Thứ Ba, 31 tháng 10, 2023

Năm tính nhân bản của tương tác luận

Năm tính nhân bản của
tương tác luận

Con người không ngừng đi tìm những giải pháp cho đời sống. Đời sống của con người từ nguyên thủy đến hiện đại luôn bị những nỗi đau dày vò… Tại sao tôi sống, tôi hiện hữu? Tại sao tôi chết? Sau khi chết tôi ở đâu hay hoàn toàn tan biến? Sống để làm gì mà vui thì ít còn đau khổ triền miên? Kiếm miếng ăn đầy lao nhọc, luôn bị ai đó đè đầu cưỡi cổ, ai đó lừa gạt, phản bội, xúi dại? 
I. Từ tương tác tự nhiên (thiên nhiên) đến tương tác nhân sinh.
Con người không ngừng đi tìm những giải pháp cho đời sống. Đời sống của con người từ nguyên thủy đến hiện đại luôn bị những nỗi đau dày vò
Nhiều học thuyết có hệ thống từ hơn 2000 năm qua đưa ra giải pháp, mong xóa bỏ tận gốc đau khổ của hành tinh xanh. Hàng trăm triết gia từ Đông sang Tây, suốt dọc lịch sử nhân loại ra sức trình bày giải pháp, Thầy và học trò của các học thuyết này đã có nhiều thành tựu, song cũng chưa hơn một liều thuốc giảm đau. Căn bệnh của nhân loại chưa trị được tân gốc, và có phải cần đặt ra giết sạch vi trùng và siêu vi không; như những bậc thầy đưa ra “diệu kế” của mình, học trò thực hiện quyết liệt, thậm chí bằng những kế sách phi nhân ác độc?
Có bài thơ sau:
tôi đi giữa đêm lạnh lắng từng nhịp bước nẻo đời
vẫn thấy chơi vơi
tôi qua giữa chặng đường
còn hoài nghi gì nữa …?
đạo lý của con người
biến hóa biết bao đời và thay đổi bấy nhiêu nơi
người ơi, mặt đường nhựa đen quẩn quanh trong thành phố
đi tới đi lui to nhỏ được gì?
lướt tới nữa mấy khi gần chân lý
lời đáp ngàn năm xưa Chúa nghĩ vẫn chưa thành.
(Giữa Đêm Noel – 25/12/1985)
Rõ ràng nỗi thất vọng trước đấng toàn năng cũng là nỗi thất vọng trước những đấng cứu nhân độ thế khác, trong đó có các bậc thầy tư tưởng và triết gia .
Bài viết này không viết lại lược sử triết học, cũng không phê phán một học thuyết nào vì việc đó có rất nhiều sách đã xuất bản trên toàn cầu. Hơn nữa, học thuyết nào cũng có nhân tố đúng, ít nhiều có đóng góp cho một giai đoạn thực tiễn của lịch sử, nhưng như những nấc thang lên cao dần, học thuyết sau tiệm cận gần thực tại hơn học thuyết trước.
Tiến trình của triết học cũng là tiến trình của khoa học. Vì vậy, những khám phá toán học, vật lý và sinh học thường là chứng liệu cho tư duy triết học. René Descartes (1596 – 1650) được Phương Tây tôn vinh là người sáng lập triết học hiện đại, ông áp dụng phương pháp quy nạp của khoa học, trước hết của toán học, vào tư duy triết học. Từ tiểu luận triết học (Essais philosophiques) xuất bản năm 1637. Tác phẩm gồm bốn phần, ba phần đầu nói về hình học; quang học, sao băng và phần 4 quan trong nhất: trình bày về phương pháp (Discours de la méthode) mới thật sự mỗ xẻ về triết lý.
Có nhiều lộ trình để đi đến triết lý, không nhất thiết cùng lộ trình với René Decartes. Ở Phương Đông thông qua tri thức xã hội và lịch sử cũng dẫn đến tư duy triết lý như: Khổng Tử, Mạnh Tử (phương Tây có cùng trường hợp là Aristole; Platon ; Socrate). Độc đáo là Phật Thích Ca và đệ tử thông qua thiền định, trực cảm tâm linh, một kênh hiểu biết khác, ấy là tâm thức. Tuy nhiên, lộ trình khởi thủy của triết học phương Tây luôn dính liền với tri thức khoa học, vật lý, hình học, thiên văn học. Càng về sau càng dính dáng sâu với khoa học xã hội như xã hội học; kinh tế học; lịch sử; mỹ học… Tóm lại, triết học là bộ khung tư duy của các lãnh vực khoa học và chiều ngược lại triết học cũng cần hấp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội, như gốc cây hấp thu dưỡng chất do lá cành quang hợp.
Một thí dụ cho luận điểm trên là triết học của Karl Marx (1818- 1883) bắt nguồn từ triết học, kinh tế học và xã hội học, cộng với sử dụng nhiều thành tựu của toán học. Trong tác phẩm Biện Chứng Của Tự Nhiên, để chứng minh quy luật phủ định của phủ định, Engel đã dùng ý niệm toán (-a).(-a) = +a (trừ a nhân với trừ a bằng cộng a).
Tuy nhiên Toán học là chuỗi suy luận từ một định đề ban đầu, cũng chỉ là một hệ thống duy lý, chưa hẳn từ thực tiễn nhân sinh. Song, chính toán học là công cụ cốt lõi để giải quyết nhiều lãnh vực của nhân sinh. Định đề Euclid: “Qua một điểm nằm ngoài một đường thẳng ta vẽ được một và chỉ một đường thẳng song song với đường thẳng đã cho.” Mỗi định đề cũng chỉ đáp ứng cho một mặt của thực tại. Bên cạnh Eucid (330-275), còn có hai đề xuất: qua một điểm nằm ngoài một đường thẳng không kẻ được một đường thẳng song song nào (Riemann 17 tháng 9, 1826 – 20 tháng 7, 1866) và có thể kẻ vô số những đường thẳng song song với nó (Lobatchevsky (1 tháng 12 năm 1792 – 12 tháng 2 năm 1856)). Như vậy là hình học có đến 3 định đề sau hơn 2000 năm tư duy qua nhiều thế hệ. Phải chăng hình học đã đi đầu cho quan niệm “đa chân lý”; đa thực tại. Mãi đến giữa thế kỷ 20, Vật lý mới có thuyết tương đối mở rộng , và thuyết lượng tử tiếp tục củng cố cho quan niệm đa thực tại. Đồng thời triết học mới ra đời như hiện tượng luận, chủ nghĩa hiện sinh vô thần để chối bỏ định mệnh do thượng đế đặt để, thực chất xã hội cũng đa quyền lực, không chỉ có quyền lực duy nhất của hoàng đế, hoặc đảng của tập đoàn lợi ích nào đó, thậm chí mỗi người là quyền lực của chính mình. Nhà văn Nga Dostoievsky viết: “nếu không có thượng đế thì tôi là thượng đế”.
Nhận biết được tương tác nhân sinh để chấm dứt thời kỳ biệt phái, ngông nghênh của vài vị tự cho mình là thiên tài, thẩm định lại vấn đề cơ bản của triết học, chấm dứt tranh cải lực nào quyết định thân phận con người.
Trước khi kết luận thẩm định vấn đề cơ bản của triết học, nên tìm hiểu những tương quan sau đây:
Những tương tác tự nhiên dẫn đến những tương tác nhân sinh:
Nếu trong vật chất, tương tác mạnh (a)) diễn ra trong nhân nguyên tử, do những hạt sứ giả luôn trói chặt nhân nguyên tử (1), tương ứng diễn ra trong nhân sinh là tương tác bản năng, chính bản năng sinh tồn làm con người hiện hữu, bản năng là nhân tố chính của tập quán, truyền thống, bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng người.
Tương ứng với tương tác yếu (b) là tương tác tâm thức, do năng lượng tâm linh vượt qua nhiều vũ trụ khác nhau nên thoạt nhìn không được mạnh như tương tác bản năng, song chúng quyết định tài năng, bản lĩnh, thành tựu của con người tương tự như hạt sứ giả W và Z có vai trò quan trọng trong cấu tạo vũ trụ.
Hai tương tác nhân sinh: bản năng và tâm thức ảnh hưởng mạnh mẻ nhất cho từng nhân thân (cá nhân) , cũng như tương tác mạnh và tương tác yếu luôn diễn ra trong thế giới vi mô vậy.
Tương tác hấp dẫn (c – trọng trường) và tương tác điện từ (d) diễn ra trong thế giới vĩ mô, tương ứng như vậy tương tác tri thức và tương tác quyền lực diễn ra trong cộng đồng xã hội loài người.
Tương tác tri thức làm xã hội loài người đứng vững và phát triển khoa học, cũng như tương tác hấp dẫn giữ vật thể trên trái đất không bay vào khoảng không vô định, rộng hơn giữ cho hệ mặt trời bền vững, giữ cho các thiên hà tồn tại trong vũ trụ đang giãn nở.
Đồng thời, tương tác điện từ diễn ra khắp nơi, ai cũng có thể biết; thấy; chạm phải được. Tương ứng như vậy, tương tác quyền lực cũng phổ biến trong xã hội, từ lực cầm quyền các cấp (mà người dân thấp cổ bé miệng mọi thời kỳ lịch sử thường ví nó như tai ách; gông xiềng), lực giáo quyền, đến lực người đứng đầu một hội đoàn; kể cả gia đình… đều chi phối mỗi cá thể; đương nhiên tương tác quyền lực cũng có hai mặt cũng như điện có thể thắp sáng và cũng có thể làm chết người trong nháy mắt.
Đến đây thấy rõ bốn tương tác nhân sinh là bốn lực căn bản duy trì cộng đồng và cá thể của xã hội loài người tồn tại và phát triển. Không nên chỉ nhấn mạnh và khuyếch đại một lực tương tác nhân sinh sẽ dẫn đến sai lầm trong nhận thức và thực tiễn. Trong lịch sử nhân loại có triết gia xem bản năng chi phối mọi hành vi của con người, nghĩa là chỉ nhấn mạnh tương tác bản năng. Ngược lại, có học thuyết chỉ thấy bảo vệ quyền lợi giai cấp, bảo vệ lợi ích kinh tế là động cơ để phát triển (trong đó giành quyền sở hữu tư liệu sản xuất), nghĩa là chỉ biết có tương tác quyền lực mà thôi.
Mặt khác, có triết gia chủ trương lịch sử văn minh là do chủng tộc thông minh, với nhiều cá thể siêu nhân điều khiển đám đông, triết gia ấy chỉ thấy có tương tác tri thức. Tương tác tâm thức bị một số người lợi dụng đề cao mê tín, thần quyền bóp méo tương tác tâm thức thành quyền lực của một đấng siêu hình nào đó, phủ nhận vai trò của tương tác khác dẫn đến phủ nhận khoa học, phủ nhận bản năng tốt của con người.
Thử tưởng tượng trong thế giới vật chất nếu chỉ có một tương tác, mà ba tương tác còn lại vắng mặt, chắc chắn sẽ không có vũ trụ, không có hệ thái dương và dĩ nhiên cũng chẳng có trái đất. Nhờ có đủ bốn tương tác trong tự nhiên mà sinh vật người mới hình thành và tồn tại. Vì vậy cá nhân và cộng đồng người cũng cần có đủ bốn tương tác nhân sinh mới có thể tồn tại văn minh được.
Từ bốn tương tác nhân sinh: tương tác tri thức – tương tác quyền lực – tương tác bản năng – tương tác tâm thức dẫn đến cần điều chỉnh vấn đề cơ bản của triết học.
II/ đổi mới các quan niệm triết lý:
1/ Không còn ranh giới rạch ròi giữa vật chất và ý thức, cũng như không có ranh giới giữa sóng và hạt trong vật lý vậy. Nhận thức triết học từ đầu thế kỷ thứ 20 trở về trước chỉ giới hạn trong thế giới ba chiều không gian với một chiều thời gian (mà thực chất cũng chính là một chiều không gian mà thôi). Nên những nhà vật lý quan niệm rằng nhân loại trên trái đất đang sống trong vũ trụ bốn chiều không gian (2), bao hàm khái niệm bên cạnh không gian bốn chiều còn có những đa chiều không gian khác nữa. Bị giới hạn trong bốn chiều không gian nên triết học chỉ biết có vật chất và ý thức, dẫn đến biện chứng pháp duy tâm hoặc duy vật, dẫn đến tầm nhìn duy lý hạn chế và sai lệch trong nhân sinh. Thành tựu của thuyết tương đối rộng và thuyết lượng tử cũng như những thành quả thực nghiệm về 12 hạt lepton, 6 hạt boson (3) làm thay đổi ý niệm về vật chất và tinh thần, cùng lúc những thành tựu về vật lý vĩ mô, về vũ trụ hướng tới khái niệm năng lượng vô hình của những vũ trụ đa chiều không gian, tạm gọi là năng lượng tâm linh. Phải chăng năng lượng tâm linh vừa tham gia vào cấu trúc vũ trụ bốn chiều, vừa kết nối các tương tác tự nhiên, vừa là kênh liên thông giữa các vũ trụ đa chiều?
2/ Vì vậy, nên bổ sung vào quan niệm của Descarte vấn đề cơ bản của triết học không chỉ liên quan đến hai ý niệm vật chất và tinh thần mà cần bỗ sung ý niệm tâm linh, cho nên con người cũng phải có ba thành tố: tâm linh – thân xác – ý thức.
3/ Chính năng lượng tâm linh dẫn đến nội dung mới hơn của biện chứng pháp, biện chứng pháp tâm linh (có thể gọi là biện chứng vô thường) sẽ giúp con người không xung đột vũ trang; không có kẻ thù giữa người và người.(4)
4/ Quan niệm về cái tôi hiện hữu nên nói: “tôi tương tác là tôi hiện hữu” để thay thế câu nói của Descarte: “Tôi tư duy là tôi hiện hữu” và câu nói của Albert Camus: “Tôi nổi dậy là tôi hiện hữu”.
Bốn điểm kết của bài viết này cũng là bốn vấn đề triết học thiết thực cần đào sâu nghiên cứu đến nơi đến chốn. (Tháng 3/2014)
III. Tôi Tương Tác là tôi hiện hữu
Nếu con người sống chỉ cần biết thỏa mãn những nhu cầu sinh lý chắc chắn không có triết học, thế mà triết học ra đời từ buổi bình minh của nhân loại? Vì con người khác những động vật khác là sớm tự hỏi: Tại sao tôi sống, tôi hiện hữu? Tại sao tôi chết? Sau khi chết tôi ở đâu hay hoàn toàn tan biến? Sống để làm gì mà vui thì ít còn đau khổ triền miên? Kiếm miếng ăn đầy lao nhọc, luôn bị ai đó đè đầu cưỡi cổ, ai đó lừa gạt, phản bội, xúi dại? Từ những tai ách vĩ mô như: bão lụt; hạn hán; núi lửa, tuyết lở, động đất đến vi mô như: vi khuẩn, siêu vi gây bệnh dịch, bệnh trầm kha, kể cả hóa chất vô cơ… Thao thức trước những khổ nạn ấy và tìm câu trả lời rốt ráo chính là triết học.
Từ Tây sang Đông trong hàng vạn năm qua con người tin rằng mình được sinh ra từ nhiều nguyên nhân hay do một nguyên nhân siêu nhiên nào đó, nguyên nhân ấy là các thần linh hay do một thương đế. Cuối cùng vài ngàn năm gần đây có vài học thuyết lý giải về con người, từ các tôn giáo đến các thuyết khoa học đương đại. Từ quan niệm nguồn gốc dẫn đến con người hiện hữu ra sao?
Tuy nhiên, hiện hữu là gì còn tùy thuộc vào quan niệm của cộng đồng và từng cá thể.
Các triết gia phương Tây thừa nhận hiện hữu của con người không tùy thuộc vào ý muốn con người. Theo thần quyền cho rằng con người do Thượng đế sinh ra, theo duy vật con người là vật thể khách quan. Tuy nhiên, khi Decarte nói tôi tư duy với hàm nghĩa tôi hoài nghi tất cả, chỉ khi nào tôi dùng lý trí chứng minh có thượng đế thì tôi mới tin. (nhằm phản bác tư tưởng cho rằng thượng đế là không thể chứng minh, vì ở ngoài phạm vi lý trí của con người). Decarte vận dụng duy lý để chứng minh bản thể là thượng đế, và vì vậy tôi chứng thực có tôi, (cogito ergo sum) viết theo nguyên bản tiếng Pháp là “je pense donc je suis”, (Cogito ergo sum – tôi tư duy là tôi hiện hữu), câu nói nổi tiếng này đề cao ba ý nghĩa:
1/ Lý trí là hàng đầu, đề cao chủ nghĩa duy lý
2/ Suy luận là phương pháp duy nhất đúng của hiểu biết
3/ Dẫn đến lãnh vực tinh thần quyết định tất cả.
Cho đến thời điểm ấy, Decarte là một bộ óc xuất sắc nhất, tạo ra bước ngoặt tự quyết của con người, không mù quáng trước thiên nhiên và thần thánh.
Cùng đi trên lộ trình tự khai phá đó, Albert Camus, trên nền tảng triết học duy vật biện chứng nói chung, nói riêng là triết học hiện sinh vô thần do Jean Paul Sartre khởi xướng, Albert Camus, nhà văn triết gia và nhà hành động đã nói: “Je me revolte donc je suis” (tôi nổi dậy là tôi hiện hữu) – Đây cũng là một phát hiện lừng danh, đúng cho chiều dài lịch sử của nhân loại tới tận ngày nay, một lịch sử người áp chế và bóc lột người. Từ thương cổ ai cũng biết: người là chó sói của con người (homo homini lupus).
Tuy nhiên, sự nổi dậy đó, kể cả từ Paris công xã đến cách mạng tháng 10, từ các nước thuộc địa đến các bộ tộc thiểu số của mỗi cộng đồng, nổi dậy đem lại vài thành tựu trước mắt song đâu cũng vào đấy, mạnh được yếu thua, giàu nô dịch nghèo, quyền lực chi phối tất cả, nước nhỏ thần phục nước lớn, Jean Paul Sartre trong tác phẩm Guồng máy (L’engrenage) đã cảnh báo nước nhỏ khó bề độc lập thật sự.
Như vậy phải chăng chỉ tư duy thôi và nổi dậy thôi (bao hàm làm cách mạng) cũng không thể hiện hữu được!
Phải chăng nên tương tác nhân sinh mới thật sự tồn tại? Nghĩa là tôi không chỉ tư duy, không chỉ hành động mà tôi còn tương tác đầy đủ tôi mới hiện hữu được.
Với những thành tựu mới của vật lý trên nền tảng của thuyết tương đối rộng của Albert Einstein và cơ học lượng tử của Marx Plant dẫn đến thay đổi nhận thức từ nguyên tử đến vũ trụ, từ hạ nguyên tử đến vũ trụ nhiều chiều không gian.
Từ bỏ chất liệu tư duy cũ, con người cần nhận thức đúng đắn hơn về không gian cong và thời gian cũng cong theo, nên phải hiểu lại diễn biến của lịch sử theo cách không chỉ là một đường thẳng tuyệt đối. Đồng thời cũng cảm nhận hết nỗi bơ vơ từ một con người đến một tinh cầu, kể cả một thiên hà vì tất cả đều nổi trôi trong khoảng không, chẳng có chất ê-te nào trong không gian đỡ đần cả, tệ hại như cá phải bơi mà mất tiêu môi trường nước vậy. Tại sao vật thể hiện hữu trong khoảng không trống rỗng ấy được? Bởi vì những viên gạch nguyên tử không phải là khối lượng nhỏ nhất tạo nên cấu trúc của vật thể, chính những hạt hạ nguyên tử với kích thước chỉ bằng một phần triệu của electron, nhỏ hơn nữa so với nguyên tử, ghê gớm hơn hạ nguyên tử chuyển hóa liên tục giữa hạt và sóng, nghĩa là có lúc là khối lượng và có lúc chỉ là năng lượng, nói theo cách người xưa là lúc có lúc không (sắc sắc không không), nên tự nó tồn tại không cần nền, dù ấy là nền của khí ete như những nhà bác học trước đây tin như vậy. Ngay nền nhà cứng chắc xét đến cùng cũng chỉ là những hạt ánh sáng (pho ton) mà thôi, do tương tác điện từ tạo ra. Trong nhân nguyên tử còn có lực tương tác mạnh (1) để cột chặt proton, neutron lại với nhau, giữ cho “viên gạch” nguyên tử bền vững cấu trúc thành phân tử, tế bào cho vạn vật tồn tại. Như vậy tương tác mạnh, hoàn toàn kềm chế tương tác điện từ trong nhân nguyên tử giúp nhân không dễ dàng phân rã trong tự nhiên.
Tương tự như thế, trong nhân sinh tương tác bản năng dần dần bị những tương tác quyền lực, tương tác tri thức và tương tác tâm linh chế ngự, chỉ giữ lại bản năng tốt, nên từ hoang dã tiến dần lên văn minh.
Trong nhân sinh, các tương tác luôn bên nhau để duy trì tồn tại của con người, có lúc nâng đỡ nhau, có lúc triệt giảm mặt tiêu cực của nhau để tổng thể hiện hữu, tức là con người sinh tồn. Có một thiền sư xuất thân là một nhà vật lý người châu Âu có cảm nhận “nhìn ra toàn bộ không gian chỉ là những hạt li ti di động dầy kín mà thôi!”. Nghĩa là con người, động thực vật, công trình xây dựng, đất, đá, núi, sông… xét cho cùng chỉ là những hạt hạ nguyên tử chuyển biến cùng khắp. Với góc độ tự nhiên, ấy là những hạt tương tác của năm loại tương tác vật thể: hấp dẫn; điện từ; mạnh; yếu và kích cỡ.(hạt Higs)
Tương tự như thế tương tác nhân sinh tạo nên sự hiện hữu của cá thể và cộng đồng người.
1/ Tương tác bản năng: Theo định nghĩa phổ thông bản năng là hành vi tự phát, vốn có của sinh vật trước một va chạm, kích thích trong môi trường sống, ý thức không chi phối những phản ứng của bản năng. Tuy nhiên xét theo chiều dài lịch sử thì bản năng cũng hàm chứa tập quán, quy ước cộng đồng vốn có, có thể xem là một loại ý thức hóa thạch.
Freude nhấn mạnh tương tác bản năng đến mức cường điệu, nó quyết định mọi hành vi của con người ta, nghĩa là con người không khác gì con vật, luôn hành động theo bản năng.
Theo tôi, phải chăng Freude không thấy hết vai trò những tương tác nhân sinh? Freude có nhiều trang lý luận sắc bén về bản năng, dù vậy ông không hề thấy rõ tầm quan trọng của nó. Bản năng quyết định sự tồn tại của nhân sinh giống y như tương tác mạnh của nhân nguyên tử, nếu nhân nguyên tử bi phân rã thì phân tử sụp đổ, cấu trúc tự nhiên bị đánh sập hoàn toàn, nghĩa là cộng đồng nhân sinh bị xóa sổ.
Dù tương tác bản năng có vị trí quan trọng như thế, nhưng nó không hề là tương tác độc tôn, không phải như Freude cho rằng: “Ý thức như cái con rối mà vô thức và bản năng là kẻ đứng sau giật dây, điều khiển mọi chuyện.” Bởi vì tương tác Mạnh có thể bị phá vỡ, thì bản năng cũng có thể bị chế ngự hoặc xóa bỏ chúng hoàn toàn. Hơn nữa, có ý thức là có tương tác tri thức, tích lũy kinh nghiệm và lưu giữ thành tựu khoa học, công nghệ.
Freude cũng như các triết gia trước đây đều nghĩ rằng nên tìm ra cái cốt tử là tìm ra chân lý. Đó là sai lầm tệ hại lớn nhất của các triết gia trước khi có thuyết tương đối rộng của Einstein và thuyết cơ học lượng tử của Marx Plant.
Như vậy trong năm lực cơ bản tạo thành mô hình chuẩn, không có lực nào kém quan trọng hơn lực nào, nên không có lực tương tác độc quyền trong tương tác nhân sinh. Trong cá thể của lãnh vực nhân sinh bên cạnh lực tương tác bản năng là tương tác tâm thức.
Tương tác tâm thức là lực chi phối con người từ dòng năng lượng tâm linh. Song song với nó là tương tác tri thức là lực chi phối con người từ sức mạnh của lý trí, sẽ trình bày ở phần sau.
2/ Tương tác tâm thức: Có thể nói ngay rằng tâm thức là cơ năng hiểu biết của con người mà không cần sử dụng bộ óc. Tương tác tâm thức tạo ra thiền định, tịnh tâm, trực cảm… là lực thúc đẩy con người ngộ ra chân-thiện-mỹ, hoặc dẫn đến sáng tạo, nói chung giúp con người có hành vi siêu phàm; tạo ra những tài năng kiệt xuất.
