Thứ Hai, 30 tháng 11, 2020

Một lời cám ơn và một lời chúc mừng

Một lời cám ơn và một lời chúc mừng

Tôi cám ơn ông Hoàng Ngọc-Tuấn đã chỉ ra hai sai sót trong bài viết của tôi: tên tác giả Jencks tôi viết sai là Djenks, tên tác phẩm là Ngôn ngữ kiến trúc hậu hiện đại tôi sót mất từ “hậu”. Nếu như nơi ấn loát có một biên tập viên trình độ như ông hoặc bằng một phần nửa ông thì hai sai sót “khủng khiếp” này đã được sửa một cách ngon lành, tôi khỏi bị rầy rà và ông cũng đỡ mất thì giờ viết bài chỉ trích.
Còn khuyết điểm thứ 3 ông quy kết hơi vội. Nhận định “Thuật ngữ ‘chủ nghĩa hậu hiện đại’ lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hậu hiện đại của Charles Jencks” được đưa vào một đoạn văn [1] của bài bàn lướt qua về lịch sử nghệ thuật kiến trúc hiện đại. Nói một cách khác, “thượng hạ văn” của nhận định nói trên đều bàn về kiến trúc hiện đại. Tôi muốn ông Hoàng Ngọc-Tuấn dẫn ra những công trình bàn về kiến trúc hiện đại xuất bản trước tác phẩm của Jencks và đã có sự xuất hiện của thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại”. Ông chỉ đưa ra những công trình trước 1977 có nói đến từ “chủ nghĩa hậu hiện đại” nhưng lại bàn về những lĩnh vực khác: tâm lý, văn hóa, hội họa, triết học, âm nhạc, thơ ca, văn học. Như vậy trong khi tôi đặt vấn đề: “trong lĩnh vực kiến trúc hiện đại từ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện trong công trình nào?” thì ông Hoàng Ngọc-Tuấn lại đưa ra một vấn đề khác: “trong các lĩnh vực văn hóa từ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện trong công trình nào?” Ở đây có một sự đánh tráo vấn đề.
Thực ra nói rằng thuật ngữ “hậu hiện đại” lần đầu tiên xuất hiện trong cuốn sách nói trên của Jencks vẫn còn là yếu, cần phải khẳng định Jencks là“nhà phê bình lần đầu tiên định nghĩa chủ nghĩa hậu hiện đại trong kiến trúc, một biến cố đã dẫn đến sự định nghĩa tiếp theo của nó trong nhiều lĩnh vực…” (Nguồn: AKAA) và Jencks “đồng nghĩa với khái niệm Hậu hiện đại trong kiến trúc, bởi ông là người đầu tiên triển khai những ý tưởng này trong diễn ngôn kiến trúc với cuốn sách của ông…” (chuyển dẫn từ “Charles Jencks: Being Iconic”, Archinect Features, 11.12.2005)
Có một điều không đẹp là ông Hoàng Ngọc-Tuấn dẫn ý kiến của tôi không trung thực. Ông đưa những cứ liệu chính xác chứng minh rằng từ postmodernism đã được “đẻ” ra từ năm 1870. Và hai lần ông quy cho Hoàng Ngọc Hiến khẳng định “ông Charles Jencks đã đẻ ra từ ‘postmodernism’ vào năm 1977…” Tôi chưa bao giờ nói ông Charles Jencks đã đẻ ra từ này. Ai đó đã đẻ ra nó, nhưng trong lịch sử kiến trúc hiện đại, từ này lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong một công trình của Charles Jencks.
Để hiểu rõ bài của ông Hoàng Ngọc-Tuấn về “Một quái trạng văn hóa”, ngoài phần học thuật, cần hiểu thêm tâm thuật và khẩu khí của ông. Trong bài này học thuật của ông chung quy là sự liệt kê trong hơn 4 trang A4 thư mục những bài có liên quan đến đề tài chủ nghĩa hậu hiện đại (thời buổi Google, 4 trang không phải là nhiều đâu). Về tâm thuật và khẩu khí của ông, tôi đã có dịp trình bày ý kiến của tôi trong cuộc tranh luận giữa ông và tôi mùa Hè năm 2000, các bài được đăng trên những số Hợp Lưu 50, 51, 52, 53… năm 2000. Các bạn độc giả quan tâm đến vấn đề này có thể đọc lại mấy số Hợp Lưu nói trên. Có mấy vấn đề, tôi trình bày lại tóm tắt như sau.
1. Trong một bài báo đăng trên Hợp Lưu, tôi có trích dẫn một đoạn trong một bài mục có trong CD Bách khoa Encarta 98. Bộ Bách khoa của tôi phiên bản Deluxe Edition. Ông Hoàng Ngọc-Tuấn chúi mũi tìm trong một bộ Bách khoa Encarta phiên bản thường và không thấy bài mục có đoạn trích dẫn của tôi. Ông cho rằng tôi đã bịa ra đoạn trích dẫn và cho công bố ngay một bài báo với một tít rất giật gân: “Sáng chế tài liệu giả: một hiện tượng phản trí thức đáng chê trách trong văn học Việt Nam đương đại”; sự kiện nổi bật trong bài báo này là: Ông Hoàng Ngọc Hiến, một “nhà trí thức nổi danh quốc nội” chỉ vì “muốn giành phần thắng trong cuộc tranh luận với một câu viết của ông Nguyễn Hưng Quốc” “đã liều lĩnh thực hiện một hành động cực kỳ phản trí thức là chế tạo tài liệu giả” (xem Hợp Lưu số 53, tr. 24). Đến lúc tôi xuất trình văn bản chính bản thì tác giả bài báo ở vào tình thế lố bịch của một người “vồ hụt”. Thực ra trong tình thế này ông là người đáng thương hơn là đáng trách. Trong vụ này, ông có hai lần “vồ hụt” nữa thật là đáng trách, và hai lần này sẽ giúp độc giả hiểu rõ hơn bài báo “Một quái trạng văn hóa” và tác giả của nó.
2. Ông đinh ninh rằng đoạn văn trích dẫn trong bài của tôi là do tôi, một học giả “quốc nội” bịa ra; thế là về một đoạn chỉ dăm chục từ, ông tuôn ra một loạt nhận xét phỉ báng: “đặt nhan đề… vụng về”, “không thể tưởng tượng… lại tệ đến thế”, “lời lẽ tán dương thừa thãi”, “ngớ ngẩn”, “thực là buồn cười”, ”rất đáng ngờ”… (xem Hợp Lưu số 53, tr. 22). Thực ra, đoạn văn ấy do một học giả Mỹ biên soạn, một học giả Mỹ có thể sai nhưng không thể sai một cách thảm hại như ông Hoàng Ngọc-Tuấn phỉ báng, văn bản còn sờ sờ ra đấy; sở dĩ ông dám lộng ngôn vì ông nghĩ rằng đoạn văn này do một Hoàng Ngọc Hiến “quốc nội” bịa đặt. Như vậy, ông Hoàng Ngọc-Tuấn nhìn người để phê phán chứ không dựa vào văn bản, một cách phê bình thảm hại cả về mặt học thuật lẫn tâm thuật.
3. Trong một bài báo, tôi có trích dẫn một câu 3 dòng của nhà nghiên cứu W.J.T. Mitchell. Để chứng tỏ trình độ tiếng Anh và trình độ lý luận của mình, ông Hoàng Ngọc-Tuấn đã dịch lại. Trong bài báo “Trí thức là gì vậy?” (Hợp Lưu số 53) tôi đã chỉ ra, trong một câu 3 dòng ông đã dịch sai 2 chỗ, một chỗ đặc biệt nghiêm trọng là từ moment như là một khái niệm triết học bị ông dịch là “khoảnh khắc” (nghĩa thông thường). Dĩ nhiên tôi sẽ không không căn cứ vào những chỗ sai này để nói rằng ông Hoàng Ngọc-Tuấn chỉ đáng trình độ phổ thông hoặc sinh viên năm thứ nhất.
Einstein có một lời phán rất hay về “trí thức”: “Chúng ta phải lưu tâm đừng có làm cho trí thức (intellect) thành Thượng đế của chúng ta; đương nhiên nó có cơ bắp mạnh mẽ đấy, nhưng không có personality.”
Cơ bắp trí thức của ông Hoàng Ngọc-Tuấn không tồi. Trong bài “Phản tri thức trong tranh luận văn học” của một ký giả ngoài nước (lâu ngày tôi quên mất xuất xứ), những thành tựu nghiên cứu của ông được đánh giá cao:
Những bài viết gần đây nhất của ông Hoàng Ngọc-Tuấn, như “Vấn đề cái mới trong tiểu thuyết thế kỷ 20”, “Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại”…, không thể phủ nhận, là những bài viết rất công phu, đóng góp lớn trong việc truyền bá những tư tưởng triết học và lý luận phê bình văn học tiên tiến của thế giới cho văn học Việt Nam.
Về personality của ông, thì có đấy, nhưng nó chật chưỡng, đôi khi cảm thấy là faux. Chính ký giả bài báo nói trên nhận định về personality của ông như sau:
… Cũng với thái độ đạo đức giả như vậy, ông Tuấn “cảm thấy khổ tâm vì biết rằng, từ nay về sau, chắc chắn tôi sẽ không còn hoàn toàn yên tâm khi đọc những bài viết ngay cả của những tên tuổi khả kính trong văn học Việt Nam đương đại”. Ông thừa biết rằng, với tư cách một người đọc chuyên nghiệp và một con người biết suy nghĩ, không ai hoàn toàn yên tâm khi đọc bài viết của bất cứ ai, bất cứ tên tuổi khả kính nào, không chỉ của Việt Nam mà của toàn thế giới… Đối với người đọc có lý trí, không có những tên tuổi khả kính, chỉ có văn bản và văn bản. Ông khổ tâm như vậy là thừa!
