Thứ Ba, 31 tháng 5, 2022

XXXXXThơ tình bên sông của Hoài Quang: Nỗi đau xé lòng

Thơ tình bên sông của
Hoài Quang: Nỗi đau xé lòng

Hồ Quang - bạn TRUNG HỌC BÌNH TUY - đã thành người thiên cổ. Sinh thời, vào lúc cuối đời, Quang sống lang thang, cơ cực. Anh gửi tâm trạng u uất vào sáng tác thơ văn và gửi đăng trên tạp chí Văn Nghệ Bình Thuận, báo Bình Thuận với bút danh Hoài Quang. Nhân mùa Phục Sinh, La Thụy đăng lại bài mình viết về tập THƠ TÌNH BÊN SÔNG của Hoài Quang, như thắp lên nén nhang lòng tưởng niệm người bạn giang hồ hiện giờ chắc đang lãng du vào vùng trời miên viễn. 
“Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang vĩ
                     Tương tư bất tương kiến
                     Đồng ẩm Tương giang thủy”   
 
Những câu thơ cổ chợt hiện về trong tôi – như tiếng thở dài não nuột của đôi lứa yêu nhau da diết, mà đành cách trở đôi dòng, người đầu sông kẻ cuối bãi, ngậm ngùi trông nhau luyến nhớ - khi đọc THƠ TÌNH BÊN SÔNG của Hoài Quang. 
Người xưa, dù vời vợi ngàn trùng cách biệt vẫn được diễm phúc “đôi bên” cùng đẫm lệ, hướng mặt gởi tấm lòng son sắt về nhau. Người nay, bi thiết hơn, con sông Dinh, đôi bờ hẹp nhỏ, cách nhau chỉ một chuyến đò ngang, chỉ bằng nửa tầm tay với,  thế mà “riêng ai” lại quặn lòng, đau đáu dõi trông. Ôi !“Cái gần gụi tấc gang ấy là cái gần gụi muôn đời không hội điểm của hai con đường sắt”(Mai Thảo). Biết làm sao, khi: 
Ta đi em ở lỡ làng
Mới hay khuya đã sang ngang cùng đò 
Vâng, Hoài Quang đã ra đi nhưng vẫn luyến lưu khung trời cũ, nơi từng in đậm dấu mười năm ân ái mặn nồng, vẫn gởi hồn mình từng đêm theo chuyến đò khuya trở lại bên kia sông, thế nhưng: 
Em đã hiểu hay vô tình chối bỏ
Chút thủy chung đánh mất giữa môi hường
Bên kia sông, người xưa, (ôi! Em đã trở thành người xưa rồi) đã phũ phàng buông trôi tình chăn gối, nghĩa vợ chồng, để hằn lại trong Hoài Quang niềm đau rớm máu, và tiếng thơ xé lòng như thê thiết ngân vọng lên: 
Tình như xát muối vào tim
Hỡi em thánh thiện nỡ chìm đam mê 
Hoặc: 
Buồn như đeo đá vào hồn
Buồn theo ta mãi - bồn chồn không yên  

Cơn đau quằn quại, cơn đau buốt nhói, đeo đẳng mãi trong tim người lỡ phận, như dàn trải suốt tập thơ THƠ TÌNH BÊN SÔNG, nỗi đau tuôn trào ra cả ngoại vật: "TIẾNG CHIM" như cô liêu ai oán, "TRĂNG LẺ" đầy bàng bạc đơn côi, "CHIỀU SAY" vàng vọt u sầu, "BIỂN"… thì thầm gợi sâu niềm nhớ. Và, "KHUYA" với câu kinh tiếng kệ không còn thanh thoát, làm lắng dịu tấc lòng, trái lại từng hồi chuông mõ như khua động cuộc tình đau
 
       Thôi, quên đi, quên đi… Hình bóng ai xưa hãy mau mau nhạt nhòa theo khói thuốc, mau mau mờ biến theo men cay, cho ta mơ lại một thời vang bóng. Men say thấm đẫm, xô vào câu chữ mông lung làm vần điệu nghiêng ngã lệch xiêu, hồn đang thả bước đi hoang nên vần gieo lạc tiếng:
 
Ngông nghênh một chén rượu tràn
                 Nâng thời gian cũ lên thành chiêm bao
                 Mộng Trạng nguyên, áo hoàng hoa
                 Thành xưa dáng cũ nhạt nhòa chân mây
 
       Nhưng, “dục phá sầu thành tu dụng tửu, túy tự túy đảo  sầu  tự sầu”.  Bừng giấc mơ, vị đắng còn sót lại trên môi, nỗi sầu càng chất ngất vút tỏa trời mây, Hoài Quang lại rong ruổi với mối tình đau:
 
Tỉnh ra hồn chất ngất đầy
                 Sầu đong mấy lượt dạn dày tháng năm
                 Thôi về em – cõi xa xăm
                 Câu thơ yên ngựa biệt tăm kiếp người
 
       Rượu chưa đủ lượng nồng để ru tình sầu vào sương khói lãng quên, nên Hoài Quang phải lấp đầy khoảng trống mông lung hình bóng ai xưa, bằng mắt biếc môi hường của người kỹ nữ thoáng gặp trên đường rong ruổi:
 
Em như quán một giờ khuya
                  Đón ta đón cả ngoài kia con đường
 
       Hỡi ôi! Đời là bể khổ trầm luân! Thương ta chưa xiết kể, lại phải ngậm ngùi cho em – cánh hoa tàn mấy lượt thanh lâu:
 
                  Tàn hoa mấy lượt gió sương
                  Về đâu em hỡi ca nương bạc đầu
                  Phấn son bia bọt nát ngầu
                  Màu thời gian đọng trên màu mắt xanh
 
       Ai đó cho rằng, Hoài Quang chỉ biết thương vay khóc mướn, chỉ đắm chìm trong rên xiết một cách ủy mị, yếu hèn. Không !“Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”! Thương em, chính là thương ta, cùng thương cho những mảnh hồn rách nát tả tơi. Xưa, Chu Mạnh Trinh đã từng rưng rưng: “Ai dư nước mắt mà khóc người đời xưa, thế mà giống đa tình luống những sầu chung, giọt lệ Tầm Dương chan chứa. Lòng cảm cựu ai xui thương mến, nghe câu ngọc thụ não nùng. Cho hay danh sĩ, giai nhân, cùng kiếp hoa nghiêm nặng nợ, ngán nỗi non xanh đất đỏ để riêng ai lưu lạc đau lòng. Ta cũng nòi tình thương người đồng điệu, cái kiếp ‘không hoa’ lẩm cẩm, con hồn xuân mộng vẩn vơ...” (Tổng vịnh truyện Kiều - Đoàn Quỳ dịch) 
Tiếng nấc nghẹn từ con tim u uất của Hoài Quang bi thiết lắm. Niềm đau của người anh em làm  não lòng chúng ta. Nỗi đau riêng của từng kiếp người cũng là nỗi đau chung của nhân thế, rất đáng nâng niu trân trọng, rất đáng sớt chia và cảm thông:
“Xin dâng này máu đang tươi
Này đây tiếng khóc giọng cười chen nhau”
(Hàn Mặc Tử) 
Ai nỡ quay lưng, lạnh lùng nhìn chén máu tươi đang nhỏ giọt từ trái tim đau khổ, ai nỡ cứng lòng với tiếng khóc ai oán, với tiếng cười thê thiết đầy nỗi đau trần thế của ngươi anh em. Huống hồ sau những lần vùi mình trong hoan lạc rã rời, sau những khi mê mải theo sòng đời đen đỏ, tìm cách chôn đi niềm đau chất ngất: Hoài Quang cảm thấy sám hối ăn năn. Con chiên lạc muốn trở về bầy đàn, muốn được tắm mát trong suối nguồn ân sủng của trời xanh:
Đức tin này đã bao lần sỏi đá
Trời thì xanh và mây trắng phiêu bồng
Cớ sao con lại chìm trong bóng tối
Lời yêu thương đã thành kinh sám hối
Tiếng chuông chiều đã thức hồn lơi
Tình yêu Chúa - ôi con tim vời vợi
Xin cho con một ngày
Biết sống, một ngày ăn năn 
Hy vọng rằng, Hoài Quang không còn để“sầu thành” phong tỏa bưng bít đường về, trái lại sẽ thoát ra khỏi vỏ ốc cô đơn khép kín, để Hoài Quang hòa thân mặn mà cùng sóng nước đại dương đầy ân tình, theo tiếng thì thầm của Ngôi Lời khẽ gọi, theo như lời cầu nguyện của chính Hoài Quang: 
Đêm nay con chắp tay cầu
Xin nguồn cứu độ - dạt dào yêu thương
Cho con một chuyến hồi hương
Tìm về Tổ Ấm náu nương Vĩnh Hằng
Mùa chay sám hối tâm tình
Chết đi mới được Phục Sinh với Người
Chúa ơi! Con hối lỗi rồi
Con hoang xin được thốt lời ăn năn 
Đúng thế Hoài Quang ạ! Nỗi đau không làm mình xơ cứng đâu, trái lại cõi lòng mềm nhũn ra, dễ cảm thông và đồng điệu với niềm đau của tha nhân, dễ mở lòng ra giao hòa với đất trời. Nói như Đức tin tôn giáo của Quang: Có chết đi mới mong được ân phúc Phục Sinh trong ánh sáng nhân ái của Đấng Thánh Thiêng. Có phải dụ ngôn trong Kinh Thánh nêu lên ý: Hạt giống có thối mục đi, mới nảy mầm được, cây cỏ hoa trái mới sinh sôi nảy nở không nhỉ?. 
8/3/2022
La Thụy
Theo https://www.vanchuongviet.org/

XXXXXCảm nhận về vài địa danh ở vùng đất La Gi (Bình Thuận) khi đọc tập sưu khảo "La Gi đất xưa…" của Phan Chính

Cảm nhận về vài địa danh ở vùng đất
La Gi (Bình Thuận) khi đọc tập sưu khảo
"La Gi đất xưa…" của Phan Chính

Nhận tập sách “Lagi Đất Xưa - Diện Hải Bối Lâm” do anh Phan Chính tặng, tôi thật vui khi có món quà quý giá này. Nếu nơi chôn nhau cắt rốn chính là quê hương, thì La Gi là quê hương yêu dấu của vợ và các con của tôi. Riêng với tôi, La Gi là quê hương thứ hai, hơn nửa đời tôi đã dạy học, sinh sống và nghỉ hưu tại đây.  Đọc tập sưu khảo địa danh “La Gi Đất Xưa – Diện Hải Bối Lâm”, chúng tôi biết rõ thêm và yêu hơn mảnh đất quê hương La Gi thân thương này.
Tập sưu khảo “La Gi Đất Xưa – Diện Hải Bối Lâm” gồm 28 bài viết mà anh Phan Chính đã tập hợp từ các bài viết đã đăng rải rác trên các tạp chí Xưa – Nay (của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam), báo Bình Thuận, Tạp chí Văn Nghệ tỉnh Bình Thuận. Tập sưu khảo này là tư liệu quý giá góp phần vào yêu cầu nghiên cứu địa phương.
 
Cuốn sưu khảo “La Gi Đất Xưa – Diện Hải Bối Lâm” đã cho ta biết lai lịch của một vùng đất tụ nghĩa, địa hình thiên nhiên, khí hậu, thủy văn, tài nguyên thiên nhiên và địa bàn hành chính từ lúc sơ khai đến nay. Đọc tập sưu khảo chúng ta tìm về cội nguồn: dấu xưa trên ngảnh Tam Tân, lý lộ và dịch trạm ngày xưa. Đọc tập sưu khảo này chúng ta hiểu thêm về đặc trưng tính cách con người La Gi, chúng ta càng thích thú khi thưởng ngoạn các di tích thắng cảnh như Đập Đá Dựng, Hòn Bà, hải đăng Kê Gà, núi Tà Cú, di tích Dốc Ông Bằng, các hoạt động văn hóa giáo dục như trường lớp ngày xưa, báo chí tỉnh lẻ trước năm 1975, chuyện xưa mùa lễ hội…
Tập sưu khảo mang tựa đề “La Gi Đất Xưa – Diện Hải Bối Lâm”, – Diện Hải Bối Lâm là cụm từ được anh Phan Chính trích từ câu đối của các cựu quan thời Nguyễn để lại, qua lời truyền khẩu của các bậc cao niên địa phương:
 
“La Di bình nguyên chi địa, diện hải bối lâm, sa bà thế giới, nông trang khả đạt
Hàm Tân lập xã chi sơ, tiền Đinh hậu Nguyễn, thảo muội kinh doanh, công nghiệp dĩ thành”.
 
