Thứ Tư, 31 tháng 8, 2022

Trở vềXXXX

Trở về

Hội ngộ

Chiếc Airbus 320 đảo cánh và lơ lửng trong không gian vài phút sau khi phi công thả tốc độ. Hành khách bớt ồn ào và một số người chồm qua phía ổ kính để ráng ngắm cảnh vật phía dưới đất.
Màu xanh của ruộng đồng thưa dần khi phi cơ bay gần tới phi trường Tân Sơn Nhất.Ngồi gần ổ kính, Tin Nguyễn không khỏi nhớ lại lần đáp máy bay rời nước ra đi, trên cao nhìn xuống, còn thấy rõ những hố bom đầy nước mọc lổm chổm giữa những thửa ruộng vuông vắn xinh đẹp.
Vậy mà thấm thoát đã 15 năm qua ! Anh ta chợt thở dài và tâm tư lại hướng về người mẹ yêu dấu giờ đây chắc đang nóng lòng đợi đứa con duy nhất trở về sau 15 năm xa cách.
*
* *
Không khí nhộn nhịp và ồ ạt tại phi trường làm Tin Nguyễn ngạc nhiên và choáng ngộp. Ðâu có khác gì mấy so với một số phi trường bậc trung ở Mỹ mà anh ta đã đi qua ! Có khác chăng là sự ngạc nhiên ra mặt của người nhân viên kiểm soát thông hành khi ngước mắt nhìn Tin Nguyễn, trong tay cầm sổ thông hành của người hành khách đang đứng đối diện :
- Ông là người Việt Nam à ! Tui tưởng ông người Phi Luật Tân chớ !
Tin Nguyễn cười nhẹ, vì đã quen với sự ngộ nhận dễ hiểu trong những tháng năm dài sống trên đất Mỹ. Dễ hiểu vì màu da hơi ngâm đen của anh ta, kết quả của một sự pha trộn giữa hai màu da, một đen và một vàng.
Lấy xong hành lý, Tin Nguyễn đẩy xe chậm chạp hướng lối ra, nơi rừng người ồn ào đang chào đón thân nhân của mình.
Từ xa, trong cảnh tưng bừng hội ngộ, anh ta đã nhận ra khuôn mặt quen thuộc của Má. Má coi bộ già hơn so với những tấm hình chụp mới đây. Mái tóc đã bạc gần hết, mặc dầu Má mới xấp xỉ 60 tuổi.
Người mẹ ôm chầm lấy đứa con và khóc không thành tiếng.
Tin Nguyễn ôm Má vào ngực, để những giọt nước mắt nghẹn ngào thấm vào chiếc áo sơ-mi của mình, chiếc áo mới tinh anh ta vừa nhận được vài hôm trước trong gói quà Má gởi.
- Sao con ốm vậy con ! Trong hình, con coi bộ mập hơn mà !
Người mẹ thì thầm chỉ vưà đủ cho đưá con nghe.
- Con vẫn vậy, Má à ! Tin Nguyễn chỉ nói được bấy nhiêu, vòng tay mãi chưa muốn rời người mẹ thương yêu.
Trong cái im lặng đầm ấm của buổi gặp mặt tại phi trường, Tin Nguyễn nhận ra cái mùi quen thuộc của Má, mùi hơi người trộn lẫn với mùi dầu thơm dìu dịu từ mái tóc Má tỏa ra.
Ở Mỹ, nơi xa cách ngàn dậm, có đôi lúc anh ta vẫn nhớ tới cái mùi của Má khi tâm tư trở về với những tháng năm sống trên đất nước Việt Nam.
*
* *
Một thời thơ ấu khổ cực, phần vì người mẹ suốt ngày vắng nhà để kiếm sống, phần vì hàng xóm chế riễu màu da của đứa trẻ mang hai dòng máu. Hình ảnh tươi đẹp duy nhất trong ký ức của Tin Nguyễn là hình ảnh đậm đà của Thu, một đứa bạn gái lai Mỹ đồng cảnh ngộ. Thu "đen", con bạn duy nhất, hơn Tin Nguyễn hai tuổi, phải giúp gia đình kiếm sống bằng cái nghề nặng nhọc là gánh nước mướn. Thu "đen" là mối tình đầu của Tin Nguyễn, một đưá con trai mới lớn sống chui rúc trong các ngõ hẻm bần cùng của Sài-Gòn.
Vì yêu, Thu "đen" đã không ngần ngại giúp tiền để Tin Nguyễn có thể thỏa mãn cơn nghiện của mình khi ma túy dầy vò thân thể. Dần dà, theo lời dụ dỗ của các băng đảng xì-ke, Thu "đen" đã bước chân vào nghề mãi dâm để có tiền cung phụng cho Tin Nguyễn và cho gia đình mình.
Ngày được tin mình được nhận vào nước Mỹ, Tin Nguyễn chạy như bay tới tầng trệt nơi Thu trú ngụ. Một thân hình nhỏ nhoi đang nằm bất động trùm mền trên sàn gác.
-Thu ơi ! Anh được giấy đi Mỹ rồi nè ! Tiếng thét của Tin Nguyễn như rơi vào sa mạc.Anh ta tưởng Thu còn ngủ say và bước lại gần nhưng bất chợt Thu-người vừa chồm giậy chính là Thu-sắc mặt tái nhợt, đã lao người qua khung cửa và biến mất trước khi Tin Nguyễn có được một phản ứng nào.
Sững sờ, phải một hồi lâu anh ta mới hoàng hồn và rời phòng trọ trong im lặng.
Ngày hôm đó cũng là ngày cuối cùng Tin Nguyễn gặp lại Thu "đen". Anh ta sống trong nỗi bức rức, lo âu và chờ mong cho tới một buổi sáng khi nhỏ Trang, một nhóc gái gánh nước mướn ở cùng xóm với Thu mang lại cho anh ta vài dòng chữ nguệch ngoạc của Thu :"Tin đừng chờ Thu nữa.Thu bị si-đa.Vĩnh biệt."
Chắc Thu "đen" đã bỏ vùng sinh sống ra đi vì Tin Nguyễn đã hoài công tìm kiếm trong mấy tháng trời, trước khi rời nước ra đi.
-Má à, Má có nhận được tin nào của con Thu không Má?
Câu hỏi buông ra khỏi miệng làm chính Tin Nguyễn ngạc nhiên, vì có lá thư nào viết cho người mẹ mà anh ta không quên hỏi tin của Thu ?
-Tội nghiệp con tui! Bà mẹ sụt sùi. Thu nó muốn dứt gánh với con từ hồi nó biết nó bị bệnh, để con quên nó đi mà rảnh rang lập lại cuộc sống mới bên Mỹ. Thiệt là hiếm kiếm được một con người như vậy trong thời buổi này. Da nó thì đen, nhưng lòng nó còn hơn vàng đó con ! Chắc giờ này nó chết từ lâu rồi con ơi !
*
* *
Chiếc xe taxi ngừng trước đầu ngõ hẻm quen thuộc.
Vẫn hàng quán cà-phê chật hẹp với đôi hàng ghế đẩu đen đủi, nhưng nay được trang trí thêm với tấm mành bằng nứa. Bà chủ nay là một thiếu phụ trung niên ăn mặc gọn gàng đứng đón khách.
-Thím Năm ! Con tui nè ! Giọng nói của bà mẹ chứa đựng chút niềm tự hào.
-Trời ơi ! Anh Tin biết hông, dì Thảo mấy bữa rày trông anh chừng muốn chết ! Quên tới quên lui đủ mọi chuyện. Giờ anh về rồi, dì khỏi lo nữa. Bữa nào rảnh, mời anh ghé qua em dùng chút la-de củ kiệu, nghe anh !
Cùng với lời mời đon đả, dường như Tin Nguyễn còn nhận ra một nụ cười thân thích kèm theo một khoé mắt đa tình.
Thiệt là một trời một vực so với thời khổ cực 15 năm trước đây của Tin Nguyễn, khi mỗi lần đi ngang qua quán cóc, người thiếu niên không khỏi cảm thấy tủi thân vì cái nhìn khinh miệt của bà chủ quán già nua và bệ vệ thuở đó.
Bước vào gian nhà xưa, Tin Nguyễn để ý ngay tới khung hình đen trắng nay đã gần bạc màu chụp người mẹ thời còn trẻ mặc bộ bà ba xinh xắn đứng bên cạnh một người lính Mỹ da đen mặc đồ trận. Bước lại gần bàn thờ ông bà, anh ta lật ngược tấm hình để tìm dòng chữ nắn nót :
"To Tao, my love. Timmy Kennedy Jr" .
Người cha ruột đã bặt tin khi đứa con của mình vừa tròn một tuổi. Tin Nguyễn chưa bao giờ dám dọ hỏi người mẹ về hoàn cảnh gặp gỡ của hai đấng sinh thành cũng như lý do họ xa nhau. Người thiếu niên sớm vào đời đã hiểu rằng không nên động vào vết thương lòng của bà mẹ khi thấy bà ta lau nước mắt khi ngồi trước tấm hình những đêm khuya mưa gió .
Ngay cả trong những tháng năm thiệt khó khăn sau chiến tranh, mặc dầu cuộc sống hai mẹ con tưởng chừng như khó có được một ngày mai, bà Thảo vẫn lẳng lặng không một lời than thở hay oán trách người cha trước mặt đứa con. Bà chỉ biết ôm lấy nó và siết nó trong vòng tay yếu đuối của bà, như để tự an ủi khi dư luận lên án quá khắt khe mối tình với người lính da màu.
Cho tới một ngày cuối năm 1988, khi có tin Mỹ đang lùng kiếm những đứa con lai bị bỏ lại, bà mới dám đánh bạo nhờ giới trung gian thông thạo thủ tục hành chính cầm tấm hình chụp chung với người tình đã bỏ đi và giấy khai sinh của đứa con mà liên hệ với ban đại diện Mỹ.
 

Trên Ðất Hứa

Những ngày đầu trở về xóm cũ, tâm tư của Tin Nguyễn lúc nào cũng quay quần với hình ảnh của Thu "đen".Hai mẹ con ngồi hàng giờ tâm sự với nhau cho bõ những tháng năm xa cách.
-Con có tin tức gì của ông Timmy không, hả Tin ?
-Không, Má à. Con viết thư kể Má hay rồi đó ! Hai năm đầu con lật niên giám điện thoại tìm tên họ ổng rồi điện thoại cho cả vài chục người trên nước Mỹ mà vô hiệu quả. Có một số người trùng tên họ còn nổi quạu và chửi con nữa chứ ! Phải chi hồi đó tiếng Mỹ con khá như bây giờ thì chắc cũng có người chịu giúp đỡ tìm ra tung tích ổng !
-Tội nghiệp con tui ! Chắc là ổng chết rồi, biết đâu chừng?
-Thiệt là Má có tánh thương người ! Ổng hổng muốn liên lạc với má con mình nữa từ hồi còn ở Việt Nam lận mà.
Chớ lẽ nào bỏ má con mình ra đi không có lấy nửa lời như vậy ! Má nghĩ coi có phải không ?
Ðôi mắt bà Thảo bắt đầu rướm lệ và người con bắt đầu thấy cơn giận trào lên trong mình nên vội nói :
-Thôi Má ơi, mình đừng gợi chuyện cũ chi cho đau lòng. Con về chơi với Má được không lâu, Má đưa con ra trung tâm Sài-Gòn, hai má con mình đi ăn nhà hàng, Má đừng nấu nướng chi cho thêm mệt !
*
* *
Trong những quán ăn nhộn nhịp của thành phố hoa lệ, nhìn những cặp trai gái tụm đầu quanh ly cà-phê hoặc tô phở ngun ngút khói, nhiều lúc Tin Nguyễn thả hồn mình trở về bên Mỹ để nhớ tới Loan, Loan "mắt nai", một cô gái lai Mỹ có đôi mắt to đen tuyệt đẹp mà anh ta đã quen từ hồi còn ở Trung Tâm Chuyển Tiếp ở Việt Nam do Mỹ dựng lên để đón các đưá trẻ lai.Tại đây, hai đứa thiếu niên chung cảnh ngộ đã gặp nhau và thương mến nhau.
Sau một thời gian, Loan được sắp xếp qua tiểu bang Philadelphia , trong khi Tin Nguyễn lấy máy bay đi sang định cư tại tiểu bang California, nơi có một gia đình người Việt đã nhận tiếp đón và hướng dẫn anh ta trong vòng một năm.
Phần vì nhận được trợ cấp xã hội trong năm đầu, phần vì kiếm ngay được việc làm trong một hãng chế tạo linh kiện điện tử không xa nơi trú ngụ, cuộc sống vật chất của Tin Nguyễn đã không còn thiếu hụt như trước nữa và lại có đôi phần dư dả.
Nay anh ta có thể gởi tiền hàng tháng về giúp bà mẹ và có đôi lần đáp máy bay qua Philadelphia để thăm Loan.
Loan đã kiếm được một việc làm quét dọn tại một trung tâm thương mại, lương đủ sống nhưng cô ta than với Tin Nguyễn là bị ông Mỹ bảo lãnh dòm ngó và có lần có cử chỉ xuồng xã nên cô tìm cách rời gia đình này để tránh mối bất hoà với bà vợ ông ta.
Tin Nguyễn liền giới thiệu Loan với xí nghiệp anh ta đang làm việc, một hãng xưởng mà đa số nhân công là những thanh niên nam nữ gốc Việt lai Mỹ.Chỉ ít lâu sau, Loan được thu dụng và rời Philadelphia giá lạnh qua miền California nắng ấm để sống chung với Tin Nguyễn nay đã dọn ra ở riêng.
Những tháng năm sống với Loan có thể nói là quãng đời đẹp nhất của Tin Nguyễn trên đất Mỹ. Nhưng cuộc tình này đúng ra là do hoàn cảnh đưa đẩy hai kẻ cùng chung một thân phận xích lại gần nhau trên một nước định cư còn xa lạ lúc ban đầu.
Cho tới mãi lúc xa Loan sau này, Tin Nguyễn vẫn không tìm thấy được bên người con gái dịu dàng có đôi mắt nai những tình cảm sâu đậm mà anh ta đã có với Thu "đen".
Có những đêm trằn trọc trên giường ngủ trong im lặng khi Loan đã say giấc, anh ta không đè nén được niềm hy vọng mong manh nhưng vẫn tiềm tàng là Thu "đen" còn sống. Phải, một phép nhiệm màu nào đó đã cứu sống người con gái xấu số và nàng đã thoát chết. Hơn thế nữa, trong thâm tâm mình, Tin Nguyễn còn mong mỏi một ngày nào đó, trên mảnh đất quê hương, anh ta có thể gặp lại người tình đầu, dẫu chỉ một lần. Nhưng với Loan, anh ta ấp kín nỗi lòng mình và không bao giờ gợi nhắc tới chuyện tình cũ.
Về phần Loan, phải mất nhiều thời gian và kiên nhẫn nàng mới khám phá ra mối tình đầu của Tin Nguyễn qua sự thọc mạch của người bà con bên nhà có quen biết với bà Thảo.
Tuy vậy, Loan vẫn giữ thái độ im lặng vì nàng đã yêu Tin Nguyễn thực sự.Và đây là mối tình đầu của nàng.
Cho tới một ngày Loan tình cờ tìm thấy một cành hoa ép gần mục nát trong cái va-li cũ rách của Tin Nguyễn chất trên đầu tủ mà nàng mang xuống để phủi bụi.
Tối hôm đó, sau khi rửa ráy để ra dùng cơm tối với Loan, Tin Nguyển sửng sốt khi nhìn thấy cành hoa ép trên bàn ăn cạnh mâm cơm nóng hổi. Mặt anh ta đỏ ửng khi miệng anh ta lắp bắp :
-Em...em tìm thấy ...cái này ở đâu vậy ?!
-Còn ở đâu nữa ! Trong cái va-li cũ rích của anh chớ còn ở đâu ? Người ta đã chết rồi mà anh còn luyến tiếc cái của nợ này làm chi ?
-Em không được nói vậy ! Tiếng thét của Tin Nguyễn đi đôi với một cái bạt tai, tuy không làm Loan đau lắm vì người đàn ông tuy nổi giận nhưng đã kịp nương sức mình.Nhưng điều làm Loan đau lòng là Tin Nguyễn đã hành hung nàng vì nàng đã gợi lại mối tình cũ với mục đích thử thách người nàng yêu.
Ngay sáng hôm sau, đợi Tin Nguyễn rời khỏi căn hộ để đi làm, Loan thu dọn hết quần áo và đồ dùng cá nhân để trú ngụ tại nhà một con nhỏ bạn sau khi để lại cho người yêu vỏn vẹn mấy chữ :"Anh không yêu em.Bye and good luck!"
*
* *
Từ đó, cuộc sống tương đối ngăn nắp của Tin Nguyễn đột ngột chấm dứt. Anh ta bắt đầu nghiện rượu và thích đi đánh bạc với bạn bè. Anh ta cũng đi từ mối tình này đến mối tình khác với ít nhiều dửng dưng.
Ðầu tiên là với Patty Nguyệt, một đồng nghiệp cùng chỗ làm đã đeo đuổi Tin Nguyễn một cách thầm kín từ dạo anh ta mới bước chân vào làm việc. Nguyệt lai trắng, có một thân hình nảy nở làm lác mắt giới đàn ông.Và người thiếu phụ tràn đầy nhựa sống dần dà không còn chịu đựng nổi chứng đi về bất thường của người tình sống chung và cuối cùng cũng đã bỏ anh ta ra đi sau ngót một năm chăn gối.
Sau Nguyệt là Sue, một thiếu phụ Mỹ trắng giữ quày tính tiền trong một siêu thị gần nhà Tin Nguyễn. Nàng dọn tới ở chung và tự động chia đủ mọi chi phí trong nhà một cách thật sòng phẳng. Sue có một loại đam mê chung với Tin Nguyễn : nghiện rượu.Nàng có thể nốc nửa chai Johnnie Walker một hơi mà vẫn tỉnh bơ chuyện trò với anh ta những đêm hè nóng nực. Cũng như Tin Nguyễn, người thiếu phụ đã có một đời chồng này đã lao đầu vào thú giải sầu này sau nhiều lần thất vọng về tình ái. Sue không thích đánh bạc nhưng dễ dàng chấp nhận những lúc vắng nhà của người tình khi bạn bè đến rủ rê Tin Nguyễn đi đỏ đen.
Cuộc tình tạm bợ của hai kẻ thất tình muốn an ủi lẫn nhau kéo dài gần sáu tháng thì chấm dứt một cách phũ phàng. Chính sau một đêm đỏ đen khi trở về căn hộ, Tin Nguyễn đã bắt gặp người tình của mình đang hú hí với một người đàn ông lạ mặt ngay tại phòng khách, trên cái ghế sofa hai người vẫn quen ngồi xem TV.Dáng điệu say sướt mướt của Sue không làm giảm cơn tức giận tột độ của Tin Nguyễn và anh ta chạy như bay vào bếp để trở ra với một con dao dài lưỡi. Người đàn ông xấu số chưa kịp mặc quần áo đã lãnh đủ một nhát dao làm ông ta trọng thương.Nhờ vị luật sư bào chữa giỏi, Tin Nguyễn chỉ bị kết án vài năm tù ở.
*
* *
Những năm tháng ngồi tù của Tin Nguyễn không khủng khiếp như anh ta ngao ngán. Số là chàng thanh niên lai Mỹ vạm vỡ đã có may mắn được một tay cao thủ "bang trưởng" trong đám tù để ý, theo dõi và che chở ngay từ khi Tin Nguyễn mới bước chân vào nhà lao. Sau một thời gian thử thách, anh ta đã trở thành một bộ hạ đắc lực của tay cao thủ này.
Từ đó, Tin Nguyễn được giúp đỡ triệt để, tạo điều kiện để anh được mãn hạn tù sớm hơn dự liệu. Ngược lại, để được yên thân trong tù và sớm tìm lại tự do, anh ta buộc lòng phải cam kết thi hành một số nhiệm vụ sau khi mãn án.
Những ràng buộc này đã hoàn toàn đảo lộn cuộc đời của Tin Nguyễn từ ngày anh ta trở về với xã hội. Ðể che dấu một số việc làm phi pháp, anh ta thay đổi chỗ ở thường xuyên và phải xa lìa đám bạn bè cũ. Tin Nguyễn đã chuốc đổi một cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ với những lo âu nơm nớp mỗi ngày, những đêm dài mất ngủ vì sợ kẻ khác khám phá ra sự thật. Anh ta cũng không còn chút nào hy vọng gặp được một người đàn bà có thể thông cảm với hoàn cảnh của anh và yêu anh thực sự.
Một hôm, để trút gánh nặng tâm thần, Tin Nguyễn bỏ xe hơi ở nhà và leo lên chiếc xe ca du lịch miễn phí do các chủ sòng bài đài thọ để đi Las Vegas đánh bạc. Anh ta ngủ thẳng một hơi trong buổi hành trình tới thủ đô ăn chơi bài bạc nổi tiếng thế giới, nơi mà khách tứ phương có thể đánh bạc thâu đêm.
Chính tại nơi đây, trong một cuộc đỏ đen, Tin Nguyễn đã tình cờ gặp lại Loan "mắt nai". Nàng cặp kè với một người đàn ông đứng tuổi, ăn mặc lịch sự. Tay nàng mang đầy ắp hột soàn. Hai người nhìn nhau một hồi lâu không nói năng trước khi nàng rời thảm đỏ và bước theo chân người đàn ông.
Từ ngày gặp lại Loan, Tin Nguyễn càng cảm thấy cuộc đời mình vô vọng. Anh ta nhớ lại những ngày niên thiếu tại Việt Nam. Dù có khổ cực, anh ta vẫn còn có Má, có Thu bên cạnh.
Khác với những chuỗi ngày dài trước mặt mà anh ta phải một mình đương đầu với bao nỗi khó khăn.
Kể từ đó, tâm tư anh ta trở về thường xuyên hơn với người mẹ lâu năm cách biệt, với cái xóm cũ nghèo nàn đã chứng kiến bao đắng cay của tuổi thơ. Giọng nói ân cần của bà mẹ trong điện thoại không đủ trấn an người con, mà trái lại nó còn có mãnh lực lôi cuốn Tin Nguyễn nhiều hơn trong dự định trở về thăm nhà.Và một ngày, anh ta đã đi đến quyết định lẳng lặng thu xếp mọi công việc trong nhất thời để vắng mặt một thời gian, lấy cớ đi nghỉ mát tại một nơi xa. Ðến giờ chót, anh ta mới cho bà mẹ biết ngày giờ về để bà ta có thể ra đón anh tại phi trường.
 

Ngày Mới

-Tin à ! Tối nay, Má có mời con Trang tới ăn cơm nhà.Mày còn nhớ Út Trang chớ ?
-Nhỏ Trang gánh nước mướn đó hở Má ?
-Ơ`, nó ngừng gánh nước từ lâu rồi.Bây giờ, nó đã 27 tuổi đầu, làm nghề may gia công cho vài tiệm bán áo cưới, có đồng ra đồng vô.Má có biết vài chỗ con nhà đàng hoàng dạm hỏi mà nó không ưng.Con nhỏ thiệt là lạ, gần 30 tuổi rồi mà vẫn ở một mình, không bồ bịch với ai cả, suốt ngày ở nhà may với thêu, tối sáng ra vào lủi thủi như con ma !
-Nó còn gia đình không Má ?
-Nó mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ lận. Một người anh đi lính chết trận, người chị gái cũng chết vì bệnh, má thấy nó thiệt là tội !
Con nhỏ cũng hiền, má sống cũng có một mình nên đôi lúc rủ nó tới nhà ăn cơm tối với Má cho vui. Mà con biết không, Má để ý lúc nào mà nhắc tới tên con, nó có vẻ mất tự nhiên và có điều e lệ nưã...Má chắc nó có cảm tình với con đó ! Chả là nó biết con vẫn gởi tiền về đều đặn để Má khỏi phải đi làm như trước nữa.
-Bộ Má tính làm mai cho con với nó hả ? Thời buổi này, thiệt khó mà biết được lòng người, Má à ! Lần chót nó gặp con để đưa mảnh thư của Thu, nó đứng chưa tới ngực con nữa, vậy mà giờ đây đã 27 tuổi rồi hở Má, thời gian đi mau lẹ quá chừng!
-Rồi mày cũng phải tính tới chuyện lập gia đình cho tao có cháu bồng chứ ? Tao có sống được bao lâu nữa đâu ! Ðàn bà bên đó lơi là quá nhiều, Má nghe nói vậy.Lấy đàn bà bên mình dù sao họ cũng chung tình hơn.Con thấy Má nói có đúng hông?
Tiếng gõ cửa và tiếp theo đó, một bóng người thấp thoáng bước vào khiến hai mẹ con bỏ dở câu chuyện.
-À Trang ! Vô đây đi con !
-Dạ chào dì ! Dạ chào anh Tin mới về !
Giọng nói êm đềm của người thiếu phụ vừa bước vào gợi sự chú ý của Tin Nguyễn. Một gương mặt trái soan với hàm răng trắng đều đặn càng gây thêm thiện cảm trong lòng người đàn ông cô đơn. Út Trang không đẹp hơn những người đàn bà mà anh ta đã từng ôm ấp trong vòng tay, nhưng vẻ đẹp của nàng có nét hiền hậu và giản dị, thích hợp với bộ bà ba màu mỡ gà đang mặc trên người.
Út Trang vui vẻ nói :
-Dì Thảo và anh Tin ngồi nói chuyện, cho phép con dọn cơm ra nghe dì ?
-Ờ, tối nay tao để mày lo nghe Út !
Nghe hai người nói chuyện một cách thân mật, Tin Nguyễn cảm thấy vui vui trong lòng và anh hiểu được là dù anh ở xa bà mẹ, bà ta cũng không đến nỗi quá cô đơn những lúc ốm đau.
Bữa cơm thịnh soạn do bà Thảo công phu nấu từ ban sáng trong chốc lát đã được bàn tay lanh lẹn của Út Trang dọn lên và được thưởng thức trong bàu không khí gia đình ấm cúng.
-Nè Út, nghe tao hỏi ! Có bao giờ mày nghĩ mày sẽ một ngày đi qua Mỹ sống không ?
Út Trang lưỡng lự vài giây trước khi trả lời :
-Ôi dì ơi ! Con hổng có ham đâu ! Con có người quen có thân nhân bên Mỹ nói là bên đó làm cực muốn chết thôi ! Kiếm cũng khá nhưng sài cũng bộn, tiết kiệm hổng được bao nhiêu. Có phải vậy hông anh Tin ?
Tin Nguyễn đang lưỡng lự chưa biết trả lời ra sao thì Út Trang ngon trớn nói luôn một hơi :
-Con hổng có mong gì giàu sang đâu, dì ơi ! Miễn đủ miếng ăn là được rồi. Ðầu tắt mặt tối, con hổng có ham ! Bây giờ, nước mình dễ thở rồi, con đang để dành tiền, ít năm nữa là con sẽ có đủ vốn để mở một tiệm may áo cưới, dì à .
-Rồi lúc đó mày sẽ bận bù đầu, đó con ! Còn thời giờ đâu nữa mà nghĩ tới chuyện chồng con ? Bộ mày tính ở vậy suốt đời, hả con ?
Câu hỏi đột ngột của bà Thảo khiến Út Trang có vẻ lúng túng, má cô ta hơi ửng hồng làm tăng thêm vẻ duyên dáng của khuôn mặt. Sau một hồi, Út Trang mới chậm rãi trả lời :
-Dạ...dì cũng biết là con...chưa gặp được ai yêu con thật tình, thưa dì.
Ðôi mắt cô ta nhìn dí xuống sàn nhà như để tránh cái nhìn của Tin Nguyễn.
Ðánh tan sự im lặng, anh ta đánh bạo cất tiếng nói :
-Anh về chơi thăm nhà kỳ này không được lâu. Anh có ý mời Má đi hóng biển nghỉ mát vài ngày ở Vũng Tàu, từ nhỏ tới giờ Má chưa ra biển lần nào, anh nghe nói Vũng Tàu cũng đẹp và yên tịnh, chớ không ồn ào như ở Sài-Gòn. Phải chi Trang thu xếp được mà đi chơi chung thì vui biết mấy !
Một niềm vui thoáng hiện trên khuôn mặt cô gái :
-Dạ, em dạo này công việc có hơi bề bộn, nhưng em sẽ ráng thu xếp. Cũng đã lâu rồi, em chưa lấy ngày nghỉ nào. Ðể tối mai, em sẽ cho dì và anh hay.
Sau khi Út Trang về, tối hôm đó, Tin Nguyễn lên giường và dễ tìm vào giấc ngủ hơn bao giờ hết. Ðã từ lâu lắm, không biết từ hồi nào, anh mới dễ ngủ như vậy.
*
* *
Sáng hôm sau, còn đang mơ màng trên giường và hưởng những giây phút sảng khoái của một giấc ngủ đầy đủ, Tin Nguyễn đã nghe tiếng bà Thảo từ ngoài vọng vào :
-Dậy chưa con ? Mười giờ rồi đó ! Sáng nay, Má muốn con dẫn Má đi Tây-Ninh chơi, chiều tối mình về.
-Uả, Má có việc gì ở Tây-Ninh lận ? Có xa quá không Má ?
-Xa thì cũng không xa lắm đâu, mà việc thì cũng không phải hẳn là việc...
Thấy vẻ mặt thắc mắc của đưá con, bà Thảo mới ngồi lại cạnh giường và giải thích :
-Ði coi quẻ ! Má có chỗ quen cho biết một ông thầy coi quẻ ở gần Tòa Thánh, ổng linh lắm, coi cho ai cũng đúng trúng phóc! Nhân tiện mày về đây chơi, mày đi với Má cho biết !
Nể lời bà mẹ, Tin Nguyễn ngóc đầu dậy, đi rửa mặt và ăn sáng trong khi bà Thảo vô bếp lo thức ăn nước uống dọc đường.
Chiếc xe ca chở đầy ắp khách du lịch ngừng ở bãi đậu không xa Toà Thánh Cao Ðài, một toà nhà đồ sộ tọa ngự trên một mảnh đất rộng lớn.Trong khi khách thập phương sắp hàng nối đuôi nhau vào xem Thánh thất, bà Thảo đã nhanh chân với gọi một chiếc xe taxi để đến địa chỉ của ông thầy tướng số.
Sau khi chờ đợi tới phiên mình, hai mẹ con bước vào một căn buồng nghi ngút khói nhang.Trên tấm chiếu rộng trải giữa căn buồng, một ông lão đôi mắt đã mù, đeo kính đen, với nụ cười nhân hậu, lên tiếng hỏi :
-Tui coi cho ai đây ? Nam hay nữ ?
Tin Nguyễn không khỏi ngạc nhiên khi thấy bà mẹ đáp :
-Dạ, nam thưa thầy !
Sau khi hỏi ngày sinh tháng đẻ cuả Tin Nguyễn và nói chuyện với anh ta đôi ba câu đồng thời mân mê đôi bàn tay và rờ rẫm khuôn mặt của người khách, ông thầy tướng bèn chỉ Tin Nguyễn ống quẻ nằm trên chiếu và mời anh ta rút ra một cây quẻ bằng gỗ mun, trong khi miệng ông ta không ngớt lâm râm như người niệm chú.
Cầm lên tay cây quẻ vừa rơi ra, ông lão trầm ngâm một hồi lâu rồi mới chậm rãi nói từng tiếng một :
-Gặp tri kỷ, gặp tri kỷ. Ăn đời, ở kiếp .
Ông ta chỉ nói có bấy nhiêu và lập lại rõ ràng ba lần.
Bà Thảo cố nài nỉ và hứa tặng thêm bao nhiêu tiền, ông lão cũng từ chối giải thích thêm.
Trên đường về, bà Thảo an tâm nói với đứa con :
-Thôi, thế là Má mừng cho con ! Má vẫn biết là con Trang nó ngoan. Nhưng số con lận đận về tình duyên nên mới phải dắt con tới coi ông thầy. Như vậy là Má vững dạ rồi.
Mong cho con Trang nó thu xếp được công việc mà đi chơi vài ngày cho tụi mày có dịp quen biết nhau.
*
* *
Rời bãi đậu trên bến Sài-Gòn, chiếc tàu cánh ngầm hiện đại mở tốc độ, trực chỉ hướng ra biển nhằm đưa khách du lịch đến Vũng-Tàu trong vòng một tiếng đồng hồ.
Chiếc tàu mau chóng vượt qua những khu dân cư đông đúc sống ven sông tại Thủ Thiêm, Xóm Chiếu, rồi đi ngang qua các bến cảng Tân Thuận Ðông, Bến Nghé đang được khuyếch trương để đón các tàu chở hàng. Càng tiến về cửa biển, xuất hiện xa xa các rừng đước thấp lè tè và dầy đặc bên hai bờ sông.
Mải mê nhìn cảnh vật, Tin Nguyễn chưa kịp uống hết chai nước suối nội địa do cô tiếp viên trao tận tay cho mỗi hành khách, thì tầu đã hãm bớt tốc độ để chuẩn bị lướt vào bãi đậu tại mé biển.
Vũng-Tàu, thành phố nghỉ mát của dân Sài-Gòn và đồng thời cũng là căn cứ hậu cần của một số công-ty dầu khí đang hoạt động ngoài khơi, trước kia chỉ là một thị trấn nhỏ gồm vài làng đánh cá đã ra đời sau khi vài chiến hạm (tầu lớn) của triều Nguyễn phái vào Nam để mở mang đất đai, đã bỏ neo tại vịnh nước sâu này.
Thời Pháp thuộc, mang thêm cái tên Ô Cấp (từ chữ Cap Saint-Jacques mà ra), Vũng-Tàu biến thành một thành phố nghỉ cuối tuần cho người Pháp và giới thượng lưu Sài-Gòn thời bấy giờ sau khi một số dinh thự, toà nhà hành chính, thánh đường và nhiều ngôi biệt thự cao ráo và trang nhã được xây cất chung quanh trung tâm thành phố.
Tại bãi đậu tầu cánh ngầm, Tin Nguyễn mướn một xe taxi để đi tham quan thành phố, từ Bãi Trước ra tận Bãi Sau.
Sau một hồi ngẫm nghĩ, bà Thảo chọn một khách sạn mini ở Bãi Dưá nằm ngay ven con đường cái chạy dọc theo bờ biển.
Trong khi đứa con vác hành lý và lo lấy phòng, bà Thảo và Út Trang bước lên bao-lơn để ngắm bãi biển trắng xoá đang đón những tràng sóng nối đuôi vào một cách đều đặn. Bên kia đường, có một quán ăn có vẻ khang trang, bên dưới là vài dãy ghế bố đặt ngay tại bờ biển cho khách.
Bà Thảo mỉm cười nói với Út Trang :
-Thôi, hai đưá chúng mày đi chơi với nhau đi nghe ! Tao chỉ muốn ngồi ghế bố, nhai đậu phộng rang mà ngắm biển, cũng đủ sướng rồi !
Sau khi tắm rửa qua loa, Tin Nguyễn mướn một chiếc xe gắn máy ngay tại khách sạn để Út Trang chở mình đi chơi hóng mát dọc bờ biển.
Ngồi đằng sau trên nệm xe, gió mát rượi và những sợi tóc dài của Út Trang lất phất vào mặt mình mang lại cho Tin Nguyễn những cảm giác êm dịu anh chưa từng có trong đời.
*
* *
Ba ngày vui nghỉ đi qua mau chóng.
Từ sáng cho tới gần tối trời mỗi ngày, đôi nam nữ không ngừng dạo xe dọc con đường cái dẫn từ Bãi Sau chạy cho tới miệt Bà-Rịa, băng qua những làng đánh cá ven biển, ngừng chân nghỉ tại các quán ăn hải sản ven đường, thả mình trên ghế bố tại bãi cát để ngắm mặt trời lặn.
Có Út Trang bên cạnh, Tin Nguyễn có cảm tưởng như mình đang sống lại. Anh ta băn khoăn tự hỏi rằng liệu mình có thể tiếp tục sống trở lại bên Mỹ được chăng ? Anh ta biết rằng khi rời Việt-Nam để trở về bên ấy, anh sẽ mang trong tim mình nụ cười hiền hòa và vui tươi của người thiếu phụ Sài-Gòn đã dành cho anh những tình cảm trìu mến và ý nhị từ ngày đầu mới gặp.
Tại thành phố nghỉ mát này,bên cạnh những cỗ súng thần công đúc từ thế kỷ 19 tại Bồ-Ðào-Nha, dưới những cành hoa đại màu trắng của tòa nhà Bạch-Dinh (Villa Blanche) xây cất thời Pháp thuộc (nay là một viện bảo tàng của thành phố), tọa ngự trên một đỉnh đồi dòm ra Bãi Trước, người thiếu phụ đang chờ đợi một ý trung nhân đã đón nhận nụ hôn đầu tiên trong đời mình.
Qua sáng ngày thứ tư, sau khi chở bà Thảo ra chợ mua chút hải sản làm quà cho bà con ở nhà, Út Trang lại chở Tin Nguyễn đi chơi lần chót trước khi từ giã Vũng-Tàu. Ngừng xe bên lề đường để người bạn trai chụp hình một tư gia hoành tráng 5 tầng lầu, xây cất kiểu tân thời nằm ngay ven đường, Út Trang xõa tóc nghỉ ngơi chốc lát và không nhìn thấy Tin Nguyễn đang loay hoay lùi dần ra đường, mắt còn dán kín vào ống máy hình. Tiếng hãm phanh của chiếc taxi vừa chồm tới làm Út Trang hoảng hốt ngoảnh đầu lại nhìn người bạn mình kịp thời tránh khỏi bị đụng. Chợt nghe Tin Nguyễn la thất thanh :
-Trời ! Thu ! Thu ! Phải Thu đó không ?
Chiếc taxi bỗng rồ máy và phóng mình thiệt lẹ đến độ Tin Nguyễn không kịp bước lại gần cửa xe, nơi một phụ nữ đang ngồi.
Có thể vậy sao ? Thu "đen" còn sống ? Con người ngồi đàng ghế sau chiếc taxi trông thiệt giống Thu và làm Tin Nguyễn đứng như trời trồng giữa con đường cái tấp nập. Một chiếc xe tải chạy quá tốc độ ấn định từ phiá sau lướt tới và RẦM ! ! !
Tin Nguyễn có cảm giác như trời vừa sụp xuống đầu mình, tấm thân anh ta bay bổng lên không trung và anh ta bất tỉnh trong khoảnh khắc.
*
* *
Khi mở mắt ra, cơn đau nhói khắp thân mình làm anh ta bừng tỉnh. Tin Nguyễn ngỡ ngàng nhận ra thân mình được bó trong mớ băng trắng từ dưới nách xuống mãi tận chân trái.
Thấy con đã tỉnh dậy, bà mẹ lật đật đến gần giường và thốt ra :
-Ôi, mày tỉnh tao mừng muốn chết ! Ðã ba ngày miên man rồi !
-Út Trang đâu hả Má ? Tin Nguyễn gượng gạo hỏi. Anh ta có
cảm giác như cái miệng cũng thấy đau.
-Nó về Sài-Gòn rồi. Bác sĩ nói là không đỗi nguy tới tánh mạng.Vả lại, nó còn công chuyện bề bộn, đâu thể bỏ ngang được.
Nghe tiếng ồn ào nói chuyện, một vị bác sĩ mặc áo trắng bước vào và ôn tồn nói với Tin Nguyễn :
-Anh bị gẫy ba xương sườn, một cẳng trái, máu ra rất nhiều song có điều may là được tiếp máu ngay tại chỗ trên xe cứu thương. Cô Trang là vị ân nhân của anh đó nhe !
Sau khi khám xong Tin Nguyễn, ông ta nói :
-Như chúng tôi đã chẩn đoán khi anh còn mê man,không có gì nguy ngập cả. Chúng tôi muốn giữ anh lại bệnh viện thêm hai ngày nữa, sau đó nếu không có điều chi trục trặc, sẽ cho anh xuất viện.
Sau khi vị bác sĩ ra khỏi phòng, bà Thảo kiên nhẫn giải thích cho đứa con biết là sau khi tai nạn xẩy ra, anh ta mất nhiều máu đến độ xe cứu thương còn không đủ lượng dự trữ để tiếp máu cho anh, may thay Út Trang có loại máu thích ứng nên anh ta đã được truyền máu kịp thời tại chỗ trước khi chuyển vào bệnh viện.
Tin Nguyễn chợt nghĩ ra đây là lần thứ hai trong đời anh ta thọ ơn một người đàn bà. Lần đầu, đối với Thu, người tình cũ.
Nay, đối với Út Trang, người anh ta mới yêu. Vận mạng thiệt là trớ trêu !
Cắt dòng suy nghĩ của đứa con, bà Thảo giơ ra một mảnh giấy nhỏ và nói :
-Con Trang nó nhanh mắt ghi lại số xe taxi chở người đàn bà mà mày nghĩ là con Thu. Mà có phải con Thu thiệt chăng hay là mày nhìn lầm ?
Ðầu óc Tin Nguyễn bỗng nổi đom đóm, anh ta nhắm nghiền hai con mắt để cố hình dung lại khuôn mặt người đàn bà, nhưng anh không dám quả quyết rằng người đó là Thu... Một khuôn mặt từng hồi lấn áp cái hình ảnh của người đàn bà : đó là khuôn mặt của Út Trang.
Chỉ có một cách duy nhất để tìm ra sự thật : đó là truy ra tông tích của người đàn bà qua người tài-xế taxi.
Nhưng nếu người ấy thật sự là Thu, thì Tin Nguyễn và Thu sẽ xử sự ra sao với nhau ? Chắc Thu đã lập lại cuộc đời sau 15 năm xa cách...Và Tin Nguyễn sẽ xử sự ra sao đối với Út Trang, người anh ta bắt đầu yêu và cũng là ân nhân cứu mạng của anh ?
Câu nói khó hiểu của ông thầy tướng số bỗng hiện ra trong tâm trí Tin Nguyễn. Ai là người tri kỷ ? Ai ? Thu "đen" hay Út Trang ?
Một ngày mới bắt đầu trong cuộc đời của Tin Nguyễn, đầy đắn đo và run rủi. Liệu anh ta có tìm được hạnh phúc tại bước ngoặt của cuộc đời mình hay chăng ?
Từ khoé mắt người đàn ông, hai giọt nước mắt bắt đầu chảy xuống khuôn mặt đăm chiêu.
Người mẹ tiến lại gần, lau nhẹ giọt nước mắt cho con và buông một tiếng thở dài.
7/4/2007
Ðỗ Phong Châu
Theo http://chimviet.free.fr/

Hành hương Yên TửXXXX

Hành hương Yên Tử

Dậy 5 giờ rưỡi sáng
Ăn sáng 6 giờ: Khách sạn có soạn bánh mì croissant bơ, nhưng chúng tôi ăn le lẹ đĩa bánh cuốn, thấy xoàng xoàng nhưng no bụng.

Ra phòng khách đã thấy 2 vợ chồng K, chi. N, chi. B.T, chi. B D, cũng dân Hà thành, đứng chờ, với vợ anh tài xin phép cùng đi hành hương.
Cuộc hành trình được định như sau: Thăm Yên Tử, thăm Trúc lâm thiền viện, thăm Côn Sơn, quê của Nguyễn Trãi và thăm Kiếp Bạc, đền thờ Trần hưng Đạo.
Yên Tử cách Hà nội khá xa, trên đường đi Hạ long . Chúng tôi phải đi sớm vì thiên hạ bắt đầu đi làm hồi 7 giờ sáng, đi trễ sẽ kẹt xe khó khăn, đi sớm một tí sẽ thoải mái hơn . Chị M sẵn sàng hoa quả, hương nến, bia nước để cúng vái và ăn dọc đường. Sau 3 giờ rưỡi lặn lội, chúng tôi đến vùng Yên Tử.
Theo lệ làng, chúng tôi tới đền phường để trình Tiền hoàng, xin các ngài cho phép đi thăm, nhưng đền đóng cửa thành chúng tôi đi thẳng vào vùng. Đường đi quanh co nhưng ít xe cộ, băng qua vài làng nhỏ, tiến tới chân núi. Phong cảnh hai bên bắt đầu thay đổi, chúng tôi không thấy ruộng nương nữa,mà qua rừng tùng cao ngất rồi len lỏi giữa rừng trúc xanh rờn, lung lay xào xạc trước gió.
Cách đây cũng không lâu lắm, khách hành hương phải lội bộ chật vật từ chân núi lên chùa Hoa Yên, khó nhọc lội qua mấy rạch nước, suối nước trong veo, mà truyền thuyết kể rằng có cả trăm người cung nữ không được phép theo hầu vua Trần nhân Tông đã, đã trẫm mình dưới suối. Bây giờ đã có cáp cheo, đưa du khách lên núi, gần chùa Hoa Yên, cao chừng 1000 mét. Trạm cáp cheo được kiến trúc theo kiểu chùa rất đẹp, rất rộng và rất sạch. Vé đi mỗi người là 50000 đ, tức tương đương bằng 10 bát phở, theo giá bên Pháp là 10 x 35 quan tức 350 quan khứ hồi cáp cheo, tôi cảm thấy khó chịu, dù là đỡ khó nhọc leo núi,dù là có cô bé xinh xắn cúi rạp đầu chào, vì tôi nghĩ giá cả như vậy chỉ dành cáp cheo cho khách ngoại quốc dùng mà thôi, thảo nào mà hôm nay chỉ có chúng tôi 9 người, mấy khách hành hương kia chọn leo núi đường bộ. Như vậy quả thiệt thòi cho người trong nước, có đóng góp mà không được hưởng. Ngoài ra, ít người đi thì làm sao sinh lợi được, thà xuống giá vé cho nhiều người mua may ra không lỗ.
Chùa Hoa Yên là chùa cổ đầu tiên, ở lưng trừng núi. Đằng trước có cái lăng thờ đức Trần nhân Tôn, tức Trúc lâm sư tổ, rất là giản dị, nhưng uy nghi, với hai cây đại cổ rất đẹp, khiến tôi tưởng nhớ đến lăng Gia long ở miền Trung, cũng oai nghi, tĩnh mịch, không rườm rà,gây nên sự tôn kính nể phục .Tôi cũng tưởng tượng đến mùa xuân, cây đại bùng nở rực rỡ hoa trắng um tùm sau tường, cảnh vật sẽ đẹp đẽ đến chừng nào . Chùa gồm có mấy căn nhỏ bé thờ chư Phật tam bảo cùng các sư tổ, và một cái sân rộng đang được tu bổ. Chúng tôi xin mượn vài cái đĩa, đặt hoa quả, bánh nước rồi đốt huơng cúng .
Sau đó, chúng tôi sửa soạn leo núi . Những kẻ còn lại, người mang túi hương hoa, người vác bị nước, người chống gậy, phình phổi hít mạnh, bước chân cùng nhau leo núi.
Đường lên núi có thang đá ghép xi măng, khá chắc, tuy lúc trời mưa có lẽ sẽ trơn tuột . Đường quanh co, lúc lên lúc xuống, hai bên chi chít trúc xanh cao gần 2 thước, gió lay xào xạt.Đi được một chút đã bắt đầu thấm mệt, may mà K có cho mượn cây gậy để chống đi cho chắc. Đường đi khá sạch, cứ mỗi 20 mét lại có đặt một thúng để rác . Tuy vậy tôi cũng bắt gặp vài chai lọ plastic vứt lề đường, thấy ngứa mắt, tôi cũng nhặt và vứt vào sọt rác.Đi một chút, mồ hôi đã ra ướt áo . Chị N hơi lảo đảo, được chị tài biếu cây kem, ăn xong tỉnh cả người ra . Chị ấy khoe cái gì cũng lơ làng, chỉ thích ăn phở và ăn kem . Tôi tự nhắc khi về Hà nội phải rủ chị ấy đi ăn phở cùng cho vui .Mấy người kia đi trước không biết nói chuyện gì, vợ chồng anh tài đi hành hương chuyến này có lẽ để cầu xin bán được nhà, mua nhà khác cho hên hơn, vì mấy năm nay làm ăn không khá gì lắm, còn hai chị em B T BD và vợ tôi chắc đang tranh luận về Phật pháp.
Chẳng mấy chốc tới chặng đầu tiên là chùa Hang, còn gọi là chùa một Mái . Một mái vì chùa là một nửa căn nhà gỗ, với một mái bên, 2 cửa sổ,bề sâu chừng 2 mét, sàn bằng gỗ, được gắn sát sườn núi, đi vào phải khom đầu, thận trọng, sợ chùa lay động rớt xuống vực thẳm . Tôi chắc chùa được cất ở đây vì có một cái suối nhỏ chảy vào một vãnh nước trong khối đá,mà người ta gọi là giếng tiên, trước khi tràn đi nơi khác. Trong chùa có một bàn thờ nho nhỏ, với tượng Phật gỗ sơn vàng, bát hương và cái đĩa đựng vài tiền giấy cúng dường. Trong cùng, trong bóng tối, hình bóng một người đàn bà ngồi chờ khách mua hương hoa nước uống . Thấy vãnh nước tôi mừng quá, dùng gáo múc chút nước lau mặt cho đỡ mệt . Tuy khát nhưng tôi không giám uống, dù là suối tiên, dù có trong vắt, vì tôi còn nhớ các cụ căn dặn rừng xanh nước độc, uống vào động dại lên rừng ; lên rừng đã chót, chớ động dại!
Càng lên, đường lối càng khó khăn, tuy người ta đã xây sẵn những trạm nghỉ là những sân đá hoặc sân xi măng nho nhỏ. Thường thường cũng nơi này, có cô bán hàng với cái quầy đựng kẹo nước, thuốc lá, hương hoa, bánh trái. Hỏi mang nhiều đồ như vậy có khó nhọc lắm không thì cô ta trả lời mỗi ngày mấy chuyến đó ạ. Một mình như vậy không sợ ma hay người ta bắt à? thì cô ấy cười xòa trả lời không sợ. Thấy người ta khó nhọc như vậy để được dăm ba đồng tôi cũng cảm thương, tuy rằng lon bia từ 3000 đ leo vọt lên 20000 một cách tự nhiên.
Thôi kìa, mình tới chùa Bảo Sái rồi đấy! Chùa Bảo Sái mà có người còn gọi là chùa Bảo Xác khá đẹp, có mấy từng, và mấy sân lát gạch, đặt đầy chậu cảnh. Chùa này do học trò của Trần nhân Tôn là sư Bảo Sái dựng. Chùa đẹp, cách đây không lâu, là nơi đóng phim Indochine đã đoạt giải Oscar. Đứng tựa lan can, nhìn thung lũng phía dưới xanh rờn, với những mái nhà con con, dòng sông nho nhỏ, thấp thoáng qua đám mây dưới chân, am hiểu được cái thú vị của đời sống ẩn dật người xưa . Tại hậu viện cũng có một giếng nước trong. Múc gáo nước đổ lòng tay xoa lên mặt sao mà sảng khoái thế . Một bia nho nhỏ ghi lại công đức ngài Bảo Sái tu hành chốn này, góp phần gây dựng Thiền tông Việt Nam.
Rồi lại tiếp tục leo.
"Cô ơi cô, đường lên chùa Đồng còn xa không cô?
"Thưa bác, cũng còn cả giờ đấy ạ!" cô hương khách đang xuống thang tinh quái trả lời
Một giờ nữa cơ à? Thật khổ cho thân tôi...
Đường đi càng ngày càng xấu như muốn thử thách khách hành hương. Mỗi lần ngửa mặt lên có cảm tưởng chẳng bao lâu nữa nhưng sao mỗi lần chân mình bước tới, lại cảm thấy đỉnh núi nó lại lùi đi một quãng ?
A đây có cái trạm, có cả bộ đọi cơ đấy, họ lảm gì ở đây nhỉ ? Có lẽ để cấp cứu khách hành hương té gẫy chân, bể đầu đấy, liệu mà cẩn thận. Họ có nước lạnh, có nên mua không nhỉ? Mình vẫn còn mà, chút nữa xuống núi hãy hay, bây giờ mang thêm nặng chết.
Lại trèo.
Bây giờ bực thang là những tảng đá to nằm ngổn ngang trên vách núi. Không trèo nữa mà nhẩy từ cục đá này lên cục đá khác . Ấy chà, coi chừng té đấy . Đường đi không rõ ràng lắm, đi đằng trước hay ngoẹo bên phải ? Ngoẹo phải đấy, trên cục đá họ có chét một bãi xi măng sỏi để mình đi cho chắc, và có lẽ để mình nhận ra lối đi.
Mỗi bước đi là mỗi bước trong tỉnh thức, không có thì té lăn xuống núi . Mình chăm chú từng bước, không còn nghĩ gì khác.
Xa xa vẳng lại tiếng chuông leng keng . A sắp tới thiệt đấy.
Đây là hòn đá hình người . Kia là chùa Đồng .
Nói là chùa cho nó hay ho, chứ thật ra là hai cái am nhỏ . Một cái có vẻ xưa rồi, bằng đồng, có lẽ đã từng siêu vẹo vì được củng cố lại bằng hai bức tường xi măng, chính vị có tượng đòng thờ đức Trần nhân Tôn. Cái kia hình như mới làm, cũng tượng Phật, cũng giàn chuông treo gió thổi reo leng keng . Nghe nói ngày xưa,chùa Đồng, còn gọi là chùa Thiên Trúc, nổi tiếng đẹp, nhưng bây giờ có vẻ điêu tàn.
Mọi người thắp hương, đặt hoa lên cúng rồi lần lượt đảnh lễ, cung kính với người xưa đã từng 3 lần đuổi quân Mông xâm lược, bang giao với Chiêm thành mở rộng phía nam đất nước, rồi lặn lội về Yên tử phổ biến Phật pháp.
Từ đỉnh núi,nhìn lên trời đất bao la,nhìn dưới rừng núi trùng trùng điệp điệp,mình có cảm thú say sưa khó tả.
Máy hình thi nhau chụp, để chứng minh kỷ niệm hãn hữu, vì có mấy ai muốn đi lại cuộc hành hương quá chật vật này.
Bây giờ chúng tôi xuống núi.
Cứ tưởng xuống núi thoải mái, đâu ngờ xuống núi còn khó hơn lên . Bước lên là bước tự động, bước xuống phải cẩn thận hơn, vì dễ trượt chân,dễ chóng mặt . Chân lại mỏi rồi, không khoan thai, dẻo dang nhẹ nhàng như khi lên núi . Ái chà, chuột rút, chuột rút, đau quá, buốt cả đùi, nguy quá, không biết có xuống nổi không . Tôi đi chậm lại, mấy người đi trước quay lại ngóng nhìn . Khi ngừng buốt lại lan đến chân, thôi thì cố đi, rồi nghỉ tại trạm, vả lại quá ngọ rồi đấy, bụng đã reo, nghe nói họ có phở có mì.
Tới trạm tôi mừng quá, vì chuột rút vẫn còn đau. Anh chàng chủ quán tươi cười mời mọc.
Mấy bà rủ nhau ăn mì ramen, mì chay đấy, cũng 5 ngàn một bát, chỉ có hành,mì và nước . Tôi thì khát quá, liều gọi một lon bia, bụng cũng lo lo chỉ sợ chóng mặt vì uống bia bụng rỗng.

Uống bia ở Việt Nam là một thú vui cần thiết cho tôi. Húp từng ngụm bia vừa ngọt ngọt, vừa đăng đắng, mùi bia xông lên mũi, kích thích mấy tế bào cảm thọ trong mũi, gây sống lại những cảm giác khoái lạc, rồi nuốt qua cổ, mát rượi ở nơi ngực, là cả một hương vị khó tả. Phải uống bia Việt Nam, chứ không uống bia Âu châu, ngon nhất không phải là bia chai, bia lon, mà là bia hơi, rẻ nhất, bình dân nhất, mà là bia hơi Hà Nội chứ không phải bia hơi Sài gòn. Uống bia ăn đồ nhậu như củ kiệu, tôm khô quả là sướng, nhưng sướng nhất vẫn là lúc hì hụp tô phở hay nhấm nháp mấy miếng thịt ba rọi chấm mắm tôm chua, hay nước mắm nhĩ gừng ớt .
Tôi ít khi uống bụng rỗng, may có vợ hiền tinh ý nhượng cho nửa bát mì chay . Ăn xong thấy khoẻ khoắn, yêu đời thêm lên .
Chết chửa, đã gần giờ rưỡi rồi đó, phải đi ngay .
Thế là đứng dậy tiếp tục xuống núi, cùng vợ chồng K lấy cáp cheo về trạm.
Trưóc khi rời Yên Tử, chúng tôi thăm Thiền viện dưới chân núi . TV Trúc Lâm do Hoà thượng Thích Thanh Từ quyên tiền Phật Tử, trong nước cũng như ở hải ngoại, xây cất xong năm 2003 . Đó là một công trình lớn lao làm thầy có thể hãnh diện, ai nấy đều công nhận thầy là hậu huệ của các tổ sư Trúc Lâm, và mong mỏi thầy làm sống lại Thiền học nơi cội rễ . Thiền viện trước có chánh điện, sau có thiền đường,chung quanh là vườn với rất nhiều chậu cảnh . Chánh điện rất rộng và cao, trang trí rất giản dị và thanh lịch, với một tượng lớn sơn son thiếp vàng, cao chừng 2 mét, bốn cột gỗ lớn treo 4 câu đối, một bàn lớn với hương hoa và chậu cảnh. Thiền đường, rộng, cao, và tĩnh mịch. Ở hậu viện có vài tháp thờ các tổ sư trên một mu đất.
Chúng tôi xụp lạy nơi chánh điện rồi lên xe đi thăm Côn Sơn.
Đức Bổn
Theo http://chimviet.free.fr/

XXXXNgày Tết nghĩ về "Ngũ thường" trong tâm thức Việt

Ngày Tết nghĩ về "Ngũ thường"
trong tâm thức Việt

Một mùa xuân lại về trên đất nước ta. Chào Xuân Ất Mùi 2015. Như vậy là bốn mươi cái tết đã đến kể từ sau khi đất nước thống nhất. Mùa xuân trời đất giao hòa, vạn vật tốt tươi, cây trái đâm chồi nẩy lộc, hoa tươi khoe sắc với đào hồng xứ Bắc và mai vàng phương Nam. Xuân về, lòng người hân hoan, tạm quên đi những lo toan thường ngày. Những chuyến xe xuôi ngược đưa khách bộ hành về quê sum họp cùng gia đình với bao cảm xúc. Không khí hối hả của thời khắc cuối năm đã làm cho đứa con xa xứ càng nôn nao mong chóng được chạy ùa về nhà, bên những người thân đang mong đợi để cùng tiễn đưa năm cũ đón mừng năm mới. Và rồi mong đợi cũng đã đến khi Chúa Xuân về chạm ngõ khắp nơi. Chuông đồng hồ đổ, báo Giao thừa. Mọi người trong gia đình quây quần cùng nhau bên mâm cỗ với những lời chúc tốt đẹp. Các cụ cao niên bên bàn trà nhắc chuyện tết xưa và đàm đạo về "ngũ thường" trong tâm thức Việt.  
1. Vài nét về "ngũ thường" và tâm thức Việt
"Ngũ thường" là năm điều thường có, hằng có của con người. Đó là: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân tức lòng thương người, thương muôn loài, lòng từ thiện. Nhân là căn bản của đạo làm người. Người có lòng nhân thì lúc nào cũng được an vui, hạnh phúc. Nghĩa là đạo nghĩa, là cách cư xử theo lẽ phải, đạo lý. Trong xử thế, nghĩa quan trọng nhất, giúp đưa con người đến đạo đức. Lễ tức lễ nghi, hiểu rộng ra là sự tôn trọng, hòa nhã trong giao tiếp với mọi người, là phép tắc tốt đẹp trong xử thế, thể hiện sự tôn nghiêm trật tự, hòa hợp trong suy nghĩ và hành động. Trí tức trí tuệ, chỉ khả năng nhận thức. Trí giúp hiểu biết rõ ràng và hành động tránh được sai lầm. Tín là sự tin tưởng, niềm tin, con người phải sống thật thà để mọi người tin mình. Tín rất quan trọng, thể hiện giá trị nhân phẩm của con người (uy tín). Trong lịch sử dân tộc, "ngũ thường" hình thành từ thực tiễn cuộc sống, qua quá trình hoạt động, giao tiếp giữa người với người, trở thành những vấn đề thường thức trong ứng xử. Đến thời phong kiến, do ảnh hưởng của Nho giáo, "ngũ thường" được nâng lên thành 5 đức tính của bậc chính nhân quân tử. Ngày nay, những chuẩn mực đạo đức này mặc dù có thay đổi về nội hàm nhưng các giá trị của nó vẫn được xã hội trân trọng.
              "Tâm thức, đôi khi được gọi tắt là tâm, là từ chỉ chung cho các khía cạnh của trí tuệ (intellect) và ý thức (consciousness), thể hiện trong các kết hợp của tư duytri giáctrí nhớcảm xúcý muốn và trí tưởng tượng; tâm thức là dòng ý thức. Nó bao gồm tất cả các quá trình có ý thức của bộ não. Đôi khi, trong một số ngữ cảnh, nghĩa của từ tâm thức còn bao hàm hoạt động của tiềm thức con người."[1] Ở góc độ là những hoạt động của tiềm thức con người, tâm thức Việt trong bài viết này chỉ những hồi tưởng qua các bài học văn hóa ở Quốc văn giáo khoa thư, được nhiều thế hệ thuộc nằm lòng như nhà thơ Giang Nam đã tự sự trong bài Quê hương: "Thưở còn thơ ngày hai buổi đến trường. Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ...". Trang sách nhỏ mà tác giả nói đến là cuốn Quốc văn giáo khoa thư. Tâm thức Việt còn là những ký ức về gương sáng của các anh hùng dân tộc, anh hùng mở cõi, danh nhân văn hóa, tôi thần trung liệt được ghi chép trong các quyển Quốc sử: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam liệt truyện, Việt Nam sử lược,... .Hoài niệm về các bài học ở sách Quốc văn và những gương sáng trên trang Quốc sử sẽ là bài học đối nhân xử thế cho mỗi con người trong cuộc sống. Bởi lẽ, "Nhân là người và thế là đời. Mỗi cuộc đời là một trường hợp cụ thể của trạng thái xã hội. "Đối nhân xử thế" không chỉ là nghĩa vụ của mỗi người đối với cộng đồng mà còn là nghĩa vụ đáp lại của cộng đồng hoặc của tập thể đối với mỗi con người."[2] Những nghĩa vụ đó chỉ được hoàn thành khi các giá trị đạo đức "ngũ thường" được gìn giữ và lưu truyền trong tâm thức của các thế hệ người Việt Nam.    
2. Ngày tết nghĩ về "ngũ thường" trong tâm thức Việt
"Ngũ thường" là một phạm trù văn hóa, trong đó nhân, nghĩa, lễ, trí, tín không hề tách rời từng nội dung, trái lại luôn gắn bó với nhau, bổ sung cho nhau, không chỉ thể hiện những quy chuẩn đạo đức của con người, của xã hội mà còn phản ánh những sự kiện, hiện tượng của lịch sử. Qua lăng kính "ngũ thường", giúp hiểu lịch sử chân thật và sinh động hơn. Vì thế, văn hóa Việt và lịch sử dân tộc không bao giờ tách rời mà luôn hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất, hình thành cốt cách và nét đẹp tâm hồn của người Việt.
Trong những ngày tết cổ truyền dân tộc, "ngũ thường" được biểu hiện qua nhiều ứng xử. Trước hết về "Nhân", đó là ước muốn đầu năm mọi người đều được cơm no áo ấm. Vì thế, các gia đình có điều kiện thường hay cúng dường cho chùa, phát chẩn cho người nghèo vào những ngày giáp tết 29, 30 tháng Chạp. Một điểm đặc sắc là không chỉ lo cho người đang sống, lòng nhân của người Việt còn thể hiện qua cúng gạo muối cho những người đã khuất trong mâm cỗ Giao thừa. Như vậy, "nhân" của người Việt không có giới hạn, mà nói như ngôn ngữ nhà Phật là mang tính Quảng đại.
         "Nghĩa" được thể hiện qua mừng tuổi và cúng cơm ngày đầu năm. Đây là những tập tục mang tính đạo nghĩa lâu đời của người Việt. Sáng mồng Một tết, con cháu chúc thọ các cụ cao niên trong gia đình với những câu có nội dung chúc sống lâu, khỏe mạnh. Đáp lại, các cụ chúc con cháu thành đạt trong công việc, học hành, gia đình hạnh phúc, tài lộc tăng tiến. Ông bà thường chuẩn bị sẵn các phong bao đỏ trong có ít tiền lì xì mong con cháu suốt năm được nhiều may mắn, "tiền vô như nước". Ở mâm cơm ngày tết, con cháu
Con cháu mừng tuổi ông bà. Ông bà lì xì cho con cháu 

dâng cúng ông bà tổ tiên những thức ngon để bày tỏ sự tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân. Khi lễ tất, gia chủ cung thỉnh các vị cao niên trong gia đình, tộc họ ngồi vào nơi trang trọng để dùng bửa cơm đầu năm cùng con cháu với niềm vui sum họp và hy vọng suốt năm luôn được sung túc, đoàn viên.
Mâm cơm ngày tết
"Lễ" được thể hiện ở việc nhắc nhở cháu con công ơn của ông bà, cha mẹ, tình nghĩa họ hàng. Vì thế, ngày tết các gia đình tựu họp tại nhà thờ họ, phủ thờ tộc họ dâng lễ các bậc tiền hiền, đi tết trong họ với một ít lễ vật mừng năm mới và những câu thăm hỏi về công ăn việc làm, chuyện học hành, công tác để bày tỏ tình thân ái và nghĩa gia tộc. Trong những lời thăm hỏi, thường kẻ dưới phải khiêm cung đối với bậc trưởng thượng. Anh em, thân tộc luôn hòa nhã, quan tâm nhau. Ông bà, cha mẹ luôn yêu thương bảo ban con cháu điều hay lẽ phải, gương sáng chuyện tốt để mong hậu nhân noi theo. Bởi lẽ, trong tâm thức người Việt luôn tin rằng những ngày đầu năm là những ngày rất thiêng, nói điều tốt đẹp, mong cầu hạnh phước thì cả năm sẽ được như ý. Điều đó chứng tỏ tư duy hướng thiện, một nét đẹp ở cốt cách của dân tộc.
          "Trí" biểu hiện ở sự nhận thức một cách đúng đắn, rõ ràng điều hay lẽ phải. Cũng như mọi đức khác, muốn rèn "trí"con người phải học để nâng cao hiểu biết và trong việc học thì "tiên học lễ, học học văn", trước hết phải học đạo nghĩa sau mới đến văn hóa, kiến thức khoa học. Qua đó cho thấy người Việt rất coi trọng văn hóa lễ nghĩa. Bởi thế, ngày tết các cụ thường chúc cháu con thông minh đỉnh ngộ, học hành sáng suốt, thi đâu đậu đó  kèm lời dặn dò: "Nhân bất học, bất tri lý" tức người không học sẽ không hiểu biết về đạo lý, trở thành kẻ ngu dốt. Sự học không có giới hạn, phải quyết tâm và thực hiện suốt đời.
          "Tín"là đức thứ năm của "ngũ thường", được xây dựng bằng những việc làm, ứng xử chân thật, tạo nên giá trị cá nhân và niềm tin cho mọi người. Trong dân gian, những câu "nhất ngôn cửu đỉnh" hay "nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy" để chỉ những người biết giữ chữ "tín". Ngày tết, "tín" trong văn hóa dân tộc được người Việt thể hiện độc đáo qua đĩa trầu cau trên bàn thờ gia tiên, bởi lẽ đó không chỉ nói lên sự thủy chung mà còn là sự trân quý đức "tín" trong tình anh em, nghĩa vợ chồng.
           Như vậy, qua những hoạt động trên cho thấy, "ngũ thường" trong tết Việt hàm chứa nhiều giá trị về đạo lý, có nguồn gốc từ thực tiễn cuộc sống. Hiểu "ngũ thường" qua ứng xử ngày tết dân tộc là góp phần khám phá các giá trị văn hóa Việt, giúp nền tảng đạo đức được duy trì, nét đẹp phong tục được gìn giữ, truyền thống của dân tộc được tồn lưu.
 
           Cùng với các ứng xử ở ngày tết, những mẫu chuyện về "ngũ thường" luôn được các bậc cao niên lưu giữ trong tâm thức và nhắc nhở cháu con qua nhiều bài học trong Quốc văn giáo khoa thư.
           Về "nhân", đó là chuyện Không nên hành hạ loài vật, kể về một con bò kéo cái xe chở nặng hàng hóa đang lên dốc, nó cố sức mãi nhưng xe vẫn không xê dịch được chút nào. Người phu xe vội nhảy xuống, vỗ về con bò, mồm thì nói năng dịu dàng như động viên, tay thì bắt bánh cố đẩy cho xe đi. Một lát, xe lên khỏi dốc, người phu để cho bò đứng nghỉ và lại đến bên cạnh vuốt ve, ra dáng thương yêu lắm. Câu chuyện cho lời khuyên về lòng nhân ái: "Loài vật không phải là vô tri vô giác, mà lại giúp ta được công kia việc nọ, ta nên trông nom, săn sóc, chớ có hành hạ đánh đập nó."[3] Chuyện Tôi tớ trong nhà nói về anh Mậu đang quát mắng đầy tớ, người cha thấy vậy mới bảo rằng: "Kẻ đầy tớ ở với ta, giúp ta được bao nhiêu công việc: nào quét nhà, gánh nước, nào chẻ củi, nấu cơm, làm đủ mọi việc, thật là vất vả khó nhọc. Ví không có đầy tớ, liệu con có làm lấy được không? Vậy đối với đầy tớ, ta phải nên ăn ở cho có lượng, đừng có hơi một tí đã quát tháo lên như thế"[4] Bài học ở câu chuyện là: Phải khoan hòa, nhân ái, công bằng với người giúp việc. 
           "Nghĩa" được lưu giữ qua những chuyện xưa tích cũ như Không tham của người kể về ông Nguyễn Đình Thản ở huyện Châu Lộc, tỉnh Nghệ An, ông mua một ngôi nhà cũ, định sửa sang lại để ở. Khi đào viên đá tảng ở ngôi nhà cũ, người cháu thấy dưới có hai hũ đựng mười lạng bạc, đem chuyện trình với ông. Ông nói :"Đây là của người chủ cũ, không phải của ta, chớ nên lấy. Nếu lấy là lấy của phi nghĩa. Ta nên để trả người ta".[5] Chuyện Không vì tiền mà làm điều phi nghĩa kể về ông Mã Duy Hàn, thuở còn hàn vi, trọ học ở một nhà giàu. Nhà này có thù với một nhà khác, định bày mưu vu tội cho người ta nên đem một trăm nén vàng bảo ông đứng ra làm việc ấy. Ông không chịu và bảo rằng: "Xưa nay tôi học những gì, mà bây giờ tôi lại tham của hại người như thế?". Nói đoạn, ông nghĩ bụng rằng: nhà này cậy có tiền của, toan làm những điều gian ác, không phải là nhà ta ở được, bèn dọn đi tìm nhà khác ở".[6]
         Ở góc độ phép tắc trong xử thế, người Việt lấy "Lễ" đãi nhau được ghi nhận qua nhiều mẫu chuyện: Thờ phụng tổ tiên kể ngày tết Nguyên đán, ông Lý đưa các con đến nhà thờ họ để tế lễ. Khi đến nơi, ông giảng giải cho các con: "Đây là nhà thờ của họ ta, để thờ cúng tổ tiên, vậy nay nhân ngày mồng một tết, chúng ta là cháu chắt, phải đến lễ để tỏ lòng kính nhớ."[7] Chuyện Phải biết ơn thầy dạy: "Tục ta thuở trước, cứ mồng năm ngày tết là học trò phải đến tết thầy. Không những khi còn đang học, mà khi đã thôi học rồi, có khi đã làm nên danh phận, cũng vẫn phải giữ lệ ấy[8]. Học trò trọng thầy như cha vậy. Khi thầy mất thì học trò phải tống táng, phải trông nom phần mộ, và đến ngày giỗ thì phải cúng tế. Ấy cái tục của ta ngày xưa trọng thầy như vây."[9] Chuyện Kính trọng người già cả kể về một nhóm học trò ngồi xúm xít ở hàng nước, đang cười nói. Một ông cụ lưng còng, tóc bạc muốn vào hàng nước ngồi nghỉ, nhưng không còn ghế. Tức thì cậu học trò ít tuổi nhất thấy thế vội đứng lên nhường chỗ cho cụ. Bài học về "lễ" được thể hiện qua câu nói của ông cụ: "Các cậu là học trò tràng nào, mà khéo học được những điều lễ phép như thế! Lão đây thật lấy làm quý hóa cái nết của các cậu"[10]
         Để nhắc nhở cháu con những tấm gương hiếu học, ngày tết các cụ thường đọc lại bài học về "trí" Làm người phải học: "Ngọc kia chẳng giũa, chẳng mài, Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi. Con người ta cũng khác gì, Học hành quí giá, ngu si hư đời. Những anh mít đặc thôi thời, Còn ai mua chuộc, đón mời làm chi."[11] Có học sẽ ý thức việc giữ gìn phẩm hạnh như chuyện Có học phải có hạnh, kể về ông Sài Thế Viễn, thuở nhỏ đi học thường chăm chú rèn luyện tâm tính. Thấy vậy có người nói, đi học cốt để thi đỗ làm quan, chớ tâm tính tưởng không cần gì cho lắm. Ông đáp: "Học hành ai cũng muốn cầu cho giỏi, nhưng học giỏi mà lại giữ được phẩm hạnh thì mới thật là đáng quí. Chớ học mà không có hạnh cũng chẳng làm gì. Phẩm hạnh tức là danh giá của con người ở đời vậy."[12] 
           Chuyện một người thợ đá có lương tâm nói về Sái Kinh, một kẻ gian nịnh nhưng có quyền thế, thấy Tư Mã Quang và các sử thần là những người trung thực, đem lòng ghen ghét, sai người thợ là An Dân khắc tên những người ấy vào bia đá với nội dung nói xấu, rồi cho đặt ở các nơi. Người thợ đá không chịu và nói rằng: "Chúng tôi ngu dốt, không hiểu ý làm sao, nhưng cứ như bọn ông Tư Mã Quang thì ai cũng khen là chính trực, mà sao bảo là gian tà, tôi không nỡ khắc". Quan phủ giận, toan bắt tội. An Dân khóc mà nói rằng: "Bắt làm thì tôi xin làm, nhưng xin tha cho, đừng bắt khắc tên người thợ đá ở dưới bia." Quan phủ nghe câu ấy, cũng thẹn mặt với người thợ đá. Câu chuyện để lại bài học "Người ta ở đời phải ăn ở cho trung hậu thành thực, dẫu được giàu sang mà làm điều trái đạo, thì thế nào cũng không làm, mà làm điều ngay lành, thì dẫu có cực khổ, cũng cố làm cho được."[13]. Đó là bài học về "tín" vẫn còn in đậm trong lòng mỗi người
       Như vây, "nhân" biểu hiện từ lòng yêu thương loài vật đến những người giúp việc trong gia đình, chứng tỏ nội hàm của nó rất rộng lớn và phong phú. Không tham của người vì "vật phi nghĩa bất thủ", không ở nhà người ác vì "người phi nhân bất giao" là những biểu hiện về đạo "nghĩa". Nhắc nhở cháu con về công đức ông bà tổ tiên, công ơn thầy cô, biết giúp đỡ kính trọng người lớn tuổi là những bài học đầy tính nhân văn về "lễ". Phải chăm chỉ học hành và giữ phẩm hạnh là điều hằng tâm về "trí". Trung hậu trong cuộc sống, biết lấy điều thật thà làm đầu là bài học về "tín". Các bài học về "ngũ thường" nêu trên vẫn còn bàng bạc trong tâm thức mỗi người Việt từ thuở ê a các trang sách Quốc văn giáo khoa thư ở buổi đầu cắp sách đến trường.
 
         Cùng với các phong tục ngày tết và bài học ở giáo khoa thư, "Ngũ thường" còn được ghi chép trong những trang sử Việt.
        Gương sáng về đức "nhân" có rất nhiều, nhưng nổi bật hơn cả là ở Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và Bình Định vương Lê Lợi. Trong tác phẩm Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Giáo sư Lê Thành Khôi đã đưa ra một sự kiện nhằm minh chứng cho tấm lòng yêu thương tướng sĩ của Trần Quốc công tiết chế: Năm 1285, giặc Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ hai, để khơi dậy tinh thần yêu nước của tướng sĩ, Hưng Đạo vương đã  soạn bài Hịch tướng sĩ  với lời lẽ thắm thiết đầy lòng nhân ái:
Sách Quốc văn giáo khoa thư
Sách Đại Việt sử ký toàn thư
"Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta thăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười..."[14]. Ngoài ý nghĩa đề cập tình đoàn kết quan quân, lời hịch còn cho thấy, vị Quốc công tiết chế đứng đầu quân đội lúc bấy giờ mà chăm lo cho tướng sĩ như thế, nếu không phải là người có lòng nhân ái sâu sắc thì không thể nào viết được một áng văn bất hủ như vậy. Đồng thời đây cũng là một độc đáo trong lịch sử quân sự nước ta, bởi lẽ Hưng Đạo vương là người đầu tiên đã gửi tâm thư cho quan binh. Điều này ông luôn tâm niệm cho đến cuối đời và nhắc nhở cho vua Trần khi được hỏi về kế giữ nước "... có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy."[15]
          Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi (1427), tướng giặc Vương Thông gửi thư xin hàng, bấy giờ các tướng sĩ và nhân dân ta rất căm thù giặc Minh, kéo nhau đến khuyên Bình Định vương giết chúng. Vương dụ rằng: "Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, nhưng không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức. Và lại, người ta đã hàng mà mình lại giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng. Nếu cốt để hả nổi căm giận trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao?"[16] Sau đó, cấp cho 500 chiếc thuyền và 2 vạn ngựa cùng lương thực cho hàng quân Minh về nước. Những việc trên đã được Nguyễn Trãi đúc kết qua Bình Ngô đại cáo: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo". Truyền thống văn hóa Việt, vốn yêu chuộng hòa bình không thích chiến tranh, nhưng khi bắt buộc phải đánh giặc/trừ bạo thì điều chủ yếu là để bảo vệ chủ quyền quốc gia, cho muôn dân yên ổn sinh sống/an dân. Trong và sau chiến tranh, nhân nghĩa là vấn đề hàng đầu không chỉ trong đối sách ngoại giao mà còn là nét chủ đạo trong văn hóa Việt.
 
          Cùng với "nhân", Quốc sử còn ghi nhận nhiều gương trung nghĩa. Các sử thần triều Lê đã chép trong Toàn thư: Ất Dậu [Thiệu Bảo] năm thứ 7 [1285], Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng đánh nhau với giặc ở bãi Đà Mạc, khi bị giặc bắt, "Vương không chịu ăn, giặc hỏi việc nước, Vương không trả lời, giặc hỏi Vương: "Có muốn làm vương đất Bắc không?" Vương thét to: "Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc", rồi bị giết."[17]
         Trong Khởi nghĩa Lam Sơn, năm Kỷ Hợi (1419), giặc Minh vây ngặt ở vùng núi Chí Linh, chúng quyết bắt cho được thủ lĩnh nghĩa quân để dập tắt cuộc khởi nghĩa. Tình thế đó chỉ có một lối thoát là phải có người giả làm Lê Lợi, chấp nhận hy sinh. Bình Định vương "mới hỏi các tướng rằng: có ai làm được như người Kỷ Tín ngày trước chịu chết thay cho vua Hán Cao không? Bấy giờ có ông Lê Lai liều mình vì nước, xin mặc thay áo ngự bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là Bình Định vương thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô."[18] Nhờ đó, Lê Lợi rút về Lư Sơn, Lỗi Giang khôi phục lực lượng, tổ chức kháng chiến thắng lợi.
       Tấm lòng tiết liệt của Trần Bình Trọng "thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc", gương đại nghĩa  "Lê Lai cứu chúa" là những biểu hiện sáng ngời về đức "nghĩa" trong lịch sử dân tộc.
 
         Không chỉ có "nhân" và "nghĩa", Quốc sử còn tôn vinh nhiều danh nhân tiêu biểu cho đức "lễ", "trí" và "tín". Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn được biết đến như một anh hùng dân tộc và ở ông còn chói ngời nhân cách một bề tôi luôn thủ lễ và trung tín đối với vua. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: Năm 1294, khi Thượng tướng thái sư Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải mất, sử quan có nhắc lại chuyện cũ: "Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc sứ phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới bảo:
       "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc".
         Quốc Tuấn trả lời:
         "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".[19]
      Về vấn đề này, Toàn thư cũng chép một chuyện khác: "Một hôm Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích tắm nước thơm, từng đùa bảo Quang Khải:
       "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói:
        "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng".
      Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho".
Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu."[20]  Biết khéo léo chối từ chức tước để giữ trọn "tình nghĩa trên dưới", chủ động mời Trần Quang Khải tắm để xóa đi hiềm khích giữa hai gia đình đã tiêu biểu cho đức "lễ" cao cả của vị Quốc công tiết chế thời nhà Trần.
    
            Về gương "trí dũng" trong sử Việt không thể không kể đến anh hùng dân tộc Quang Trung và "anh hùng mở cõi"[21] Nguyễn Hoàng. Ở Nguyễn Huệ - Quang Trung, "trí" được thể hiện qua qua hai sự kiện: Thứ nhất, đánh thắng quân Xiêm năm 1785. Lịch sử cho biết "... chỉ trong vòng một ngày với cuộc đại thắng ở Rạch Gầm - Xoài Mút tiêu diệt gần như trọn vẹn lực lượng của Xiêm và Nguyễn Ánh. Huệ không tấn công thẳng vào tổng hành dinh của địch đặt tại Sa Đéc, được tập trung làm thành một vị trí vững chắc. Bởi vậy, cần phải kéo địch ra ngoài, trên một trận địa do chính Huệ lựa chọn."[22] Thứ hai, năm 1789 giặc Thanh sang xâm lược, sau khi lên ngôi Hoàng đế, Quang Trung trực tiếp chỉ huy tiến quân ra Bắc. Tài trí của ngài được thể hiện qua sự tự tin cao độ khi trả lời Ngô Văn Sở: "Ta đã tính sãn rồi. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ nó là nước lớn, gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà cố báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, thật không phải phúc cho dân. Lòng ta không nỡ làm vậy. