Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018

Ngôn ngữ nghệ thuật trong bài thơ "Hầu Trời" của Tản Đà

Ngôn ngữ nghệ thuật trong 
bài thơ "Hầu Trời" của Tản Đà
Mỗi một nhà thơ, nhà văn, trong hành trình sáng tạo, đều cố gắng tạo dựng cho mình một phong cách, một dấu ấn riêng. Dấu ấn và phong cách đó được xây dựng nên từ nhiều yếu tố, nhưng một phần quan trọng và cũng là yếu tố cơ bản quyết định đến giọng điệu, phong cách của từng cây bút chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong văn học (ngôn từ nghệ thuật) là phương tiện, là chất liệu sáng tạo cơ bản của một tác phẩm văn học, bộc lộ cá tính riêng của mỗi nhà văn. M. Gorki đã từng khẳng định: Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, sự sáng tạo, tiếp nhận, đánh giá văn học nói chung và thơ nói riêng không thể thiếu yếu tố này. Ngôn ngữ nghệ thuật là một sự phân tầng khác của ngôn ngữ tự nhiên, tương xâm nhưng không đồng nhất với ngôn ngữ tự nhiên. Nếu ngôn ngữ tự nhiên thường mang tính ổn định, thì ngôn ngữ nghệ thuật, đặc biệt là ngôn ngữ thơ, với tư cách là một mã nghệ thuật lại luôn luôn thay đổi. Mỗi thời đại, trào lưu hay mỗi khuynh hướng, tác giả lại có cách sử dụng ngôn ngữ riêng để mang đến một thực tại và hình thức mới cho ngôn từ nghệ thuật thơ. 
Nghệ thuật làm thơ cũng chính là nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Nhà thơ, trong quá trình lao động nghệ thuật của mình, đã tiếp thu nguồn ngôn ngữ dân gian, chọn lọc, gọt giũa để trở thành ngôn từ văn học. Cho nên, ngôn từ nghệ thuật vừa mang đặc trưng của ngôn ngữ nhân dân, vừa mang dấu ấn chủ quan của tác giả. Nó là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của người viết.
Tìm hiểu nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ Hầu trời của Tản Đà cũng là một cách góp phần khẳng định cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ. 
Trong dòng văn học cuối TK XIX - đầu TK XX, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên bầu trời thi đàn Việt Nam. Là một nhà thơ trong buổi giao thời, ở ông có chút bóng dáng của nhà nho tài tử thời trung đại, lại có hình bóng của một nhà văn thời hiện đại. Độc giả mọi thế hệ yêu thơ Tản Đà sẽ không bao giờ quên hình ảnh: 
Vùng đất Sơn Tây nảy một ông 
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng 
Sông Đà núi Tản ai hun đúc 
Bút thánh câu thần sớm vãi vung (1). 

Khi đọc thơ Tản Đà, dường như ta bắt gặp một con người thật quen mà cũng thật lạ. Quen bởi cái chất dân tộc ngọt ngào, đằm thắm; Lạ bởi cái ngông phá cách, dám bứt mình ra khỏi mọi khuôn khổ của câu chữ, để rồi vượt qua chặng đường dài hơn một thế kỷ mà sống mãi với đời bởi một chữ ngông đầy cá tính. 
Bài thơ Hầu trời được viết vào năm 1921, in trong tập Còn chơi. Đây là thời kỳ mà nền thơ Việt Nam đang tiến gần với quỹ đạo hiện đại hóa nên hình thức thơ cũng có nhiều biến đổi: bài thơ dài, mỗi bài nhiều khổ, ngôn ngữ chuyển từ điệu ngâm sang điệu nói. Là nhà thơ tiêu biểu của văn học giai đoạn giao thời, chiếc cầu nối của hai nền văn học cũ và mới, Tản Đà đã thổi một cơn gió lạ trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại. Những bước đi phá cách của Tản Đà về mặt nội dung và hình thức là bệ phóng cho sự ra đời của phong trào Thơ mới: “Từ ưu thế của cộng đồng trong lâu dài của lịch sử, ta thấy rõ Tản Đà đã thực hiện được một sự cách tân thật đáng kể, trong những năm 20 TK XX... Như một đòi hỏi giải phóng và như một nhu cầu phát triển, cái tôi ấy ở Tản Đà đã phản ứng lại mọi câu thúc, kiềm tỏa, bóp nghẹt của hoàn cảnh bằng sự tung hoành trên những giới hạn thật phóng khoáng của không ít đam mê, khát vọng” (2).
Hầu trời vốn được Xuân Diệu đánh giá là một bài thơ “đứng lại với thời gian, ngạo cùng năm tháng”. Đề tài lên tiên không phải là đề tài mới của riêng Tản Đà, mà đã gặp trong rất nhiều sáng tác dân gian và văn học viết thời trung đại. Tuy nhiên Tản Đà lên tiên trong bối cảnh, mục đích, diễn biến hoàn toàn khác so với trước đó: 
Đêm qua chằng biết có hay không 
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng 
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! 
Thật được lên tiên sướng lạ lùng. 
Rõ ràng, cái duyên được lên hầu trời ngay từ mở đầu bài thơ được gắn liền với phút cao hứng của tác giả. Chuyện bịa mười mươi mà xem chừng rất ngộ nghĩnh, tự nhiên: 
Nguyên lúc canh ba nằm một mình 
Vắt chân dưới bỏng ngọn đèn xanh... 
Văn chương nào có hay cho lắm 
Trời đã sai gọi thời phải lên. 

Dường như tác giả muốn người đọc cảm nhận rằng đây là câu chuyện có thật, đang được diễn ra, để từ đó khẳng định khả năng vô hạn của câu chữ trong việc tạo nên bức tranh về thế giới khách quan và thế giới nội tâm của con người. Tự đề cao tài năng của mình, nhưng lại chọn hình thức để trời và chư tiên khen ngợi, chứng tỏ đây là một kiểu ngông rất đáng yêu trong thơ Tản Đà. 
Trước Tản Đà ta không sao tìm được ở nhà văn nào mà cái tôi lớn đến thế, cái ngông sắc cạnh đến thế. VỊ tiên bị giáng xuống trần thế với cái tên Nguyễn Khắc Hiếu ấy là một con người nhạy cảm, từng trải, cứ mỗi lần bước lên một nấc thang cuộc đời đều đúc rút được những kinh nghiệm và sẵn sàng gửi gắm vào trong thơ: 
Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó 
Trần gian thước đất cũng không có 
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều 
Vốn liếng còn một bụng văn đó 
Giấy người mực người thuê người in 
Mướn cửa hàng người bán phường phố 
Văn chương hạ giới rẻ như bèo 
Kiếm được đồng lãi thực rất khó 
Kiểm được thời ít tiêu thời nhiều 
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu... 
Tản Đà vốn được coi là một ảo thuật gia có tài biến hóa về ngôn ngữ, tuy nhiên đối với bài thơ Hầu trời thì hoàn toàn ngược lại. Ngôn ngữ trong bài thơ hoàn toàn mộc mạc, như chính cuộc sống. Sở dĩ như vậy, bởi sức tạo hình của ngôn ngữ trong bài thơ trước hết được bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với cuộc sống. Ngôn ngữ nghệ thuật “vừa là tiếng nói chân thực, giàu có của đời sống hiện thực, vừa là tiếng nói tình cảm của con tim đang rung động. Chiều sâu của sức suy nghĩ, tính chất mẫn cảm và tình tế của sức sáng tạo, những trạng thái rung động của tâm hồn... tất cả chỉ có thể đến với người đọc thông qua vai trò của ngôn ngữ” (3). Với Tản Đà, hiện thực chính là chiếc nôi nuôi dưỡng cho hồn thơ ông, cho ông vốn sống, vốn ngôn từ nghệ thuật phong phú, đa dạng, trong sáng và mang hoi thở của cuộc sống thường nhật. 
Những câu thơ dường như cứ tuôn ra một cách tự nhiên, hóm hỉnh thông qua cách xưng danh của chính tác giả: 

Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa 
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn 
Quê ở Ả châu và Địa cầu 
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt. 
Tản Đà quan niệm, sáng tạo nghệ thuật phải thật dễ hiểu, ngôn ngữ thơ phải gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày mà vẫn đạt được cảm xúc mãnh liệt. Thực tế đã chứng minh điều đó, ông không ngừng khai thác kho từ vựng của ngôn ngữ đời sống, tận dụng hết biên độ biểu đạt của ngôn ngữ, tạo chiều sâu, sức lay động cho thơ. Ở bất kỳ góc nhìn nào, bức tranh cuộc sống cũng hiện ra chân thực, sinh động, in đậm dấu ấn của cái tôi trữ tình nhạy cảm và sâu sắc: 
Văn chương thời nôm na 
Thủ chơi có sơn hà 
Ba Vì ở trước mặt 
Hắc giang bên cạnh nhà 
Phải chăng đây chính là điểm độc đáo nhất của thơ Tản Đà, dung hòa cuộc sống thường nhật với thơ? 
Là người không tuân thủ theo những niêm luật bó buộc của thơ truyền thống, Tản Đà cũng thể hiện rõ nét sự sáng tạo trong tư duy ngôn ngữ thơ. Cách thức làm thơ dường như không tuân theo một khuôn khổ nhất định. Nhà thơ vươn tỏa ngòi bút tới từng ngóc ngách của hiện thực đời sống để giãi bày và chia sẻ những nỗi đau, những khát khao và ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp. Viết về hiện thực bộn bề của cuộc sống, hồn thơ Tản Đà luôn rộng mở để đi sâu vào mọi góc khuất trong đời sống con người. Từ hiện thực đó, nhà thơ đã khúc xạ vào thơ những hình ảnh giàu sức gợi hình qua việc sử dụng nhiều động từ mạnh: 

Văn dài hơi tốt ran cung mây! 
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay 
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi 
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày 
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng 
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay. 
Cách nói trúc trắc như kiểu văn xuôi mà Tản Đà thiết lập đã tạo ra một hiệu quả nghệ thuật đắc dụng, việc vận dụng cách nói thường ngày vào thơ là một cách dân chủ hóa trong thơ, nhưng nếu lạm dụng thơ sẽ trở thành dễ dãi. Tản Đà đã dựng lên bức họa chân thực về cuộc sống nhưng chất thơ vẫn luôn nồng cháy. 
Tản Đà đã thành công khi mở ra cho người đọc một cách nhìn, một cách cảm về con người và cuộc đòi bằng một ngôn ngữ rất riêng và độc đáo. Điều thú vị là nhà thơ đã khám phá ra những điều bình dị, quen thuộc nhưng lại khái quát lên được quan niệm về nhân sinh, cuộc sống... Và dường như trong trái tim đa đoan ấy, bao giờ cũng khát khao hết mình, tỏa sáng hết mình cho những ước mơ tốt đẹp. Trên con đường cách tân nghệ thuật, Hầu trời không hẳn đã là bài thơ hay nhất, nhưng có thể khẳng định rằng đây là bài thơ dày dặn chất liệu đời sống, nặng trĩu tư tưởng và có sức lay động, ám ảnh người đọc khôn nguôi. Thơ của Tản Đà là thơ của đời sống thường nhật, làm nên từ đời sống ấy và ở lại với đời sống ấy. Qua thơ Tản Đà, một lần nữa, người đọc lại nhận ra tính linh hoạt và những bước tiến mới của ngôn ngữ Việt trong việc thể hiện cảm xúc con người. 1. Các trích dẫn thơ đều từ Tuyển tập thơ Tản Đà, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2002. 
2. Phong Lê, Văn học trên hành trình của TK XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1997. 
3. Hà Minh Đức, Thơ và mấy vẩn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb KHXH, Hà Nội, 1974.
Hoàng Điệp
 Theo http://tailieudientu.lrc.tnu.edu.vn/

