Thứ Ba, 30 tháng 6, 2020

Khi ông Bình Vôi nghìn tuổi trở về

Khi ông Bình Vôi 
nghìn tuổi trở về
Mấy năm trước, Phạm Đình Ân có một bài thơ hay được nhiều người nhắc đến: "Đầu năm mua muối". Và như để góp phần hoàn chỉnh cái cảm quan về đời sống nằm đằng sau câu tục ngữ: "Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi" (hoặc "cuối năm mua dầu"), anh đã làm bài thơ sau:
Mua vôi ngày áp tết
Vắng trầu, thưa nhạt mùi vôi
Xi măng, sắt thép vào thời thắng thua
Ông Bình Vôi buổi bão mưa
Đem đi nghìn tuổi mà chưa thấy về.
Cuối năm vôi hẹn chợ quê
Tiếng mời xoắn xuýt bốn bề cỏ hoa
Trắng trong buộc thít mặn mà
Ngỡ tan biến hết hoá ra vẫn còn.
Về nhà quét mảng tường con
Lòng run chạm thuở nắng mòn mái hiên
Ngẫm người phận bạc đỏ đen
Mặt hề trắng phếch kim tiền trơ trơ…
Ngõ ngoài con trẻ đùa nô
Động cây thảng thốt bãi bờ lá bay
Ông Bình Vôi cưỡi gió mây
Đem về nghìn tuổi chất đầy gốc đa.
Để có thể thấy được cái sâu sắc, thú vị của bài thơ, chúng ta cần biết qua về phong tục Việt ở câu tục ngữ  "Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi" mà không ít nhà nghiên cứu văn hóa đã giải thích (Toan Ánh, Nguyễn Hùng Vĩ, v.v...). Phiên chợ cuối năm, người ta thường mua một ít vôi; và phiên chợ đầu năm người ta thể nào cũng phải mua một bát muối. Mua muối đầu năm là để mong đưa về nhà mình sự mặn mà quanh năm trong các quan hệ ứng xử, làm ăn. Còn mua vôi cuối năm gắn với tục ăn trầu và những kiêng kỵ quanh vôi và ông Bình vôi... Ông Bình Vôi là vật dùng để đựng vôi ăn trầu, làm bằng sành hoặc sứ, xuất hiện từ xưa, hiện đã thành đồ vật xa lạ với nhiều lớp người - đặc biệt là thế hệ A-còng. Khi đi mua ông Bình Vôi, người ta mang theo một vuông vải đỏ hay nâu, gói cẩn thận đặt vào rổ giá đội lên đầu rước về nhà, đặt ở chỗ kín đáo gần đầu giường... Tâm lý dân gian coi ông Bình Vôi là một vật thiêng, ngay các vành khuyên vôi trên miệng Ông cũng là vật được treo trên cửa mạch (cửa ma quỷ hay ra vào) để trừ tà. Khi ông Bình Vôi đã hỏng, người ta đem rước Ông cùng xâu miệng vôi ra đình, chùa, điện, để dưới gốc đa, gốc mít cùng cối đá thủng, chày đá mòn, vại muối dưa cà cũ... Vì quan niệm "bạc như vôi" nên người ta lo cho ông Bình Vôi ăn vôi vào giáp tết, để vào dịp đầu năm cái gì cũng đầy đặn, mong có lộc cả năm.
Bốn khổ thơ lục bát không hiểu tác giả vô tình hay hữu ý mà lại cấu trúc giống như 4 phần Đề - Thực - Luận - Kết khá nghiêm ngặt của một bài thơ thất ngôn bát cú. Chúng ta hãy thử men theo cái cấu trúc đặc biệt này để khám phá ý vị của bài thơ.
Trong khổ Đề, tác giả vẽ ra cái hoàn cảnh chung thời "xi măng sắt thép" mà trong đó tục ăn trầu tự ngàn đời đã thiếu vắng, dẫn tới "thưa nhạt mùi vôi", để bắt đầu dựng "chân dung" ông Bình Vôi qua hồi ức của mình. Cái "buổi bão mưa" của những biến thiên lịch sử dẫn tới thay đổi phong tục tập quán cùng sự đảo điên của tình người khiến ông Bình Vôi chỉ còn sống trong niềm hoài nhớ: "Đem đi nghìn tuổi mà chưa thấy về."
Tới phần Thực, bằng những câu thơ ngọt ngào duyên dáng tựa ca dao, có phần thực ảo lẫn lộn, tác giả đẫn người đọc về một vùng quê hiện tại, đồng thời giúp họ sống lại một thời xa trong những vùng quê từng tồn tại như miền cổ tích mà tuổi thơ tác giả từng sống, giúp người đọc hiểu thêm cái nguyên cớ hoài niệm nói trên. Những câu thơ như tiếng lòng "xoắn xuýt" diễn tả đời sống tâm hồn tình nghĩa của người dân quê đồng bằng Bắc Bộ trong quan hệ ứng xử, trong những sinh hoạt đời thường; những người trải qua bao đắng cay khốn khổ mà vẫn giữ được sự "trắng trong" của tấm lòng nhân hậu vốn "thương người như thể thương thân", luôn luôn coi "người ta là hoa đất"... Và ở đây, thông qua tục lệ mua vôi cuối năm mua muối đầu năm như một dấu tích đáng quý của tình đồng bào, tác giả cho chúng ta thấy anh đã từng tuyệt vọng đau đớn ra sao để rồi phải rưng rưng trước sự phát hiện giản dị này: "Trắng trong buộc thít mặn mà/ Ngỡ tan biến hết hoá ra vẫn còn."
Sang phần Luận, tác giả tiếp tục khía sâu vào cái mạch hồi ức sâu thẳm đã khơi ra từ khổ đầu, để đưa ra bình luận về nhân tình thế thái xưa - nay. Những nhà dù nghèo đến đâu cũng cố mua vôi để "quét mảng tường con" đem chút sáng sủa tươi vui đầu năm sắp tới, và có thể trên mảng tường trống trải ấy còn được dán một bức tranh dân gian: tranh gà, lợn, cá chép, đám cưới, nhất là tranh "Hương chủ" của dòng tranh Hàng Trống - một bức tranh có đủ bàn thờ gia tiên, mâm ngũ vị, câu đối đánh lừa thị giác và vị giác mấy ngày Tết cổ truyền. Cái nghèo không nỡ cướp đi những mơ mộng của tuổi hoa niên mà tác giả diễn đạt khá thi vị:" Lòng run chạm thuở nắng mòn mái hiên". Nhưng khi đã có va chạm và biết nghĩ đôi chút thì cái thực tế đen bạc ngoài đời mau chóng "mở mắt" cho bất cứ "con nai vàng ngơ ngác" nào! Chút vôi làm thắm miếng trầu cũng là thứ liên tưởng tới sự bạc bẽo: "Phận sao phận bạc như vôi..." Và đọc câu thơ: "Mặt hề trắng phếch kim tiền trơ trơ", chúng ta bỗng nhớ lại nhân vật anh hề phải làm trò kiếm sống trong khi cha già ốm nặng gần chết, miệng thì cười mà nước mắt chảy nhòa son phấn trong một truyện ngắn Nguyễn Công Hoan! Bi kịch đó hiện giờ như đang gặp đất thuận lợi để phát triển như nấm sau mưa! Thói đời bạc như vôi, sự tráo trở, tình trạng đỏ đen lẫn lộn đục ngầu đang đe dọa nhấn chìm xã hội cùng mọi điều "trắng trong"!. Hai câu sau của phần Luận có thể nói là một sự khái quát đầy rung cảm bằng hình tượng về cuộc đời xưa - nay. Nếu liên hệ với câu "Trắng trong buộc thít mặn mà" ở khổ thơ trên, có thể hiểu đó là mơ ước thầm kín cháy lòng của nhà thơ trước thực tế đen bạc, nhiều sự khốn nạn đểu cáng thống trị...
Và đến phần Kết, trước tiếng "con trẻ đùa nô" trong hiện tại - những âm thanh trong trẻo có khả năng thần diệu "Động cây thảng thốt bãi bờ lá bay", tác giả như chợt tỉnh mộng, và càng có dịp để thấm thía một điều: những vẻ đẹp của tình nghĩa từ quá khứ ngàn xưa vẫn thao thức, vẫn len lỏi sống cho tới hôm nay mà không một thế lực hắc ám nào hủy diệt nổi. Ông Bình Vôi được nhắc đến từ đầu bây giờ mới quay trở lại, như một nhân chứng, một người quan sát thời cuộc một cách lặng lẽ khiêm nhường. Trong cái thời buổi "thắng thua" không khoan nhượng của thị trường méo mó, không thèm đếm xỉa đến chữ "Tình" của sắt thép xi măng và các thứ tàn phá môi trường, ông Bình Vôi tạm lánh trong xó quê, nơi đền chùa, thở than cùng Thạch Sanh bên gốc đa cổ thụ, đợi lúc thuận lợi sẽ bất chợt quay về. Và cuộc trở về ngoạn mục, trở về giữa lòng mong đợi của bao tâm hồn hoài nhớ những gì trong lành của ông cha đó đã được thi sĩ hiện đại hỗ trợ bởi trí tưởng tượng dồi dào, xúc cảm mặn mà và một nền tảng văn hóa chắc chắn: "Ông Bình Vôi cưỡi gió mây/ Đem về nghìn tuổi chất đầy gốc đa." Cách nói thậm xưng "nghìn tuổi chất đầy gốc đa" được người đọc dễ dàng thụ cảm là bởi nó đã được chuẩn bị tâm lý từ đầu, được nuôi dưỡng bằng một nỗi buồn thấm sâu, và qua những câu thơ lục bát viết như chơi mà thực ra rất kỳ công chữ nghĩa... Ông Bình Vôi không còn dáng vẻ cũ kỹ, tồi tội, mà chợt mang một hào khí mới mẻ! Ông Bình Vôi "cưỡi gió mây" bay trở về không phải để thực hiện chức phận đựng vôi têm trầu như trước kia mà là để nhắc nhở: hồn dân tộc thiêng liêng chớ bao giờ có quyền được quên lãng!
Cám ơn Ông Bình Vôi! Cám ơn nhà thơ!.
Nguyễn Anh Tuấn
Theo https://vanchuongviet.org/

"Chim chèo bẻo" - Nơi thượng nguồn sông Mã

"Chim chèo bẻo"
Nơi thượng nguồn sông Mã
I. Những tấm vải đen cần người gỡ bỏ
Giữa thị trấn Sông Mã đầy bụi, tôi nóng lòng chờ đợi gặp Hờ A Di - người mà tôi mới chỉ biết đến qua vài bài thơ, truyện ngắn, cùng những lời truyền khẩu ly kỳ về anh… Mãi lâu sau mới thấy một bóng người thấp bé ngồi vất vưởng trên xe máy hớt hải phóng tới. Hóa ra, anh vừa đèo vợ về cơ sở hai cách thị trấn 7 cây số, nghe điện lại vội vàng ra ngay. Bắt tay anh, không hiểu sao tôi chợt có một ấn tượng rất đặc biệt… Anh mời tôi về thăm nhà anh - ngôi nhà vách đất sơ sài lợp phibrô, nằm trên một ngọn đồi cao nhất trong cái thị trấn miền núi đang phát triển như vũ bão thời thị trường… Vừa bước chân vào nhà, Hờ A Di nói vui: “Vợ ông Tú Xương nuôi đủ năm con với một chồng, còn tôi, nuôi đủ năm con với một vợ - lại là một vợ đau ốm quanh năm…”. Sáng hôm sau, tại cơ sở hai của Hờ A Di (thực ra là cơ sở chính) tôi đã được gặp vợ anh, một người đàn bà Mông truyền thống. Chị không biết cả chữ dân tộc lẫn chữ phổ thông, chỉ được nghe thơ và truyện của chồng qua giọng đọc của các con gái, lặng lẽ vượt qua tật bệnh, làm hậu phương cho chồng công tác…“Chỉ biết anh ấy làm văn hóa thôi… Mà chẳng đưa tiền đâu, chỉ mua gạo, mì chính về…Nhưng tôi có nương ngô nương lúa…” Cái nương ngô lúa ấy của gia đình anh, hàng năm chỉ thu hoạch được mỗi thứ 1 tấn- tương đương gần 10 triệu đồng…
Hờ A Di vào đời với công việc làm bốc vác ở cơ quan thương nghiệp huyện và tập tọng viết báo cho chương trình tiếng Mông của các đài PT huyện, tỉnh. Năm 73-75, anh được cử đi học “Trường đào tạo cán bộ dân tộc Mèo khu Tây Bắc”. Sau đó, anh được phân công làm đủ thứ: đội phó đội thông tin lưu động kiêm biên tập, lên tỉnh làm phóng viên đài PT, lại về huyện làm Định canh định cư, dịch tài liệu tuyên truyền, chiếu phim lưu động…Rồi đưa đẩy thế nào, anh sang làm tuyên giáo huyện.Chính trong thời kỳ này, anh đã gặp không ít chuyện “dở cười dở khóc”, luôn luôn bị dòm ngó, bị phê bình: “ Cậu làm việc riêng, không phải việc cơ quan!...”. Anh có thiên hướng nhìn thấy trong văn bản chính sách khô khan những yếu tố hình tượng, cảm xúc- con đường đến với đồng bào anh một cách ngắn nhất, trực tiếp và hiệu quả nhất- nhưng chính điều đó lại khiến anh không ít bận phải lao đao… Năm 2001, anh được dự trại sáng tác ở Tam Đảo. Chính qua trại này, anh được kết nạp vào Hội VHNT CDTTS. Nhưng anh lại tiếp tục bị xăm soi, bị phê bình, thậm chí còn bị chửi thậm tệ đến độ phải làm đơn xin thôi việc, làm đơn xin ra khỏi đảng. Quyết định gửi lên, đồng chí phó bí thư tỉnh uỷ gọi về: “Một nhà văn duy nhất người Mông của Sông Mã mà huyện không nuôi nổi thì các anh cũng không giữ nổi chức đâu!” Năm 2005, được chính thức trở về ngành văn hoá làm việc quả là một cơ hội đáng quý đối với Hờ A Di. Nhưng cũng phải qua rất nhiều gian nan, rồi Hờ A Di mới được thỏa chí làm cái công việc mà anh khao khát: đi thực tế và sáng tác, và chỉ sáng tác mà thôi- khi biên chế về Trung tâm văn hoá huyện... Hình như câu “cơm áo không đùa với khách thơ” không có gì liên quan đến Hờ A Di và những người cầm bút con em đồng bào dân tộc trên vùng đất này, bởi họ đâu có thu nhập được chút “cơm áo” gì từ thơ với văn; họ đã chấm ngòi bút trong mồ hôi chính mình trộn với mồ hôi đắng đót của đồng bào - giống như bao thế hệ nghệ nhân dân gian đã làm vậy để tạo ra những Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát mồ côi thống thiết. Nhu cầu cuộc sống cần sản sinh ra những nghệ sĩ ngôn từ kiểu Hờ A Di, thì cũng tất yếu cần những “bà đỡ” tận tuỵ ngay trong hàng ngũ công quyền để tiếng nói vắt ra từ tim óc của họ đến được với đông đảo quần chúng dù có thể còn đói ăn thiếu mặc nhưng không thể thiếu được đời sống tinh thần chỉ trong giây lát! Trưởng phòng Trung tâm văn hoá Lê Thứ kể: “Trước đây, bà con người Mông Sông Mã thường nhận được những bao sách từ Philippin gưỉ về, gồm học chữ Mông, phong tục, thơ ca dân gian Mông, kèm theo sách truyền đạo. Lúc đó, anh Di đang ở tuyên giáo, chịu trách nhiệm phân loại, anh ấy đề nghị chỉ thu giữ sách truyền đạo trái phép, số còn lại thì để đồng bào đọc. Nhưng đề nghị không được chấp nhận. Anh Di bèn tức tốc biên soạn hai cuốn Truyện cổ và Thơ ca dân gian Mông. Và phải chăng, đó cũng là một trong những động lực sáng tác thơ văn của anh ấy?”.Tôi phải một lần nữa thầm cảm ơn người trưởng phòng, và chợt nghĩ: những nhà phê bình văn học không thể đem các nguyên tắc lý luận để áp đặt điều gì cho sáng tác của Hờ A Di. Bởi anh viết những dòng thủ thỉ sẽ thấm vào lòng những con người rời khỏi nhà từ lúc nhọ mặt để trở về trong ánh đèn mỡ lợn hoặc ánh điện lom đom lấy lên từ suối cạn. Bởi khi anh nói “Lời bộc bạch của suối”, than khóc cho rừng già bị chặt phá “tan nát, khe khô dần” để đến nỗi “cá không bơi mà chỉ ngóc đầu”; hoặc trong tâm trạng phải thốt lên “Lời than của kẻ nghèo khốn khó” đến bệnh viện cấp cứu, đưa phong bì cho y bác sĩ vài trăm, vài nghìn thì bị lắc đầu “Bệnh nặng không chữa được”, “bệnh viện hết thuốc rồi!”… thì quả thực không đang tâm để bàn về nghệ thuật câu chữ, hình tượng! Anh đang thực sự làm một “Chiến sĩ văn hoá”- hiểu theo cái nghĩa chính xác nhất của danh từ này - ở một vùng quê tự cung tự cấp chưa ổn định, sống bằng nương rẫy, trình độ dân trí quá thấp, các hủ tục và nạn mê tín còn nặng nề, và đồng bào anh thì mộc mạc, khảng khái nhưng cũng dễ bị kẻ xấu mua chuộc, lợi dụng… Chỉ cần đọc vài tên bài trong tập thơ Việt-Mông “Hoa đèn nở” của anh cũng đủ thấy: Răn dạy thanh niên không hút thuốc phiện - Đừng thách cưới - Người Mông ta cần bảo vệ rừng - Cho con cháu đi học - Nói với người vượt biên - Đừng đi làm vợ lẽ - v.v... Tôi tin rằng hiệu quả của chúng sẽ không thua kém - nếu không muốn nói là hơn - so với pháp luật và các văn bản nghị quyết, khẩu hiệu… Nhưng thơ văn Hờ A Di không chỉ tuyên truyền - dù là tuyên truyền một cách giàu tình và giàu lý lẽ theo lối đồng bào vùng cao. Thơ văn anh có nhiều dòng tinh tế miêu tả thiên nhiên, tình yêu trai gái với tâm lý chân thực - tuy mới chỉ là sự phát triển của các motif  thơ ca dân gian Mông, và còn nặng về ghi chép, nhưng thật xứng đáng có một vị trí trong kho tàng văn học các dân tộc thiểu số hiện đại. Anh vừa hoàn thành công trình khảo cứu Ma bò bằng tài trợ ít ỏi của Hội VNDG, và đang tiếp tục tìm tòi khai thác những giá trị văn hoá dân gian cổ truyền không những của người Mông, mà còn của người Sinh mun, người Khơ mú, người La Ha, v.v... ở khắp các vùng hẻo lánh Sông Mã, Sốp Cộp… Khi đọc vài dòng ở bản thảo “Ma bò”, đôi mắt Di long lanh: “Con bò sừng cao đến tận trời, đuôi quệt dưới trần gian, mang chín thang thuốc chữa cho gia đình sống cuộc đời thanh bạch, trong như nước, trắng như gạo, xanh như rừng…” Trong những lời hát cúng tựa sử thi ấy, tôi chợt nhớ đến câu chuyện do chính Di kể: một ông bác, chỉ vì cần có một con bò cúng ma đã cam tâm đem cả cháu gái mình bán đi! Vẻ đẹp tâm linh và sự lạc hậu, cái cao cả và sự tối tăm… tất cả đang kết thành búi trong tâm thức ngàn đời, cần được người có hiểu biết và có tâm gỡ dần ra…Cứ thế, tên tuổi Hờ A Di - một nhà báo địa phương, một thi sĩ dân gian “dấn thân” đã dần dần được đồng bào nhiều dân tộc ở khắp vùng cao biên giới Việt - Lào biết đến và yêu quý. Để có thể xoá đi hết cái hình ảnh “trần gian trải vải đen” trong thơ ca đẫm lệ xưa, để mong gỡ dần cái tấm vải đen trùm kín mặt trong tiếng cúng ma rùng rợn còn tồn tại, cuộc sống vùng cao hôm nay còn cần đến không chỉ một cây bút có tấm lòng trong sạch và dũng cảm như Hờ A Di!.