Không dừng lại ở chỗ đó, ông Tuấn còn đi xa hơn trong việc quy chụp cho hiện tượng trên là “một căn bệnh của tình trạng đói kiến thức dài lâu trong một đất nước nghèo nàn và bưng bít… vì chỉ ở một đất nước thiếu nguồn thông tin và kiến thức trầm trọng thì người ta mới có thể dám đánh lừa nhau bằng những thông tin giả và kiến thức mạo hóa”… Một đất nước như ông nói, “nghèo nàn và bưng bít”, nên rất cần những cánh tay bao dung giúp đỡ, chứ không phải một thái độ phỉ báng.
Tóm lại so cung cách viết lần này của ông với cung cách viết của ông năm 2000, có sự tiến bộ. Lần trước ông “vồ” 3 lần, hụt cả 3 và hụt một cách tẽn tò. Lần này ông vồ 4 lần, trúng 2 (sót chữ “hậu” và viết sai tên Jencks), hụt 2; lần trước ông lớn tiếng vu khống một người tiêu tiền thật là làm “bạc giả”, một tội “tầy trời”; lần này ông chỉ lèm nhèm chút ít: đánh tráo vấn đề, trình bày không trung thực ý kiến của người mà ông phê bình. Ở ông sự tiến bộ này là đáng kể, xin có lời chúc mừng.
Chú thích:

[1] Đoạn văn này như sau: “Trong lịch sử nghệ thuật kiến trúc hiện đại có một bước ngoặt quan trọng mà lướt qua có thể đem lại một gợi ý thú vị về mỹ học hậu hiện đại trong truyện và phim truyện.
Chủ nghĩa hiện đại trong ngành kiến trúc thể hiện tập trung ở phong cách quốc tế đặc biệt phát triển trong những năm 60. Phong cách quốc tế chỉ quan tâm đến những hình, những khối hình học trong kiến trúc, gạt bỏ một cách tàn nhẫn những yếu tố trang trí, sự đa dạng trong tạo dáng.
Đến cuối những năm 70, có nhiều kiến trúc sư bắt đầu bực mình với sự hạn chế, sự đơn điệu của phong cách quốc tế. Họ đề xướng việc khai thác những khả năng trang trí, những khả năng tạo dáng luôn luôn đổi mới, đưa ra những kết cấu tự do hơn, phăng-te-di hơn. Thực chất của đề xướng này là sự quan tâm đến thị hiếu của công chúng đông đảo: phải có trình độ bác học mới thưởng thức được cái đẹp của những tỷ lệ hình khối, còn thị hiếu của công chúng đông đảo thì hướng về những khả năng trang trí và tạo dáng cụ thể.
Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hậu hiện đại của Charles Jencks.
Cốt lõi của chủ nghĩa hậu hiện đại thể hiện ở sự đánh giá lại giá trị kiến trúc của toà đèn Parthenon, một công trình kiến trúc Hy Lạp cổ đại nổi tiếng (xây khoảng giữa TK 5 trước C.N.). Hàng chục thế kỷ nay, nghệ thuật kiến trúc của tòa đền được ca ngợi ở những tỷ lệ toán học trong kết cấu của nó, cuối cùng đã được đề lên thành điển chuẩn (canoniser)và những phẩm giá này chỉ những chuyên gia, những người có trình độ văn hóa kiến trúc cao mới thưởng thức được. Nhưng nghệ thuật kiến trúc của Parthenon không chỉ có vậy. Thời cổ, nó được sơn mầu xanh lam, mầu đỏ sẫm, trên trán tường và phần trên các cột có đắp phù điêu thếp vàng minh họa những sự tích thần thoại, những môtíp truyền thuyết là những điều rất quen thuộc, hấp dẫn với những khán giả thông thường. Những trang trí này, mấy vị nghệ sĩ “cao đạo” (đặc tuyển) sẵn sàng bĩu môi chê là “cu cò”, nhưng đại chúng lại rất thích. Quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa hậu hiện đại gắn liền với bài học rút ra từ sự đánh giá lại kiến trúc của Parthenon: nghệ thuật cổ đại cổ điển “là sự mã hóa chí ít ở hai cấp: cho quần chúng nhân dân đông đảo và cho phạm vi hẹp những người sáng tác”. Chủ nghĩa hậu hiện đại làm nổi bật nhược điểm của chủ nghĩa hiện đại: hướng về một công chúng “lý tưởng” không có trong thực tế hoặc chỉ gồm một số ít người đặc tuyển và loại trừ lợi ích của những người tiêu dùng cụ thể, không tính đến thị hiếu của công chúng đông đảo.
Chủ nghĩa hiện đại trong ngành kiến trúc thể hiện tập trung ở phong cách quốc tế đặc biệt phát triển trong những năm 60. Phong cách quốc tế chỉ quan tâm đến những hình, những khối hình học trong kiến trúc, gạt bỏ một cách tàn nhẫn những yếu tố trang trí, sự đa dạng trong tạo dáng.
Đến cuối những năm 70, có nhiều kiến trúc sư bắt đầu bực mình với sự hạn chế, sự đơn điệu của phong cách quốc tế. Họ đề xướng việc khai thác những khả năng trang trí, những khả năng tạo dáng luôn luôn đổi mới, đưa ra những kết cấu tự do hơn, phăng-te-di hơn. Thực chất của đề xướng này là sự quan tâm đến thị hiếu của công chúng đông đảo: phải có trình độ bác học mới thưởng thức được cái đẹp của những tỷ lệ hình khối, còn thị hiếu của công chúng đông đảo thì hướng về những khả năng trang trí và tạo dáng cụ thể.
Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hậu hiện đại của Charles Jencks.
Cốt lõi của chủ nghĩa hậu hiện đại thể hiện ở sự đánh giá lại giá trị kiến trúc của toà đèn Parthenon, một công trình kiến trúc Hy Lạp cổ đại nổi tiếng (xây khoảng giữa TK 5 trước C.N.). Hàng chục thế kỷ nay, nghệ thuật kiến trúc của tòa đền được ca ngợi ở những tỷ lệ toán học trong kết cấu của nó, cuối cùng đã được đề lên thành điển chuẩn (canoniser)và những phẩm giá này chỉ những chuyên gia, những người có trình độ văn hóa kiến trúc cao mới thưởng thức được. Nhưng nghệ thuật kiến trúc của Parthenon không chỉ có vậy. Thời cổ, nó được sơn mầu xanh lam, mầu đỏ sẫm, trên trán tường và phần trên các cột có đắp phù điêu thếp vàng minh họa những sự tích thần thoại, những môtíp truyền thuyết là những điều rất quen thuộc, hấp dẫn với những khán giả thông thường. Những trang trí này, mấy vị nghệ sĩ “cao đạo” (đặc tuyển) sẵn sàng bĩu môi chê là “cu cò”, nhưng đại chúng lại rất thích. Quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa hậu hiện đại gắn liền với bài học rút ra từ sự đánh giá lại kiến trúc của Parthenon: nghệ thuật cổ đại cổ điển “là sự mã hóa chí ít ở hai cấp: cho quần chúng nhân dân đông đảo và cho phạm vi hẹp những người sáng tác”. Chủ nghĩa hậu hiện đại làm nổi bật nhược điểm của chủ nghĩa hiện đại: hướng về một công chúng “lý tưởng” không có trong thực tế hoặc chỉ gồm một số ít người đặc tuyển và loại trừ lợi ích của những người tiêu dùng cụ thể, không tính đến thị hiếu của công chúng đông đảo.
29/10/2008
Hoàng Ngọc Hiến
Theo http://www.talawas.org/

Một lối nghiên cứu đáng ngờ, và một lối phản biện đáng chê trách

Một lối nghiên cứu đáng ngờ, 
và một lối phản biện đáng chê trách
 

I. Về bài phản biện của ông Hoàng Ngọc Hiến
1. Trong bài phản biện có cái nhan đề mỉa mai “Một lời cám ơn và một lời chúc mừng”, ngay ở câu nhập đề, ông Hoàng Ngọc Hiến viết:
Tôi cám ơn ông Hoàng Ngọc-Tuấn đã chỉ ra hai sai sót trong bài viết của tôi: tên tác giả Jencks tôi viết sai là Djenks, tên tác phẩm là Ngôn ngữ kiến trúc hậu hiện đại tôi sót mất từ “hậu”. Nếu như nơi ấn loát có một biên tập viên trình độ như ông hoặc bằng một phần nửa ông thì hai sai sót “khủng khiếp” này đã được sửa một cách ngon lành, tôi khỏi bị rầy rà và ông cũng đỡ mất thì giờ viết bài chỉ trích.
Cảm ơn ông Hoàng Ngọc Hiến đã nhận hai cái “sai sót” ấy. Có lẽ ông muốn nói rằng hai cái “sai sót” ấy là do ông đánh máy bị “sai” và “sót” chữ. Nhưng, thưa ông, tôi phát hiện hai “sai sót” này trong bản đăng trên tạp chí Sông Hương ngày 16/7/2008. Tôi không thể hình dung nổi, trước đó hơn một tháng, khi ông đọc bài tham luận của ông tại hội thảo “Lý luận Văn học Việt Nam thế kỷ XX” tổ chức ngày 7/6/2008 tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, thì ông có đọc hai cái “sai sót” ấy cho cử tọa nghe hay không. Nếu chính ông đã đọc lại nguyên văn hai cái “sai sót” ấy, mà cả ông lẫn cử tọa hàn lâm vẫn không nhận ra cái hai cái “sai sót” ấy, để rồi, hơn một tháng sau, ông lại đem gửi đăng lên báo cả hai cái “sai sót” ấy, thì thật là khó hiểu lắm vậy.
2. Tuy nhiên, trong bài viết của tôi, tôi không chỉ nêu lên hai cái sai ấy. Tôi nói rằng khi ông Hoàng Ngọc Hiến viết “Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại của Charles Djenks” là ông nói hoàn toàn sai, cả tên sách, tên tác giả và thời điểm xuất hiện của thuật ngữ ấy.
Chính ông, trong bài phản biện của ông, cũng tự nhận thấy rằng:
Thực ra nói rằng thuật ngữ “hậu hiện đại” lần đầu tiên xuất hiện trong cuốn sách nói trên của Jencks vẫn còn là yếu, cần phải khẳng định Jencks là “nhà phê bình lần đầu tiên định nghĩa chủ nghĩa hậu hiện đại trong kiến trúc, một biến cố đã dẫn đến sự định nghĩa tiếp theo của nó trong nhiều lĩnh vực…” (Nguồn: AKAA) và Jencks “đồng nghĩa với khái niệm Hậu hiện đại trong kiến trúc, bởi ông là người đầu tiên triển khai những ý tưởng này trong diễn ngôn kiến trúc với cuốn sách của ông…” (chuyển dẫn từ “Charles Jencks: Being Iconic”, Archinect Features, 11.12.2005)
Yếu. Đúng thế. Và do cái “yếu” đó mà câu nói của ông trở thành sai, cần phải bổ sung cho thuật ngữ ấy một nội hàm về kiến trúc, thì câu nói ấy mới khá hơn. Khá hơn, chứ không phải là hết sai, bởi vì (căn cứ theo chính cái link do ông cung cấp trên đây) Charles Jencks là người đầu tiên “triển khai” (the first to “extend”) những ý tưởng này trong diễn ngôn kiến trúc, chứ không phải là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này trong lĩnh vực kiến trúc. (Điều này được chứng minh trong phần tiếp theo ngay dưới đây.)
3. Một khi chính ông đã tự nhận thấy cái “yếu” ấy, thì không còn lý do gì ông lại cho rằng tôi “quy kết hơi vội” và “đánh tráo vấn đề”. Hãy xem ông phản biện như thế nào nhé.
Ông viết:
Tôi muốn ông Hoàng Ngọc-Tuấn dẫn ra những công trình bàn về kiến trúc hiện đại xuất bản trước tác phẩm của Jencks và đã có sự xuất hiện của thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại”. Ông chỉ đưa ra những công trình trước 1977 có nói đến từ “chủ nghĩa hậu hiện đại” nhưng lại bàn về những lĩnh vực khác: tâm lý, văn hóa, hội họa, triết học, âm nhạc, thơ ca, văn học. Như vậy trong khi tôi đặt vấn đề: “trong lĩnh vực kiến trúc hiện đại từ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện trong công trình nào?” thì ông Hoàng Ngọc-Tuấn lại đưa ra một vấn đề khác: “trong các lĩnh vực văn hóa từ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện trong công trình nào?” Ở đây có một sự đánh tráo vấn đề.
Thưa ông, tôi chẳng hề “quy kết hơi vội”, cũng chẳng hề “đánh tráo vấn đề” như ông kết án. Ngược lại, ông “hơi vội” tưởng rằng bản liệt kê tên sách/ tên bài trong phần PHỤ LỤC của tôi đã quá đầy đủ. Chính tôi đã ghi rõ rằng: “Dưới đây là bản liệt kê một số những tiểu luận, luận văn tiến sĩ, tạp chí và sách được công bố từ 1970 đến 1979 có sử dụng các từ ‘postmodern’ và/ hoặc ‘postmodernism’ ngay trên nhan đề. Bản liệt kê này tất nhiên còn rất thiếu sót, vì chỉ là những gì tôi lọc ra từ những tài liệu mà tôi sưu tập được cho công việc nghiên cứu của riêng mình...”
Bây giờ ông thách tôi dẫn ra những công trình bàn về kiến trúc hiện đại xuất bản trước tác phẩm của Jencks [The Language of Post-Modern Architecture (1977)] và đã có sự xuất hiện của thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại”. Giọng thách thức của ông đầy vẻ tự tin, vì ông tưởng rằng tôi sẽ kẹt cứng, nhưng, tiếc thay, sự tự tin ấy hoàn toàn sai, vì hóa ra việc ấy lại quá dễ dàng đối với tôi. Tôi rất vui lòng dẫn ra một vài món trước 1977. Mời ông xem nhé:
- Năm 1961, Nikolaus Pevsner đã dùng thuật ngữ này trong bài nói chuyện về kiến trúc hiện đại, nhan đề là “The Return of Historicism”, trên đài phát thanh BBC, trong chương trình “BBC Home Service and Third Programme”, sau đó, cho đăng lại thành một tiểu luận dưới nhan đề “Modern Architecture and the Historian or the Return of Historicism,” trên tạp chí RIBA Journal 68, No. 6 (April 1961), trang 230-40. Gần đây, bài ấy được in lại trong cuốn Pevsner on Art and Architecture: The Radio Talks (London: Methuen Publishing, Ltd., 2004), trang 272-277.
- Sau đó, năm 1974, thuật ngữ này được lý thuyết gia kiến trúc Robert Stern tái sử dụng. Perry Anderson viết trong cuốn The Origins of Postmodernity (London & New York: Verso, 1998), trang 21-22:
By 1974, the term “postmodern” - anticipated a decade earlier by Pevsner, to castigate a weak historicism - had entered the art world in New York, where perhaps the first architect to use it was Venturi's student Robert Stern. But the critic who made its fortune was Charles Jencks...
- Thật vậy, năm 1975, Charles Jencks lần đầu mượn lại thuật ngữ này để sử dụng trong một tiểu luận về lý thuyết kiến trúc, nhan đề là “The rise of Post-Modern architecture”, đăng trên tạp chí Architecture Association Quarterly, No.7, Issue 4, trang 3-14. Từ đó, ông tập trung khai triển lý thuyết này và hoàn thành cuốn sách nổi tiếng The Language of Post-Modern Architecture (1977). Theo nhận định của Hans Bertens, trong The Idea of the Postmodern (London & New York: Routledge, 1995), trang 58, thì cuốn sách The Language of Post-Modern Architecture (1977) bao gồm những điều tương tự như nội dung của bài tiểu luận Charles Jencks viết năm 1975. Hans Bertens viết:
“The rise of Post-Modern architecture” (1975) is a plea for a postmodern pluralism that is obviously influenced by Venturi and Scott Brown. Among the alternatives to modernism Jencks lists the restoration of old buildings; what he calls 'ersatz' architecture; a consumer-oriented architecture; a new 'social realism'; and radical traditionalism. The first edition of The Language of Post-Modern Architecture (1977) is similarly inclusive.”
Thế nhưng, nên nhớ rằng, ngay cả trong năm 1977, không phải chỉ có Charles Jencks sử dụng thuật ngữ này trong lĩnh vực kiến trúc, mà một số lý thuyết gia kiến trúc khác cũng đồng thời sử dụng. Chẳng hạn, Paul Goldberger cho đăng tiểu luận “Post-modernism: an introduction” trên tạp chí Architectural Design, No. 47, Issue 4, 1977, trang 256-260; và Philip Johnson cho đăng tiểu luận “On style and the International Style: on postmodernism: on architecture” trên tạp chí Oppositions, No.10, 1977, trang 15-19.
4. Ông Hoàng Ngọc Hiến kết án rằng tôi chơi “không đẹp”, vì tôi dẫn ý kiến của ông “không trung thực”. Nhưng một khi chính ông đã tự nhận thấy câu văn của ông là “yếu”, nghĩa là sót ý, dẫn đến ý nghĩa sai, thì ông không thể kết án tôi như thế được nữa, vì tôi đã dẫn ý kiến của ông hoàn toàn trung thực, và đúng với từng chữ của ông:
Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại [sic] của Charles Djenks. [sic]
Ông nói lần đầu tiên thuật ngữ ấy xuất hiện năm 1977 trong cuốn sách ấy, nhưng ông không hề nói ai đẻ nó ra, vậy nếu ngay tác giả cuốn sách ấy cũng không phải là người đẻ nó ra, thì hóa ra nó tự sinh ra hay sao?
Bây giờ, thậm chí, khi ông đã chữa lại chỗ “yếu” ấy, ông vẫn kết luận sai một cách rành rành. Ông viết:
Tôi chưa bao giờ nói ông Charles Jencks đã đẻ ra từ này. Ai đó đã đẻ ra nó, nhưng trong lịch sử kiến trúc hiện đại [đây là cái ý ông mới bổ sung], từ này lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong một công trình của Charles Jencks.
Đấy, lại vẫn sai, như tôi đã chứng minh ở trên.
Nói tóm lại, phần phản biện của ông Hoàng Ngọc Hiến hoàn toàn vô giá trị, vì dù ông có bổ sung bằng cách đặt cái thuật ngữ ấy vào lịch sử kiến trúc hiện đại, thì những điều ông nói vẫn hoàn toàn sai.
II. Về vụ tranh luận trên Hợp Lưu năm 2000
1. Có lẽ vì ông Hoàng Ngọc Hiến tự cảm thấy bài phản biện của ông quá yếu về mặt học thuật, nên ông ráp thêm cái chuyện năm 2000 vào bài phản biện năm 2008 này với mục đích chuyển hướng chú ý của độc giả vào phần “tâm thuật và khẩu khí” của tôi. Ông viết:
Để hiểu rõ bài của ông Hoàng Ngọc-Tuấn về “Một quái trạng văn hóa”, ngoài phần học thuật, cần hiểu thêm tâm thuật và khẩu khí của ông... [...] Về tâm thuật và khẩu khí của ông, tôi đã có dịp trình bày ý kiến của tôi trong cuộc tranh luận giữa ông và tôi mùa Hè năm 2000.
Thế nhưng, chính ông Hoàng Ngọc Hiến lại tường thuật không trung thực về chuyện năm 2000. Ông viết:
Trong một bài báo đăng trên Hợp Lưu, tôi có trích dẫn một đoạn trong một bài mục có trong CD Bách khoa Encarta 98 [sic]. Bộ Bách khoa của tôi phiên bản Deluxe Edition. Ông Hoàng Ngọc-Tuấn chúi mũi tìm trong một bộ Bách khoa Encarta phiên bản thường và không thấy bài mục có đoạn trích dẫn của tôi. Ông cho rằng tôi đã bịa ra đoạn trích dẫn và cho công bố ngay một bài báo với một tít rất giật gân: “Sáng chế tài liệu giả: một hiện tượng phản trí thức đáng chê trách trong văn học Việt Nam đương đại.”
Trong đoạn văn ngắn này, ông nói đến hai điều, nhưng cả hai điều đều không đúng. Xin ông xem lại những chi tiết sau đây:
Chi tiết 1:
Trong bài “Coi trọng trình độ văn hóa phải chăng là 'phản trí thức'?” (Hợp Lưu số 52, trang 5-10), khi nêu ra một tài liệu để phản biện một ý kiến của ông Nguyễn Hưng Quốc, ông Hoàng Ngọc Hiến viết:
... sẵn có trong tay C.D. 99 bộ Encyclopedia Encarta tôi mở bài mục Literary Criticism [...] thì tôi thấy rằng N.H.Q... nói sai. (trang 5)
Vì ông Hoàng Ngọc Hiến trình bày xuất xứ của tài liệu như thế, nên tôi vào đúng cái “C.D. 99 bộ Encyclopedia Encarta” để xem, thì hoàn toàn không thấy có tài liệu ấy. Tôi liền gửi đăng trên Hợp Lưu số 53 một bài phê phán ông Hoàng Ngọc Hiến về hành vi bịa đặt tài liệu.
Sau đó, ông Hoàng Ngọc Hiến có phản hồi bằng bài “Trí thức là gì vậy?” (Hợp Lưu số 54, trang 5-13). Trong bài phản hồi ấy, ông Hoàng Ngọc Hiến đã xác nhận:
Lời kết tội của HNT là có căn cứ. Nhưng tài liệu của tôi xuất trình không phải là tài liệu giả. Một thiếu sót tai hại của tôi là trình bày tên gọi của C.D. tôi bỏ sót nhãn hiệu Deluxe edition. (trang 6)
Và:
Tôi không khỏi phiền lòng, thiếu sót tai hại của tôi đã làm cho ông HNT “hết sức khổ tâm”, “khổ tâm sâu sắc”, một lần nữa ông phải chứng kiến những biểu hiện của “một căn bệnh hiểm nghèo của văn học Việt Nam đương đại”, đã cám dỗ ông làm một công việc vô duyên (đành rằng ông không có lỗi) là kết tội giả mạo tài liệu một người không làm tài liệu giả. (trang 6-7)
Đấy, ông Hoàng Ngọc Hiến đã trình bày xuất xứ. Tôi theo đúng xuất xứ đó mà tìm thì không thấy gì cả. Và ông đã nhận rằng đó là một thiếu sót tai hại của ông, đồng thời ông cũng nhận rằng tôi không có lỗi. Thế mà bây giờ ông lại nói rằng tôi “chúi mũi” tìm trong một nguồn khác, và ông kết án tôi. Thế là thế nào?
Chi tiết 2:
Bài viết của tôi trên Hợp Lưu số 53, trang 19-44, có nhan đề là “Sáng chế tài liệu giả: một hiện tượng phản trí thức trong văn học Việt Nam đương đại” chứ không phải là “Sáng chế tài liệu giả: một hiện tượng phản trí thức đáng chê trách trong văn học Việt Nam đương đại.” Ông Hoàng Ngọc Hiến thêm các chữ “đáng chê trách” vào làm gì thế? Không khéo trong trường hợp này ông lại đổ lỗi cho ban biên tập talawas là không đủ trình độ để tìm hiểu và xoá bớt ba chữ ấy đi cho đúng, như ông đã viết ở đầu bài phản biện của ông:
Tôi cám ơn ông Hoàng Ngọc-Tuấn đã chỉ ra hai sai sót trong bài viết của tôi: tên tác giả Jencks tôi viết sai là Djenks, tên tác phẩm là Ngôn ngữ kiến trúc hậu hiện đại tôi sót mất từ “hậu”. Nếu như nơi ấn loát có một biên tập viên trình độ như ông hoặc bằng một phần nửa ông thì hai sai sót “khủng khiếp” này đã được sửa một cách ngon lành, tôi khỏi bị rầy rà và ông cũng đỡ mất thì giờ viết bài chỉ trích.
2. Không biết cách nào để làm cho bài phản biện của mình mạnh hơn, ông Hoàng Ngọc Hiến đi ngược về 8 năm trước, vác thêm một câu văn dịch của tôi trên Hợp Lưu năm 2000 vào đây để hạ thấp tôi xuống. Ông viết:
Trong một bài báo, tôi có trích dẫn một câu 3 dòng của nhà nghiên cứu W.J.T. Mitchell. Để chứng tỏ trình độ tiếng Anh và trình độ lý luận của mình, ông Hoàng Ngọc-Tuấn đã dịch lại. Trong bài báo “Trí thức là gì vậy?” (Hợp Lưu số 53 [sic]) tôi đã chỉ ra, trong một câu 3 dòng ông đã dịch sai 2 chỗ, một chỗ đặc biệt nghiêm trọng là từ moment như là một khái niệm triết học bị ông dịch là “khoảnh khắc” (nghĩa thông thường). Dĩ nhiên tôi sẽ không không [sic] căn cứ vào những chỗ sai này để nói rằng ông Hoàng Ngọc-Tuấn chỉ đáng trình độ phổ thông hoặc sinh viên năm thứ nhất.
Nếu ông không có ý như thế, thì ông viết cái đoạn này vào bài phản biện của ông để làm gì vậy?
Đã nói, thì phải nói cho đầy đủ. Ông Hoàng Ngọc Hiến chỉ nói lập lờ như thế thì làm sao độc giả biết “câu 3 dòng” ấy là thế nào và tôi đã dịch ra sao. Câu văn của W. J. T. Mitchell như thế này:
The antitheoretical polemic is one of the characteristic genres of theoretical discourse... an inevitable dialectical moment within theoretical discourse, the moment when theory's constructive, positive tendency generates its own negation.
Trong bài viết của ông Hoàng Ngọc Hiến trên Hợp Lưu số 52 (đã nêu), ông Hoàng Ngọc Hiến dịch câu văn trên của W.J.T. Mitchell thành ra thế này (tôi xin chép lại đúng từng chữ của ông Hoàng Ngọc Hiến):
Lời lẽ tranh cãi phản lý thuyết là một trong những thể loại (genre) đặc biệt của lời lẽ lý thuyết (theoretical discourse)... một moment biện chứng không tránh khỏi ở bên trong lời lẽ lý thuyết... (W.J. T. Mitchell)
Trong bài viết của tôi trên Hợp Lưu số 53 (đã nêu), tôi dịch câu văn trên của W.J.T. Mitchell thành ra thế này (tôi xin chép lại đúng từng chữ của tôi):
Luận chiến phản lý thuyết là một trong những thể loại mang tính đặc trưng của hành ngôn lý thuyết... một khoảnh khắc mang tính biện chứng không thể tránh khỏi xảy ra trong phạm vi hành ngôn lý thuyết, một khoảnh khắc khi xu hướng mang tính xây dựng, tích cực của lý thuyết làm phát ra sự phủ nhận của chính nó.
Tôi không cần nói thêm gì nữa về điều này. Xin kính mời các bậc thức giả so sánh và góp ý để tôi được học hỏi thêm.
3. Ông Hoàng Ngọc Hiến lại còn vác thêm vào bài phản biện của ông ba đoạn văn không có tên tác giả và không rõ xuất xứ, trong đó, vì một lý do gì không rõ, tác giả vô danh ấy đã gán cho tôi nhóm chữ “thái độ đạo đức giả như vậy”.
Ông Hoàng Ngọc Hiến viết: (tôi để font chữ xiên cho 3 đoạn văn của tác giả vô danh)
Cơ bắp trí thức của ông Hoàng Ngọc-Tuấn không tồi. Trong bài “Phản tri thức trong tranh luận văn học” của một ký giả ngoài nước (lâu ngày tôi quên mất xuất xứ), những thành tựu nghiên cứu của ông được đánh giá cao:
Những bài viết gần đây nhất của ông Hoàng Ngọc-Tuấn, như “Vấn đề cái mới trong tiểu thuyết thế kỷ 20”, “Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại”…, không thể phủ nhận, là những bài viết rất công phu, đóng góp lớn trong việc truyền bá những tư tưởng triết học và lý luận phê bình văn học tiên tiến của thế giới cho văn học Việt Nam.
Về personality của ông, thì có đấy, nhưng nó chật chưỡng, đôi khi cảm thấy là faux. Chính ký giả bài báo nói trên nhận định về personality của ông như sau:
… Cũng với thái độ đạo đức giả như vậy, ông Tuấn “cảm thấy khổ tâm vì biết rằng, từ nay về sau, chắc chắn tôi sẽ không còn hoàn toàn yên tâm khi đọc những bài viết ngay cả của những tên tuổi khả kính trong văn học Việt Nam đương đại”’. Ông thừa biết rằng, với tư cách một người đọc chuyên nghiệp và một con người biết suy nghĩ, không ai hoàn toàn yên tâm khi đọc bài viết của bất cứ ai, bất cứ tên tuổi khả kính nào, không chỉ của Việt Nam mà của toàn thế giới… Đối với người đọc có lý trí, không có những tên tuổi khả kính, chỉ có văn bản và văn bản. Ông khổ tâm như vậy là thừa!
Không dừng lại ở chỗ đó, ông Tuấn còn đi xa hơn trong việc quy chụp cho hiện tượng trên là “một căn bệnh của tình trạng đói kiến thức dài lâu trong một đất nước nghèo nàn và bưng bít… vì chỉ ở một đất nước thiếu nguồn thông tin và kiến thức trầm trọng thì người ta mới có thể dám đánh lừa nhau bằng những thông tin giả và kiến thức mạo hóa”… Một đất nước như ông nói, “nghèo nàn và bưng bít”, nên rất cần những cánh tay bao dung giúp đỡ, chứ không phải một thái độ phỉ báng.
Ngay trong ba đoạn văn ngắn của tác giả vô danh, vô xuất xứ này, ta cũng có thể thấy ngay sự mâu thuẫn đến ngớ ngẩn. Ở đoạn thứ ba, ông ta chê trách tôi là không đưa ra “những cánh tay bao dung giúp đỡ” cho cái đất nước “nghèo nàn và bưng bít”, nhưng ở đoạn thứ nhất, ông lại nói ông “không thể phủ nhận” những bài viết của tôi “là những bài viết rất công phu, đóng góp lớn trong việc truyền bá những tư tưởng triết học và lý luận phê bình văn học tiên tiến của thế giới cho văn học Việt Nam.” Thế là thế nào? Tôi đã “đóng góp lớn” cho văn học Việt Nam, nhưng tôi lại không đưa ra “những cánh tay bao dung giúp đỡ” cho đất nước ấy? Quả là lạ lùng.
Điều đáng ngạc nhiên là tại sao ông Hoàng Ngọc Hiến có thể nhớ rõ từng chữ trong ba đoạn văn dài, và nhớ rõ tên bài, nhưng không cung cấp tên tác giả và không nhớ xuất xứ của chúng. Điều này chỉ một mình ông mới có thể giải thích được. Tôi xin miễn bàn dài thêm về phần nội dung.
III. Về một lối nghiên cứu và một lối phản biện:
Sau những gì tôi đã trình bày trong bài viết này, tôi xin nói lên hai ý nghĩ:
1. Lối nghiên cứu của ông Hoàng Ngọc Hiến là một lối nghiên cứu rất đáng ngờ, vì ông vi phạm vào nguyên tắc căn bản nhất của công việc nghiên cứu. Nguyên tắc ấy đòi hỏi người nghiên cứu khi trích dẫn hay đề cập đến một tài liệu nào đó thì phải ghi thật chính xác: tên tác giả, nhan đề tác phẩm, và xuất xứ (nơi xuất bản và năm xuất bản) của tài liệu ấy. Thế nhưng, ông Hoàng Ngọc Hiến đã chứng tỏ ngược lại.
- Ông nói về nội dung một tác phẩm, nhưng ghi sai tên tác giả (ví dụ: Charles Jencks biến thành Charles Djenks.)
- Ông nói về nội dung một tác phẩm, nhưng ghi sai nhan đề tác phẩm (ví dụ: Ngôn ngữ kiến trúc hậu hiện đại biến thành Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại; và “Sáng chế tài liệu giả: một hiện tượng phản trí thức trong văn học Việt Nam đương đại” biến thành “Sáng chế tài liệu giả: một hiện tượng phản trí thức đáng chê trách trong văn học Việt Nam đương đại.”)
- Ông trích dẫn nội dung, và ghi rõ nhan đề tác phẩm, nhưng không cung cấp (hoặc không nhớ) tên tác giả, và không cung cấp (hoặc không nhớ) xuất xứ (ví dụ: ba đoạn văn của tác giả vô danh, vô xuất xứ trên đây.)
- Ông trích dẫn nội dung, và ghi rõ nhan đề tác phẩm, nhưng cung cấp xuất xứ sai (ví dụ: Encyclopedia Encarta Deluxe Edition 1999 biến thành Encyclopedia Encarta 1999.)
Một nhà nghiên cứu nghiêm túc không thể liên tục vi phạm vào cái nguyên tắc căn bản nhất ấy. Và một nhà nghiên cứu nghiêm túc không thể đổ lỗi ấy cho một biên tập viên thiếu trình độ nào đó. Một khi đã chứng tỏ là liên tục vi phạm vào nguyên tắc ấy, công trình nghiên cứu không thể đáng tin cậy.
2. Lối phản biện của ông Hoàng Ngọc Hiến là một lối phản biện lệch ra ngoài nguyên tắc học thuật, vì ông liên tục đem vào trong nội dung bài phản biện những việc ở bên ngoài nội dung cần phản biện. Làm thế, ông lái chủ đích học thuật sang chủ đích công kích vào “tâm thuật” hay “khẩu khí” của đối phương.
Tôi cho rằng lối phản biện ấy là một lối phản biện đáng chê trách.
Như tôi đã nói trong bài “Một quái trạng văn hóa”, hai bài tham luận của ông Hoàng Ngọc Hiến và Trịnh Lữ có rất nhiều cái sai, chứ không phải chỉ có cái sai về xuất xứ thuật ngữ. Ông Nguyễn Đăng Thường đã có vạch ra thêm một số cái sai của ông Trịnh Lữ về kiến thức mỹ thuật. Tôi nghĩ ông Trịnh Lữ nên đọc kỹ lại bài tham luận của mình và tự nghiên cứu để tìm những cái sai còn lại. Về bài tham luận của ông Hoàng Ngọc Hiến, tôi sẽ viết một (hay vài) bài khác để lần lượt liệt kê ra những cái sai khác của ông, và mời ông tiếp tục phản biện. Chỉ yêu cầu ông giữ đúng nguyên tắc nghiên cứu và phản biện để giữ cho sinh hoạt trao đổi học thuật được nghiêm túc và lành mạnh.
Sydney, 30.10.2008
Hoàng Ngọc-Tuấn
Theo http://www.talawas.org/


Một quái trạng văn hóa

Một quái trạng văn hóa

Đọc internet, tình cờ thấy trên báo Tia Sáng ngày 2/10/2008 có một bài viết dưới nhan đề là “Góp chuyện hậu hiện đại“, tôi vào xem cho biết, thì vô cùng kinh ngạc, vì ngay câu đầu tiên của bài viết đã sai đến ngớ ngẩn như thế này:
Từ “hậu hiện đại” (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard...
Câu tuyên bố (với giọng khẳng định như sách giáo khoa tiểu học, dứt khoát, ngắn gọn, không hề “có lẽ” hay “có thể” gì cả) này là do ai viết mà khủng khiếp đến thế? Tôi tự hỏi, và tôi kéo con chuột xuống cuối bài để xem, thì mới biết tác giả là Trịnh Lữ, và tôi càng thấy kinh ngạc khi bài viết này lại là một bài tham luận đọc tại Hội thảo Khoa học “Nghệ thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” do Viện Mỹ thuật và trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội tổ chức vào cuối tháng 9/2008.
Cái điều sai khủng khiếp này khiến tôi nhớ lại một cái điều sai khác, còn khủng khiếp hơn nữa, vừa xảy ra cách đây vài tháng. Trong Hội thảo “Lý luận Văn học Việt Nam thế kỷ XX” tổ chức ngày 7/6/2008 tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông Hoàng Ngọc Hiến đọc bài tham luận “Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại”. (Sau đó, bài tham luận ấy được đăng lại trên tạp chí Sông Hương ngày 16/7/2008.) Trong bài tham luận ấy, ông Hoàng Ngọc Hiến, cũng với thái độ đầy thẩm quyền, dứt khoát, không hề “có lẽ” hay “có thể” gì cả, khẳng định:
Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại của Charles Djenks.
Như thế, ông Trịnh Lữ cho rằng Jean-Francois Lyotard đã đẻ ra từ “postmodern” vào năm 1979 trong cuốn La Condition Postmoderne; còn ông Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng ông Charles Djenks [khổ quá, tên của người ta là Charles JENCKS, thưa ông Hoàng Ngọc Hiến!] đã đẻ ra từ “postmodernism” vào năm 1977 trong cuốn Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại [khổ quá, cuốn sách của người ta là Ngôn ngữ kiến trúc HẬU hiện đại, The Language of Post-Modern Architecture, thưa ông Hoàng Ngọc Hiến!]
Cả hai bài tham luận tại hai hội thảo cao cấp đều vấp phải vô số những cái sai về kiến thức và về lập luận, nhưng cái sai dễ thấy nhất là về thời điểm xuất hiện của các từ “hậu hiện đại” và “chủ nghĩa hậu hiện đại”. Thế nhưng, thật lạ lùng, có lẽ chẳng ai có mặt tại hai cái hội thảo ấy phát hiện ra cái gì sai, nên chẳng ai lên tiếng, và vì thế sau đó hai tác giả đã hiên ngang đem gửi đăng trên báo. Hoàng Ngọc Hiến đăng bài tham luận lên tạp chí Sông Hương (diễn đàn của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế); Trịnh Lữ đăng bài tham luận lên tờ Tia Sáng (tờ báo của Bộ Khoa học và Công nghệ, với cái khẩu hiệu “một góc nhìn của trí thức”). Và ban biên tập của cả hai tờ báo ấy cũng hoan hỉ tin là đúng, cho đăng tải nguyên văn những cái sai ấy, và tất nhiên rất nhiều những cái sai khác trong hai bài ấy, mà chẳng hề kiểm chứng hay thắc mắc.
Vì sao họ chẳng hề kiểm chứng, chẳng hề thắc mắc? Vì ông Hoàng Ngọc Hiến đã nổi danh như một giáo sư, học giả hàng đầu ở thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam! Vì ông Trịnh Lữ cũng nổi tiếng ở thủ đô chẳng kém gì mấy: ông đã là dịch giả “đáng tin cậy” của một số sách của dăm ba nhà văn quốc tế, và ông đã nhận giải thưởng dịch thuật của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005! Báo Thể thao và Văn hóa ngày 27/9/2008 nhấn mạnh rằng bài tham luận của Trịnh Lữ là bài “đáng chú ý”. Ký giả Vũ Lâm đã theo dõi cuộc hội thảo ấy, và viết bài tường thuật “Nói chuyện ‘hậu hiện đại’ và ‘toàn cầu hóa’“ trên báo. Ngay ở câu nhập đề, Vũ Lâm đã long trọng giới thiệu Trịnh Lữ trước tất cả những tên tuổi khác, chỉ vì “Dịch giả Trịnh Lữ từng sống ở Mỹ nhiều năm, và khá lịch duyệt văn hóa Âu Mỹ”!
Trong một xã hội còn quá lạc hậu về mọi phương diện, có lẽ chẳng mấy ai dám nghi ngờ hai ông nổi tiếng, có bằng cấp cao, sành ngoại ngữ, từng chu du nước nọ nước kia rất nhiều, vì thế nên hai cái sai lố bịch ấy lan ra nhanh chóng như hai cái chân lý bằng dầu phộng.
Trong khi tôi đang viết bài này, tôi vào google để xem thử, thì thấy bài của Trịnh Lữ đã được đăng lại nguyên văn trên nhiều websites, đặc biệt nhất là website của Đại học Văn hóa Hà Nội (khoa Sáng tác & Lý luận phê bình). Thầy trò tha hồ mà tiếp thu! Bài của Hoàng Ngọc Hiến thì cũng đã được đăng lại nguyên văn trên nhiều websites, đặc biệt nhất là website của Trung tâm Văn hóa Hội Nhà văn Việt Nam vào ngày 15/9/2008. Văn giới Việt Nam tha hồ mà học hỏi!
Thế nhưng, đáng kinh ngạc hơn nữa, cái điều mà hai tác giả nói sai khủng khiếp ấy lại chẳng phải là điều gì khó khăn phức tạp đến mức khiến họ khó tránh nổi cái sai. Thật vậy, nếu ta thử hỏi một cậu học trò trung học có thái độ hiếu học và tư cách đàng hoàng, rằng: “Các từ ‘postmodern’ và ‘postmodernism’ đã xuất hiện từ lúc nào?”, thì cậu học trò (với cái màn hình internet trước mặt) sẽ có thể nhanh chóng cho ta một câu trả lời còn khá hơn hai ông học giả kia. Thật vậy, câu hỏi này chẳng có gì khó hơn bất cứ một câu hỏi khoa học phổ thông nào. Nó cũng phổ thông như câu hỏi “Những động vật nào đang có nguy cơ bị diệt chủng?”
Tôi thử bỏ ra chừng mươi phút để tìm trên google xem kết quả thế nào, thì đã nhặt được hàng loạt thông tin về xuất xứ và sự tái hiện của các từ “postmodern” và “postmodernism” (trước năm 1977 của ông Hoàng Ngọc Hiến và trước năm 1979 của ông Trịnh Lữ). Tôi chỉ xin liệt kê lại ngay ở đây một cách thô sơ những gì xuất hiện trên google (tất nhiên chẳng đầy đủ, và mức độ chính xác chưa được kiểm chứng):
* Theo Perry Anderson ghi nhận trong cuốn The Origins of Postmodernity (1998), từ “postmodern” có lẽ xuất hiện đầu tiên trong thập niên 1870 (không nói chính xác năm nào, ở đâu), do John Waitkins Chapman (một hoạ sĩ người Anh) sử dụng để nói về một lối hội hoạ đã vượt qua khỏi phái ấn tượng.
* Năm 1914, J.M. Thompson sử dụng từ “Post-Modernism” làm nhan đề một bài viết về tôn giáo, được in trên trang 733, tạp chí triết học The Hibbert Journal, Vol XII, No.4, July 1914.
* Năm 1917, trong cuốn Die Krisis der europäischen Kultur (Nuremberg: Hans Carl, 1917), trang 64, Rudolf Pannwitz dùng từ “post-modernism” để mô tả dạng thức văn hoá diễn ra sau chủ nghĩa hư vô của Nietzsche.
* Năm 1921 và 1925, từ “postmodernism” đã được sử dụng để mô tả những hình thức mới của mỹ thuật và âm nhạc. (Không rõ ai là những người sử dụng).
* Năm 1926, Bernard Iddings Bell đã viết từ “postmodernism” ngay trên bìa cuốn sách Postmodernism and other Essays (Milwaukee: Morehouse Publishing Co., 1926).
* Năm 1934, trong cuốn Antología de la Poesía española e hispanoamericana: 1882-1932 (Madrid: Centro de Estudios Históricos, 1934) trang xviii-xix, Frederica de Onis dùng từ “postmodernismo” để chỉ chung cho một thời kỳ lịch sử và một phong trào văn học đã diễn ra giữa những năm 1896 và 1905, và sau đó thì đến thời “ultramodernismo”, từ 1914 đến 1932.
* Năm 1939, từ “postmodernism” được dùng trong cuốn Religion for Living: A Book for Postmodernists (London: The Religious Book Club, 1939) của Bernard Iddings Bell, để nói đến sự thất bại của chủ nghĩa hiện đại thế tục và sự trở về với tôn giáo.
* Cũng năm 1939, trong quyển thứ 5, trang 43, của bộ Study of History, sử gia Arnold J. Toynbee cho rằng Thế chiến thứ Nhất (1914-1918) là điểm khởi đầu của “Post-Modern Age”. Năm 1954, trong quyển thứ 8 và thứ 9, Arnold J. Toynbee tái sử dụng từ “post-modernism” và cho rằng thời “hậu hiện đại” có thể đã bắt đầu khoảng sau năm 1875, biểu hiện qua sự suy sụp của lý tính Khai sáng và sự nhiễu nhương của xã hội.
* Năm 1942, H. R. Hays dùng từ “postmodernism” để chỉ một hình thức văn chương mới (không nói chính xác tài liệu nào). Tuy nhiên, Michael Koehler cho rằng Dudley Fitts mới là người sử dụng từ “postmodernism” trong một tuyển tập tiểu luận (không rõ tuyển tập nào) do chính ông làm chủ biên, chứ không phải H. R. Hays, người phụ tá của ông.
* Ngày 20/8/1951, trong một bức thư gửi Creeley, Charles Olson viết: “any POST-MODERN is born with the ancient confidence that he does belong”, trong Olson-Creeley Correspondence (Santa Rosa, CA: Black Sparrow Press, 1980-96), vol. 7, p.115.
Cùng năm 1951, Pico Miran tung ra bản tuyên ngôn A Manifesto for Post-Modern Art (New York: American Art Gallery, 1951).
* Năm 1959, có một tiểu luận của Irving Howe dưới nhan đề “Mass Society and Post-Modern Fiction”, đăng trong Partisan Review, XXVI (Summer, 1959), trang 420–436.
* Năm 1960, Harry Levin dùng từ “postmodernism” trong tiểu luận “What Was Modernism?”, Massachusetts Review, vol. 1, no. 4 (August 1960).
* Năm 1965, Leslie Fiedler dùng từ “postmodernism” trong tiểu luận “The New Mutants,” Partisan Review, vol. 32, no. 4 (Fall 1965).
* Năm 1968, John Perreault sử dụng từ “postmodernism” (không rõ sử dụng ở đâu); và cùng năm ấy, Amitai Etzioni, trong cuốn The Active Society (New York: Free Press, 1968).
* Năm 1969, có một số tiểu luận sử dụng từ “postmodern” ngay trên nhan đề, như: G. Feinberg, “Post-Modern Science”, Journal of Philosophy, 66: 19, 1969, pp.638-646; Vytautas Kavolis, “Revolutionary Metaphors and Ambiguous Personalities: Notes Toward an Understanding of Post-Modern Revolutions”, Soundings, vol. 52, 1969, pp.394-414; Herbert G. Reid, “Society in the Postmodern Period”, The Review of Politics, 1969, 31: 3, pp.427-429; và Theodore Ziolkowski, “Toward a Post-Modern Aesthetics”, Mosaic, 2:4, 1969, pp.112-119.
* Từ năm 1970 đến 1979, có một số lượng to lớn tiểu luận, luận văn tiến sĩ, tạp chí và sách nói về “postmodern” và/hoặc “postmodernism”. Chỉ kể riêng những bài/cuốn có sử dụng các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism” ngay trên nhan đề, ta cũng có thể lập được một danh sách hàng trăm món. [Xin xem phần PHỤ LỤC ở cuối bài này].
Chỉ có những cậu học trò trung học lười biếng, ẩu tả, thì mới vội vã cho ta câu trả lời rằng: “Từ “hậu hiện đại” (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne) của Jean-Francois Lyotard...”, hay “Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên xuất hiện năm 1977, trong cuốn sách Ngôn ngữ kiến trúc hiện đại (sic) của Charles Djenks (sic).”
Những cái sai lố bịch ấy chứng tỏ ông Hoàng Ngọc Hiến chưa từng biết đến một tài liệu nào sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” trước cuốn sách năm 1977 ấy (mà ông đã ghi sai cả tên tác giả lẫn tên sách), và ông Trịnh Lữ chưa từng biết đến một tài liệu nào sử dụng từ “hậu hiện đại” trước khi ông nhìn thấy cuốn sách Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne, 1979) của Jean-Francois Lyotard, do Phạm Xuân Nguyên dịch (nxb. Tri Thức, 2007). Cả hai ông đều không biết “hậu hiện đại” có cái gì trước 1977 và 1979, nhưng cả hai ông đều không hề có một chút thắc mắc nào cả.
Thậm chí, hai ông cũng chỉ may mắn lắm là trông thấy hai cái bìa sách ấy, hay nghe người nào nói loáng thoáng về hai cuốn sách ấy là cùng. Vì nếu hai ông thực sự có đọc hai cuốn sách ấy, thì hai ông sẽ tuyệt đối không thể tìm ra trong hai cuốn sách ấy có bất cứ dòng chữ nào ghi rằng hai tác giả ấy là những người đầu tiên đẻ ra các từ “postmodern” và/hoặc “postmodernism”!
Chưa đọc sách, chỉ nghe lóm hay chỉ nhìn thấy cái bìa sách, thế mà các ông tự tin tuyệt đối vào cái biết hạn hẹp đến kỳ quái của mình, và các ông hiên ngang phun châu nhả ngọc về “hậu hiện đại” tại các hội thảo khoa học cao cấp ở thủ đô! Thế là thế nào?
Nếu các ông đi thuyết giảng về “hậu hiện đại”, đem “chủ nghĩa hậu hiện đại” ra mà lý luận trong văn học, trong mỹ thuật, trong khi các ông chỉ biết đoán mò và nói bừa như thế, thì các ông thuyết giảng, lý luận về cái gì vậy? Với cái mớ kiến thức như các ông, mà các ông dám nói thao thao bất tuyệt, suy diễn tràng giang về lịch sử và sự phát triển của mỹ học “hậu hiện đại” thì quả là một quái trạng văn hóa không thể tưởng tượng nổi. Quả là một kiểu “múa gậy vườn hoang”, bất kể trong khu vườn ấy thật ra có hơn 80 triệu người đang sống!
Những cái sai ấy không phải do sơ suất. Là học giả, là giáo sư, thì người ta không ngừng tra vấn, thắc mắc, chứ ai lại có thể chỉ vừa nhìn thấy một cái bìa sách hay vừa nghe lóm là đã vội vàng tự xem là mình tìm ra đáp số! Là học giả, là giáo sư, thì ai lại dám tin tuyệt đối vào những thông tin sơ sài, thiếu thốn đến mức quái dị như thế, rồi nghênh ngang tung ra những cái sai lố bịch mà một cậu học trò trung học (nếu không lười biếng, ẩu tả) cũng không thể sai được! Các ông lại tuyên bố những điều ấy với giọng của sách giáo khoa tiểu học, ngắn gọn, dứt khoát, đầy thẩm quyền, không một chút phân vân “có thể” hay “có lẽ” nào cả. Thế thì chắc chắn những cái sai ấy là do lòng tự cao tự đại không bờ bến của các ông. Lòng tự cao tự đại ấy khiến các ông vớ được cái gì thì tin ngay rằng cái đó phải là cái trước hết, rằng cái đó là sự phát hiện đầu tiên, chính xác và đầy thẩm quyền của riêng các ông, mà thiên hạ cần phải lắng nghe các ông để học hỏi.
Điều tai hại nhất của cái thái độ này không chỉ ở chỗ nó làm hạ thấp tư cách của chính chủ thể, mà còn ở chỗ nó không ngừng làm hạ thấp dân trí. Vài ba người tuyên bố nghênh ngang như thế tại những loại hội thảo cao cấp giả hiệu (với mục đích giải ngân), mà không có ai phản đối, thì được báo chí ca tụng, truyền bá rộng ra, rồi hàng loạt người nhắm mắt tin theo. Cứ thế, nó lan dần ra và tạo thành cái “mặt bằng” tri thức của cả một thế hệ. Thử lấy ngay chuyện “hậu hiện đại” làm ví dụ. Suốt thập niên vừa qua, một số học giả nghiêm túc đã không ngừng nỗ lực truyền bá đến độc giả Việt Nam những kiến thức phong phú, đáng tin cậy và được giải thích mạch lạc về các phương diện của chủ nghĩa hậu hiện đại. Thế nhưng, cho đến hôm nay, đại đa số độc giả, ngay cả những người trong văn giới và môi trường học đường ở Việt Nam, vẫn hiểu rất mù mờ và lệch lạc về chủ nghĩa hậu hiện đại. Lý do là có một lực lượng những học giả khác chuyên đi gây nhiễu thông tin. Họ là những kẻ chỉ đọc láp nháp, tìm hiểu sơ sài, rồi tùy tiện diễn dịch sao cho vừa ý nhà cầm quyền và vừa ý mình, nhưng họ lại có điều kiện xuất hiện tại các hội thảo khoa học cao cấp giả hiệu để lên gân phun châu nhả ngọc, rồi viết thành tiểu luận, in thành sách, phát tán vô số điều lệch lạc đến độc giả. Trong tình trạng còn thiếu tài liệu, thiếu sách vở để nghiên cứu, giới hiếu học bị rơi vào một cõi hỗn loạn thông tin, toàn là những điều mâu thuẫn, chẳng còn biết đâu là đúng là sai nữa.
Cái quái trạng này đã diễn ra và lặp đi lặp lại trong suốt nhiều năm qua ở Việt Nam. Nếu không có cách nào thay đổi, thì cho dù các học giả nghiêm túc có nỗ lực truyền bá kiến thức đúng đắn đến cách mấy cũng thành vô ích, vì tất cả những nỗ lực của họ sẽ bị bóp méo, phá hoại không ngừng bởi những kẻ háo danh, tự mãn và vô trách nhiệm.
Phụ lục:
Dưới đây là bản liệt kê một số những tiểu luận, luận văn tiến sĩ, tạp chí và sách được công bố từ 1970 đến 1979 có sử dụng các từ “postmodern” và/ hoặc “postmodernism” ngay trên nhan đề. Bản liệt kê này tất nhiên còn rất thiếu sót, vì chỉ là những gì tôi lọc ra từ những tài liệu mà tôi sưu tập được cho công việc nghiên cứu của riêng mình. Trong thập niên 70, những sách báo có sử dụng các từ “postmodern” và/ hoặc “postmodernism” trong nội dung có lẽ đã chiếm một số lượng khổng lồ. Từ năm 1980 đến nay, số lượng sách báo (của các ngôn ngữ trên thế giới) có sử dụng từ “postmodern” và/ hoặc “postmodernism” ngay trên nhan đề hoặc trong nội dung thì tất nhiên nhiều đến mức bất khả liệt kê!
1970:
Kavolis, Vytautas, “Post-Modern Man: Psychocultural Responses to Social Trends”, Social Trends, 17: 4, 1970, p.435.
1971:
Hassan, Ihab Habib, “POSTmodernISM: a Paracritical Bibliography”, New Literary History, 3: 1, Aug. 1971, pp.5-30.
Hassan, Ihab Habib, The Dismemberment of Orpheus: Toward a Postmodern Literature, New York: Oxford University Press, 1971.
New Literary History, 3:1, 1971. Special Issue: Modernism and Postmodernism.
1972:
Antin, David, “Modernism and Postmodernism: Approaching the Present in American Poetry”, Boundary, 2: 1, 1972, pp.98-133.
Boundary 2, Binghamton, Department of English: State University of New York, vol. 1, Fall 1972. Special Issue: Feminism and Postmodernism.
Kavolis, Vytautas, “An Alternative Postmodernity”, Journal of Aesthetics & Education, 6, Jan-Apr 1972, pp.125-137.
Spanos, William V., “The Detective and the Boundary: Some Notes on the Postmodern Literary Imagination”, Boundary 2: 1, 1972, pp.147-168.
1973:
Altieri, Charles, “From Symbolist Thought to Immanence: The Ground of Postmodern American Poetics”, Boundary, 2: 1, 1973, pp.605-641.
Galloway, Devid, “Post-Modernism”, Contemporary Literature, 14, 1973, pp.398-405.
Graff, Gerard, “The Myth of the Postmodern Breaktthrough”, TriQuarterly, 26, 1973, pp.383-417.
Hearron, William, “New Approaches in the Post-Modern American Novel”, Dissertation Abstract International, 34: 6, Dec 1973, p.3398 A.
Pütz, Manfred, “The Struggle of the Postmodern: Books on a New Concept in Criticism”, Kritikon Litterarum, 2, 1973, pp.225-237.
TriQuarterly, 26, 1973. Special Issue: On Postmodernism.
1974:
Kennedy, A., “Dramatic Action, the Modern and the Post-Modern”, The Protean Self, Columbia University Press, 1974, pp.27-61.
Modern Literature, 3, 1974. Special Issue: From Modernism to Postmodernism.
Olson, Charles, “The Act of Writing in the Context of Post-Modern Man”, Olson: The Journal of the Charles Olson Archives, 2, 1974, p.28.
Pinsker, Sanford, “ “Ulysses” and the Post-Modern Temper”, Midwest Quarterly, 15, 1974, pp.406-416.
Schmitz, Neil, “Gertrude Stein as Postmodernist: The Rhetoric of Tender Buttons”, Journal of Modern Literature, 3, 1974, pp.1203-1218.
TriQuarterly, 30, 1974. Special Issue: On Postmodernism.
Wasson, Richard, “From Priest to Prometheus: Culture and Criticism in the Post-Modern Period”, Journal of Modern Literature, 3, 1974, pp.1188-1202.
1975:
Alpert, Barry, “Post-Modern Oral Poetry: Buckminster Fuller, John Cage and David Antin”, Boundary, 2: 3, Spring 1975, pp.665-682.
Caliban, 12, 1975. Special Issue: Postmodernism.
Calinescu, Matei, “Avant-Garde, Neo-Garde, Post-Modernism: The Culture of Crisis”, Clio, 4: 3, Jun 1975, pp.317-340.
Davidson, Michael, “The Languages of Postmodernism”, Chicago Review, 27, 1975, pp.11-22.
Graff, Gerard, “Babbit at the Abyss: The Social Context of Postmodern American Fiction”, TriQuarterly, 33, 1975, pp.305-337.
Hassan, Ihab Habib, “Joyce, Beckett, and the Post-Modern Imagination”, Tri-Quartely, 34, Autumn 1975, pp.179-200.
Morrissette, Bruce, “Post-Modern Generative Fiction: Novel and Film”, Critical Inquiry, 2, 1975, pp.253-262.
TriQuarterly, 32, 1975. Special Issue: On Postmodernism.
TriQuarterly, 33, 1975. Special Issue: On Postmodernism.
1976:
Brummett, Barry, “Some Implications of “Process” or “Intersubjectivity” Postmodern Rhetoric”, Philosophy Rhetoric, 9, Winter 1976, pp.21-51.
Caserio, Robert, “Paracriticism, Postmodernism, and Prophecy”, Boundary 2, 5: 1, 1976, pp.167-173.
Cullum, J.W., “Nathan Scott and the Problem of a Postmodern Ethics”, Boundary 2, 2: 3, 1976, pp.965-972.
Noel, Daniel, “Tales of Fiction Power. Dreaming and Imagination in Ronald Sukenick’s Postmodern”, Boundary 2, 5: 1, 1976, pp.117-136.
Spanos, William V., “Heidegger, Kierkegaard, and the Hermeneutic Circle: Towards a Postmodern Theory of Interpretation as Dis-Closure”, Boundary 2, 4: 2, 1976, pp.455-488
Thiher, Allen, “Postmodern Dilemnas: Godard’s Alphaville and Two or Three Thinks That I Know About Her”, Boundary 2, 4: 3, 1976, pp.947-964.
Wilde, Alan, “Berthelme Unfair to Kierkagaard: Some Thoughs on Modern and Postmodern Irony”, Boundary 2, 5: 1, 1976, pp.45-70.