Cái ngông của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ Hầu Trời

Cái ngông của nhà thơ Tản Đà 
trong bài thơ Hầu Trời
Tản Đà là một trong những thi sĩ đi đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. ông là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi.
Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà mang đến một luồng sinh khí mới cho nền văn học Việt Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái tôi bản ngã của mình một cách hết sức độc đáo và mới mẻ. Và "Hầu Trời” là một trong những bài thơ kết tinh những nét riêng độc đáo đó.
Như Hoài Thanh đã nói "Tiên sinh là người của hai thế kỷ”, Tản Đà là người đã đặt được dấu gạch nối giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại, là người "Dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa” (Hoài Thanh). Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sống khoáng đạt và đã đeo "túi thơ” đi khắp cuộc đời mình. Là một cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, ông để lại khá nhiều tác phẩm cho đời. Trong đó đáng kể là "Hầu Trời” được trích trong tập Còn chơi (1921). Bài thơ đã thể hiện rõ cái tôi cá nhân của Tản Đà thông qua sự việc lên thiên đình đọc thơ.
Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết. Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết phải thể hiện được cái riêng có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp tích cực cho nền văn học chung.
Tản Đà - nhắc đến thi nhân là nhắc đến "xê dịch, ngông và đa tình”. Ba yếu tố đủ để làm nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của nhà thơ đã thể hiện trong "Hầu Trời” là một cái tôi ngông rất lạ. "Ngông” không phải chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm.
Chất ngông thương được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và cái tình. Với cái tài đó, họ mang ra phục vụ cho đời nhưng cũng là để "đóng dấu” hình ảnh của mình với thời gian. Họ có thể ngông bởi họ có tài, họ có cái để hãnh diện, để thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái ngông ấy trong "Hầu Trời” đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.
Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ "Vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy.
"Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật than thể
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!”.
Cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cảm hứng của nhà thơ. Chuyện tưởng tượng nhưng như thật, có lẽ cái tôi độc đáo của Tản Đà là ở chỗ vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên. Để thế gian thấy tài năng của nhà thơ đã khó vậy mà ngay đến Trời còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật lạ lùng. Vậy mới thấy được cái ngông của nhà thơ biểu hiện mạnh mẽ qua bài Hầu Trời. Đã có dịp được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ "quảng cáo” tài năng của bản thân:
"Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè Trời nhấp giọng càng tốt hơi.”
Tác giả đọc thơ rất tự tin, khoe tài của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác phẩm. Qua đó bộc lộ cái tôi in đậm phong cách cái tôi cá nhân tự ý thức của chính ông. Sẵn tiện nhà thơ giới thiệu luôn những tác phẩm của mình:
"Bẩm con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lý
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?”
Nhà thơ có vẻ rất đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của mình. Khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình giữa cuộc đời. Trước Tản Đà các nhà nho tài tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng. Họ không dám nói đến cái hay, cái "tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời. Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ. Chính vì vậy mà đến Trời cũng phải tán thưởng:
"Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong một bài cùng vỗ tay.”
"Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hung mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”
Chính vì tình yêu văn chương, ông mới tự tin sáng tác, chuyển tải những tư tưởng tình cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường như với ông, hầu Trời là khoảnh khắc đẹp nhất. Vì thế ông mới đem cái tài của mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này quan niệm mới mẻ của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Dù không biểu hiện trực tiếp nhưng đằng sau các câu chữ ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều. Đặc biệt hơn dương như nhà thơ đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theo đuổi nó:
"Nhờ Trời văn con còn bán được”
"Vốn liếng còn một bụng văn đó”
Thật ngang tang khi thi sĩ muốn "gánh văn” lên Trời để bán.
"Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
- "Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Làm náo động thiên cung bằng những lời văn giàu thay lắm lối, nay nhà thơ còn muốn văn của ông được lan rộng cung đình để mọi người biết đến ông- một tài năng thực thụ của trần thế. Thế mới thấy được cái tôi mạnh mẽ đến nhường nào.
Qua bài thơ "Hầu Trời” không dừng lại ở đó, Tản Đà còn vạch ra thực tế phũ phàng: tài năng không thống nhất với số phận. Ở cuộc đời nhà thơ thiếu tri âm, tri kỷ và bất hòa với cuộc đời:
"Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.”
Vì vậy ông khát khao lên Trời đọc thơ và tìm được người tri âm. Chỉ có Trời và chư tiên mới hiểu cái hay, cái đẹp trong thơ ông. Và lời Trời khen hắn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất ngông ngạo của nhà thơ.
Để Trời hiểu thơ, khen văn thơ tuyệt, Tản Đà liền đó "tâu trình” rõ ràng thân thế của mình, phù hợp hoàn toàn mạch chuyện:
"Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa Cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.
Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lý lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, châu lục, tên hành tinh. Qua đó ông thể hiện niềm yêu nước tha thiết, đầy tự hào về bản thân, ý thức cá nhân tự tôn dân tộc sâu sắc. Một cái tên- tên thật chứ không phải tự hay hiệu - mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Cũng qua câu thơ, tác giả ngầm giới thiệu bút hiệu của mình. Tản Đà là con người khoe tài, thị tài và rất ngông cho nên trước chư tiên không bao giờ kiềm chế mà luôn thể hiện hết tài hoa của mình.
Từ đầu đến cuối nhà thơ đều tự tin về tài năng của bản thân và một lần nữa Tản Đà lại khẳng định rất "ngông”, của kẻ vốn đã "ngông” khi nhận mình là "trích tiên” bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Nhà thơ khẳng định tài năng và thân phận "khác thường của mình”.
Sự khác thường đặc biệt này còn nằm ở việc thi sĩ được thừa nhận là một người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả ”việc thiên lương của nhân loại”, "Trời rằng không phải Trời đày, Trời định sai con một việc này, Là việc "thiên lương” của nhân loại, Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Một lần nữa cái ngông ấy lại được thổi vào trong ý thơ. Nhưng cái ngông ấy chẳng qua là vì nó đối lập lại với cả xã hội bất công, vì ông phải đi làm công việc là tìm lại thiên lương vốn đang bị mai một của con người:
"Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ
Dám xin không phụ Trời trông mong”
Nhà thơ ý thức về nhân cách, một nhân cách vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc về danh lợi. Nó đối lập với cái xã hội bất công vụ lợi, chạy theo đồng tiền và danh lợi thời bấy giờ.
Cuối cùng nhà thơ vẫn muốn khẳng định, tự khen thơ mình. Thơ thi nhân chẳng những đẹp mà còn ẩn chứa những ý niệm cao siêu về cuộc đời, về thiên lương, nhân sinh thế giới quan… Tóm lại là tất cả những gì nhân loại cần có để vươn đến cái chân thiện mỹ. Thoát ra khỏi quan niệm "thi dĩ ngôn chí”, Tản Đà thực sự thăng hoa trong thế giới nghệ thuật, bộc lộ cảm xúc cái tự do cá nhân mới mẻ của riêng mình.
Kế thừa nét ngông của truyền thống, song trong sự ngông của Tản Đà, người ta không thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối lại với đời như Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một phong cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như Nguyễn Tuân. Cái ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhưng có thể thấy rằng, họ gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ không thể "ngông” được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Họ làm nên những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.
Bài thơ "Hầu Trời” đã kết tinh cái tôi của Tàn Đà. Nhưng không chỉ trên phương diện nội dung, những nét độc đáo và mới mẻ còn làm nên cái tôi trong nghệ thuật. Có lẽ "Hầu Trời” có vẻ quá dài nhưng chính điều đó lại tạo cho bài thơ giàu yếu tố tự sự. Hơn thế, nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên,sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ cho phép nhà thơ thoát khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để tự do vẫy vùng thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Thể thơ thất ngôn trường thiên được viết một cách phóng túng, tự do theo cá tính riêng của nhà thơ.
Bên cạnh đó, "Hầu Trời” còn đáng chú ý với hiện tượng chia khổ, các khổ có độ dài khác nhau tạo nên cảm xúc tự do và nét mới trong thơ văn. Cách thể hiện của Tản Đà đã vượt ra khỏi quy phạm nội dung và nghệ thuật, muốn phá cách để thể hiện rõ cái tôi của ông.
Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là sự dung hòa nhiều yếu tố khác nhau. Tất cả tạo nên ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngông và xê dịch. Cái cũ và mới, xưa và nay đan xen đưa Tàn Đà trở thành người nối kết hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao sáng với vẻ đẹp rất riêng trên bầu Trời văn học Việt Nam.
2/ Tản Đà (1889 - 1939) Tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, Quê ông ở Sơn Tây thuộc Ba Vì, Hà Nội ngày nay. Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỷ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hóa mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới ra đời trong hoàn cảnh khuynh hướng lãng mạn khá đậm nét trong văn chương thời đại, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy cảnh ngang trái, xót đau.
Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết. Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết phải thể hiện được cái riêng có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp tích cực cho nền văn học chung. Tản Đà - nhắc đến thi nhân là nhắc đến “xê dịch, ngông và đa tình”. Ba yếu tố đủ để làm nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của nhà thơ đã thể hiện trong Hầu Trời là một cái tôi ngông rất lạ. “Ngông” không phải chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm. 
Chất ngông thương được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và cái tình. Với cái tài đó, họ mang ra phục vụ cho đời nhưng cũng là để “đóng dấu” hình ảnh của mình với thời gian. Họ có thể ngông bởi họ có tài, họ có cái để hãnh diện, để thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái ngông ấy trong Hầu Trời đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.
Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ “Vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy.
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật than thể
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!”.
Điệp từ "thật" nhấn mạnh cảm xúc của thi nhân, những câu cảm thán bộc lộ cảm xúc bàng hoàng, câu khẳng định dường như lật lại vấn đề mơ mà như tỉnh, hư mà như thực. Cách giới thiệu ấy đã gợi cho người đọc về một tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái hồn cốt trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thật. Cách vào chuyện đầy độc đáo và có duyên ấy làm cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên lôi cuốn.
Rồi nhà thơ kể về hoàn cảnh  bắt đầu câu chuyện đầy ly kỳ của mình:
Nguyên lúc canh ba nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn ngồi dậy đun nước uống
Uống xong ấm nước nằm ngâm văn
Vậy là cái không gian mở đầu đã rất đầy đủ, thời gian - canh ba; không gian - đêm khuya; hoạt động - nằm một mình, uống nước ngâm thơ, rất đầy đủ để đọc giả tưởng tượng ra một buổi đêm hết sức vắng lặng, quạnh quẽ. Đó là cái nền hấp dẫn để bắt đầu một câu chuyện lên tiên của nhà thơ. Vẫn những lời kể rất tự nhiên, nôm na. Cái lý do lên trời cũng rất độc đáo mà  hợp lý.
Trời nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân hà
Làm trời mất ngủ trời đương mắng
Có hay lên đọc trời nghe qua
Mượn lời của nhà trời để nói về tiếng ngâm của mình "Vang cả sông Ngân hà". Ở đây ta đã thấy rõ cái tôi cá nhân đầy chất lãng mạn bay bổng pha chút ngông trong tác giả. Điều này càng rõ ràng khi thi nhân đọc thơ và nói về các tác phẩm của mình. 
Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Nhà thơ đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc. Ông cũng kể tường tận về các tác phẩm của mình:
Hai quyển khối tình văn lý thuyết
Hai khối tình còn là văn chơi
Thần tiên giấc mộng văn tiểu thuyết
Giọng đọc của Tản Đà rất đa dạng, hóm hỉnh và ngông nghênh. Đoạn thơ đã cho thấy ông rất ý thức về tài năng văn thơ của mình, cũng là người táo bạo dám đường hoàng bộc lộ cái tôi cá thể. Ông cũng rất "ngông" khi tìm đến trời để thể hiện tài năng. Đây cũng là khát khao chân thành trong tâm hồn Tản Đà.
Sự độc đáo ở đoạn thơ còn thơ còn thể hiện ở việc thi nhân tự khen thơ mình nhưng lại để cho trời và chư tiên khen ngợi:
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn
"Anh gánh lên đây bán chợ trơi"
Trời lại phê cho văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít
Người ở phương nào ta chưa biết.
Trời khen rất nhiệt thành: "Văn thật tuyệt, văn chuốt như sao băng…" chư tiên thì xúc động, hâm mộ và tán thưởng: "tâm nở dạ, cơ lè lưỡi.." Đây là một lối ngông rất đáng yêu của thi sĩ. Cả đoạn thơ đậm chất lãng mạn. Đồng thời ở đây ta cũng thấy rõ tư tưởng thoát ly của nhà thơ - muốn chốn thoát khỏi chốn trần tục, văn thơ của ông chỉ xứng cho người trời nghe, người đời không hiểu, không cảm hết được giá trị, tầm vóc của nó.
Ở đoạn thơ tiếp theo nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái tôi của mình gắn liền với tên tuổi thật của mình:
Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn
Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Việt Nam

Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để thể hiện cái tôi của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài, biết trân trọng khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như là cách thể hiện sự tự hào, tự tôn dân tộc. Nhà thơ còn khẳng định phong cách ngông của mình một cách hóm hỉnh:
"Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông"
Trong cuộc đối thoại với tưởng tượng với trời nhà thơ còn khẳng định trách nhiệm và nghĩa vụ cao cả của mình là lo việc "thiên lương". Phải chăng đó cũng là lời khẳng định về thiên chức của những người cầm bút. Đây là tình huống được tác giả xây dựng đầy hợp lý để có cơ hội giãi bày về cái nghề của mình. Thi nhân kể về cuộc sống - đó là một cuộc sống nghèo khổ, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, ở trần gian không tìm được tri âm phải lên cõi trần để thỏa nguyện nỗi lòng:
Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Nhà thơ Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ hiện đại không chỉ bởi hơi thở mới mẻ trong thơ ông, cái tôi hiên ngang trong các áng văn thơ của ông mà còn bởi ông là người đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”. Hầu Trời
Qua đoạn thơ ấy ta thấy hiện lên một bức tranh đầy chân thực và cảm động về cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội bấy giờ, một cuộc sống cơ cực, không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn… Cả đoạn văn là cảm hứng hiện thực bao trùm.
Ở đây nhà thơ cũng ý thức  rất rõ về trách nhiệm của mình là truyền bá thiên lương. Điều đó giúp ta chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không thoát ly hoàn toàn. Ông vẫn ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ với đời là góp phần đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn. Đó là sự khẳng định mình trước cuộc đời, khao khát được gánh vác việc đời.
Với Hầu trời, Tản Đà đã đem lại cho văn học Việt Nam đầu thế kỷ một luồng không khí mới. Qua một câu truyện tưởng tượng đầy hào hứng. Ta đã thấy một cái tôi ngông nghênh, hào hoa và cái tôi cô đơn bế tắc trước thời vận. Tản Đà cũng đã tự tin khẳng định tài năng nói lên quan điểm văn chương thực hiện thiên lương của mình. Viết văn hay làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn là xứ mạng mà trời đã giao cho nhà thơ. Với cách kể truyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc, ngôn ngữ thơ tinh tế, gợi cảm, cảm xúc tự nhiên phóng túng trong thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do đã cho ta một tuyệt tác thi ca kỳ diệu.
3/ Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu (1889 - 1939), xuất thân trong một gia đình khoa bảng ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nay là huyện Ba Vì, Hà Nội, một vùng có khung cảnh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình. Cha là cử nhân Hán học Nguyễn Danh Kế, làm quan tới chức Án sát. Mẹ là bà Phủ Ba cũng thông thạo chữ nghĩa và thích văn chương thi phú. Thi sĩ có hai câu thơ rất hay giới thiệu về vẻ đẹp của quê hương mình: 
Nước gợn sông Đà con cá nhảy,
Mây trùm non Tản cái diều bay.

Sông Đà, núi Tản và mây trắng xứ Đoài đã gợi ý cho nhà thơ lấy bút danh:
Tản Viên ở trước mặt,
Đà Giang bên cạnh nhà.