II. Sự đối trọng bằng ngôn từ và đoạn sau của bài hát cũ
Ngôi nhà của A Di
Trong đêm vắng, gió ù ù qua kẽ vách, Hờ A Di mở mạng tiếng Mông nước ngoài và dịch cho tôi nghe. Một khuôn mặt béo phị, trọc đầu đang kênh kiệu tự nhận là “người Mông có quyền lực nhất thế giới”. Mặc dù đã chết, ông ta vẫn hung hăng kêu gọi thành lập Vương quốc Mông, đòi chính phủ Lào chấp nhận cho trở về xây dựng nước Lào, và tuyên bố: “Chỉ người Mông mới cứu được người Mông!”…Tôi chợt nghĩ: cái gì có thể làm đối trọng tối ưu với những lời lẽ bốc mùi sắc tộc hiếu chiến kia, nếu không phải là những lời lẽ chân chính bằng tiếng Mông do những con người đứng về phía sự thật nói ra? Từ lâu nay, Hờ A Di, dù muốn hay không, cũng đã là người đại diện cho tiếng nói của hàng vạn người Mông trên vùng thượng nguồn Sông Mã này.Từ chỗ hồn nhiên làm thơ viết văn vì yêu thơ văn, anh đã tới chỗ ý thức được mỗi dòng, mỗi chữ mình viết ra có ảnh hưởng thế nào đối với từng giọt mồ hôi nước mắt của đồng bào mình… Niềm khao khát trở thành nhà văn của anh đã kịp đồng hành với sự giác ngộ về sứ mệnh của một trí thức trước số phận dân tộc mình… Điều này không ngẫu nhiên, nó có căn nguyên sâu xa ở gia đình, dòng tộc. Di từng nói với tôi: “Dòng tộc là một thứ rất quan trọng với người Mông chúng tôi, và có rất nhiều điều lý thú. Nếu cán bộ làm văn hóa, chính trị mà nắm chắc được thì vào lòng dân rất dễ dàng”. Di đã đưa tôi về thăm jao (làng) Pú Seo quê hương anh - giống như bao làng người Mông ở khắp vùng Tây Bắc vốn thừa đất thiếu nước, nhiều dốc hiếm bãi bằng, từng trải qua bao thời loạn rừng động núi, di cư liên miên, cho đến khi bố anh - lão nông Hờ Giống Páo, người đầu tiên của vùng bám trụ để tạo ra chốn định cư định canh lâu dài cho nhiều dòng họ, nhiều gia đình trên một vùng rẻo cao khắc nghiệt… Chính tại nơi đây, ở tuổi lên ba, Di được ông bà, cha mẹ kể cho nghe truyện cổ tích Mông, dạy hát những bài dân ca Mông. Cậu bé ham hiểu biết, yêu văn  nghệ đó lúc nào cũng cặp kè cuốn sách lúc đi chăn trâu, khi làm cỏ lúa… Thầy giáo của trường Đào tạo cán bộ dân tộc Mèo Khu TB về huyện tuyển sinh đã ngạc nhiên trước một chú bé loắt choắt thuộc như cháo những bài thơ của Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn… Giai đoạn có tính quyết định đối với cuộc đời Di chính là thời học tại trường sư phạm vùng cao huyện, tại đó anh được một thầy giáo miền xuôi động viên: “ Người Mông chưa có nhà văn… em có năng khiếu văn học, đừng để bỏ phí”. Với thời gian và lao động kiên trì, Di đã dần trở một người viết chuyên nghiệp. Anh mới được in truyện Người tình cũ (Nxb VHDT) kể lại kỷ niệm mối tình đầu thời làm thương nghiệp; vừa viết xong truyện Trở về, nói tới cuộc di cư trái phép của đồng bào Mông sang Lào và thân phận khốn khổ của họ. Anh đang bắt tay vào viết truyện: “Trời cho chúng mình thương nhau” đề cập tới sự cần thiết phải phát triển nghề dệt lanh, nghề rèn truyền thống của người Mông thành hàng hoá. Anh thần người vẻ đau xót khi tôi hỏi vì sao hiếm khi tìm thấy một khung cửi trong những ngôi nhà ám khói, vì sao những bếp lò rèn nguội tanh?. Tất cả đều có thể mua được ở chợ Chiềng Khương, chợ bên Lao Cai. Nhưng những chiếc váy Mông lộng lẫy, những tấm thổ cẩm tuyệt đẹp - sản phẩm của nghề dệt lanh độc đáo chỉ người Mông mới có và những con dao Mông sánh ngang lưỡi dao Đamat Thổ Nhĩ Kỳ giờ có nguy cơ sẽ chỉ còn tìm thấy trong các bảo tàng dân tộc học!
Những ngày lang thang cùng Di tới các làng bản ở một số xã vùng cao giáp biên giới như Mường Hung, Mường Cai… tôi còn nhận thấy ở Di khả năng nắm bắt nhanh nhạy các vấn đề xã hội, chính trị như một cán bộ tuyên huấn chính hiệu - vốn là công việc anh đã từng đảm nhiệm.Và, kết hợp khả năng đó với một trái tim nồng nàn xúc cảm, anh đã có thể viết ra những điều gần gũi, dễ hiểu, thiết thân đối với đồng bào anh. Di kể, hồi đi chiếu phim lưu động, “phim nào bà con xem xong phải chùi nước mắt thì mới nhớ lâu”.
Anh cho tôi biết có nhiều phim về người Mông do Thái Lan, Philippin làm (kể cả chương trình ca nhạc), bà con rất thích - ví như phim “Sự tích con chim Pócư Úa câu"… Anh băn khoăn: vì sao ta không làm được những phim như thế cho đồng bào? Mở vô tuyến ra, phim truyện chỉ toàn thấy người đẹp bốc lửa thành thị, nhà cao phố rộng, tiện nghi loá mắt… Nếu thỉnh thoảng có phim về đồng bào dân tộc thì bà con lắc đầu ngán ngẩm, vì chúng quá ngây ngô, ngọng nghịu, lại “râu ông nọ cắm cằm bà kia”! Di bảo: “Tôi muốn viết kịch bản nói về người Mông, nhưng chẳng biết có ai dám lên vùng cao để làm phim không?”… Vui, buồn, trăn trở với mỗi nỗi niềm đời thường, Di hàng ngày đi, quan sát, hỏi han, ghi chép, để rồi đêm về gõ chiếc máy vi tính cũ do trung tâm văn hoá tặng, cần mẫn góp thêm vào cái công việc dạy “cách làm ăn làm uống”, “đường lý đường lẽ” cho đồng bào anh… Và anh còn phải lo cho cái gia đình nặng gánh của mình, lo đắp lại cái ao cá mà trận mưa lũ vừa qua cá chạy đi hết, lo tìm cách bón phân giữ nước cho những cây nhãn ít bói quả trong vườn, lo tiền mua sách vở và đóng góp trường học cho hai con gái nhỏ, lo tiền thuốc thang cho vợ… Song, có lẽ điều quan trọng nhất đối với Hờ A Di là: những nguồn tài trợ in sách của trung ương, của địa phương tuy không đáng kể, nhưng cũng giúp các “đứa con tinh thần” của anh ra đời và đến được với đồng bào Mông như những “món quà của Thượng đế”…
Vợ, con gái và cháu ngoại
Giờ đây, trên con đường đến với thơ văn, Hờ A Di có lẽ chỉ còn gặp trở ngại lớn nhất là những hòn đá núi, những khúc sống trâu, những vũng lầy… trên các đoạn đường bị băm nát khi anh điền dã tới những làng bản vùng cao heo hút và hiểm trở.
Tôi hiểu: trong con người nhỏ thó đen sắt lại vì mưa nắng kia quả được hun đúc bởi cái nghị lực sống não lòng của những con người bao đời tồn tại trên dốc cao chìm khuất giữa sương mù, và hiện đang đứng trước không ít thử thách nặng nề để sống cho ra sống…Tôi chợt nghĩ lại cái ấn tượng ban đầu gặp Hờ A Di... Người Mông xưa thường buồn bã ví dân tộc mình như một cánh chim: “Người ta có ruộng, người ta ăn thóc mọc dưới đất… Người Mông ta không có ruộng, ta bay trên trời cao tìm quả ngọt trong rừng…” Tôi từng được nghe kể về loài chim Chèo bẻo, loài chim nhỏ nhắn có sức sống kiên cường, dũng cảm và mưu lược, chiến thắng được cả diều hâu hung dữ… Phải, tôi đã có thể ví anh như một con chim Chèo bẻo đáng yêu giữa vùng rẻo cao biên cương đang say mê hát thêm đoạn sau cho bài hát cũ- để bài hát có thể chuyển từ buồn đau sang khát vọng tự do, cùng với ý chí vươn lên đổi đời…
Sơn La - Hà Nội 2012
Nguyễn Anh Tuấn
Theo https://vanchuongviet.org/

Bóng thiền

Bóng thiền 
Trong khuôn viên một ngôi chùa nhỏ rêu phong và rợp bóng cổ thụ ở rất xa Kinh thành, Nhật Tôn ăn vận lối hành giả bước đi với dáng vẻ không giống ngài mọi ngày...