Dịch ý:
 
La Di đất đồng bằng, mặt giáp biển, lưng tựa rừng, thế giới sa bà, nghề nông có thể được
Làng Hàm Tân buổi ban sơ, trước họ Đinh sau họ Nguyễn, khai khẩn lúc còn hoang vu, sự nghiệp thành công.
 
Để ấn hành tập sưu khảo “La Gi Đất Xưa – Diện Hải Bối Lâm”, chắc hẳn anh Phan Chính đã dày công sưu tầm tài liệu, tham khảo qua nhiều nguồn, như tìm đọc các văn bản xưa nay, xem các câu đối, nghe văn chương truyền khẩu, truyền thuyết, và đi thực tế tìm gặp các bậc cao niên thức giả gốc người địa phương để trò chuyện, để tích lũy kiến văn. Đọc, chọn lọc và dành nhiều tâm huyết để viết, anh Phan Chính đã cho ra mắt tập sưu khảo. Tập sưu khảo “La Gi Đất Xưa – Diện Hải Bối Lâm” thật cần thiết, không những cho riêng người dân La Gi, mà còn góp phần cho kho tư liệu địa phương tỉnh Bình Thuận và cho giới học thuật nước ta khi biên khảo, tìm hiểu về La Gi.
(Chẳng hạn: Ông Nguyễn Khôi, 79 tuổi, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, chuyên viên cao cấp, nguyên Phó Vụ Trưởng Văn phòng Quốc hội Việt Nam (1990-2000), ủy viên BCH Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (khóa 2), sau khi ông Nguyễn Khôi đọc bài “Âm và ngữ nghĩa về địa danh La Gi” (bài thứ hai trong tập sưu khảo) do tôi gõ phím post lên facebook chia sẻ với bạn bè, ông Nguyễn Khôi đã gởi email nhờ tôi liên hệ với anh Phan Chính để hỏi xem có một quyển để đọc và tham khảo, dù chỉ là quyển sáchphotocopy).
Đọc tập sưu khảo “La Gi Đất Xưa – Diện Hải Bối Lâm”, tôi thật tâm đắc với kiến giải của anh Phan Chính:
La Gi là một địa danh khá lạ từ cách viết, cách đọc. Trong Đại Nam Nhất Thống chí do Quốc sử quán nhà Nguyễn soạn xong năm 1882, và trước đó trong châu bản “Doanh điền biểu văn” của Nguyễn Thông năm 1877, đã từng đề cập đến địa danh La Di, ghi theo biểu tra chữ Hán thì chữ La nghĩa là lưới, Di là nước nhỏ. ChữDitrong chữ Hán này viết theo chữ quốc ngữ hiện hành là Di (Dê I di)… Từ La Di cũng không thể là từ Hán Việt hoá, nếu liên hệ các địa danh trong tỉnh như La Gàn, La Dạ, La Giang, La Ngâu, La Ngà… và ở tỉnh Ninh Thuận, ngày xưa cũng có con sông La Gi tức Sông Pha (Krông Pha) thì nghĩ đến những địa danh này có nguồn gốc của dân tộc miền núi hoặc… Với nhiều căn cứ có thể xác định các địa danh trên đất Bình Thuận hầu như chịu ảnh hưởng từ địa danh Chăm (Địa bạ-Nguyễn Đình Đầu)
Trong bản đồ hành chính thời Pháp thuộc, tỉnh Bình Thuận trích trong “Annuaire général de L’Indochine 1910” và các văn bản hành chánh của Tòa công sứ Bình Thuận đều viết “Ladi” thành “Lagi” tồn tại đến bây giờ ”. Trong quá trình cộng hưởng ngôn ngữ với người dân bản địa đã được Việt hóa trở thành ngữ âm địa phương, rồi ghi chép lên bản đồ hoặc có phần do người dịch để phục vụ cho yêu cầu hành chánh đã làm sai lệch nguyên ngữ… Đây là trường hợp thuộc qui luật biến đổi qua nhiều hình thức ngữ âm, từ một tên gọi địa phương rồi được chuyển hoá thành địa danh hành chánh... Có thể coi địa danh La Di với La (ngữ âm người Chăm) với thành tố của Di (chữ Hán), về mặt ngữ âm La kết hợp với ngữ nghĩa Di tưởng chừng vô lý nhưng thực tế có nhiều địa danh đã hình thành từ trường hợp đó. Do đó rất dễ nhầm lẫn nếu chỉ căn cứ hình thức ngữ âm và chính tả hiện tại để diễn giải, suy luận. Trong đó, địa danh La Gi không nằm trong nguyên tắc phân loại thông thường, cũng không theo tiêu chí tự nhiên.(tr. 16 – 22).
 
Từ chữ viết “La Gi” đã dẫn đến cách phát âm có khác nhau. Với dân bản xứ hoặc đã sống lâu năm ở đây đã quen đọc La Gi là "la di" hoặc /la zi/. Nhưng, với người ở xa đến, kể cả phát thanh viên các đài Phát thanh- truyền hình trung ương đọc địa danh La Gi là “la-ghi”…
 
“La Gi Đất Xưa – Diện Hải Bối Lâm”, là tập sưu khảo, địa danh, vì vậy tôi xin mạn phép được bàn qua địa danh La Gi. Theo thiển ý của riêng tôi, Tiếng Việt hiện hành đang sử dụng mẫu tự La tinh để ghi. ÂmG nếu đứng trước các nguyên âm A, Ă, Â, O, Ô, Ơ, U, Ư đọc là “gờ”, các cô giáo lớp 1 khi dạy cho học sinh thì hướng dẫn là “Gờ đơn” để phân biệt với “Gờ kép” được viết bằng 2 con chữ GH (GHI đọc là "ghi"). Nếu âm G trước nguyên âm I thì Gi đọc là /Zi/ như gió, giếng, giun, giẻ, già… Như vậy, La Gi đọc là /la zi/. Nếu thêm dấu huyền vào hai tiếng LA GI thành LÀ GÌ  (đánh vần la huyền là, gì huyền gì) LÀ GÌ đọc "là gì" có ai đọc "là ghì" đâu !
 
"Về chữ viết từ La Di thành Lagi có từ khi Pháp đô hộ cầm quyền, căn cứ vào ngữ âm, chữ Hán Nôm ghi trên bản đồ triều Nguyễn và được phiên âm để dùng làm địa danh hành chánh." (Phan Chính)
 
Người Pháp đọc chữ D thành Đ (đê), nếu ghi thành LA DI theo mẫu tự La Tinh, thì người Pháp sẽ đọc là "la đi"
Vì vậy, người Pháp đã căn cứ theo âm Hán Việt LA DI để viết thành Lagi  đọc theo tiếng Pháp, cho gần sát với âm bản ngữ địa phương /la zi/ hoặc /laji/. Trong tiếng Việt, Chữ G nếu đứng trước các nguyên âm E, Ê, I  mà đọc là “gờ” thì phải được viết bằng 2 con chữ GH mà các giáo viên dạy hs lớp 1 gọi là “Gờ kép”. Tiếng Pháp cũng được ghi bằng mẫu tự La Tinh. Tương tự như cách ghi âm tiếng Việt, chữ G nếu đứng trước các nguyên âm A, O, U đọc là “gờ”, nhưng chữ G đứng trước các nguyên âm E, Ithì  GE đọc là /je/ /jơ/,  GI đọc là /ji/ nghe gần giống /ze/, /zơ/, /zi/, chẳng hạn: áo gilet đọc là /ji lê/;gène/jen/, nhưng khi đọc là “gờ” thì trong tiếng Pháp, chữ G ghép với chữ U, tương tự như trong Việt chữ G ghép với chữ H chẳng hạn: Guillaume Apollinaire đọc là "ghi zôm", la guerre (chiến tranh)  "la ghe"
Xin nói thêm, về việc người Pháp ghi trên bản đồ hành chính thời Pháp thuộc cho gần sát với âm bản ngữ địa phương. Địa danh Kê Gà họ ghi là Kéga. Chữ é người Pháp đọc là ê, nhưng nhiều người kể cả phát thanh viên các đài Phát thanh- truyền hình trung ương không rành tiếng Pháp đọc là ké ga (k, e, ke, sắc>ké). Kéga đọc theo tiếng Pháp với âm ngang ngang là "kê ga", nếu đọc lên bổng xuống trầm, nhấn giọng ở “ké”, hạ giọng ở tiếng “ga” thì Kéga đọc gần như Kê Gà trong tiếng Việt.
 Đọc những bài “Hòn Bà dấu chấm than huyền thoại”, “Chuyện xưa mùa lễ hội”, “Từ núi Cẩm Kê đến mũi Kê Gà” trong tập sưu khảo “LaGi Đất Xưa – Diện Hải Bối Lâm”, tôi bỗng thích thú nghĩ đến những cụm từ ngồ ngộ “La Gi là g씓La Gi, ly gia” và nảy sinh một tứ thơ vui, mượn lời du khách phương xa đến La Gi thắc mắc về những địa danh thật lạ lùng với họ:
 
LA GI
 
Chưa đi chưa biết La Gi
    Đi rồi cứ hỏi là gì hở em?
 
    Rùa kia mu cứng hay mềm
Hòn Bà sao lại là tên đảo rùa?
Núi Ông chẳng lẽ chào thua
Ly gia chẳng được phân bua một lời
Kê Gà đèn biển chọc trời
    Đề huề Hán Việt cùng ngồi cạnh nhau
    Tiếng KÊ tên gọi của Tàu
    Còn GÀ tên Việt... chụm đầu giao duyên!!!
    Tới đây lạ nước lạ miền
Nghe danh Thầy Thím hiển linh cứu đời
Xin cho được hỏi ít lời
THẦY nam THÍM nữ? Ngát trời khói hương
Tập sưu khảo “La Gi Đất Xưa - Diện Hải Bối Lâm” của tác giả Phan Chính là một tập sách hay, với những tư liệu quý giá góp phần vào yêu cầu nghiên cứu địa phương. Người La Gi nếu ai cũng có quyển sách trong tay thì hữu ích vô cùng.  
29/3/2022
La Thụy
Theo https://www.vanchuongviet.org/

XXXXXCảm xúc cành củi mục, thơ Xuân Ly Băng

Cảm xúc cành củi mục,
thơ Xuân Ly Băng

Có lẽ Xuân Ly Băng là nhà thơ công giáo được người yêu thơ biết đến nhiều nhất, sau Hàn Mặc Tử. Xin giới thiệu bài thơ CÀNH CỦI MỤC in trong tập thơ “KINH SẦU TRÊN QUÊ HƯƠNG” của nhà thơ Xuân Ly Băng (tức Đức Ông Linh Mục J.B.Lê Xuân Hoa) qua cảm nhận của La Thụy.
Mấy hôm nay đang bâng khuâng với sự thay đổi đột ngột của thời tiết (đang rét căm căm đó, thoắt cái đã hừng hừng lên lửa nóng) chợt đọc bài “CÀNH CỦI MỤC” của nhà thơ Xuân Ly Băng, in trong tập thơ “KINH SẦU TRÊN QUÊ HƯƠNG”, lòng tôi càng bâng khuâng hơn với sự biến ảo vô thường của nhân sinh, được thi nhân cảm hoài qua những dòng thơ mượt mà, êm dịu nhưng thật đậm nét suy tư triết học. 
 
 Vâng, chỉ một một cành củi mục đang bập bềnh trên sóng nước được vớt lên; chỉ một chiếc lá úa vàng lơ lửng vô định theo dòng được bắt về ; chỉ những sự việc bình thường như muôn vàn sự việc bình thường khác, nhưng bằng sự rung cảm thật tinh tế, thi nhân như lắng nghe, như chiêm niệm được bao tiếng khóc than bi ai của lá cành u uất
 
Ta sẽ nghe tiếng hồn ai thổn thức
              Lệ trào tuôn than khóc ngậm ngùi 
 
Cành củi mục, chiếc lá úa của giây phút bắt gặp, lại trào dâng trong hồn thi nhân một nỗi sầu thăm thẳm, một niềm cảm khái mênh mang. Với thi nhân, cành củi mục, chiếc lá tàn úa không như chúng đang hiện hữu một các khốn khổ, mà là đã là hóa thân của một thời dĩ vãng rực rỡ, của một tiền kiếp vàng son. Những “rác rưởi” này, phải chăng tiền thân của chúng đã có lúc là “cành vàng lá ngọc”, từng được nâng niu trân trọng, từng được sùng bái suy tôn, từng một thời hãnh tiến ngạo nghễ:
 
Phải chăng xưa một cành đào diễm lệ
           Chỗ vương môn mơn trớn vạn bàn tay
           Phải chăng xưa một bông hồng ão não
           Che mặt người hoa đẹp chồn lầu tây
 
           Chiếc lá trôi phải chăng là ngọc diệp
           Đã từng nghe chuyện tài tử giai nhân
           Đã từng nghe những lời tình thống thiết
           Chỗ sang giàu của những Mạnh Thường Quân
 
Nhưng than ôi! Đời thực vô thường, ngày vui qua nhanh, hạnh phúc rồi vụt biến như bóng câu qua cửa sổ. Ai vương hầu khanh tướng, quyền uy một thời nghiêng trời lệch đất; ai lầu son gác tía tài hoa sực nức phương danh… Bây giờ trôi dạt về đâu ? Liệu còn sót chăng được nắm xương tàn vùi trong cỏ đất, hay rồi cũng tan theo bụi cát phù vân.
 
          Nhưng than ôi gió thời gian quét sạch
          Hồn thảo thu man mác bóng tà dương
          Khiến bao nhiêu cành vàng cùng lá ngọc
          Dạt về đâu trên mảnh đất vô thường
 
Xác thân, chỗ ẩn náu xưa, giờ đã thành tro bụi; không nơi sở trú linh hồn có tan biến, rữa nát theo chăng? Không! “sống gởi thác về!”. Nhưng về đâu hỡi những vong hồn than khóc kia:
 
        “Ta đi nhưng biết về đâu chứ
        Đã đẩy phong yên lộng bốn trời”
            Nguyễn Bính
 
Về cõi vĩnh hằng chăng ? Làm sao đặng, chốn cực lạc thiên đường chỉ dành cho những linh hồn được siêu thoát, vinh thăng. Hỡi những oan hồn, làm sao mà siêu thoát, mà nhẹ bay về nơi vĩnh cửu, khi mà đang tại thế, ta không dọn kỹ đường về. Phải chăng vì thế nên những oan hồn vất vưởng nhập vào sông nước mênh mang, phơ phất theo bờ lau bụi cỏ, rền rĩ cùng côn trùng đêm vắng, tỉ tê theo nhịp chèo khua sóng dậy; làm não lòng người nghệ sĩ đa cảm khi ngắm bóng non xa - những chiều hôm; càng não lòng hơn, nếu là nghệ sĩ già đang thổn thức trước hoàng hôn xế bóng đời người
 
          Hình hài có biến hồn không tan
          Khắp mặt đất này đi lang thang
          Vướng vào cây cỏ, vào sông nước
          Khiến tiếng chèo khua nghe bẽ bàng
 
          Và người nghệ sĩ những chiều hôm
          Ngắm bóng non xa bỗng thấy buồn
          Trời không mưa gió không tiễn biệt
          Mà thấy trong lòng giọt lệ tuôn
 
Hỡi vong linh cành lá u uẩn ! Hỡi hồn tài tử giai nhân phiêu bạt! Chưa bị vào hoả ngục đọa đày thì đường về chưa tuyệt bóng mù khơi đâu nhé! Tạm phiêu phiêu phưởng phưởng trong chốn luyện hình bao la này, có hoài niệm quá khứ cũng là lẽ thường. Nhưng xin đừng chỉ nuối tiếc, than khóc cho “một thời vang bóng” đã mù xa. Khóc than mãi cũng chỉ phí hoài. Quá vãng tuy lộng lẫy thật, nhưng chắc gì những bậc thang vàng son mình từng leo lên đó, đã không từng bắc chồng trên sự khổ đau, tủi nhục của kẻ khác “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”! Thôi, ngàn xưa đang sừng sững bóng lũy sầu chắn ngang, ngàn sau đang vẫy gọi, đang độ lượng chờ mong. Xin hoài niệm dĩ vãng bằng quỳ gối suy gẫm, bằng hối tiếc, ăn năn…
 
         Thôi đừng khóc nữa lá cành ơi
         Có khóc đời cũng thế mà thôi
         ...............................................
         ...............................................
 
Không gian tuy mênh mông vô tận, thời gian tuy hun hút vô cùng, nhưng trong sự vô cùng vô tận đó vẫn hiện hữu sự vĩnh hằng sáng chói. Trong ly rượu nồng thơm ngọt ngào, vẫn còn có dư vị đắng cay, hăng hắc mùi ngãi cứu. Mâu thuẫn và nghịch lý thay! Nhưng cũng thật kỳ diệu và chân lý thay! Vị đắng để đời như một thiên ân trìu mến dịu nhắc thế gian rằng đừng quên cội nguồn chính mình, và lầm lỗi tổ tông còn đang hằn dấu trong thân phận làm người:
Vì trong thời gian có vĩnh cửu
Trong ly rượu nồng có mùi ngãi cứu
Vị đắng đót sẽ còn lại muôn năm
Là lộc trời để nhắc nhở xa xăm 
Cành củi mục kia ơi! Đừng bi lụy nữa, hãy hiến chút thân tàn, cố bừng lên đóm lửa để soi sáng sưởi ấm cho đời. Chiếc lá vàng khô này hỡi, cứ nhịn nhục ép mình trong trang giấy làm tiêu bản kỷ niệm, đẹp nét đan thanh hay phân hủy đi biến thành dưỡng chất, bón cho cây đời được xanh tươi.
CÀNH CỦI MỤC 
Khi vớt lên một cành củi mục
Và bắt về chiếc lá vàng trôi
Ta sẽ nghe tiếng hồn ai thổn thức
Lệ trào tuôn than khóc ngậm ngùi 
Phải chăng xưa một cành đào diễm lệ
Chỗ vương môn mơn trớn vạn bàn tay
Phải chăng xưa một bông hồng áo não
Che mặt người hoa, đẹp chốn lầu Tây 
Chiếc lá trôi chẳng phải là ngọc diệp
Đã từng nghe chuyện tài tử giai nhân
Đã từng ghi những lời tình thống thiết
Chỗ sang giàu của những Mạnh thường quân 
Nhưng than ôi gió thời gian quét sạch
Hồn thảo thu man mác bóng tà dương
Khiến bao nhiêu cành vàng cùng lá ngọc
Dạt về đâu trên mặt đất vô thường
Hình hài có biến, hồn không tan
Khắp mặt đất này đi lang thang
Vương vào cây cỏ vào sông nước
Khiến tiếng chèo khuya nghe tiếng bẽ bàng
Và người nghệ sĩ những chiều hôm
Ngắm bóng non xa bỗng thấy buồn
Trời không mưa gió không tiễn biệt
Mà thấy trong lòng giọt lệ tuôn 
Thôi đừng khóc nữa lá cành ôi
Có khóc đời cũng thế mà thôi... 
Vì trong thời gian có vĩnh cửu
Trong ly rượu nồng có mùi ngải cứu
Vị đắng đót sẽ còn lại muôn năm
Là lộc trời để nhắc nhở xa xăm. 
Xuân Ly Băng
24/2/2022
La Thụy
Theo https://www.vanchuongviet.org/

XXXXĐọc hai bài thơ hay "La Vang đất mẹ" của Xuân Ly Băng và "Tha la xóm đạo" của Vũ Anh Khanh

Đọc hai bài thơ hay "La Vang đất mẹ"
của Xuân Ly Băng và "Tha la xóm đạo"
của Vũ Anh Khanh

Tập sách NHÀ THƠ XUÂN LY BĂNG CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM do L.M. Nguyễn Thiên Cung và nhà thơ Trần Vạn Giã sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn (Phương Đông xuất bản - 2011), có đăng một bài của La Thụy viết từ năm 1999 dưới tên Ngô Minh (trang 201 - trang 207). Được tặng sách nhân ngày ra mắt (ngày 13/02/2012, tại khuôn viên nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế - 37 Kỳ Đồng - Quận 3 - TP HCM), La Thụy đăng tải lại bài viết này, có bổ sung thêm gần như toàn văn bài thơ THA LA XÓM ĐẠO của nhà thơ Vũ Anh Khanh, đồng thời chỉnh lại tên tác giả là La Thụy để khỏi bị nhầm lẫn bút hiệu cũ của mình với nhà văn Ngô Minh trong Hội Nhà Văn Việt Nam.
Từ thời còn là học sinh, tôi đã rất đỗi mê say khi đọc bài thơ Tha La Xóm Đạo của nhà thơ Vũ Anh Khanh - Bài thơ viết về một xóm đạo thanh bình, êm ả đẹp như mơ bị giặc Pháp tàn phá gây tang tóc - Trước cảnh quốc phá gia vong, từng người dân Tha La đã bỏ lại tất cả ra đi, cầm vũ khí chống giặc thù cho quê hương trở lại hồi sinh. Thật hạnh phúc cho tôi, khi tìm lại được cảm giác ngất ngây, mê say ấy khi đọc bài thơ La Vang Đất Mẹ của nhà thơ Xuân Ly Băng (in trong tập “Kinh Sầu Trên Quê Hương”).
 
Cũng bằng một thể thơ trường thiên phá thể, cùng bằng một chất giọng tự sự, cùng bằng những nhịp điệu bi tráng khi khoan khi nhặt, La Vang Đất Mẹ cùng Tha La Xóm Đạo của hai nhà thơ Xuân Ly Băng và Vũ Anh Khanh đã làm cho cảm xúc, tâm tình của người đọc như tan hòa, đồng nhất cùng giọng thơ kể đượm tình: khi bâng khuâng man mác, khi ứa lệ thương đau hoặc khi rộn rã hoan ca theo từng diễn biến sự kiện. Có lẽ do sống cùng thời với nhau nên chắc hai nhà thơ đã có sự đồng cảm và giao thoa trong nghệ thuật thi ca với nhau.
 
Tuy nhiên, do không gian và thời gian cảm tác khác nhau, do bối cảnh lịch sử của hai câu chuyện khác nhau, nhất là do cảm quan và góc nhìn hai tác giả của hai bài thơ nói trên khác nhau, nên nội dung và kết cấu của hai nhà thơ thật khác biệt nhau.
 
Là người khách qua đường, Vũ Anh Khanh đã ngây ngất trước vẻ đẹp thuần khiết, an bình của xóm đạo Tha La nên đã để cảm xúc trào tuôn: 
 
        Đây Tha La xóm đạo
        Có trái ngọt cây lành
        Tôi về thăm một dạo….
        Giữa mùa nắng vàng hanh
 
Vì thế tác giả đã thực sự uất nghẹn, khi lần trở lại Tha La, nhìn thấy xóm đạo tang tóc điêu linh trong khói lửa chiến tranh do giặc Pháp gây nên. Xóm đạo Tha La lúc này hiện lên thật bi thương qua những vần thơ gợi cảm xúc mạnh:
 
       Ngậm ngùi, Tha La bảo:
       Đây rừng xanh, rừng xanh,
       Bụi đùn quanh ngõ vắng,
       Khói đùn quanh nóc tranh,
       Gió đùn quanh mây trắng
       Và lửa loạn xây thành.
       Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi
       Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng
       Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng.
       Có trái ngọt, cây lành im bóng lá,
       Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
       Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
       Về chi đây! Khách hỡi! Có ai chờ
       Ai đưa đón?
       Xin thưa, tôi lạc bước!
       Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
       Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
       Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
       Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
       Nghìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
       Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
       Nhìn hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng
       Tha La hỏi: - Khách buồn nơi đây vắng?
       - Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
       - Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
       Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn.
       Gió vun vút, gió rợn rùng, gió rít,
       Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch
       - Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
       Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
       Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
       Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán
       Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa
       Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa
       Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh
       Khách rùng mình, ngẩn ngơ người hiu quạnh
       - Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La !
 
Nhưng là lương dân ngoại đạo, là chiến sĩ Vệ quốc nên Vũ Anh Khanh thật dễ dàng khi viết:
 
         Lạy Đức Thánh Cha
         Lạy Đức Thánh Mẹ
         Lạy Đức Thánh Thần
         Chúng con xin về cõi tục để làm dâ
         Rồ ... cởi áo tu
         Rồi... xếp kinh cầu nguyện
         Thênh thang nhẹ bước về trần
 
Chắc gì người dân xóm đạo Tha La thanh thản “nhẹ bước về trần”? Không! Để làm tròn trách nhiệm con dân thời chiến, họ ắt hẳn quặn lòng đớn đau khi từ giã mọi điều yêu thương: gia đình, giòng sông, bến nước, xóm làng quê hương… và chắc chắn họ càng “nặng trĩu” cõi lòng hơn khi phải tạm gác công việc thiêng liêng sớm tối: “tiếng kinh cầu vang vọng” và “ơn tu nguyện hằng ngày”. Đúng, “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, không thể mặc cho giặc thù giày xéo quê hương, người dân Tha La cương quyết dứt áo ra đi “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Nhưng họ chỉ “từ giã” chứ không có “từ bỏ” vì “ra đi” chính là khởi điểm cho “quay về”. Vâng, họ mơ ngày về trên quê hương sạch bóng quân thù; xóm làng lại yên ả thanh bình trong trái ngọt cây lành, trong tiếng kinh cầu an lạc như thưở nào. Xa hơn nữa họ mơ ngày về miền Đất Hứa, chốn Vĩnh Hằng thân yêu cho Đời Sau mà tổ tiên loài người - ông Adam và bà Eva đã gạt nước mắt “ra đi” trước đây.
 
Cho nên dù không còn mặc áo tu, không cầu kinh thường xuyên, chắc hẳn người dân Tha La vẫn mãi ấp ủ trong tim từng câu kinh nguyện thầm lặng. Có lẽ khi dùng cụm chữ “nhẹ bước về trần” nhà thơ Vũ Anh Khanh chỉ “cách điệu hóa” sự quyết tâm của người dân Tha La khi họ sẵn sàng lên đường đền nợ nước. “Tha La xóm đạo” được bắt đầu bằng hình ảnh mơ mộng của xóm Đạo thời bình và kết thúc bằng hình ảnh tang thương của xóm Đạo trong lửa loạn chiến tranh và những vần thơ hào khí ngút trời được bốc lên từ tận đáy tâm khảm của tác giả Vũ Anh Khanh:
 
        Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
        Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách
        Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch
        Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng
        Đang đón mây xa - Bỗng khách ngại ngần
        - Kính thưa cụ vì sao Tha La vắng?
        Cụ ngạo nghễ cười rung rinh râu trắng
        Nhẹ bảo chàng: “Em chẳng biết gì ư?
        Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù
        Người nước Việt ra đi vì nước Việt
        Tha La vắng vì Tha La đã biết
        Thương giống nòi đất nước lầm than"
        Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hang
        Ngày hiu quạnh: Hờ… ơ… ơ tiếng hát
        Tiếng hát rằng : Tha La giận mùa thu
        Tha La hận quốc thù
        Tha La hờn quốc biến
        Tha La hờn tiếng kiếm
        Não nùng chưa : Tha La nguyện hy sinh
        Ờ... Ơ... hơ... Có một đám Chiên lành
        Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
        Quỳ cạnh chúa, đám Chiên lành run rẩy:
        - Lạy đức Thánh Cha!
        Lạy đức Thánh Mẹ!
        Lạy đức Thánh Thần
        Chúng con xin về cõi tục để làm dân...
        Rồi... cởi trả áo tu,
        Rồi... xếp kinh cầu nguyện
        Rồi... nhẹ bước trở về trần...
        Viễn khách ơi ! Viễn khách ơi !
        Người hãy ngừng chân,
        Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
        Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
        Trời Tha La vần vũ đám mây tang,
        Vui gì đâu mà tâm sự?
        Buồn làm chi cho bẽ bàng!
        Ờ... Ơ... Hơ...ờ... ơ hơ... Tiếng hát;
        Rung lành lạnh, ngân trầm đôi khúc nhạc,
        Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!
        Tha La thương người viễn khách quá đi thôi!
                                     ***
        Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
        Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
        Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
        Giờ khách đi . Tha La nhắn câu này :
        - Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
        Hãy về thăm xóm đạo
        Có trái ngọt cây lành
        Tha La dâng ngàn hoa gạo
        Và suối mát rừng xanh
        Xem đám Chiên hiền thương áo trắng
        Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh...
 
                                   (VŨ ANH KHANH)
 
Ngược lại, La Vang Đất Mẹ , ngoài phần tả cảnh nên thơ ở phần dẫn nhập thì diễn biến câu chuyện khởi đầu là sự ly tán tha hương, là sự lưu vong tủi nhục của những người dân Chúa và kết thúc bằng những hình ảnh diễm ảo siêu huyền của một Thánh địa vang danh. Là thi sĩ công giáo nên Xuân Ly Băng đã viết về La Vang - nơi Đức Mẹ hiển linh cách đây hơn 200 năm - với tấc lòng bái vọng thành kính, nên La Vang Đất Mẹ có chất liệu thơ nghiêm cẩn, hoành tráng và mang tính sử thi hơn. Bài viết này chỉ xin nêu lên vài cảm nhận về bài thơ hay La Vang Đất Mẹ ít được phổ biến của nhà thơ Xuân Ly Băng.
 