Tản Đà.
Bút danh ấy đã được ghi nhận là mốc son trong lịch sử phát triển của thơ ca tiếng Việt và sống mãi trong lòng người yêu thơ suốt bảy thập kỉ qua. Tản Đà có những đóng góp rất quan trọng cho nền văn học nước nhà. Các sáng tác tiêu biểu của ông là: Khối tình con I, II, III (thơ); Giấc mộng con I, II(truyện phiêu lưu viễn tưởng),Còn chơi (thơ và văn xuôi),…
Tản Đà là người của hai thế kỷ. Thuở nhỏ, ông cũng theo đuổi con đường cử nghiệp của cha nhưng thi Hương mấy lần không đậu. Thời ấy, Hán học cũng đã suy tàn nên ông chuyển qua học chữ quốc ngữ rồi sáng tác thơ, viết văn, làm báo. Ông chua chát tự nhận xét: Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang, Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng. Là nhà Nho nhưng Tản Đà không chịu khép mình trong khuôn khổ Nho giáo mà lại có những phá cách rất táo bạo. Tính chất giao thời thể hiện rất rõ trong cuộc đời, lối sống, học vấn và sự nghiệp văn chương của Tản Đà.
Trong sáng tác, tuy Tản Đà vẫn thường sử dụng những thể loại cổ điển nhưng cảm hứng thì lại rất mới mẻ. Thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái. Bởi vậy nên nhà nghiên cứu phê bình văn học Hoài Thanh đã trân trọng xếp Tản Đà ở vị trí đầu tiên trong cuốn Thi nhân Việt Nam.
Bài Hầu Trời in trong tập Còn chơi, xuất bản năm 1921, nằm trong mạch cảm hứng lãng mạn đậm chất ngông của thi sĩ Tản Đà - một vị trích tiên như tác giả tự nhận, vì đánh vỡ chén ngọc mà bị Thượng đế đày xuống hạ giới. Có lúc chán chường trước cảnh đời nhiễu nhương, đen bạc, thi sĩ than thở:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi,
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
(Muốn làm thằng Cuội).
Có khi cao hứng, thi sĩ còn mơ lạc bước vào chốn Thiên Thai, được gặp gỡ các giai nhân như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi… đàm đạo văn chương với Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… Còn lần này thì thi sĩ đã được mời lên tận thiên đình để đọc thơ Hầu Trời!
Qua bài thơ này, Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện “cái tôi” cá nhân - một “cái tôi” ngông nghênh, phóng túng lạ kỳ!. Đó cũng là cách thể hiện ý thức về tài năng, giá trị đích thực của bản thân và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời. Có thể tóm tắt nội dung bài thơ như sau: Đêm khuya thanh vắng, thi sĩ buồn nên đun nước pha trà uống rồi cất tiếng ngâm văn. Tiếng ngâm sang sảng vọng tới trời cao. Hai tiên nữ xuống truyền lệnh Trời đòi thi sĩ lên hầu chuyện. Thi sĩ được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc văn thơ. Trời và chư tiên hết lời khen ngợi, tán thưởng. Trời truyền hỏi danh tính, thi sĩ kể lể tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn dưới hạ giới. Trời an ủi, khuyên nhủ, thi sĩ cảm kích lạy tạ ra về. Cuối cùng là cuộc chia tay đầy xúc động của thi sĩ với Trời và chư tiên.
Cách vào đề của bài thơ khá thú vị, khiến người đọc cảm nhận được tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và lối dẫn dắt rất có duyên của Tản Đà:
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.
Giấc mơ đêm qua mà thi sĩ là người trong cuộc cũng không biết rõ là có hay không, thực hay hư. Nếu là mơ thì ắt hẳn không thể có thực; nhưng mọi chi tiết, hình ảnh vẫn hiện ra rõ ràng, nên không thể không tin. Bởi vậy mà ở ba câu tiếp theo, thi sĩ cả quyết khẳng định như đang đối thoại với người nghe kể vậy. Ngữ điệu mạnh mẽ làm nổi bật yếu tố thật: Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên - sướng lạ lùng. Tất cả đã khơi gợi sự hiếu kì và cuốn hút người nghe nhập cuộc.
Ở những khổ thơ tiếp theo, thi sĩ đã kể về tình huống mình được Trời mời lên Thiên đình:
Nguyên lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.
Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:
– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.
Ước mãi bây giờ mới gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chương nào có hay cho lắm
Trời đã sai gọi thời phải lên.
Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây!
Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy.
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.

Tình huống câu chuyện bắt đầu từ Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà của thi sĩ dưới hạ giới làm cho Trời mất ngủ. Rõ ràng, cái duyên may được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của thi sĩ. Dường như tác giả muốn nói rằng câu chuyện tuy không có thật nhưng lại rất thật về tâm sự và nỗi niềm của mình. Chuyện bịa mười mươi mà xem ra rất tự nhiên, hấp dẫn.
Khi chư tiên đã tề tựu đông đủ, Trời liền:Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe!”. Được lời như cởi tấm lòng, thi sĩ vội vàng cung kính:“Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”. Thi sĩ đọc văn thơ của mình với tất cả sự phấn khích và thăng hoa của cảm hứng. Có lẽ chưa bao giờ thi sĩ lại hứng thú đến như vậy. Không để sót một khoảng trống nào của thời gian, thi sĩ đọc liền một mạch:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Thi sĩ cao hứng và tự đắc vì có lẽ đây là dịp hiếm hoi để Trời và các chư tiên thưởng thức thơ của thi sĩ sông Đà, núi Tản. Thính giả nghe thơ cổ vũ thật nhiệt thành. Các chư tiên đồng thanh tán thưởng và hồn nhiên bộc lộ sự hâm mộ qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ… Điều đó làm cho cảm hứng trong lòng thi sĩ mỗi lúc một dâng cao:
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.
Thi sĩ cao hứng tự nhận:
Văn đã giàu thay, lại lắm lối.
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười.
Cuộc đọc văn đã khép lại mà ấn tượng sâu sắc của nó khiến:
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
– “Anh gánh lên đây bán chợ trời!”
Trời nghe thi sĩ đọc văn đã không tiếc lời khen tặng và những lời khen đó chứng tỏ Trời có khả năng thẩm văn, thẩm thơ tinh tế:
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít.
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.
Đây là đoạn thơ thú vị, độc đáo nhất trong bài. Tác giả cố tình mượn lời Trời để ca ngợi thơ văn mình. Rõ ràng ý thức về “cái tôi” cá nhân của Tản Đà rất cao và thi sĩ không hề vô lý khi tự khen đến thế: Văn đã giàu thay lại lắm lối. Lời văn, khí văn được so sánh với những vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên: như sao băng, như mây chuyển, như gió thoảng, như sương, như mưa sa, như tuyết… Tưởng chừng tinh hoa của núi Tản sông Đà đã được thu cả vào hồn thơ thi sĩ. Đoạn thơ trên đã khai thác tối đa tác dụng của các biện pháp tu từ để thể hiện đầy đủ mọi cung bậc trầm bổng, mạnh mẽ, tinh tế và linh diệu của cảm xúc đang thăng hoa.
Tình huống Hầu Trời bất ngờ quả đã cho Tản Đà một cơ hội tuyệt vời để phô bày tài năng văn chương của mình trước thiên hạ. Thật thú vị khi tất cả nhân vật trong câu chuyện đều có tâm trạng hứng khởi tột độ, từ thi sĩ đến chư tiên và nhất là Trời - một ông Trời khá bình dân trong cung cách cư xử, nói năng. Điều đáng chú ý là thi sĩ chỉ cao hứng tột độ như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm với mình mà thôi. Chứ dưới hạ giới, thi sĩ dễ đâu tìm được người tri âm tri kỷ như vậy?! Lời ban khen của Trời hẳn là sự thẩm định, đánh giá chính xác nhất, không ai có thể nghi ngờ hay bác bỏ. Đúng là một cách tự khẳng định rất ngông, rất Tản Đà, xưa nay chưa từng có!
Người đọc có cảm giác như thi sĩ vô cùng tự hào khi khẳng định và ca ngợi tài năng văn chương của mình. Chưa có tác giả nào dám mạnh dạn, công nhiên như thế. Có lẽ một cuộc cách mạng về thơ ca thực sự đã được bắt đầu từ chính Tản Đà - thi sĩ được coi là “cây cầu nối” giữa thơ cũ và thơ mới.
Thể theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:
– “Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa Cầu
Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt”.

Trời ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại:
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ trình lên Thượng đế trông
– “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông”.
Lúc ấy, Trời mới phán rằng:
Trời rằng: “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay”.
Được lời như cởi tấm lòng, Tản Đà trình bày một mạch những nỗi niềm bức xúc của mình chất chứa bấy lâu nay. Qua lời Trời, Tản Đà nói đến nhiệm vụ truyền bá thiên lương mà Trời giao cho, (giải thích để loài người hiểu rằng lương thiện vốn là bản tính trời sinh). Điều đó chứng tỏ Tản Đà tuy lãng mạn, ngông nghênh nhưng không hoàn toàn thoát ly hiện thực mà vẫn có ý thức trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời. Đấy cũng là một cách tự khẳng định mình.
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong đoạn thơ dưới đây, thi sĩ lại sử dụng bút pháp tả thực cụ thể, tỉ mỉ đến từng chi tiết:
– “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người mực người thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng

Học ngày một kém tuổi ngày cao
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều
Trời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo”.
Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về văn chương và nghề văn, tuy vậy người đọc vẫn có thể hình dung ra phần nào về nội dung của hoạt động tinh thần đặc biệt này. Đối với Tản Đà, văn chương không còn đơn thuần là một khái niệm tinh thần cao siêu mà đã trở thành một nghề kiếm sống như bao nghề khác, có người bán kẻ mua và thị trường văn chương cũng hết sức phức tạp. Vì thế mà nhà văn, nhà thơ không dễ thành công.
Tản Đà đã vẽ ra một bức tranh hiện thực trần trụi, nghiệt ngã về nghề văn bằng ngôn ngữ đời thường. Đó là cảnh sống nghèo khổ: Trần gian thước đất cũng không có; thi sĩ đành phải mưu sinh bằng công việc viết văn, làm thơ và xuất bản mà vốn liếng chẳng có gì ngoài ngòi bút: Giấy người mực người thuê người in, Mướn cửa hàng người bán phường phố. Người nghệ sĩ phải cam chịu cảnh: Văn chương hạ giới rẻ như bèo, Kiếm được đồng lãi thực rất khó, Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều, Lo ăn lo mặc hết ngày tháng… Kể đến đây, cảm xúc của thi sĩ chợt ngậm ngùi, chua chát, khác hẳn với cảm xúc trữ tình bay bổng, đắc ý khi đọc thơ cho Trời nghe.
Tất cả những điều ấy đã hiện ra nhiều lần trong thơ văn Tản Đà, một thi sĩ tài hoa hơn người mà cả đời phải sống trong tình cảnh nghèo khổ, quẫn bách:
Hôm qua chửa có tiền nhà,
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào.
Đi ra rồi lại đi vào,
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ.
Về cuối đời, ông từng phải chuyển qua nghề xem tướng số để kiếm ăn sống lay lắt qua ngày; rồi mở lớp dạy Hán văn, quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng, ông chết trong cảnh túng bấn, cơ cực rất thương tâm!
Giấc mơ Hầu Trời phải chăng là biểu hiện tha thiết, mãnh liệt của khát vọng được khẳng định tài năng của thi sĩ giữa chốn văn chương hạ giới rẻ như bèo và thân phận của người sáng tạo bị xã hội rẻ rúng, khinh khi. Vậy thì chỉ có thể lên thiên đình thi sĩ mới có thể tìm được tri âm tri kỷ, mà chuyện này chỉ có thể xảy trong giấc mộng mà thôi! Dường như Trời cũng thấu hiểu nỗi niềm bức xúc của thi sĩ nên chân thành khuyên nhủ:
Rằng: “Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”.

Cuộc chia tay giữa thi sĩ với Trời và chư tiên diễn ra quyến luyến và xúc động. Ngày đã rạng, tiếng gà xao xác gáy. Thi sĩ tỉnh mộng nhưng ấn tượng về cuộc hầu Trời vẫn còn nóng hổi khiến thi sĩ bâng khuâng tiếc nuối và ao ước đêm nào cũng được lên thiên đình để hầu Trời.
Câu chuyện về cuộc đọc văn Hầu Trời và các chư tiên đã phản ánh khá rõ tâm hồn và tính cách của Tản Đà - một thi sĩ ngông và hay sầu mộng. Đó là một Tản Đà ý thức rất rõ về tài năng của mình, dám đàng hoàng, công khai thể hiện và khẳng định một cách tự hào, tự đắc về cái tài văn chương hơn người ấy. Thi sĩ chẳng ngần ngại tự khen mà còn mượn những lời tán dương của Trời cùng các chư tiên để đề cao thơ văn mình. Điều đó xuất phát từ niềm hãnh diện của một hồn thơ đã hấp thu được linh khí của sông Đà, núi Tản. Trong một bài thơ tự vịnh, Tản Đà đã kiêu hãnh viết:
Vùng đất Sơn Tây nảy một ông,
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng.
Núi Tản sông Đà ai hun đúc,
Bút thánh câu thần sớm vãi vung…
“Cái tôi” đó cũng thật ngông khi dám tìm lên tận thiên đình để khẳng định tài năng của mình trước các chư tiên và Ngọc Hoàng thượng đế!
Thái động ngông trong văn chương chính là phản ứng của những nghệ sĩ tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, không chịu trói mình trong khuôn khổ chật hẹp có sẵn. Ngông cũng là thái độ của những người trí thức có nhân cách cứng cỏi, quay lưng ngoảnh mặt trước một xã hội bất công, nhiễu nhương mà họ không chấp nhận. Ngông trong văn chương bao giờ cũng gắn liền với tài hoa và nhân cách của người cầm bút. Tản Đà không phải là một trường hợp cá biệt trong văn học Việt Nam mà trước ông đã có quan Thượng Nguyễn Công Trứ với: Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng, ngẩng cao đầu thách thức: Trong triều ai ngất ngưởng như ông?. Và chửi thói đời xấu xa bằng một câu thề như dao chém đá: Kiếp sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo… Tú Xương thì chửi thẳng vào mặt cái xã hội thối nát, đảo điên: Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo, Nhân tình trắng thế lại bôi vôi… và định: Phen này ông quyết đi buôn lọng, Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.
Tuy nhiên, cái ngông của Tản Đà có những điểm đặc thù do chịu ảnh hưởng của buổi giao thời dở Tây dở ta. Tản Đà phản ứng xã hội bằng thái độ ngông của một nghệ sĩ tài hoa tài tử. Thái độ ngông nghênh, tự đắc dường như được thi sĩ cố ý phóng đại trong bài Hầu Trời cốt để gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Nhà thơ đánh giá văn mình hay đến mức Trời và các chư tiên phải hết lời tán thưởng. Như thế tức là dưới hạ giới, không ai xứng đáng là kẻ tri âm tri kỷ với mình. Tản Đà còn tự nhận mình là một vị trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông, nhưng lại được Trời trao cho sứ mệnh cao cả là truyền bá thiên lương cho loài người.
Việc nhà thơ thêu dệt nên chuyện Hầu Trời hàm chứa một sự thách thức đối với cái nhìn đầy thành kiến về bậc thang giá trị của con người trong xã hội tôn thờ đồng tiền, coi nhẹ các giá trị tinh thần. Cái ngông của Tản Đà có nhiều điểm tương đồng với cái ngông của Nguyễn Công Trứ thể hiện qua bài Bài ca ngất ngưởng: Ý thức rất cao về tài năng của bản thân, dám nói giọng bông lơn về những đối tượng như Trời, Tiên, Bụt; dám khẳng định “cái tôi cá nhân” vượt ra ngoài khuôn khổ của luân lý, đạo đức Nho giáo.
Điểm khác biệt giữa hai người là Nguyễn Công Trứ tuy ngất ngưởng tột bậc nhưng vẫn giữ: Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, còn Tản Đà lại không coi đó là chuyện hệ trọng. Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe thuộc phạm trù văn chương chứ không phải là cái tài “kinh bang tế thế” như Nguyễn Công Trứ. Rõ ràng, thi sĩ Tản Đà đã rũ bỏ được khá nhiều gánh nặng trách nhiệm mà thông thường các nhà Nho từ trước tới nay vẫn tự đặt trên vai mình (Vũ trụ nội mạc phi phận sự) để sống thoải mái hơn với quyền tự do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới.
Bài thơ Hầu Trời được viết theo thể thất ngôn trường thiên khá tự do về số lượng câu; bố cục theo lối tự sự, diễn biến câu chuyện theo trình tự thời gian. Vì tác giả là nhân vật chính nên cảm xúc bộc lộ tự nhiên, thoải mái và cách kể chuyện rất hóm hỉnh, có duyên. Ngôn ngữ bình dân và giọng điệu hài hước rất ăn ý, hòa hợp, hỗ trợ cho nhau nhằm thể hiện sinh động thái độ hào hứng của thi sĩ trước một đối tượng đặc biệt đang say sưa nghe mình đọc văn, ngâm thơ. Quan hệ giữa thi sĩ với Trời và chư tiên xem ra cũng dân dã, thân mật như giữa những người đồng thanh tương khí.
Lối kể bịa mà như thật và nụ cười hóm hỉnh tạo nên nội dung trữ tình của bài thơ, giúp người đọc hiểu sâu hơn về con người thi sĩ. Những yếu tố nêu trên là một phần tất yếu của bài thơ, hoàn toàn xứng hợp với câu chuyện Hầu Trời mà tác giả hư cấu. Ngôn ngữ trong bài thơ rất gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Từ dùng nôm na, bình dị, lại được đặt trong ngữ điệu nói nên càng ý vị :Văn dài hơi tốt ran cung mây! Văn đã giàu thay, lại lắm lối… Trời nghe Trời cũng bật buồn cười… Chư tiên ao ước tranh nhau dặn,… Đặc biệt, dưới ngòi bút của tác giả, Trời và chư tiên không có một chút gì là đạo mạo. Họ biểu hiện cảm xúc theo một cung cách rất đỗi… bình dân :lè lưỡi, chau mày, lắng tai đứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau dặn,… Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của các đấng cao siêu mà có những cử chỉ, điệu bộ ngộ nghĩnh, rất “người” như thế, ai mà chẳng buồn cười và khâm phục cách kể chuyện tự nhiên, sinh động của thi sĩ Tản Đà. Các đoạn đối thoại và miêu tả phản ứng tâm lí của từng nhân vật đan xen với nhau khiến người đọc có cảm tưởng mình đang được chứng kiến hoặc tham gia vào câu chuyện, cùng nếm trải, chia sẻ những phút sung sướng lạ lùng và đắc ý tột bậc của người kể chuyện.
Hầu Trời là bài một thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới mẻ về mặt thi pháp, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, người đọc có thể nhận ra đôi điều về xu hướng phát triển của thơ ca Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XX.
Ngân Anh
Theo https://yeuvan.com/




Gió mùa - Tạp bút Phương Uyên

Gió mùa - Tạp bút Phương Uyên Một mình lang thang chiều cuối thu. Cơn gió đầu mùa đã về mang theo những không khí se lạnh đầy xao xuyến, t...