Chuông, mõ và tiếng tụng kinh chiều bắt đầu lan tỏa không gian tĩnh lặng thoảng hương ngâu, hương nhài. Nhật Tôn bất giác chùng bước lại, hít một hơi thở sâu, rồi cũng chắp tay niệm theo. Cảnh vật này đã in đậm trong tâm khảm ngài từ hồi tóc để chỏm, sau những lần theo Thái thượng hoàng tới thăm thú các vùng Long Hưng, Tức Mặc, Vũ Lâm (1). Và cũng tại một chùa quê, ông nội ngài thốt lên những lời tưởng kỳ quặc: "Ta xem ngai vàng như chiếc giày rách, bỏ lúc nào cũng được". Giờ ngài chợt như được nghe tiếng nói đó dội về từ một chốn sâu thẳm và ngộ được hết ẩn ý sâu xa của chúng.
Sau khi truyền ngôi cho thái tử Trần Thuyên, ngài bắt đầu thực tập xuất gia như hằng nguyện. Ngài vừa trải qua một thời gian khá dài sống ở Vũ Lâm giảng cứu Đại tạng kinh, tu tập mười hai hạnh Đầu đà (2). Giờ đây, ngài thỉnh thoảng tới các chùa quê vãn cảnh, tham thiền và khảo cứu tinh thần Phật pháp trong dân gian- như một nhu cầu nội tâm không cưỡng nổi mà ngài chưa tự lý giải được. Cũng có thể do ngài vốn không hề có cảm tình, thậm chí ác cảm với những ngôi chùa to rộng do các vương hầu, chúa đất đổ tiền của xây cất. Hồi còn là một hoàng tử thiếu niên, ngài đã nghe câu chuyện về một đại vương dựng phủ đệ lộng lẫy quá mức, thượng hoàng nghe tin sai người đến xem, ông ta hoảng sợ phải bày tượng Phật để thờ, sau phủ đệ ấy buộc biến thành chùa! Mấy năm qua, kể từ khi giặc Nguyên bại trận lần thứ ba tại Đại Việt, thiên hạ thái bình, thói hưởng thụ đầy thách thức "một người đội ơn vua, cả nhà ăn lộc trời" bắt đầu tác oai tác quái cùng với chùa to phủ lớn, lâu đài cung thất nguy nga đua nhau mọc lên... Hồi chiến sự căng thẳng là thế, nhưng giữa hành cung Vũ Lâm - tổng hành dinh cự giặc của triều đình, ngài vẫn có thể cảm nhận được "mây ướt giăng như mộng, tiếng chuông xa vẳng lại" (Thấp vân như mộng viễn chung thanh)... Thế mà bây giờ, sao ngài lại cảm thấy một cái gì ngột ngạt, nặng nề?
Đây là lần thứ hai ngài tới ngôi chùa quê này. Và có lẽ ngài còn phải lui tới đôi ba lần nữa. Không chỉ vì cảnh vật thanh u hợp với tâm tính ngài. Cũng không chỉ vì hứng thú với cuộc chuyện trò cùng sư trụ trì khá thâm hậu trong các công án Thiền và còn giữ nhiều nét dân dã. Càng không phải vì một ni cô xinh đẹp mới xuống tóc. Nhưng thực ra, cái nguyên cớ thật sự chính lại là ni cô kia...
Lần đầu tiên, lúc ni cô dâng khách hành hương bát nước nụ vối, Nhật Tôn thoáng gặp cái sầu thảm mênh mông vụt hiện trên vẻ thơ ngây thánh thiện của cô. Ngài choáng váng. Ở cô có gì hao hao với công chúa nhỏ Huyền Trân, đứa con gái yêu vẫn chơi đùa cùng thị nữ trong ngự uyển, thường theo ngài tới các chùa vùng Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Đông dự lễ chay đàn, nghe giảng kinh Phật. Cô gái kia, tuổi trăng tròn, lóng lánh ngọc nữ, mộng mị sương thu lại khoác bộ nâu sòng, chít khăn thị giả và ẩn giấu nỗi buồn héo quặn cả cánh sen gỗ.
Ta vốn công danh chẳng trọng, phú quý chẳng màng, sống đạm bạc dứt trừ vọng niệm, ngồi trong nhân thế, chẳng quản sự đổi thay đã đành.
Nhưng còn con, giống như con gái ta, người mà mỗi bước đi bên hoa cũng khiến ta ứa lệ hân hoan.
Mỗi ánh chau mày của con khiến đức Phật trên đài cao cũng mỉm cười độ lượng
Vì sao con sớm lìa bỏ niềm vui thú nhân gian?
Nhật Tôn ngỏ lời với sư trụ trì xin được gặp ni cô. Ông thầy chùa nhìn vị hành giả thoáng dò hỏi, rồi gật đầu. Nhưng ni cô đang trong giờ tụng niệm. Ngài đành đứng ngoài chính điện chờ, lầm rầm niệm theo.
Con ơi, Tuệ Trung Thượng sĩ thầy ta từng dạy: "Khi mê không biết ta là Phật - Khi ngộ thì ra Phật là ta".
Con hãy làm Phật trong cánh tay vỗ về của người thân.
Bữa ăn dù chỉ dưa cháo năm thất bát, song thân tâm vui vẻ, giới-lòng còn quý hơn giới tướng.
Con đâu cần rũ hết trần duyên để tìm giải thoát nơi khổ hạnh, bởi đó đâu phải là sứ mạng của con!
Muốn giới - tuệ (3) đâu cần bước vào cỗ xe lớn nhỏ của Phật - Pháp - Tăng? 
Trong lúc chờ đợi, Nhật Tôn ngồi đàm đạo cùng sư trụ trì hồi lâu. Về giáo lý Thiền tông, Tịnh độ tông. Về phong thủy của chùa. Về chư tăng ni, Phật tử quanh vùng. Rồi đến nguyên cớ cô gái quy y Tam Bảo... Nhật Tôn hình dung ra cuộc trò chuyện sắp tới với ni cô.
- Thầy trụ trì đã kể về con ít nhiều. Nhưng ta muốn nghe trực tiếp từ miệng con.
- Thưa đại Đầu đà, gia cảnh con buồn lắm, ngài cần biết làm gì?
- Ai mà chẳng có nỗi sầu bi hở con? Biết đâu chúng ta sẽ san sẻ được cho nhau để vợi bớt...
- Vâng, nếu vậy con xin kể... Cha con là lính cũ đánh giặc Thát Đát cả hai lần sau. Ông nội con thì ở đoàn dũng binh năm Nguyên Phong thứ ảy...
- À, đó là năm Thái thượng hoàng của ta rất vui trước niềm tự tin của Thái sư Trần Thủ Độ: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ chớ lo gì".
- Cả ông nội và cha con đều là gia nô của vương hầu Quý Thịnh...
- À phải, họ có trang ấp cực lớn phía tây nam Kinh thành!
- Cha con sau bao trận mạc cùng chủ trở về, thấy chủ được triều đình cấp đất thưởng công hậu hĩ, còn mình lại hoàn nguyên thân phận cũ thì bất bình lắm.
- Nếu là ta, thì ta cũng bất bình chứ sao!- Nhật Tôn buột miệng.
Ni cô hơi ngỡ ngàng, thoáng nhìn vị khách lạ. Cô chỉ thấy một bức tượng đá.
- Nhưng rồi ông cũng an phận, hy vọng được ban chút lộc rơi để dựng lại nếp nhà nhỏ chỉ đợi sập và chăm lũ con ốm o đói rách...
Cô gái chợt im bặt.
- Sao nữa, con cứ nói chớ e ngại.
Cô gái mím môi giây lát rồi bật ra:
- Vâng, chờ đợi đến tuyệt vọng...
- Kỳ lạ thế? Ta được nghe kể: vợ chồng vương hầu đó là những người hào hoa, sùng Phật, sẵn sàng cúng hàng trăm mẫu ruộng cho chùa chiền, chi hàng trăm lạng bạc để mời một gánh hát về diễn vở "Bàn đào Vương Mẫu" và các điệu vũ Nghê thường hết đêm này qua đêm khác, rồi cùng bạn quý tộc bốn phương tới thưởng lãm thơ ca, trà đạo, quốc họa Trung Hoa cơ mà?
- Vâng ạ, họ còn lập hội chơi chim, hội chọi gà, hội tao đàn chuyên ngợi ca chiến tích và họa thơ của các hoàng đế, các bậc khai quốc công thần...
- Nhục nhã thay!
Nhật Tôn bất giác thốt lên. Ni cô ngỡ vị hành giả mắng mình thì sợ hãi. Nhưng thấy mình nhầm, cô bèn mạnh dạn tiếp:
- Nhưng thưa ngài, không ít người dưới quyền họ phải trốn sang các trang trại của địa chủ mới để khỏi bị chết đói và thoát phận nô tỳ...
- Họ có thoát được không?- Nhật Tôn vẻ nóng ruột lo lắng
- Dạ, phần lớn bị bắt trở lại, bị hành hạ...
- Còn cha con và các nô tỳ khác?
- Cha con tụ tập mọi người tới gặp chủ nô, cắt phăng tay áo để lộ chữ "Sát Thát" nhất loạt giơ lên, kêu to: "Hãy chẩn cấp để cứu sống gia đình chúng tôi!" Trước đó, cha con có nhờ một nho sĩ không đỗ đạt thảo đơn kêu cứu gửi quan phủ, nhưng tờ đơn được chuyển ngay về trang ấp...
- Kết cục ra sao?
- Dạ, gia binh của vương hầu và lính quan phủ thả cửa đàn áp. Nông nô bị lột trần treo lên các xà nhà của trang ấp, bị đánh bằng côn, gậy trúc, roi ngựa, roi cá đuối...
Ngài nhắm nghiền mắt lại, khẽ lắc đầu.
 - Con đã quỳ lết dưới chân chủ nô van lạy...
Ngài mở bừng mắt ra:
- Con cứu được cha con chứ?
Cô gái lắc đầu, ứa nước mắt:
- Ông bị quy kết là chủ mưu phản nghịch, một tội tày đình mà "nếu không phải bị trừng trị ở trang trại thì đưa lên công đường sẽ không được chết toàn thây". Một quản gia an ủi thế... Mẹ con uất ức lâm bệnh chết. Lo xong mộ phần cha mẹ, con đưa mấy đứa em tới bà con xa gửi gắm, rồi tìm đến cửa Phật. Sư thầy đặt cho con pháp danh Diệu Hạnh...