Tương tác tâm thức là hiên tượng phổ biến ở con người, tuy nhiên độ đậm đặc rất khác nhau. Với những vĩ nhân, thi hào, văn hào, triết gia, nghệ sĩ sáng tác bậc thầy luôn có nồng độ tương tác tâm linh rất cao. Tiếp theo là những nhà ngoại cảm, người dự báo và những người có linh tính…
Tương tác tâm linh tương ứng với lực tương tác yếu (dùng từ yếu để phân biệt với tương tác mạnh), không phải nó là lực kém nhất của các lực tự nhiên trong mô hình chuẩn của vật lý. Tương tác yếu không “yếu” chút nào hết khi nó có thể làm phân rã một số nhân nguyên tử, phát tán neutrino (1), tạo ra ánh sáng của các định tinh. Như vậy chính nó, tương tác yếu, tạo ra ánh sáng mặt trời, nuôi sống bao sinh vật trên trái đất. Trong nhân sinh, Tương tác tâm thức tạo ra ánh sáng của tinh thần, hình thành văn minh và văn hóa của nhân loại như luân lý, đạo đức, mỹ học (cái đẹp… như khái niệm nêu trên. Sau đêm dài Trung cổ ở châu Âu, người ta gọi ngay sau đó là thời kỳ Ánh Sáng, vì tri thức và tâm thức được cởi trói.
Dù có vai trò cốt tử như vậy, phần lớn tương tác tâm thức phải cùng song hành với tương tác tri thức để tạo ra cặp hợp lực tương tác nhân sinh hoàn hảo. Hơn thế nữa, hai tương tác nhân sinh có tính vi mô trên, chỉ có ý nghĩa khi con người đứng vững trên bề mặt hành tinh xanh, và cùng tồn tại trong một cộng đồng nhân sinh. Do vậy, cần lý giải hai tương tác có tính vĩ mô của nhân sinh: tương tác tri thức và tương tác quyền lực:
3/ Tương tác tri thức: Tri thức là hiểu biết, biết và hiểu bằng trực quan sinh động hoặc bằng nghiên cứu học tập. Tri thức là biết toàn thể lãnh vực hình thành văn minh của nhân loại và hiểu toàn bộ kiến thức tích lũy của loài người từ thượng cổ đến ngày nay. Đặc điểm của tương tác tri thức là thuộc tính cộng đồng, toàn xã hội mới lưu giữ đầy đủ tri thức của nhân loại.
Tương tác tri thức hình thành nền khoa học, công nghệ và các ngành có thuộc tính của duy lý, của suy luận. Không có tương tác tri thức, loài người không có nền văn minh vật chất. Con người không hưởng thụ được tiện nghi, phương tiện trong sinh hoạt hằng ngày, trong giao thông vận tải, trong truyền thông… nếu không có tương tác tri thức. Kỳ tích hơn nữa là làm biến đổi gien; thám hiểm vũ trụ; sử dụng tế bào gốc cứu các bệnh nhân v.v…
Tuy nhiên, tương tác tri thức luôn luôn được tương tác tâm thức tiếp ứng năng lượng, kể cả năng lượng từ vật chất tối dẫn đến những thành quả vượt bậc kỳ diệu.
Tương tác hấp dẫn (trọng trường) trong tự nhiên tạo ra trật tự cho mọi vật thể, từ thái dương hệ cho tới trên một hành tinh, không bị xáo trộn để dẫn đến hủy hoại lẫn nhau. Động vật được giữ chặt trên bề mặt trái đất, quả táo của Newton không thể bỗng dưng rơi ngược vào bầu trời. Mặt trăng không biến mất vào khoảng không vũ trụ. Nếu thân cây nhờ gốc có vô số rễ cắm vào lòng đất nên nó không bị hất tung lên không trung thì con người cũng có hàng tỷ cái rễ vô hình (mắt thường không thấy được), mỗi rễ là một hàng chuỗi hạt hạt hạ nguyên tử nối từ thân người tới tâm của trái đất. Do vậy những nhà vật lý đặt tên Graviton là hạt boson của tương tác hấp dẫn. Cũng một mô hình lực hấp dẫn đó, tương tác tri thức vận hành trong cộng đồng nhân sinh như trên đã nói.
Thế giới nhân sinh còn một tương tác nữa để tồn tại: tương tác quyền lực.
4/ Tương tác quyền lực:
Con người cô độc như Robinson Crusoe thì không cần bàn về tương tác quyền lực, tương tác quyền lực chỉ triển khai sức mạnh trong cộng đồng. Từ nguyên thủy các bộ tôc đã tổ chức sơ khai, luôn có người chỉ huy trong một nhóm người, bên cạnh đó có phái viên của thần linh, phù thủy của thời kỳ đa thần. Thế quyền trương nở dần lên thành bộ máy nhà nước, thần quyền chuyển hóa rộng lên thành tôn giáo, đó là hai biểu hiện nổi bật của tương tác quyền lực. Tương tác quyền lực còn vận hành ở những cộng đồng nhỏ hơn, từ gia đình đến các hội, đoàn dân sự.
Trong tự nhiên đối ứng với tương tác quyền lực là tương tác điện từ (3). Từ nhỏ đến già, con người ai cũng cảm nhận được quyền lực như thấy biết dòng điện, điện soi sáng và còn biết bao việc hữu ích cho con người. Nhà vật lý, còn biết rõ Tương tác điện từ cùng với những tương tác trong mô hình chuẩn, là những nhân tố cốt tử tạo ra môi trường thiên nhiên, nghĩa là tạo ra sự sống kỳ diệu.
Từ thượng cổ đến hiện đại, loài người có tương tác quyền lực mới mở rộng cộng đồng, mới tạo thành sức mạnh chống đỡ thiên tai, địch họa và những thế lực rình rập hủy hoại nhân sinh. Tuy nhiên quyền lực bao giờ cũng là con dao hai lưỡi. Giáo chủ và lãnh tụ anh minh luôn biết tôn trọng tương tác vi mô: bản năng và tâm thức, đồng nghĩa với tôn trọng tự do và quyền làm người của mỗi công dân và giáo dân. Không thể xóa sạch bản năng con người để biến họ thành người máy, cũng không thể nhồi sọ tri thức để nô dịch tư tưởng con người, dù nhân danh bất kỳ một thiên đàng nào. Như vậy là không cho những tương tác vận hành cùng lúc, vừa cầm chắc thất bại vừa biến thành tội đồ thiên cổ của nhân loại.
5/ Tương tác quy mô: Cộng đồng nhân sinh phải có số đông nhất định nào đó mới giúp cho những tương tác trên đây có tác dụng đáng kể. Tương tác quy mô trong nhân sinh là phản ánh tương tác trương nở với hạt Higgs trong tự nhiên (thiên nhiên) (5). Những nhà vật lý đã nhận thấy có hạt hạ nguyên tử tương tác với hạt Higgs trương nở gấp 40 lần; còn hạt ánh sáng (photon) khi tương tác với Higgs từ chỗ không khối lượng trở thành có khối lượng, trong hiện tượng siêu dẫn. Vì có khối lượng nên photon chỉ có thể di chuyển trong một khoảng cách ngắn nhất định, khác với tính chất của sóng. Ví dụ trong tương tác tri thức, nếu số ít nhận thức đúng không làm cộng đồng hành động đúng được, ít ra phải hơn 50% số người của cộng đồng.
Đến đây có thể kết luận: Hiện hữu là tương tác đầy đủ. Phải chăng những học thuyết giản lược chỉ nhấn mạnh một tương tác hoặc hai, ba tương tác đều hủy hoại nhân loại? Cụ thể như sau:
1/ Chỉ tương tác bản năng dẫn đến vô chính phủ, loài người trở thành bầy thú hoang dã;
2/ Chỉ tương tác tâm thức dẫn tới con người sống trong hang động, ở rẻo sâu, núi cao dần dần lụi tàn như loài khủng long;
3/ Chỉ tương tác tri thức dẫn đến sùng bái khoa học, công nghệ; dẫn đến các tà thuyết như chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa bành trướng, chạy đua vũ trang chế tạo bom hạt nhân, bom vi trùng… cuối cùng tự hủy diệt sinh vật và trái đất; loài người tự sát;
4/ Chỉ tương tác quyền lực dẫn đến sùng bái lãnh tụ, giáo chủ, trương nở tham vọng vô hạn; trương nở chủ nghĩa khủng bố; châm dầu vào lò lửa chiến tranh… cuối cùng xã hội là những trại lính, con người là những nô lệ ở địa ngục trần gian.
Mỗi tương tác nhân sinh đều cộng hưởng với nhau, đều là nhân tố hình thành hiện hữu của nhân loại, những nhân tố đều có vai trò ngang nhau, vị trí quan trọng như nhau. Nếu vì lý do nào đó, một nhân tố tương tác bị xem thường, lập tức xã hội bị xáo trộn gây đại loạn, làm con người khốn khổ, ly tán. Đừng bao giờ dùng lý trí can thiệp vào cách vận hành ngẫu nhiên của những nhân tố tương tác. Lịch sử loài người đã minh chứng biết bao trí tuệ tư duy theo kiểu thủ lợi mà ngỡ rằng đó là chân lý, gây tang tóc, khổ đau toàn cầu, cuối cùng những tà thuyết ấy đương nhiên sụp đổ. Tôn trọng tương tác nhân sinh là thái độ nhân bản nhất.
Phải chăng nên nói: “Tôi tương tác là tôi hiện hữu !”.
IV. Tính nhân bản bắt nguồn từ tương tác
Tính nhân bản luôn được đề cao trong cộng đồng người từ nguyên thủy đến ngày nay. Tuy nhiên, thời đại nào cũng ngỡ rằng do thánh nhân, giao chủ (được mặc khải của thượng đế) nêu ra những tiêu chí của nhân bản, và giáo huấn động vật người để trở thành loài người văn minh. Do vậy, tính nhân bản càng ngày càng xa rời nguôn gốc đích thực, mà bị vo tròn bóp méo từng lúc từng nơi theo ý muốn của nhóm lợi ích nào đó đang chi phối cộng đồng. Họ giải thích tính nhân bản rất tùy tiện, thậm chí đổi trắng thay đen bằng lý luận duy lý, gieo rắc tang thương cho cộng động người, bạo lực tràn lan vì nhân danh những tiêu chí “đạo lý” nào đó.
Tính nhân bản bắt nguồn từ tương tác tự nhiên và hoàn thiện dần trong tương tác nhân sinh.
Tính nhân bản hàng đầu là tình đồng loại, tình yêu có tính dục, tình yêu cùng huyết thống và tình yêu môi trường sống (thiên nhiên & sinh vật). Tất cả tình nêu trên đều có lực của tương tác mạnh, lực duy trì hạt nhân nguyên tử, cũng chính là tương tác bản năng, lực duy trì tồn tại cõi nhân sinh .(1)
Do vậy nếu chủ trương đàn áp, tiêu diệt một công đồng nào vì khác biệt tôn giáo, giai cấp, thành phần, tập quán và tư duy… sẽ dẫn tới hủy diệt các bên đối đầu, nghĩa là loài người tiêu vong. Tương tự bắn phá vào nhân nguyên tử để tạo ra vụ nổ bom hạt nhân, hậu quả thế nào nhân sinh đã nếm trải.
Tính nhân bản số một phải chăng là tình yêu, là từ bi, là sức mạnh hàng đầu cho cõi nhân sinh hiện hữu?
Tính nhân bản còn là hiện thể của tương tác yếu, tương tác tạo ra bức xạ mặt trời, tạo ra ánh sáng sưởi ấm hành tinh (2), ấy là lòng bao dung, tính vị tha. Tính nhân bản bao dung, vị tha là đặc trưng của tương tác tâm thức, không chỉ bình phẩm, phán xét bằng lý trí, bằng tri thức mà còn nhìn sự việc bằng trái tim, bằng tâm thức. Bao dung vì biết rằng mình chưa biết đầy đủ, chưa biết hết vì hệ quả nào cũng từ vô số hạt hạ nguyên tử hình thành, không chỉ xuất phát từ vũ trụ có trái đất này, mà còn bắt nguồn từ những vũ trụ song song, không chỉ từ vật chất mà kể cả phản vật chất nữa. Tương tác tâm thức tự ẩn chứa bao dung vì tầm nhìn xuyên vũ trụ, tầm nhìn ít ra của hàng chục tỷ năm ánh sáng, tầm nhìn toàn thể không giới hạn như cái nhìn toàn diện. Chỉ có tính nhân bản bao dung mới thật sự tử tế, thật sự lương thiện.
Tính nhân bản còn biểu hiện qua phát minh. Phát minh là thuộc tính của tương tác tri thức. Cộng đồng người tồn tại từ nguyên thủy đến ngày nay là nhờ trí óc không ngừng tiến bộ, từ thực tiễn rút ra khái niệm, từ khái niệm khái quát thành phạm trù, rồi quy luật, từ phân tích dẫn đến phán đoán, nâng lên chủ nghĩa duy lý. Mặc dù chủ nghĩa duy lý gặp nhiều hạn chế trong vấn đề nhân sinh và lịch sử xã hội, vẫn đóng góp lớn trong nền văn minh cơ khí, phát triển tiện nghi vật chất và khoa học thực nghiệm.(3)
Nếu tương tác hấp dẫn (trọng trường) giữ vững cho thiên hà, hệ thái dương trường tồn, thì tương tác tri thức mà đặc trưng là phát minh,từ công cụ thô sơ đến máy móc hiện đại, giúp loài người làm chủ trái đất như ngày nay. Vậy phát minh là tính nhân bản có tầm quan trọng suốt chiều dài lịch sử.
Bao giờ sức mạnh của tương tác cũng đều theo xu hướng tích cực, tuy nhiên nếu lỡ bước một đoạn đường sẽ sai lầm có tính hủy hoại. Tương tác bản năng tình ái rất tuyệt vời, nếu yêu với tính sở hữu cực đoan sẽ dẫn đến ghen tuông thù hận, và hậu quả có thể giết người. Mặc dù có tương tác bao dung kề cận, đôi khi cũng không kềm chế được sân si, kể cả tính giáo dục trong tương tác tri thức cũng bất lực trước kẻ mù quáng. Vì vậy cần có tương tác quyền lực đủ sức khống chế những tương tác sai đường kia, giữ các tương tác cân bằng thể hiện trong cộng đồng là tính nhân bản công bằng.(4)
Công bằng cũng là một đặc tính của chủ nghĩa nhân bản.
Tính nhân bản là còn phải thúc đẩycộng đồng và cá thể luôn tiến bộ. Tiến bộ là hiện thể của tương tác phát triển (5). Tuy nhiên phát triển có tính tiến bộ không phải là bành trướng. Một cây con lớn dần nhờ lá quang hợp và rễ hút dưỡng chất trong đất là phát triển tiến bộ, một con rắn nuốt một con rắn khác là bành trướng. Một bộ óc mở rộng kiến thức bằng nghiên cứu, học tập và tu luyện mới tiến bộ thật sự, trái lại bộ óc chỉ sao chép, ăn cắp phát minh, sáng chế là bành trướng.
Tiến bộ là tính nhân bản thứ năm xuất phát từ tương tác tự nhiên và tương tác nhân sinh.
Bài viết ngắn trên đây chỉ mang tính đề cương của Tương Tác Luận, còn cần phải phân tích và chứng minh trong nhiều lãnh vực nữa. Tuy vậy, đây là tri thức căn bản và tâm thức sơ khởi của Tương Tác Luận.
Trên hành tinh xanh cũng đang diễn ra hai quá trình phát triển: tiến bộ & bành trướng. Nhiều quốc gia tự nguyện hình thành cộng đồng, có hiến chương chung, tầm nhìn và hành động chung là phát triển tiến bộ. Còn quốc gia nào muốn phát triển bằng bạo lực, bằng vũ khí là bành trướng, bành trướng là hành động chủ quan ngược lại với tương tác nhân sinh nghĩa là chống lại sức mạnh của tương tác tự nhiên, mà vật lý hiện đại đã chứng minh qua khoa học thực nghiệm, không còn là những lời mặc khải , tiên tri từ hàng ngàn năm qua nữa.
Tóm lại, Tương Tác Luận có năm tính nhân bản: Tình yêu – Bao dung- Phát minh – Công bằng. Tiến bộ bắt nguồn từ năm tương tác tự nhiên của thế giới hạ nguyên tử: Mạnh – Yếu – Hấp dẫn – Điện từ – Trương nở (hạt boson Higgs). Tương tác luận là triết học có luận cứ khoa học không phải siêu hình học.
Chú thích:
(1) Nếu trong vật chất, tương tác mạnh (a)) diễn ra trong nhân nguyên tử, do những hạt sứ giả gluon trói chặt nhân nguyên tử (1), tương ứng diễn ra trong nhân sinh là tương tác bản năng, chính bản năng sinh tồn làm con người hiện hữu, bản năng là nhân tố chính của tập quán, truyền thống, bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng người.
(2) Tương ứng với tương tác yếu (b) là tương tác tâm thức, do năng lượng tâm linh vượt qua nhiều vũ trụ khác nhau nên thoạt nhìn không được mạnh như tương tác bản năng, song chúng quyết định tài năng, bản lĩnh, thành tựu của con người tương tự như hạt sứ giả W và Z có vai trò quan trọng trong cấu tạo vũ trụ.
(3) Tương tác tri thức làm xã hội loài người đứng vững và phát triển khoa học, cũng như tương tác hấp dẫn giữ vật thể trên trái đất không bay vào khoảng không vô định, rộng hơn giữ cho hệ mặt trời bền vững, giữ cho các thiên hà tồn tại trong vũ trụ đang giản nở.
(4) Trong tự nhiên đối ứng với tương tác quyền lực là tương tác điện từ. (Từ nhỏ đến già, con người ai củng cảm nhận được quyền lực như thấy biết dòng điện, điện soi sáng và còn biết bao việc hữu ích cho con người. Nhà vật lý, còn biết rõ Tương tác điện từ cùng với những tương tác trong mô hình chuẩn, là những nhân tố cốt tử tạo ra môi trường thiên nhiên, nghĩa là tạo ra sự sống kỳ diệu.
Từ thượng cổ đến hiện đại, loài người có tương tác quyền lực mới mở rộng cộng đồng, mới tạo thành sức mạnh chống đỡ thiên tai, địch họa và những thế lực rinh rập hủy hoại nhân sinh.
(5) Tương tác quy mô trong nhân sinh là phản ánh tương tác trương nở với hạt Higgs trong tự nhiên (thiên nhiên), (5) Những nhà vật lý đã nhận thấy có hạt hạ nguyên tử tương tác với hạt Higgs trương nở gấp 40 lần; Cỏn hạt ánh sáng (photon) khi tương tác với Higgs tử chỗ không khối lượng trở thành có khối lượng, trong hiện tượng siêu dẫn. Vì có khối lượng nên photon chỉ có thể di chuyển trong một khoảng cách ngắn nhất định, khác với tính chất của sóng. Ví dụ trong tương tác tri thức, nếu số ít nhận thức đúng không làm cộng đồng hành động đúng được, ít ra phải hơn 50% số người của cộng đồng.
(Những chú thích trên trích từ bài: “Từ tương tác tự nhiên đến Tương Tác nhân sinh” của Triệu Từ Truyền).
21/5/2015
Triệu Từ Truyền
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

"Ngày như chiếc lá" và những chiêm nghiệm sinh thái

"Ngày như chiếc lá" và những
chiêm nghiệm sinh thái

Tôi đọc Trần Lê Khánh lần đầu vào những năm tháng hồn nhiên nhất trước khi bước qua tuổi 20. Tôi đã từng phải lặng im mà nhìn vào những con chữ nằm ngay ngắn, gọn ghẽ trong một mặt giấy và tự hỏi vì sao ngôn linh của chúng lại thiêng liêng đến vậy. Thơ anh Khánh không dễ đọc, và chắc chắn là không dễ thích. Thơ anh thuộc dòng thơ buộc chúng ta phải ngẫm, không đọc vội được và do đó nó đòi hỏi ở bạn đọc cả sự kiên nhẫn lẫn tình tri âm.
Bìa tập thơ “Ngày như chiếc lá”
Cầm tập thơ của Trần Lê Khánh trên tay, bạn sẽ bất ngờ trước khoảng lặng của nó. Anh luôn chừa những chỗ trống, mà để có thể đi vào nó, người ta đồng thời phải đi vào chính mình. Anh không hô hào, không dồn nén, không vội vã như một số thi nhân khác. Anh chọn cho mình một giọng điệu bình tĩnh và chậm rãi. Do vậy, bạn hoàn toàn có thể lật ngẫu nhiên một bài thơ nào đó, chiêm ngưỡng những con chữ được đặt thật khéo ở đuôi trang sách và lắng nghe thanh âm rất khẽ của cuộc đời.
Giống như “Lục bát múa” và “Dòng sông không vội”, tập thơ :Ngày như chiếc lá” vẫn được in rất đẹp, dày hơn 280 trang, bìa cứng và có tranh minh họa màu của họa sĩ Nguyễn Quang Thiều. Đây không phải một tập thơ bỏ túi để bạn có thể mang đi bất cứ đâu, nó sẽ thích hợp hơn với những phút giây nhẹ nhàng, lúc ta chậm rãi nhâm nhi một tách trà và thoảng nghe một mùi hương thơm dịu.
Tôi lần giở những trang thơ trong tập “Ngày như chiếc lá”, mong tìm thấy một triết lí sâu xa. Song càng đọc, tôi càng nhận ra thơ anh Khánh không chỉ mang lại không khí thiền đạo mà nó còn đặt ra các vấn đề sinh thái giữa con người và tự nhiên. Tác giả không đứng trên tự nhiên để làm cao hay chỉ đạo, cũng không hạ mình xuống thấp lu mờ trong chốn cỏ cây. Đọc “Ngày như chiếc lá”, ta nhận ra vị trí của mình đương trôi bềnh bồng theo một ngọn gió, một áng mây, một tia nắng mờ tỏ. Đọc “Ngày như chiếc lá” là đọc một chiêm nghiệm sinh thái của một nhà thơ nặng tình với cuộc đời ngoài kia, xanh, rất xanh…
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Trần Lê Khánh “sinh thái” từ chính cách anh đặt tên cho tập thơ của mình và từ chính những hình ảnh anh lựa chọn để viết. Con người không chiếm vị trí độc tôn như trong những sáng tác của một số tác giả trẻ khác. Trần Lê Khánh đi ngược lại để tìm về cái cội nguồn tự nhiên của mỗi kiếp nhân sinh. Ngày dài như một chiếc lá, rơi rụng khi nào ai hay, xanh vàng thế nào ai tỏ? Anh ngước nhìn một đám mây ngả lưng (tr.11), dõi theo một dòng sông mang theo bao nhiêu chiều muộn (tr.87) và chiêm ngưỡng một con bướm đập cánh trong chiều đông (tr.151).
Tập thơ Ngày như chiếc lá làm tôi không khỏi liên tưởng đến thể thơ haiku của xứ sở Phù Tang. Nó cũng chỉ có vài câu thơ nho nhỏ, cũng chỉ vài hình ảnh be bé. Anh Khánh viết về thiên nhiên dưới quan điểm: nhân thế là một phần của tự nhiên. Vì vậy lời thơ cứ dung dị, mượt mà, không khoa trương, không diễn. Trong thời đại mà con người đang cảm thấy có lỗi với tự nhiên và ra sức bảo vệ nó, Trần Lê Khánh vẫn bình thản viết những dòng thơ như hoa cỏ, không màng đến lo toan, không cho thấy một sự hoảng sợ. Đọc thơ anh, người ta không cảm thấy thiên nhiên đang dần chết để e dè. Đọc thơ anh, người ta tìm thấy chính mình trong một vốc nước đầy trăng (khổ thân, tr.83), người ta nghe được thời gian trong những chiếc lá vàng rơi rụng (mình là mình, tr.115).