Vâng, xin hãy dọn mình để cùng thi sĩ Xuân Ly Băng thả hồn vào khung cảnh thơ mộng của miền Đất Thánh thiêng liêng trong nhạc điệu trầm bổng du dương và lời kể chuyện của cây lá xạc xào:
 
        Đây, La Vang, Thánh địa
        Dừng bước lại khách ơi
        Khách có nghe tiếng gió rít ở chân đồi!
        Lời kể lể rừng hoa sim lá rụng
        Khách có nghe nhạc thùy dương lồng lộng!
        Suối tre vàng theo gió chảy chiều mơ
        Khách có nghe sớm chiều chuông ca hát!
        Rất ngọt ngào ru tình mẹ, khách ơi!
 
Nào ai biết rằng có được miền đất lành chim đậu hôm nay, những người dân Chúa đã phải trải qua bao gian truân khổ ải trong máu và nước mắt của một thời “sát tả” thương đau trên khúc ruột miền Trung đất Việt ai oán nỗi niềm, họ đã phải dắt dìu nhau lưu vong trên con đường vô định mông lung
 
Có một thời
        (Chuyện gần hai thế kỷ)
        Khách ơi!
        Dừng chân tôi kể một lời khách nghe
        Truyền rằng: thuở ấy Sơn Khê
        Tương tàn cốt nhục tư bề gươm đao!
        Trách ai đồn chuyện tầm phào
        Buồn người nông nổi gây bao thương tình
        Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình…
        Lệnh truyền sát tả, não tình dân con
        Xương trắng bãi, máu loang cồn,
        Xóm làng tan nát, Thánh đường tiêu ma !
        Đau lòng trẻ, khổ thân già
        Eo óc tiếng gà dắt díu nhau đi !
        Con đường vô định biết chi,
        Cây đa bến cộ biết khi nào về ?
        Nắng mưa sương gió dãi dề
        Ôm cây Thánh Giá lòng tê tái lòng !
 
Ôi ! Biết bao nước mắt và máu đã tuôn đổ trên con đường lưu vong mờ mịt ấy, nhưng đoàn dân Chúa vẫn kiên trì nhẫn nại nhận lấy thử thách cam go, một lòng kiên trinh hướng về Thiên Chúa ngôi cao, họ đồng tâm thành khẩn dâng lên lời kinh nguyện trong suối lệ chan hòa tại La Vang - nơi tạm trú chân của bầy chiên phiêu bạt:
Bỗng một hôm chiều rừng
Âm u đàn gió lá
Có đoàn người là lạ
Thiểu não kéo về đây
Trên trời có đám mây bay
Đồi hoa sim tím hương bay ít nhiều
Rồi từ đó chiều chiều
Rồi từ đó đêm đêm…
Rừng vang lên lời kinh nguyện
Nhạc lên rung khí quyển
Suối lệ chảy chan hoà
Náo động cả gần xa
La vang cùng sông núi!
Lòng thành của đoàn dân Chúa làm cảm động đến trời cao, sự mầu nhiệm đã phát sinh: Đức Mẹ anh linh hiển thánh, ơn trọng thiêng liêng được ban phát, vỗ về: 
Một đêm kia, khách hỡi
Có bà áo trắng hiển linh
Huy hoàng bên một cỗ đình cành đa
Tay tiên ẵm Chúa nõn nà
Hào quang thiên sứ giãi ra một vùng…
Miệng Bà ngọt ánh trăng trong
“Các con ơi cứ vững lòng cậy trông
Truân chuyên nhận lấy vui long
Lời kinh Mẹ dạy đã ghi tấc vàng
Ơn trời Mẹ sẽ trao ban
Cho ai biết đến kêu van nơi này
Các con bẻ lá vườn cây
Đem về gia dụng thấy ngày diệu linh
Dứt lời Bà mới biến hình
Bâng khuâng gió tiễn hương trinh về trời 
La Vang, từ đây không còn là nơi hoang dại âm u đầy lam sơn chướng khí mà trở nên vùng đất thánh thiêng liêng phong cảnh hữu tình, được giáo hội tôn xưng là Vương cung Thánh đường cho toàn thể dân Chúa trên thế giới đến chiêm bái, ngưỡng vọng. Hằng năm, giáo lương trong cả nước (nhiều khi cả khách quốc tế nữa) tấp nập tìm về hành hương, miền Đất Thánh lại rộn rã hân hoan trong cuộc rước kiệu “Đức Mẹ La Vang” để mọi người cùng hợp lòng xưng tụng thánh danh Đức Mẹ sáng cả trên trời và dưới thế 
Rồi từ đó, khách ơi
Đoàn di cư tị nạn!
Lập nương rừng, đốn cây làm gỗ lán
Xây dựng lại cuộc đời
Ơn thiêng liêng đã lãnh bởi trời,
Nguồn sinh lực hào hùng khôn xiết kể
Non nước này là của riêng Đức Mẹ
Danh tiếng đồn khắp núi sông gần xa
Lộc trời xuống tựa sương sa
Giáo lương tấp nập bao la hội về
Rừng già chứng chuyện năm tê
Đêm đêm trút lá nằm nghe ơn lành
Đồi hoa sim tím trở mình
Chiều mơ lại thấy hiển linh năm nào?
Khách nhìn lòng thấy nao nao
Dừng chân Thánh địa bước vào cửa thiêng
Mênh mông nắng đẹp siêu huyền
(XUÂN LY BĂNG) 
Bài thơ La Vang Đất Mẹ như là viên ngọc lấp lánh nhưng được cất kỹ, không được phổ biến nên ít ai biết để cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp quyến rũ của chất ngọc quý un đúc từ lòng sùng tín mộ đạo của Xuân Ly Băng - một thi sĩ công giáo tài hoa - thì thật là đáng tiếc. 
23/2/2022
La Thụy 
Theo https://www.vanchuongviet.org/

  Ernest Hemingway và chiều kích thứ năm Việc nghiên cứu phong cách văn xuôi của Hemingway phần lớn đã hoàn thành từ lâu. Phong cách nầy q...