Từ lâu nay, Nhật Tôn thường tâm niệm: "Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính". Vậy mà lúc này ngài cảm thấy khó kìm giữ được nỗi căm giận thiêu cháy mọi sự tĩnh tâm thiền định hằng có. Vị thượng tọa nơi đồng nội hết ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Người khách lạ dáng vẻ uy nghi, trầm tĩnh, thần thái vương giả, trí huệ sáng láng, thông tuệ kinh điển Tam Tạng không kém một vị cao tăng, nhưng sao lại có khoảnh khắc chấn động tâm can dữ dội? Ánh mắt như sắp phóng lửa, đôi vai khắc khổ run lên trong tấm áo gội nắng dầm sương của vị Đầu đà. Rồi cơn tâm chấn cũng mau chóng lặn vào trong. Lúc đó Nhật Tôn vội vã chào ra về, không muốn vô tình làm động chốn thiền môn.
Chỉ ngay chiều hôm sau, ngôi chùa nhỏ lại đón bước ngài. Câu chuyện về ni cô dường làm ngài già thêm cả chục tuổi! Lại còn chuyện: mấy hôm trước, Quan gia Anh Tông cấp báo cho ngài năm nay lại mất mùa lớn hơn mọi năm, đói rét hoành hành các làng mạc, đây đó người chết đói dọc đường. Trong dân, nhất là hàng ngũ gia nô các thái ấp điền trang nảy nhiều kẻ trộm cướp. Giữa khi có những vương hầu đánh bạc mỗi tiếng bạc đặt tới hàng chục, thậm chí hàng trăm quan, thì dân có người đã phải bán con làm nô tỳ để lấy một quan tiền chỉ mua được ba thăng gạo! Dù ngài đã hồi âm ngay cho Quan gia xuống chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh, song đó chỉ là muối bỏ bể! Lòng người ly tán, nỗi oán hận âm ỉ có cơ loang rộng tận thôn cùng ngõ vắng. Trong lúc đó, phía Bắc, lũ giặc cướp nhà nghề dù có tìm mọi cách thôn tính lẫn nhau nhưng đều ôm mộng làm bá chủ thiên hạ, vẫn đang ráo riết chuẩn bị và tiến hành những thủ đoạn thâm độc nhất để khi có dịp sẽ lập tức ăn tươi nuốt sống giang sơn của ngài.
Phất mạnh cánh tay áo như để dứt bỏ phiền não, sân hận, Nhật Tôn rảo bước quanh chùa, rồi vào chính điện, hy vọng tìm được ngay ni cô Diệu Hạnh. Ngài sẽ hỏi cô cho ra nhẽ. Chuyện cần được sáng tỏ và đi đến chung cục như mọi đại sự quốc gia ngài đã thực thi. Vương triều đang ở đỉnh cao quyền lực và tinh thần Phật pháp, lẽ nào cứ để ngang ngược chuyện vô đạo! Và cần trả lại công bằng cho cô gái. Cô đã buộc phải xuất gia chứ không hề tự nguyện. Cô cần được trả về sống giữa trần thế, với những gì thiên phú thiên bẩm, và như thế cô mới thực sự là Phật theo cái nghĩa tinh túy mà Đại tạng kinh ẩn chứa...
Nhật Tôn bắt gặp ni sư trẻ đang lúi húi sắp xếp hương hoa trong Phật điện gần gũi ấm cúng, giữa ánh nến lay động. Ngài chợt sững lại. Mọi ý định, mọi điều muốn nói bỗng tan loãng theo làn hương trầm... Đôi bàn tay tựa búp măng trắng ngà vuốt nhẹ từng cánh hoa. Nét mặt non tơ hồng hào của trẻ thơ. Cái miệng dù rất nghiêm trang mà sao cứ muốn cười, muốn hát. Một cánh hoa mai mang làn gió xuân lạc vào giấc mộng. Phật đâu xa. Cô gái đương hiển hiện là một Quán Âm Bồ Tát. Một sự hoàn hảo thuần khiết làm lồ lộ nhức nhối thêm những ô trọc nhân gian. Thực đáng dâng hiến máu xương trí lực để bảo vệ một vẻ đẹp diệu ảo đến vậy của trần thế. Đâu phải thanh sắc thông thường. Đó là hiện hữu giúp soi tỏ thêm lẽ huyền vi Phật pháp, cái mà bao thế lực hắc ám cùng âm binh trong và ngoài biên giới đương hoảng sợ tìm cách hủy diệt...
Chính lúc đó, một tin đồn đang rần rật khắp chốn lại hiện về thành lưỡi gươm sắc bổ thẳng vào ngài. Trâu Tôn, một kẻ tự xưng là danh y kiêm đạo sĩ thần thông người Tàu có khả năng chữa bệnh liệt dương bằng phương thuốc: giết đứa bé trai moi lấy mật hòa uống với thuốc dương khởi thạch và thông dâm với phụ nữ là chị em ruột. Vậy mà hắn được không ít bậc thế gia, quý tộc tranh nhau mời đến phủ đệ coi như thượng khách. Hắn vốn là kẻ đi theo quân Nguyên vào nước ta rồi bị bắt cùng đám tù binh. Hắn ở lại Đại Việt lấy vợ sinh con, truyền nghề cho con trai nhỏ là Trâu Canh, chữa bệnh cho các vương hầu, được cấp ruộng và nô tỳ rồi trở nên giàu nứt đố đổ vách. Có ngôi chùa lớn, dưới sự bảo trợ của vương hầu còn mời hắn về dạy các pháp thuật phù thủy, bày cách luyện đan trường sinh bất lão. Triều đình đã có chỉ dụ truy bắt Trâu Tôn, dọa khép tội nặng những ai truyền bá về cách chữa bệnh khủng khiếp cùng những trò bịp bợm đó, song hắn đã là kẻ "bất khả xâm phạm" nhờ không ít nhân vật có "máu mặt" trong - ngoài triều. Và tin đồn về thứ "thần dược" ghê sợ cùng những trò quái đản kia ngày càng len lỏi ăn rễ sâu vào những tâm hồn bạc nhược mà cơ thể lại sung mãn bởi yến tiệc đàn hát và lòng kiêu ngạo chiến thắng. Nhật Tôn hơi nhăn mặt lại đau đớn. Một cảm giác ghê tởm hóa thành những cô hồn, ngạ quỷ dẫm đạp trái tim Phật của ngài... Ngài đâu thể lường nổi: ngót nửa thế kỷ sau, hậu duệ của ngài là Dụ Tông hoàng đế sẽ mời con trai tên thầy thuốc vô đạo làm hầu cận thân tín, sẽ áp dụng chính phương thuốc kia và dung túng bao che cho Trâu Canh làm đủ chuyện ô nhục - điều đó sẽ được ghi lại trong chính sử như một vết nhơ không thể gột rửa được của triều Trần!...
Giờ đây, nếu đối diện ni cô, ngài sẽ phải nói gì? Làm sao khỏi chạm vết thương lòng đau nhất của người phải chứng kiến máu túa ướt đẫm nơi hiệu lệnh đồng tâm diệt giặc của cả dân tộc hằn sâu trên cánh tay cha mình? Ngài phải giải thích thế nào về cách ứng xử đốn mạt của kẻ đã từng là "phụ tử chi binh" với cha cô? Ngài phải nhận trách nhiệm như thế nào về mình? Nếu nghiệp của cô gái là phải trở thành Phật trong chùa quê, thì một hành động ép uổng nào đó biết đâu chẳng ném cô vào chốn tu hành khác chỉ diễn các trò phù phép nhằm trục lợi giờ bắt đầu len lỏi khắp Đại Việt?... Trên đầu cô gái như hiện ra ba quầng sáng mà gần đây ngài thường thấy trong mộng, biểu tượng cho ba vòng tròn đồng tâm Việt tính - Nhân tính - Phật tính. Phải làm sao đây cho bách tính hiểu rõ: gốc Việt chỉ được vun đắp và tươi tốt khi lòng nhân sâu bền, và lòng nhân sâu bền chỉ có thể được duy trì chừng nào Phật pháp được chăm lo thực sự, đi con đường đúng đắn. Nhưng thế nào là đúng đắn? Nhật Tôn bỗng hoang mang. Phải chăng triều đại của ngài bắt đầu bước vào thời mạt chính, cũng có nghĩa là kéo theo thời mạt pháp? Chuông chùa thu không đã vang lên Bính... Boong... Bình... Boong... Âm điệu đó tựa lời than thở Hỏng... rồi... Nguy... rồi... Nhưng với ngài trong khoảnh khắc ấy chẳng khác hồi trống ngũ liên báo động thời chiến trận.
Ni cô vẫn chăm chú công việc. Hết trong Phật điện lại vào tăng đường, rồi ra sân sau chùa, không hề biết có người quan sát mình. Kìa, dáng cô quét dọn nơi thanh vắng còn có lúc như nhảy lò cò - một trò chơi mà xưa kia, có lần ngài thấy trẻ mục đồng ở Tức Mặc đã chơi. Nhật Tôn lúc nép mình vào lưng tượng Kim cương Hộ pháp, lúc vờ xem tượng Ananđà hoặc gốc si sần sùi, trộm ngắm nhìn cô mê mải...
Ni cô bất chợt đi tới gần, ngài vội giơ tay chắp: "A di đà Phật". Ni cô cúi đầu, chưa hết vẻ e thẹn trinh nữ trước đàn ông, dù đó là một hành giả. Cô chắp tay: "Mô Phật" tựa một hơi thở nhẹ rồi lẹ rảo bước. Ngài đã để tuột mất một cơ hội gặp gỡ trực tiếp. Và biết đâu, đó là cơ hội duy nhất. Trong thoáng chốc, ngài nảy ước muốn chạy theo, nhảy lên phía trước chặn đường để buộc cô trò chuyện, như một người còn ở tuổi tráng niên có thể làm; ni cô muốn nghĩ gì thì mặc, hơn nữa, ngài đâu có nét gì của kẻ ưa sắc dục hoặc lục lâm thảo khấu!
Nhưng ngài chỉ đứng nhìn theo dường hóa tượng.
Là một hoàng đế - thi sĩ, ngài đã chứng kiến và ca ngợi bao vẻ đẹp của thiên nhiên, đặc biệt là nơi thôn trang vùng Thiên Trường. Ngài cũng quá quen thuộc với những cung nữ son phấn, trang điểm từ gót tới đầu, học đi đứng khuê các... Song tận mắt ngài chưa bao giờ được thấy một vẻ đẹp thôn nữ đượm phù sa chân chất, không trâm cài, không vòng ngọc, không điệu đàng mà lại khiến thi hứng dào dạt như bây giờ. Chỉ có điều, đó không phải là thi hứng của một thái tử đang thời kỳ yêu đương và nghiền ngẫm đạo lý, binh thư, hay của một ông vua trẻ khoác chiến bào xậm bụi khói.
Này con, người xưa đã không muốn dẫm lên vết chân đức Như Lai thì con hãy tránh dẫm lên vết chân của những kẻ giả tu hành, giả Phật, thậm chí họ còn không biết là giả nữa bởi món ăn của kẻ ngoại lai giàu tham vọng thường làm mê muội nhiều thế kỷ.
Họ mờ mịt như kẻ quay mặt vào tường, con đừng quan tâm đến họ.
Con hãy làm Phật trên mảnh đất cấy cày phủ sương đêm, trong ruộng dâu tằm ngút ngát, nơi bến sông trăng đập vải, và cùng lắm hẵng làm Phật dưới Tam Quan
Dù con có là ai thì non sông cẩm tú này cũng thuộc về con, con hãy giữ lấy bằng mọi giá, kể cả cái chết.
Đó không chỉ là sự răn bảo của đấng cao xanh, đó còn là đòi hỏi của bản thể cartier watches replica chân thực và thiêng liêng của con trong kiếp này - điều ấy sẽ tạo ra chính mệnh(4).
Như thế cũng có nghĩa là con sẽ  thoát khỏi ma giới mà bước vào Phật giới.
Và có điều ta cần  nói, coi như thay lời trăng trối xót xa của cha con:
Hãy làm mọi điều để hai chữ "Sát Thát" thích sâu trên cánh tay cha khỏi trở thành hư không và biến thành trò đùa cợt của những kẻ chỉ quý miếng ăn và địa vị của bản thân mình...
Khi cơn sóng thi hứng chưa lắng lại, cặp mắt của vị hoàng đế - thiền sư đã chợt nhòa lệ. Rất có thể đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ngài khóc ra nước mắt.
Người ghi lại câu chuyện này không rõ Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông có trừng trị vương hầu vô đạo kia và tìm cách đưa cô gái trở về với đời thường hay không, nhưng đoan chắc một điều: cuộc gặp gỡ gần như "vô ngôn" với ni cô Diệu Hạnh trong một ngôi chùa quê đã là giọt nước làm tràn cốc nước, khiến ngài có một quyết định chấn động triều đình và thiên hạ. Ở tuổi ngoại tứ thập, sau khi đã "thận trọng trước sự răn bảo của trời, làm hết phận sự của người" như sử gia Ngô Sĩ Liên đời sau bình luận, ngài rời bỏ tất cả, thượng sơn tới một vùng cao ngất, hoang sơ và nguy hiểm phía Đông Bắc là núi Yên Tử để tiếp tục tu hành. Ngài thực hiện cái di nguyện của ông nội Thiền sư Trần Thái Tông. Cũng là ước nguyện của ngài tự thuở hoa niên... Christian louboutin outlet Ngài đã mở ra một dòng mới của đạo Phật, thâm sâu, thuần Việt - dòng Thiền nhập thế Trúc Lâm Yên Tử, và trở thành vị Vua-Bụt duy nhất của nước ta. Lý do sâu xa của hành trạng đó, dù đã có nhiều bậc trí giả xưa nay dày công nghiên cứu giải thích, nhưng cho đến bây giờ vẫn còn là một bí ẩn lớn.
Chú thích:
1. Long Hưng thuộc Thái Bình, Tức Mặc - Thiên Trường thuộc Nam Định, Vũ Lâm thuộc Ninh Bình.
2. Tu hạnh Đầu Đà là tu theo các công thức: ở nơi hoang vắng, ăn ít, ăn một bữa, mặc áo rộng, luôn ngồi chẳng nằm...Và đặc biệt với Trần Nhân Tông là tu theo tư tưởng trọng đạo nghĩa, lánh thị phi, ghê thanh sắc, sống cuộc đời thanh đạm, nhàn tản vô vi... (Cư trần lạc đạo phú)
3. Giới (Biết điều răn cấm để không phạm lỗi lầm), Định (Không để tâm trí bị tán loạn), Tuệ (Trở nên sáng suốt) - theo Phật giáo, đó là tiến trình để đạt tới sự giác ngộ.
4. Tức lòng dạ ngay thẳng không lừa lọc. Là một trong những phép của Bát chính đạo (Đạo đế), thuộc Tứ diệu đế - lý thuyết cứu khổ của đạo Phật.                                                   
Hà Nội, cuối đông 2012
Nguyễn Anh Tuấn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19 - 2013

Theo https://vanchuongviet.org/

Tiếc cho miền yêu xanh biếc

Tiếc cho miền yêu xanh biếc
Thức dậy thấy tên anh
Giận mình sao ngốc nghếch
Để miền yêu xanh biếc
Vừa vụt qua mất rồi.
(Tiếc - Sợi buồn khẽ rụng - Thủy Hướng Dương, 2012)
Đã lâu lắm, tôi có đọc một bài thơ không nhớ rõ của ai, trong đó có hai câu: "Khi anh hiểu tiếng hàng mi em khép/ Thời thanh xuân tươi đẹp đã qua rồi". Đọc bài thơ "Tiếc" của THD, hai câu thơ trên chợt vụt hiện về tâm trí tôi... Thơ THD qua hai tập chị tặng tôi: "Hãy yêu đi khi ta còn có thể" và "Sợ buồn khẽ rụng" hầu hết là các "dòng nhớ trong veo" nhưng dễ lẫn với rất nhiều tập thơ tình xuất bản đến chóng mặt thời gian qua. Vì vậy tôi sửng sốt trước một bài thơ 4 câu ngũ ngôn truyền thống của chị "neo" tôi lại, buộc phải ngẫm nghĩ.
Khi viết bài thơ này, với tất cả xúc cảm tiếc nuối hồn hậu mà chị mong truyền tới người đọc, chắc hẳn THD không thể ngờ rằng chị đã vô tình động đến một vấn đề Mỹ học có liên quan đến Ngôn ngữ học, Tâm lý học, Phân tâm học... làm tốn giấy mực trong nhiều thập kỷ - đó là quá trình đi từ Khái niệm đến Biểu tượng... Dĩ nhiên, điều này không phải là nguyên cớ để bài thơ hay hơn, sâu sắc hơn, nhưng nó đã đi vào hình tượng thơ- dù là vô thức, và có cảm xúc chân thực làm "vật đảm bảo".
Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, mỹ học đều đã thống nhất rằng trong lịch sử nhân loại, có hai ký hiệu văn hóa độc lập và ngang nhau để tạo nên khái niệm: lời nói và hình vẽ, và "sự tiến triển của văn hóa đòi hỏi sự có mặt của hai hệ thống ký hiệu này." (Ký hiệu học và mỹ học Điện ảnh - I. Lotman - Viện NT & LTĐAVN, 1997, trg. 482). Với lý thuyết trên, tôi bắt đầu giả định (theo tình huống của bài thơ): một buổi sáng, khi thức dậy, người thơ lục tìm thấy Tên anh - người thương mến qua thư từ (thậm chí chỉ là một dòng chữ viết vội), có thể cả một bức ảnh (cũ hoặc mới) - thuộc "hai hệ thống ký hiệu". Đó là những vật chứng tạo nên Khái niệm khá trọn vẹn của Tình yêu- và Tên Anh là trung tâm, là nội dung chính của Khái niệm Tình yêu ấy (Không phải là Khái niệm mơ hồ, xơ cứng, mà là Khái niệm run rẩy hơi thở sự sống!) Sau đó khi người thơ nói: "Giận mình sao ngốc nghếch", thì thật ra với thái độ tự trách rất nữ tính ấy cũng đã gói đủ cái điều cần bộc bạch; bài thơ nếu chấm dứt tại đó cũng là trọn vẹn, cũng đủ tạo dư ba trong người đọc.
Nhưng bài thơ lại tiếp, không phải vì cần tuân theo quy luật thể tứ tuyệt:
Để miền yêu xanh biếc/ Vừa vụt qua mất rồi.
