Thứ Ba, 30 tháng 4, 2019

Bình “Đào lê mỹ tửu” của Thạch Lam

Bình “Đào lê mỹ tửu” 
của Thạch Lam
Nếu bây giờ Thạch Lam còn sống, tôi không ngần ngại gì mà không nói thẳng rằng tôi hối hận vì một cử chỉ của tôi đối với anh. Tôi biết nói thẳng như thế thì Thạch Lam vừa ý. Là vì tôi nhớ lúc sinh thời, anh có giữ ở báo Ngày Nay một mục ghi những ý kiến về văn nghệ, trong đó có nhiều lần anh nhắc đi nhắc lại rằng điều cần thiết nhất của một nhà văn là phải thành thực, có thành thực thì văn mới cảm hóa được người xem. Tôi cũng nghĩ như anh vậy. Bởi thế hôm nay, viết một bài tưởng niệm anh, tôi thành thực nói ra một sự việc mà hồi còn mồ ma báo Phong Hóa, Ngày Nay cho tới khi anh mất, tôi vẫn giữ kín ở trong lòng, không viết mà cũng chẳng nói với ai. Đây là một dịp để cho tôi cởi mở nỗi thầm kín đó. Tôi nói thẳng: tôi đã hối hận trong nhiều năm chỉ vì Thạch Lam đã có một cử chỉ đẹp quá đối với tôi, mà tôi thì có một lúc lại coi anh như kẻ thù.
Nhớ lại cuộc cách mạng xã hội của nhóm Ngày Nay, Phong Hóa
Thực ra, đối với nhóm Phong Hóa, Ngày Nay nói chung và Thạch Lam nói riêng, tôi không có thân tình, tuy rằng chúng tôi cùng làm báo vào cùng một thời kỳ với nhau.
Lúc Phong Hóa ra số đầu tiên (tòa soạn lúc ấy ở đầu đường Takou), tôi làm báo Rạng Đông của Nghiêm Xuân Huyến, do Trúc Đỳnh Trương Công Đỉnh làm chủ bút. Không nhớ vì một trạng thái tâm lý đặc biệt gì lúc đó, kỳ nào tôi cũng đả kích báo Phong Hóa. Ai còn lạ gì cái tính hiếu thắng của tuổi trẻ lúc bấy giờ. Dù phải, dù trái, cũng cố cãi cho kỳ được để lấy phần thắng về mình. Cãi có khi đúng, có khi cù nhầy. Cãi có khi lịch sự, có lúc quấy. Riêng tôi thì tôi nhận ngay rằng lúc ấy tôi cãi quấy nhiều hơn lịch sự. Mối tranh chấp bắt đầu từ đó. Nguyễn Tường Tam không thèm tiếp Vũ Trọng Phụng. Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long cáu kỉnh chửi Lê Tràng Kiều: “Những người như anh chỉ đáng cho một cái tát”. Lưu Trọng Lư, lúc ấy làm thư ký tòa soạn Hà Nội Báo xông vào trận, bị Tứ Ly giáng cho nhiều bài xuyên tạc Lê Tràng Kiều và Lưu Trọng Lư là “mật thám mách bu”.
Thấy nhóm Phong Hóa giương đông kích tây như vậy, Phùng Bảo Thạch, Lưu Văn Phụng và tôi, với sự hợp tác của nhiều cố vấn lập một mặt trận liên minh các báo chống nhóm Phong Hóa. Lúc ấy báo Rạng Đông chết, tôi lấy tờ Việt Nữ làm cơ quan liên minh chống Phong Hóa. Nhưng tờ Việt Nữ yếu quá, chúng tôi bèn ra tờ Vịt Đực, tờ báo hoàn toàn trào phúng đầu tiên ở Bắc Việt. Kỳ nào chúng tôi cũng viết vài bài kèm mấy cái “pô tanh” đả kích Phong Hóa dữ dội. Đả kích theo chiến thuật chiến lược được ấn định rõ ràng: phàm chửi ai, phải chửi sa sả ra, chửi hàng tháng hàng năm, chửi cho địch thành ra một cái trò hề, chửi thành ca dao tục ngữ để phổ biến trong dân chúng, chửi để cho đối phương chỉ có mà lụn bại, không có cách gì có thể cất đầu lên được.
Báo Phong Hóa bị đánh tứ phía - vì các báo của liên minh cùng lên tiếng họa theo một lượt - lấy thế làm phiền. Mà đau nhất là giữa khi đó thì Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long và Khái Hưng cùng các anh em khác như Thế Lữ, Trọng Lang (Trần Tán Cửu), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) lại phát động một cuộc cách mạng xã hội nhằm quét tàn dư phong kiến, xây nhà “ánh sáng” cho dân nghèo. Thế là chúng tôi lại có thêm đề tài để chửi. Các bạn còn lạ gì tuổi trẻ: chửi mà đã có đà thì ngày một ngày hai đâm ra hỗn láo, ba que, mất dạy. Tội nghiệp nhất là Thạch Lam. Từ lúc bắt đầu câu chuyện này, thực quả tôi không thấy anh dính líu vào nội vụ, mà tôi cũng không hề thấy anh viết một bài nào ký tên anh để trả lời chúng tôi. Phải nói thực, anh có một thái độ chiết trung, nếu không muốn nói là anh không muốn lôi thôi. Nhưng lúc bấy giờ chúng tôi đâu có chịu để yên cho Thạch Lam đứng khách quan như vậy. Tôi y như là con chó sói trong ngụ ngôn của La Phông Ten: anh không có lỗi, nhưng họ hàng nhà anh có lỗi, thì anh phải chịu lỗi luôn. Chúng tôi đả Thạch Lam tàn tệ như đã đả Hoàng Đạo, Nhất Linh, Khái Hưng. Nói có vong linh Nguyễn Tường Tam chứng giám: thấy cuộc bút chiến mỗi ngày một kém lịch sự đi, anh em cứ vạch áo cho người xem lưng mãi cũng chẳng hay ho gì, Nguyễn Tường Tam viết một thư “riêng và mật” cho chúng tôi yêu cầu nên chấm dứt vụ “chửi lộn dơ dáy” đó.
Nói cho đúng, bức thư viết rất nhã nhặn, nhưng chúng tôi có bao giờ lại chịu nhận thức như thế. “Chửi lộn dơ dáy”! Bốn chữ này hàm một ý nghĩa xỏ xiên: không được! Phải chửi nữa! Và lần này, không còn biết lôi ai ra chửi nữa, chúng tôi bèn chửi Thạch Lam. Chúng tôi chửi một cách rất hèn hạ, bẩn thỉu, không những lôi một vài chuyện cá nhân ra chửi để bôi nhọ Thạch Lam, hơn thế, có khi còn bịa ra những chuyện không hề có để nói xưng xưng lên như chuyện thật.
Cho đến bây giờ, tôi không biết phản ứng của Thạch Lam với những lời càn rỡ, xỏ xiên ấy ra thế nào, nhưng mấy số báo đó ra được vài ngày thì có một ông bạn đem “tưới dầu vào lửa”. Ông bạn đó nói: “Các anh đã biết gì chưa? Bọn Phong hóa Ngày nay nhất định cho các anh một mẻ. Riêng Thạch Lam công khai nói ở khắp mọi nơi rằng nó mà gặp “Tây Tím” (1) ở đâu nó phải đánh cho kỳ chết”.
Về sau này, bỏ cái nghề viết báo chửi càn, ngồi uống trà suy nghĩ, tôi ngờ rằng người đem câu chuyện ấy làm quà cho chúng tôi hoặc là đùa dai, hoặc làm mật thám cho Tây, phao tin ấy để chia rẽ anh em viết văn làm báo. Nhưng ngay hồi ấy thì tôi đâu có nghĩ như thế. Tôi yên trí Thạch Lam có nói thế thật, định làm nhục tôi thật. Thế là mối thù vô căn cứ, không có lý do gì hết, mối thù của tôi đối với Thạch Lam bắt đầu: trên Hà Nội Báo, trên Vịt Đực và một hai tờ báo “ma trơi” khác, tôi cứ lải nhải đả kích Thạch Lam không thiếu chuyện gì, không thiếu khía cạnh nào, bất kể đời công hay đời tư; ngoài ra, tôi lại còn làm vè đem xuống xóm, phổ biến để chửi Tự Lực văn đoàn: Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long, nhất là Nguyễn Tường Lân. Tôi còn cố ý làm cho người ta lầm Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) với một nghệ sĩ cũng tên là Nguyễn Tường Lân khác, lúc đó bị dính líu vào một vụ lường gạt mang tai mang tiếng.
Gặp nhau lần đầu trong một tiệm hút
Thế rồi chuyện ấy qua đi. Nhóm Phong Hóa quên chúng tôi và chúng tôi cũng không nhắc lại chuyện cũ làm gì nữa. Không phải là chúng tôi cao thượng gì đâu. Chúng tôi không nói tới nhóm đó nữa chỉ vì một lẽ rất giản dị là tờ Ngày Nay không chạy, mặc dù đã xoay xở đủ cách để cho tờ báo sống động, có một nội dung vui và mới. Thời kỳ này là thời kỳ Thạch Lam quản trị tờ báo. Chính trong thời kỳ này tôi đã gặp Thạch Lam, không gặp ở nhà báo, nhưng gặp ở một tiệm hút mà Thế Lữ, Thạch Lam và Nguyễn Kim Hoàn (một người anh rể của Thạch Lam) thường hay ra vào.
Nhưng trước khi nói về cuộc gặp gỡ này, tôi phải kể lại một sự việc làm cho tôi thắc mắc và không hiểu ra thế nào. Nguyên trước khi báo Ngày Nay ra đời mấy năm, tôi có viết một cuốn truyện dài nhan đề là Một mình trong đêm tối do Trung Bắc Tân Văn xuất bản. Tình cờ một hôm xem báo Ngày Nay, tôi thấy có một bài phê bình sách nói về cuốn Một mình trong đêm tối (1). Tôi vội nhìn xuống cuối bài để xem tác giả bài phê bình là ai thì thấy ký là Thạch Lam và Khái Hưng. Chưa đọc, tôi đã yên trí hai ông này thể nào cũng tiết sự thù hận, chửi rủa tôi tàn tệ… và tôi không đọc. Nhưng hôm sau, Vũ Trọng Phụng, sau khi hút một hơi thuốc lào, lấy xe điếu đập vào đầu tôi một cái, bảo: “Này, Bằng! Cái bài chúng nó viết về cuốn sách của toa đứng đắn lắm, tớ cho là được đấy. Đọc xem!”.