Đọc Ngày như chiếc lá, ta không cần phải cố gắng liên hệ đến một tư tưởng triết học hàn lâm, khó hiểu nào. Ta cũng không cần ép câu chữ phải trở thành thứ mà ta kì vọng. Với Ngày như chiếc lá, ta có thể thả lỏng tâm trí và thử đọc thơ như nó vốn dĩ là mà không cần nghiêm trọng hóa nghệ thuật. Ta đọc để thấy rằng thiên nhiên cũng có tâm hồn của nó, nó cũng vận hành theo nhịp đập thời gian:
đôi khi
đêm
cũng dè dặt trôi
trong bóng tối
(tâm hồn, tr.199)
Trong thời buổi này, rất nhiều nhà thơ gượng gạo “ép” mình viết những chủ đề “câu khách”. Có rất nhiều tác giả trẻ “chuyên” kể chuyện thất tình và phơi bày suy nghĩ ra trang giấy một cách quá hào phóng. Trần Lê Khánh không như thế, anh chọn cho mình một nguồn cảm hứng cổ điển nhưng kén người đọc: thiên nhiên. Vả chăng đôi lần mỏi mệt, ta cũng có thể đọc để mường tượng ra một thiên nhiên trong mắt nhìn của tác giả, chưa cần phải suy tính đến cái khuất lấp bên trong. Thiên nhiên, trước tiên và trên hết sẽ luôn là chính nó. Vì vậy, tôi đã đọc Ngày như chiếc lá như khám phá một khu vườn chữ nghĩa, trong đó có ánh sáng, bóng tối, có trăng, có sao và có cả những chiếc lá bé xinh:
em
rị buổi chiều xuống
chiếc lá rơi nhẹ
bớt phai màu
(lại câu chuyện cũ, tr.231)
Tôi cứ thích tưởng tượng ra rằng đương có một thi nhân ngoài kia dõi theo cảnh chiều tà, trông thấy một chiếc lá nhẹ nhàng đậu xuống hư không mà lặng lẽ xúc động cầm bút làm thơ. Tự nhiên thấy lòng mình thanh thản và cuộc đời này thoáng chốc trở nên thi vị hơn nhiều. Khoảnh khắc đó, tôi muốn mình được hòa vào cỏ cây rồi an nhiên mà sống. Tôi bỗng hiểu rằng trong cõi trần gian, chỉ có thiên nhiên là không lừa dối chúng ta bao giờ. Đứng trước thiên nhiên mầu nhiệm, sẽ có người nao lòng mà vẽ một bức tranh, gảy một khúc nhạc hay đơn giản mà hé chiếc môi cười. Còn với Trần Lê Khánh, anh chọn cách tái hiện chúng bằng thơ ca.
… Kiếp người đã đến thế này thì thôi
Nhưng nếu chỉ tái hiện thiên nhiên thuần túy thì xem chừng văn chương sẽ không khác gì một bản sao hạng thường của một thứ vốn không thể làm giả. Phía sau thiên nhiên đó, Trần Lê Khánh còn gợi ra niềm trăn trở về kiếp nhân sinh. Chẳng hạn, anh viết về thời gian tuần hoàn:
xuân
thả mình xuống
đôi lần
trên một nụ hoa
(quy trình, tr.193)
Từ “quy trình” của mùa xuân, ta trông thấy “quy trình” của đời người. Theo quan niệm Đông phương, thời gian là tuần hoàn, do vậy mà xuân có thể quay lại đôi lần trên trần thế. Song nụ hoa kia không còn là nụ hoa những mùa xuân trước. Và mùa xuân này đây có phải là mùa xuân ta đã từng trải qua không? Thế gian tuần hoàn, nhưng nó không lặp lại bởi vì cuộc sống này bắt buộc phải đổi thay. Con người cũng vậy, chẳng qua chỉ như nụ hoa nọ sống kiếp phù du. Trần Lê Khánh nhìn thiên nhiên như nó vốn-dĩ-là chứ không phải như anh muốn-nó-là và do đó, anh không cố tách mình ra khỏi đời thảo mộc. Có chăng anh chính là nụ hoa kia, đương hé mắt nhìn đời, ngát hương ngôn từ cho nhân thế ngẩn ngơ.
Đọc Ngày như chiếc lá, ta phát hiệnTrần Lê Khánh có thể đặt những nhan đề rất “con người”, đọc qua dễ nhầm tưởng đây là một bài thơ nói trực tiếp về tư tưởng nhân sinh của tác giả.Trong tập thơ này, anh có viết bài đàn bà (tr.119):
nhìn mây mây có thấy gì
quanh năm mây cứ hoài nghi mặt mình
Nếu chỉ nhìn vào lớp vỏ ngôn từ, ta sẽ đọc ra một bài thơ tả mây với thủ pháp nhân hóa. Nhưng nếu nhìn vào nhan đề, lập tức trong tâm trí độc giả hiện ra một trường liên tưởng khác. Đám mây với tính chất lãng du, thay đổi khôn lường được sử dụng để gợi nhắc số phận của phụ nữ. Là đám mây đang nhìn chính nó hay chăng chính là đàn bà đang nhìn mây vậy. Mây muôn hình vạn trạng, đàn bà cũng lắm lúc đổi thay, đến độ ta không thể phân biệt được đâu mới là con người thật của mình. Đám mây kia, hay đàn bà, hay Trần Lê Khánh, hay cả chúng ta nữa phải tự hỏi rằng liệu mình có một cá tính nào không?
Ngày như chiếc lá còn rất nhiều bài cũng mang cùng một kiểu đặt tên như vậy, rằng nhan đề là của thế nhân, nhưng hình ảnh trong đó lại là tự nhiên. Muốn hiểu được nhân thế, ta phải nhìn vào quy luật của vạn vật tuần hoàn. Trông thấy một đám mây thoáng trôi, một ngôi sao nhìn anh không chớp (starring, tr.219) thì ta mới thấy được sự vô thường của thời gian, mọi thứ đều chỉ mang tính tương đối: một khoảnh khắc có thể chỉ là hư ảo, lại cũng có thể kéo dài như vô tận.
Tôi không nói rằng Trần Lê Khánh có ý thức rõ ràng việc anh viết tập thơ này theo kiểu sinh thái. Nếu anh làm thế vì một mục đích, hẳn tôi sẽ cảm thấy vô cùng gượng ép và khó chịu. Song với Ngày như chiếc lá, tôi thấy mình được dìu dắt bởi một hồn thơ sâu nặng với cỏ cây, sao trời. Những hình ảnh này hẳn phải được viết bởi một người có mối liên kết chặt chẽ với tự nhiên bởi nếu chỉ là những câu cửa miệng đơn thuần thì e khó có thể làm ta trăn trở. Ý thơ có thể không mới, nhưng dám viết kiểu thơ như thế này trong thời buổi hiện tại thì quả là can đảm.
Hãy đọc Ngày như chiếc lá, không phải để tìm kiếm tri âm, mà để tự vấn lại mình. Ta là ai giữa cuộc đời này, con người là gì trong thế giới tự nhiên? Tại sao ta không dám đặt mình vào trong tự nhiên mà cứ đứng bên ngoài chỉ trỏ? Cảm xúc của ta có hơn gì một nhành cỏ dại, một áng mây bay? Thời gian của ta có dài hơn là bao một bông hoa nở? Ngày của ta có tươi xanh hơn gì một chiếc lá?
Trần Lê Khánh với chiêm nghiệm sinh thái của anh không giúp độc giả giải đáp toàn bộ những câu hỏi đó. Bằng cá tính và những trăn trở của một người nặng lòng với thế gian, có chăng anh chỉ gợi lên vừa đủ để ta tự nhìn lại mình và tự vấn lại bản thân.
Và thơ ca còn cần điều gì hơn nữa ngoài sức gợi?. 
25/5/2019
Thái Hà
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Đọc thơ của Hội 3D

Đọc thơ của Hội 3D

Ở Sài Gòn, và Hà Nội có lẽ cũng vậy, các thi sĩ thường chơi theo nhóm. Thấy ai hạp cạ thì chơi, hết duyên thì ai lại đi đường nấy. Có khi đang rất thân thiết, một buổi sáng đẹp trời đột ngột chẳng giao du với nhau nữa. Có rất nhiều nhóm chơi. Hội 3D là cách tôi gọi một nhóm các nhà thơ nữ của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, gồm Phạm Phương Lan (PPL), Tô Minh Yến (TMY), Nhật Quỳnh (NQ), và một người nữa. Không giống như những nhóm khác, nhóm nữ sĩ này có tên hẳn hoi, gọi là “Hội 360 độ yêu”.
Hội 360 độ yêu
Tôi biết về nhóm 3D khi dự một buổi ra mắt sách của nữ sỹ PPL. Tôi không biết đã có nhóm chơi nào có tên chưa, hay “Hội 360 độ yêu” là nhóm đầu tiên. Tôi luôn cho rằng giữa thơ và người có sự liên kết bí ẩn. Thơ là tiếng hát cất lên từ trong hồn người. Càng mất mát, khổ đau thì tiếng hát càng đằm thắm. Chẳng phải người, mà chính là những câu thơ đã cứu rỗi cho tâm hồn con người. Điều này lý giải tại sao trong những giây phút hiểm nguy cận tử, thơ lại bật ra một cách đầy kiêu hãnh. Chắc hẳn, với “360 độ yêu”, các nữ sỹ đã đi qua chẳng ít giây phút cận tử, và họ đã biến những khoảnh khắc ấy chết chóc thành thơ sau khi may mắn sống sót.
Viết về thơ của nhóm 3D phải kể đến nhà thơ Trần Quang Quý và nhà văn Kao Sơn. Tôi đồng tình với những nhận xét, chia sẻ, đánh giá của hai tiên sinh về thơ PPL và TMY. Tựu chung là họ viết thơ tình và thơ tình của họ đứng được. Tôi muốn chia sẻ đôi ý, gọi là góp thêm chút gió vào hồn thơ yêu của họ. Phải nói rằng, trạng thái yêu “360 độ” có gì rất lạ. Nó không phơi phới, nhưng rất lắng đọng. “Xin chào nhé tháng 12 yêu dấu/ta gói năm qua vào giấy bảy màu/chuyện buồn cho vào gói giấy nâu/vùi sâu lắng trong lòng đất mặn/…câu chuyện tình yêu như biểu đồ bất biến/gói làm sao cho kín những trang thơ/dẫu bao lần đau vẫn chưa hết dại khờ/say đắm cứ như chưa bao giờ yêu vậy” (Tháng 12 yêu dấu-PPL); “Giá tớ cứ liều gọi cậu là anh/ngày chắc sẽ xanh như mùa thu Hà Nội/giá tớ cứ liều gọi cậu là anh/biết đâu sẽ viết nên điều tựa như cổ tích” (Mãi là giấc mơ-PPL); “Yêu thương biết mấy cho vừa/dù không gặp gỡ vẫn chờ mong nhau/tóc xanh dẫu có thay màu/một giây thôi/mấy bể dâu cũng đành” (Bể dâu cũng đành-PPL); “Anh là con ngựa hoang/em chỉ là bãi vắng/tình mênh mang mênh mang” (Tình anh là ngựa hoang-TMY); “Duyên em xin chớ hững hờ/tình em trong sáng tựa thơ học trò” (Sài Gòn mưa nắng-TMY). Để tôi nói thêm một chút. Say đắm như chưa bao giờ yêu là một trạng thái hưng phấn khi gặp người hạp cạ. Nó khiến u ám tình si cũ tan biến đi. Đọc Mãi là giấc mơ của PPL, bất chợt tôi nghĩ sao PPL không “cứ liều gọi cậu là anh” đi, biết đâu, nói như PPL là “sẽ viết nên điều tựa như cổ tích”, nhưng thế thì “đời” mất rồi, còn lại gì cho thơ nữa. Tôi cho rằng đây là một áng thơ đẹp bởi sự trong trẻo, nhuốm chút buồn man mác. Ai cũng đi qua cái người ta gọi là tuổi học trò. Cũng có những người không có tuổi học trò, nhưng chỉ cá biệt. Ở tuổi ấy gì cũng đẹp. Áo trắng tựu trường. Thơ chép giấy kẻ ô-li. Lối ví von “tình em trong sáng tựa thơ học trò” vừa thực lại vừa mộng. Nó hồn nhiến lắm. Cả cái lối ví “anh là con ngựa hoang/em chỉ là bãi vắng/tình mênh mang mênh mang”cũng vậy.
Sự hụt hẫng tình cảm, thật trớ trêu, lại là nguồn nhựa dồi dào cho thơ. Những gì chết thì chết rồi, chỉ còn lại tinh túy nảy mầm. Người ta bỗng cảm thấy nhớ quê hương, nhớ mẹ cha, nhớ khúc nhạc du dương của biển, nhớ hương hoa chanh lẩn quất giữa phố. Một người bạn tôi bảo bây giờ chẳng có thời gian để đọc những bài thơ nhiều thâm ý. Cứ nghĩ sao viết vậy, thấy sao viết vậy. Có thể đọc xong rồi quên. Hoặc nhớ đôi câu. Nhưng ý tình của bài thơ hoặc câu thơ thì thấm. Giờ viết dông dài, nhiều thâm ý có khi chẳng ai đọc, ngoại trừ người biên tập sách. Tôi cho rằng người bạn nói có lý của mình. “Anh ở nơi nào đó/có nghe mùi hoa chanh/em cài đầu buổi sáng/hương lẫn trong thị thành” (Em và ngày không anh-PPL); “Em chẳng biết mình tồn tại trên cuộc đời này là vì điều gì nữa/bởi trên môi đã tắt những nụ cười” (Yêu thương đã cũ-PPL); “Anh à/người ở nơi đâu/em lạnh lắm” (Thương bóng em nghiêng-PPL); “Mưa phùn ướt nón len em/ướt khăn gió ấm, ướt hoen môi hồng/ước vòng tay ấm bâng khuâng/ôm cho trọn những tháng năm mặn nồng” (Mưa phùn-PPL); “Thôi đừng tìm em nhé/kẻo lướt qua đời nhau/nghe trái tim gõ nhịp/vẽ tình yêu muôn màu” (Đừng tìm em nhé-PPL); “Ta chỉ ước mình làm cây cỏ để mà xanh/được vuốt ve bàn chân dẫu chỉ nhành cỏ héo/còn hơn yêu mà nhạt nhẽo giữa yêu thương” (Thà được làm phận cỏ-TMY); “Hôm nay/ngày lễ Vu lan/con buồn nhớ mẹ lang thang trên đường/hiếu mẹ/thì trả từng ngày/chứ đừng để mất như đây lại buồn” (Nhớ mẹ mùa Vu Lan về); “Phố đông lòng vẫn đơn côi/biển người tấp nập chơi vơi giữa dòng” (Tắt đường trong mưa); “Kiên Giang một thuở mình xa/nhớ lắm lắm/ngày bôn ba/xứ người/nay về đem kỷ niệm phơi/vấp chân quá khứ/một lời yêu xưa” (Kiên Giang ngày về). Những câu thơ tôi vừa dẫn như xát muối, như lấy cật nứa đâm vào da thịt. Nó đau lặng lẽ, âm thầm, nhưng tuyệt nhiên không oán hận. Biểu cảm này, trong tập Em kiêu hãnh vì được làm đàn bà, nữ sỹ Trầm Hương có những câu rất hay. “Giữa mắt hồng má hồng môi hồng/anh có nhận ra em/con thiên nga ngơ ngác giữa đầm lầy/hoa cúc trắng niềm khát khao trinh bạch/là lúc em nhận ra anh/là lúc ấy trong em anh đã chết” (Thư gửi người tình đã chết-Trầm Hương). Tình yêu đích thực là vậy chăng? Ngôn ngữ thơ ở đây thật giản dị mà thấm. Giá buốt, mưa phùn, ước một vòng tay ấm, lạc lõng giữa phố đông, tình mẫu tử, đầm lầy, con thiên nga ngơ ngác, hiển hiện ngay trước mặt.
Cuộc đời chẳng lấy hết tất cả của ai bao giờ. Nó vẫn chừa ra một lối cho những trái tim tan vỡ đi qua. “Ta mang tình ủ/thành men rượu nồng/chuốc ngày mông lung/chuốc đêm cô quạnh/chuốc mùa sóng sánh/vào bài thơ say/chuốc đôi má thắm/mặc người có hay” (Khâu tình-PPL); “Cho ta một thoáng bình yên/thả hồn vào ngọn gió hiền xa xôi/tìm vầng trăng bạc mồ côi/kết lời hẹn ước tình tôi với người” (Kết lời cùng trăng-TMY); “Nhớ về nhau ta ngọt ngào thêm hiện tại/trả cho người tình còn lại với kẻ đến sau” (Chẳng cần mẫu mực để yêu anh-TMY); “Tình như vỏ cây/cháy khô bờ ngang trái/nỗi buồn cỏ dại/không tưới mà xanh um/đêm rỗng khôn cùng/bơ vơ lòng phố vắng/ngày dài vô tận/đẩy đợi chờ lên ngôi” (Đợi chờ lên ngôi-TMY). Bằng vào những câu thơ này, tôi đồ rằng quá khứ dang dở đã ở lại phía sau họ. Và không chỉ ở lại phía sau. Cái đẹp, cái làm nên hồn vía những câu thơ trên tôi nghĩ là ở ngoại biên. Họ đem tình ý cũ để làm ngọt ngào hơn tình ý sau. Chất đời, chất người ở đây thật đẹp. Thơ PPL và TMY nhiều gió, trăng, hoa, biển. Hẳn đấy là một phần quê hương trong họ. Nhạc điệu trong đôi bài khá du dương. “Thôi đừng tìm em nhé/kẻo lướt qua đời nhau/nghe trái tim gõ nhịp/vẽ tình yêu muôn màu” (Đừng tìm em nhé-PPL); “Nhịp tim bỏng rát khô bờ môi ngoan/lời em vụng dại sao chạm thiên đàng/đời anh là gió trăm miền lênh đênh/nụ hôn thoáng đó làm sao bắt đền/làm sao em giấu được anh vào em/nồng nàn hơi thở để đêm không tàn” (Giấu anh vào em-TMY). Các nhạc sỹ Nguyễn Văn Hiên, Kiều Tấn Minh, Phạm Tường Long, Mặc Tuân, Cao Hồng Sơn, Cù Duy Kim, đã phổ hàng chục bài thơ của PPL như: Ru tình, Nênh nổi tôi ơi, Ngược vào miền gió, Xuân trên phố hoa, Khúc tình ca của biển, Nhớ thương Hà Tĩnh quê mình, Đồng Văn mùa tình, Nỗi nhớ và phép màu, Tháng tư về, Hoa hồng vẫn nở, Bước chân & con đường, Hôm nay ra phố…
PPL đã xuất bản các tập thơ Không là gió mây, Góc trọ hồn người, Giữ lửa thời @, Khâu tình, TMY có Nửa mảnh trăng gầy, Đêm gạ lòng với phố. Có người cắc cớ tình sao phải “khâu”, và sao “Đêm gạ lòng với phố”. Ôi chao, hỏi gì mà khó. Trong bài viết “Xác tín lời ru” và “Em vịn gió qua mùa bão khát”, hai tiên sinh Trần Quang Quý và Kao Sơn đã kiến giải về cắc cớ này. Trong bài viết của mình, tôi chủ yếu trích dẫn thơ của PPL và TMY trong các tập Khâu tình, Nửa mảnh trăng gầy, Đêm gạ lòng với phố. Còn Nhật Quỳnh và một nữ sỹ nữa thì chưa. Để tôi nói thêm đôi dòng. Nữ sỹ NQ là cây ngâm thơ hạng nhất, giọng vô cùng đặc sắc. Hiện tại, tôi chưa thể đọc hết hàng ngàn bài thơ của họ. Ở Chi hội Bến Nghé thuộc Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, bên cạnh mấy cây đa cây đề, có nhiều tay viết trẻ, như Phùng Hiệu, Văn Nguyên Lương,… đều đang sung sức. Tôi muốn dành thời gian cho thơ của họ.
Giờ tôi xin trở lại với Hội 3D. Mặc dù đọc chưa thật nhiều nhưng tôi cho rằng PPL và TMY đã có giọng. Như tôi hình dung một cách đơn giản thì giọng là khi thơ mình không bị lẫn vào người khác. Ngay đôi câu, chủ quan tôi cho là hơi phô, PPL và TMY cũng biểu đạt chẳng giống ai. “Anh à/ngoài vườn luống cải đã đơm hoa/gió đông bớt làn hơi lạnh thổi/hây hẩy tóc em thơm mùi tắm gội/nức những ái ân” (Thơm mùi tắm gội-PPL); “Em tìm anh trong lối sương mù/nơi cỏ úa mưa thu còn đọng/đôi chân nhỏ không giang được rộng/vẫn trốn tìm lạc lõng giữa chơi vơi” (Em tìm anh-TMY). Chung quy cái sự phô ở đây là việc tắm gội thơm nức mùi ái ân, là đôi chân nhỏ không giang được rộng. Cụ Nguyễn Tiên Điền nhà mình bảo “rõ ràng trong ngọc trắng ngà/dày dày đúc sẵn một tòa thiên nhiên” cơ mà. Nhưng ngay ở trong cái phô, tôi vẫn đọc thấy sự chân tình. Chính là sự chân tình ấy, bằng thơ, và bằng cuộc đời, họ kết với nhau để sáng tạo. Tôi viết về Hội 3D bởi lý do đó.
23/5/2019
Cao Chiến
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

An Dương Vương và Triệu Vũ Đế nên thờ ai

An Dương Vương và
Triệu Vũ Đế nên thờ ai?

Chúng ta thường nói: Nước ta có lịch sử lâu dài, hơn bốn ngàn năm. Nói thế là đúng, nếu như cộng các đời vua Hùng hơn 2000 năm với các triều đại tiếp theo đến ngày nay, hơn 2000 năm nữa, mặc dù dân tộc ta đã trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, nghĩa là phụ thuộc người phương Bắc, bị Bắc triều đô hộ. Phần đông dân ta chỉ là nghe nói thế thôi, nên nhiều người còn nửa tin nửa ngờ, đơn giản vì lịch sử nước ta hồi ấy có thấy chính sử ghi chép kỹ càng gì lắm đâu? Khoảng hơn hai ngàn năm qua các đời vua Hùng, nếu “chia chác” chi ly ra thì phải là nhiều hơn 18 đời như ngày nay ta vẫn nói thế. Gạt bỏ những lớp vỏ huyền tích rêu phong mờ ảo xa xưa, nếu tính từ vua Hùng thứ nhất là con trai của Lạc Long Quân và bà Âu Cơ, cháu nội Kinh Dương Vương, thì các đời vua Hùng quả thật có hơn hai ngàn năm lịch sử.
Đọc bài Đại Việt thông giám tổng luận của quan Thiếu bảo Lễ bộ thượng thư Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu tri Kinh diên sự là Đôn thư bá Lê Tung (Tên thật là Dương Bang Bản, quê Hà Nam) viết, thì các đời vua Hùng được ghi như sau:
“Hùng Vương nối nghiệp của Lạc Long, chăm ban đức huệ, để vỗ yên dân, chuyên nghề làm ruộng, chăn tằm, chẳng có can qua chinh chiến, con cháu nối dòng đều gọi là Hùng Vương, phúc gồm 18 đời, năm trải hơn 2000 năm; buộc nút dây mà làm chính trị, dân không thói gian dối, có thể thấy được phong tục thuần hậu quê mùa vậy. Đến vua sau (tức vua cuối cùng) đức kém, lười chính sự, bỏ việc vũ bị không sửa, ham mê tửu sắc làm vui, binh nước Thục vừa đến thì quốc thống mất”.
Thế là Thục Phán, hậu duệ của nước Thục (ở khoảng Tứ Xuyên Trung Quốc bây giờ) đã đem quân xâm chiếm nước Văn Lang của Hùng Vương, rồi hợp nhất bộ tộc Tây Âu của ông ta với tộc Lạc Việt của Hùng Vương, thành bộ tộc Âu Lạc, rồi lên làm vua, xưng là An Dương Vương, chuyển đô từ Bạch Hạc xuống Phong Khê, xây thành ốc Cổ Loa, nay thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Cũng cần nói thêm rằng: Tổ tiên của Thục Phán, tức nước Thục đã bị nhà Tần diệt từ năm 316 tr.cn. Con cháu nhà Thục sống sót chạy xuống phương Nam, nương náu ở vùng núi Cao Bằng, một phần xuống đến tỉnh Yên Bái của nước ta bây giờ. Thục Phán là người nước Thục, chiếm nước của vua Hùng, làm vua được 50 năm, sau bị Triệu Đà diệt. Về nhân vật Thục Phán (An Dương Vương), bài Tổng luận của sử thần Lê Tung (Dương Bang Bản) viết:
“An Dương Vương, phía Tây thì dời sang Ba Thục, phía Nam thì diệt vua Hùng Vương, đóng đô ở Loa Thành, giữ nước Âu Lạc, nhờ được nỏ móng rùa, đánh lui quân nhà Tần, quen mui đánh được, yên vui sinh kiêu, quân Triệu (Đà) đến đánh mà cõi bờ không thể giữ”.
Tóm tắt thế thôi, chứ thực ra thì An Dương Vương Thục Phán cuối đời bê tha hưởng lạc, lại thêm kiêu căng hồ đồ. Ông ấy đã nghe lời gièm pha của bọn gian thần, giết các Lạc Hầu Lạc Tướng trung thành như Nồi Hầu, Đinh Toán… Ngay cả bậc lão trượng, đệ nhất công thần giúp An Dương Vương xây dựng thành Cổ Loa, chế Nỏ Thần, là tướng quân Cao Lỗ (quê xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh bây giờ) cũng bị nghi oan mà phải chết, đời sau tôn làm Cao Lỗ Vương. An Dương Vương mới chính là kẻ làm mất nước vậy! Sử nước ta không có lời nào khen ngợi ông vua người nước Thục này.
Về nhà Triệu, cũng bài Đại Việt thông giám tổng luận của Lê Tung nói trên ghi:
“Triệu Vũ Đế nhân loạn nhà Tần, chiếm lấy đất Lĩnh Biểu, đóng đô ở Phiên Ngung (thuộc tỉnh Quảng Đông bây giờ-VBL), cùng với Hán Cao Tổ (Lưu Bang-VBL) đều làm đế một phương, có lòng nhân thương dân, có mưu trí giữ nước, vũ công khiến Tàm Tùng (tên vua nước Thục ngày xưa, sau xưng là Thục Vương, dạy dân trồng dâu nuôi tằm) phải kinh sợ, văn giáo khiến Tượng Quận được chấn hưng; lấy thi thư mà biến đổi tục nước, lấy nhân nghĩa mà cố kết lòng người; dạy dân cày trồng, nước giàu binh mạnh. Đến như các việc sai sứ (sang nhà Hán-VBL) thì lời rất khiêm tốn, Nam Bắc giao hoan, thiên hạ vô sự, hưởng nước hơn trăm năm, đáng là bậc vua anh hùng tài lược. Văn Vương (con Trọng Thủy-VBL) là đích tôn của Vũ Đế nối giữ nghiệp cũ, phàm các chế độ điển chương, hết thảy đều tuân theo phép cũ của vua trước, lấy nghĩa mà cảm nước láng giềng, đánh lui quân địch, giữ yên biên cương, cũng là bậc vua nối nghiệp giữ nền vậy!”…
Triệu Đà, tức Triệu Vũ Đế, tổ tiên là người Chân Định, Trung Quốc. Ông ấy nhân loạn nhà Tần mà chiếm lấy đất Lĩnh Biểu, tức bao gồm phần đất đai của người Bách Việt (hàng trăm tộc Việt), thuộc phía nam núi Ngũ Lĩnh, xưa gọi là đất Lĩnh Ngoại (ngoài Ngũ Lĩnh), tức các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, đến bán đảo Hải Nam của Trung Quốc bây giờ. Hàng trăm tộc Việt (Bách Việt), mà Triệu Vũ Đế cai quản, trong đó có người Việt của nước ta bây giờ, gọi chung là nước Nam Việt. Triệu Đà lãnh đạo dân Bách Việt, chống nhau với nhà Hán, giữ vững nền độc lập, các cụ ta xưa tôn vinh Triệu Vũ Đế là người dựng nước độc lập đầu tiên là có lý do lịch sử của nó.
Triệu Đà tuy gốc ở Chân Định, nhưng cả đời ông ấy sống với người Việt, lấy vợ Việt, con cháu nối tiếp nhau là sự hoà hợp của hai dòng máu. Làm Hoàng đế một phương, chắc Triệu Vũ Đế không chỉ có một bà vợ. Nhưng Triệu Đà có một bà vợ họ Trình, lập làm hoàng hậu, quê huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình bây giờ. Đền thờ Triệu Vũ Đế ở Kiến Xương vẫn còn đó. Hằng năm, vào ngày 1.4 (Âm lịch), dân địa phương vẫn tổ chức lễ hội để tuởng nhớ công lao của Triệu Vũ Đế. Nước Đại Việt ta sau này, hồi ấy chỉ là một quận (Giao Chỉ) của nước Nam Việt mà thôi. Triệu Vũ Đế làm vua 71 năm, hưởng thọ 121 tuổi.
Nhà Triệu bị nhà Hán thôn tính, nước Nam Việt trở thành đất đai của nhà Hán. Năm 40 sau công nguyên, hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị khỏi nghĩa giành độc lập. Về sự kiện này, bài Tổng luận của Lê Tung chép:
“Kịp đến Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị em đều có tiếng dũng lược, căm giận về chính lệnh hà ngược của Tô Định (Thái thú quận Giao Chỉ-VBL), hăng hái đem người các bộ, nổi quân hùng mạnh, lừng lẫy uy danh, quận huyện hưởng ứng, cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh Ngoại (tức đất đai Nam Việt cũ thời nhà Triệu-VBL), thu lại hết đất cũ Nam Việt, cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu. Song vì trời không giúp họ Lạc, nên quân nhà Hán sang lấn, nếu bấy giờ có vua anh hùng tài lược, thì nhà Hán đâu dám nhòm ngó đến đèo Mai Lĩnh”.
Bàn về sự thất bại của Hai Bà Trưng, các sử gia ngày trước bình luận ở hai điểm chủ yếu. Thứ nhất là đèo Mai Lĩnh trước đó đã bị nhà Hán chiếm mất. Đây chính là con đèo rất hiểm trở, có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, là cửa ngõ mà nhà Hán có thể nhòm ngó xuống nước Nam Việt của ta. Mất đèo Mai Lĩnh thì Hai Bà Trưng khó có thể giữ được thành quả chiến đấu của mình. Thứ hai là vua đàn bà, không thực sự có tài thao lược lớn, nên mới mau chóng bị thua. Nguyễn Trãi có hơn ba năm phiêu dạt bên Tàu, chưa rõ vì lý do gì, nhưng ông cũng đã từng qua con đèo Mai Lĩnh, còn có tên khác là đèo Đại Dũ này. Ông viết: “Đi hết Mai quan mà không thấy cây mai nào cả”… Đèo này, Tể tướng nhà Đường là Trương Cửu Linh, đồng thời là một nhà thơ lớn, cho mở mang rộng rãi, rồi trồng rất nhiều cây mai, nên mới có tên là đèo Mai Lĩnh, cũng là biên giới giữa nhà Hán và Nam Việt của ta trước đó. Trong 65 thành mà hai Bà Trưng chiếm lại, chủ yếu nằm trên đất Luỡng Quảng của Trung Quốc ngày nay. Hiện đền thờ Hai Bà Trưng rải rác khắp mọi nơi bên đất Lưỡng Quảng, biểu thị niềm tôn kính của nhân dân Bách Việt đối với sự nghiệp vĩ đại của Hai Bà Trưng. Đền thờ Hai Bà Trưng ở Mê Linh, Hà Nội có nhiều câu đối ca ngợi sự nghiệp của Hai Bà, trong đó có những câu rất cụ thể, tường minh. Xin dẫn vài câu tiêu biểu:
1. Uy liệt viễn gia Tương dĩ Bắc,
Thanh linh đài yết Lĩnh chi Nam
Dịch nghĩa:
Uy liệt vang xa tận Tương Giang đất Bắc
Tiếng thiêng phủ khắp ở Nghĩa Lĩnh trời Nam
(Bản dịch của Viện Hán Nôm)
2. Linh Biểu chiến công thần miếu tán
Mê Linh cố quốc nữ nguyên huân
Dịch nghĩa:
Chiến công tại Linh Biểu thần miếu còn khen ngợi
Cố quốc ở Mê Linh bậc nữ có công đầu
(Bản dịch của Viện Hán Nôm)
Ngay như ở thời Quang Trung Hoàng đế nước Đại Việt thế kỷ 18, cũng đã có chủ trương đòi lại Lưỡng Quảng bằng ngoại giao và thậm chí, bằng cả võ lực nếu cần thiết, bởi đất ấy là đất đai của người Nam Việt xưa kia. Chỉ tiếc rằng Nguyễn Huệ chẳng may mất sớm, sự nghiệp to lớn của ông còn dở dang. Thêm nữa, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế (1802). Vài năm sau (1804), Nguyễn Ánh cử sứ đoàn sang nhà Thanh, trong đó có việc đề nghị nhà Thanh cho đặt tên nước ta là nước Nam Việt. Có lẽ vì việc này liên quan đến tên nước thời Triệu Vũ Đế, nên nhà Thanh không chấp nhận, cho đổi thành Việt Nam như ngày nay.
Vậy, xem xét công nghiệp của hai ông Thục Phán An Dương Vương và Triệu Vũ Đế, ai hơn? Chẳng cần phải bàn luận chi nhiều, cũng đã thấy rõ. Chúng tôi nêu thêm một số căn cứ để minh hoạ thêm về sự nghiệp dựng nước của Triệu Vũ Đế để bạn đọc cùng tham khảo.
1. Về sự thật được ghi trong chính sử nước ta.
– Thục An Dương Vương thuộc dòng dõi nước Thục bên Tàu. Ông ta cũng là một tay dũng lược, làm thủ lĩnh bộ tộc Tây Âu, nhiều năm đánh nhau với vua Hùng. Con rể vua Hùng là Nguyễn Tuấn (tức Tản Viên) đánh nhau với Thục Phán nhiều trận. Vua Hùng suy yếu rồi mất nước. Thục Phán cai trị nước Văn Lang 50 năm. Sử ta không thấy câu nào khen ngợi công nghiệp của An Dương Vương cả.
– Triệu Vũ Đế, tổ tiên cũng là người Hán, nhưng ông ấy đã sống với người Việt, đã thành người Việt (Việt hóa), lấy vợ Việt, thụ hưởng văn hoá thuần phác của các tộc Việt ở phương Nam, lập ra nước Nam Việt, lãnh đạo người Bách Việt chống nhau với nhà Hán, khôn khéo lấy sách lược “Nội cương ngoại nhu”, bảo vệ được đất nước, tồn tại mạnh mẽ tới hơn trăm năm. Đến đời chắt của Triệu Đà (Ai Vương) thì suy yếu, lại thêm Hoàng hậu họ Cù là người Hán mưu toan dâng nước Nam Việt cho nhà Hán, nên Tể tướng Lữ Gia dù cố gắng mấy cũng không bảo toàn được Nam Việt. Công lao dựng nước của Triệu Vũ Đế được chính sử nước ta hết lời ca ngợi, xem ông là vị vua dựng nước đầu tiên (theo chính sử).
2. Nước Nam Việt trong văn chương:
Chỉ nêu vài ví dụ: Diễn ca của các cụ ta xưa về cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng có câu:
“Đô thành đóng cõi Mê Linh/ Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”… Ghi việc Hai Bà Trưng đã giải phóng toàn bộ đất đai của người Bách Việt, gồm Quảng Đông, Quảng Tây đến bán đảo Hải Nam của Trung Quốc ngày nay, chứ không phải chỉ có đất đai của nước Đại Việt sau này (Đời Hậu Lý – 1009-1226- mới có quốc hiệu Đại Việt). Phần lớn đền thờ Hai Bà Trưng là ở Lưỡng Quảng của Trung Quốc bây giờ.
Đời Trần (1226-1400), Trương Thiếu Bảo (Trương Hán Siêu) có bài BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ nổi tiếng, đoạn mở đầu, Trương Hán Siêu viết rằng ông đã học theo Tử Trường (Tư Mã Thiên) cái thú thích tiêu dao, rằng ông cũng đã từng đi chơi khắp đó đây, “Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt/ Nơi có người đi đâu mà chẳng biết”, rồi ông lại “Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều/ Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chèo/ Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời một sắc/ Phong cảnh ba thu”… Đó không chỉ là một cuộc du chơi trong văn chương có tính ước lệ, mà còn dựa trên những cơ sở hiện thực lịch sử, rằng đó là vùng đất, là quê hương muôn đời của người Bách Việt. Khi Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ốm nặng, vua Trần Anh Tông đến thăm và hỏi rằng nếu chẳng may ngài mất đi, giặc phương Bắc lại sang lấn cướp thì kế sách giữ nước như thế nào. Hưng Đạo Vương nói rằng: “Ngày xưa, Triệu Vũ Đế dựng nước, vua Hán cho quân đánh thì nhân dân làm kế thanh dã (Kế “vườn không nhà trống”) rồi đem đại quân từ Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường sa, dùng đoản binh úp đằng sau, đó là một thời”!…
Ở đời Hậu Trần, ông Nguyễn Mộng Trang làm chức Nội mật viện sứ đời Trần Giản Định, có bài thơ ĐỀ TÂY ĐÔ THÀNH, trong đó có câu “Chỉ vì nhà Nhuận Hồ bỏ bê đức chính/ Đừng nói rằng nước Nam Việt thiếu khí anh linh” (Chỉ thị Nhuận Hồ hoang đức chính/ Hưu ngôn Nam Việt phạp anh linh). Nước Nam Việt mà Nguyễn Mộng Trang nói đây, chính là nước Nam Việt của ta thời Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) đấy!
Thế kỷ 15, Nguyễn Trãi viết trong BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO như thế này: “Như nước đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác (Bắc: chỉ Trung Quốc; Nam, chỉ phương Nam, tức Nam Việt xưa). Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương/ Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có!” (Duy ngã Đại Việt chi quốc/ Thực vi văn hiến chi bang/ Sơn xuyên chi phong vực ký thù/ Nam Bắc chi phong tục diệc dị/ Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc/ Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương/ Tuy cường nhược thời hữu bất đồng/ Nhi hào kiệt thế vị thường phạp). Thế nghĩa là Nguyễn Trãi vẫn tôn trọng lịch sử, nói đúng sự thật lịch sử. Sách giáo khoa của ta khoảng vài chục năm trước vẫn in đầy đủ bản Đại cáo bình Ngô có chữ TRIỆU, đối với chữ HÁN ở câu sau, nhưng Giáo sư Bùi Văn Nguyên lại chú thích: “Có lẽ Nguyễn Trãi nhầm”. Thật là lửng lơ quá. Nguyễn Trãi quyết không nhầm. Chỉ có con cháu đời sau là nhầm lẫn mà thôi ! Sách giáo khoa Trung học phổ thông khoảng mấy năm trước, vẫn in đầy đủ theo nguyên tác, nghĩa là có chữ “Triệu”, nhưng lờ đi không chú thích gì nữa. Chúng tôi hiểu sự bế tắc này có căn nguyên ở đâu, nên phần nào thông cảm với các nhà làm sách giáo khoa. Tuy nhiên, lịch sử thì không thể có sự “thông cảm” được. Sinh thời, nhà văn Ngô Tất Tố cũng đã viết: “Nước Nam ta làm gì có An Dương Vương?” Thủ đô Hà Nội của chúng ta, trước năm 1954, còn có tên đường mang tên Triệu Vũ Đế và Tể tướng Lữ Gia của nhà Triệu đấy!
3. Trong đời sống tâm linh của nhân dân ta:
– Theo các nhà nghiên cứu lịch sử thì hầu hết các bi ký, ngọc phả, thần phả ở các đền miếu hai bên bờ sông Đà, đều thờ các vị tướng của vua Hùng chống giặc Thục (Phán).
– Tài liệu khảo sát mới công bố gần đây của tác giả Phạm Quý Mùi trên tạp chí Xưa & Nay, số 426, tháng 4-2014 cho hay: Trong tổng số 15 ngôi đình đền được khảo sát ở tỉnh Hải Dương, cụ thể như sau: Có 1 đền thờ vua Hùng Duệ Vương ở Cẩm Giàng. 1 đền thờ cũng ở Cẩm Giàng thờ tướng giúp vua Hùng đánh Triệu Đà (Tôi nghĩ là tướng của Thục An Dương Vương thì đúng hơn. Làm gì còn tướng của vua Hùng khi Thục Phán đã diệt vua Hùng từ mấy chục năm trước?). Hai ngôi đền ở huyện Chí Linh thờ Cao Lỗ Vương, người chỉ đạo xây Loa Thành và chế máy bắn tên hàng loạt, mỗi lần bắn ra diệt hàng trăm địch, truyền thuyết cho đó là Nỏ Thần). Riêng bia đình thôn Lễ Quán (Nay thuộc thành phố Hải Dương) thì thờ An Dương Vương, vì đây là địa phương mà An Dương Vương khi bị Triệu Đà truy đuổi chạy qua đây, có để lại 200 lạng bạc và dặn dân làm đền thờ sau khi ông ta bỏ nước chạy ra biển tự tử. Số còn lại gồm 10 ngôi đình đền ở các huyện Gia Lộc, Chí Linh, Cẩm Giàng, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Ninh Giang… đều thờ các tướng của vua Hùng đánh nhau với giặc Thục (Thục Phán). Chỉ cần nhìn vào con số thống kê trên đây ở tỉnh Hải Dương thôi, chúng ta đã thấy rõ lòng dân đối với An Dương Vương như thế nào. Trong đời sống tâm linh, An Dương Vương đối với nhân dân nước ta chưa có gì đáng kể, lý do là vì ông ta cướp nước Văn Lang của vua Hùng. Năm mươi năm cai trị của An Dương, chưa nói lên được điều gì lớn đối với dân ta, ngoài công lao chế tác vũ khí và xây thành ốc của tướng quân Cao Lỗ, còn lại, chỉ là những kỷ niệm đau buồn. Trên khắp nước Đại Việt ta, theo chỗ chúng tôi được biết, không ở đâu có lễ hội tưởng nhớ An Dương Vương cả.
Nhưng đến khi Triệu Vũ Đế thôn tính được An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt, thì dân ta lại được hưởng thái bình thịnh trị hàng trăm năm, đặc biệt là không bị Hán hoá, không bị Trung Quốc đồng hoá, cho dù ta chỉ là một phần của cộng đồng các dân tộc Bách Việt ở phía Nam Ngũ Lĩnh, tức nước Nam Việt mà thôi. Ở làng Đồng Xâm, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, hàng năm vẫn có lễ hội tưởng nhớ công lao của Triệu Vũ Đế.
Thành phố Hà Nội trước năm 1954 có đường mang tên Triệu Vũ Đế và Tể tướng Lữ Gia. Hiện ở phường Hiệp Phú, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh có tên đường Triệu Đà. Sài Gòn, Đà Nẵng hiện có đường Lữ Gia. Các làng xung quanh khu vực Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội đều có đền thơ Triệu Vũ Đế. Các làng Văn Tinh, Lực Canh (xã Xuân Canh), Thạc Quả (xã Dục Tú) có đền thờ Triệu Đà.
Lễ hội làng Văn Tinh (nơi thờ chính Triệu Vũ Đế) lễ hội từ ngày 6 đến 8 tháng 3 hàng năm, để tưởng nhớ công lao của Triệu Vũ Đế. Ngày 7 tháng 3, dân làng Lực Canh rước kiệu và tượng Trọng Thủy đến đền Văn Tinh, với ý nghĩa con đến thăm cha… Ấy là chưa kể các đền thờ Triệu Vũ Đế ở Quảng Đông, nơi có địa danh Phiên Ngung, bây giờ là thành phố Quảng Châu, vốn là đất đai xưa kia của nước Nam Việt.
Sử ta từ khi được chép vào sách vở, đều xem Triệu Vũ Đế là vị vua dựng nước đầu tiên. Các đời vua Hùng Vương lập nước, tồn tại khoảng hơn 2000 năm, sau bị Thục Phán đánh bại, chính sử không thấy chép kỹ càng, Đại Việt sử ký toàn thư chép ở phần “ngoại kỷ”, tức là theo truyền thuyết mà chép đại khái thế thôi. Trong khi đó, nhà Triệu được chép trang trọng vào phần “bản kỷ”, được thừa nhận là triều đại dựng nước đầu tiên. Thời các vua Hùng Vương, nước ta có chữ viết hay chưa? Có thể tin là đã có chữ viết, ví như “hỏa tự” (chữ hình ngọn lửa) ngày nay đang được nghiên cứu. cho rằng đó là chữ viết của người Việt cổ. Sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, chữ viết của người Việt cổ dần bị bọn xâm lược Bắc triều tiêu huỷ, đến nỗi mất cả tăm tích, thay thế bằng chữ Hán từ thời Sĩ Nhiếp (Sĩ Vương) đô hộ. Tuy nhiên, những chứng tích vật thể còn tồn tại đến bây giờ, ví như trống đồng Đông Sơn chẳng hạn, đã cho thấy trình độ văn minh của người Việt đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ như thế nào. Một dân tộc đã làm ra trống đồng tinh vi như thế, lại hàm ẩn trong các họa tiết hoa văn chạm khắc đến mức tuyệt vời bề sâu văn hoá và tâm hồn của một dân tộc, không thể nói là không có hoặc chưa có chữ viết! Chữ Hán được sử dụng làm văn tự chính thống ở nước ta, đến khi có chữ Quốc ngữ ra đời…Nhà Minh đánh bại nhà Hồ (1407), Minh Thành Tổ ra lệnh cho các tướng nhà Minh phải triệt để tiêu hủy nền văn hóa của nước ta. Sau đó, hắn còn chỉ thị (bí mật) cho viên tướng kế nhiệm Trương Phụ tiếp tục tiêu hủy đến cùng văn hóa nước ta, từ sách vở đến bia ký. Những tác phẩm văn hóa nghệ thuật quan trọng do cha ông ta sáng tạo, chúng cướp đoạt đem về Trung Quốc. Tội ác của chúng trời không dung đất không tha, quỷ thần đều căm giận.
4. Vậy sai lầm bắt đầu từ đâu?
Đây là lời của quan Tham tụng Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ thiếu bảo, Yên quận công Phạm Công Trứ viết trong bài (tựa) cuốn ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TỤC BIÊN, năm Ất Tỵ 1665: “...Hãy thử xét xem. Ngày xưa Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu là Lê Văn Hưu vâng mệnh Trần Thái Tông chép bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ bắt đầu từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng và sử quan Phan Phu Tiên vâng mệnh Nhân Tông của bản triều (tức triều Hậu Lê) chép nối bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ từ Trần Thái Tông đến khi người Minh trở về nước, nghĩa lớn khen chê đã rành rành ở lời công luận của bút chép sử. …Vào khoảng năm Hồng Đức thứ 10 (1479) sai Lễ bộ tả thị lang kiêm Quốc tử giám tư nghiệp Ngô Sĩ Liên biên soạn bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ. Tiếp đến Tương Dực Đế năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) sai Binh bộ thượng thư kiêm Quốc tử giám tư nghiệp kiêm sử quan đô tổng tài là Vũ Quỳnh biên soạn bộ ĐẠI VIỆT SỬ THÔNG GIÁM, chép từ Hồng Bàng Thị đến 12 sứ quân, tách làm “ngoại kỷ”, từ Đinh Tiên Hoàng đến năm đầu Thái Tổ cao hoàng đế bản triều mới lại định thiên hạ làm “bản kỷ”… Đến năm Hồng Thuận thứ 6 (1514) lại sai Thiếu bảo Lễ bộ thượng thư Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu tri Kinh diên sự là Đôn thư bá Lê Tung soạn bài ĐẠI VIỆT THÔNG GIÁM TỔNG LUẬN...”. Trong bài PHÀM LỆ VỀ VIỆC BIÊN SOẠN SÁCH “ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ”, tác giả viết: “Sách này làm ra, gốc ở hai bộ ĐẠI VIỆT SỬ KÝ của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên, tham khảo với Bắc sử, dã sử, các bản truyện chí và những việc nghe thấy truyền lại, rồi khảo đính biên chép mà thành. Chép bắt đầu từ Ngô Vương, vì Vương là người nước Việt đương lúc Nam Bắc phân tranh đã dẹp loạn dựng nước để nối đại thống với Hùng Vương và Triệu Vũ Đế”. (Nay theo BẢN KỶ TOÀN THƯ của Vũ Quỳnh, bắt đầu từ Đinh Tiên Hoàng, là để nêu rõ mối đại thống nhất). Xem thế đủ biết các cụ ta xưa không hề sai lầm. Các cụ vẫn xem Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) là sự tiếp nối của vua Hùng, chứ không hề nói đến ngài Thục Phán An Dương Vương! Việc chia ra từng phân khúc, khi xếp vào “ngoại kỷ” hoặc “bản kỷ”, chỉ là để “nêu rõ mối đại thống nhất”, theo thiên kiến của tác giả các bộ sách sử mà thôi. Tuyệt nhiên không có việc phủ định quá khứ oai hùng của Triệu Vũ Đế, như một niềm tự hào vốn đã có từ bao đời, trong lịch sử, trong văn chương, trong đời sống tâm linh của người Bách Việt, kế đó là của người Đại Việt ta!
Chúng ta đã có một thời giáo dục sai lịch sử, chỉ dựa vào một cái truyền thuyết về AN DƯƠNG VƯƠNG, khi cho rằng Triệu Đà (Triệu Vũ Đế) là giặc, lại còn xem An Dương Vương là ông vua tốt của nước ta, đúc tượng đồng thờ ông ấy ở Cổ Loa, đặt tên đường tên phố ở khắp nơi, trong Nam ngoài Bắc. Con cháu đời sau cứ thế mà nối tiếp cái sự nhầm lẫn đến tệ hại này. Rồi không biết sẽ còn sai lầm đến đâu nữa. Tôi cho rằng đã đến lúc thẳng thắn nhìn lại lịch sử, viết cho đúng lịch sử, đừng nên làm nó méo mó đi, bởi như thế là bất nhẫn với tiền nhân, có tội với tiền nhân và con cháu chúng ta. Rất mong được các nhà làm sử, dạy sử, các nhà quản lý văn hóa và các cơ quan chức năng kịp thời quan tâm chỉnh sửa sai lầm rất đáng tiếc này.
Hà Nội, 30/5/2015
Vũ Bình Lục
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI – Những tìm tòi và thử nghiệm

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI Những tìm tòi và thử nghiệm Đặt vấn đề thơ trẻ trong 20 năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn nhắc đến đội ngũ n...