1977:
Amerikastudien, 22: 1, 1977. Special Issue: Postmodernism.
Benamou, Michel; Carmello, Charles, Performance in Postmodern Culture, Milwaukee: Centre for Twentieth-Century Studies, 1977.
Berryhill, Michael, “Walt Whitman and Post-Modern Consciousness”, Dissertation Abstract International, 38: 3, Sept 1977, p.1376 A.
Blake, Harry, “Le post-modernisme américain”, Tel Quel, 71-73, 1977, pp.171-182.
Davis, D., Artculture: Essays on the Post-Modern, New York: Harper and Row, 1977.
Deren, Jane, “Denise Levertov’s Postmodern Poetics: a Study in Theory and Criticism”, Dissertation Abstract International, 38: 4, Oct 1977, p.2111 A.
Hoffmann, Gerhard; Horning, Alfred; Kunow, Rüdiger, “ “Modern”, “Postmodern”, and “Contemporary” Criteria for the Analysis of 20th-Century Literature”, Amerikastudien, 22, 1977, pp.19-46.
Köhler, Michael, “Postmodernismus: Ein begriffsgeschichtlicher Überblick (Post-modernisme: vue d’ensemble: l’histoire du concept)”, Amerikastudien, 22:1, 1977, pp.19-46.
Kundow, R.; Hoffman G.; Hornung A., “Modern, Post-Modern and Contemporary as Criteria for the Analysis of 20th Century Literature”, Amerikastudien, 22: 1, 1977, pp.19-46.
Lodge, David, Modernism, Antimodernism and Postmodernism, Birmingham: University of Birmingham Press, 1977.
Jencks, Charles, The Language of Post-Modern Architecture, New York: Rizzoli, 1977.
Navero, William, “The Emergence of Mythopoetic Post-Modern Image and the Poetics of Charles Olson”, Dissertation Abstract International, 38: 3, Sept 1977, p.1393 A.
Palmer, Richard E., “Postmodernity and Hermeneutics”, Boundary 2: 5-2, 1977, pp.363-393.
Peper Jürgen, “Postmodernismus: Unitary Sensibility ?” Amerikastudien, 22:1, 1977, pp.65-89.
Rice-Savre, Laura, “Abra-Cadaver: the Anti-Detective Story on Postmodern Fiction”, Dissertation Abstract International, 37: 7, Jan 1977, p.4339 A.
Sonheim, A. (ed.), Individuals: Post-Movements Art in America, New York: Dutton, 1977.
1978:
Hassan, Ihab Habib, “Culture, indeterminacy and Immanence: Margins of the (Post-Modern) Age”, Humanities in Society, 1, Winter 1978, pp.51-85.
Hayman, David, “Double-distancing: An Attribute of the “Post-Modern” Avant-Garde”, Novel. A Forum on Fiction, 12, 1978, pp.33-47.
Gordon, Patricia, “The Function of Literature as Interpreted by Twentieth-Century Writers: the Postmodern Authors”, Dissertation Abstract International, 38: 8, Feb. 1978, p.4816 A.
Kern, Robert, “Composition as Recognition: Robert Creeley and Postmodern Poetics”, Boundary 2, 6: 3, Spring-Fall 1978, pp.211-232.
Knesl, J., “Post-Modern History Critique”, Architectural Design, 48:11-12, 1978, p.576.
Spanos, William V., “The Un-Naming of the Beasts: the Post-Modernity of Sarte’s La nausée”, Criticism, 20: 3, Summer 1978, pp.223-280.
1979:
Akin, O., “Style Named Post-Modern”, Architectural Design, 49: B-9, 1979, pp.224-226.
Altieri, Charles, “Postmodernism: A Question of Definition”, Par Rapport, 2, 1979, pp.87-100.
Altieri, Charles, “Modern and Post-Modern: Symbolist and Immanentist Modes of Poetic Thought”, in Enlarging the Temple, Charles Altieri (ed.), Bucknell: Bucknell University Press, 1979, pp.29-52.
Birnholz, A. C., “Artculture: Essays on the Post-Modern de D. Davis”, The Journal of Aesthetics and Art Criticism, 37: 2, Winter 1979, p.245.
Bleikastein, A., “The Paradox of True Lie: on the Fictionality of Fiction (Fiction et vérité chez les modernistes et post-modernistes)”, British Journal of Aesthetics, 20: 3, 1979, pp.229-236.
Blocker, H. Gene, “Autonomy, Reference and Post-Modern Art”, British Journal of Aesthetics, 20: 3, 1979, pp.229-236.
Bonta, J. P. “Modernism and Post-Modernism: a Semiotic View”, Proceedings of the 67th. ACSA Annual Meeting, M.J. Bednar (ed.), Wahington: Association of Collegiate School of Architecture Press, 1979, pp.145-153.
Canter, D.; Groat, L., “Does Post-Modernism Communicate ?”, Progressive Architecture, 60: 12, Dec 1979, pp.84-87.
Colvile, G., “Labor Delivered is Love Regained: Women’s Writing and Art in Postmodern America”, Revue française d’études américaines, 14: 8, 1979, pp.225-242.
Dahrendorf, Ralf, “Post-Modern Values”, New Society, 893,15 Nov 1979, pp.360-362.
Davern, J. M., “Postmodernists”, Architectural Record, 165: 2, Feb 1979, p.4.
Delbaere-Garant, P., “The Divided Worlds of E. Bronte, V. Woolf and J. Frame. (A Post-Modern Perspective)”, English Studies, 60: 6, 1979, pp.699-711.
Groat, Linda N.; Canter, D., “Does Post-Modernism Communicate?”, Progressive Architecture, 60: 12, Dec 1979, pp.84-87.
Heim, Michael R, “Some Philosophical Proposals for the Role of the Humanities: Toward a Postmodern Logic”, Kinesis, 9, Spring 1979, pp.39-46.
Holdheim, W. Wolfgang, “Wilhelm Worringer and the Polarity of Understanding”, Boundary 2: A Journal of Postmodern Literature and Culture, 8:1, Fall 1979, pp.339-358.
Jencks, Charles, Le langage de l’architecture post-moderne, London: Academy Editions, 1979. [Bản dịch Pháp văn]
Kavolis, Vytautas, “Social Evolution of the Artistic Enterprise”, Research in Sociology of Knowledge, Sciences and Art, 2, 1979, pp.155-188.
Kearney Timothy, “The Poetry of the North: a Post-Modernist Perspective”, The Crane Bag, 3: 2, 1979, pp.45-53.
Krauss, Rosalind E., “John Mason and Post-Modernist Sculpture: New Experiences, New Words”, Art in America, 67: 3, May-Jun 1979, pp.120-127.
Levin, R., “Language of Post-Modern Architecture de C.A. Jencks”, The Journal of Aesthetics and Art Criticism, 37: 2, Winter 1979, p.239.
Lyotard, Jean-François, La condition postmoderne: rapport sur le savoir, Paris: Minuit, 1979.
Malmgren, Carl Darryl, “Fictional Space in the Modernist and Postmodernist American Novel”, Dissertation Abstract International, 40: 6, Dec 1979, p.3291
Miller, R. L., “Supermannerism: New Directions in Post-Modern Architecture de C.R. Smith”, American Institute of Architects, 68: 6, 1979, p.264.
Moffett, K. M., “Assessing Post-Modernism: an Overview”, Bednar, M.J. (ed.), Proceedings of the 67th. ACSA Annuel Meeting, Washington: Association of Collegiate School of Architecture Press, 1979, pp.164-168.
Müler, Heiner, “Reflections on Post-Modernism”, New German Critique, 16, Winter 1979, pp.55-58.
Obrien, D., “Call for Courage: Post-Modern Architecture”, Architectural Review, 165: 986, Apr 1979, p.192.
Par Rapport, 2:2, 1979. Special Issue: Postmodernism.
Parks, Michael E., “Art Education in a Post-Modern Age”, Art Education, 42: 2, Mars 1979, pp.10-13.
Schechner, Richard, “Postmodern Performance - The End of Humanism”, Performing Arts Journal, 4: 11, 1979, pp.9-22.
Schumacher, “Rome: Orphan of the Modern Movement or Cradle of Post-Modernism”, Architectural Design, 49: 3-4, 1979, p.91.
Schurmann, Reiner, “Anti-Humanism. Reflections of the Turn Toward the Post-Modern Epoch”, Man and World, 12: 2, 1979, pp.160-177.
Sexon, L., “First Act Repeated: Myth in the Postmodern Age”, Parabole, 4: 3, Aug 1979, pp.53-71.
Spanos, William V., “De-struction and the Question of Postmodernist Literature: Toward a Definition”, Par Rapport, 2, 1979, pp.107-122.
Spanos, William V., “Postmodern Litarature and the Hermeneutic Crisis”, Union Seminary Quarterly Review, 34: 2, 1979, pp.119-131.
Spanos, William V. (ed.), Martin Heidegger and the Question of Literature: Toward a Postmodern Literary Hermeneutics, Bloomington: Indiana University Press, 1979.
Stephens, S, “Beyond Fragments: Architectural Frame-work Necessary for Assimilating Elements of Post-Modern Period”, Progressive Architecture, 60: 12, Dec 1979, pp.88-90.
Thompson, W. W., “Johnson Original Thinking Post-Modernism”, Architects’ Journal, 196: 23, 6 juin 1979, p.1149.
Thornton, G., “Post-Modern Photography: It Doesn’t Look Modern at All”, Artnews, 78: 4, April 1979, pp.64-69.
Whelan, R., “Art-Culture: Essays on the Post-Modern” de D. Davis, Artnews, 78: 9, Nov 1979, pp.42-43.
Sydney, 16/10/2008
Hoàng Ngọc-Tuấn
Theo http://www.talawas.org/

 

  Lễ ra mắt sách “Nhà văn Lê Lựu – Văn chương và số phận” 10 Tháng Tám, 2023 Nhà văn Lê Lựu là một trong những gương mặt xuất sắc về văn...