy. "Gái chưa chồng đến hang Cắc Cớ. lai chưa vợ đến hội chùa Thầy". Hang Cắc Cớ, là cái hang định mệnh của Bướm. Ở đó, nàng đã trao thân cho Trương Phiên.
Khi Bướm có mang đến tháng thứ hai thì chàng Trương Phiên bỗng lặn một hơi vô tăm tích. Lý do là ông Bếp Táo được Chính phủ bảo hộ tặng Bắc Đẩu bội tinh, được Chính phủ Nam Triều tặng hàm thất phẩm và được điều chuyển về Hà Nội. Lọt vào Hà Thành hoa lệ, Trương Phiên bỗng bị vây bủa, bị choáng ngợp bởi thế giới thượng lưu với hàng trăm tiểu thư khuê các. Ba tháng sau, chàng sĩ quan tương lai của Chính phủ bảo hộ làm lễ đính hôn với nàng Kiều Nhi, con gái quan Tham tá Bùi Tử Do, một yếu nhân của Hội đồng Dân biểu Bắc Kỳ.
Cái Sâm như người bị ỉa vào mặt, mấy lần mang cây súng kíp chĩa vào giữa ngực Bướm định bóp cò. Rồi ông gầm lên như con cọp bị trúng thương, vứt khẩu súng như vứt một que củi vớ chai rượu ngang tu ừng ực. Bướm muốn phát điên. Nàng trốn cha, bỏ nhà đi lang thang vào trong tít vùng núi Kim Bôi, Hoà Bình.
Cái thai, như một nghiệp chướng, suốt chín tháng trời quăng quật, thậm chí bị đày ải, bị nguyền rủa, bị hành hạ, cuối cùng mới chịu chui ra và bị Bướm vứt ở bụi tầm xuân gò ông Đống làng Động. Vứt con đi rồi, nàng mới thấy hành động của mình là điên rồ, là mất nhân tính. Chiều tối, với lòng hối hận tột cùng và sự dày vò của lương tâm, nàng trở lại tìm con, nhưng thằng bé đã bặt vô âm tín. Hoảng loạn, điên khùng, nàng băng qua cánh đồng, lao ra bờ sông và nhảy ùm xuống dòng nước buốt giá.
Hệt như trong truyện cổ tích. Đêm trăng suông giá rét ấy, vợ chồng người kéo vó bè trên sông đã cứu sống Bướm. Biết được cảnh ngộ éo le của nàng, họ đến gặp sư cụ chùa Phổ Hướng, một ngôi chùa cổ trơ trọi giữa đồng, xin cho nàng ăn mày cửa Phật.
Mười bẩy tuổi, Bướm xuống tóc, lấy pháp danh Thích Đàm Hiên.
Những năm 1939-1940, phong trào Dân chủ và Mặt trận Bình dân tan rã, Pháp trở lại đàn áp phong trào cách mạng ở thuộc địa. Chùa Phổ Hướng, nằm ở ven sông, xa làng, bốn bề bao bọc bởi luỹ tre ken dày song mây và um tùm bóng cổ thụ, trở thành cơ sở bí mật, nơi nuôi giấu các chiến sĩ cách mạng.
Ni sư Thích Đàm Hiên bản tính hiếu động, quyết liệt, tràn trề đam mê, khám phá, dù không tự giác, mặc nhiên dần thành cầu nối, giao liên giữa những người cộng sản.
Và rồi, sự nghiệt ngã của định mệnh một lần nữa lại kéo ni sư Thích Đàm Hiên trở về với cõi tục. Nàng yêu Lê Thuyết, uỷ viên Liên khu uỷ Hữu ngạn, một chiến sĩ cách mạng trung kiên. Nàng tình nguyện gia nhập tổ chức cộng sản của Lê
Thuyết và theo anh rời chùa Phổ Hướng đi hoạt động ở các xóm thợ, vùng quê.
Từ đây, với mật danh Đào Thị Cam, ai sư Thích Đàm Hiên, tức cô Bướm ngày xưa, thực sự trở thành người của Việt Minh, hoạt động trong một đường dây bí mật khắp các tỉnh châu thổ sông Hồng.
Từ ngày thằng Cục gặp người đàn bà tên Cam, tính tình nó bỗng nhiên đổi khác. Chiếc vòng bạc nó vứt trả, đã được người đàn bà giắt ở chạc ba cây sung. Ngay sau đó Cục đã quay lại và tìm thấy. Nó cất thật kỹ chiếc vòng bạc có vuốt hổ trong một túi vải, lâu lâu lại mở ra ngắm nghía, như ngắm một thứ bùa hộ mệnh. Nó trầm lặng, ít nói và hay tách rời thằng Vện, tha thẩn đi chơi một mình.
Cục thường xem lại cái bớt màu lông chuột ở dưới rốn nhiều lần và cứ vơ vẩn nghĩ về những điều mà người đàn bà lạ đã nói với nó. Rồi không thể đừng được, Cục mang mối hoài nghi này hỏi bà nội. Bà Đồ Kha vốn không biết nói dối bao giờ. Bà ngạc nhiên về cái vòng bạc và người đàn bà đã tặng thằng Cục vật quí. Bà thú nhận rằng thằng Cục đúng là được sinh ra từ bụi tầm xuân gò ông Đống.
- Nhưng ai đẻ ra cháu hở bà? Vẫn là mẹ Phúc đấy chứ?
- Thì mẹ Phúc chứ còn ai nữa? Cháu với anh Vện vẫn là anh em sinh đôi mà… Mà này, đừng nghe ai xui nữa nhé. Gặp người đàn bà ấy thì hãy tránh xa ra cháu nhé… - Bà Đồ Kha giải thích qua loa rồi vội đánh trống lảng sang chuyện khác.
Ý nghĩ về nơi sinh của mình luôn trở đi trở lại trong giấc ngủ của thằng Cục. Nó mơ tưởng đến gò ông Đống như con chiên mơ về vùng đất thánh. Và rồi, như câu chuyện Thạch Sanh bà Đồ Kha thường kể cho các cháu nghe, Cục cũng có khát vọng như chàng Thạch Sanh muốn trở lại gốc đa xưa nơi đã sinh ra mình. Nó lầm lùi ra bờ ao đẵn một cây trúc bánh tẻ thật già, chọn một đoạn thật thẳng, dài hai sải tay, lừa lúc giữa trưa, thằng Vện và cả nhà thiu thiu ngủ, một mình nó ra gò ông Đống. Khóm tầm xuân trên gò giờ đã trở thành một búi to rậm rạp. Bọn trẻ chăn trâu thường bảo nhau tránh xa bụi tầm xuân này vì sợ trong đó có ma quỉ. Nhưng thằng Cục cóc sợ Nó cần phải biết nơi đẻ ra nó như thế nào. Với dũng khí của chàng Thạch Sanh, nó lom khom bò lên gò ông Đống, tiến đến sát bụi tầm xuân. Chà chà, những đoá tầm xuân cánh trắng, nhị vàng giống như loài hoa hồng trắng thơm điếc mũi. Mẹ nó thật khéo chọn, nơi sinh hạ nó thật là độc đáo. Những cây tầm xuân vươn dài ra, uốn cong, tạo thành một vòm, kín, như vòm cung điện.
Cục đảo quanh bụi tầm xuân một vòng. Tự nhiên nó nảy sinh một nỗi ham muốn bồng bột rất trẻ con là được chui vào nằm giữa bụi tầm xuân, giữa vòm cây ken dày lá xanh và hoa trắng thơm ngát, giữa trưa nắng mà vẫn râm mát như một cung điện, nơi mười năm trước nó đã được sinh ra, xem cảm giác êm khoái đến mức nào. Bằng một động tác rất thận trọng, nó ép người xuống cỏ, đưa chiếc gậy trúc vào giữa bụi, gạt mấy cành gai và từ từ trườn vào.
Cục nhắm mắt lại. Hai cánh mũi nó mở thật to, hít thật sâu mùi hương thanh khiết, nồng nàn của hoa tầm xuân. Nó tưởng tượng mình đang ở trong một cung điện nguy nga đầy hương thơm và tràn ngập những hào quang. Hình như đâu đây có tiếng xiêm áo sột soạt. Hình như những nàng tiên với những tà áo dài tha thướt như suông khói đang từ trong cung điện tiến ra chào đón nó.
Bỗng, búp. Một tiếng kêu rất nhẹ. Bàn tay trái thằng Cục buốt nhói. Một con rắn hổ trâu đen trũi loáng qua mắt Cục.
Toi rồi. Nó vừa bị rắn mổ. Phản xạ đầu tiên của thằng Cục là toại người ra khỏi bụi tầm xuân, lăn một vòng xuống chân gò.
Chỉ nửa tiếng nửa, nó sẽ chết. Y nghĩ ấy khiến Cục rùng mình, toát hết mồ hôi. Nó dùng bàn tay phải nắm chắc cổ tay trái để nọc không chạy lên tim. Thấy. không an toàn nó cởi dây rút quần quấn quanh cánh tay mây vòng thật chặt.
Khi thằng Cục chạy về đến cổng nhà, cũng là lúc nó ngất xỉu, mắt trợn ngược không biết gì. Ông Cử Phúc lao thẳng từ trong nhà ra, ôm lấy thằng con.
Bằng linh tính nghề nghiệp, ông biết phải làm gì. Chỉ chậm vài phút nữa, thằng bé sẽ chết. Cánh tay trái thằng Cục sưng vù, tím đen. Ông Cử Phúc chích tĩnh mạch nặn máu nhiễm độc và bằng thứ thuốc đặc hiệu gia truyền, ông cho Cục uống để tiêu nọc, trợ tim.
Thằng Cục được cứu sống, nhưng từ đó, tai nó bị nghễnh ngãng, tay trái bị teo cơ, suốt đời mềm oặt như dải khoai nước.
Cũng từ đó, không bao giờ Cục đặt chân đến gò ông Đống. Nó cố quên cái nơi nó sinh ra, cố quên người đàn bà đã xui nó tìm ra gò ông Đống để khiến nó tật nguyền suốt đời.
Chương 3
Cuộc tình éo le
Trong số những cán bộ nòng cốt được tổ chức đưa về lãnh đạo cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền tháng 8 năm 1945 ở huyện Phương Đình có Đào Thị Cam.
Năm ấy Cam hai mươi bốn tuổi, đẹp đến mức hằng ngày nàng phải trộn bồ hóng với tro bếp thoa lên mặt để người ta đỡ nhìn. Sự xuất hiện của nàng trong cuộc diễn thuyết dưới gốc cây muỗm cổ thụ trước cổng chùa Phổ Hướng, là một sự kiện xưa nay chưa từng có. Tóc búi để lộ chiếc cổ cao ba ngấn, áo nâu non chẽn ngang bởi chiếc thắt lưng to bản, lại cài hai trái lựu đạn mỏ vịt, càng tôn thêm bộ ngực căng tròn và đôi hông nở đầy khêu gợi… Cánh đàn ông nhìn không chớp mắt. Nhiều ông cứ há hốc mồm như muốn nuốt chửng lấy nàng, không cần biết nàng nói những gì.
Khi hàng vạn người từ các thôn, các xã trong vùng đã tập hợp đông chật bãi cỏ trước chùa, tiếng hô xé trời, cờ, biểu ngũ, giáo mác, đòn càn, gậy gộc… đâm lên tua tủa, cũng là lúc lệnh khởi nghĩa được phát ra. Cam cùng ba người đàn ông trong ban lãnh đạo dẫn đầu cuộc biểu tình, dương cao lá cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm tiến về huyện đường Phương Đình. Hình ảnh ấy, tư thế ấy của Cam không kém gì hình ảnh Bà Trưng kéo quân về thành Mê Linh hỏi tội Thái thú Tô Định. Người ta trầm trồ về vẻ đẹp lộng lẫy, tư thế oai phong lâm liệt của nàng. Người ta càng kinh ngạc hơn khi nhận ra nàng chính là ni sư Thích Đàm Hiên của chùa Phổ Hướng mấy năm trước.
Người bị Cam làm cho choáng ngợp, làm hút hồn ngay từ lần đầu gặp mặt là cậu học trò Nguyễn Kỳ Khôi. Hoá ra nhà lãnh đạo cách mạng của huyện lại là thầy tiểu xinh đẹp của chùa Phổ Hướng mấy năm trước đã từng làm Khôi chết mê chết mệt.
Ấy là những năm Khôi học lớp Đệ ngũ, Đệ tứ ở trường tiều học Tảo Khê. Từ nhà đến trường đi bộ chừng bẩy cây số, qua mấy cánh đồng, qua chùa Phổ Hướng và một dẫy ao chuôm trước khi ra tới bờ sông. Nghe đồn chùa Phổ Hướng mới có một thầy tiểu đẹp ngang tiên nữ giáng thế, mấy đứa học trò tinh nghịch bọn Khôi liền phân công nhau thám thính. Chúng trèo cây, vượt qua nhà tam bảo lẻn vào chùa để nhìn tận mặt.
Quả nhiên danh bất hư truyền. Lúc ấy thầy tiểu đang vớt bèo dưới ao, chỉ nhìn thấy dáng người phía sau, một eo lưng thon mềm, mông nở căng sau bộ nâu sồng, và đặc biệt khêu gợi là hai bắp chân trắng ngần thon lẳn. Khôi giả vờ bẻ một cành khô đánh động. Thầy tiểu giật mình quay lại. Trời ơi, tiên nữ thế kia mà nỡ trốn vào chùa, có phí hoài không?
Lần gặp tiểu ấy khiến Khôi ngơ ngẩn hàng tháng trời. Khôi tương tư. Khôi phải lòng tiểu Hiên và lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chùa. Cậu đang ở tuổi phát dục nên thường tưởng tượng đến thân thể đàn bà. Khôi như nhà thám hiểm khao khát phát hiện những vùng đất mới. Rất nhiều buổi trưa cậu hay lang thang ở bờ ao nhà ông xã Duyên để rình nhìn trộm đàn bà tắm. Ao ông xã Duyên là chiếc ao rộng, sâu nhất làng, nước trong đến mức nhìn rõ cả từng búi rong đuôi chó, từng đàn cá chuối dẫn nhau đi ăn mồi. Chiếc cầu ao ở gốc sung hầu như dành riêng cho đàn bà con gái xóm Thượng tắm. Đứng rình phía bên kia cầu ao, sau bụi tre, dưới gốc cây gạo, giả vờ đang câu ếch hoặc bắt cua mà nhìn trộm đàn bà tắm thì thật là tuyệt. Tha hồ mà xem như sau này người ta xem phim sex.
Béo, gầy, trắng, đen, vú to, vú nhỏ, mông lép, mông mẩy… phô bầy ra hết. Thú nhất là đoạn các bà các cô thay quần. Có người kín đáo quấn quanh người chiếc khăn vuông đen hoặc chụp qua đầu chiếc váy, rồi tụt quần ra. Có người nhìn quanh không thấy ai, liền cởi bỏ hết cả, trắng nồng nỗng, đen nhưng nhức. Những lúc ấy, Khôi chỉ biết nuốt nước bọt, mắt mở căng. Ước gì có cái ống nhòm mà nhìn cho bõ.

Uớc muốn được nhìn tiểu Thích Đàm Hiên tắm bắt đầu nảy sinh từ cái hôm Khôi nhìn thấy bắp chân trần của tiểu lúc vớt bèo dưới ao. Không để cho một đứa bạn nào biết, Khôi ngấm ngầm thực hiện một kế hoạch. Cậu bỏ hẳn một buổi chiều đi thám thính quanh chùa và phát hiện một nơi đột nhập vào chùa rất lý tưởng. Chỉ cần đu lên cành nhãn bên cổng ngách là có thể chuyền sang cây muỗm gần ao. Từ đây dễ dàng trườn sang nóc nhà tam quan, lên gác chuông, rồi leo vào gian trái nhà ngang hay bất cứ nơi nào trong chùa. Tìm thấy đường, ắt đi tới đích. Suốt kỳ nghỉ hè năm ấy, Khôi ta nói dối thầy u đi học thêm, mang mấy cuốn sách giáo khoa thư, lẻn tót lên gác chuông chùa Phổ Hướng giả vờ ôn bài, nhưng kỳ thực là chờ cơ hội rình xem tiểu Hiên tắm.
Kỳ công đến cả tuần lễ mà vẫn không ăn thua gì. Vẫn chỉ một chiếc khăn nâu quấn kín quanh đầu, vẫn một dáng nâu sồng bí ẩn.
Cho đến một buổi, Khôi bỗng nhận ra tiểu Hiên trong một dáng vẻ rất khác lạ. Nàng có vẻ thẫn thờ, có vẻ bồn chồn trông ngóng một ai đó. Đang cuốc đất hùng hục ở ngoài vườn, nàng bỗng vứt cuốc, chạy đến cầu ao vã nước lên mặt, xắn cao quần khoả nước lên đùi, rồi lại xăm xăm ra vườn, vớ lấy cuốc, bổ phầm phập. Được một lúc, nàng dừng cuốc, đứng thừ người. Có chuyện gì đang đến với tiểu Hiên? Nàng đang mòng ngóng ai chăng? Khôi chợt thắt lòng như muốn ghen với ai đó.
Hướng theo ánh mắt bồn chồn của tiểu Hiên, Khôi nhận ra một vạt ngô đang kỳ xây bắp. Những cây ngô xanh mướt, cây nào cũng mang một hai bắp trên mình. Đột ngột, tiểu Hiên buông cuốc, đi xăm xăm đến vạt ngô, tìm bẻ một bắp to nhất giấu vào vạt áo. Thì ra nàng đói. Khôi như hiểu ra. Cậu cố thử đoán xem nàng sẽ ăn ngô như thế nào?
Nhưng sao chỉ có một bắp? Sao nàng không vào bếp để nướng hoặc luộc mà lại xăm xăm đi vào nhà kho thế kia? Khôi lại căng óc theo dõi và phán đoán. Chờ mãi, không thấy tiểu Hiên ra, Khôi càng nóng ruột. Cậu luồn từ gác chuông, qua chái tam quan, qua cây bưởi đầy gai đến nóc nhà kho. Có tiếng thở dốc, rồi tiếng rên quằn quại. Thôi chết, tiểu Hiên làm sao? Khôi áp tai vào mái ngói. Tiếng thở, tiếng rên càng rõ hơn. Chắc là Hiên bị trúng gió hoặc bị ngộ độc thức ăn? Lao xuống đất, phá cửa nhà kho vào cứu tiểu Hiên chăng? Không được! Sẽ bị lộ. Sư thầy sẽ chạy đến, hô hoán lên, hoá ra lạy ông tôi ở bụi này!
Rất may, Khôi nhìn thấy mấy viên ngói vỡ gần nóc. Trườn tới dỡ viên ngói nhòm xuống. Khôi bỗng bàng hoang phát hiện ra một cảnh lạ lùng; Tiểu Hiên đang nửa nằm nửa ngồi trên nắp chiếc vại đựng khoai khô, trong một tư thế gần như khoả thân, khăn áo nâu sồng vứt dưới chân, mái tóc đang mọc lởm chởm bết mồ hôi, ôm lấy gương mặt đỏ bừng vừa như đang rất đau đớn, vừa như đang ở đỉnh điểm thoả mãn, khoái cảm. Kỳ lạ nhất là đôi bàn tay. Một tay nàng xoa bóp bầu vú, như mơn trớn, như vày vò, tay kia đang cầm một vật gì đó kẹp chặt giữa đùi. Càng kẹp, nàng càng quằn quại, rên rỉ. Cố kìm nén mà tiếng kêu của nàng cứ hộc lên…
Dí mắt xuống sát khe ngói một chút nữa, Khôi nhìn thấy mấy bẹ bắp ngô non vừa bị lột, rơi dưới đất như những cánh hoa…
Chiều hôm ấy, Khôi không biết bằng cách nào mình đã về được đến nhà, bằng cách nào Khôi đã rời khỏi mái nhà kho chùa Phổ Hướng mà tiểu Hiên không biết. Đũng quần cậu đẫm ướt. Cậu cảm thấy mình đã trở thành đàn ông. Khôi đã khám phá ra chốn sâu kín nhất của người đàn bà đầy khát khao ham muốn nhưng phải giam hãm tù túng chốn cửa thiền.
Ba tháng sau, tiểu Hiên bỗng biệt tung tích. Không ai biết nàng đi đâu. Sư cụ trụ trì chùa Phổ Hướng thì bảo: "Căn quả của người ấy nặng lắm, Đức Phật cũng không độ được".
Cuộc hội ngộ giữa Tháng Tám - Mùa Thu khiến Khôi hạnh phúc đến tột cùng. Nàng đã trở về sau hơn ba năm mai danh ẩn tích. Cuộc trở về chùa Phổ Hướng của nàng lần này trong một tư thế thượng phong thác hẳn. Cách mạng phải hoành tráng và cuốn hút như thế chứ. Sẽ khối kẻ choáng váng vì nghĩ rằng cách mạng chỉ toàn người lao khổ khố rách áo ôm. Thì kia, hãy mở to mắt nhìn. Cách mạng có một nữ thủ lĩnh đẹp đến mê hồn.
Sẵn khí thế hừng hực của hàng vạn người lao khổ vùng lên, giờ lại được truyền thêm chất men say và vẻ đẹp đầy quyến rũ, đầy lãng mạn của mỹ nữ cách mạng, Khôi như người nhập đồng, bừng bừng và cuồng nhiệt, háo hức và đam mê, xả thân và liều lĩnh. Ở đâu có Cam là có Khôi. Khôi đi phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Khôi tiến vào huyện đường tước ấn tín của quan huyện, đốt hết sách vở, giấy tờ liên quan đến phong kiến đế quốc.
- Đồng chí Khôi là con ông Cử Phúc, đúng không? Đồng chí giỏi lắm.
Chỉ một ánh mắt, một câu nói của Cam đủ làm Khôi run lên. Sao nàng biết tên ta? Nàng biết rất rõ về gia đình ta nữa?
Khôi cầm bàn tay nhỏ nhắn của nàng đưa cho mà cảm giác như máu của nàng truyền bang người mình, giârl giật, nóng bỏng, cảm thấy tim mình có lúc như ngừng đập.
Sau này, chính Khôi cũng không lý giải nổi rằng, ngay sau cuộc cách mạng long trời lở đất ấy, anh đã bỏ học, trốn ông bà Cử Phúc, thoát ly gia đình đi làm cách mạng, là vì ý thức giai cấp lòng căm thù đế quốc sài lang hay vì ánh mắt, nụ cười và vẻ đẹp đầy quyến rũ, mê hoặc của Cam?
Suốt những năm tiếp theo, hình ảnh của Cam lúc nào cũng ngự trị trong trái tim chàng trai đang tuổi trưởng thành. Và có điều này thật kỳ lạ: Hằng tháng, thậm chí hằng tuần, anh vẫn gặp nàng trong mơ. Những giấc mơ thường gắn với hình ảnh nàng gần như khoả thân lên rỉ và quằn quại trong gian nhà kho chùa Phổ Hướng ngày nào. Lần nào mơ thấy nàng, đũng quần Khôi cũng đẫm ướt. Nàng như mục tiêu khoái cảm, như chất đôping của đời anh.
Không hiểu bằng cách nào đó, trong tay Khôi có một tấm ảnh của Cam. Khôi hôn hít ngắm nghía hàng nghìn lần. Khôi sáng tác hẳn một bài thơ chép sau tấm ảnh, cất nó trong một túi vải, lúc nào cũng đeo trước ngực.
Choáng ngợp hồn ta sắc đỏ cờ
Môi nàng cũng sắc lửa Mùa Thu
Đường cách mạng dù chông gai bão tố
Ta xiết tay nhau quyết thắng thù!
Đó là bài thơ tình và cũng là bài thơ cách mạng đầu tiên của Khôi. Nhất định đến một lúc nào đó, anh sẽ đọc tặng nàng.
Thế rồi cái ngày định mệnh ấy đã đến.
Theo sự bố trí của tổ chức, Khôi từ vùng căn cứ Cầu Dậm sang nhận chỉ thị chuyến công tác mới. Địa điểm cho cuộc gặp là nhà một cơ sở ở Chợ Đanh, nơi giáp ranh giữa vùng tự do và vùng tề. Đây là địa chỉ hòm thư lưu mà lâu nay Khôi đã từng lui tới. Chỉ một động tĩnh nhỏ, có dấu hiệu khả nghi, thuyền của ta sẽ đưa Khôi vượt sông sang vùng an toàn.
Thượng cấp mà Khôi gặp, không ngờ lại là Cam. Tấm khăn vuông đen che kín mặt, chỉ để hở đôi mắt. Vậy mà thoáng nhìn, Khôi đã run lên. Suốt ba năm xa cách, nhưng hầu như không lúc nào anh không nghĩ đến nàng, không dò la tin tức về nàng. Khôi biết, người có mãnh lực kéo Cam ra khỏi chùa Phổ Hướng ngày ấy là Lê Thuyết, uỷ viên Liên khu uỷ Hữu Ngạn, người đã dẫn dắt nhiều trí thức tham gia phong trào vô sản hoá. Cuộc tình ấy khiến Khôi ghen tị, nhưng anh bất khả kháng. Cho đến khi tin Lê Thuyết bị Quốc dân Đảng giết ở Hải Phòng thì trong Khôi thầm nhen lên một hy vọng mơ hồ. Khôi ái ngại khi Cam trở thành goá bụa, nhưng anh cũng thầm chờ đợi một cơ hội…
Ánh nhìn của Khôi báo hiệu cho Cam biết anh đã vào độ trưởng thành. Mười tám tuổi, mặt đầy trứng cá. Cao to, vồng ngực căng nở, cánh tay vạm vỡ. Trông ra dáng đàn ông lắm rồi. Khôi để một hàng ria mép đen ánh vừa như một chú ngựa non mới lớn, lại giống một gã dê choai.
Trong khi họ đang thì thầm trao đổi công việc ở trên nhà, thì có ánh đèn pin loang loáng và tiếng giày đinh của bọn lính nguỵ ở bờ sông. Không theo con đường đê mọi ngày, bọn lính ở bốt Chợ Đanh đi từ dưới sông lên. Chúng có cả một ca nô có gắn đèn pha cực mạnh đang túc trực bên bờ. Vậy là đường rút qua sông đã bị chặn. Ông già chủ nhà là một người giàu kinh nghiệm và rất bản lĩnh. Ông thong thả rít hết một mồi thuốc, vầng trán cau lại nghĩ ngợi mưu kế, rồi ông ném mảnh chăn nâu lên chiếc phản, nơi đứa cháu đang ngủ, bên gian trái nhà, bảo Cam và Khôi phải đóng vai hai vợ chồng ôm nhau nằm ngủ, ông sẽ tìm cách xoay xoả với bọn lính.
Quả nhiên, sau khi ông già bê vò rượu thơm phức mời mỗi đứa một bát, rồi chỉ vào trong nhà nói có hỏi vợ chồng đứa cháu ngoài Đồng Vàng vào buôn cau, mệt nằm ngủ, bọn lính tin ngay. Chúng xoáy nải chuối và rổ ngô luộc rồi bỏ đi.