Tôi đọc. Phải nói ngay rằng đọc xong, tôi ngạc nhiên hết sức. Về phần Khái Hưng, tôi không nói làm gì. Tôi ngạc nhiên nhất là về Thạch Lam. Vì lúc đó Thạch Lam làm quản nhiệm tờ Ngày Nay, toàn quyền trong tay anh, anh muốn hạ tôi thế nào mà chẳng được, vậy mà trái lại, Thạch Lam lại viết một bài rất lịch sự, khen cuốn tiểu thuyết của tôi với những luận cứ làm cho tôi cảm động và đôi chỗ cũng chê, nhưng chê một cách nhẹ nhàng, thân mến và xây dựng. Phải đặt vào cá nhân tôi lúc đó mới có thể biết được sự xúc cảm của tôi thế nào: tôi không hiểu! Tôi không hiểu Thạch Lam định chơi trò gì đây, vì cái óc tồi tệ của tôi lúc đó tin rằng một người bị tôi đả kích dữ dội hàng nửa năm trời như thế, đả kích một cách nhơ bẩn như thế, không thể nào viết một bài khen kẻ địch của mình như Thạch Lam đã làm. Tôi sợ…, sợ trong vụ này có một âm mưu gì nguy hiểm, nhất là tôi biết rằng Thạch Lam là một người lạnh lẽo, ít nói ít cười, mà đối với nhỡn quan của tôi lúc bấy giờ, một người như thế là một người thâm hiểm.
Hóa ra tôi lầm. Lầm một cách khốn nạn.
Biết là Thạch Lam, Thế Lữ, Nguyễn Kim Hoàn hay ra vào tiệm Q.X.N., một hôm, tôi tìm đến để cảm ơn Thạch Lam về việc anh đã phê bình cuốn truyện dài của tôi và cũng nhân đó “anh em trò chuyện một đôi câu” hầu đánh tan những gay cấn có thể có giữa hai người.
Đêm ấy, Thạch Lam nằm một mình, không có bạn. Trò chuyện với anh chừng năm phút, tôi lại gặp sự ngạc nhiên nữa: Thạch Lam mời tôi hút (anh nói: “Chúng ta chưa trò chuyện với nhau bao giờ nhưng tôi biết anh lâu rồi, từ hồi còn học ở Lycée”) và anh nói chuyện bình thản, tự nhiên y như là từ trước giữa chúng tôi không hề xảy ra chuyện gì tàn tệ.
Thạch Lam, một nhà văn lịch sự, yêu người như yêu mình
Thấy giọng nói và cử chỉ của Thạch Lam như thế, tôi không tin liền. Mãi sau đi hút đêm với nhau về, ngồi trên những cái ghế ở thấp trước cửa chợ Đồng Xuân, uống nước chè tươi với kẹo vừng, nói chuyện về những người buôn gánh bán bưng, về những đứa trẻ ngủ đường ngủ sá dưới trời đông rét mướt, về những cô gái nhà nghèo ở phố huyện xa xôi, tôi mới dần dần nhận thấy anh quả thực là một người quân tử, không có một ý tưởng gì thấp kém, quý trọng sự sống hơn cả tròng con mắt mình, hơn thế lại thương yêu mọi người một cách chân thành, tuyệt nhiên không biết nói xấu ai, không biết thù hận ai, không biết ghét ghen hay ganh tỵ với ai.
Nếu sống đến bây giờ, anh hơn tôi hai tuổi. Anh mất lúc hãy còn quá trẻ. Chẳng biết đó có phải là thiên mệnh hay không, nhưng nhớ lại những lời anh nói trong những lúc đi chơi la cà ban ở ngoài đường với nhau, tôi thấy anh hay nói một câu đại khái như thế này: “Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ, người khổ cách này, người khổ cách khác. Bí quyết là tìm lấy cái vui trong cái khổ, vì sống, chỉ sống thôi cũng đã quý lắm rồi. Người ta không bao giờ nên phí phạm cái sống, coi thường sự sống”.
Ngay lúc đó, nghe anh nói, tôi không mấy lưu ý, và tôi nghĩ rằng Dostoievsky đã nhiều lần nói lên cái tư tưởng đó rồi. Nhưng sau này, khi anh mất đi, ngồi nghĩ ngợi thấm thía về câu nói đó, tôi thấy quả Thạch Lam là người yêu sự sống hơn cả ai ai. Anh quý từ chén nước chè tươi nóng, trang trọng đưa lên miệng uống một cách gần như thành kính, tiếc từ một cái kẹo vừng rơi xuống đất, nhặt lên phủi bụi rồi cầm lấy ăn một cách chậm rãi như thể vừa ăn vừa suy nghĩ, cảm ơn Trời đã cho mình sống để thưởng thức một món ăn ngon lành như vậy, anh cẩn thận từng câu nói với cô bán hàng vì sợ lỡ lời có câu nào không chu đáo có thể làm cho người ta tủi thân mà buồn…
Không. Trong nhóm Phong Hóa Ngày Nay, Hoàng Đạo là người lý thuyết, Nhất Linh là người thực hành, Khái Hưng là người đả phá nếp sống cũ để tiến tới một đời sống mới, tựu trung đều là thương người, yêu người cả. Nhưng muốn nói đến một người tôn thờ nhân bản thực sự, một người thương yêu xót xa đồng bào từ tâm can tì phế thương ra thì người ấy chính là Thạch Lam. Vì mất sớm, tác phẩm của anh không có nhiều, nhưng tác phẩm đầu của anh Gió đầu mùa là bằng chứng cụ thể chứng tỏ điều tôi vừa nói. Anh là một thứ Panait Istrati, lấy nhân vật toàn ở trong đám bình dân nghèo khổ không ai buồn lưu ý, như công chức nghèo, cô gái bán tạp hóa ở phố huyện, người đàn bà góa có hơn chục đứa con, người chồng đói giận vợ giục đồ ăn đi xong rồi lại nhặt lấy để ăn mà ăn ngon lành là khác… Đặc trưng của Thạch Lam là viết những cảnh đời đen tối, u sầu như thế mà văn không đen tối u buồn như Gorki của Nga hay như Nguyên Hồng của ta, làm cho ta nản sống; trái lại, văn anh vẫn tươi sáng, nhẹ nhàng, mà đẹp, làm cho người đọc cảm thấy buồn dìu dịu nhưng triền miên, buồn chung cho kiếp người, chớ không buồn đến uất ức, sinh ra phẫn uất vì chế độ. Thạch Lam cao hơn nhiều người khác về điểm đó. Nhưng cái cao đó sẽ không đi đến kết quả như ý muốn nếu không có một kỹ thuật đặc biệt giúp tay: những sự việc, những tình tiết, những trạng thái tâm lý rất bình thường, đối với những cây bút tầm thường sẽ bị rậm lời mà nói lên không hết ý. Với Thạch Lam, khác hẳn: Anh đã nói lên được cảm tính của các nhân vật của anh một cách đơn thuần, giản dị và trong sáng.
Một nhà tư tưởng, chớ không phải là một người hành động
Sống trong đám người đi lại bình thường, hồn nhiên nhưng quằn quại trong nhục nhằn, đau khổ, Thạch Lam yêu họ như yêu mình. Một người như thế không thể là một nhà lý thuyết, cũng không thể là một người hành động, mà chỉ có thể là một nhà tư tưởng, như chim đường nga kia đêm tăm bay mỏi, lấy mỏ rút ruột mình để nuôi một đàn con đói.
Tôi còn nhớ có một đêm anh cùng tôi đi thơ thẩn ở đường Hàng Bông, Thợ Nhuộm trông sang nhà pha Hỏa Lò. Xa xa, có một tiếng khóc tỉ tê vọng lại. Chúng tôi đi đến chỗ có tiếng khóc đó xem sao thì thấy một đứa bé đeo một cái hộp thiếc ngồi co ro ở trong xó tối. Hỏi tại sao, thằng bé nói: “Cháu đi bán phá sa (đậu phộng rang), được hơn hai hào cả thảy, vừa định về nhà thì có đứa nó đến đánh cháu và cướp hết cả tiền của cháu”. - “Nhà mày ở đâu?”. - “Nhà cháu xa lắm, ở tận đường Hàng Bột. Nhưng dù gần, cháu cũng không dám về, vì cha cháu mất sớm, mẹ cháu đi lấy chồng, bố ghẻ cháu ác lắm, cháu mà về thì ông ấy giết cháu chết!”. Móc trong túi còn hơn hai hào, Thạch Lam đưa cả cho thằng bé và ân cần bảo nó về ngay kẻo ở nhà mẹ đợi. Đi một quãng đến Hội Chợ, tôi nói với Thạch Lam: “Tôi ngờ thằng bé này nói láo. Hình như đã có một đêm đi hát ở Khâm Thiên về, tôi cũng thấy nó khóc và nói y như thế… và người bạn cùng đi với tôi bị lừa…”. - “Vậy ư? Nhưng bị lừa hay không, theo tôi, cái đó không quan hệ lắm. Điều cần là mình làm một việc xét ra là phải làm, theo ý của mình, còn người thụ hưởng việc phải  đó muốn thực thi việc phải đó ra thế nào, mặc họ. Nghĩa là khi nào mình thấy việc gì phải làm thì cứ làm, kết quả ra sao không cần lắm. Tôi xin kể anh một thí dụ: Có một người đến nhờ tôi giúp một số tiền nhỏ. Tôi biết là người ấy xin tiền để hút. Nhưng tôi không cần biết điều ấy làm gì. Tôi chỉ thấy rằng anh ta đau đớn khổ sở vì thuốc phiện hành hạ, nếu có tiền để anh ta đi hút thì anh ta sung sướng lắm. Tôi có tiền, tôi cứ giúp đỡ anh ta mà không cần hỏi tại sao anh ta cần tiền, mà tôi cũng chẳng cần khuyên anh ta nên cai thuốc phiện. Giúp được anh như thế, tôi nghĩ rằng tôi đã đem lại cho anh ta một phút vui sướng trong kiếp sống; nếu tôi nói một câu gì khác, tôi nghĩ rằng cái cử chỉ của tôi mất hết cả vẻ đẹp đi. Rất có thể có người thấy tôi hành động như thế cho là tôi “nối giáo cho giặc”, nói một cách khác là lòng tốt, ở vào trường hợp đó, không ích gì, mà hành động của tôi không giải quyết được vấn đề gì dứt khoát. Có thể quan niệm như thế là phải, nhưng tôi có quan niệm về sự sống của tôi; đúng hay sai, tôi không biết, nhưng óc tôi nghĩ như thế, lòng tôi cảm thấy như thế tôi cứ nói thực với anh như thế”.
Nghe Thạch Lam nói, tôi không trả lời. Nhưng vừa bước chậm rãi trong đêm khuya vừa suy nghĩ, tôi chợt nhớ có một lần một bạn văn đã nói cho tôi biết tại sao Thạch Lam lại thất bại trong việc quản trị báo Ngày Nay lúc đầu. Anh bạn nói:
“Thạch Lam có nhiều sáng kiến trong ngành báo. Có thể bảo rằng anh mới chính là bộ óc của Tự Lực văn đoàn, nhưng quản trị tờ Ngày Nay mà thất bại, ấy chính vì anh là một nhà văn, một ký giả thượng thặng nhưng lại nuôi một tâm hồn nghệ sĩ theo đúng nghĩa của hai chữ đó, không cần giới ý đến sự thành bại về khía cạnh thương mại và tài chánh”.
Nhớ lại câu nói đó của anh bạn, tôi dần dần nhớ lại rằng có một lần trước đó, một nhà thơ đã nói công khai trước anh em bên một bàn rượu ở chợ Tân Định:
“Tôi nợ Thạch Lam rất nhiều về tinh thần. Đối với tôi, anh tốt quá, tốt không thể nào tưởng được: bao nhiêu lần tôi ký bông vay tiền của báo Ngày Nay, Thạnh Lam đều chuẩn nhận hết, không từ chối một lần nào. Mà phải nói thực rằng, mười lần tôi nhận trước tiền bài như thế thì họa hoằn có hai ba lần tôi viết bài cho báo Ngày Nay, còn những lần khác thì tôi cứ tiêu đại đi rồi quên mất, không viết trừ…”.
Không hiểu có phải vì lề lối làm việc “thơ mộng” của Thạch Lam mà về sau Nguyễn Tường Tam thay đổi người quản trị báo Ngày Nay không, nhưng, theo Nguyễn Kim Hoàn, một người trong gia đình Nguyễn Tường, nói với tôi hồi đó thì Thạch Lam rất ngạc nhiên về hành động của Nguyễn Tường Tam và nghĩ rằng sao lại có người có thể cho hành động của anh đối với các bạn văn có cái thói quen “mượn trước tiền để tiêu” là “thiếu khoa học”, “không thực tế”…
Thì ra Thạch Lam, trong văn chương cũng như ngoài đời, lúc nào cũng thuần nhất trong ý niệm về cái sống: đời người khổ cực đủ trăm đường, nếu không tự tạo cho mình hay tạo cho những người ở chung quanh một phút vui thì chẳng còn gì đáng kể. Trong tập Gió đầu mùa, mẹ Lê góa chồng sống với một đàn con lúc nhúc trên mười đứa, đã có lần tìm ra cái vui đó trong một bữa cơm có đông đủ con cái ngồi ăn, cãi nhau chí chóe trước một cái mâm có muối, dưa và rau muống sống, thì Thạch Lam, ở ngoài đời, cũng đi tìm một giây phút thú vui bằng cách giúp cho bạn giải quyết giai đoạn một vấn đề tài chánh, hay rủ mấy người bạn khác thiếu ăn đi chén một bữa cơm xoàng, chan chứa một niềm thân ái.
Bình “đào lê mỹ tửu” của Thạch Lam
Vừa ăn vừa tâm sự nhỏ nhẻ, thỉnh thoảng lại cười khúc khích với nhau, tôi thấy rằng trong phạm vi bè bạn, Thạch Lam cho đó là một cái thú giản dị nhưng lại thanh cao nhất. Tiếc rằng nhiều bạn hữu của anh bây giờ đã khuất bóng hay không có mặt ở đây nên không có ai nhắc lại sự sành ăn sành uống cũng như cái tài làm bếp khéo của Thạch Lam, nhưng mồ ma Đinh Hùng, tôi thấy anh hay kể lại câu chuyện này giữa hai ngụm rượu mạnh hoặc ở bên khay đèn:
“Quê Thạch Lam ở Cẩm Giàng (Hải Dương). Mùa xuân năm đó (1942), mồng ba Tết, chúng tôi rủ nhau về họp mặt tại quê anh. Trong một ngôi nhà gạch kiểu ánh sáng, quang đãng mà ấm cúng, giữa một vườn cây nhiều hoa trắng, chúng tôi quây quần thù tạc. Ngày Tết ở miền quê, không khí gia đình hòa lẫn vào không khí thân hữu, tự nhiên đượm một phong vị vừa thân mật, vừa sảng khoái.
Bọn chúng tôi gồm có: cặp vợ chồng kịch sĩ và thi sĩ Song Kim - Thế Lữ, cố văn sĩ Khái Hưng, cố văn sĩ Trần Tiêu, ông Hoàn, quản lý nhà xuất bản Đời Nay, anh bạn thơ Huyền Kiêu, bác sĩ kiêm nghệ sĩ Nguyễn Tường Bách, Thạch Lam và tôi. Trong bọn tôi thì tôi ít tuổi nhất, nên những người kia gọi tôi là tiểu tử (benjamin) để rồi lại gọi trệch đi là… tửu tử.
Bữa rượu đầu xuân năm ấy, phải nói rằng chúng tôi đã uống với tất cả chất men say ngây ngất bốc lên từ chính tấm lòng xuân phơi phới của mình, hòa với cái say của hương khói trong nhà, của mưa bụi ngoài trời, của lá hoa xuân hiền dịu, của mùi thơm cây cỏ ngoài vườn…
Câu chuyện “văn nghệ” điển hình nhất của chúng tôi tất nhiên khởi sự chung quanh… mâm cỗ Tết, có đủ các trân vị đặc biệt của cái Tết Việt Nam thuần túy: bánh chưng xanh, thịt mỡ dưa hành, cá kho, giò thủ, thịt đông, cùng các món đồ nấu cổ điển trình bầy rất hòa điệu. Bởi vì đây là cỗ Tết của gia đình tác giả “Hà Nội băm sáu phố phường”, nhà văn đã nâng cao vấn đề ẩm thực lên thành một nghệ thuật tinh vi.
Chúng tôi đều biết cái khiếu thưởng thức món ăn của Thạch Lam rất tế nhị, và chúng tôi thường nói đùa rằng: “Thạch Lam ăn có nguyên tắc, uống có lập trường, và phê bình vấn đề ăn uống với một quan niệm siêu đẳng…”.
Tôi không bao giờ quên cái dáng điệu ngồi rất đẹp của anh, khi anh nâng chén: cái đầu nghiêng nghiêng, cặp mắt lim dim, anh rung đùi nhắc lại một câu mà anh đã viết trong “Hà Nội băm sáu phố phường”: “Hãy bảo cho tôi biết bạn ăn uống ra sao, tôi sẽ nói cho bạn rõ là bạn là hạng người nào”.
Chúng tôi đồng thanh lấy giọng ê a như ngâm thơ, và cùng gõ nhịp đũa xuống mâm, đọc to câu đó lên trước khi cạn chén, để rồi gật gù kết luận rằng đó là một câu “danh ngôn” đắc ý nhất của “danh sĩ” Thạch Lam.
Tôi cũng không quên được cái chất men rượu xuân năm ấy, sánh quyện đầu lưỡi ngọt lừ mà tê lịm, có thể cứ uống mềm môi mà say ngất lúc nào không biết. Rượu đựng trong những nậm sứ cổ, rót vào chén nhỏ men trắng như ngọc, càng tôn thêm phẩm chất và hương vị. Trong đời tôi, có lẽ chưa bao giờ được uống thứ rượu ngon như thế. Phải chăng vì rượu có thấm đượm cả cái men xuân kỳ diệu? Nhưng không phải tôi tự huyễn hoặc. Tất cả những người khác cũng đều công nhận là rượu ngon lắm: thuần chất hơn Mai Quế Lộ, say hơn Thanh Mai, thanh khiết hơn hết các thứ rượu cúc, rượu cẩm, và cố nhiên không nên so sánh với rượu Tây, vì đây là chất men hợp với huyết thống con người Đông phương trầm mặc.
Uống rượu ngon thì biết là rượu ngon, duy không ai đoán biết là rượu gì! Thạch Lam cười bí mật, gọi người nhà bưng cả vò rượu lớn ra, chỉ vào mảnh giấy hồng điều dán làm nhãn hiệu có viết bốn chữ Nho “Đào Lê Mỹ Tửu”. Anh nghiêm trang giải thích: “Đào Lê Mỹ Tửu” là rượu ngon, đành rồi! Còn Đào Lê không phải là quả đào với quả lê, mà còn nói lái lại, chỉ là Đề Lao: Đề Lao là nhà tù, ai mà không biết? Thứ rượu này dẫn người ta đến nhà tù dễ như bỡn; vậy chỉ là rượu ngang, rượu lậu thuế!”.
Chúng tôi cùng cười phá lên, và hô lớn:
“Đào Lê Mỹ Tửu Vạn Tuế!”
“Đả đảo Tây Đoan!”
Nói đến Tây Đoan, lập tức mọi người nhớ ngay đến anh chàng thi sĩ tác giả “Thơ thơ” là Xuân Diệu, mà kịch sĩ Đoàn Phú Tứ gọi là Xuân Rượu, vì hồi đó Diệu vừa thi đậu làm cò mi Đoan và Diệu đã được làng văn tặng cho hai câu thơ:
Đương làm thi sĩ hóa Tây Đoan
Nửa mặt nhà thơ, nửa mặt quan…
Nói đến Tây Đoan, người ta còn truyền tụng với nhau câu chuyện sau đây: “Đêm giao thừa, Xuân Diệu và Huy Cận đã rủ nhau về ăn tất niên ở Cẩm Giàng, quê nhà Thạch Lam, nghĩa là cũng ở gian nhà mà chúng tôi đang họp mặt. Hai anh chàng Xuân và Huy đã cùng thức trắng đêm bên cạnh nồi bánh chưng, để rồi, khi bánh chưng vừa luộc chín, một mình nhà thơ Xuân Diệu đã ăn sốt sột hết đúng… bốn cái bánh chưng còn nóng hổi, bốn tấm bánh chưng lớn vừa bằng bốn viên gạch lá nem vuông vắn, mỗi chiều xấp xỉ hai mươi phân Tây, bề dầy ít nhất cũng ba, bốn phân Tây! Thành tích “ăn” đó có thể coi là kỷ lục xuất chúng ở vào cái thời kỳ đã khuất bóng cụ Lê Như Hổ.
Người ta kinh dị mà kể với nhau câu chuyện “Thi sĩ Xuân Diệu (họ Ngô) một mình ăn hết bốn tấm bánh chưng cỡ lớn, và ăn liền một mạch như voi cuốn, ăn thẳng thừng không ngẫm nghĩ, không suy tư, tất nhiên là không cần “ăn có lập trường” như Thạch Lam!”.
Câu chuyện rất thực, không phóng đại mảy may. Chính Thạch Lam, xưa nay vẫn được tiếng là không nói phiếm bao giờ, cũng phải xác nhận là đúng. Anh chép miệng phê bình bằng một nửa câu danh ngôn bất hủ: “Hãy cho tôi biết bạn ăn uống ra sao…”, và anh bỏ lửng câu nói để thay thế bằng một nụ cười đầy ý nghĩa…”.(1)
Từ cái cười đến cái chết của Thạch Lam
Ấy đấy, cái cười của Thạch Lam nhẹ nhàng, hồn nhiên như thế đấy. Nghĩ lại thì trong suốt cuộc đời anh, cái gì cũng nhẹ nhàng: nhẹ nhàng từ cử chỉ, từ tiếng nói, nhẹ nhàng từ câu nói, từ bước đi. Cũng như các nhân vật trong các truyện của anh, Thạch Lam sống nhẹ nhàng, lặng lẽ: bây giờ ai còn nhớ anh, hẳn phải nhận với tôi rằng anh đi nhẹ nhàng, lặng lẽ không tưởng được, dường như nếu bước mạnh thì sợ đất nó đau. Có người lại cho rằng anh lặng lẽ âm thầm như vậy chính là vì anh là một người rất mực khiêm nhường, lúc nào cũng tự coi mình là bé nhỏ, không muốn để cho ai thấy sự hiện diện của mình, không muốn để cho ai phải lưu ý tới mình.
Không. Về phương diện văn chương cũng như về tác phong đạo đức, ta phải nhận là trong làng văn, Thạch Lam quả là một con người độc đáo. Có tài mà lại khiêm nhường, người nhỏ mà lòng nhân ái lại lớn. Thạch Lam mất đi đã để lại một sự tiếc nhớ khôn nguôi cho nhiều bè bạn. Người ta tiếc Thạch Lam mất sớm quá, thành ra tác phẩm anh để lại chẳng được bao nhiêu. Nhưng nghĩ cho cùng thì trong cái nghiệp văn chương cũng như thiên hạ sự nói chung, giai nhân danh tướng không để cho ai trông thấy bạc đầu, sự đó không có gì là lạ.
Tôi nhớ các anh em cũ: Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Trọng Phụng, Phạm Hầu, Hàn Mặc Tử, Vũ Lang, Vũ Trọng Can, Khổng Dương… hầu hết đều như vậy. Riêng về mấy người tôi biết rõ thì Vũ Trọng Phụng để lại một người vợ trẻ và một cháu gái, vợ anh thắt lưng buộc bụng nuôi con; Nguyễn Nhược Pháp có một người yêu hiện ở đây lúc nào cũng mặc quần áo đen để tưởng nhớ người đã khuất; còn Thạch Lam cũng để lại một người vợ chắt chiu đi làm nhân viên bưu điện, một nắng hai sương để nuôi một đàn con dại cho nên người khá giả.
Đấy là cả một sự đền bù mà bây giờ, mỗi khi gió sớm mây chiều, các anh em trong làng văn nhắc nhở đến người quá cố, vẫn kể lại cho nhau nghe như kể chuyện truyền kỳ và đều lấy thế làm một niềm an ủi.
Ghi chú:
(1) “Tây Tím” là xước danh của nhà văn Vũ Bằng do các bạn thân của ông đặt ra - (NBS).
(1) Theo chỗ biết riêng của tôi, truyện này đã được Hà Nội tái bản vào khoảng 1957-1958.
(1) Trích Tìm về những mùa xuân dĩ vãng: Men xuân quê nhà Thạch Lam của Đinh Hùng, trong tạp chí Sáng dội miền Nam, số 21, năm 1961.
Giao điểm, Sài Gòn, 12-1971
Vũ Bằng
Nguồn: Vũ Bằng Toàn Tập, tập IV. Nhà văn 
Triệu Xuân sưu tầm, biên soạn, giới thiệu. 
NXB Văn học, 2006.
Theo https://trieuxuan.info/



 

Biên đảo phía mặt trời

Biên đảo phía mặt trời
Tháng 5 năm 1986, đoàn cán bộ lãnh đạo và văn nghệ sĩ tỉnh Phú Khánh (tháng 7 năm 1989 mới chia tách lại thành hai tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa) do chủ tịch Ủy Ban Nhân dân tỉnh Võ Hòa dẫn đầu cùng với đoàn đại diện lãnh đạo Quân chủng Hải quân ra thăm huyện đảo Trường Sa. Đoàn văn nghệ sĩ của tỉnh có 10 người gồm 3 nhà văn, 2 nhạc sĩ, 4 ca sĩ và một diễn viên kịch câm, do tôi làm trưởng đoàn. Đây là chuyến đi dài ngày nhất của đoàn cán bộ tỉnh so với tất cả các đoàn trước đó. Gần một tháng trời lênh đênh giữa đại dương, ghé thăm tất cả các đảo kể cả những đảo nửa nổi nửa chìm, ở thời điểm ấy ta chưa có điều kiện đóng quân. Có thể nói, đây là chuyến đi đặc biệt lý thú và bổ ích với bao điều cảm nhận mới mẻ, đầy ắp kỷ niệm với biển, đảo và con người ở Trường Sa mà nhiều năm sau này, mỗi người chúng tôi không thể nào quên. Xuất phát từ quân cảng Cam Ranh, suốt hơn ba mươi tiếng đồng hồ trên biển cả, có lúc gặp gió cấp sáu, cấp bảy, tất cả các thành viên trong đoàn đều say sóng nằm la liệt trong các phòng và cả trên tàu, chúng tôi đã cập đảo đầu tiên. Đó là đảo Song Tử Tây, đảo nằm ở phía cực Bắc của huyện đảo, cũng là đảo được giải phóng đầu tiên trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 14 tháng 4 năm 1975. Tàu vừa kéo còi, buông neo dừng ngoài thềm san hô, cách đảo khoảng bốn, năm trăm mét, chờ xuồng ở đảo ra đón, tất cả chúng tôi như chợt biến thành những con người khác. Cơn mệt mỏi vì say sóng vụt tan biến. Chúng tôi náo nức, ngạc nhiên, chờ giây phút được đặt chân lên đảo. Đảo thế này ư? Tôi như không tin vào mắt mình. Giữa đại dương mênh mông xanh biếc, nổi lên một cồn san hô có cát trắng bao quanh, có độ cao không hơn gì mặt boong tàu chúng tôi đang đứng nhưng có những vòm cây xanh của sự sống. Nhìn kỹ thấy có cả cổng chào, băng rôn khẩu hiệu, cờ bay phất phới và lính đảo đi lại. Hai chiếc xuống nhôm hối hả chèo từ đảo ra. Trên tàu cũng thả xuống hai chiếc xuồng cao su. Tiếng đại tá tham mưu trưởng vùng 4 hải quân cất lên lanh lảnh trên loa phóng thanh chỉ thị cho những đối tượng nào cần được ưu tiên lên đảo trước. Các nhà quay phim, nhiếp ảnh, văn nghệ sĩ được xếp ngay chuyến đầu cùng với những người có nhiệm vụ tiền trạm. Ngồi trên xuồng, nhìn xuống đáy biển, chúng tôi bật lên reo như trẻ nhỏ. Qua làn nước trong như pha lê, cả một thế giới thủy cung hiện ra rõ mồn một như trong một cuốn phim màu. Rừng san hô trúc điệp trùng, lả lướt. Những con cá to nhỏ khác nhau, đủ màu sắc lao đi vun vút. Những chú tôm, mực kềnh càng, Hải sâm trắng, hải sâm đen, hải sâm gai nằm la liệt như mê ngủ. Và những cụm san hô tím, vàng, xanh lơ như những bó hoa lạ rải rác… Còn cách bờ mấy chục mét, có mấy vạt san hô dâng cao, xuồng mắc cạn không đi tiếp được, chúng tôi ào xuống lội bộ. Nước còn sâu, biển lại cho sóng đuổi dồn theo như quyến luyến, khiến nhiều người luống cuống, ướt cả quần áo. Mặc, tiếng cười, tiếng xuýt xoa reo mừng, ngạc nhiên nổi lên tứ phía. Thanh Thanh, Ngọc Diệp, hai cô ca sĩ của đoàn suốt thời gian tàu ra khơi, nằm “cấm cung’ trong buồng dành riêng, hầu như không biết trời đất là gì, giờ trở nên vui nhộn nhất. Các cô như vừa phát hiện một kho báu.
Mặc dù còn mang hành lý kềnh càng vẫn hối hả lượm san hô, ốc màu - Ngọc Diệp còn lôi thêm một sinh vật biển kì dị, tròn vo như một quả bóng bơm căng với gai nhọn và cái đuôi vắt vẻo. Lính đảo ùa ra đón đoàn. Mũ sắt, quân phục mới tinh. Dưới nắng trưa chói chang, những nụ cười lớa nắng nở trên những gương mặt nâu đen xạm đang dãn ra vì niềm vui. Họ nồng nhiệt giành mang giúp chúng tôi hành lý về nơi nghỉ đã chờ sẵn. Dưới bóng những cây xanh, thân mềm mại, uốn khúc mà lát sau chúng tôi mới biết, đó là cây phong ba nổi tiếng, thường được nhắc tới trong những bài thơ, bài hát về Trường Sa, giờ đây thành những điểm gặp gỡ, hàn huyên sôi nổi. Những người thân gặp nhau, tay bắt, mặt mừng. Trừ đoàn cán bộ “dân sự” chúng tôi, hầu hết các sĩ quan của lữ đoàn, của vùng hải quân và của quân chủng đều ít nhiều đã ra đảo một đôi lần. Nhưng những người mới ra đảo lần đầu như chúng tôi cũng không hề cảm thấy xa lạ. “Thủ trưởng quê ở đâu ạ?” (Chúng tôi bất ngờ khi được cánh lính trẻ kêu là “thủ trưởng”). “A, Hải Hưng, Thái Bình, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên… đảo có cả đấy ạ!” “Chuyến này có mang phim ra không, thủ trưởng?” “Phim gì đấy, thủ trưởng?”,”A, Bài ca không quên, A Li Ba Ba và 40 tên cướp. Hết sẩy!”, “Hát đi các đồng chí nữ văn công ơi!” “Không xa đâu Trường Sa ơi… Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh… Vẫn gần bên anh vì…”. Đỗ Trí Dũng, nhạc sĩ của đài truyền hình tỉnh, người có dáng to mập như một lực sĩ, ôm đàn guitar cất tiếng hát đầu tiên. Quanh gốc cây phong ba anh đứng, phút chốc quây quần thành một buổi liên hoan văn nghệ dã chiến ngay dưới nắng trưa đang gay gắt.
Đêm biểu diễn và liên hoan văn nghệ với cán bộ, chiến sĩ đảo Song Tử Tây diễn ra thật đặc biệt. Sau biểu diễn của đoàn văn nghệ tỉnh còn chương trình chiếu phim nên ban đầu chúng tôi nghĩ phần văn nghệ chỉ khoảng trên dưới một tiếng đồng hồ là cùng. Đoàn có 10 người, 3 nhà văn, chỉ có một kiêm nhà thơ cùng với 7 người còn lại là ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên kịch câm mà đảm nhận một chương trình trên dười 60 phút đã là một cố gắng lớn. Nhưng buổi chiều, làm việc với lãnh đạo đảo, chúng tôi thực sự lo lắng khi nghe đảo trưởng tuyên bố dứt khoát: “Khai mạc 7 giờ tối. Các anh chị làm thế nào thì tùy, nhưng không thể kết thúc trước 10 giờ, sau đó mới chiếu phim. Phim có thể 6 tháng, một năm mới có một lần, nhưng văn công mấy năm mới có một lần. Lại là văn công của tỉnh lần đầu tiên mới ra biểu diễn ở đảo. Các đồng chí nghỉ trước mười giờ là lính không chịu về đâu!”. Chẳng biết cần diễn cho “tới số”. Trót cưỡi hổ, không còn cách nào khác, tôi họp đoàn giao trách nhiệm từng người phải phát huy tối đa “công suất” biểu diễn để phục vụ lính đảo vì cơ hội ra đây có thể chỉ có một lần trong đời mỗi người.
Sau đó, về phần mình, tôi phải tranh thủ thời gian, trốn vào hầm pháo hì hục làm được 3 bài thơ ghi lại những cảm xúc đầu tiên để tối có thể lên trình diễn. Và điều bất ngờ xảy ra. Trừ hai nhà văn không có tiết mục nào tham gia, đành phải loay hoay phục vụ “hậu cần”, 8 thành viên còn lại  đều có một buổi biểu diễn “xuất thần”, liên tục thay nhau làm chủ sân khấu, được lính hết đảo vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Hai nữ ca sĩ có tiết mục phải diễn đi, diễn lại 3 lần. Còn nghệ sĩ kịch câm Đặng Dũng đang biểu diễn thì trời đổ mưa, đường dây diện bị đứt nhưng Đặng Dũng vẫn không thể dừng giữa chừng vì thay thế cho ánh điện là hàng chục chiếc đèn pin lập tức bật sáng rọi lên sân khấu. Buổi biểu diễn kết thúc vào mười giờ mười lăm phút đêm, nhường chỗ cho buổi chiếu phim bắt đầu nhưng lính đảo còn vỗ tay kéo dài tỏ vẻ lưu luyến.
Trưa hôm sau, rời đảo Song Từ Tây để tiếp tục hành trình đến các đảo khác, buổi tiễn đưa ngắn ngủi theo tác phong quân sự nhưng đầy lưu luyến, cảm động. Mỗi chúng tôi đều thấy từ giờ phút này, Song Tử Tây, hòn đảo cực Bắc của Trường Sa đã trở nên thân thiết như một mảnh đất quê thương nhớ của mình. Những ngày tiếp theo con tàu đưa chúng tôi đến các đảo còn lại. Có đảo dừng lại hai ngày. Có đảo chỉ vài ba tiếng đồng hồ nhưng tất cả đều gây cho chúng tôi những ấn tượng đặc biệt, khó quên. Sơn Ca, Nam Yết, Đá Đông, Đá Tây, Phan Vinh, Thuyền Chài, Tiên Nữ, Trường Sa… Có đảo phẩn nổi lên mặt nước chỉ bằng một sân bóng. Có đảo như hình con sam, có cái đuôi là dải cát cứ xoay tròn quanh đảo theo gió mùa, đúng một năm cái đuôi xoay quanh đảo vừa tròn một vòng. Chúng tôi cũng đã gặp, trò chuyện với nhiều cán bộ chiến sĩ Trường Sa đến từ rất nhiều địa phương trong cả nước đã từng sống, chiến đấu bảo vệ vùng đảo tiền tiêu xa xôi nhất này của Tổ quốc từ một đến nhiều năm, mà theo cảm nhận của chúng tôi, chỉ cần sống và làm tốt nhiệm vụ ở Trường Sa ba năm đã có thể xứng đáng phong tặng danh hiệu anh hùng hoặc tặng thưởng huân chương.
Tôi muốn ghi lại đây những gì được thấy, được nghe ở đảo Trường Sa lớn đêm cuối cùng của chuyến đi trước khi chúng tôi rời huyện đảo để trở lại đất liền. Trong đêm, diễn ra buổi tổng diễn tập bảo vệ đảo. Nhưng theo nguyên tắc, chúng tôi không hề được dự báo trước.
Đúng hai giờ sáng. Vừa nghe tiếng súng lệnh, tôi bật dậy khỏi giường, chạy ra sân. Vừa lúc, một quả pháo hiệu vút lên, nổ bùng giữa không trung. Bầu trời đêm mênh mông bỗng giãn nở ra một vùng sáng lung linh. Những ngọn cây, mái lán trại trên đảo hiện ra bồng bềnh, nửa hư, nửa thực. Tiếng  khẩu lệnh bắt mục tiêu vang lên xa gần đâu đó. Bất thần, từng loạt đạn đỏ lừ, tiếp vút lên, đuổi theo nhau bám sát lấy mục tiêu lúc này là ngọn đèn dù đang lơ lửng trên cao. Những loạt đạn rất chụm, rất căng như vô số mũi tên lửa từ bốn góc đảo ghìm chặt lấy mục tiêu. “Bắn hay quá!” Tiếng ai đó thốt lên. Tôi quay nhìn. Tất cả số anh em trong đoàn chúng tôi lúc này đều đã có mặt trên sân bãi.
Trong ánh đèn dù, gương mặt ai cũng sáng lên, đầy vẻ tự hào được chứng kiến buổi diễn tập không được báo trước này. Những mũi lao lửa vẫn vun vút phong lên liên tiếp từ mặt đất. Phút chốc ngọn đèn dù đã bị bắn trúng, vụt tắt. Trong khoảng khắc bầu trời đêm của đảo trở lại yên tĩnh với những vì sao xa bất ngờ lại hiện ra lấp lánh, lấp lánh reo vui, chào mừng những tay súng tài giỏi bảo vệ đảo.
Tiếng sóng biển càng rộ lên ì ầm. Lát sau, tiếng khẩu lệnh lại vang lên. Buổi diễn tập tiếp tục với nhiều tình huống khác đặt ra với sự tham gia của nhiều loại vũ khí trong lúc anh em trong đoàn chúng tôi vừa hào hứng theo dõi, vừa thảo luận sôi nổi về truyền thống anh hùng và trình độ tác chiến hiện đại của bộ đội Trường Sa.
Ở vùng đảo xa xôi nhất của Tổ quốc, nơi được mệnh danh là “quần đảo bão tố” này, cán bộ, chiến sĩ của chúng ta không chỉ thường xuyên phải đương đầu với thiên nhiên khắc nghiệt, thay đổi thất thường mà còn luôn phải cảnh giác đối phó không biết mệt mỏi với đủ loại kẻ thù luôn dòm ngó, xâm phạm. Ngay sau buổi sáng ngày 14 tháng 4 năm 1975, ngày chúng ta giải phóng Song Tử Tây, đảo đầu tiên thuộc quần đảo Trường Sa thì chỉ mấy ngày sau đó đã có hai chiếc tàu lạ xuất hiện từ hướng Đông Bắc tiến về phía đảo. Thấy lá cờ đỏ sao vàng đã phất phới bay trên cột mốc chủ quyền và tín hiệu cảnh báo hành động xâm phạm lãnh thổ phát đi từ đảo, hai chiếc tàu lạ đã lẳng lặng rời sang hướng khác. Tham vọng của những kẻ tưởng có thể nhân lúc ta đang mải thừa thắng xông lên dồn địch tới những hang ổ cuối cùng để tiêu diệt trên đất liền, chúng có thể nhanh tay lật con bài “chuyện đã rồi” như đã xảy ra ở Hoàng Sa từ mấy năm trước đã hoàn toàn sụp đổ. Cánh quân nhận nhiệm vụ đi giải phóng Trường Sa gồm một lực lượng đặc công nước tinh nhuệ do trung tá Mai Năng, người cán bộ quân đội giàu kinh nghiệm, từng chỉ huy lập nhiều chiến công, đã tranh thủ thời cơ, nhanh chóng giải phóng liên tiếp giải phóng các đảo còn lại: Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn… và đúng 9 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, trước giải phóng Sài Gòn hơn một ngày, lực lượng quân giải phóng đã làm chủ hoàn toàn đảo Trường Sa, đảo cuối cùng, cũng là đảo mang tên chung của quần đảo.
Cũng từ ngày 29 tháng 4 lịch sử ấy, cùng cả nước, Trường Sa vào trang sử mới của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhưng những thế lực thù địch của chúng ta chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược, lấn chiếm của chúng, đặc biệt đối với Hoàng sa, Trường Sa, chúng luôn coi như những miếng mồi béo bở khi nhu cầu phát triển kinh tế biển của thế giới ngày càng trở nên nóng bỏng. Tàu chiến, tàu buôn, tàu giả dạng đánh cá, thuyền trôi dạt sau trận bão, máy bay vận tải, máy bay trinh sát, chiến đấu không mang cờ hiệu… chỉ tính riêng trong hơn năm năm đầu của thập kỷ tám mươi, trên vùng biển thuộc quần đảo đã có tới hơn hai nghìn lần/ chiếc tàu thuyền và trên không có hơn năm ngàn lần/ chiếc máy bay xâm nhập trái phép và có những hoạt động trinh sát hoặc khiêu khích, vây ép một đảo nhỏ suốt mười ba ngày đêm như để “nắn gân” cán bộ, chiến sĩ ta.
Lần khác, lợi dụng cơn bão lớn, chúng dùng xuồng nhỏ xâm nhập. Bộ đội Trường Sa với ý chí kiên cường luôn sẵn sàng cảnh giác, quyết tâm bảo vệ đảo và vùng biển quê hương, luôn sẵn sàng cảnh giác, phát hiện và xử lý linh hoạt, kịp thời theo đúng đối sách và luật pháp Việt Nam, quốc tế cho từng loại đối tượng, đã làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù.
Trong báo cáo thành tích 5 năm (1980-1985) của đoàn Trường sa chỉ ghi những dòng ngắn gọn:
“Đảo Sinh Tồn Đông, ngày 4 tháng 6 năm 1980, đã bắt sống 15 tên biệt kích nước ngoài, khi chúng giả dạng những người dân đi đánh cá bị lạc tàu.
… Đảo Trường Sa, ngày 5 tháng 12 năm 1983, bắt sống 15 tên biệt kích của Đ. Góp phần ghi vào sổ vàng truyền thống của quân đội ta thêm một loại tù binh mới”
Thường xuyên học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ và hiệu lực chiến đấu cùng với việc xây dựng vùng đảo ngày càng trở nên giàu đẹp, luôn là ý chí, quyết tâm của mỗi cán bộ, chiến sĩ Trường Sa, không kể là những cán bộ, chiến sĩ lâu năm hay những anh lính trẻ vừa từ đất liền ra đảo.
… Đêm ở Trường Sa ngắn hơn ở đất liền.
Buổi chiều, khi mặt trời lặn dần xuống biển, lính đảo Trường Sa đứng ở bãi cát rất đông nhìn về phía mặt trời lặn, nơi đó là đất liền Tổ quốc.
“Nơi đây, chúng tôi thích ngắm hoàng hôn hơn cả bình minh. Xin đừng nghĩ chúng tôi ưa ngược đời hay mang nỗi buồn hiu hắt.
Điều đơn giản vì phương mặt  trời lặn là đất liền Tổ quốc.
Chúng tôi gửi Niềm - tin - Mặt Trời về với mẹ thương yêu!”
Khi mặt trời đã tắt hẳn, dù đêm không có trăng, đảo thường như vẫn không có lúc nào tối sẫm mà luôn có thứ ánh sáng bàng bạc, có lẽ toả ra từ mặt biển và nền san hô trắng. Rồi khoảng bốn giờ sáng, đã thấy mặt biển phía đông rạng dần.
Trong suốt chuyến đi này, ban ngày chúng tôi không có thời gian để nghỉ ngơi đã đành, ban đêm cũng thường ngủ rất ít vì mỗi giờ phút ở Trường Sa đâu dễ có được trong đời mỗi người. Đêm nay, đêm cuối cùng ở Trường Sa, lại được chứng kiến cuộc tổng diễn tập trên đảo, thời gian còn lại đợi sáng để về lại đất liền, chúng tôi không một ai nỡ ngủ tiếp. Lính đảo cũng đã đến với lán của chúng tôi mỗi lúc một đông, quây quần trò chuyện, xin chữ ký. Lại đề nghị hát, đọc thơ. “Không còn bài hát mới thì hát lại”, “Bài gì cũng được, không nhất thiết cứ phải đề tài lính tráng!”, “Lính thì đề tài nào chẳng liên quan. Hà Nội mùa thu, Qua vùng Quan Họ, Người ở đừng về, Nghệ Tĩnh mình ơi… Bài nào bọn tôi cũng muốn nghe hết. Hát về tình yêu càng tuyệt cú mèo!”…
Không chỉ đơn ca, mà cả tốp ca, đồng ca. Vỗ tay nhộn nhịp từng đám. Và bao trùm lên tất cả là cảm giác nhộn nhịp, đông vui, ấm lòng của buổi quây quần đông vui giữa những người thân yêu trên mảnh đất quê nhà, quên hẳn đây là hòn đảo mênh mông giữa bốn bề sóng nước xa đất liền hàng trăm hải lý. “… Dù ngày mai về đâu - Cũng đừng quên  đảo nhỏ - Vẫn đứng đầu sóng gió - Giữa đại dương bao la… Có một vùng đảo xa - Nơi biển xanh bát ngát - Tên nghe như tiếng hát - Ôi Trường Sa! Trường Sa”
Đã sắp đến giờ phải chia tay. Qua ánh sáng nhạt nhòa như trong đêm trắng của đảo, tôi cố nhận biết và hình dung ra từng gương mặt cán bộ, chiến sĩ và ngoài kia, cột mốc chủ quyền sừng sững in hình lên nền trời đang rạng dần màu sáng hồng của bình minh ngày mới.
Nơi đây, những người con yêu quý đang ngày đêm canh giữ bầu trời, biển cả của Tổ quốc, các anh luôn là những người thay mặt cả nước chào đón ánh mặt trời đầu tiên của ngày mới, cả những buổi đẹp trời hay khi dông bão.
… Hai mươi ba năm đã trôi qua, kể từ những ngày đầu tiên đến Trường sa nhưng những hình ảnh và kỷ niệm về biển đảo và những con người nơi đây vẫn in đậm trong tôi, trở thành nỗi nhớ. Huyện đảo Trường Sa giờ đã có biết bao thay đổi, nhiều căn nhà mới khang trang được mọc lên, ngay cả ở những đảo nửa chìm nửa nổi cũng có “nhà cao tầng” đủ tiện nghi, cho một cuộc sống tương đối bình thường. Giờ đây Trường Sa không chỉ có lính mà đã có những gia đình người dân đầu tiên ra lập nghiệp. Những đảo trụi ngày nào, bây giờ với từng sọt đất từ dất liền gửi ra, màu xanh của cây trái từng ngày lan tỏa. Và tình yêu thương và niềm tin vào khả năng và ý chí sắt đá bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc của cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ nơi biên đảo phía mặt trời càng trở nên vững chắc hơn bao giờ hết.
Nha Trang, tháng 8 năm 2009
Nguyễn Gia Nùng
Nguồn: Có một Nha Trang thầm lặng. 
 Tập Ký của Nguyễn Gia Nùng. NXB VH 11-2010
Theo https://trieuxuan.info/





Sương xuân và hoa đào

Sương xuân và hoa đào
Tôi bao giờ cũng hình dung Tết gắn liền với đất Bắc, nơi đi trước mùa xuân phải có một mùa đông. Mùa đông ở nơi này mỗi năm mỗi khác, nó có thể lạnh nhiều hay lạnh ít, độ ẩm có thể cao hay thấp, nhưng nhất thiết không thể không có gió bấc và mưa phùn. Không khí se lạnh làm cho con người phải co ro một chút, rùng mình một chút, chính là sự chuẩn bị không thể nào thiếu được để cho ta bước vào một cái mốc thời gian mới đối với mỗi người mỗi nhà. Thành thử ở Sài Gòn trùng vào những dịp xuân sang tôi vẫn không thấy lòng mình rung động cảm giác về cái Tết ruột rà, cái Tết đích thực. Xin các bạn Sài Gòn tha lỗi cho tôi nếu trong những lời của tôi có gì làm các bạn phật ý, nhưng mãi tới nay, sau nhiều Tết Sài Gòn, tôi vẫn chưa quen được với một ngày đầu năm phải phơi đầu dưới cái nắng chói chang và trầm mình trong cái nóng hầm hập, làm cho con người phải tìm đến với trái dưa hấu mọng nước trước khi ngồi vào mâm cỗ Tết có đủ thịt mỡ và dưa hành, bánh chưng và giò thủ. Ở mỗi nhà vẫn nghi ngút trầm hương thật đấy, ngoài đường xác pháo toàn hồng vẫn tràn ngập lối đi thật đấy, nhưng cái Tết dường như vẫn còn lạc bước nẻo nào, nó chưa hẳn là Tết, chưa đủ là Tết. Đành phải viện hai câu thơ mà nhiều người vốn không yêu thơ cũng thuộc, để giải thích nỗi nhớ về đất Bắc, để biện hộ cho cái cảm xúc không phải đạo của mình trước đất Sài Gòn cũng đã trở thành không kém thân thương:
Tự thuở mang gươm đi mở cõi,
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
Huỳnh Văn Nghệ
Chuyện đó chẳng có gì lạ. Người Việt phương Nam nào mà chẳng có một cái quê còn nhớ hay đã quên, có biết hay không biết, nằm ở phía ngoài kia.
Người xông nhà chúng tôi rất sớm, khi còn tối đất, sáng mồng Một năm Đinh Tỵ (1977), là nhà văn Nguyễn Tuân.
Người xông nhà, theo sự mê tín từ xưa, là một nhân vật rất quan trọng đối với vận mệnh gia chủ. Tùy theo người xông nhà là ai, năm đó ngôi nhà sẽ có nhiều may mắn hoặc xui xẻo. Những người cẩn thận thường phải tính chuyện mời ai đến xông nhà mình từ lâu trước khi Tết đến. Người xông nhà nhất thiết phải là người đang làm ăn phát đạt, con cháu đầy đàn mà hòa thuận, hoặc một bậc lão niên tài cao đức trọng, chuyện này còn tùy thuộc ở kỳ vọng của gia chủ mong muốn điều gì.
Bác Nguyễn, nổi tiếng về tính kỳ quặc của mình, chắc hẳn chọn nhà tôi để đến xông đất đầu năm vì biết chắc chúng tôi không kiêng kỵ, nếu năm đó có chuyện gì không hay xảy đến cho chúng tôi thì ông cũng không bị trách. Kể ra được (hay bị) một nhà văn đến xông nhà thì, theo lệ thường, chẳng hay ho gì. Xét về danh giá, theo truyền thống hiếu học và trọng kẻ sĩ của đất Bắc, nhà văn hẳn là bậc đáng trọng rồi. Nhưng xét về mặt tài lộc thì bất kỳ nhà văn nào cũng nằm ở hạng bét trong thứ bậc giàu nghèo. Tất nhiên, không kể những quan chức bổng nhiều lộc lắm, lại rảnh việc, cũng rửng mỡ xông vào làng văn mà viết sách in thơ.
Bố tôi rất quý Nguyễn Tuân. Ông coi Nguyễn Tuân hơn là một người bạn thời thanh niên. Trong cái nhìn của ông, Nguyễn Tuân là một trong những đại diện cuối cùng cho lớp kẻ sĩ Bắc hà mỗi ngày một hiếm, những người cho tới lúc ấy còn biết coi tiền bạc như của phù vân, không cúi đầu vâng dạ trước quyền lực. Riêng đặc điểm sau Nguyễn Tuân phủ nhận. Ông luôn phô rằng mình biết sợ, hơn thế, chẳng những ông sợ vừa mà còn sợ lắm lắm. Cái sự phô ấy làm cho người ta lầm tưởng rằng ông không sợ.
Ông đến xông nhà chúng tôi trong chiếc áo choàng màu cứt ngựa. Bỏ nó ra, bên trong vẫn là bộ áo cánh đen thường nhật. Trời rét ngọt, ông mặc thêm áo len và quàng khăn, đội mũ bê-rê. Bộ áo cánh đen là cách diện của ông, của Nguyễn Tuân, bao giờ cũng phải khác người. Tôi mở cửa đón ông, hơi ngỡ ngàng một chút. Tôi không chờ đợi một người xông nhà không phải người trong gia tộc, những năm ấy người ngoài ít dám tới nhà chúng tôi lắm. Lại càng không chờ đợi Nguyễn Tuân với sự sợ hãi của ông. Nhưng không ai đi hỏi người đến xông nhà rằng tại sao ông đến. Với bất cứ người xông nhà nào ta chỉ có thể vồn vã chào đón và đem bánh pháo đầu tiên của ngày mồng Một ra đốt. Nguyễn Tuân đoán ra câu hỏi câm lặng của tôi. Ông ý nhị nói:
- Nói thực, mình đến đây sớm vì chẳng biết đi đâu. Mà lại rất thèm đi dạo một lúc trước khi bình minh ló rạng trong cái ngày đầu năm này. Lang thang mãi rồi mình thấy mình đến đây. Không sao chứ?
Bố tôi nghe léo xéo bước ra, tươi cười ôm lấy bạn dìu vào nhà. Ông sai tôi rót rượu, châm hỏa lò than để nướng mấy con mực. Bố tôi biết Nguyễn Tuân không ưa đồ ngọt, khay mứt trên bàn chắc chắn sẽ không được ông đụng đến. Ông ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, giơ đôi tay cóng sưởi trên hỏa lò. Lửa than làm vầng trán hói của ông bóng lên trong căn phòng nhỏ của bố tôi. Bố tôi thường tiếp bạn thân trong căn phòng ấy chứ không phải ngoài phòng khách. Hai người bạn già thân tình nhìn vào mắt nhau, chạm ly trong im lặng. Cả Nguyễn Tuân, cả bố tôi đều không thích những lời ồn ào.
- Ngon tuyệt - NguyễnTuân nhắp vài nhắp rượu trong vắt với vẻ thích thú rồi ngửa cổ cạn ly.
- Làng Vân chính hiệu đấy!
Bố tôi nói, nét hài lòng hiện lên mặt. Ông thích được chiều bạn và khi bạn vui, ông còn sướng hơn chính ông được vui.
- Tuyệt!
- Mình phải đặt loại đặc biệt cho cái Tết đoàn viên này.
Đúng vậy, đây là cái Tết đầu tiên gia đình tôi đủ mặt. Không thiếu ai. Những Tết trước gia đình tôi tan tác. Tôi ở trong tù. Cha tôi bị lưu đầy ở Nam Định.
- Hơn hẳn anh Trương Xá. Vào đến cổ họng là biết ngay! - Nguyễn Tuân xác nhận.
Phận con cháu, tôi được phép ngồi bên cạnh các cụ làm chân điếu đóm. Tôi thích nghe bác Nguyễn nói chuyện. Trong câu chuyện của ông bao giờ cũng có một cái gì mới, một cái gì ngồ ngộ, độc đáo mà không người nào khác có. Về đời sống cũng như trong văn chương, ông là người uyên bác.
Tính về họ hàng theo đàng mẹ, tôi phải gọi ông bằng bác. Nhưng ông rỉ tai tôi, một lần ở chỗ đông người: "Họ xa rồi, cùng cánh văn chương với nhau, gọi thế nó mất đi cái sự bình đẳng, gia trưởng lắm". Tuy miệng vâng dạ, tôi vẫn kính cẩn gọi bác xưng cháu với ông. Mẹ tôi là người nghiêm khắc trong chuyện xưng hô lắm.
Chuyện vãn một lát, lại chuyện làng văn làng họa, ai mới viết cái gì hay, bức hoạ cuối cùng của ai độc đáo, là đề tài yêu thích của ông, Nguyễn Tuân hỉ hả ra về. Ông nói ông còn phải đến chơi với Văn Cao ("bà Băng bà ấy kiêng. Mình phải đến muộn muộn một tý!"), đến Nguyễn Sáng ("Tết nhất mà nó có một mình, buồn muốn chết!")
Ra khỏi cổng, Nguyễn Tuân dừng lại hồi lâu trên hè, nhìn phố Hai Bà Trưng thưa thớt người đi lại vào sáng sớm tinh sương, ông nghiêng đầu nói khẽ với tôi:
- Anh có thấy Hà Nội buổi sáng mồng Một này thiếu cái gì không?
Tôi không cần động não để tìm câu trả lời. Câu hỏi được đặt ra chỉ là cái cớ cho câu trả lời đã có sẵn, chắc chắn là sẽ rất Nguyễn Tuân.
- Thiếu sương! - Nguyễn Tuân, mắt vẫn nhìn chung quanh, thở dài.- Anh không nhận ra cái sự thiếu ấy, tôi không trách. Anh còn quá trẻ. Ngày trước, sáng mồng Một bao giờ cũng có sương nhè nhẹ, không nhiều, một chút gọi là có, nhưng đích thực là sương. Nó bay là là, thoang thoảng, như có mà như không. Rét ngọt. Chỉ có trên các lá cây mới có sương hiển hiện, lâu lâu đọng thành giọt, rơi xuống mặt mình, có khi lọt cả vào cổ áo mình, rất là Tết. Đã mấy năm nay, vào ngày Tết mình cứ thấy thiếu thiếu cái gì đó mà không biết là cái gì. Bây giờ mới hiểu ra: đúng là thiếu nó, thiếu sương.
Tôi bàng hoàng trước nhận xét của ông. Tôi nhớ đến những năm xa xưa khi tôi còn rất nhỏ. Đúng là Hà Nội những ngày đầu năm ấy sương la đà trên mặt đường, lẩn khuất trong những bãi cỏ, bụi cây.
- Thưa bác, có lẽ tại Hà Nội đông dân thêm, nhiều nhà máy nhiều xe cộ, thành thử cái tiểu khí hậu địa phương thay đổi, nhiệt độ do đó mà cao hơn trước!
- Đốt anh đi! Các anh bây giờ, đụng đến cái gì cũng vội vã chỉ ra nguyên nhân rồi dài dòng giải thích, cứ như chung quanh mình toàn một lũ thất học vậy. Các anh làm văn kia mà - không nhìn tôi, ông nhăn mặt cằn nhằn - Tôi là tôi đang nói cái có, tôi nói cái hiện hữu, nói cái cảm xúc mà cái hiện hữu ấy gây ra. Còn cái chuyện đi tìm cội nguồn của hiện tượng là việc của người khác.
- Thế là mất đứt cái anh sương xuân bảng lảng. Tiếc quá đi mất! - Nguyễn Tuân lại thở dài. Ông buồn thật sự.
- Thiếu nó, Tết Việt Nam nghèo đi, mà không chỉ nghèo đi một chút đâu nhá, anh hiểu không? Đành vậy, sang năm phải tìm cách đón giao thừa ở ngoại thành, may chăng còn có thể gặp lại nó.
Rồi đột ngột ông quay sang chuyện khác:
- Này, năm nay giáp Tết mưa thuận gió hòa, hoa đẹp lắm. Sao mấy hôm rồi không thấy anh đi chợ hoa?
Đã thành cái lệ, năm nào bố tôi và Nguyễn Tuân cũng rủ nhau đi thưởng hoa ở Cống Chéo Hàng Lược. Có những buổi hai ông la đà từ trưa tới tối mịt mới về đến nhà.
- Thưa bác, mấy hôm rồi cháu lại mắc bận.
Tôi nói dối. Thực ra tôi không đi vì tôi không thích chợ hoa. Cái mẩu phố hẹp có tên là Cống Chéo Hàng Lược ngày thường đầy rác rưởi trong những ngày giáp Tết bỗng trở nên nhộn nhịp khác thường. Trên là trời, dưới là hoa. Và người đi xem hoa, mua hoa. Những cây quất trĩu quả vàng chen lẫn với các cành đào được cầm trên tay, các sọt đan đựng đủ mọi loại cúc, loại hồng, lay-ơn, thược dược... Ở đây ồn ào quá, nhiều trai thanh gái lịch quá. Nhiều gương mặt hãnh tiến quá. Tôi còn sợ nhìn cái cảnh chợ chiều ba mươi Tết, khi những người bán hoa co ro trong manh áo mỏng, cành đào trong tay, mặt ngơ ngác, lo âu chờ khách. Trong cái bầu không khí vui vẻ quá nhân tạo ấy, bông hoa nào, cành hoa nào, chậu hoa nào cũng có vẻ tội nghiệp bởi cái thân phận hàng hóa của chúng.
- Đào năm nay được mùa. Chợ nhan nhản những đào là đào, giá lại hạ, nhà nghèo nhất năm nay cũng có đào Tết. Thế mà đố có tìm ở Cống Chéo Hàng Lược được một cành nào như cành đào của bố anh. Tuyệt! Không chê vào đâu được. Năm nào cành đào của ông ấy cũng làm tôi mê man, cũng làm tôi sửng sốt: "Thằng cha giỏi thật, sao mà nó khéo chọn đào đến thế!" Thôi, tôi về. Còn phải đến mấy nhà nữa, mà mình thì thích cuốc bộ. Hôm nay tôi đến là để chúc mừng gia đình anh đoàn tụ. Mai có khi tôi còn đến đây nữa. Để ngắm cành đào của bố anh.
Ngày hôm sau ông lại đến thật. Và đúng là chỉ để ngắm có một cành đào mà thôi.
Bố tôi không phải là nghệ sĩ. Ông, nói của đáng tội, đã từng là nhà báo. Mặc dầu cũng động tới chữ nghĩa, nhưng nhà báo vẫn có cái gì nó khác với nhà văn (tất nhiên không kể những người có hai nghề nhập một). Nhà báo không có tính lập dị thường gặp ở các nhà văn và các văn nghệ sĩ, hay là tính cách kỳ quặc nào đó ở họ mà người đời quy cho là lập dị. Có điều, như một người thuộc lớp nho sĩ cuối cùng còn rớt lại, mặc dầu có Tây học, ông thích cuộc sống thanh đạm và rất yêu hoa. Trong nhà tôi, kể cả những lúc khó khăn nhất, bao giờ cũng có hoa. Trước khi ông đi tù ở nhà tôi là một vườn phong lan đủ loại, nổi tiếng trong những vườn phong lan ở Hà Nội.
Tết nào ông cũng cầu kỳ chơi hai thứ hoa: thuỷ tiên và và đào.
Thủy tiên là thứ hoa không bình dân. Nó không thèm nở nếu chẳng may rơi vào tay người không biết thưởng thức. Để cho thủy tiên nở, phải biết nghệ thuật trổ thủy tiên. Con dao dùng để trổ thủy tiên không phải là con dao bài bất kỳ, mà là một con dao dùng riêng cho nó. Bố tôi mua củ thủy tiên về, giá rất đắt, hình như là phải nhập khẩu chứ nước ta thời ấy chưa có cơ sở gây trồng. Thuỷ tiên có bề ngoài giống một củ hành tây lớn, rất tầm thường, chẳng hứa hẹn một hương sắc nào. Chuẩn bị cho việc gọt thủy tiên, bố tôi hì hục mài dao cho tới khi nó bén đến mức đặt sợi tóc lên lưỡi dao mà thổi phù một cái thì sợi tóc lập tức bị đứt đôi, và đầu nhọn của nó thì chỉ vô ý chạm ngón tay vào là máu ứa ra liền. Rồi ông còn phải ngắm nghía hồi lâu cái củ hành nọ, cho tới khi quyết định đặt nhát cắt đầu tiên lên mình nó. Những nhát cắt, nhát trổ chính xác được ông cân nhắc từng tý, cho tới khi hài lòng đặt nó vào cái bát thủy tinh, cũng lại thứ dành riêng cho nó.
Mẹ tôi chăm chú theo dõi bàn tay khéo léo của bố tôi xoay quanh củ thủy tiên. Bà cũng là người khéo tay, nhưng khéo tay ở những việc khác, chứ trổ thủy tiên thì bà chịu. Những Tết bố tôi vắng nhà, trên bàn thờ ông bà ông vải chỉ có hoa huệ, thủy tiên thì hoàn toàn vắng bóng. Hoa thủy tiên bắt đầu trổ những cánh xanh mập mạp cũng chẳng khác lá hành là mấy, nhưng chúng nhỏ nhắn, ngắn và không vươn quá thành bát đựng. Người gọt khéo có thể chỉ định đúng ngày hoa nở, khéo hơn nữa có thể đúng đến cả giờ.
Thủy tiên do bố tôi gọt bao giờ cũng nở hết số hoa nó chứa trong mình vào đúng giao thừa, chính xác vào cái giờ khắc thiêng liêng nhất của sự giao hòa giữa người thuộc cõi âm và người thuộc cõi dương, giữa tổ tiên và con cháu. Bố tôi đứng lặng trước ban thờ ông bà, đầu hơi cúi. Mẹ tôi đứng sau ông thì thầm khấn vái. Hương trầm ngát trong nhà. Rồi pháo của một nhà nào đó nổ vang, kéo theo sau nó cả một đợt sóng triều tiếng pháo râm ran.
Tôi không bao giờ thấy được hương thủy tiên vào lúc thủy tiên nở hết hoa của nó trong hương trầm và khói pháo. Sáng sớm mồng Một, rất sớm, khi trời đất đã lặng đi mọi tiếng động của sự đón Xuân, lúc ấy mới thấy được hương thủy tiên thoang thoảng. Đó là một hương thầm ẩn náu, thoang thoảng mà kiêu sa. Nó không để lại trong tôi một ấn tượng rõ rệt nào. Tôi cũng không cảm nhận được cái đẹp của hoa thủy tiên. Mà cũng có thể đó là do ảnh hưởng câu chuyện chàng Narkisoss trong thần thoại Hy Lạp mải mê ngắm sắc đẹp của chính mình trong nước suối, mải mê đến nỗi ngã xuống mà chết đuối, trở thành loài hoa nọ. Tôi không thích những người say mê chính mình.
Sau khi bố tôi qua đời, chẳng bao giờ trong nhà tôi còn có hoa thủy tiên nữa. Nhưng hoa đào thì không bao giờ vắng bóng trong những ngày Tết gia đình, với cách thưởng thức truyền thống mà những thế hệ đi trước để lại.
Trước Tết một tháng, bố tôi, thường có tôi đi theo, đạp xe lên vùng Quảng Bá, Nhật Tân, Nghi Tàm, nơi có những nhà trồng hoa cha truyền con nối. Cùng với một chủ vườn nào đó đã trở thành người quen, bố tôi đi thăm vườn và xem xét kỹ từng gốc đào để rồi cuối cùng chọn lấy một cành thấp, ưng ý nhất. Tiền đặt mua cành đào được trao ngay cho chủ vườn. Giá thường rất rẻ, lúc ấy chưa có ai mua đào. Ông chủ vườn rút con dao nhíp trong túi ra, đánh dấu cành đào dành cho bố tôi. Chắc chắn nó sẽ không bị bán vào tay ai khác. Bố con tôi hài lòng ra về. Tôi biết, trong óc bố tôi đã hiện lên cành đào trong tương lai sẽ được đặt ở đâu, trong cái bình nào ở nhà mình trong ngày Tết.
Khoảng hai bảy, hai tám tháng Chạp, bố tôi mới lên vườn nhận cành đào về. Ông chủ vườn trao cành đào cho bố tôi với vẻ tiếc rẻ, không ngớt lời khen bố tôi có con mắt tinh đời. Nhưng đó là cách đánh giá của hai người biết chơi hoa với nhau. Người thường sẽ không mua cành đào này. Nó xù xì ở phần gốc, có mấy cành đua dài và gân guốc, trên đó chỉ thấp thoáng một số nụ.
Sau đó là phần sửa soạn cho cái đẹp của cành đào. Bố tôi còn ngắm nó chán chê rồi mới lấy dao cắt bỏ một số cành con, đem thui phần gốc, rồi trịnh trọng đặt cành đào vào trong lọ độc bình. Đó là một cái lọ lớn, thường là lọ sành, nhưng phải thấp, miệng rộng, rất bình dị, đến nỗi khi cành đào đã ngự trong đó thì không còn nhìn thấy cái lọ đâu nữa. Cành đào được đặt trong góc nhà. Những cành đua của nó hướng về phía cửa, khách vào có thể nhìn thấy những cánh tay của nó vươn ra chào đón.
Cũng như thủy tiên, cành đào sẽ nở rộ vào đêm trừ tịch.
- Chơi hoa là cách con người tìm niềm vui, tìm tâm trạng thư thái trong mối giao hòa với thiên nhiên - bố tôi tâm sự trước cành đào
- Người ta chỉ có thể đón thiên nhiên vào nhà mình, chứ không thể mua thiên nhiên đem về hoặc tệ hơn, áp giải nó về với mình. Vì vậy mà cái bình phải khiêm tốn để tôn vẻ đẹp của cành đào, của mùa xuân. Cành đào đẹp trước hết là ở cái dáng, cái thế của nó: phần gốc xù xì cho ta cảm giác về sự vững bền của nền tảng, những cành đua không nên nhiều quá để tạo ra cảm xúc thanh thoáng, khoáng đạt.
Bố tôi không thích đào rực rỡ quá, khoe khoang quá, hợm hĩnh quá.
- Đào như thế này đẹp hơn nhiều, cánh của nó chỉ phơn phớt một màu hồng nhạt, vừa có duyên, vừa thầm kín. - bố tôi dạy - Người Nhật thích màu hồng của hoa sakura - anh đào, có dễ cũng vì lẽ đó. Tín đồ của Thần đạo không chịu nổi những hương sắc quá thế tục. Thêm nữa: trên cành đào Tết không nên có quá nhiều hoa. Lá xanh bên cạnh hoa làm tăng vẻ đẹp của hoa lên. Tất nhiên, mỗi người một ý, nhưng ông nội con và bố đều không ưa những cành đào đầy ắp hoa, cành nào cành ấy đều đặn, trông xa như một cái nơm. Đã thế có người lại còn cắm cái nơm đào ấy vào cái lọ độc bình cổ cao, bằng sứ, với đủ mọi hình vẽ cầu kỳ sặc sỡ, rồi đặt nó ngất nghểu trên bàn thờ ông vải nữa chứ. Không, chỗ của đào không phải ở đó. Bố thích đặt nó ở đây dưới đất, ngang tầm với mình.
Tôi kể cho Nguyễn Tuân nghe cách bố tôi nhìn vẻ đẹp của cành đào. Ông tủm tỉm cười:
- Về đại thể, bố anh đúng. Nhưng ông ấy cũng có mắc một chút bệnh giải thích. Cái đẹp, theo tôi, là cái không giải thích được. Chỉ có thể cảm nhận được nó mà thôi. Bố anh cũng chẳng giải thích nổi tại sao ông đã cắt đi một cành con này mà không phải một cành con khác, tại sao ông giữ cành đua này mà lại bỏ cành đua kia, cái cành được để lại ấy gợi nên trong lòng ông cảm xúc gì. Còn về phần màu xanh của lá trên cành đào thì ông ấy đúng hoàn toàn. Hay gì một cành đào chi chít hoa? Nó làm ta phát ngán. Mùa xuân thì phải có màu xanh của lá, của sự đâm chồi nảy lộc, mới là xuân!.
Bây giờ, cả bác Nguyễn Tuân, cả bố tôi, đều đã khuất núi.
Chỉ còn lại cái đẹp của hoa xuân mà hai ông tâm đắc ở trong tôi. Và nỗi bùi ngùi mỗi lần xuân đến.
24/12/2002 
Vũ Thư Hiên
Theo https://trieuxuan.info/



  Thơ Trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI – Những tìm tòi và thử nghiệm Đặt vấn đề thơ Trẻ trong 20 năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn nhắc đến đội n...