Tới đây, Khái niệm (hiểu theo cách giải nghĩa trên về văn bản thơ) đã mở rộng theo hướng vô cùng và trở thành Biểu tượng của Tình yêu và sự Tiếc nuối: "Miền yêu xanh biếc." Biểu tượng chứa đựng vẻ đẹp của sự sống và tuổi trẻ, sự đắm say, lòng ngưỡng vọng cao cả, và tôi tin rằng tất cả chúng ta, ai cũng đã từng có hoặc đang mong có một "Miền yêu xanh biếc" như thế! Nhưng Miền Yêu xanh biếc tác giả nói đến theo tôi không chỉ dành riêng cho Tình yêu nam nữ, mà còn tượng trưng cho tất cả những gì con người khao khát nhưng thực xa vời! Ta hãy thử đọc trong "Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới": "Xanh là màu lạnh nhất trong các màu, và trong giá trị tuyệt đối của nó là màu tinh khiết nhất... màu xanh không thuộc thế giới này, nó gợi lên một ý tưởng về sự vĩnh cửu bình lặng và kiêu kỳ, siêu phàm..." (Nxb Đà Nẵng và Trường viết văn Nguyễn Du, 2002- trg.1015). Ở đây, đồng cảm với tâm trạng của tác giả, ta càng hiểu vì sao nhà phân tâm học Thụy Sĩ nổi tiếng C. Jung đã nói: "kiến thức khoa học tiến bộ thì thế giới cũng mất dần tính chất của con người... Sự liên lạc của con người với thiên nhiên đã bị gián đoạn, vì thế mà biến mất những những sinh lực tinh thần sâu xa được tạo ra bởi những liên lạc với biểu tượng của con người." (Thăm dò tiềm thức, Nxb Tri thức, 2007, trg.139)
Trên con đường đi tìm lại "Miền yêu xanh biếc" "vừa vụt qua" đó, dù có đớn đau, tuyệt vọng thì người thơ vẫn không thể nản chí, bỏ cuộc, "Ta vẫn đi... đi hết con đường/ Nhưng bây giờ sẽ đi bằng đôi chân rớm máu." (Trò chuyện với con đường - Sợ buồn khẽ rụng)
Vâng, cũng chỉ với "đôi chân rớm máu" đó để nối lại liên lạc giữa thiên nhiên và con người bị gián đoạn - chứ không phải những "đôi hài vạn dặm" tưởng tượng - mới có thể đưa chúng ta tới những "Miền yêu xanh biếc" hằng mong mỏi...
Nguyễn Anh Tuấn
Theo https://vanchuongviet.org/

Tản mạn về thơ và cách ứng xử với thơ

Tản mạn về thơ 
và cách ứng xử với thơ
1. Những năm qua, đời sống văn hóa và tinh thần nói chung, đời sống văn chương nói riêng đã diễn ra tình trạng loạn chuẩn tới mức báo động, và nổi lên những hiện tượng kỳ dị - nổi bật nhất là tình trạng "lạm phát thơ" (như tên một bài viết), mà đỉnh cao (hay thực chất là biến tướng quái đản nhất của nó) là hiện tượng người làm thơ dám tự nhận "mượn bút tiền nhân"...
Là một người yêu thơ, và đang làm một công việc có thể nói là lấy thơ ca làm gốc, tôi xin mạnh dạn góp mấy lời lạm bàn.
Đúng là có sự thật: "Nhan nhản những tập thơ vô thưởng vô phạt xuất hiện trong các giải thưởng, trên quầy sách, trên bàn thờ tổ tiên hay trên những trang mạng cá nhân. Đó là thứ thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, tưởng như vừa khai quật trong bãi thải của quên lãng... Nhưng cũng không ít người say mê với nó và tưởng mình không thua gì Nguyễn Bính, Xuân Hương khi được một số độc giả khen vuốt ve trên mạng ảo…" ("Hiện tượng vè hóa, văn xuôi hóa và cũ hóa Thơ cần báo động" - Nguyễn Trọng Tạo - trieuxuan.info). Quả thực có chuyện: "Thơ thập - diện - mai - phục… thơ làm tắc nghẽn mọi ngóc ngách, ngõ hẻm, đường sá, giao lộ tinh thần khiến cho thơ sạch không có lối đi." ("Vấn nạn thơ đầy đường"- trannhuong.com). Bản thân người viết những dòng này cũng đã bày tỏ thái độ trước sự lạm phát thơ đó trong vài bộ phim truyện truyền hình từng phát trên Văn nghệ chủ nhật, như phim "Trời cho - trò chơi": một ông được đền bù đất đai đã vung tiền cho mình và vợ con làm sang: vợ mở phủ, con gái mua sắm, còn bản thân thì cho in thơ "con cóc" của mình để khoe và để biếu.
Nhưng, đó chỉ là một nửa của sự thật, đúng hơn, là cái mặt nổi của sự thật.
Lòng yêu thơ, có thể nói là cái phần tốt đẹp nhất trong những tình cảm tốt đẹp còn sót lại sau những cuộc tàn phá kinh hoàng của nền kinh tế thị trường méo mó đối với nhân tính và các mối quan hệ xã hội. Một tác giả có ý kiến khá lạ và hóm hỉnh, và không phải không có lý: "Nếu có một ngày toàn nhà thơ tham gia giao thông thì chắc chắn nạn tắc đường giảm đi rất nhiều, bởi dù đấy là nhà thơ ở cấp độ nào thì đều là những người có tâm hồn phong phú, có nhân tính, biết nhường nhịn nhau… Còn nếu các nhà công quyền lại đồng thời là các nhà thơ thì lại tốt quá, người dân chắc không phải điêu đứng vì thói hống hách, quan liêu, cửa quyền, tham lam vô độ… ("Đất nước càng nhiều nhà thơ càng tốt" - Thi Thi - nguyennguyenbay.com).
Trong một lần trả lời phỏng vấn, nhà thơ Hoàng Cầm có nói đại ý rằng: tính cách của người Việt rất gần gũi với thơ - đó là lối sống tình cảm đối với bạn bè, bà con làng xóm, nhường cơm sẻ áo trong hoạn nạn... Trải qua mấy nghề nghiệp, đi tới nhiều vùng đất, tôi đã tự mình kiểm nghiệm được cái đúc kết giản dị và lý thú trên của cố thi sĩ Hoàng Cầm...
Xin kể một chuyện nhỏ. Dạo ấy, sau khi chuyển vùng từ Tây Bắc, tôi nhận công tác ở một trường cấp ba huyện ngoại thành Hà Nội. Cô tài vụ của trường có vẻ ác cảm với một kẻ tự ti lầm lỳ như tôi, hoặc coi thường anh “giáo khổ” miền núi trở về, nên cứ vào kỳ lĩnh lương, cô thường để tôi phải đi tới đi lui dăm bẩy bận, đến phát khùng lên mới được lĩnh hết lương. Một buổi, tôi vào phòng tài vụ chờ rất lâu. Có cuốn sổ tay để mở, tôi tò mò cầm đọc. Hóa ra là sổ chép thơ tình, có cả mấy bài thơ dịch Puskin. Có nhiều câu chép sai, sai cả chính tả. Tôi liều mạng lấy bút ra sửa giúp. Khi cô tài vụ về, chưa kịp thoái thác với tôi là hôm nay chưa có tiền lương, cô chợt nhìn thấy tôi cầm cuốn sổ, bèn giật lấy nhìn. Tôi tái mặt lo lắng. Nhưng số tôi thực may mắn. Cô đọc một lúc, vẻ lạnh lùng khinh khỉnh dần biến mất, rồi nhẹ nhàng hỏi: "Anh sửa đấy à?" Tôi ấp úng gật đầu: "Tôi... Tôi là giáo viên văn mà...". Cô dường như quên phắt cái sứ mạng là phải hành hạ một "ma mới" như tôi, hào hứng: "Anh thuộc nhiều thơ không? Chép hộ em với nhé?" Thế là hôm đó, lần đầu tiên sau hơn nửa năm chuyển vùng về, tôi được lĩnh lương đúng hạn... Mà công đầu là do Thơ; đúng hơn là do tâm hồn yêu thơ của một cô gái tuy có nhiều nét tính cách không dễ chịu gì cho lắm nhưng chỉ một cái đức yêu thơ đó cũng đủ thể tất nhân tình cho tất cả...
Có lần, nhà thơ Nguyễn Đăng Luận (NĐL) hùng dũng phóng xe tới nhà tôi để tặng tận tay một tập "Tân Văn" sang trọng mới in, do ông làm chủ biên, kèm theo cuốn foto "Lời thề lá sen và 64 bài họa". Bài thơ "Lời thề lá sen" nổi tiếng của ông có vẻ ngoài đặc dân gian, song cảm thức bên trong thì hiện đại không kém một thi sĩ hiện đại hay hậu hiện đại nào:
Lá sen chưa kịp đi tu
Mà hoa cúc đã nhộm thu óng vàng
Yêu em mua cốm làng Vòng
Nâng niu anh gói trong lòng lá sen
Lời thề hôm ấy của em
Thơm như cốm ướp hương sen giữa mùa
Không ngờ, anh thật không ngờ
Lá sen rách. Cốm bây giờ thơm đâu?
Tôi kính nể nhà thơ này bởi tình yêu dường không giới hạn và đặc biệt không vụ lợi đối với thơ văn (Ông ghi rõ trong sách Tân Văn như một tiêu chí: "Không nhận tài trợ, không đăng quảng cáo"). Khi tự coi mình là "nhà thơ tình", NĐL chắc cũng chẳng quan tâm đến sự đánh giá của các vị mũ cao áo dài trong các hội đoàn cơ quan nghề nghiệp, mà ông chỉ sung sướng đến ngây ngất với những người đọc ông một cách trân trọng, và còn họa thơ của ông nữa! Sự hồn nhiên của nhà thơ dân gian này thực đáng yêu, và điều đó càng tương phản với một vài kẻ lợi dụng lòng yêu thơ của mọi người để kiếm lợi (và họ đã thành công khủng khiếp!)
Khi về làm phim tại thôn Duệ Đông - một trong 49 làng quan họ gốc Bắc Ninh, tôi được tặng một tập thơ kỷ niệm 15 năm ngày thành lập CLB thơ Duệ Đông mà tác giả là những liền anh liền chị cao tuổi. Trong số những tác giả mà tôi được tiếp xúc, tôi đặc biệt chú ý tới bà Nguyễn Thị Ngọc Viên. Say mê tiếng hát quan họ cổ của bà, tôi còn rung động sâu sắc trước cuộc đời bà: chồng và cả ba người con đều lần lượt ra đi do tai nạn và bệnh tật bất ngờ, trong nhiều năm bà đã cắn răng để sống, để hát quan họ, truyền dạy hát quan họ cho lớp trẻ, và làm thơ. Thơ của bà dung dị, chân thật, đượm xót xa ngọt ngào và thấm như câu ca quan họ:
Cánh sen gọi nắng trưa hè
Mưa rào bất chợt, ướt nhòe thơ tôi...
Tôi được đọc một cuốn sổ thơ gia đình của vợ chồng dược sĩ cao cấp Trần Thị Minh Phú và tiến sĩ khoa học Nguyễn Đắc Hy; mở đầu cuốn sổ là dòng đề từ trích trong cuốn sách lớn “Môi trường và con đường phát triển” của chính Ts Nguyễn Đắc Hy: “Văn minh Sinh thái là Cội nguồn của sự phát triển Hạnh phúc nhân loại” - giống như một tuyên ngôn Sống và làm thơ của họ. Thơ tình hai người viết tặng nhau thời run rẩy đợi chờ lúc gặp mặt có những câu mượn thơ Lý Phương Liên: “Đợi anh dưới cột đồng hồ” và cả những công thức hóa học để nói hộ lòng mình. Rồi từ đó, trong cuộc sống gia đình nảy sinh bao chuyện vui, buồn, giận dỗi, chia ly, v.v, hai ông bà đều ghi lại thành thơ như một thứ nhật ký đặc biệt, để lưu giữ kỷ niệm, tự răn mình, nhắc nhở nhau, dạy dỗ hay động viên con cháu… Tôi đọc chúng trong sự đồng cảm, và đặc biệt thích thú với những bài, những đoạn thơ ông bà trêu chọc nhau với nét hài hước châm biếm nhẹ nhàng của những trí thức. Bà Phú có mấy bài thơ viết cho chồng lại mang cả chất trào lộng dân gian:
Số Tel thì không nhớ
Chìa khóa chẳng nhận ra
Mái tóc trắng mượt mà
Như kẹo bông ngọt lịm
Vòng đeo tim vành vạnh
Đầu bẩy đuôi ngo ngoe
Vẫn chưa hết xập xòe
Khi bóng hồng thấp thoáng…
Những câu thơ & những bài thơ như thế của cá nhân, và của rất nhiều CLB thơ trên toàn quốc đang lấp lánh trong biết bao tập thơ đã/ hay chưa được in ra. Có thể nói, chúng là nguồn thơ ca dân gian vô tận để từ đó hình thành nên những đỉnh cao văn chương bác học - thời xưa là thế mà thời nay cũng chẳng khác mấy. Nếu có những tập thơ nào đó được sản xuất ra với mục đích ngoài thơ ca và có nguy cơ làm "tắc nghẽn mạch giao thông tinh thần"- thậm chí làm mọi người bị ngộ độc, thì đó chỉ là số ít!
Nhà thơ Trần Dần sinh thời đã có lần bênh vực loại thơ ca dân gian đó như sau:
"Con đường số 7 của tao/ Nó đi theo giặc tao đào nó đi. Hai câu thơ đó là đúng hay sai chính trị?... Cụ Hoài Thanh, anh Xuân Diệu bảo là sai chính trị... Tôi rất khen hai câu thơ đó. Tôi cho rằng nó đúng chính trị, đúng lập trường. Tình cảm nó gợi lên: mạnh mẽ, phong phú, chua xót mà chủ động. Người đào đường lớn hơn con đường, con người mạnh bạo, chủ động, chua xót, làm một việc bất đắc dĩ mà cần thiết. Đó là chính trị, là lập trường của hai câu thơ... Người thi sĩ có quyền nói tha hồ, nói sống nói chết, nói bừa nói bãi, nói sao thì nói rốt cục tình cảm đọng lại mạnh mẽ, phong phú, xốc người ta lên yêu ghét hành động. Cho nên thường khi người ta thấy người thi sĩ nói những điều rất phi lý: trèo trời đục đất. Có lúc người thi sĩ biến thành ánh trăng, một vì sao. Lúc biến thành con mãnh thú. Lúc biến thành chiến sĩ, thành Tiên, thành quả núi, con sông, v.v... Tất cả mọi chuyện thực là vô lý, có khi như sai chính trị, sai sự thực, như là duy tâm nữa. Nhưng nếu tình cảm đọng lại mạnh mẽ, thôi thúc, xô đẩy người ta lên thì không sai chút nào cả- như hai câu thơ trên kia..." ("Thơ chính trị - thơ chính sách" - Tư liệu riêng của gia đình nhà thơ Trần Dần).
Đạo diễn điện ảnh Tự Huy - cháu bốn đời của nhà giáo, nhà văn hóa, nhà thơ lớn Nguyễn Văn Siêu có kể cho tôi nghe một câu chuyện thú vị về nhà thơ Trần Dần. Nhà thơ vốn nổi tiếng là người chịu khó tìm tòi cách tân Thơ này có lần bảo ông Tự Huy: "Có một bài ca dao cổ tuy hay nhưng tôi không đồng tình lắm với nội dung lẫn hình thức của nó:
Tình cờ bắt gặp nàng đây
Đòi cắt cái áo đòi may cái quần
May rồi anh sẽ trả công
Ít nữa lấy chồng, anh sẽ giúp cho
Giúp em một thúng xôi vò
Ba con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp đôi chằm em đeo
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan tư tiền cưới lại đèo buồng cau...
Nhà thơ Trần Dần đã làm lại bài ca dao. Và nhà thơ đã đọc cho đạo diễn Tự Huy nghe bài thơ đó, nguyên văn như sau:
Bao giờ em đi lấy chồng
Để anh sắm sanh quà cưới
Anh mừng em đôi chiếu mới
Em về trải kín giường đôi
Anh đi sang tận làng Ngòi
Tìm mua gạo cẩm
Xu xuê bánh cốm tự anh buộc lạt điều...
Em có cần anh đầu cỗ
Bảo người nhắn gọi anh sang
Giò lụa chạo nem, thịt quay xôi gấc
Vật bò mổ lợn
Con dao anh cắt, nuột lạt anh thắt
Giò thủ anh nén, nước xuýt anh nếm, nạc mỡ anh pha
Cỗ lòng anh thuốn, gỏi cuốn anh cuộn
Mâm son anh dọn, đĩa trúc anh so...
Hay em nhờ anh giúp về văn nghệ
Để anh sửa soạn chương trình
Máy hát anh mượn, trò vui anh chọn
Bạn bè anh đón
Tuyên bố lý do anh nói
Kèn tàu anh thổi.
Anh lưu tới cuối tiệc tan
Khách muộn anh tiếp, đèn rạp anh tắt
Thuốc lá thừa anh nhặt
Xong xuôi anh về!
Tôi chợt nảy ý nghĩ: bài thơ làm lại đầy ý vị hóm hỉnh này của thi sĩ "thủ lĩnh trong bóng tối" (Phạm Thị Hoài) không ngờ đã giống như một nhát búa tạ phang vào cái thói "làm duyên làm dáng" (Lưu Trọng Lư) của nhiều nhà "hoạn quan trữ tình" (Maiakovski), giáng không thương tiếc vào cái thực chất trống rỗng về tư tưởng, nghèo nàn về vốn sống và kém cỏi về tiếng Việt nên đành phải mượn cái vỏ "hiện đại", "hậu hiện đại" rất khụng khiệng để che lấp đi của không ít nhà thơ chúng ta hôm nay.
2. Viện sĩ Hàn lâm Petrov đã cho chúng ta thấy sự trăn trở về Thơ ở nước ta thực ra cũng là mối quan tâm của nhiều dân tộc trên thế giới, và chúng càng có giá trị thời sự với hôm nay: "Thơ ca xuất phát từ những suy nghĩ của những nhà tiên tri ngày xưa, suy nghĩ về cuộc đời, suy nghĩ về ý nghĩa của con người trên Trái Đất... ("Thơ ca, hay là câu chuyện "số đông - số ít" - NNB.com). Không ít những lời tâm huyết nói về Thơ trong thời buổi lạm phát Thơ và chắc chắn tìm được đồng cảm của nhiều người thậm chí không hề làm một câu thơ, xin mạn phép được trích dẫn đôi dòng:
"Niềm sáng tạo thi ca mệt mỏi trước nỗi ma lực chữ nghĩa đớn đau, chỉ khát khao góp cho khách tri âm chút đồng cảm nhỏ nhoi về số phận và phẩm giá từng con người trong xã hội. " ("Phê bình thơ, nên khen hay nên chê?" - Lê Thiếu Nhơn).
"Sao trước những sự kiện bức xúc của đời sống, thơ không lên tiếng, thơ lặng câm? Những bài thơ cất lên ở các dạ hội, đêm thơ, ngay cả của các nhà thơ Việt, hình như vẫn ở bên ngoài thời sự của cuộc sống hôm nay của người dân?  ("Nghĩ từ liên hoan thơ quốc tế Việt Nam lần thứ nhất" - Phạm Xuân Nguyên - lethieunhon.com).
Đáng mừng là, giữa cái loạn chuẩn về giá trị Thơ, có một nhóm nhà thơ nước ta đã tình nguyện đứng ra làm một loạt "tập thơ hay", với tinh thần vô tư, không vụ lợi, nhằm góp phần chuẩn hóa, định giá chính xác về Thơ Việt hiện đại; đó là công trình đồ sộ "Thơ Bạn Thơ" (gồm 8 tập - Nguyễn Nguyên Bảy & Lý Phương Liên chủ biên) lần lượt ra đời, đến nay đã là tập thứ 7. Giá trị nội dung nghệ thuật chứa đựng trong những tập thơ đó ra sao, người đọc đông đảo sẽ có thời gian thẩm định; có điều, đó thực sự là những "tuyên ngôn" bằng thơ chân chính có tác dụng thanh tẩy những gì không phải là Thơ, hạ thấp Thơ, thậm chí giả Thơ... Công việc này có thể coi là một hồi chuông thức tỉnh, một sự mở đầu cần thiết nhằm phục hưng những giá trị thơ ca đích thực đã từng bị lem luốc một cách oan uổng trong những năm tháng vừa qua.
Nguyễn Anh Tuấn
Theo https://vanchuongviet.org/

Bộ phim Đất rừng phương Nam: Một số điều "Lấn cấn" về nội dung và nghệ thuật cùng với phản hồi của cục điện ảnh

Bộ phim Đất rừng phương Nam: Một số điều "Lấn cấn" về nội dung và nghệ thuật cùng với phản hồi của cục điện ảnh “Đất rừng phương...