Những phút giây cập kề giữa cái sống và cái chết ấy vẫn chen lấn những tích tắc thần tiên. Khôi đang nằm bên người đàn bà mà anh yêu đến mê muội. Anh cảm thấy hơi thở của nàng nóng rực, thân thể nàng với những đường cong tuyệt mỹ như bao bọc lấy anh, bộ ngực nàng dường như không thể ngăn được tiếng con tim đập, cứ hoảng loạn, phập phồng. Lạ quá, bất chấp cả tiếng súng va chạm, tiếng cười hô hố của bọn lính tuần, những hình ảnh của tiểu Hiên trong gian nhà kho năm ấy bỗng thoáng hiện về. Người Khôi như quả bom chờ nổ.
Cho tới lúc bọn lính đã đi xuống bờ sông, và ông già còn đang lo việc tống tiễn chúng, Khôi thấy vòng tay của người đàn bà bỗng ôm xiết lấy anh. Như một phản xạ, Khôi quay mặt lại. Kỳ diệu quá, đôi môi ướt át và mềm ấm của người đàn bà bỗng gắn lấy môi anh. Ngây ngất. Nghẹt thở. Dường như rất lâu rồi, nàng bị kìm nén, bị phong toả. Cánh tay của nàng, đôi môi của nàng nói vậy. Khôi đang định xoay người ôm xiết lấy nàng, thì nàng ngồi vục dậy, chân khoả xuống nền nhà, bới lại tóc.
Vừa lúc ấy, ông già chủ nhà quay lại.
- Chúng mình rút thôi - Cam nói ráo hoảnh, như vừa nãy chẳng có chuyện gì xảy ra - Khi nào có thẻ căn cước của anh chúng ta sẽ gặp lại.
Lần đầu tiên nàng gọi Khôi bằng anh. Nàng hẹn sẽ gặp lại anh. Khôi sung sướng như muốn phát điên lên. Và thực sự anh đang run. Đến mức không thể cất lên lời. Anh dúi vội vào tay nàng mẩu giấy mà anh đã nắn nót chép sẵn bài thơ anh làm chỉ để tặng nàng. Như hiểu ý, nàng cất mảnh giấy vào lần áo lót trước ngực.
Cuộc chờ đợi của cả hai người lâu như một thế kỷ. Đó là khoảng thời gian mà Cam ba lần giả trang để đến vận động ông Cử Phúc và các bạn bè ông gia nhập lực lượng Việt Minh và cũng là dịp để Cam tìm gặp lại thằng Cục, đứa con mà nàng đã vứt bỏ.
Cái tối giả vợ chồng và nụ hôn cháy bỏng ở chợ Đanh ấy khiến cả hai đều nhớ về nhau đến quay quắt. Chỉ bốn câu thơ, Khôi đã gửi trọn thông điệp tình yêu với Cam. Đây là lần đầu tiên trong đời có người làm thơ tặng Cam. Khôi khác hẳn với Trương Phiên và Lê Thuyết. Trương Phiên tung bùa mê thuốc lú để chiếm đoạt nàng. Lê Thuyết kéo nàng trở về với đời thường trong khi nàng còn ngơ ngác và mặc cảm tội lỗi. Khôi khác hẳn bọn họ. Anh trong trắng, không vụ lợi, không vẩn đục bởi những dục vọng và tính vị kỷ. Anh có niềm say mê thánh thiện và sự tôn thờ tuyệt đối, có khả năng gột rửa và trả lại cho nàng ve tinh khôi ngà ngọc, những khát vọng trinh nữ và thậm chí cả những cuồng say tăm tối mà đã bao lâu nàng phải kìm nén. Dường như cho đến bây giờ, ở tuổi hăm sáu, Cam mới thực sự được đánh thức những khát vọng, thế giới tâm hồn đầy khao khát yêu đương của nàng mới được hé mở. Rào cản ngăn cách chị em chỉ là một lớp màng giả tạo, khi sắp được dỡ bỏ, lại càng có sức kích hoạt, mời gọi, chờ đón. Cam như ngọn núi lửa chứa đầy mình dung nham nghìn độ. Sau cái chết của Lê Thuyết, Cam đã tự thề với lòng mình sẽ không yêu ai nữa. Nàng lao vào hoạt động cách mạng để trả thù cho chồng. Nàng tự rèn mình thành sắt đá, noi gương các liệt nữ, tiết hạnh khả phong. Nhưng rồi, chính Khôi đã phá vỡ lớp vỏ bọc sắt đá ấy. Anh đã điểm huyệt đúng miệng núi lửa. Và dung nham tuôn trào không gì cưỡng được. Lần đầu tiên kể từ ngày gia nhập tổ chức, Khôi đã tự phá luật lệ, từ khu an toàn, vượt sông vào vùng tề để tìm Cam.
- Anh liều lĩnh quá. Thượng cấp biết anh vô tổ chức thế này sẽ không để yên đâu - Nàng trách. Nhưng chính đôi mắt của nàng lại mách bảo rằng: Anh cừ khôi lắm, đáng mặt đàn ông lắm. Em nhớ anh đến quay quắt, biết không?
Trong vai một cặp vợ chồng từ Hà Nội đi tìm người tản cư, họ đã sống với nhau ba ngày thần tiên tại một nhà trọ sang trọng ở phố Phương Đình. Bằng kinh Nghiệm từng trải của một người đàn bà từng qua những cuộc chăn gối; với năng lượng tích tụ và sự ham muốn bị kìm giữ lâu ngày, nàng đã bày cách dẫn dụ anh chàng trai tơ Nguyễn Kỳ Khôi vào vòng tình ái một cách ngoạn mục và cuồng loạn. Đó là những ngày tuyệt đỉnh nhất của đời Khôi. Anh từ run rẩy, ngơ ngác, bàng hoàng đến mê đắm, cuồng si và bạo liệt.
Nạ dòng vớ được trai tơ
Đêm nằm hí hùng như mơ được vàng.
Những ngày gặp Khôi, Cam có cả một kho vàng. Mà nàng đâu phải nạ dòng. Cho đến bây giờ vào tuổi hai mươi sáu nàng mới thực sự đàn bà. Mười năm qua, kể từ tuổi mười sáu trao thân cho Trương Phiên, rồi mấy năm bôn ba làm vợ Lê Thuyết, nhưng đến bây giờ mới là đỉnh điểm của ái tình. Nếu như với người đàn ông, sự phá trinh một thiếu nữ chính là lễ hiến tế thiêng liêng của tình ái, thì với người đàn bà, được tận hưởng nguyên khí của người con trai cũng là tuyệt đỉnh của khoái cảm, thăng hoa của hạnh phúc.
Sang ngày thứ hai, khi đã "càng quen thuộc nết, càng dan díu tình", Khôi mới kể cho Cam về câu chuyện cậu học trò đa tình ngày nào đã nằm phục trên mái ngói nhà kho chùa Phổ Hướng để nhìn trộm tiểu Hiên thủ dâm ra sao. Chưa nghe hết câu chuyện, Cam đã túm lấy Khôi đấm thùm thụp.
- Anh hư lắm. Đi dòm người ta. Thế mà lúc ấy em chẳng biết gì.
- Mình còn mải rên và quằn quại. Mà này, bắp ngô hay nhỉ…
- Ư ừ… Chỉ nói xấu người ta. Tưởng đi tu được mà dễ đấy à? Em ở chùa được bẩy tháng là giỏi lắm rồi… Thôi, ứ nói chuyện ấy nữa. Nói chuyện khác đi.
- Chuyện gì?
- Chuyện cái bắp ngô này này…
Cam khúc khích cười, luồn tay xuống dưới bụng Khôi.
Lần này thì nàng cẩn trọng và nhẹ nhàng. Bàn tay ấm mềm của nàng mơn man, dịu dàng như nâng niu báu vật. Vừa dẫn dụ vừa mê hoặc, nàng phả vào Khôi sự mê đắm cuồng nhiệt, dẫn dắt Khôi vào một vũ điệu mới.
Hiếm hoi lắm mới có một khoảng lặng họ dành cho công việc:
- Gặp thầy tôi, mình có thấy ông cụ là một người tuyệt vời không? - Khôi hỏi sau một giấc ngủ mê mệt.
- Không thích tôi mình đâu - Cam làm mặt giận - Anh chê em già hơn anh nhiều phải không? Những tám tuổi cơ mà…
- Thì thôi vậy…
- Anh quen mồm… Thôi nào, nói tiếp đi. Thầy anh thế nào?
- Ông cụ là một nhà nho trọng nghĩa khinh tài, nhưng lại quá lo cho gánh nặng gia đình. Vận động được ông cụ đồng ý tham gia với Việt Minh là một thắng lợi rất lớn.
- Nhưng anh cứ lo… Nhỡ có vị du kích Việt Minh nào không hiểu được việc thầy anh làm, họ khử ông cụ…
- Ừ nhỉ. Một công việc tưởng như đơn giản nhưng lại cực kỳ nguy hiểm. Nhiệm vụ hai mang, chỉ người trong tổ chức mới biết được. Địch biết, nó cũng khử…
- Đồn trưởng Trương Phiên là một tên ác ôn khét tiếng. Nó đánh tổ tôm với thầy anh là để khống chế và thăm dò ông cụ. Đi với ma dù có mặc áo giấy vẫn bị phát hiện như thường.
Nhắc đến Trương Phiên, Cam bỗng nhớ đến thằng Cục.
- Lạ nhỉ, thầy u anh đặt tên hai thằng bé đến buồn cười. Ai lại gọi là Vện và Cục.
- Gọi thế để người ta đỡ quở quang, cho dễ nuôi. Em thấy hai thằng bé có đáng yêu không?
- Ước gì em có một đứa con như thế - Cam bỗng nhớ thằng Cục đến thắt lòng. Nàng thở dài, quàng tay ôm lấy Khôi.
- Này, nhỡ chúng mình có con thì chết. Chúng mình chưa phải vợ chồng của nhau. Tổ chức sẽ kỷ luật… - Khôi nói và thử nhẩm tính. Chỉ trong ngày hôm nay họ đã làm tình với nhau tới bẩy lần.
- Anh sợ tổ chức lắm à? Chửa thì đẻ chứ sao. Em muốn có với anh một đứa con, một thằng cu sau này đẹp trai như thằng Cục…
- Không được đâu. Anh còn phải phấn đấu nữa chứ…
Khôi lắc đầu mặt nghe như một đứa trẻ. Cam ngắm anh, bỗng trỗi dậy niềm ham muốn mới. Nàng trườn xuống, nhẹ nhàng hôn từ gót chân Khôi. Đôi môi người đàn bà chạm tới đâu người Khôi lại gai lên, cương nở. Nàng dừng lại ở giữa hai đùi Khôi rất lâu, khơi gợi ở anh một chu kỳ mới. Sau một giấc ngủ, Khôi lại tràn trề sinh lực. Anh lùa tay dưới hai bầu vú căng mọng của nàng, kéo nàng nhích dần lên, cho tới khi anh có cảm giác xuyên qua người nàng.
Cũng là khi họ bắt đầu cuộc tình ái thứ tám trong ngày…
Sau ba ngày thần tiên, Nguyễn Kỳ Khôi mang tên trong thẻ căn cước là Nguyễn Khắc Khang, được tổ chức đánh vào nội thành Hà Nội với công tác đặc biệt: Vận động các trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà tư sản dân tộc lên chiến khu Việt Bắc, phụng sự kháng chiến.
Đó là những ngày hoạt động sôi nổi, hứng thú nhưng cũng đầy nguy hiểm của Khôi. Anh cùng các đồng chí trong tổ chức vừa tìm cách khéo léo che mắt địch, vừa móc nối, tiếp cận với quần chúng giác ngộ giúp đỡ vận động các nhân sĩ trí thức, vùa tìm cách đấu trí, đấu cả tính mạng với bọn Việt quốc Việt cách phản động cũng đang lôi kéo những người yêu nước.
Khôi nhớ Cam với nỗi nhớ của kẻ nghiện thuốc phiện bị đứt bữa. Hai lần anh giấu tổ chức ra vùng tự do để tìm Cam, nhưng không gặp.
Công việc trên chiến khu đang cần Khôi. Hơn một năm sau, Khôi ngược Thái Nguyên, qua Đại Từ, vượt Đèo Khế sang vùng ATK Tuyên Quang.
Đúng như lá số tử vi ông Cử Phúc đã lập cho Khôi, vừa bước chân đến rừng, con ngựa kỳ như trở về nơi sinh, gặp đất đắc địa. Nhiều nhân sĩ trí thức do Khôi vận động từ Hà Nội lên đã nói tốt về anh với tổ chức, do vậy, vừa lên chiến khu, Khôi đã được thượng cấp đặc biệt tin cậy. Đích thân đồng chí Tư Vuông giao nhiệm vụ và kèm cặp Khôi. Đồng chí Tư Vuông là một thượng thượng cấp của Việt Minh. Được tiếp xúc và nhất là được là thuộc cấp trực tiếp của ông là một diễm phúc.
Sau sáu tháng thử thách với nhiều loại công việc khác nhau, nhiều tình huống, ứng xử khác nhau để bộc lộ năng lực và phẩm chất tuyệt đối trung thành, Khôi được phiên chế vào một đơn vị đặc biệt, với những nhiệm vụ đặc biệt. Và rồi, một đặc ân bất ngờ đã đến với Khôi: Anh được thượng cấp tin cậy yêu mến, đổi tên thành Chiến Thắng Lợi. Từ đây, cuộc đời Khôi lật sang một trang mới, giống như một anh chàng mãi võ được đeo đai thứ hạng đen, trắng, một cầu thủ chân đất được lên chân giày khoác áo sân cỏ, vượt lên một đẳng cấp mới.
Chiến Thắng Lợi hoàn toàn không hay biết cuộc tình sét đánh và éo le với Cam, đã đơm hoa kết quả. Có lẽ ở cái lần thứ tám thăng hoa ấy. Cam tin như vậy.
Khác với lần có thai với Trương Phiên trước đây, khi nàng mười sáu tuổi thơ ngây khờ dại, hoảng loạn vô phương hướng, lần này nàng nâng niu ấp ủ đứa con trong bụng như Đức Mẹ Đồng trinh mang thai Chúa Hài Đồng.
Thời kỳ chuẩn bị sinh nở, Cam về sống ở nhà cơ sở một cô hàng xén, cùng trang lứa, tên Nhạn.
Nhạn không xinh đẹp bằng Cam, nhưng hấp dẫn bời vẻ dung dị và nữ tính. Gánh hàng xén của Nhạn là hai chiếc bồ cao chất ngất, trong đó chứa đủ mọi thứ, từ cái kim sợi chỉ, chiếc đèn hoa kỳ, hộp sữa, gói thuốc lá Cô táp… cho đến cái xoong nhôm và các loại quần áo, dầy dép… Hằng ngày, bốn giờ sáng Nhạn đã trở dậy sắp xếp đi chợ. Đôi quang bồ cồng kềnh, chất ngất, nặng oằn hai vai kẽo kẹt đi năm cây số, qua bờ mương, qua cánh đồng, đến chợ lúc trời đã tảng. Gian hàng xén của Nhạn ở ngay đầu chợ Mới, cách bốt làng Động gần cây số Khoảng cách ấy, lúc nào cũng nằm gọn trong tầm ngắm ống nhòm của đồn trưởng Trương Phiên. Ở vùng thôn quê một cô gái sạch sẽ, ngon lành như Nhạn, làm sao lọt khỏi mắt một kẻ hám gái như Trương Phiên?
Cuộc chạm trán bất ngờ giữa Cam và Trương Phiên như cuộc đụng độ của định mệnh, không tránh khỏi.
Chiều ấy nàng đang nấu cơm dưới bếp đợi Nhạn đi chợ về, thì nghe tiếng xe Jeep đỗ ngoài cổng. Đồn trưởng Tây lai Trương Phiên mũ bê rê đen đội lệch, binh phục mầu cứt ngựa, giày săng đá, súng ngắn lệch bên hông, như một con gà trống đỏm dáng bước xuống trước, đỡ gánh hàng cho Nhạn. Nhìn qua lỗ thủng trái bếp, trống ngực Cam đập thình thịch như trống trận. Máu từ đâu bỗng dồn hết lên đầu, lên mặt. Trương Phiên vẫn chẳng khác gì mười mấy năm trước, khi gã tán tỉnh gạ gẫm nàng. Vẫn khuôn mặt Tây lai đỏm dáng, đôi mắt hai mí sâu phớt xanh đa tình, cái mũi dọc dừa và hàng ria mêp hung mềm xén tỉa rất cẩn thận. Trời ơi, sao thằng Cục lại giống gã đến thế, một bộ mặt mà ngay cả khi nhắm mắt lại, cảm giác ghê lạnh vẫn làm nàng gai người. Nàng căm thù gã, kẻ đã giết chết tuổi thiếu nữ của nàng. Ý định vứt bỏ đứa con trong bụng nàng, bắt đầu từ khi nàng biết đám cưới giữa gã và tiểu thư Kiều Nhi được tổ chức tại nhà hàng Gô-đa Hà Nội.
Nàng thề suốt đời sẽ không thèm nhìn mặt thằng Sở Khanh ấy. Vậy mà số phận vẫn luôn chống lại nàng. Nàng và gã đã trở thành đối thủ ở hai chiến tuyến. Đã không dưới một lần Trương Phiên nằm trong tầm súng của nàng và các đồng chí của nàng. Nhưng rồi vì tuân thủ kỷ luật của tổ chức, gã vẫn nhơn nhơn. Cuộc đời gã dường như không có lực cản. Kể từ ngày tốt nghiệp trường võ bị Sơn Tây, gã đã nhanh chóng thăng tiến trên con đường binh nghiệp. Việc gã được thăng lon trung uý, giữ chức đồn trưởng bốt làng Động là một bước tiến khá dài, chứng tỏ gã đã lập nhiều thành tích bắn giết đồng bào mình để báo vệ nước mẹ Đại Pháp. Theo sự phân loại của Việt Minh, Trương Phiên liệt vào danh sách đen, một trong những phần tử ác ôn, nợ máu.
Cam liếc nhìn quanh, như một phản xạ, tìm chỗ nấp. Nhưng quái ác, nồi cơm đang sôi, không thể nào xoá dấu vết. Nàng vơ vội chiếc khăn vuông, đội xụp quá mi mắt, ngồi thu lu bên bếp lửa.
Mặc cho Nhạn can ngăn, Trương Phiên vẫn nhất định đòi vào nhà. Chừng như Trương Phiên nhận ra vẻ không bình thường của Nhạn, hắn xông ngay xuống bếp.
- Việt Minh hả? - Bằng một động tác thô bạo, gã lật chiếc khăn. vuông của Cam.
Hốt hoảng, Nhạn chạy đến kéo tay Trương Phiên.
- Kìa trung uý. Đừng làm em nó sợ. Em gái con ông chú ruột em đó. Nó đến ở với em để chờ đến nhà hộ sinh.
Chiếc khăn vuông tuột khỏi đầu, sổ ra một mớ tóc dài đen mướt. Cam quay lại, xoáy đôi mắt phượng nhìn Trương Phiên trừng trừng, sẵn sàng chấp nhận cuộc đụng đầu. Tên đồn trưởng bỗng lùi lại, sững sờ giây lát rồi kêu lên:
- Bướm? Đúng Bướm thật rồi. Em còn đẹp hơn cả ngày xưa.
- Chào ông đồn trưởng. Ông nhầm rồi. Cái tên Bướm đã chết từ lâu rồi.
- Nhầm sao được, em Bướm. Anh đi tìm em suốt hơn mười năm qua. Ha ha, Ni sư Thích Đàm Hiên, rồi nữ Việt Minh Đào Thị Cam và cô thiếu nữ Chu Thị Bướm chỉ là một. Không ngờ trái đất tròn, để chúng ta có buổi gặp gỡ hôm nay.
- Ông đồn trưởng quá giàu trí tưởng tượng. Ông định nói đến cô Chu Thị Bướm nào vậy?
- Kìa Bướm, em đừng đóng kịch nữa. Con của chúng ta đâu? Suốt những năm qua không lúc nào anh không đi tìm mẹ con em…
Tự nhiên mắt Cam bỗng cay xè. Nàng nhớ đến thằng Cục. Nàng thầm cảm ơn ông bà Cử Phúc đã cưu mang, nuôi nấng thằng Cục. Liệu nó có biết tên đồn trưởng ác ôn Trương Phiên là cha đẻ của nó không? Và lẽ nào Trương Phiên, trong những lần đến đánh tổ tôm ở nhà Lý Phúc lại không nhận ra thằng Cục giống hắn? Hay là hắn đã biết thằng Cục và cố tình tra khảo nàng? Định mệnh thật trớ trêu. Hằng ngày cha con hắn vẫn trương gặp nhau mà hắn vẫn như kẻ có mắt như mù.
- Ông quá nhầm rồi, ông đồn trưởng ạ. Tôi chưa bao giờ là vợ ông. Tôi chưa bao giờ có con với ông.
- Đừng đùa dờn nữa Bướm ơi. Con của tôi đâu?
Trương Phiên định cầm cổ tay Cam, nhưng nàng đã nhoài người ra sau, đứng vụt dậy. Trương Phiên tròn mắt kinh ngạc khi nhận ra nàng đang sắp đến cữ đẻ.
- Trời ơi! Lại con của một thằng cộng sản? Thằng Lê Thuyết đã chết rồi? Cô đang có chửa với ai?
- Chuyện tôi có thai không liên quan gì tới ông, thưa ông đồn trưởng. Nếu ông định bắt tôi về đồn, thì xin cứ việc.
Thái độ bất cần của Cam, cái bụng chửa vượt mặt của nàng khiến Trương Phiên nhún vai, ngán ngẩm.
- Nữ Việt Minh Đào Thị Cam. Quan năm Hăng ri đờ Cuôrsơ, Tư lệnh vùng Hữu Ngạn đang treo cái đầu của cô giá năm ngàn quan đó.
- Vậy thì ông đang có cơ hội lĩnh món tiền thưởng lớn kèm thêm một chiếc mề đay nữa… - Cam cười khẩy, giễu cợt. Nụ cười ấy đã đánh trúng lòng tự trọng và tính thượng võ của Trương Phiên.
- Nể tình nghĩa hơn mười năm trước và tỏ lòng nhân đạo với đứa trẻ cô đang mang trong người, ta tha cho cô lần này. Và chỉ một lần này thôi, nghe chưa? Lần sau, chớ có để mỗ này phải ra tay.
Trương Phiên cười gằn, hất khẩu Braoninh trên tay như trò tung hứng rồi hầm hầm bước ra xe.
Sau lần chạm trán với Trương Phiên ấy, Cam phải thay đổi nơi ở. Nàng tìm một cơ sở tít vùng đồng chiêm Khu Trắng quanh năm nước ngập để sinh con. Bé trai nàng sinh giống Nguyễn Kỳ Khôi lạ lùng. Nàng đặt tên con là Lê Kỳ Chu, lấy họ Lê của Lê Thuyết ghép tên đệm của Khôi và họ khai sinh của nàng.
Chương 4
Chàng thi sĩ của cách mạng
Từ ngày được thay tên mới, Chiến Thắng Lợi đã trở thành một cán bộ chững chạc, kiên định đường lối cách mạng. Như thép được tôi trong lửa đỏ và nước lạnh, vào tuổi hai mươi hai, anh đã có tố chất của một người đàn ông tam thập nhi lập. Đi với thượng cấp, anh chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là tuân lệnh và phục tùng. Cấp trên ra lệnh, không cãi, không bàn lùi, không chần chừ, tuyệt đối tuân thủ và bằng mọi giá hoàn thành nhiệm vụ. Trong công việc chỉ được phép nhận chỉ thị từ người trực tiếp truyền đạt cho mình. Chỉ bàn bạc trong tổ tam tam và xin chỉ thị của thượng cấp. Thấy dấu hiệu khả nghi, phải lập tức báo cáo với thượng cấp. Không được nghe đài địch, đọc tin tức, truyền đơn của địch. Phải coi tổ chức thiêng liêng hơn tất cả, hơn cả gia đình, bố mẹ, vợ con. Sẵn sàng hy sinh chuyện riêng tư, thậm chí không có chuyện riêng tư càng tốt. Mọi thư từ, tin tức của người thân ruột thịt đều phải báo cáo với tổ chức. Những nguyên tắc ấy đã được Chiến Thắng Lợi quán triệt từng ngày, từng giờ. Từ con người cá nhân, Chiến Thắng Lợi đã hoàn toàn trở thành con người của tổ chức.
Có một lần đi công tác với thượng cấp, Chiến Thắng Lợi đã lập một chiến tích thầm lặng. Lần ấy, nước lũ bỗng đột ngột đổ về. Con ngầm đang qua trở thành dòng thác. Đồng chí thượng cấp trượt chân, bị lũ cuốn trôi hơn trăm mét. Chỉ còn chừng ba mươi mét nữa là đến thác, con thác hung dữ sẽ cuốn phăng tất cả mọi vật xuống vực xoáy. Đang cơn nguy kịch thì Chiến Thắng Lợi chạy vòng bờ vực, chặn đầu, lao xuống dòng lũ. Anh quăng đoạn dây và rất may là đồng chí thượng cấp bám được. Sau lần cứu mạng ấy, thượng cấp càng tin tưởng và lưu ý cất nhắc, đề bạt Chiến Thắng Lợi. Cuối năm 1952, anh được cử làm đoàn phó một đoàn công tác từ chiến khu Việt Bắc về các tỉnh đồng bằng để vận động đồng bào trong vùng tự do và vùng địch hậu tổ chức các đoàn dân công hoả tuyến, đóng thuế nông nghiệp, động viên sức người sức của cho kháng chiến.
Sau bốn năm ở rừng, Chiến Thắng Lợi trở về đồng bằng với ngột khí thế bừng bừng, một tâm thức mới. Cuộc kháng chiến đã vượt qua giai đoạn cầm cự và phòng ngự, tiến sang giai đoạn phản công. Chiến thắng Biên Giới, chiến thắng Hoà Bình, rồi chiến thắng Tây Bắc cuối năm 1952 đã hoàn toàn làm thay đổi cục diện chiến trường. Khí thế bộ đội Cụ Hồ như chẻ tre. Các loại vũ khí hạng nặng: xe tăng, đại bác, của Việt Minh lần đầu tiên xuất hiện khiến thực dân Pháp kinh hoàng. Các binh đoàn chủ lực đang được lệnh mở mặt trận Tây Bắc và Thượng Lào.
Đoàn công tác thuế nông nghiệp của Chiến Thắng Lợi có một số nhà văn và nhạc sĩ, có người trong số họ đã được anh vận động đưa từ Hà Nội lên Việt Bắc từ năm 1948. Một lần, trong một căn hầm trú ẩn tại một nhà dân ở Nho Quan, Ninh Bình, nhà văn Trần Nguyễn, một cây bút tên tuổi từ thời Tự lực Văn đoàn, đưa cho Chiến Thắng Lợi xem một bài thơ in trong tạp chí Bông Lúa, một ấn phẩm in ti pô của Hội Văn nghệ Liên khu Ba. Ông lè lưỡi lắc đầu:
- Tác giả Nguyễn Kỳ Vỹ này là một thằng cha mới toanh. Nhưng thơ hắn thì tuyệt quá. Giọng điệu vừa mới, vừa trẻ. Không kém gì Ximônốp, Baudelaire, Lamartine.
Vừa liếc thấy tên tác giả Nguyễn Kỳ Vỹ, tim Chiến Thắng Lợi đã đập liên hồi. Anh đọc như nuốt từng câu:
SỐNG
Anh đã chết sau những ngày tăm tối
Sau trăm năm kiếp nô lệ lầm than
Nước mất, nhà cũng tan như nước
Gót giày đinh cày ngang dọc quê hương
Đành gác lại nụ hôn chờ kiếp khác
Đừng trách anh hờ hững hỡi em yêu
Vì nước, thà bọc thây da ngựa
Chí nam nhi sao tiếc một Giáng Kiều
Anh không thẻ sống kiếp đời nô lệ
Nàng thơ ơi, đừng níu giữ chiến bào
Trống đồng giục, gọi trai Phù Đổng
Rũ bùn bay tới triệu vì sao.
Chiến Thắng Lợi nhìn mãi vào cái tên tác giã Nguyễn Kỳ Vỹ ở đầu bài thơ. Đúng là thằng em trai anh rồi. Nguyễn Kỳ Vỹ. Bài thơ này của nó thật rồi. Lợi đưa mắt nhìn nhà văn Trần Nguyễn thăm dò. Phải cảnh giác với ông nhà văn này. Ông ấy biết Nguyễn Kỳ Vỹ là em trai mình chăng? Tuổi nó sao lại viết bài thơ này nhỉ? Toàn yêu đương trai gái. Giữa lúc cả dân tộc lo đánh giặc mà lại làm thơ hôn hít nhau. Sặc mùi tiểu thư sản, uỷ mị, sướt mướt, phản động. Ông nhà văn này lập trường có vấn đề. Vẫn rơi rớt giọng điệu sướt mướt, nhập nhoà giai cấp từ thời Tự lực Văn đoàn, Tiểu thuyết Thứ Bảy. Hay ông ta định thử lập trường giai cấp của mình? Hãy coi chừng những viên đạn bọc đường.
- Theo em, bài thơ này phản động anh ạ. Lập trường tiểu tư sản. Thơ ca cách mạng không thể như thế này được. Nguy hiểm lắm. Trai gái sẽ hôn hít nhau lung tung và quên ý chí cách mạng, thủ tiêu đấu tranh giai cấp… Ông Tổng biên tập Bông Lúa này có vấn đề. Cần phải báo cáo với thượng cấp.
Nhà văn Trần Nguyễn trố mắt nhìn Chiến Thắng Lợi như đang nhìn một dị vật. Ông lắc đầu, lấy bi đông rượu, rót ra chiếc chén mắt trâu mầu da lươn lúc nào cũng đem theo mình, chiêu một hớp rồi khà một tiếng.
- Quan điểm về nghệ thuật của chú mày không ổn. Anh thất vọng đấy. Tao là dân văn xuôi, nhưng không đến nỗi ngu si không biết thưởng thức thơ như chú mày tưởng đâu. Thơ của thằng Nguyễn Kỳ Vỹ này mới là thơ chính hiệu. Thơ yêu nước, thơ cách mạng hẳn hoi đó. Mày quen xài thứ thơ ca hò vè hô khẩu hiệu thì làm sao sực nổi loại thơ này. Tay Tổng biên tập tờ Bông Lúa có con mắt xanh đó.
Định gác lại nụ hôn chờ kiếp khác
Đừng trách anh hờ hững hỡi em yêu
Vì nước, thà bọc thây da ngựa
Chí nam nhi sao tiếc một Giáng Kiều
Thấy chưa? Lập trường giai cấp, tình yêu nước, lòng căm thù giặc Pháp của thằng cha này gấp vạn lần anh em mình. Tình yêu là thuộc tính của con người. Tình yêu trai gái càng thiêng liêng trân trọng. Vậy mà người con trai đành gác lại nụ hôn để ra đi cứu nước. Nụ hôn của tình yêu đôi lứa là một tín hiệu thiêng liêng. Nhưng tình yêu nước còn thiêng liêng hơn. Khi Tổ quốc còn rên xiết dưới gót dày ngoại bang thì nụ hôn người yêu là sự tủi sầu, là hành vi thấp kém của một kẻ nô lệ. Tình yêu cá nhân phải nằm trong tình yêu lớn dân tộc. Đã là người Việt Nam ta, ai cũng có tình yêu nước, và họ yêu nước theo cách riêng của mình. Giữa Trần Thủ Độ và Trần Quang Khải, giữa Hồ Quý Ly và Lê Lợi… chưa chắc ai đã có tình yêu nước hơn ai. Đừng độc quyền tình yêu nước. Phải khách quan nhìn nhận và nâng niu tình yêu nước ở mỗi người. Nguyễn Kỳ Vỹ đã nói được tiếng nói của tuổi trẻ, của cả một thế hệ đang cầm súng kháng chiến. Đời người làm thơ chỉ ước viết được những câu thơ như thế. Tay Nguyễn Kỳ Vỹ này xứng đáng là thi sĩ của cách mạng. Mày biết các chiến sĩ ta đang truyền tay nhau đọc bài thơ này không? Quần chúng tinh nhạy lắm. Thơ hay là họ ngửi thấy liền. Bao nhiêu chàng trai đã chép vào sổ tay và học thuộc bài thơ này đó…
- Thật vậy hả anh? - Chiến Thắng Lợi giỏng tai, há hốc miệng.
- Một bài thơ hay có sức mạnh bằng cả một sư đoàn. Ông Lênin từng nói như vậy. Cho nên ông ta mới coi Gorki là con chim báo bão, là nghệ sĩ lớn của cách mạng. Maiakôpski là nhà thơ tiên phong của giai cấp công nhân, người hiệu triệu của chính quyền Xô Viết. Cho nên Cụ Hồ Chí Minh mới chỉ thị cho các chú gọi bọn tớ lên tập họp ở Việt Bắc để phụng sự kháng chiến. Chính sách đối với văn nghệ, với trí thức của ông Cụ là tài tình lắm. Chỉ một lời hiệu triệu của ông Cụ là bao nhiêu người tài giỏi từ Pháp, từ Nhật, từ Anh, từ Nga Xô, Trung Quốc cho đến những người tài trùm chăn ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn… đều lên chiến khu, bưng biền phụng sự kháng chiến cả. Việt Minh sẽ chiến thắng bọn thực dân đế quốc Pháp vì họ đã làm được một kỳ tích là tập hợp toàn dân trong một đại hội Diên Hồng mới, phát động toàn dân triệu người như một…
Nhà văn Trần Nguyễn lại nhấp một tợp rượu, rồi tự ông rót một chén đưa cho Chiến Thắng Lợi.
- Chú mày tiếp xúc nhiều với cánh văn nghệ sĩ bọn anh, phải thấm nhuần lời dạy của ông Cụ là phải biết nâng niu tài năng, trọng kẻ sĩ. Hiền tài là nguyên khí quốc gia, đó là tư tưởng của cha ông mình, đã từng được ghi trong văn bia Văn Miếu - Quốc Tử Giám: Nói thực với chú, bọn anh cũng có cái kiêu của kẻ có tài. Để có một tài năng, một người tài, ngoài cái trời cho, còn phải nhờ tư chất, nhờ ghen di truyền, nhờ khổ luyện. Người thường có thể có hàng triệu, nhưng người tài thì chỉ có một vài. Tay Nguyễn Kỳ Vỹ này là một người tài. Anh dám chắc với chú mày điều này. Rồi chú mày xem. Nếu được tin dùng, được cách mạng trọng dụng, Nguyễn Kỳ Vỹ sẽ là một con chim báo bão, một thi sĩ đích thực của cách mạng…
Chiến Thắng Lợi như nuốt lấy từng lời. Chưa bao giờ anh thấy nhà văn Trần Nguyễn lại cởi mở hết ruột gan như lúc này. Nếu quả đúng như ông nhà văn nói, thì sau đợt công tác này anh phải về qua nhà, phải rủ Nguyễn Kỳ Vỹ lên chiến khu Việt Bắc. Chính anh sẽ giới thiệu Vỹ với tổ chức. Chính anh sẽ bồi dưỡng Vỹ về phẩm chất chính trị, lập trường giai cấp tư cách đạo đức. Anh em ruột thịt còn gì hơn là giúp nhau lúc này. Anh sẽ có công với cách mạng, và Vỹ cũng được dịp làm rạng rỡ gia đình, dòng họ. Với trình độ Thành chung, giỏi tiếng Pháp, lại có tài thơ, nếu được làm báo Vệ Quốc, báo Độc Lập hay một công việc gì đó dính dáng đến tuyên huấn, văn chương, chắc chắn Vỹ sẽ trở thành một ký giả xuất sắc, một thi sĩ tài năng của cách mạng.
Trong trang phục một ký giả, quần áo màu ghi, mũ phớt xám, Chiến Thắng Lợi về làng Động gần giờ giới nghiêm.
Làng Động, ba năm nay, từ khi có bốt địch đóng sừng sững giữa làng, trở thành một làng tề an toàn nhất của địch. Cùng với hệ thống bốt Liên Đạo, Phủ Cũ, Thanh Am, Can Xá, Đanh, Tiêu Bồ, thực dân Pháp đã thiết lập được một vành đai bảo vệ Hà Nội, bao vây vùng Khu Trắng, khu an toàn bất khả xâm phạm của Việt Minh. Từ hệ thống đồn bốt vành đai, thỉnh thoảng địch tổ chức các trận càn thọc sâu xuống những làng Trầm tiêu hao lực lượng kháng chiến.
Mấy năm xa làng, cuộc trở về lần này khiến Chiến Thắng Lợi có cảm giác lạ lẫm, hệt như một đứa trẻ từ ao tù đi ra biển rộng, nay lại về thăm chốn cũ.
Làng Động của anh đây, một vùng quê nghèo, xung quanh bao bọc kín mít bởi những luỹ tre dày, nổi lên giữa ba bề đồng trống, như một ốc đảo. Nghe các cụ nói lại, ngày ông thượng tổ Lý Kỳ Phong rời trang Vân Đồn về lập nghiệp, làng Động mới là một gò đất giữa mênh mông nước. Mùa gặt chưa tới, bọn cướp ngày từ vùng đồng trũng ven sông Hồng, sông Điền đã kéo nhau từng đàn vào gặt trộm. Chúng cưỡi trên hàng trăm chiếc thuyền tam bản, phi như bay trên đồng ngập trắng. Liềm, hái, đòn xóc, sào tre vừa là công cụ gặt trộm vừa là vũ khí giết người lợi hại. Nhưng thượng tổ Lý Kỳ Phong vốn là dân sông nước, võ nghệ siêu quần, không phải tay vừa. Ông trồng tre ken dày quanh làng, dày tới mức tên bắn không qua. Ông cho đan những chiếc bồ tre khổng lồ, hàng chục người ôm, cao mấy đầu người để trữ thóc. Ông dựng những chòi canh trên ngọn cây cao, nhìn xa hàng mấy dặm, tít xuống những làng Trầm dưới kia. Ông cho làm nhiều thuyền nan, nhiều câu liêm, dao quăng, nhiều cung tên để chiến đấu với giặc cướp. Làng Động từ đó thực sự trở thành một pháo đài…
Xét theo góc độ lịch sử, dòng họ Lý, sau này đổi thành Nguyễn Kỳ, có công lao khai phá, dựng nghiệp, nhưng đồng thời lại trở thành những đại địa chủ bóc lột bần cố nông, càng đến thời kỳ phong kiến thực dân gần đây, càng bộc lộ tính chất phản động, ngăn cản sự tiến hoá của xã hội. Những ngày ở chiến khu Việt Bắc, được đả thông tư tưởng, học tập lý luận, bồi dưỡng quan điểm giai cấp, Chiến Thắng Lợi đã nhìn nhận cái làng Động của anh, cái dòng họ Nguyễn Kỳ của anh với một góc nhìn hoàn toàn khác, một cái nhìn đậm tính duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Sẽ đến lúc phải phá bỏ những luỹ tre nghìn đời cổ hủ, phong kiến kia đi. Sẽ đến lúc đập bỏ cái sào huyệt Nguyễn Kỳ Viên mà thầy anh đang ôm giữ khư khư kia nữa. Sẽ phải tiến tới thế giới đại đồng, giai cấp vô sản làm chủ toàn cầu…
Theo sự chỉ dẫn của cơ sở, Chiến Thắng Lợi tránh đi lối đình, nơi bọn lính bảo an đóng bốt, để vòng qua ngõ xóm Thượng về Nguyễn Kỳ Viên.
Qua rặng tre um tùm, qua những cái vườn bỏ hoang, nơi xưa kia là sào huyệt của bọn ma tịt, Chiến Thắng Lợi đã nhìn thấy khu nhà thâm nghiêm của anh sáng rực ánh đèn. Có chuyện gì mà đèn đuốc sáng chói vào giờ này? Không thể vào nhà bằng cổng chính, anh men theo bờ rào, lọt qua một khe bí mật chỉ riêng mình anh biết, rồi vòng qua khu nhà ngang, trèo lên cây muỗm um tùm, dõi mắt nhìn hai chiếc xe con, một chiếc xe Jeep nhà binh, một chiếc Renault màu sữa, đỗ ngay gần sát cổng. Một tên lính áo vàng, súng lăm lăm trong tay đang đi lại tuần tra. Lẽo đẽo theo hắn là con bécgiê cực lớn có sợi xích trắng quấn quanh cổ.
Bọn địch ở bốt làng đã đoán Khôi về, phục kích đón lõng chăng? Kiểm tra lại khẩu súng giắt trong người, Chiến Thắng Lợi nằm ép trên cây muỗm nghe ngóng rồi tìm cách trườn sang nóc dãy nhà ngang. Kia rồi, thầy anh, ông Cử Phúc, bây giờ dân làng gọi là Lý Phúc, đang ngồi giữa một bàn tổ tôm.
Tất cả có sáu người. Ánh sáng ngọn đèn ba dây và hai cây đèn toạ đăng chiếu vào chiếc sập gụ gian bên nhà thờ cho anh nhận ra một người quen: ông Hội Thiện người làng Nghi Sơn, bạn thân của thầy anh. Bên cạnh là một người trẻ tuổi mặc vestông trắng, tiếp nữa là ba sĩ quan nguy, hai người chơi bài, một người chầu rìa. Theo như phán đoán của Chiến Thắng Lợi, thì tên sĩ quan ngồi cạnh ông Hội Thiện trông giống Tây lai, có thể là Trương Phiên, đồn trưởng bốt làng Động, kẻ khét tiếng ăn chơi và là một tay tổ tôm cự phách trong vùng.
Một nỗi đau, chen nỗi uất ức trào lên, khiến mặt Chiến Thắng Lợi nóng bừng bừng. Thầy anh không phải làm nhiệm vụ hai mang như Cam đã từng nói với anh trong ba ngày gặp nhau ở Phương Đình ấy, mà ông đang làm tay sai cho địch thật rồi. Gần mực thì đen. Những cuộc cờ bạc thâu đêm này bắt đầu từ bao giờ? Cái tin ông Cử Phúc ra làm lý trưởng làng Động đã đến tai Chiến Thắng Lợi từ khi anh còn trên chiến khu. Tin ấy đến cả tai tổ chức. Làm sao mà bào chữa được? Bây giờ thì tận mắt anh nhìn thấy cha mình đang thản nhiên, thậm chí hứng thú khi ngồi chơi tổ tôm với kẻ thù của nhân dân.
Cố nuốt mấy lần mà cái cục trong yết hầu vẫn chẹn ngang cổ, Chiến Thắng Lợi muốn ném một quả lựu đạn, xả mấy băng đạn vào giữa bàn tổ tôm kia. Nhưng rồi nhìn thấy con bécgiê như con cọp xám, tên lính vệ sĩ to như ông hộ pháp cắp khẩu tiểu liên đi lại trước cái sân rộng mênh mông, anh đành nuốt nước mắt, bất lực.
Cuộc tổ tôm đã ù đến ván thứ mười ba. Ông Lý Phúc ù ba ván Bạch định, bốn ván Thông tôm lèo, hai ván Chi chi. Còn lại bốn ván thì Trương Phiên chiếm ba, ông khách ù một ván suông. Hoá ra Lý Phúc vẫn là một tay tổ tôm sừng sỏ không có đối thủ. Cay cú nhất là Trương Phiên. Gã đã chót khoe với Phán Liêu, người mặc complê trắng, hiện đang có chân trong Hội đồng dân biểu Bắc Kỳ, rằng đêm nay gã sẽ móc túi Lý Phúc đến đồng xu cuối cùng.
Thực ra cuộc sát phạt này không phải là mục đích chính của Phán Liêu. Đầu tháng tới nếu không có gì thay đổi, ông sẽ được bổ nhiệm tri huyện Phương Đình thay viên quan huyện cũ nhu nhược để cho Việt Minh lấn lướt. Đây là dịp quan huyện tương lai tiếp xúc với Chánh tổng Thiện và Lý Phúc để dò la xem hai người cộng sự sắp tới của ông như thế nào. Đã có những chứng cứ của điệp viên nằm vùng cho hay hai nhân vật này do Việt Minh cài vào hàng ngũ của Pháp.
Bằng cứ rõ nhất là tháng trước Lý Phúc vừa bị quan Tây bốt Phủ tống giam hai ngày vì đã cố tình che giấu một tên cộng sản đầu sỏ ở trong làng. Chuyến ấy không có Chánh tổng Thiện và Trương Phiên xin khéo thì Lý Phúc có thể bị án tù vài năm.
Có một người mà trong suốt cuộc tổ tôm cứ đi như con thoi từ trên nhà xuống bếp khiến Chiến Thắng Lợi căng mắt quan sát và suy đoán mãi. Không phải Vỹ, Vọng. Cũng không phải Cục. Chắc dì và ba thằng em đã đi ngủ từ lâu rồi. Phải một lúc sau Lợi mới nhận ra anh Đĩ Ngao mặt rỗ chằng rỗ chịt bên hàng xóm, con ông Mõ Ngò, người chuyên giết lợn và làm cỗ thuê trong làng. Đĩ Ngao là loại mạt hạng cùng đinh nhất làng Động, bố và ông nội là dân ngụ cư, xin làm mõ cho làng, được cụ Đồ Kha hết lòng cưu mang, cho hẳn một dải đất ven ao làm nhà. Từ đời ông nội Lợi đã coi bố con Đĩ Ngao như con cái kẻ ăn người làm trong nhà, có đám, có việc gì Đĩ Ngao đều đánh hơi mò đến, cúc cung tận tuy. Dĩ nhiên, thớt có tanh tao ruồi mới đến. Cả nhà Đĩ Ngao đã thành tinh trong việc ăn vụng, ăn bớt. Kia, cái món ở dưới bếp ngào ngạt mùi thơm kia hẳn là ông thầy ăn một, bà cốt ăn hai. Đĩ Ngao đang bứng lên một nồi cháo gà thơm phức, thận trọng múc ra những bát ô tô to bằng sứ Giang Tây…
Đến lúc này Chiến Thắng Lợi mới thấy đói cồn cào. Hơi cháo gà bay ngạt ngào khiến con becgiê cũng khụt khịt như thèm thuồng.
Bỏ lên chiến khu ư? Cuộc trở về làng Động sau bốn năm biền biệt lại ngao ngán và đắng đót như thế này sao? Chợt nghĩ đến Nguyễn Kỳ Vỹ và bài thơ "Sống" Chiến Thắng Lợi đành dằn lòng lại. Thời gian này là lúc Vỹ đang nghỉ hết năm học để chuẩn bị lên học tú tài. Bằng mọi giá anh phải gặp Nguyễn Kỳ Vỹ, thuyết phục Vỹ lên chiến khu Việt Bắc. Nếu quả thực Vỹ là tác giả bài thơ sống thì chuyến này anh sẽ làm được công việc chiêu hiền ngang với tam cố thảo lư của Lưu Bị cầu Gia Cát Khổng Minh. "Thân hiền giá hiền dã, năng tiến hiền già diệc hiền dã". Tự mình hiền tài thì là nhân tài rồi, nhưng biết tiến cử người hiền tài cũng là nhân tài. Câu nói của Lưu Hướng đời Hán mà thầy vẫn dạy cho Khôi ngày trước, anh ghi tận đáy lòng. Khôi trườn trên nóc nhà, tìm đến gian nhà ngang nơi ba đứa em của anh ngủ. Có ánh đèn hắt lên khe ngói. Rất có thể Vỹ chưa ngủ. Nhẹ nhàng tháo một viên ngói ở đầu hồi, nhìn xuống, Khôi nhận ra Vỹ đang ngồi trước bàn. Ngọn đèn hoa kỳ hắt xuống một cuốn sách đang để mở.
- Tắc kè… tắc kè… tắc kè.
Ba tiếng tắc kè bỗng vang lên. Không phải năm tiếng như con tắc kè vẫn kêu ở trên cây muỗm đầu nhà thờ, mà chỉ có ba tiếng. Đó là ám hiệu chỉ riêng Khôi và Vỹ ngầm biết với nhau từ ngày Khôi còn ở nhà.
Tên lính cận vệ dừng lại, dỏng tai nghe ngóng.
Nguyễn Kỳ Vỹ dừng đọc sách, ngẩng lên mái nhà. Bằng linh cảm, Vỹ biết anh Khôi đã trở về. Đúng là anh Khôi rồi. Ba tiếng tắc kè này Vỹ đã chờ đợi suốt bẩy năm, từ ngày anh Khôi thoát ly gia đình đi theo cách mạng. Rất nhiều đêm không ngủ, Vỹ nằm chong mắt nhìn lên mái nhà nghĩ về anh Khôi và mơ ba tiếng tắc kè.
Lách qua khe cửa, Vỹ len lén đi phía sau, nơi có đống rơm và những bụi chuối. Quan sát bốn phía, rồi Vỹ bắc loa tay hướng về phía cây muỗm đáp lại ba tiếng tắc kè… tắc kè… tắc kè… Đó là ám hiệu anh em đã nhận ra nhau.
Cho đến khi hai anh em ôm chầm lấy nhau ở chân đống rơm góc vườn, sau dãy nhà ngang, thì Chiến Thắng Lợi hoàn toàn tin rằng tiếng tắc kè của anh đã trở thành nỗi chờ đợi đau đáu trong lòng đứa em cùng cha khác mẹ biết chừng nào.
- Em nhớ anh từng ngày. Em không muốn đi học nữa. Em muốn lên Việt Bắc với anh.
Đó là những câu nói đầu tiên của Nguyễn Kỳ Vỹ với người anh trai sau mấy năm xa cách. Với Vỹ, Khôi là niềm tự hào, là ngưỡng vọng, là biểu tượng của kháng chiến. Ở trường, Vỹ công khai khoe với bạn bè có anh trai đi làm cách mạng. Đã hai lần Vỹ ẩu đả, đấm thẳng vào mồm thằng Hạnh mặt lưỡi cày khi nó dám nói xấu anh Khôi, thoá mạ kháng chiến. Tin tức về những chiến thắng dồn dập của Việt Minh ở Việt Bắc lan truyền trong các lớp học. Rồi mỗi tuần, mỗi tháng lại có một vài học trò bỏ lớp, ra vùng tự do theo bộ đội. Không khí học đường tan tác như phiên chợ chiều, càng khiến Vỹ như ngồi trên đống lửa. Vỹ ngán ngẩm, thậm chí vứt xó tất cả những cuốn tiểu thuyết chàng, nàng của Khái Hưng, Nhất Linh và nhóm Tự lực Văn đoàn. Anh không thiết đọc La Martin, Huygô, Bođơle, Volte và trường phái cách tân, lãng mạn Pháp. Anh chép vào trang đầu cuốn sổ những câu thơ trong bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Vỹ tự ví mình như con hổ bị giam cầm mà chốn rừng xanh có ý ám chỉ vùng Việt Bắc xa xôi, nơi có anh Khôi và những người yêu nước đang kháng chiến.
- Đêm nay thầy phải tiếp tổ tôm đồn trưởng Trương Phiên đến khuya. Chúng nó biết anh về thì nguy hiểm lắm. Tạm thời anh phải nằm chờ ở dưới hầm. Em phải lên nhà xem động tĩnh thế nào.
Vỹ thì thầm vào tai Chiến Thắng Lợi và dẫn anh trai xuống căn hầm bí mật ngay dưới chân bụi tre sau dãy nhà ngang. Căn hầm bí mật này ông Lý Phúc đã cho đào ngay sau khi ông nhận chức lý trưởng làng Động. Đó là một căn hầm khá kiên cố, dài ba mét, rộng hai mét hai, cao ngập đầu người, thông từ ngách kho lúa xuyên ra giữa bụi tre, có thể chứa hơn chục người. Căn hầm bí mật đã giúp Lý Phúc làm việc hai mang một cách suôn sẻ. Nhiều cuộc họp bí mật của các cốt cán Việt Minh trong vùng đã được tổ chức ngay dưới hầm. Có thời kỳ Bí thư huyện uỷ Phương Đình ở trong nhà Lý Phúc cả tuần. Có trường hợp, trên nhà Lý Phúc đánh tổ tôm với đồn trưởng Trương Phiên, nhưng dưới hầm cán bộ Việt Minh vẫn ung dung hội họp. Mới hơn một tháng trước đây, nhờ căn hầm này mà một thượng cấp của Việt Minh về chỉ đạo phong trào đã được cứu thoát. Chuyến ấy Lý trưởng Phúc bị bắt giam trên bốt Phủ hai ngày, bị ghi vào sổ đen nghi có cảm tình với Việt Minh. Ngay cả đồn trưởng Trương Phiên cũng bị khiển trách, suýt bị hạ một gạch sao.
Tờ tạp chí Bông Lúa mà Chiến Thắng Lợi dúi vào tay Vỹ ở cửa hầm còn hơn cả mọi thứ quà tặng quí giá. Người Vỹ cứ run lên, con tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực khi anh đọc thấy tên Nguyễn Kỳ Vỹ và bài thơ "Sống" của mình. Vậy là chị Cam đã giữ đúng lời hứa. Chị Cam đã gửi bài thơ Vỹ viết cho anh Khôi. Và anh đã giận in trên tạp chí Bông Lúa này đây.
Vỹ nhớ lại lần gặp chị Cam hồi năm ngoái, khi chị đóng vai một bệnh nhân của thầy đến ở trong căn hầm bí mật. Cả tuần lễ chị Cam hay hỏi Vỹ về Khôi, lúc nào cũng hỏi về anh Khôi. Chị bảo đã quen anh Khôi từ ngày Tổng khởi nghĩa. Giữa hai người có nhiều kỷ niệm với nhau trong những ngày hoạt động bí mật. "Vỹ viết thư đi, chị sẽ gửi anh Khôi cho" - Chị nài nỉ Vỹ.
Tiếp xúc với Cam, Vỹ không chỉ thấy ở chị những nét đẹp hình thể, mà ở chị luôn toát lên vẻ đẹp tinh thần. Đôi mắt tuyệt đẹp của người nữ cán bộ Việt Minh luôn nhìn Vỹ một cách khác lạ ấy, hay đôi môi hình trái tim đầy quyến rũ của Mai, cô bạn gái xóm Chùa, đã gợi tứ cho Vỹ viết bài thơ "Sống"? Lạ thế, chưa từng hôn một người con gái nào mà bài thơ ấy Vỹ chỉ viết trong một đêm, viết như nhập đồng, viết trong một cảm xúc thăng hoa, ngây ngất. "Em vừa viết được một bài thơ. Em nhờ chị gửi cho anh Khôi em nhé!" Vỹ khoe với Cam. Chị đọc xong và bảo: "Chị không biết thưởng thức thơ. Nhưng nếu chị là cô gái được em làm thơ, thì chị hạnh phúc lắm. Chị sẽ gửi lên việt Bắc cho anh Nguyễn Kỳ Khôi bài thơ này".
Những kỷ niệm cứ nhảy nhót, reo vui như tiếng reo của ánh lửa ngọn đèn dầu, ru Vỹ vào giấc ngủ chập chờn. Anh nằm gục trên bàn, hai tay vòng ôm cuốn tạp chí để mở.
Quá nửa đêm thì chiếu tổ tôm tan. Người khách mặc vestông trắng và thầy trò đồn trưởng Trương Phiên cùng con chó becgiê leo lên xe Jeep và chiếc Renault về đồn.
Có tiếng thì thào của hai người đàn ông bên tai Vỹ. Anh lờ mờ nhận ra tiếng của thầy và bác Hội Thiện:
- Thằng cha dân biểu này có nước bài chờ ù thông tôm lèo rất hiểm. Mấy lần tôi ra hiệu mà bác không hiểu ý.
- Tôi biết. Nhưng không muốn lộ liễu. Vậy là chúng ta đã biết rõ kế hoạch của thằng Phán Liêu trong ba ngày tới. Trừ hắn sớm ngày nào cơ sở của chúng ta đỡ bể ngày ấy.
- Mai hắn đi thị sát bốt Ba Thấu.
- Phải mật báo với cơ sở của ta tìm cách khử hắn ở đầu cầu Ba Thấu chiều tối mai.
- Bác cứ yên tâm. Sáng sớm mai X5 sẽ nhận được kế hoạch.
Tiếng thì thào mỗi lúc một xa dần.
Vỹ vùng tỉnh dậy. Trước mặt anh là ông Lý Phúc. Ông vừa nói chuyện với bác Hội Thiện về tay dân biểu mặc áo vestông trắng.
- Con đã hứa với thầy là không thức khuya rồi cơ mà - ông Lý Phúc đặt tay lên vai Vỹ, nhìn anh nghiêm khắc. Rồi ông chợt chớp mắt nhìn thật kỹ cuốn tạp chí dưới tay Vỹ - Cái gì thế này? Tạp chí Bông Lúa à? Ở đâu ra? Ai đưa cho con tạp chí này? Nguy hiểm lắm, con ơi. - Ông Lý Phúc thoáng nghi ngờ, nhìn quanh.
- Dạ thưa thầy…
Vỹ sực nhớ anh Khôi vẫn ở dưới hầm. Có nên nói với thầy không? Bác Chánh tổng Thiện đêm nay ngủ lại, nói có tiện không?
Thấy Vỹ ấp úng, ông Lý Phúc càng nghi ngờ. Ông lật giở vài trang, và chợt đọc thấy cái tên Nguyễn Kỳ Vỹ và bài thơ "Sống" của anh.
- Dạ, thưa thầy, anh Khôi mang về cho con cuốn tạp chí này.
- Nó đâu? Anh Khôi con đâu? - Mặt Lý Phúc thất sắc. Ông lắng nghe tiếng chó sủa rộ lên ở đầu xóm Chùa - Sao con không nói với thầy ngay lúc anh con về?
- Dạ, con sợ… Con giấu anh dưới hầm… Chắc là anh Khôi đang đói…
Ông Lý Phúc vào buồng đánh thức vợ. Cả nhà cuống cuồng. Bữa ăn tối cho Khôi được gấp rút chuẩn bị. Nhưng đến khi ông Lý Phúc và Vỹ xuống hầm thì Khôi đã nằm duỗi dài trên chiếc chõng tre kê ở góc hầm ngáy pho pho.
Suốt ngày hôm sau, hai anh em chơi với nhau dưới hầm bí mật. Việc Khôi về nhà được giữ kín cả với thằng Vện, thằng Cục và cái Hậu, cô con gái út mới ba tuổi.
- Em có biết nhà văn Trần Nguyễn không? - Chiến Thắng Lợi nhớ lại cuộc nói chuyện ở Nho Quan, Ninh Bình.
- Một nhà văn hàng đầu trong nhóm "Tiểu thuyết Thứ Bẩy" - Vỹ đáp - Con người ngang tàng và lãng tử ấy đi theo kháng chiến khiến cho uy tín của Việt Minh tăng lên gấp bội. Thầy dạy văn em bảo, văn ông có hơi vã mùi riêng biệt, không lẫn lộn với bất kỳ nhà văn đương đại nào. Một con người rất có cá tính. Em phục nhất loạt bài ông viết về cái chết của nhà văn tả chân Vũ Trọng Phụng. Trời ơi, không có tình bạn nào cao cả hơn tình bạn của các văn nhân. Đọc "Đêm đưa ma Phụng" của Trần Nguyền, em khóc ròng…
- Con người đầy cá tinh và kiêu căng ấy khen em đến không bút nào tả xiết. Ông gọi em là "chàng thi sĩ của cách mạng". Chính nhà văn Trần Nguyễn đã cho anh đọc bài thơ "Sống" của em đó. Ông cất giữ tờ tạp chí Bông Lúa, như một báu vật.
- Thật thế ư? - Vỹ sửng sốt. Đôi mắt sáng lấp lánh trong bóng tối căn hầm - Vậy mà em cứ tưởng chị Cam đã gửi nó cho anh.
Chiến Thắng Lợi giật nẩy người khi nghe nói đến Cam.
Bốn năm rồi anh không gặp nàng. Không ngờ cuộc chia tay ở phố Lương Đình xa dằng dặc không có ngày gặp lại. Thời kỳ mang tên thẻ căn cước Nguyễn Khắc Khang hoạt động trong nội thành Hà Nội đã mấy lần anh tự vi phạm kỷ luật, trốn tổ chức, trở về tìm nàng. May mà năm đó anh không phát điên, nỗi nhớ quằn quại hành hạ anh hằng đêm. Nhắm mắt lại là anh thấy nàng. Đôi mắt phượng nhìn xoáy vào tim. Nụ cười với hàm răng trắng loá đến mê hồn. Anh sẵn sàng đánh đổi hàng trăm thiếu nữ mười tám đôi mươi nhan sắc, để có được nàng. Nàng đã cho anh ăn canh ngải bùa mê khiến anh lú lẫn, lúc nào cũng mơ tưởng, như người mộng du. Hồi về tìm nàng ở phố Phương Đình cỏ người bảo Cam có chửa và đã sinh con. Có người lại bảo Cam theo một gã buôn bè, sống phiêu bạt trên sông Điền. Có chửa với ai? Sinh con với ai? Đi với thằng nào trên sông Điền? Mối ngờ vực dày vò Khôi mấy tháng liền. May mà sau đó thượng cấp điều anh lên chiến khu chấm dứt thời kỳ yêu đương mù quáng, điên rồ.
Việt Bắc quả là trường học vĩ đại của cách mạng. Giống như một con chiên khi đã quì trước bàn thờ Chúa, chỉ còn biết rũ bỏ thế giới trần tục, gột rửa mọi tội lỗi để hướng tới đấng Cứu thế, mơ được cứu rỗi, được hé mở tới cỡi thiên đàng, Nguyễn Kỳ Khôi cũng đã biết cách trút bỏ mối tình ngang trái đầy mê hoặc của tuổi mới lớn để tu thân và mong được thượng cấp tin dùng. Trong cuộc sám hối và đoạn tuyệt quá khứ đầy cực nhọc và vất vả này, Khôi đặc biệt cám ơn cuốn cẩm nang "Mười điều răn". Anh thuộc lòng từng câu từng chữ mười điều răn và mỗi ngày nhẩm đọc đúng hai mươi lần.
Một là đừng mất lập trường
Hai là tư tưởng dẫn đường Mác-Lê
Ba là giai cấp phân chia
Bốn là đạo đức không lìa lương tâm
Năm là xa lánh tà dâm
Sáu là kim chỉ của dân chớ màng…
Hóa ra cuộc tình éo le chênh lệch tuổi tác giữa anh và Cam nằm trong điều răn thứ năm. Thực chất của nó là tội hủ hoá, suy đồi đạo đức. Bằng kinh nghiệm lọc lõi và trải đời của một người đàn bà có mấy đời chồng, Cam đã cám dỗ và lùa Khôi vào con đường truỵ lạc. Và Khôi, do không kìm nén được dục vọng, sự ham muốn nhục đục, thể xác, đã đồng loã và kích thích thói dâm ô ở Cam. Ai có thể tin nổi rằng, một cặp trai gái lại có thể quấn quít lấy nhau suốt ba ngày trời, tức là bầy mươi hai tiếng đồng hồ không kể ngày đêm, và ngày nào cũng quấn nhau bầy, tám cuộc tình? Mèo mả với gà đồng. Bà già gặp kẻ cắp. Hay là thói dâm ô đã đẩy lên thành bệnh hoạn? Tội hủ hoá và đồi truỵ là kẻ thù rất nguy hiểm của cách mạng.
Như kẻ phàm trần đã ngộ ra mọi điều, quyết chí xuống tóc hầu cửa Phật, Khôi đã xé hết đốt hết mọi thư từ, nhật ký, vật dụng có liên quan đến Cam, xoá cả hình ảnh, kỷ niệm, nhớ nhung trăn trở về nàng. Khôi nhận ra cuộc dan díu với Cam là một sự điên rồ, nguy hiềm. Chi cần tổ chức phát hiện ra, tương lai, tiền đồ của anh sẽ tiêu tan hết. Gặp ai từng quen Cam, nói về nàng, Khôi đều lảng tránh, không biết hoặc không nghe. Anh thực sự muốn cắt bỏ, muốn xoá sạch dấu vết quãng thời gian yêu đương tội lỗi với người đàn bà đầy quyến rũ và nguy hiểm ấy.
Rất may, thời gian có sức công phá và xoá bô mọi điều, dù đó là tình yêu của thánh thần. Rất may, tổ chức đã đặt cho Khôi cái tên mới Chiến Thắng Lợi. Anh đã trở thành một con người khác. Không có quá khứ. Không có những mối ràng buộc cũ. Nhiều lá thư gửi lên Việt Bắc, đề tên Nguyễn Kỳ Khôi, bị văn thư gửi trả lại hoặc ném vào sọt rác, coi như không có người nhận. Thảng hoặc có lá thư nào đến tay anh, Chiến Thắng Lợi liền khước từ, hoặc nhận rồi đốt đi ngay.
Có một lần lá thư của Cam đã đến tay Chiến Thắng Lợi. Đó là lần Cam là đại biểu phụ nữ của Liên khu Ba lên Việt Bắc họp Hội nghị động viên Phụ nữ Toàn quốc. Mười hai ngày đi đường, ba ngày họp và ngần ấy ngày về, nhưng Cam dành hầu hết thời gian chỉ để tim kiếm Khôi. Ngày cuối cùng rời Việt Bắc, Cam viết hú hoạ một lá thư, gửi trực tiếp một người ở cơ quan dân vận đưa đến tận nơi Lợi ở. Sau hàng chục lá thư bặt vô âm tín, sau hàng năm trời tìm kiếm, nàng đã kiệt sức mỏi mòn. May mà nàng không phát điên lên. May mà nàng đã rèn được sự vô cảm. Thư của nàng viết vậy. Nàng nguyền rủa Khôi là kẻ hèn nhát, kẻ không tim. Và nàng tuyên bố: Từ nay, với nàng, Nguyễn Kỳ Khôi đã chết.
Nếu Chiến Thắng Lợi phúc đáp lá thư đó, có lẽ Cam sẽ tha thứ. Bởi vì tận trong sâu thẳm cõi lòng, nàng vẫn yêu anh. Nhưng Lợi đã im lặng, đã cho bức thư của Cam và mối tình của nàng đi tầu suốt. Dào ôi, ôm rơm rặm bụng. Nuối tiếc nhớ nhung chỉ là tình cảm tiểu tư sản. Hãy vứt tất cả vào sọt rác.
- Đúng là chị Cam đã gửi bài thơ này của em cho anh phải không? - Vỹ hỏi gừng mấy lần. Vỹ nhìn anh thăm dò rồi chen một câu tiếng Pháp "II me semble que'lle t'aime?"(1)
Chiến Thắng Lợi lắc đầu, chối đây đẩy:
- Non, je ne la connais pas(2). Anh đã nói rồi. Anh không quen ai tên là Cam. Có một sự lầm lẫn nào đó rồi. Mà này, từ nay đừng gọi anh là Nguyễn Kỳ Khôi nữa. Anh được tổ chức đặt tên mới là Chiến Thắng Lợi. Em ghi nhớ nhé: Chiến Thắng Lợi.
- Ôi tuyệt vời! Có thật thế không? Một cái tên cách mạng. Thượng cấp quí và tin dùng anh lắm nên mới được đặt tên này đó.
- Quả là một ân sủng. Ngày xưa, phải các công thần tin cẩn mới được nhà vua đặc ân cho mang quốc tính. Ví như Ngô Tuấn được vua Lý cho mang tên Lý Thường Kiệt. Nguyễn Trai được Lê Lợi cho mang tẽn Lê Trai. Tên Chiến Thắng Lợi cũng có thể coi là một quốc tính đó.
- Anh ơi, em lên Việt Bắc, anh nói với thượng cấp đặt cho em là Chiến Thành Công nhé. Anh Chiến Thắng Lợi thì em phải Chiến Thành Công. Tuyệt vời quá phải không?
- Anh sẽ cố gắng - Chiến Thắng Lợi gật đầu lấy lệ, rồi nhắc lại - Em nhớ đấy. Hãy gọi anh là Chiến Thắng Lợi hay anh Lợi. Chứ không phải Kỳ Khôi. Có lẽ vì anh thay họ tên, nên rất nhiều thư từ gần đây không nhận được Như chợt nhớ ra, Khôi, nắm tay Vỹ - Mà này, gặp chị Cam không được nói chuyện anh đổi tên đấy nhé.
Vy thấy anh trai mình có điều gì đó khó hiểu.
- Sao anh bảo không quen biết chị Cam?
- Không, không… Anh không quen biết thật mà - Chiến Thắng Lợi biết mình vừa lỡ lời, vội chữa - Rất có thể có người đàn bà do địch gài vào để dò la tin tức về anh. Nói chung em không nên nói về anh với ai. Ngay cả chuyến về thăm nhà của anh lần này, em phải hết sức giữ bí mật.
- Anh đừng nghĩ sai về chị Cam. Em tin chắc chị là người của Việt Minh. Một cán bộ cỡ lãnh đạo cao chứ không phải thường đâu nhé. Có thể bài thơ của em in là do chị chép gửi cho tạp chí Bông Lúa.
- Thôi, quên chuyện chị Cam của em đi - Lợi muốn lái câu chuyện - Đợt về này anh mừng là thầy đã giác ngộ, hợp tác với Việt Minh, nhưng anh lại lo vì thầy tỏ ra thân thiện quá với địch…
- Nhiều người bảo, nếu thầy không đứng ra nhận chân lý trưởng thì khối anh chị du kích làng mình bị chặt đầu rồi.
- Chúng có hạch sách gì thầy về chuyện anh không?
- Chiều hôm qua, tên đồn trưởng Trương Phiên bảo thầy: "Ông nên gọi thằng con ông về chiêu hồi. Nó sẽ được khoan hồng. Tôi xin lấy tư cách bạn ông và danh dự quân nhân để bảo lãnh. Bằng không, sắp tới nước mẹ Đại Pháp sẽ làm sạch cô Việt Bắc, Tây Bắc. Con trai ông sẽ đi ngủ với giun…"
- Đấy là những lời của kẻ giãy chết. Em đừng tin luận điệu của địch. Cứ đà này, kháng chiến sắp thành công rồi.
Nhân nói đến chiến cục, Lợi hào hứng giảng giải cho Vỹ nghe về chiến lược cầm cự, phòng ngự, phản công của Việt Minh, về những chiến thắng vang dội của bộ đội Cụ Hồ trên khắp các mặt trận trong cả nước, đặc biệt là những chiến thắng có ý nghĩa chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ.
- Anh muốn cho em biết một tin tuyệt mật - Lợi kéo Vỹ lại gần - Sau khi bị thua liểng xiểng khắp mặt trận Biên giới và Hoà Bình, danh tướng số một của nước Pháp Delattre de Tassigny được điều sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy kiêm Cao uỷ, hòng xoay chuyển tình thế. Nhưng rồi Delattre cũng thất bại, phải thay bằng tướng Salan. Salan đại bại trên khắp các mặt trận. Nghe đâu tướng Navarre sắp được điều sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh… Rất có thể xảy ra cuộc quyết chiến chiến lược giữa Pháp và ta… Đoàn công tác bọn anh về đồng bằng đợt này là để huy động sức người sức của cho chiến trường Tây Bắc sắp tới đó…
Những điều Lợi nói càng củng cố thêm quyết tâm của Vỹ:
- Em đã quyết rồi. Mặc thầy u. Em không ra Hà Nội học lấy bằng tú tài đâu. Anh cho em lên Việt Bắc với nhé.
- Có nên xin ý kiến thầy u không? - Lợi băn khoăn - Đọc bài thơ của em, anh thêm hiểu em hơn. Làm trai phải có lý tưởng sống. Không thể cam chịu làm dân một nước nô lệ. Anh biết em đang đứng ở ngã ba đường. Em có biết câu thơ của Tố Hữu, nhà thơ lớn của cách mạng: "Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước. Chọn một dòng hay để nước trôi" không?
- Em rất thích bài thơ này. Bọn học sinh chúng em nhiều đứa thuộc lòng. Học tú tài để làm gì? Làm ông ký, ông phán, hay thông ngôn thì cũng là làm tay sai cho Pháp, góp phần giết hại đồng bào mình. Không, em không thế trở thành kè bán nước hại dân. Đến như thầy, vốn an bần lạc đạo, muốn mũ ni che tai để yên thân, nhưng ròi vẫn phải nhúng tay vào chính trị. May mà thầy thức thời, đồng ý hợp tác với Việt Minh…
Hai anh em trò chuyện với nhau cả một ngày. Khi biết dự định của Chiến Thắng Lợi là sẽ giới thiệu Vỹ với báo Vệ Quốc hoặc báo Độc Lập ở chiến khu Việt Bắc thì Vỹ ôm choàng lấy cổ anh, sướng đến phát điên lên. Họ quyết định: Sẽ bí mật trốn khỏi nhà, lên chiến khu Việt Bắc, không để ông bà Lý Phúc biết.
Trước giờ lên đường, Vỹ viết một lá thư để lại:
"Kính lạy thầy u,
Con và anh Khôi phải trốn ra đi, bởi không muốn nhìn thấy cảnh thầy u, cảnh các em và bà nồi rơi lệ nhớ thương. Nói vậy tức là chúng con hoàn toàn toàn thầy u sẽ đồng tình với cuộc ra đi vì nghĩa lớn này. Tổ Quốc lâm nguy, thất phu hữu trách. Lời dạy của thầy chúng con luôn ghi tạc. Thầy u hãy cho chúng con cơ hội để tô chí làm trai, góp công sức phụng sự Tổ Quốc.
Chúng con ngàn lần xin thầy u tha tội và đại xá.
Hai con trai của thầy u.
Nguyễn Kỳ Khôi - Nguyễn Kỳ Vỹ"
Chú thích:
(1) Hình như chị ấy yêu anh? (tiếng Pháp)
(2) Không, anh không quen cô ấy (tiếng Pháp)
Chương 5
Cắn răng bẻ một chữ đồng
Tập thơ đầu tay của Nguyễn Kỳ Vỹ "Thời của Thánh Thần" vừa xuất bản ở chiến khu Việt Bắc, lập tức đã tạo một cơn dư chấn, giống như tác động của một trận động đất cấp 10 độ rích te làm rung chuyển tận tâm can hàng triệu người. Tập thơ mỏng, ba mươi hai bài, in bằng thứ giấy rơm vàng xỉn, với công nghệ xếp chữ thủ công, mực in nhoè mờ, vậy mà hàng vạn chiến sĩ khắp các chiến trường Việt Bắc, Tây Bắc, Khu Ba, Khu Bốn, Khu Năm, Tây Nguyên, Tứ giác Long Châu Hà, vùng rừng U Minh và cả chuồng cọp Côn Đảo chuyền tay nhau đọc, chuyền nhau chép lại trong sổ tay và học thuộc, từng câu, từng bài.
Tác giả Nguyễn Kỳ Vỹ - chỉ sau hai năm đi theo kháng chiến, vừa tròn 18 tuổi đã trở thành một hiện tượng, một vì tinh tú chói sáng trên bầu trời văn học kháng chiến. Tuyệt vời hơn nữa là tập thơ lại được chính đồng chí Tư Vuông, người xếp vị trí quan trọng trong ban lãnh đạo của Việt Minh, viết lời tựa. Tên thật đồng chí Tư Vuông là Nga Sỹ Liên, một cái họ rất lạ. Có nguồn tin lại bảo rằng tên gốc ở quê do bố mẹ đặt cho đồng chí là Lún, Nga Sỹ Lún. Vì quá yêu Liên Xô, đất nước mà đồng chí coi là tổ quốc thứ hai của mình, đồng chí đổi Lún thành Liên. Khi làm thơ, một tờ báo xếp chữ nhầm, họ Nga thành họ Ngô, đồng chí biết nhưng lờ đi, sau thành quen, thành bút danh Ngô Sỹ Liên. Bút danh này khiến những người có học liên tưởng đến nhà sử học nổi tiếng Ngô Sỹ Liên thời Lê, người đã viết bộ "Đại Việt sứ ký toàn thư", một bộ chính sử vào bậc nhất của nước Đại Việt. Việc lấy tên các bậc tiền bối làm tên mình, quả là một phát kiến táo bạo, tuy ban đầu có gây phản cảm cho nhiều người, nhất là những người am hiểu văn hoá lịch sử. Nhưng tổ chức đã thừa nhận tức là có ý tuyên bố ngầm ủng hộ. Thế nên, đã tạo thành thói quen sau này, làm gương cho nhiều quan chức noi theo, như các trường hợp liên quan tới những danh nhân Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, vân vân…
Lời tựa của nhà thơ Ngô Sỹ Liên thực sự là một tôn vinh, một ưu ái ngoài sức tưởng tượng của nhiều người đối với cây bút trẻ Nguyễn Kỳ Vỹ:
"Âm hưởng chủ đạo của tập thơ "Thời của Thánh Thần" là ca ngợi lãnh tụ, ca ngợi nhân dân, ca ngợi kháng chiến. Nếu như ở các bài "Bi phẫn", "Hận lửa, những thôn làng đã qua tác giả tập trung tố cáo chế độ hà khắc, tàn ác của bọn thực dân Pháp, sự hèn mạt của vua quan phong kiến nhà Nguyễn, nỗi thống khổ của hàng triệu người cần lao, thì với bài "Thời của Thánh Thần" - bài thơ chủ đạo được lấy làm tựa đề cho cả tập thơ, Nguyễn Kỳ Vỹ đã nhân hoá giai cấp vô sán, những người lao khổ như Thần Thánh, như Phù Đổng Thiên vương, rũ bùn vươn tới những vì sao. Sự hoán cải, sự hoá thân ấy, chính là sự mầu nhiệm của cách mạng, sự đổi đời, quật khởi của cuộc đấu tranh giai cấp. Nguyễn Kỳ Vỹ với tập thơ ("Thời của Thánh Thần" xúng đáng là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hoá, văn nghệ".
Ngợi ca như thế, lăng xê như thế thì quả là độc nhất vô nhị trong nền phê bình văn học cách mạng.
Trong bảng phong thần của nền thi ca vô sản, ngoài những tên tuổi đã lừng lững trước cách mạng từ thời Tự lực Văn đoàn, Tiểu thuyết Thứ Bẩy, Thơ Mới… có thêm một tiểu tướng sản sinh cùng với kháng chiến, con đẻ của cách mạng là Nguyễn Kỳ Vỹ.
Thực ra; để có vụ lăng xê hết ý này, công đầu không phải là tài năng của Nguyễn Kỳ Vỹ, mà chính là do sự bày binh bố trận của Chiến Thắng Lợi. Do vị trí và mối quan hệ công tác, Chiến Thắng Lợi được làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tư Vuông. Vừa đưa Nguyễn Kỳ Vỹ từ quê lên Việt Bắc, Chiến Thắng Lợi đã tiến cử em trai với đồng chí Tư Vuông. Nhìn cậu học sinh Thành chung khôi ngô, nhanh nhẹn, thông minh, đồng chí Tư Vuông đã có cảm tình.
- Trời ơi, tác giả bài thơ "Sống" đây ư? Giỏi lắm. Đáng mặt anh hào lắm, hỉ. Tôi sẽ ghi công giới thiệu nhân tài cho đồng chí Chiến Thắng Lợi. Cách mạng đang rất cần những người tài. Đồng chí là một tài năng trẻ. Tốt lắm. Phải bổ sung anh em trí thức trẻ cho cách mạng, cho kháng chiến. Có thích làm báo Vệ quốc không? Mình sẽ giới thiệu đồng chí xuống đó.
Cuộc gặp gỡ lần đầu tiên, nhà thơ Ngô Sỹ Liên đã đặt Nguyễn Kỳ Vỹ trên một đường bay lớn để từ đó anh cất cánh.
Liên tiếp trong các số báo Vệ quốc sau đó, bắt đầu xuất hiện các bài phóng sự mặt trận, những bài thơ của Nguyễn Kỳ Vỹ. Thế rồi, như một bảo mẫu đầy tận tuỵ và trách nhiệm, Chiến Thắng Lợi lặng lẽ cắt từng bài thơ của Nguyễn Kỳ Vỹ dán thành tập. Cho đến khi được đủ ba mươi sáu bài, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật của nhà thơ Ngô Sỹ Liên, Chiến Thăng Lợi liền đem trình nhà thơ:
- Báo cáo anh, thằng em em nó không dám. Nhưng em mạo muội trình anh tập thơ này, dâng lên anh như một món quà mừng sinh nhật. Em nghĩ, không có anh, thằng Kỳ Vỹ nhà em đâu có được như ngày hôm nay. Anh là cha đỡ đầu, là người khai sinh…
- Đừng, đừng nói vậy, ngoa ngôn, phạm thượng, Lợi ơi. Mình xin… Mình chỉ dám nhận là người cổ vũ lớp nhà thơ kháng chiến…
Một tuần sau, nhà thơ Ngô Sỹ Liên gọi Chiến Thắng Lợi lên và bảo:
- Cậu là người có con mắt xanh đấy. Mình đọc tập thơ của Nguyễn Kỳ Vỹ và rất thích. Bỏ đi bốn bài thì in được. Lấy tên tập thơ là "Thời của Thánh Thần", hỉ. Bảo Vỹ nó lên gặp mình. Mình sẽ viết giấy cho nó đem xuống nhà in.
Năm ngày sau, Vỹ tức tốc từ Đoan Hùng, đi suốt một ngày một đêm về gặp nhà thơ Ngô Sỹ Liên. Trước mặt nhà thơ lớn, Vỹ run lẩy bẩy đến thảm hại. Anh run vì quá sung sướng, vì quá xúc động khi được một con người mà anh ngưỡng vọng tôn thờ, quan tâm đến.
Gần hai tháng sau thì tập thơ "Thời của Thánh Thần" ra khỏi nhà in, phát hành trong toàn quân.
Như có sức nổ dây chuyền, hiện tượng Nguyễn Kỳ Vỹ tạo nén một luồng sinh khí trên khắp các mặt trận, có sức động viên hiệu triệu, thúc giục hàng triệu chiến sĩ, dân công hoả tuyến; nông công binh trí, đặc biệt khuấy động phong trào giảm tô, cải cách ruộng đất ở đồng bằng Sông Hồng, trung du Bắc Bộ, vùng Thanh Nghệ Tĩnh, truyền cho bộ đội sức mạnh dời non lấp bể tiến vào trận đánh huyết chiến cuối cùng: chiến dịch vĩ đại Điện Biên Phủ.
"Thời của Thánh Thần" lập tức được mười hai nhạc sĩ cùng phổ nhạc. Ấn tượng nhất là trường ca "Sao ơi" của nhạc sĩ tài danh Đường Thanh:
Từ ao tù bùn đọng bốn ngàn năm
Ta đứng dậy vươn vai thần Phù Đổng
Máu tuôn trào đỏ ngập trời, như sóng
Búa liềm ơi, vàng rực, sao sao ơi!
Vượt qua vòng vây kiểm soát thiên la địa võng của thực dân Pháp, từ căn cứ địa Việt Bắc, tập thơ của Nguyễn Kỳ Vỹ được các lực lượng yêu nước trong thành Hà Nội đón nhận như đất hạn gặp mưa rào. Hào hứng nhất là giới học sinh, sinh viên, trí thức. Người ta chép vào sổ tay những bài thơ trong tập "Thời của Thánh Thần" cùng với những tin tức về các trận đánh vào đồi Độc Lập, Bản Kéo, cầu Mường Thanh. Người ta vừa thầm hát trường ca "Sao ơi", vừa lắng nghe tin chiến sự Điện Biên Phủ, tin về hội nghị Giơnevơ, về đình chiến và lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Vào đúng mùa hè nóng bỏng năm 1954 ấy, khi cậu học trò Nguyễn Kỳ Vọng con ông Lý Phúc đang ở Hà Nội dự thi Tú tài phần I, cũng là lúc Vọng có được trong tay tập thơ "Thời của Thánh Thần".
- Có đúng nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ là anh trai của toi không? - Tạ Đôn, thằng bạn học cùng trường dúi vào tay Vọng tập thơ "Thời của Thánh Thần" và nhìn cậu với bộ mặt rất nghiêm trọng - Người ta đồn hai ông anh toi là Việt Minh? Tập thơ này hay nhưng sặc mùi cộng sản.
Mặt Vọng thất sắc. Cậu cầm tập thơ, giấu trong ngực áo, bấm mạnh tay Tạ Đôn, ghé vào tai bạn:
- Khe khẽ cái mồm. Moi đang bị theo dõi.
Quả thật, suốt mấy tháng nay, từ ngày lên học ôn để dự thi tú tài I, Vọng cảm thấy có một ai đó luôn lẽo đẽo theo sát mình. Lúc thì người đó đội mũ phớt đeo kính đen, lúc lại đội mũ nỉ trắng, mặc áo ký giả. Hôm nghe xướng danh, cả trường Phương Đình của Vọng, bốn mươi hai đứa dự thi chỉ có Vọng và Tạ Đôn đỗ tú tài ban B và ban C. Vọng sướng đến phát điên lên. Vừa ôm Tạ Đôn xong, đã thấy một người đàn ông chen vào giữa hai đứa, bắt tay Vọng. Rồi người đó theo Vọng về nhà trọ và bảo: "Cậu là trò duy nhất của tỉnh Sơn Minh cuối năm đệ nhị vừa qua được phần thưởng của Quốc trưởng Bảo Đại. Chính phủ bảo hộ rất chú ý đến cậu. Cậu là tương lai của nền Cộng hoà, của nước mẹ Đại Pháp. Đợt tới này cậu có danh sách chuyển vào Nam đầu tiên".
Hai tiếng vào Nam, lần đấu Vọng nghe, cũng là lúc chiến trường Điện Biên Phủ vào hồi kết cục. Khắp Hà Nội người ta loan tin bộ đội Việt Minh đã bao vây Đồi A1 và hầm tướng Đờ Cát Rồi đồi A1 đã bị chiếm. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã cùng đại diện Cộng hoà Pháp ký hiệp định Giơnevơ. Người Pháp đã tuyên bố đầu hàng Việt Minh.
Vọng chỉ mới kịp đọc một hai bài của tập thơ "Thời của Thánh Thần" thì người đeo kính đen đội mũ phớt đã xuất hiện tại nơi Vọng trọ học.
- Tôi khuyên cậu không nên đọc bất kỳ một tài liệu gì của Việt Minh. Cậu Tạ Đôn mới đưa cho cậu tập thơ của anh trai cậu, đúng không? Hãy đưa cho tôi. Tôi khuyên cậu. Cậu muốn an toàn tính mạng thì hãy đưa cho tôi giữ. Nước Đại Pháp chỉ tạm thời thua trận ở Điện Biên Phủ, nhưng nhất định người Pháp sẽ quay trở lại. Người Mỹ không bao giờ bỏ rơi người Pháp. Tàu chiến, máy bay của họ đang có mặt ở Nam Bộ. Quốc trưởng Bảo Đại, người trao cho cậu phần thưởng cuối lớp Đệ nhị vừa qua, đang rất cần có những người con trung thành như cậu. Cậu hãy chuẩn bị để theo Chúa vào Nam.
- Nhưng ông là ai? Tại sao ông lại quan tâm đến tôi? - Vọng gặng hỏi.
- Tôi là người biết cậu từ ngày cậu được nhận phần thưởng của Quốc trưởng Bảo Đại, là người có trách nhiệm bảo vệ và đưa cậu vào Sài Gòn bằng cách an toàn nhất nay mai. Cậu chỉ cần hiểu như thế là được. Lúc này cậu có rất ít cơ hội lựa chọn. Đường về quê Sơn Minh đã bị phong toả. Bốt làng Động đã bị du kích san bằng. Ông bà Lý Phúc và các em cậu đã chuẩn bị đi Nam rồi…
- Tôi phải về gặp bố mẹ và các em.
- Không được. Chúng tôi có trách nhiệm chuyển tin tức của cậu cho ông bà Lý Phúc. Cậu không phải về quê. Và có muốn về cũng không được. Cậu nên nhớ lúc này, tính mạng mình là quan trọng…
- Nhưng tôi không theo đạo công giáo. Thầy u tôi thờ Phật.
- Tất cả mọi người đều là con của Chúa. Với lại, Phật cũng vào Nam theo nước mẹ Đại Pháp và theo Quốc trưởng Bảo Đại Cậu không còn thiếu thời gian suy nghĩ nữa đâu. Thắng trận Điện Biên rồi, Việt Minh sẽ tràn về Hà Nội. Sẽ có một cuộc tắm máu. Tất cả những ai dính líu đến Chính phủ Đại pháp, đến Quốc trưởng Bảo Đại sẽ bị Việt Minh tùng xéo. Cả bố cậu, ông Lý Phúc, từng làm lý trưởng cho Pháp cũng sẽ bị tùng xẻo, nếu không đi theo nước mẹ…
Vọng thấy khắp người ớn lạnh. Sao người đeo kính đen này lại biết rõ hoàn cánh, lý lịch của Vọng cặn kẽ thế. Có phải người của phòng Nhì không? Nếu Vọng trốn về quê có bị bọn người này ám sát không?
Người đeo kính đen dúi vào tay Vọng một tờ giấy có in sẵn tên Nguyễn Kỳ Vọng, đóng dấu triện hình bầu dục.
- Đây là tích kê máy bay của cậu. Cậu sẽ đi cùng chuyến với Tạ Đôn.
Vọng sững sờ và hoang mang vô cùng. Hay là Tạ Đôn, vì muốn Vọng đi cùng vào Nam mà bày đặt ra chuyện thuê người đội mũ phớt, đeo kính đen đến dụ dỗ mình?
Tạ Đôn. là con ông Cả Đáo, người làng Miệng Thượng, có họ xa với bà Lý Phúc. Miệng Thượng là làng công giáo toàn tòng, có nhà thờ to nhất huyện, tháp chuông cao ngất. Ông Cả Đáo học trường dựng, sau phá ngang đi làm ký bưu điện, lấy được vợ bé con nhà giầu ở phố Sinh Từ. Tạ Đôn là con bà cả ở quê, cùng học với Vọng từ lớp Đệ nhất, cùng ra Hà Nội ôn thi Tú tài. Tạ Đôn có cô em gái xinh đẹp, con bà bé, tên Thu Uyên, kém Vọng một tuổi. Đôn có ý ngầm gán ghép Uyên cho Vọng. Vọng thích, đêm thường mơ thấy nàng, nhưng gặp thì lại thẹn và nhút nhát, không dám nhìn… Chẳng lẽ người đội mũ phớt, đeo kính đen lại biết cá mối quan hệ giữa Vọng và Uyên, em gái Tạ Đôn ư?
Cùng được ông Lý Phúc kèm cặp học chữ nho từ lúc nhó, cùng theo học lớp đồng ấu, lớp sơ học yếu lược, nhưng giữa Vọng và Quặc lại là hai thực thể hoàn toàn trái ngược. Vọng học đâu nhớ đó, thậm chí học chữ Nho khó như vậy mà chỉ sau khi ông Lý Phúc dạy cách viết, cậu đã nhớ mặt chữ viết nét sổ, nét ngang, nét móc đâu ra đấy. Ngược lại, dù nhồi nhét cách nào, Cục cũng chỉ nhớ mỗi một chữ nhất là một gạch ngang, đến chữ rihí, hai gạch ngang thì nó lại viết thành hai gạch dọc. Phức tạp như cái chữ ngã (tôi) chữ quốc (nước) thì Cục đành chịu, dù ông Lý Phúc có bắt nó đặt cả hai bàn tay lên phản mà dùng thước đánh đến chảy máu, nó cũng không thể viết được. Khi hai đứa cùng đi học lớp đồng ấu, Vọng luôn đứng đầu lớp, còn Cục thì xếp cuối bảng. Vọng chăm học, ngăn nắp, vở sạch chữ đẹp bao nhiêu thì Cục ngược lại, luôn coi việc học là một khổ sai, sách vở lúc nào cũng nhầu nát, quăn mép, hai bàn tay rồi mặt mũi đầy vết mực. Để đối phó với ông bà Lý Phúc, Cục luôn năn nỉ Vọng chép hộ bài, giải hộ bài tập và đừng để thầy u biết nó bị điểm kém. Bù lại Cục nhận làm thay Vọng hết thảy những việc nhà, như nấu cơm, rửa bát, quét sân. Lên học sơ học yếu lược, Cục liên tiếp hai năm bị lưu ban. Cho đến khi Cục bị rắn cắn liệt một cánh tay, rồi trong một lần đi hôi cá, bị chủ ao ném bùn đầy lỗ tai, khiến tài nó có mủ, thối hoắc, sinh ra bệnh nghễnh ngãng, thì việc học của nó hoàn toàn không có hy vọng. Cục tự trói tay quì phủ phục trước mặt ông Lý Phúc, nài nỉ: "Thầy thương con, tha cho con không phải đi học". Ông Lý Phúc nhìn nó lắc đầu, ứa nước mắt, đành để mình Vọng tiếp tục học lên bậc tiểu học.
Khác hẳn hai anh Khôi và Vỹ, giỏi thơ văn và các môn học xã hội, Nguyễn Kỳ Vọng giỏi và ham học các môn học tự nhiên. Ngày Pháp nhảy dù Phương Đình, lập vành đai trắng, đóng bốt làng Động, trường trung học công lập đầu tiên được thành lập ở nhà thờ Miệng Hạ. Vọng ghi tên học lớp Đệ lục. Để đỡ tốn tiền của thầy u, hàng ngày Vọng cuốc bộ tám cây số đến trường. Mùa đông nón lá, áo tơi để chống lại gió bấc mưa phùn. Có ngày dậy sớm quá đi hết cánh đồng làng lên bờ đê mà trời vẫn chưa tảng. Có ngày mưa rét quất vào mặt, đến lớp ướt như chuột lội, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập hai bàn tay vặn vẹo vào nhau hàng nửa giờ vẫn không cầm nổi quản bút. Chao ơi, những ngày ấy sao rét dữ đến thế. Bụng càng đói cồn cào, người càng rét run. Mùa hè, lại cực theo kiều khác. Bàn chân bé nhỏ bỏng rẫy trên đường đá răm, mồ hôi ướt đầm quần áo. Nhưng cuốc bộ tám cây số, với Vong lại là quãng đường tự học tốt nhất. Chỉ trong một năm đi bộ mà Vọng đã thuộc làu cả quyển từ điển Pháp Việt bỏ túi.
Từ ngày hai anh Nguyễn Kỳ Khôi, Nguyễn Kỳ Vỹ trốn nhà lên Việt Bắc, ông bà Lý Phúc càng dồn hết tiền bạc, quyết tâm để lo cho Vọng học lên. Đầu năm 1953, chiến cuộc lan tràn, ông bà Cử Phúc liền nghĩ ngay đến việc gửi Vọng lên Hà Nội học. Vẫn biết lên Hà Nội là nhiêu khê, tốn kém, nhưng phía bà Lý Phúc có ông anh họ làm ký ga, nhà ở vườn hoa Tập Kèn, có thể nhờ vả được. Ông Ký nọ lại là anh họ của mẹ Tạ Đôn, nên Vọng vừa có nơi trọ học chu đáo. vừa có thằng bạn học tâm đầu ý hợp lúc này cũng được bố đón ra Hà Nội. Ông Lý Phúc bảo vợ: "Thời buổi mũi tên hòn đạn này, không biết thế nào. Hai thằng anh nó, coi như hiến cho đất nước. Thằng Quặc thì không tính làm gì. Nó vào cửa nhà này là để hứng chịu tất cả những rủi ro thua thiệt cho ba thằng anh nó. Còn thằng Vọng, phải cố mà giữ lấy. Sểnh hai thằng anh, còn có thằng em". Vọng như món gia tài cuối cùng, canh bạc cuối cùng, ông Lý Phúc quyết không để mất. Cho nên, dù vẫn cộng tác với Việt Minh, có hai con trai theo Việt Minh, nhưng ông Lý vẫn tính một bài toán khác, thực chất là ông vẫn phải lo hai mang, chân này chân kia, vẫn để ngỏ cửa với người Pháp.
Phần thưởng của Quốc trưởng Bảo Đại trao cho Nguyễn Kỳ Vọng càng khiến ông củng cố quyết tâm cho Vọng ăn học đến cùng, thậm chí ông trao trọng trách cho Vọng phải bằng mọi cách kiếm được một suất học bổng du học tại Pháp sau khi có bằng Tú tài.
Thời gian ở Hà nội tuy ngắn ngủi, nhưng đối với Vọng quí giá vô cùng. Ngoài giờ học ở trường, Vọng đi dạy tư để có tiền, giảm gánh nặng cho thầy u. Lúc rảnh rỗi, Vọng đi lang thang đến các toà báo Tia Sáng, Chính Đạo, Con Vịt… đến các quầy sách báo lẻ để đọc ké. Thú vị nhất là báo Con Vịt. Bao nhiêu là truyện cười, vừa lý thú vừa bồ ích.
Có một người bạn nhỏ Vọng làm quen và kết thân trong thời kỳ này là cậu bé Lê Đoàn. Đoàn kém Vọng ba tuổi, cao gầy và đen trũi, người Hà Nam, bị thất lạc gia đình hồi tản cư được gom vào trại tế bần, rồi chuyển sang học ở Cô Nhi viện, gần vườn hoa Tập Kèn. Mười tuổi, Đoàn đã nói tiếng Pháp làu làu. Mười ba tuổi, cậu học nhảy cóc ba lớp, thông thạo tiếng Pháp, đến mức bọn Tây Lê Dương nghe cậu nói đều lè lưỡi lắc đầu, phục sái cổ. Một ngày chủ nhật, Đoàn hớt hải đến tìm Vọng:
- Đi với em. Có chuyện này cực kỳ hay.
- Chuyện gì mà hấp dẫn vậy?
- Cứ đi khắc biết thế nào là nước mẹ Đại Pháp. Nhưng nhớ mang theo một chiếc khăn bịt mũi.
Đoàn kéo Vọng lên xe điện ngược Cầu Giấy. Đi hai ga thì hai đứa nhảy xuống, rẽ vào khu bãi trống đối diện với chùa Kim Sơn. Đã thấy thoang thoảng mùi phân người. Mỗi lúc một nồng nặc. Rồi thối khẳm, không thể chịu được, dù đã lấy khăn đút nút hai lỗ mũi.
Đoàn đưa tay chỉ khoảng sân rộng mênh mông, dày đặc phân bắc, giải thích:
- Đây là bãi phơi phân. Những người đổ thùng vệ sinh sẽ thu gom phân người từ khắp thành phố về đây để bán cho công ty phân của ông Năm Diệm. Phân được phơi khô, sau đó đóng vào các thùng gỗ, dán mác "Made in Annam" để chở về nước mẹ Đại Pháp.
- Để làm gì nhi? - Vọng hỏi ngây thơ.
- Để bón cho những cánh đồng nho ở xứ Boócđô hoặc ở Brơtanhơ quê hương mẫu quốc. Anh thấy nước mẹ có vĩ đại không? Bòn rút đến không từ hòn cứt của dân thuộc địa An Nam - Rồi Đoàn buông một câu kết như đinh đóng cột - Em thề dù được học bổng cũng không bao giờ sang Pháp du học. Loại thực dân bòn cả cứt như thế, em khinh.
Thái độ khinh bỉ và coi thường nước Đại Pháp của cậu bé Lê Đoàn cứ day trở mãi trong đầu Vọng, khi cân nhắc đến chuyện đi và ở. Đi, sẽ theo học trường Pháp hay trường Mỹ?
Báo chí đang nói nhiều đến chuyện người Mỹ sẽ thay người Pháp ở miền Nam. Học lên nữa, học với người Mỹ để giành những đinh cao học vấn, hoặc trở về quê, cái làng Động nghèo khổ và tối tăm, để chứng kiến cảnh tắm máu? Những giằng xé ấy khiến hai đêm liền Vọng không ngủ. Vọng viết vào sổ nhật ký. Vọng viết thư cho thầy u, các anh Khôi, Vỹ và em Cục em Hậu…
Vào một đêm trở bão, lúc mười giờ, Lê Đoàn bỗng hớt hải đến tìm Vọng. Nó đi lom khom, tay ôm một bọc gì có vẻ rất nặng trước bụng. Vọng chột dạ: Hay là Đoàn đã đoán được cuộc ra đi của Vọng và đến đưa tiễn?
- Khuya rồi, Đoàn đến có việc gì thế?
- Đỡ cho em với. Nặng quá.
Tay Vọng bỗng chạm vào những viên đạn lạnh buốt. Hàng trăm viên đạn súng ngắn, lấp lánh dưới ánh đèn hắt từ đầu hồi nhà.
- Nhiều đạn không - Đoàn nói như reo - Một trăm sáu mươi bẩy viên đấy. Em lấy trộm của bọn Lê Dương ở trại Tập Kèn đấy. Tán dóc với tụi nó một hồi. Cho mỗi thằng vài điếu thuốc Cô táp, rồi em lừa chúng, khoắng luôn. Em đã có sẵn khẩu Rulô lần trước xoáy của thằng Joyli rồi. Đợi hôm nào bộ đội ta về tiếp quản Thủ đô, hai anh em mình sẽ bắn hết số đạn này chào mừng.
- Nhưng mình không biết bắn súng - Vọng thở dài và tự cảm thấy vô cùng xấu hổ.
- Em sẽ dạy anh. Dễ ẹc. Chỉ một lúc là biết bắn thôi mà - Đoàn chuyển những viên đạn sang tay Vọng - Bây giờ anh cho em gửi số đạn này ở đây. Để ở chỗ em sẽ bị lộ. Lơ mơ bị bắt giam như bỡn.
Đoàn đang dồn Vọng vào tình thế vô cùng khó xử. Biết nói thế nào cho Đoàn hiểu? Hay là nói hết những dự định của mình?
Rất may, bà Ký Thọ đã xuất hiện đúng lúc. Bà giục Vọng vào đi ngủ. Vọng nói nhỏ vào tai Đoàn:
- Đoàn cứ mang đi giấu tạm ở chỗ nào. Bác Ký Thọ biết, nguy hiểm lắm.
Đoàn về rồi mà Vọng cứ dằn vặt suốt. Vọng thầm khâm phục Đoàn và tự xỉ vả mình. Nếu mai kia, khi thấy Vọng bỗng nhiên biến khỏi Hà Nội thì Đoàn sẽ khinh bỉ và nguyền rủa Vọng biết chừng nào.
Không tài nào ngủ được. Đúng 12 giờ khuya, Vọng rón rén cầm cuốn Truyện Kiều đi ra đầu nhà. Dưới ánh sáng ngọn đèn điện đỏ quạch ở đầu hồi, Vọng kính cẩn ấp hai bàn tay vào cuốn sách, lầm rầm khấn vái: "Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều". Đó là lời khấn mà bà nội Vọng, bà Đồ Kha, thường khấn mỗi lần bói Kiều. Kỳ lạ thay là người bà không biết chữ của Vọng. Chữ nho cũng không mà chữ quốc ngữ càng mù tịt. Vậy mà bà cụ thuộc làu làu cả cuốn Truyện Kiều. Không những đọc xuôi, mà bà cụ còn đọc ngược. Nói đến đoạn nào là cụ lại đọc vanh vách đoạn ấy. Độc đáo nhất là cụ Đồ Kha có tài bói Kiều. Bất cứ nhà có việc gì, lành dữ, con cháu có điều gì uẩn khúc, mắc mớ, bà cụ lại mang Truyện Kiều ra bói. Vọng nhớ như in từng cử chỉ, và nét mặt đầy thành kính, trang nghiêm của bà. Rồi bà giở một trang bất kỳ, mở cuốn sách trước mặt, bảo Vọng đọc cho bà nghe.
"Trai tay trái, gái tay phải. Tuỳ người muốn bói là nam hay nữ mà đọc trang lẻ hay trang chẵn con à".
Sau khi khấn vái xong, Vọng mở trang Kiều, nhìn vào trang bên trái:
"Tông đường chút chưa cam lòng
Cắn răng bẻ một chữ đồng làm đôi?
Không tin ở mắt mình, Vọng chớp chớp mắt, rồi đọc lại. Đúng là câu Kiều thứ 1954: "Cắn răng bé một chữ đồng làm đôi". Chẳng lẽ lời cụ Nhiêu Biểu nói với ông Lý Phúc hồi Tết vừa rồi lại linh nghiệm chăng? Vọng nhớ lại buổi nói chuyện giữa ông cụ Nhiêu Biểu với thầy:
- Văn chương cụ Nguyễn Tiên điền tài tình lắm ông ạ. Còn tôi còn ông, rồi xem. Đây này, câu thơ "Cắn răng bẻ một chữ đồng làm đôi", đúng vào câu thứ 1954. Thế là nhà ông có chuyện. Mà có khi cả nước nhà cũng có chuyện. Năm nay là năm Giáp Ngọ, theo công lịch là năm thứ 1954, năm chia lìa, ly tán. Nhất định rồi ông ạ. Cuộc tao loạn này nhất định rồi phải kết thúc. Nhưng không phải là sự đại đoàn viên. Tôi bấm quẻ, xem âm dương, ngắm sao trên trời đều thấy triệu chứng chia đôi, phân ly ông ạ.
Phân ly. Đến bao giờ? Loáng thoáng có người nói với Vọng: Pháp đồng ý với Việt Minh sẽ hiệp thương trong hai năm. Hai năm nữa, chính phủ liên hiệp thống nhất sẽ được thành lập. Thời gian ấy đủ cho Vọng học xong Tú tài phần hai, với nhiều cơ hội thi vào đại học. Vọng sẽ đi du học nước ngoài hoặc trở về Hà Nội học tiếp. Vọng Bẽ lại gặp thầy u, anh em, bạn bè.
Một tháng sau ngày hiệp định Giơnevơ được ký kết, giữa trưa ngày hạ tuần tháng 8 năm 1954, chiếc máy bay Dakota chở Nguyễn Kỳ Vọng cùng Tạ Đôn, Tạ Thu Uyên và bốn mươi hai đồng bào Công giáo từ phi trường Gia Lâm đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.
Sài Gòn mùa hè ấy nắng chói chang. Ánh nắng phương Nam mang sắc vàng của vùng đất mới và vị mặn của biển. Hàng trăm lều vải dựng tạm, những chiếc dù màu cứt ngựa, san sát xung quanh nhà ga chính. Sân bay như một chảo lửa.
Vừa từ máy bay bước xuống, Vọng đã bị vây bủa bời hàng nghìn đồng bào di cư từ các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình… Đây là đợt di cư bằng đường hàng không dành cho những người có tiêu chuẩn đặc biệt, gia đình con em những công chức… Tiếng loa chói tai, như đẩy cái nóng hầm hập ong ong vào màng nhĩ: "Đây là phi trường Tân Sơn Nhất. Nhiệt liệt chào đón đồng bào miền Bắc vừa thoát khỏi chính quyền cộng sản trở về với nước Chúa, với cộng đồng dân tộc". Xin đồng bào lưu ý: Theo sự chỉ dẫn của nhân viên, quí vị sẽ đến nơi đón tiếp đồng bào di cư để làm thủ tục. Không nên chen lấn, xô đẩy. Hãy phát huy tinh thần tương thân tương ái, người khoẻ giúp đỡ người yếu, người già, con trẻ… "
Một chiếc ô tô nhà binh từ ngoài cổng bỗng lao đến đám đông. Một tấm bảng hiệu trên ghi một dòng chữ bằng mực tân, được một người mặc bộ đồ trắng ngồi trên ghế lái giơ lên: "Gia đình ông Tạ Đáo".
Ông Tạ Đáo, bố Tạ Đôn, có người em ruột là chủ đồn điền Hố Nai. Đợt di cư này Vọng được đi phi cơ là nhờ Tạ Đôn. Do cước phí vận chuyển quá đắt, chủ yếu đồng bào di cư sẽ được đi tàu thuỷ từ cảng Hải Phòng. Chỉ những người có tiêu chuẩn đặc biệt mới được đi theo đường hàng không từ phi trường Gia Lâm. Cha mẹ Tạ Đôn và em gái cùng chạy xô về nơi chiếc xe.
Tạ Đôn tần ngần đứng lại, cầm tay Vọng.
- Mình nói với cậu mợ để vọng về cùng chỗ ở. Nhưng cậu tớ bảo ốc đang không mang nổi mình ốc. Ý muốn nói cậu mợ mình cũng đang phải nhờ vả người ta… Thôi, Vọng về Bệnh viện Bình dân nhé. Hẹn gặp nhau sau nhé.
Tạ Đôn dúi vào tay Vọng mấy đồng bạc Đông Dương, gạt nước mắt, rồi cùng chạy lại chỗ chiếc xe. Tạ Thu Uyên đang đi vội quay lại:
- Kìa, anh Vọng cũng cùng đi với nhà mình chứ?
Tạ Đôn ngăn em lại.
- Không. Cậu ấy đi theo đoàn. Anh em mình sẽ gặp Vọng sau.
Uyên nhìn Vọng thẫn thờ. Đôi mắt đen nhoà ướt. Đôi chân tưởng chừng không cất nổi.
Chưa bao giờ Nguyễn Kỳ Vọng cảm thấy bơ vơ và cô đơn như bây giờ. Chiếc ba lô để bộ quần áo và mấy thứ đồ dùng sinh hoạt như kéo lệch một bên vai. Đôi mắt Vọng nhoè mờ. Nước mắt giàn giụa hai khoé từ lúc nào. Qua làn nước mắt, trước mặt Vọng như những cảnh phim loang loáng qua.
Nhốn nháo, nhếch nhác. Lếch thếch, xộc xệch. Hàng vạn đồng bào di cư miền Bắc tha thếch kéo về những chiếc lều vải như một đội quân bại trận, vật vờ, dẻo dặt, như những con chiên bị Chúa bỏ rơi, không biết phương hướng.
Mình đã giã từ cha mẹ, giã từ miền Bắc thật rồi sao? Chao ôi mới mấy tiếng đồng hồ trước đây, khi máy bay bay qua bầu trời Hà Nội, nhìn xuống sông Hồng, hồ Gươm, Vọng thầm hẹn một ngày trở lại. Nhưng bây giờ, khi một mình đứng trơ trọi giữa phi trường nóng lửa này, Vọng lại nghĩ rằng, thế là hết.
Vĩnh viễn. Sẽ không có ngày trở lại với thầy u, với làng Động thân thương, với các anh em ruột thịt. Vọng đã trở thành một kẻ lưu vong, một kẻ phát vãng. Vọng đang là kẻ vong bản, mất quê hương.
Chương 6
Năm cửa ô đón chào
Mùa thu ấy Hà Nội sống trong ngây ngất và chờ đợi. Ngây ngất như trong cuộc đại tiệc chếnh choáng, thăng hoa, như trong cuộc tình sét đánh, choáng ngợp, đắm đuối, như trong cuộc hồi sinh bàng hoàng, thảng thốt. Chờ đợi vì chưa hết hoang mang, mơ thực, vì đang kỳ vọng và viễn tưởng, đang toan tính và dự liệu…
Lúc không giờ ngày 10 tháng 10 năm 1954, Hà Nội chứng kiến giờ giao ban của trời đất với những bước đi đầu tiên của đoàn quân thiên thần từ thủ đô kháng chiến Việt Bắc, từ lòng chảo Điện Biên ngập đầy thuốc súng, xác thù và máu, từ khắp năm cửa ô, tiến vào Hà Nội.
Năm cửa ô đón chào
Đoàn quân tiến về.
Như đài hoa đón mừng
Nở năm cánh đào
Cháy dòng sương sớm long lanh…
Bài hát "Tiến về Hà Nội" của Văn Cao hoà với gió, với sóng sông Hồng tràn vào từng cửa ô, góc phố, phần phật reo trên ngàn vạn lá cờ đỏ sao vàng, rập rờn trên những vòm đại thu quanh Hồ Gươm cổ kính. Sóng nhạc của Văn Cao như ngân reo trong tóc, trong mắt, trên môi từng người Hà Nội.
Trong đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô ngày ấy, làng Động có hai người con của ông bà Lý Phúc. Chiến Thắng Lợi đi theo phiên chế của phái đoàn Chính phủ trong một đội hình đặc biệt có ô tô đặc chủng và đội vệ binh hộ tống. Nhà thơ trẻ Nguyễn Kỳ Vỹ đi trong đội hình chính thức của năm đại đoàn chủ lực và các binh chủng hợp thành tiến vào trung tâm Hà Nội theo hướng từ phía đê Yên Phụ, dọc đường Cổ Ngư, diễu binh qua Quảng trường Ba Đình rồi tiến vào ba mươi sáu phố phường để đến tập kết tại quảng trường Nhà Hát Lớn.
Để chuẩn bị cho đoàn quân chiến thắng tiến vào tiếp quản Thủ đô ngay từ ba tháng trước, trong toàn quân đã có sự bình chọn, sàng lọc kỹ lưỡng. Từng tiểu đội, trung đội, đại đội bình bầu; chọn những chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, trẻ về tuổi đời, đẹp về ngoại hình, lý lịch trong sạch. Những người được chọn lựa, qua hai tháng an dưỡng, luyện tập rèn luyện về quân kỷ, tác phong, quan điểm lập trường chính trị, lại được sàng lọc một lần nữa để chính thức đưa vào đội hình hành tiến. Được chọn vào đoàn quân danh. dự tiếp quản Hà Nội quả là niềm vinh hạnh lớn lao, có một không hai của đời chiến sĩ. Nguyễn Kỳ Vỹ, nhà thơ trẻ gần ba tuổi quân, người nổi tiếng như cồn với tập thơ "Thời của Thánh Thần" được phiên chế trong hàng quân đi đầu, những chàng Vệ quốc hào hoa và đặc biệt xuất sắc. Họ là những nhân vật trung tâm, là dàn diễn viên chính để các máy quay phim chụp ảnh ghi hình. Cao một mét bẩy mươi, gương mặt thư sinh thanh tú, đôi mắt to ẩn dưới hàng mi rợp, lông mày lưỡi mác, Nguyễn Kỳ Vỹ như sinh ra để diện bộ quân phục màu cỏ úa, áo trấn thủ, mũ vải lưới nguỵ trang xanh. Oai nhất là Vỹ được đeo khẩu Ru lô chiến lợi phẩm do đồng chí Chính uỷ Đại đoàn 312 đơn vị chủ công đánh đồi Him Lam, người đặc biệt mến mộ tác giả "Thời của Thánh Thần" trao tặng. Nghe nói khẩu Ru lô này chính là báu vật bất ly thân của quan ba Lan de Courcy, viên sĩ quan Pháp dòng họ quí tộc cháu nội của tướng Roussel de Courcy, người từng làm Thống tướng của Chính phủ Pháp tại An Nam sau cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ 2 (1881-1885). Khẩu Ru lô sáng xanh ánh thép đựng trong túi da đeo lệch bên sườn, kéo chiếc thắt lưng kiểu Mỹ to bản với rất nhiều hàng đanh, khiến Vỹ càng thêm nổi bật trong hàng quân.
Ước mơ đặt chân đến Hà Nội bao nhiêu năm của Vỹ, bây giờ mới thành hiện thực. Tiếng là con ông Cử, cháu cụ Đồ, dòng tộc danh giá giàu có nhất làng Động, vậy mà ngay cả khi lên học đến Thành chung, Vỹ vẫn chỉ mới mon men được đến đất phố huyện, thị xã. Làng Động chỉ cách Hà Nội dăm chục cây số đường chim bay, hằng đêm đứng ở gốc đa đầu làng nhìn về phương bắc, Vỹ và bọn trẻ trong làng đều nhận ra Hà Nội trong quầng sáng mờ huyền ảo hắt lên từ chân trời. Vầng sáng ấy bao năm vẫy gọi, thôi thúc, để rồi Vỹ phải làm một cuộc hành trình dài hàng ngàn cây số vòng qua Kim Bôi, Hoà Bình, vượt qua sông Đà, sông Thao, qua Phú Thọ, Tuyên Quang, vòng qua Pha Đin, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ… và hôm nay hùng dũng hiên ngang trở về Hà Nội.
Trùng trùng quân đi như sóng.
Lớp lớp đoàn quân tiến về
Lời thơ và âm nhạc của Văn Cao đã nói hộ Vỹ tất cả. Mắt Vỹ bao lần mờ đi, nhoà đi. Những phố phường đất kinh kỳ Thăng Long với mái ngói thâm nâu, tường vôi loang lổ, những vòm cây thấp thoáng, giờ được choàng lên sắc cờ đỏ thắm, và hàng ngàn hàng vạn gương mặt trẻ già, hàng rừng tay cầm cờ hoa reo vẫy. Và kìa. Liệu tài Vỹ có nghe nhầm không? Đúng là bài trường ca "Sao ơi" của nhạc sĩ Đường Thanh phổ nhạc bài thơ của Vỹ. "Máu tuôn trào đỏ ngợp trời như sóng/ Búa liềm ơi, vàng rực, sao sao oi!" Trời ơi! Thơ của Nguyễn Kỳ Vỹ đang ngân reo giữa lòng Hà Nội. Một tốp các nghệ sĩ vừa nam vừa nữ, complê, áo dài đủ mầu, đàn ắccoócđêông, đàn ghita, đàn măngđôlin… đang hát vang trường ca "Sao ơi" Bài hát đang đến đoạn cao trào, bỗng vang lên những loạt súng từ trên tầng thượng một ngôi nhà. Vỹ ngước nhìn lên.
Anh chợt nhận ra một cậu bé tóc rối bù, cao gầy và đen trũi đang vừa chĩa khẩu súng ngắn lên trời xiết cò, vừa vẫy vẫy tay như cười riêng với Vỹ. Cậu bé ấy chinh là Lê Đoàn, bạn của Nguyễn Kỳ Vọng.
Khi đoàn quân hành tiến vào khu phố cổ Hàng Bông, Hàng Gai thì Vỹ bỗng gặp sự cố. Mấy trăm ngày đêm quen đi dép cao su quai hậu, giờ được xỏ chân vào đôi giày xăng đá chiến lợi phẩm, cổ chân phải của anh bị giày xiết vào đau rát.
Rồi, như trớ trêu, một viên sỏi từ đâu lọt vào đế giày chân trái, khiến mỗi bước đi viên sỏi lại xiết vào gan bàn chân buốt nhói. Không thể dừng lại buộc lại giày, vứt hòn sỏi, đành cố nhịn đau bước hùng dũng trong hàng. Gồng người chịu đau để không ai biết. Gần đến Hồ Gươm phố phường càng như tắc nghẽn lại. Đồng bào từ hai bên hè ùa tràn cả xuống phố. Hàng trăm máy ảnh, máy quay phim xông ra đón đầu. Hoa từ trên gác hai, gác ba, từ tầng thượng các mái nhà rắc xuống. Hoa từ tay các em bé, các thiếu nữ ùa ra trao vào tay các chiến sĩ.
Trong hàng người ken đặc, Vỹ bỗng chú ý đến một thiếu nữ. Nàng dịu dàng trong bộ áo dài màu trắng tinh khôi, tóc thề xoã vai. Lạ kỳ thay, Vỹ bỗng quên cả đôi chân đau. Anh nhìn người thiếu nữ không chớp mắt. Có ai đó khẽ đầy sau lưng nàng, hay một động lực nào thôi thúc, nàng bỗng băng từ bên hè đường đến trước Vỹ, trao cho anh bó hoa lay on trắng muốt.
Như bị thôi miên, Vy đứng sưng lại. Anh chỉ kịp đưa tay đón lấy bó hoa và nhận ra một gương mặt kiều diễm với đôi mắt to đen choáng ngợp. Hình như trong giây phút, những ngón tay anh như chạm vào tay nàng. Một luồng điện bỗng truyền thẳng vào tim, làm trống ngực Vỹ đập loạn xạ. "Ôm hôn đi!" có tiếng một cậu lính trẻ nào đó từ phía sau. Rồi những tiếng lao xao: "Đẹp quá! Thiếu nữ Hà Nội!"… Vỹ chớp mắt như trong chiêm bao. Thoắt cái, nàng đã quay đi, cắm đầu chạy.
- Em tên gì?
Vỹ bỗng thốt lên, những âm thanh như bật ra từ vô thức. Chính anh cũng không biết mình gọi nàng hay trái tim anh bật gọi.
Nàng vụt quay lại, trước khi hoà vào đám đông, bàn tay thon mềm như búp hoa che ngang miệng:
- Em là… Đào… Trinh… Khiêm…
Nàng mất hút trong đám đông, nhưng cái tên nàng thì thánh thót ngân vang trong hồn Vỹ tựa hồ như có một tiếng chuông nào thả từ trời cao, từ gió thu, nắng thu lấp lánh sặc mau. Đào Trinh Khiêm. Lần đầu trong đời, Vỹ nghe thấy một cái tên thiếu nữ đẹp và kỳ diệu đến thế.
Ngay đêm đó bài thơ Vỹ viết tặng riêng Khiêm, đã được hoàn thành. Vỹ viết trong một cảm xúc tuôn trào, ào ạt. Cả một ngày đầy ắp không khí phố phường với đoàn quân chiến thắng hùng dũng đi giữa rừng cờ hoa, rừng người, với ào ạt gió thu, nắng thu, cứ tràn về, ùa về réo gọi từng con chữ. Tất cả khung cảnh phố phường, con người, trời đất ấy đã tạo nền cho bức tranh sơn dầu hoành tráng đầy sắc màu ấn tượng. Và điểm nhấn duy nhất, nhãn lực của bức tranh ấy là gương mặt thánh thiện, kiều diễm của Đào Trinh Khiêm. Lần đầu tiên trong đời, Vỹ gặp một người con gái như Khiêm. Suốt những năm đi học trường huyện, và ba năm đi kháng chiến nhưng chưa bao giờ Vỹ có cảm giác yêu. Hồi viết bài thơ "Sống" có một cô Mai cùng làng cũng làm Vỹ bâng khuâng, và anh có nghĩ tới nàng; nhưng đó chỉ là một cái cớ để anh làm thơ. Rồi ngày ở Sơn Dương làm báo Vệ quốc, cô gái Tày, Nông Thị Ngần, có đôi mắt đen láy và lúm đồng tiền trên hai má bánh đúc trắng hồng cũng làm Vỹ xốn xang mấy tuần. Nhưng rồi, sau lần đơn vị chuyển địa điểm, hình ảnh Ngần cũng phải nhạt dần. Lần này với Khiêm thì khác hẳn. Dường như đã có sự sắp đặt của tạo hoá. Vỹ lên Việt Bắc, Vỹ ngủ hầm vượt suối trèo non, cùng các chiến sĩ trải qua 56 ngày đêm chiến dịch điện Biên Phủ, là để dẫn đến cuộc kỳ ngộ giữa Hà Nội hôm nay. Vườn Thuý là nơi gặp gỡ trao duyên giữa chàng Kim và nàng Kiều. Còn Hà Nội ngày chiến thắng là nơi gặp gỡ giữa Nguyễn Kỳ Vỹ và Đào Trinh Khiêm. Cứ liên tưởng như thế là Vỹ đã thấy xốn xang, đã muốn thêu dệt ra một cuộc tình lãng mạn mà tâm hồn thi sĩ và óc tưởng tượng của anh không bao giờ có điểm dừng. Vỹ chép nắn nót bài thơ vào tờ giấy pơluya mỏng tang, ướp nước hoa thơm phức, gấp trong phong bì, đặt trong túi áo quân phục, đi tìm nàng.
Đơn vị Vỹ đóng trong khu nhà thương Đồn Thuỷ. Đây vốn là khu nhượng địa của Pháp từ cuộc khai phá thuộc địa lần thứ hai, sau trở thành khu Đồn Thuỷ, rồi trở thành nhà thương chữa trị cho quân Pháp trong cuộc chiến ở Đông Dương. Không có xe đạp, tranh thủ ngày nghỉ, Vỹ cuốc bộ ra phố Huế, đón tàu điện lên Bờ Hồ, rồi đi bộ lên Hàng Gai. Bắt đầu từ dốc Hàng Gai, tim Vỹ bỗng đập liên hồi. Vết sẹo ở cổ chân phải tái đau, làm anh nhớ lại quang cảnh lúc gặp nàng. Anh như người đang làm một công việc vụng trộm, chỉ sợ người khác bắt gặp. Hết nhìn qua phải, rồi lại nhìn sang trái, nhìn trước rồi lại nhìn sau. Không một thiếu nữ nào qua đường mà anh không dò tìm. Anh nhìn lên các ban công, các cửa sổ tầng hai, tầng ba. Hôm ấy nàng rẽ đám đông từ bên hè phố kia, chỗ đối diện với cây đa cổ thụ có những chùm rễ gân guốc áp sát vào bên cửa ngách ngôi chùa cổ. Nàng cầm bó hoa lay ơn ào ra đường tới trước mặt Vỹ. Rồi nàng lại trở về chỗ cột điện kia. Tiếng "Em là Đào Trinh Khiêm" nàng thốt lên từ cột điện ấy.
Chị bán hàng tạp hoá bên hè đường với chiếc tủ kính ba ngăn có bốn bánh xe ở chân đã chú ý tới Vỹ từ mấy buổi nay, giờ thấy Vỹ đi lại quãng phố tới lần thứ ba, liền đánh tiếng hỏi:
- Anh bộ đội tìm ai?
- Dạ không - Vỹ giật thót người, định tháo từ, nhưng rồi nhận ra gương mặt phúc hậu của người đàn bà bốn mươi tuổi, anh liền đánh bạo - Chị ơi, em là bộ đội…
- Tôi biết rồi. Tôi còn nhớ là đã gặp chú hôm đi diễu binh…
- Dạ vâng. Chị có thể giúp em…
- Chú cứ nói. Được giúp bộ đội Cụ Hồ như các chú, việc khó đến mấy tôi cũng làm…
- Em đang đi tìm một người họ hàng chị ạ - Vỹ nhanh ý bịa ra một cái cớ để khỏi ngượng.
- Ai? Ở phố nào, nhà số mấy?
- Em không biết số nhà. Chỉ biết ở quãng phố này.
- Cả khu phố này, nhà ai tôi cũng biết. Chú tin tôi đi. Tôi là Mỹ, bán hàng xén ở đây gần hai chục năm rồi.
- Thế chị có biết cô gái nào tên là Đào Trinh Khiêm không? Một cô gái chừng mười bẩy tuổi…
- Thế mà cứ vòng vo mãi - Người đàn bà lườm Vỹ một cái rõ dài - Xinh nhất khu phố này đấy. Cô Khiêm con ông Ký Lạng, người giàu nhất nhì Hà nội ai mà chả biết. Nghe nói sắp lấy chồng rồi. Con trai ông Đốc tờ Huyên ở Hàng Bè đang muốn xin cưới rồi dinh tê vào Sài gòn.
Mặt Vỹ bỗng biến sắc. Mấy hôm nay cả đơn vị đang được phổ biến về chủ trương cải cách nhộng đất, cải tạo tư sản, về âm mưu của Mỹ và tay sai đang kêu gọi đồng bào giáo dân, các nhà tư sản và công chức xuống khu ba trăm ngày ở Hải Phòng để di cư vào Nam. Những thiếu nữ như Khiêm rất có thể sẽ biến khỏi Hà Nội. Sẽ chỉ còn lại công nông binh. Cả Hà Thành sẽ tràn ngập màu áo nâu thôn dã và màu xanh áo thợ…
- Cám ơn chị… em xin lỗi - Vỹ lắp bắp và toan bước đi.
- Không tìm cô Khiêm nữa à? - Đôi mắt người đàn bà vẫn như không muốn buông tha chàng bộ đội đẹp trai. - Cô Khiêm không ở phố này. Chú rẽ vào phố Lương Văn Can, tìm hiệu may Phúc Hoà.
Biết mình đang tìm bóng chim tăm cá, nhưng Vỹ vẫn không thể điều khiển được bước chân mình. Theo lời chị bán hàng tạp hoá mách bảo, mấy hôm sau Vỹ tìm đến phố Lương Văn Can. Kia rồi, Hiệu may Phúc Hoà, chuyên comple áo dài, ở gần giữa phố. Đó là một ngôi nhà ba tầng mái ngói, sâu hun hút, có ban công chìa ra mặt phố. Sừng sững hai dãy tủ kính hai bên là những manơcanh, với đủ loại nam và nữ, trắng và đen. Manơcanh nam với những bộ veston đủ loại, mang đậm phong cách Paris. Manơcanh nữ trong những bộ áo dài màu trắng, màu thanh thiên, màu hồng và hoàng yến khiến mỗi manơcanh là một cô dâu, một hoa hậu lộng lẫy nhưng lại đậm nét truyền thống Việt.
Những cư dân ở khu phố cổ Hồ Gươm đều biết rất rõ những hiệu may áo dài nổi tiếng dọc phố Lương Văn Can, đều có chung một cái tên Hoà phía sau: Phúc Hoà, Ứng Hoà, Phương Hoà, Hải Hoà, Ngọc Hoà, Thanh Hoà… Hỏi ra mới biết tất cả những hiệu áo dài này đều là anh em họ hàng do người làng Trạch Xá, Hoà Lâm, một làng vùng đồng chiêm Ứng Hoà thuộc tỉnh Hà Đông lập ra. Người mở tiệm comple áo dài đầu tiên ở phố Lương Văn Can là cụ Quản Tập. Cụ có ông nội làm quan nội y thời vua Tự Đức nên đã nối nghề gia truyền của cha ông để lại. Đến đời con cụ Quán Tập là ông Ký Trùng thì nghề may cực kỳ phát đạt. Ông Ký Lạng mở rộng ngành nghề, đưa anh em còn cháu từ Hoà Lâm ra, mua một xưởng dệt kim của Cự Doanh ở ngõ Cự Lộc và mua nhà mở thêm cơ sở kinh doanh may mặc ở các phố Lê Văn Hưu, Thi Sách, Hàng Ngang, Hàng Đường cho các con. Con trai cả Ký Lạng là Đốc Khẩn lại mở tiếp tổng đại lý vải ở phố Huế và xây một Hotel bốn tầng ở gần ga Hàng Cỏ, tậu một đội xe khách chạy tuyến Hà Đông - Phương Đình. Riêng hiệu may Phúc Hoà, thương hiệu lâu năm và uy tín nhất, ông Ký Lạng để cho bà Ba Yên với hai người con là cô tám Đào Trinh Khiêm và cậu út Đào Phan Khánh kinh doanh.
Bà Ba Yên, vợ ba ông Ký Lạng tên đầy đủ là là Phan Thị Hà Yên, con gái yêu cụ Đốc Phan Quảng, từng giữ chức Bố chánh tỉnh Bắc Giang. Do dính líu đến cuộc khởi nghĩa Đề Thám, chính quyền bảo hộ buộc chính phủ Nam Triều bãi chức Phan Quảng. Ông về Hà Nội mở trường dạy học và tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, cùng cụ cử Lương Văn Can ngầm tuyển chọn các thanh niên ưu tú đưa đi du học tại Nhật Bản và trung Quốc. Con trai cụ Đốc, ông Phan Quyến tốt nghiệp trường sư phạm Đông Dương, vốn ghét Pháp và yêu thích nghề dạy học, ông vận động em rể và em gái bỏ vốn lập trường tư thục ở gần hồ Thiền Quang đế dạy trẻ. Ông Ký Lạng, vốn rất yêu bà Ba Yên, nhưng vẫn sợ bà cả, bà hai và các con ghen tỵ, nhân dịp này bí mật rút một phần vốn ở xưởng dệt kim Cự Lộc, đầu tư cho bà Ba Yên xây trường. Trường tư thục có tên Đất Việt, gồm 2 tầng 12 phòng dạy hai ca sáng chiều, do bà Phan Thị Hà Yên làm chủ nhiệm, ông Phan Quyến làm hiệu trưởng.
Trường tư thục Đất Việt ngay từ khi thành lập đã gắn bó thân thiết với hai chị em Đào Trinh Khiêm. Chính ở ngôi trường của gia đình, với những thầy cô giáo vốn rất thân thiết với mẹ và bác Phan Quyến, Khiêm cùng cậu em trai Đào Phan Khánh đã học qua bậc tiểu học. Đến năm lên học trung học, Khiêm chuyển sang trường nữ sinh Đồng Khánh. Ước mơ lớn nhất của Khiêm là học xong tú tài, sẽ vào trường sư phạm, để rồi lại theo nghiệp của mẹ và bác Phan Quyến… Với ý thức như thế, ngày nào sau giờ học ở trường Đồng Khánh hoặc trong những ngày chủ nhật, Khiêm cũng đến trường tư thục Đất Việt, khi thì giúp mẹ hoàn thiện sổ sách, học bạ cho học trò, khi thì lên lớp phụ đạo cho các em, hoặc dạy thay giờ các thầy cô vắng lớp. Khiêm thích đến trường hơn là về hiệu may Phúc Hoà ở phố Lương Văn Can.
Chiều nay, khi những cơn gió bấc đầu mùa xao xác trên những hàng cây quanh hồ Thiền Quang, Khiêm bỗng thấy se lạnh. Có thể đó là cái lạnh tâm lý từ mấy hôm nay, khi ông Ký Lạng cùng bà cả và vợ chồng anh Phán Lục, anh Tư Khoa cùng con cháu một đoàn hơn hai chục người kéo nhau xuống Hải Phòng đợi chuyến tàu di cư vào Nam? Chẳng ai dính dáng gì đến nhà thờ Công giáo, ngoài vợ anh Phán Lục, con dâu thứ hai ông Ký Lạng. Nhưng Phán Lục trước sau rất kiên quyết.
- Không thể để cả nhà mình chơi canh bạc này với Việt Minh được. Nhất định rồi sẽ dẫn tới cảnh cộng chồng, cộng vợ, cộng tất cả tài sản thành của chung. Tin họ rồi có ngày treo niêu cả nút. Ai không muốn đi thì cứ ở lại Hà Nội. Hai năm sau hiệp thương lại đoàn tụ với nhau thì nhà mình còn đại phúc.
Khiêm và Khánh kiên quyết thuyết phục mẹ ở lại. Bà Ba Yên gạt nước mắt tiễn ông Ký Lạng cùng các con bà cả, bà hai. Khiêm và Khánh là những người lạc quan nhất. Thậm chí họ còn chế giễu bố và các anh là những kẻ vong bản tình nguyện làm tay sai cho Pháp, Mỹ, những kẻ bi quan chủ nghĩa.
Khiêm đạp xe từ trường tư thục Đất Việt về phố Lương Văn Can. Vừa dừng xe bên hè, bỗng sững người khi nhìn thấy anh bộ đội mặc áo trấn thủ đang đứng tần ngần bên tủ kính.
Những anh bộ đội, thậm chí từng tốp từng đoàn bộ đội, áo trấn thủ, mũ nan tre nguỵ trang, trông anh nào cũng hao hao giống nhau với vẻ mặt chất phác, hơi ngô ngố kiểu thôn quê, thậm chí nhiều khi ngơ ngác như người đồng rừng, lâu nay với Khiêm quen quá đi rồi. Nhưng anh bộ đội kia có nét gì đó khác hẳn, làm Khiêm phải chú ý. Trông quen quá. Hình như Khiêm đã gặp anh ở đâu rồi.
Như có luồng điện sau gáy, Vỹ quay lại. Anh muốn kêu lên: "Đào Trinh Khiêm. Em không nhận ra tôi ư?" Nhưng không hiểu sao, Vỹ cứ đứng sưng như trời trồng.
Khiêm bỗng bật cười. Nàng vừa đưa tay che miệng vừa chạy vào chỗ gian bán hàng của người giúp việc.
- Ôi em buồn cười quá. Chị hỏi anh bộ đội kia xem anh ấy đinh mua gì?
Mặt Vỹ đỏ bừng, rồi khắp người anh bỗng nóng râm ran. Anh không nghĩ mình lại trở thành lố bịch trước mặt nàng. Vỹ đưa tay lên má, tựa hồ như anh vừa có một vết nhọ.
Thoắt cái, Khiêm đã lên trên gác rồi nàng xuống cầu thang với chiếc áo len màu hoàng yến và tấm khăn van trắng muốt. Biết mình vừa đùa anh chàng bộ đội kia một cách quái ác nàng cố làm ra vẻ nghiêm trang.
- Dạ, anh cần may comple hay muốn gặp ai ạ?
- Cô là… Đào Trinh Khiêm… - Vỹ bấm thật đau vào tay mình, giọng nghiêm trang.
- Dạ. Sao anh biết tên em?
- Có người tìm cô Khiêm suốt hai tuần nay.
- Vì việc gì thế anh?
- Để nhờ tôi gửi một lá thư - Vỹ lấy từ trong áo trấn thủ bì thư anh đã dán cẩn thận - Người ấy nói sẽ rất sung sướng nếu cô vui lòng… và mong nhận được hồi âm sớm.
Tay Khiêm bỗng run bắn khi nàng chạm vào lá thư. Nàng có cảm giác như đó là một trái bom hẹn giờ. Nó sẽ nổ bất cứ lúc nào. Nó có thể làm cho trái tim nàng ngừng đập hoặc nổ tung xác pháo.
MÙA THU HÀ NỘI
Tặng Đ.T.K
Em choàng lên vai Mùa Thu Hà Nội
Cả kinh thành lộng lẫy sắc cờ hoa
Tên em ngân giữa trời cao xanh thẳm
Gieo vào hồn anh khúc tình ca.
Anh mang Việt Bắc về đây, ơi Hà Nội
Ròng rã chín năm gối súng ngủ hầm
Rượu Hồ Gươm chỉ soi mà không uống
Đủ làm say nghiêng ngả trăm năm.
Anh muốn ôm cá phố phường Hà Nội
Những Đồng Xuân, Cầu Gỗ, Hàng Đào
Ao dài ơi, cứ thướt tha như nắng
Đừng để anh lẫn thực với chiêm bao…
Khiêm ấp bài thơ trong lần áo ngực, bên trái tim mình. Rồi nàng ép vào giữa cuốn sổ nhật ký, chốc chốc lại mở ra, mắt mở to nhìn vào giữa những dòng chữ, như đọc được điều gì ở đó Nàng không thể tưởng tượng rằng tác giả của bài thơ viết tặng nàng lại chính là người nổi tiếng như cồn với bài thơ"sống và tập thơ "Thời của Thánh Thần" mà suốt cả năm học qua, bọn nữ sinh trường Đồng Khánh của nàng đã chuyền cho nhau đọc và chép tập thơ đến nhàu nát. Nàng là gì mà con người nổi tiếng và khá bảnh trai ấy lại tự mình viết hẳn một bài thơ rồi cất công tìm đến tận nơi để tang - Khiêm ghi vào nhật ký:
Ngày 24 tháng 10
Mình đến chết mất vì quá sung sướng, hạnh phúc. Anh như tia chớp vụt loé trong cuộc đời mình. Bài "Mùa Thu Hà Nội" như một trái bom làm nổ tung mọi dự định, toan tính.
Quả nhiên, mình quyết định cùng mợ và em Khánh ở lại Hà Nội là sáng suốt. Hôm qua cậu nhắn tin lên là tàu đã rời Hải Phòng. Bao giờ thì vào đến Sài Gòn Cuộc chia ly này dài hai năm hay bao nhiêu năm. Mình ở lại Hà Nội chính là để có cuộc kỳ ngộ này chăng? Kỳ lạ thật. Mình như đoán biết trước có người đang đón đợi. Chính là anh đấy. Anh thực sự là một hiệp sỹ hào hoa. Khối đứa phát ghen với mình mất. Tuấn còi mà đứng cạnh anh thì có khác gì gã hầu phòng bên chàng Nam tước. Mợ ơi, đừng bắt con phải gắn bó cuộc đời với gã ký còm bần tiện ấy. Giàu có mà tâm hồn trống rỗng thì thật thảm hại. Bây giờ đã khác rồi. Không còn là thời của kẻ giàu. Đây là thòi của lý tưởng. Cả trường lúc nào cũng ngâm thơ Tố Hữu: "Ơi anh vệ quốc quân. Sao mà yêu anh thế". Cả trường đang dấy lên phong trào yêu và lấy bộ đội. Thương binh cũng lấy. Buồn cười quá. Cái Oanh nó khoe dì nó đang làm mối cho nó một thương binh hỏng mắt. Nó bảo mấy hôm nay nó đang tập dắt người mù qua đường. Trông nó làm điệu bộ dắt anh thương binh, cười đến thắt ruột.
Ngày 29 tháng 10
Anh lại mang đến tập thơ "Thời của Thánh Thần" với lời đề: "Tặng Kh, thời của em". Anh bảo: "Lẽ ra phải tặng Khiêm tập thơ này từ hôm mới gặp. Nhưng không còn sách. Phải đi lùng mua mấy ngày. Mua ở hiệu sách cũ, đừng chê nhé". Tế nhị và hào hoa đến thế là cùng. Mình tiễn anh. Hai đứa đi dọc Bờ Hồ. Có bao nhiêu điều muốn nói mà sao lúc ấy mình ngố và đần đến thé. Anh đọc một câu của Jacques Prévert: Et il est parti / Sous ỉa pluie/ Sans une parole/ Sans me regarder/Et moi j'ai pris/ Ma tête dans ma main/ Et j'ai pleuré(1). Mình tròn mắt kinh ngạc và kính nể. Giọng Paris rất chuẩn. Anh muốn mượn câu thơ ấy để nói hộ lòng mình.
Ngày 17 tháng 11
Gần mười ngày nay không thấy tin tức gì của anh. Muốn phát điên lên. Suốt ngày mong ngóng, đờ đẫn như đứa mất hồn. Mình là con bé đần nhất trên đời. Sao không hỏi địa chỉ của anh. Chỉ sợ người ta bào là cọc đi tìm trâu cơ. Sĩ diên dởm. Bây giờ thì tìm anh ở đâu? Có lúc mình như một con ngố đi tha thẩn trước khu nhà thương Đồn Thuỷ, gặp anh bộ đội nào cũng nhòm như đi bắt kẻ cắp.
Vẫn biệt tăm. Hay anh bị tai nạn Hay cô ả nào đã cuỗm anh đi? Trời ơi, con ngố. Mày yêu mất rồi.
Chú thích:
(1) Rồi người đi/ Dưới trời mưa/ Chẳng có một lời/ Chẳng nhìn tôi/ Còn tôi/ Bưng đầu trong tay/ và bật khóc
Chương 7
Cưới chạy
Phúc cho người từ trong quê ra tìm Vỹ và Chiến Thắng Lợi. Bà Đồ Kha ốm nặng, khó qua khỏi.
Vỹ vừa thu xếp xong đồ đạc quần áo cho vào ba lô thì Chiến Thắng Lợi đi xe commăngca đến. Anh lái xe trẻ măng, có vẻ kiêm cần vụ, vì có súng ngắn đeo bên sườn. Trên xe có cả Là, vợ Lợi, lúc ấy đã có mang đến tháng thứ ba.
Chuyện Chiến Thắng Lợi lấy vợ, mãi sau ngày tiếp quản Thủ đô anh em gặp nhau, Vỹ mới biết. Hoá ra đó cũng là một đám cưới chạy. Trước khi cơ quan Lợi rục rịch chuyển từ Sơn Dương về Hà Nội, anh em phải đứng ra tổ chức cưới gấp.
- Lúc ấy chú còn đang phỏng vấn tù binh ở mãi bên Sơn La. Có báo chú cũng chẳng sang dự được - Lợi nói với Vỹ hôm giới thiệu hai chị em với nhau và cố tình xuê xoa câu chuyện. Đám cưới thời chiến, tổ chức được như thế là tốt lắm rồi. Với lại thầy từng dạy chúng mình: "Thê thiếp như y phục" vợ chỉ là cái áo thay hàng ngày. Sự nghiệp mới là mục đích của đấng nam nhi.
Là không đẹp, nhưng rất đàn bà. Con gái Tày da trắng bóc, mặt tròn, má bánh đúc đỏ hây hây như lúc nào cũng vừa từ bếp lửa ra. Là là con gái út ông Ma Kin Siu, chủ nhà cơ quan Chiến Thắng Lợi đến ở nhờ thời kỳ chuyển từ Đại Từ sang.
Liếc thấy Lợi, Là đã tít mắt. Cũng phải thôi. Đẹp trai, cán bộ triển vọng, lại chưa vợ, Lợi như miếng mỡ ngon luôn treo trước miệng các ả mèo. Khối bà nạ dòng bờm xơm tán tỉnh, nhưng Lợi chẳng dại. Bài học với Cam lúc nào cũng như cành cây cong, khiến con chim Chiến Thắng Lợi luôn cảnh giác. Có chết thì chết ở biển cả chứ đừng có chết ở ngòi khe. Cho nên, mới chuyển đến ở ngày thứ hai, Lợi đã tăm thấy ngay cái vòng mông nở, đôi bắp chân trắng nõn và bộ ngực lúc nào cũng như ấn vào mắt người ta. Tiếp đến mới là đôi mắt. Đôi mắt một mí, dài có đuôi, đa tình một cách lộ liễu không cần giấu giếm. Đôi mắt ấy chết đứ đừ khi gặp mắt Lợi thôi miên.
Kỷ luật trong khu ATK tất nhiên là rất nghiêm ngặt, nhưng dù tai mắt của tổ chức tinh tường đến đâu, cũng không thể kiểm soát được tất cả núi rừng, khe suối, hang động trong vùng. Trai gái đã thích nhau, trời cũng chẳng ngăn được. Lợi ngủ với Là thật dễ dàng. Vừa đụng vào người, Là đã ngã lăn ra thảm lá dày dưới vòm tre trúc dày đặc. Từ đó, tuần nào Lợi cũng hẹn gặp Là một lần. Là ham tới mức nhiều khi bỏ cả việc nhà sang nấu cơm cho bếp cán bộ để đợi Lợi rủ ra rừng. Có lần Lợi đi công tác vắng, Là còn tìm cách đón đường ngay từ lúc Lợi mới về đến con suối đầu bản.
Cho tới khi tin chiến thắng Điện Biên Phủ truyền đi, hiệp định Giơnevơ lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, các cơ quan Chinh phủ chuẩn bị về Thủ đô, thì một hôm ông Ma Kin Siu tìm gặp thủ trưởng cơ quan Lợi, với vẻ mặt đầy nghiêm trọng.
- Hoà bình rồi, các cán bộ về xuôi thì tốt rồi. Nhưng anh Chiến Thắng Lợi thì không về được đâu.
- Vì sao thế bác? - Thủ trưởng của Lợi, đồng chí Lê Công Trạng, một người chín chắn và điềm đạm, ngạc nhiên hỏi.
- Tưởng anh Lợi phải báo cáo với thủ trưởng rồi chứ?
- Chuyện riêng tư của mỗi người, tổ chức chúng tôi luôn tôn trọng - ông Trạng như phần nào đã hiểu ra.
- Không được đâu. Anh Lợi định chạy làng là không tốt đâu! Mấy hôm nay cháu Là nhà tôi khóc sưng cả mắt. Nó lo anh Lợi bỏ về Hà Nội, không ai nuôi con nó.
Ông Trạng hiểu ra sự việc nghiêm trọng.
- Tôi hiểu rồi. Bác bình tĩnh lại đi. Cơ quan chúng tôi sẽ thu xếp việc này.
- Phải giải quyết trước khi các đồng chí về tiếp quản Thủ đô chứ.
- Tất nhiên rồi. Để chúng tôi sẽ bàn với đồng chí Lợi. Đơn vị sẽ thay mặt gia đình đồng chí Lợi có lời với hai bác cùng gia đình và cô Là.
Những nếp nhăn trên gương mặt ông già người Tày giãn hết cả ra.
- Có thế chứ. Phải tổ chức cưới đàng hoàng chứ. Tôi sẽ cho con gái tôi cùng về Hà Nội, báo cáo với đồng bào…
Thấy bố Là sang gặp thủ trưởng cơ quan, Chiến Thắng Lợi đoán ngay được câu chuyện. Không để rơi vào thế bị động, ngay sau khi ông Siu về, Lợi đã mở chiếc hòm bằng gỗ nghiến nặng trịch như két sắt, có bộ ổ khoá bé xíu nhưng rất chắc chắn, moi từ dưới đáy cùng lên chiếc mật gấu khô và hai lạng cao hổ, tần ngần ngắm nghía một lúc, rồi tặc lưỡi, đút túi, đi tìm gặp ông Trạng.
Với vẻ mặt khổ não của một kẻ tội đồ luôn ăn năn, dằn vặt, Lợi đã báo cáo hết với ông Trạng mối quan hệ của anh với Là.
- Báo cáo anh… Thực tình em luôn coi anh như hàng cha chú. Anh dạy bảo mắng chửi em là giúp em nên người. Chuyện của em với Là, cũng là khuyết điểm của tuổi trẻ…
- Ờ cái cậu này, hay nhỉ? Yêu nhau sao lại gọi là khuyết điềm? Trai chưa vợ, gái chưa chồng, yêu nhau ai có quyền cấm nào?
- Dạ, nhưng…
- Nhưng có điều, cô cậu yêu đương quá đà. Có thể xếp vào tội hủ hoá. Cậu lại là người của tổ chức, tức là đã xa rời lập trường quan điểm giai cấp, vi phạm đạo đức cách mạng. Mười điều răn "Đạo đức Cách mệnh" cậu nhớ không?
- Dạ thưa anh, em nhớ. Năm là xa lánh tà dâm…
- Tà dâm chó gì? - ông Trạng bật cười - Cô cậu yêu đương quá đà chứ không phải tà dâm. Lẽ ra phải báo cáo tổ chức. Tức là tớ phải biết trước, chứ không phải đợi đến bây giờ cô Là ễnh bụng ra mới đến báo cáo. Tội của cậu là tội lừa dối tổ chức. Nếu cấp trên biết, nhẹ nhất là khai trừ, ghi lý lịch, đuổi về quê… - ông Lê Công Trạng bắt đầu thấy sốt ruột. Vừa nói, ông vừa nhìn xoáy vào bàn tay Lợi cứ thập thò mãi trong túi áo.
Lợi thấy lạnh toát xương sống. Khép vào tội hủ hoá, lừa dối tổ chức là ăn cứt rồi. Hoặc là anh sẽ bị ghi lý lịch, tống cổ về quê. Hoặc là anh cứ việc cưới vợ, sinh con đẻ cái, rồi anh hãy ở lại đây chờ cho đến khi Kinh già hoá Thổ. Chúng tôi sẽ về Thủ đô, còn anh chị cứ ở lại với núi rừng nhé.
Tự dưng hai hàng nước mắt Lợi rơi lã chã. Lợi đã tiên lượng thấy bao điều khủng khiếp sẽ diễn ra nếu Lợi không nhanh tay tự cứu mình. Không chút chần chừ, anh rút cái mật gấu khô và hai lạng cao hổ cốt, phù phục quỳ xuống, đặt trước mặt ông Trạng.
- Cái gì thế? Cậu đừng làm thế. Đứng dậy đi - ông Trạng đưa hai tay đỡ Lợi dậy, vờ như ngạc nhiên - Đồ sính lễ để tổ chức cưới phải không?
- Dạ không. Em đã chuẩn bị cho lễ cưới rồi, nhưng còn chờ xin ý kiến anh. Đây là chút lễ mọn kính anh. Cao hổ cốt với mật gấu này đều là của thật ở rừng thượng nguồn sông Gâm. Gọi là có chút quà, sắp tới anh đem về quê biếu các cụ…
- Thằng này vẽ chuyện - ông Trạng cười xoà, lấy tay đẩy gói quà - Vấn đề của cậu bây giờ là phải chuộc lỗi với tổ chức, lấy lại lòng tin trong quần chúng nhân dân. Sắp chuyển về tiếp quản Thủ đô rồi, phải giữ hình ảnh người cán bộ kháng chiến sao cho đẹp.
- Dạ thưa, đó cũng là mục đích của em hôm nay. Em đến báo cáo anh, xin anh, xin cơ quan cho chúng em tổ chức cưới.
- Cậu không muốn, chúng mình cũng bắt cậu phải cưới - Vừa nói, ông Trạng vừa thản nhiên cầm gói quà đút vào túi - Không cưới thì dân người ta ỉa vào mặt, mà đơn vị mình cũng mất sạch danh hiệu thi đua. Bản thân tớ có thể cũng bị cảnh cáo khai trừ…
Đám cưới Lợi - Là được tổ chức gấp rút ngay sau đó. Một đám cưới đời sống mới, nhưng cũng phải thịt hai con lợn và mấy chục con gà. Vừa cưới, vừa tổ chức chia tay với đồng bào nơi chiến khu cách mạng.
Là là người đàn bà ruột để ngoài da, phúc hậu và tốt bụng. Chị coi vừa lấy được Lợi vừa được về ở giữa Thủ đô là diễm phúc lớn của đời mình. Chỉ có điều Là hơi buồn và ngượng với Lợi: tưởng có chửa, hoá không phải. Chậm kinh hai tuần, nhưng rồi máu lại ra ồ ồ. Có lẽ do Lợi khoẻ quá, từ hôm báo cáo ông Trạng, công khai với thiên hạ rồi, ngày nào cũng như giã giò thai nào mà trụ được?
Mấy tháng về Hà Nội, phải thay đổi nơi ở vài ba lần, Là vẫn ngoan ngoãn ôm đồ đạc đi theo chồng. Chị chăm sóc, phục vụ Chiến Thắng Lợi như một con sen mẫn cán, chẳng bao giờ kêu ca, phàn nàn. Hơn Vỹ một tuổi, nhưng Là lại luôn xưng em với Vỹ. Vỹ bảo:
- Không được xưng hô như thế. Gia đình mình nề nếp, gia giáo ít tuổi nhưng ở bậc trên vẫn là chị. Chị cứ gọi như thế, về nhà thầy u biết, mắng em đấy.
- Nhưng trông anh Vỹ người lớn lắm, xưng chị ngượng chết - Là sửa mấy gần, nhưng vẫn không quen.
Đã một năm nay sức khoẻ cụ bà Đồ Kha sút hẳn. Cụ phát bệnh từ cái đêm Việt Minh đánh bốt làng Động.
Trước đó năm ngày, do đã được cơ sở ta báo trước, nên ông bà Lý Phúc cùng bé Hậu đã tản cư trước lên nhà ông Chánh tổng Thiện ở làng Nghi Sơn đầu huyện. Thuyết phục mãi, nhưng cụ Đồ Kha nhất định không đi tản cư. Đành phải để Cục ở lại trông bà.
Nửa đêm hôm sau, du kích bao vây đồn. Cuộc chiến kéo đài hơn năm tiếng đông hồ. Đích thân đồn trưởng Trương Phiên chỉ huy một đại đội lính Âu Phi và hai đại đội lính địa phương quân chống trả điên cuồng. Lô cốt xây bằng gạch bị giật đổ, chúng kéo vào trong đình tứ thủ. Ngôi đình trở thành một pháo đài vững chắc. Đã có lúc địch đánh nống ra tận dãy giao thông hào xóm Am, đánh bật Việt Minh ra cuối làng. Nếu quân tiếp viện từ bốt Phủ xuống kịp, có thể tình thế của Việt Minh sẽ bị lật ngược lại. Trận chiến càng về cuối càng quyết hệt. Đã có trận giáp lá cà giữa những người cảm tử với lính Âu Phi. Đạn moocchiê, súng trung liên, lựu pháo… bay chiu chíu qua đầu hai bà cháu. Tiếng loa địch vận, giọng nữ rất trong và vang, đề nghị anh em binh lính đầu hàng đế tránh thương vong, chốc chốc lại lẫn trong tiếng lóng. Rồi có tiếng xe xích sắt, xe cam nhông chạy rầm rập. Không biết quân tiếp viện từ bốt Phủ xuống hay Trương Phiên đang mở đường máu thoát thân.
Đến gần sáng thì quân Pháp chạy thoát khói đình làng Động. Cả làng đang hả hê háo hức ra đình thu chiến lợi phẩm, thì bỗng nghe những tiếng nổ khủng khiếp. Tiếng nổ của những gói bộc phá lớn. Thì ra du kích sợ lính Pháp từ bốt Phủ điều xuống tái chiếm lại, nên đã đặt bộc phá giật đổ ngôi đình. Ngôi đình dọc, thường gọi là đình Đụn, chứ không phải đình ngang như mọi nơi, bốn mái đầu đao cong vút, những dãy cột lim to hai người ôm, những bức trạm trổ kỳ công và tinh xảo…, công trình kiến trúc, văn hoá, lịch sử của làng Động, vào loại to và đẹp nhất huyện, bị phá huỷ.
Nằm bẹp dưới hầm bí mật, bà cụ Đồ Kha không bị mảnh đạn nào, cũng không hề bị sức ép của đạn pháo, nhưng gần trưa, khi thằng Cục từ đâu về mang theo một khẩu súng lục, hai hộp bánh bích quy chiến lợi phẩm, rồi nó hí hửng mô tả chiến thắng của quân ca, mô tả quang cảnh ngôi đình Đụn bị bộc phá đánh sập… thì bà cụ Đồ bỗng ngất xỉu. Suốt từ đó, bệnh cụ Đồ ngày càng trầm trọng.
Khi cụ Đồ Kha trở bệnh, mạch có lúc lặn, không tìm thấy, ông Lý Phúc thường nghĩ nhiều đến những công việc hậu sự. Ông mang lá số của Cục ra nghiền ngẫm nhiều đêm. Rồi để kiểm chứng những điều tiên cảm của mình, ông cầm lá số tử vi của Cục đến nhà cụ Nhiêu Biểu.
- Thưa cụ, từ hôm bà cụ tôi ốm nặng, tôi cứ nghĩ mãi về lá số của thằng cháu Quặc…
- Tôi biết rồi, bác có nhớ tôi đã nói với bác về thằng bé này từ hồi bác nhờ tôi lấy lá số cho thằng ba Vọng không? - Cụ Nhiêu Biểu đưa tay bấm độn, nói chậm rãi - Từ hồi có thằng Quặc, cài thế thần triệt của hai thằng anh nó đã bị phá. Nó là phụ nhìn lại gánh phần chính, là thứ nhưng lại làm việc trưởng. Người xưa có nói "Phu hiếu giả, thiên kế nhân chi chí, thiên thuật nhân chi sự giả dã", là vận đúng vào lá tử vi của cậu Tư Quặc. Cậu này sẽ biết thừa kế chí khí của cha anh, nối sự nghiệp dòng họ. Năm nay cậu này phải lấy vợ.
Ông Lý Phúc giật mình.
- Tôi đang muốn thưa chuyện với cụ về việc này. Quả là không có việc gì qua được mắt cụ. Bà cụ nhà tôi chắc không qua khỏi. Không cưới đợt này cho cháu thì phải đợi ba năm nữa.
- Bác nghĩ thế là phải. Thằng Quặc lớn lắm rồi. Bác còn nhớ hồi đầu năm tôi nói với bác về lời sấm của cụ Nguyễn Tiên Điền viết trong Truyện Kiều không? "Tông đường chút chửa cam lòng. Cắn răng bẻ một chữ đồng làm đôi". Câu sau ứng với câu thứ 1954, một câu sấm thớt tài tình. Năm nay có đúng là năm Giáp Ngọ 1954 không? Cái chữ đồng bị bẻ làm đôi không chỉ ứng với nước mình, mà ứng với cả mọi nhà! Rồi bác cứ nghiệm lời tôi mà xem. Chữ đồng bị bé đôi tức là bất đồng, dị đồng. Tan tác, ly tán không chỉ bắc nam, mà ngay từ trong mỗi nhà, ngay giữa cha con, anh em, vợ chồng. Cho nên nếu tụ được, hợp được thì chớ có bỏ lỡ cơ hội. Tôi xem ra, bà cụ nhà yếu lắm. Bác tìm vợ cho thằng Quặc dịp này là thuận!
Nghe lời cụ Nhiêu Biểu, ông Lý Phúc về bàn với vợ, đánh tiếng xin hỏi cô Bính con ông Phó Bùng trên làng Nguyễn cho Cục. Cô Bính hơn Cục hai tuổi, cao kều, da bánh mật, không xinh nhưng chắc khoẻ và rất hay làm. Mười tám tuổi, nhưng hình như Bính trốn tuổi dậy thì, người cứ khô như con cào cào trước sau như một, chẳng thấy mông thấy vú gì. Bọn thanh niên trong xã thường gọi là Bính cào cào, để phân biệt với các Bính khác. Trai gái Phương Đình có tục tảo hôn. Mười ba, mười bốn đã lấy chồng lấy vợ khắp lượt. Mười sáu, mười bẩy đã con bồng con bế. Tuổi như Bính mà vẫn chưa có người rước tức là ế. Bù lại, gia đình ông Phó Bùng lại rất căn bản. Ông Bùng từng có thời làm Phó hội trong làng, có nhà ngói cây mít, con cái khuôn phép, gia giáo. Suy đi tính lại, ông bà Lý Phúc không thấy đám nào hơn. Ông Lý ướm hòi Cục:
- Thầy u muốn cưới vợ cho con, ý con thế nào?
Cục nghênh bên tai lành lắng nghe, rồi bảo:
- Con đợi các anh Khôi, anh Vỹ, anh Vàng cưới trước. Với lại người ngợm con thế này, ai lấy?
- Các anh con đều có phúc có phận, kệ các anh ấy. Thầy đã nhắm rồi. Cô Bính, con ông Phó Bùng ở làng trên, có ưng không?
Cục mường tượng ngay ra Bính cào cào từng đi mót lúa non với Cục mấy lần dưới cánh đồng Bói. Cao thế mà lần nào lội xuống đồng, Bính cũng xắn quần tới bẹn. Trông gầy ngẳng mà đùi trắng và to ra phết. Y nghĩ ấy khiến Cục mặt đỏ tía tai, ngượng ngùng gãi đầu.
- Nhưng mà chị Bính hơn tuổi con.
- Gái hơn hai, trai hơn một. Cô Bính tuổi Tý, con tuổi Dần, đẹp đôi lắm.
Cục lại chợt nhớ đến lần đi xem chèo ở chợ Mới. Bính cao, lại đứng ở trên, che hết cả sân khấu. Cục cao hơn cả Bính, nhưng vẫn phải cố chen lên, chen mãi, tới lúc thấy mình đụng phải Bính. Bất ngờ đũng quần của Cục cứ căng ra. Lặng lẽ, Bính chổng mông đẩy lại. Cứ đùn đẩy như thế một hồi, cả hai, đũng quần đều ướt đầm đìa, thích quá, chẳng cần xem nữa.
- Dạ, tuỳ thầy u - Cục nói nhanh, sợ ông Lý Phúc đổi ý - Thầy u đặt đâu thì con xin ngồi đấy.
- Thầy không ép. Như vậy là con đồng ý rồi nhé. Cưới nhau rồi nếu thích ở riêng, thầy u cho hai vợ chồng cái nhà ngang, cho bẩy sào ruộng trên hai thửa ở cánh đồng Giục và cánh Cửa Ao, với con nghé hoa…
- Con không ở riêng - Cục chối đây đẩy - con phải ở với thầy u để còn chăm bà và em Hậu.
- Thôi được. Cứ lo xong vợ đi đã. Con Bính tuổi Bính Tý. Chuột vàng đấy con ạ.
Ông bà Lý nhờ người đánh tiếng. Ông bà Phó Bùng lập tức phát tín hiệu đồng ý. Được làm thông gia với dòng họ Nguyễn Kỳ thì đanh giá quá. Cậu tư Quặc tiếng là con nuôi nhưng chẳng khác gì con đẻ. Tuy khuyết tật một tí nhưng trông khôi ngô sáng sủa, lại chịu khó hay làm. Con mình quá lứa lỡ thì, được vào nhà ấy khác nào chuột sa chĩnh gạo. Ông Phó Bùng bảo với vợ như thế để quán triệt mà dạy bảo con gái.
Lễ vấn danh được gấp rút tiến hành. Nhà gái thách cưới thế nào, cần bao nhiêu lễ, thủ tục ra sao… tất tật mọi yêu cầu nhà trai chấp thuận cả. Đây là chủ ý của ông Lý Phúc, bởi ông nghĩ cưới chạy không có nghĩa là cưới chui, lấy cớ để làm ăn chớt chát. Với lại ông muốn để làng xóm biết rằng, ông không phân biệt con nuôi con đẻ, rằng, nếu mẹ ông có mệnh hệ nào thì bà cụ cũng được mát lòng vì đứa cháu nội cụ đã yên bề gia thất.
Vợ chồng anh em Chiến Thắng Lợi về đến nhà, thì cụ bà Đồ Kha đang hôn mê. Ông Lý Phúc hầu như không lúc nào rời mẹ. Bao nhiêu vị thuốc tốt nhất, đắt nhất, ông đã cắt cho bà eụ. Những ngày này ông phải dùng đến nhân sâm để phục dưỡng, kéo dài thời gian hưởng thọ cho mẹ và cũng là để chờ mấy thằng cháu đích tôn.
Chưa bao giờ làng Động đón những đứa con về làng trên một chiếc xe commăngca oách đến như thế. Từ thượng cổ đến giờ chưa một người làng Động nào có ô tô hoặc được ô tô rước về làng. Nếu kể đến một người sang nhất làng là ông Nghè Đặng Dụng Chu, đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân khoá thi triều Lê, năm Bính Thân 1776, có tên ghi ở bia Văn Miếu Quốc Tử Giám, thì hồi ấy ông Nghè cũng chỉ vinh quy bái tổ bằng kiệu và ngựa, chứ làm gì có ô tô như thế này. Thế cho nên, xe về đến chợ Mới là trẻ con đã xúm đen đặc, như đàn kiến bu quanh con mồi. Đích thân Cục và thằng Ngạnh vẩu phải dùng roi tre quất đen đét vào đít vài đứa, chúng mới chịu giãn ra để xe đi. Còn cách Nguyễn Kỳ Viên chừng hai trăm mét thì lại tắc đường. Hầu như cả họ, cả làng cùng mang gỗ ván ra bắc qua một chỗ tát nước cho xe vào nhà.
Người ta bàn tán râm ran:
- Họ Nguyễn Kỳ có phúc lớn. Cả hai người con ông Lý Phúc đi kháng chiến, vào sinh ra tử trăm trận mà đều không có dính mũi tên hòn đạn nào nhé. Ông Hai Bồng cũng hai người con đi bộ đội thì một người nằm lại ở Điện Biên Phủ. Bà Cả Choắt có mống con độc nhất thì ngoẻo cú tỏi ở mặt trận Đông Khê. Ông Giáo Điển đến ngày hoà bình rồi còn bị mìn tiện đứt một chân…
- Ông bà Lý Phúc kỳ này mát mặt với làng nước. Đi hai về ba, một lúc có tới hai người con trai làm quan to trên Trung ương người nào cũng đeo súng ngắn sệ đít. Mà cái anh cả. Khôi thật khéo chọn vợ. Rõ dáng bồ cu chân nhện. Da trắng như trứng gà bóc. Đàn bà to vú nở mông. Vừa biết chiều chồng lại khéo nuôi con…
Sung sướng nhất là vợ chồng ông Lý Phúc. Khỏi phải nói tâm trạng ông bà như thế nào khi thấy chiếc commăngca chở các con đi vào cổng lớn có ba chữ đại Nguyễn Kỳ Viên do chính tay bậc tài danh Tam Nguyên Yên Đổ đề tặng. Bà Lý Phúc mừng đến cuống cuồng, nhầm lẫn lung tlmg. Ông Lý vốn có cốt cách của bậc túc nho thâm trầm, cũng không giấu nổi vẻ rạng rỡ trên gương mặt vốn quá lo âu mệt mỏi trong những ngày vừa qua.
Sau các thủ tục vấn an thăm hỏi bà nội và thầy u, các chú bác cô dì anh em trong họ, giới thiệu Là, thành viên mới của gia đình, Lợi và Vỹ mới sực nhớ đến hai đứa em: Chú ba Nguyễn Kỳ Vọng và cô em gái út Nguyễn Thị Kỳ Hậu.
- Ừ nhỉ con bé đâu rồi nhỉ?
Bà Lý Phúc nhớn nhác tìm con gái. Mãi sau ai đó mới phát hiện ra cô bé Hậu từ lúc các anh chị về cứ đứng thập thò sau cánh cửa buồng nhìn ngắm một cách e ấp và thoả thuê.
- Trời ơi, thầy u phải đặt tên em là Nguyễn Thị Hoa Hậu mới đúng.
Vỹ bế bổng bé Hậu, công kênh nó trên vai. Hậu quá xinh. Ngày anh lên Việt Bắc, Hậu còn chưa nói sõi. Giờ hơn bốn tuổi mà nó phổng phao như đứa trẻ lên sáu. Cô bé thơm vào má anh, thì thào: "Em nhớ anh Vỹ lắm". Ôi, bé đáng yêu quá. Người nó toả ra mùi thơm khó tả. Nước da nó trắng hồng, má phính, đôi mắt đen láy như hai hạt nhãn.
Riêng Cục thì Cả Lai và Vỹ đều không thể nhận ra. Cậu chàng cao vỏng như một cây sào, mái tóc xoăn râu ngô và đôi mắt đã chuyển từ màu xanh sang nâu, trầm tĩnh và u buồn. Cục có vẻ mặc cảm về cánh tay trái bị liệt và đôi tai nghễnh ngãng, nên ngại tiếp xúc với hai anh và chị dâu mới.
Đợi khách khứa về vãn, ông Lý Phúc gọi hai con trai lên nhà thờ nói về chuyện cưới vợ cho Cục.
- Thầy đã xem kỹ mạch của bà. Cùng lắm là được ba ngày nữa. Anh chị Khôi được tổ chức đứng ra lo cho, giờ lại sắp có tin mừng, thầy u mãn nguyện lắm. Giờ còn em Quặc. Nó vất vả nhất nhà. Thay các anh quán xuyến mọi việc đồng áng, nhà cửa. Nó lại là con nuôi. Thầy u lo cho các anh một thì phải lo cho nó hai. Đấy là đạo lý, đấy cũng là để phúc để đức cho nhà mình. Có đứa em dâu, các anh chị đi xa cũng không phải lo lắng gì cho thầy u…
- Tức là thầy muốn cưới chạy cho chú Quặc? - Lợi đã quen họp hành, không thích nói vòng vo, vào việc luôn.
- Thì anh cứ để thầy nói hết - Vỹ đưa mắt sang lợi, ý không bằng lòng. Hai tiếng "cưới chạy" làm Vỹ bỗng nhớ đến tên cuốn tiểu thuyết mà nhà văn Đà Giang, bạn anh, đang dự định viết. Đây là đề tài nóng bỏng về giảm tô và cải cách ruộng đất đợt thí điểm đầu tiên ở Đại Từ, Thái Nguyên. Một anh vệ quốc yêu con gái nhà giàu đang bị đội cải cách xếp vào hàng địa chủ gian ác. Cô gái lấy cớ bà nội ốm nặng sắp chết, giục người yêu cưới chạy. Tổ chức cương quyết không cho anh vệ quốc lấy con địa chủ. Anh vệ quốc tìm cách đưa người yêu đi trốn… Cốt truyện của Đà Giang gần giống với đám cưới của Quặc và Bính. Chỉ khác chăng là ông Lý Phúc không phải là địa chủ…
- Thầy chỉ đợi các anh chị về để lo việc cho em - ông Lý Phúc nói tiếp - Mọi thủ tục đã chuẩn bị hết rồi. Cỗ bàn đơn giản cũng phải một trăm hai mươi mâm. Ba giờ sáng ngày kia làm lễ rước dâu.
- Cỗ bàn phải xem lại - Lợi khoát tay, thực sự vào vai anh con trưởng - Phải tiết kiệm tối đa. Chỉ nên mười lăm, hai mươi mâm thôi.
- Thầy tính nát nước ra rồi. Lần đầu định tổ chức cưới con. Họ hàng đông. Bạn bè nhiều. Vả lại đây cũng là dịp mừng các con đi kháng chiến trở về, dịp cám ơn dân làng đã thăm hỏi bà… Tiếng là lo việc hỷ nhưng cũng là lo luôn cả việc hiếu. Bà nằm xuống, thầy chỉ mời trầu cau dân làng…
Vỹ tán đồng ngay:
- Con thấy thầy tính như thế là phải. Chú Quặc phải được ưu tiên hàng đầu.
- Nhưng về thời gian thì phải tính lại - Lợi vẫn không chịu - Sao không phải là bẩy, tám giờ sáng cho nó đàng hoàng mà lại đi đón dâu lúc đêm hôm rét mướt?
- Thầy nhờ cụ Nhiêu Biểu bấm ngày giờ rồi. Tuổi hai đứa, phải giờ ấy mới hợp.
- Vẽ vời quá - Lợi lắc đầu - Chúng ta đang bắt đầu một thời đại mới, thời đại xoá bỏ tận gốc rễ những tàn dư của phong kiến đế quốc, xoá bỏ triệt để mê tín dị đoan. Nếu không có anh em chúng con, thầy muốn làm gì mặc thầy. Nhưng bây giờ, khi vợ chồng anh em chúng con đã về, thì mọi việc phải khác. Con xin thầy nhớ cho rằng anh em chúng con bây giờ đã là cán bộ cách mạng. Nhất cử nhất động quần chúng đều nhìn vào đánh giá, bọn phản động nhòm ngó xuyên tạc.
- Thì thầy cũng tham gia cách mạng chứ kém gì các anh - ông Lý buộc phải nói - Nhà mình chẳng có ai Việt gian phản động cả.
Chiến Thắng Lợi sực nhớ đến Vọng. Vì sao Vọng không ở nhà lúc này? Có chuyện gì khuất tất mà cả thầy u đều có vẻ lúng túng khi nhắc đến Vọng? Lợi hỏi thẳng ông Lý Phúc:
- Dạ, còn em Vọng? Em Vọng con đâu hả thầy?
Ông Lý ngồi lặng. Đây là nỗi đau nhất của ông trong những ngày này. Đau vì thương con trai, trẻ người non dạ, nghe kẻ xấu xui bẩy, vì lo cho con không biết sống ra sao, nhờ cậy ai ở nơi đất khách quê người. Nhưng đau nhất là ông nghĩ rằng mình đã vĩnh viễn mất Vọng. Câu sấm của cụ Nguyễn Du là ứng với thằng này. Rồi nó sẽ như tên đồn trưởng Trương Phiên, ngày càng dấn sâu vào tội lỗi, phản bội dân tộc.
Thằng Trương Phiên đã chạy thoát khỏi bốt làng Động, khiến ông ân hận là đã không kiên quyết đề nghị khử nó từ sau trận địch càn Khu Trắng phá bỏ nhiều cơ sở của ta. Cứ nghĩ đến chuyện Trương Phiên chạy thoát vào Sài Gòn, gặp thằng Vọng của ông ở trong đó, rồi chúng câu kết với nhau mà ông đau buốt tới tận óc. Nhiều lúc ông muốn quên Vọng, muốn gạt Vọng ra khỏi tên những đứa con ông. Lá thư của Vọng viết trước khi rời Hà Nội gửi thầy u và các anh em vẫn để trong ống quyển trên ban thờ kia. Ông không muốn nhìn thấy nữa. Ông càng không muốn đưa ra lúc này. Thậm chí ông không muốn cho Khôi và Vỹ biết Vọng đã vào Nam.
- Nó chạy theo thằng đồn trưởng Trương Phiên rồi phải không thầy?
Câu hỏi của Lợi khiến ông Lý Phúc giật bắn mình. Ông ấp úng nhưng rồi vẫn phải nói ra sự thật:
- Nó bỏ đi Nam rồi. Nó có thư để lại cho các anh…
Không để ông Lý nói hết, Lợi đã đập hai tay xuống chiếc tràng ký, rít qua kẽ răng:
- Thầy giết anh em chúng tôi rồi.
- Thì thầy u cũng như các anh. Nó đi rồi mới biết. Nó nghe chúng bạn rủ rê… - Đầu ông Lý Phúc rũ xuống, như một tội đồ.
- Chúng bạn nào rủ rê? Thầy xui nó. Thầy muốn bắt cá hai tay. Rút cục thầy vẫn lòi ra cái bản chất tư sản phong kiến, chân nọ chân kia. Thằng Vọng cam tâm làm tay sai cho địch rồi. Nó đã nhảy sang chiến tuyến bên kia rồi. Nó chính là một thằng Việt gian phán động. Tôi mà biết âm mưu phản dân hại nước của nó từ trước, tôi sẽ bắn bỏ - Lợi vừa nói dằn tìm tiếng vừa đưa tay vào bao súng, như một phản xạ - Hai thằng chúng tôi không quản hy sinh xương máu, đi theo cách mạng là muốn cứu cho cái lý lịch bất hảo của gia đình này. Vậy mà thầy và nó đã làm hỏng tất cả.
- Anh đừng nghĩ thế - ông Lý Phúc cố kìm nén - Ai làm người ấy chịu. Thằng Vọng làm, cùng lắm là tôi với u các anh phải chịu chứ không đến lượt các anh. Chính phủ Việt Minh sẽ công tâm mà nhận ra chuyện này…
Lợi vò đầu, bứt tóc. Anh giơ tay đấm vào ngực mình thùm thụp. anh tiên cảm thấy hiểm hoạ mà Vọng sẽ mang đến.
- Đã đến nước này thì tôi cũng nói thật với thầy. Tôi phải từ thằng Vọng. Từ nay thầy u và cái chi họ Nguyễn Kỳ này đừng gọi tôi là Nguyễn Kỳ Khôi nữa. Thằng Khôi đã chết rồi. Mấy năm ở Việt Bắc, tôi đã có tên mới là Chiến Thắng Lợi…
Ông Lý Phúc nhìn con trai trừng trừng, hai hốc mắt bỗng đó đọc như hai hòn than và toé những tia lửa. Nó đã bước qua cái ranh giới cha con rồi. Dù nó là ông giời thì nó cũng không có quyền nói với thằng bố đẻ ra nó những câu mất dạy đó.
Chưa bao giờ ông Lý Phúc giận dữ đến như thế. Ông chỉ tay vào mặt Lợi, giọng hộc lên như bị trúng thương:
- Anh không còn là con tôi nữa. Bước ngay ra khỏi cái nhà này.
Chiếc commăngca đưa vợ chồng Chiến Thắng Lợi rời khỏi làng Động ngay đêm hôm đó. Người làng không ai biết cuộc xô xát của bố con ông Lý Phúc. Người ta thì thầm với nhau: "Anh Khỏi đang giữ chức gì to và quan trọng lắm. Về đến nhà chưa kịp ấm chỗ, cấp trên đã có điện gọi đi ngay".
Riêng Vỹ vẫn ở lại. Anh sẽ làm phù rể cho Cục trong đám rước dâu.
Nhưng rồi một sự kiện tưởng như sẽ làm đảo lộn tất cả: Chiều hôm sau, cuối giờ Thân, trong lúc con cháu đang lo dựng rạp, bắt lợn để làm tiệc cưới ở nhà ngoài, thì ở nhà trong, cụ bà Đồ Kha lặng lẽ đi.
Lúc ấy, ông Lý Phúc đang ở bên mẹ. Với một bản lĩnh hiếm có ông nuốt nước mắt, vuốt mắt cho mẹ, rồi ra hiệu tất cả phải im lặng, cấm hé lộ một điều gì với cậu Quặc và mọi người, đoạn ông rỉ tai ông em chú, bảo xuống ngay nhà cụ Nhiêu Biểu.
Cụ Nhiêu Biểu vừa bấm độn, vừa giở sách ra xem, lắc đầu:
- Bà cụ chết vào ngày trùng, giờ trùng. Quá độc. Nhà ông Lý Phúc gay rồi.
Đắn đo mãi, cuối cùng đích thân cụ Nhiêu Biểu phải lên nhà, thì thào với ông Lý Phúc hồi lâu.
- Cưới hay không?
Đầu ông Lý Phúc có lúc muốn nổ tung, có lúc lại như chực ngất xỉu. Đời người, chỉ cần rơi vào tình thế éo le bi kịch này một lần, đủ già đi hàng chục tuổi. Trong luân thường, đạo lý, thì chữ hiếu phải đặt hàng đầu. Giá là đám cưới thằng Khôi, thằng Vỹ, thằng Vọng, chắc chắn ông sẽ cho hoãn lại để lo đám tang cho mẹ. Nếu họ nhà gái không đồng ý hoãn, thì huỷ. Đoạn tang, lại tìm đám khác. Nhưng đây là đám cưới của thằng Quặc, đứa con nuôi, lại tật nguyền. Nhà gái sẽ vu cho vợ chồng ông rẻ rúng, hắt hủi nó. Dân làng sẽ cười ông hủ lậu, không thức thời. Thằng Quặc sẽ hận ông suốt đời.
Buông tấm màn cho mẹ, như bà cụ đang giấc ngủ say, đích thân ông Lý Phúc ra nhà ngoài thu xếp lễ rước dâu và tổ chức cưới theo đúng kế hoạch.
Đoàn họ nhà trai đi đón dâu phải dùng đèn bão và đuốc. Đi trong cái lạnh của ngọn gió bấc thổi ràn rát và ánh lửa bập bùng, Vỹ bỗng liên tưởng đến cảnh hồng hoang thời Sơn Tinh mang sính lễ xin cưới con gái Vua Hùng.
Đuốc hoa thắp cầu vồng hư ảo
Đêm mung lung hương tóc người thương
Câu thơ gợi nhớ Khiêm da diết. Đó là phác thảo cho một bài thơ tình Vỹ sẽ viết tặng Khiêm nay mai.
Chuyện về đám cưới chạy tang sẽ chẳng còn gì đáng nói, nếu buổi trưa hôm ấy không xuất hiện một chiếc xe con nữa về làng.
Đó là một chiếc Peugeot màu xanh, sang trọng hơn cả chiếc Commăngca của Lợi. Trên xe, ở hàng ghế sau, có hai phụ nữ, một người ngoài ba mươi, đẹp một cách quí phái, người kia dáng còn thiếu nữ, mảnh dẻ và khiêm nhường. Xe dừng ở chợ Mới để hỏi đường đến nhà ông Lý Phúc.
- Này, tôi góp ý nhá - ông phó cạo, trung tâm thu phát tin tức của cả vùng, chỉ vào bó hoa lay ơn ở sau xe, giọng nghiêm trang - Đừng mang hoa đến đám cưới này. Bà mẹ ông Lý Phúc chết chiều qua rồi. Đang nằm đắp chiếu ở trong nhà. Chờ đón dâu xong là phát tang. Cứ nghe tôi, nên mua mấy thẻ hương với chục cau là hơn.
Mấy người nhìn nhau, chưng hửng. Rồi nhanh chóng họ thay đổi kế hoạch, tặng lại ông phó cạo bó hoa. Ông phó cạo được người đẹp tặng hoa, sướng quá, cười toe toét, giở giọng nịnh đầm:
- Trông bà đẹp và quen quá. Giống như ni cô Đàm Hiên ở chùa Phổ Hướng năm nào…
Người đàn bà giật mình. Ông phó cạo này đã nhận ra nàng.
- Tôi là Cam, đang công tác trên tỉnh. Tôi về thăm ông Lý Phúc.
Cam không nói rõ chức danh, thậm chí ngay cả những người quen biết, nàng cũng ít khi nói hiện nàng đang là Chánh văn phòng Phụ nữ Liên khu Hữu Ngạn. So với tuổi nàng, đây là một chức vụ không phải nhỏ. Nhưng nếu nàng không mất liên lạc với tổ chức trong thời kỳ sinh bé Lê Kỳ Chu, chắc chắn nàng đã cầm chắc cái ghế Phó Hội trưởng Hội phụ nữ Liên Khu, hoặc Hội trưởng Phụ nữ Tỉnh. Lần về làng Động này, chính là vì đám cưới Cục. Dù đi đâu, làm gì, nàng vẫn theo dõi từng bước đi của Cục. Ngày biết tin thằng bé bị rắn cắn, trở thành tật nguyền, nàng đã khóc bao nhiêu. Nhưng nàng hiểu đó là số phận. Nàng càng biết ơn ông bà Lý Phúc. Nếu Cục không vào cửa nhà ấy, đời nó chưa biết sẽ ra sao?
Sự có mặt của Cam là sự bất ngờ lớn với ông Lý Phúc. Ông biết bây giờ mới bắt đầu là thời của người nữ cán bộ Việt Minh này. Có chức quyền, danh giá thế mà người đàn bà này vẫn không quên ông, một lý trưởng hai mang do nàng móc nôi.
Suy nghĩ đắn đo mãi, Cam vẫn chưa tìm được cách xưng hô đối với ông Lý Phúc, vì thế mà gặp ông, nàng cứ ấp úng rnăt đỏ chín như người say nắng. Chưa bao giờ nàng sống trong trạng thái đầy mâu thuẫn, éo le như bây giờ. Đóng vai nào đây, khi vẻ danh nghĩa tổ chức, quan hệ xã hội, nàng là đồng chí của ông Lý Phúc, nhưng về quan hệ riêng tư, nàng lại là nàng dâu không chính thức của ông. Khôi có về không? Khôi đâu, sao chỉ có mình Vỹ? Trong phút chốc, mối tình với Khôi bỗng trỗi dậy. Thú thực, lần về này, ngoài chuyện mừng cưới Cục nàng còn muốn gặp Khôi, bố của thằng Lê Kỳ Chí của nàng. Đến bây giờ thì Khôi không thể lẩn trốn nàng Nàng phải giành giật lại người đàn ông của đời mình.
- Anh Khôi em đâu, sao không về?
Cam dành câu hỏi này cho Vỹ. Người thân thiết và tin cậy nhất ở nhà này với nàng giờ là Vỹ. Nhưng Vỹ đã làm nàng thất vọng. Khôi có điện gọi đột xuất, đã về Hà Nội. Khôi đã quên nàng từ lâu. Khôi đã lấy vợ và sắp có con.
Đau khổ nhất là Cam đang phải đóng một vai diễn không phải của mình. Nàng muốn gào lên, muốn đập đầu vào tường, muốn cởi hết xống áo chạy ào ra giữa trời mà cười điên loạn. Nàng chỉ là một người đàn bà với bản năng yếu đuối, bất lực mà sao phải chịu những trừng phạt khủng khiếp như vậy?
Người nữ nhân viên đi cùng hình như đã nhận ra tình trạng sức khoẻ của Cam, cứ cuống quít giục nàng bảo lái xe đưa tới trạm y tế huyện. Cam khoát tay, lắc đầu, bảo cô gái đi tìm chú rể và cô dâu lại.
Cục hôm nay khá bảnh trai, một gương mặt hao hao Tây lai, lún phún bộ ria mép, rất đàn ông. Không hề hay biết gì việc bà nội vừa mất, nên Cục hoàn toàn sung sướng, mãn nguyện. Còn Bính thì khỏi nói. Chưa đụng hơi trai mà đã như thài lài gặp cứt chó. Đó là lời bình của những người dự đám cưới.
Cam cầm tay Cục và Bính khá lâu. Nàng nhìn Cục, không cầm được nước mắt. Rồi nàng lấy từ trong túi xách ra hai chiếc nhẫn vàng, đeo vào tay hai vợ chồng trẻ.
- Cô chẳng có gì, chỉ có món quà nhỏ này mừng hạnh phúc hai cháu. Vợ chồng hãy thương yêu nhau đến đầu bạc răng long nhé…
Cả Cục, cả Bính và tất cả mọi người có mặt, không ai tin ở mắt mình. Cục đã nhận ra người đàn bà từng nói anh là con nuôi bà Lý Phúc chứ không phải con đẻ, người biết trong người anh có một cái bớt lông chuột. Cũng chính vì người đàn bà này mà anh bị rắn cắn ở bụi tầm xuân ông Đống đầu làng. Cục đắn đo định trả lại quà tặng, nhưng thấy Bính vui quá, anh không nỡ. Rồi Cục chợt nghĩ, chắc đây chỉ là hai chiếc nhẫn vàng tây bán ở hàng xén chợ Mới. Anh đưa cả cho Bính.
Cục đâu biết rằng, cách đây ba ngày, khi nghe tin anh lấy vợ Cam đã đem đôi khuyên tai mẹ cho, kho vàng duy nhất mà nàng có, thuê thợ kim hoàn đánh thành hai chiếc nhẫn cưới.
Hoàng Minh Tường
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tưởng chừng như

Tưởng chừng như (Nói với Gaston,  15.Dec.2013-15.Dec.2020) Đập cổ kính ra tìm lấy bóng Xếp tàn y lại để dành hơi (Khóc Bằng Phi, Vua Tự Đứ...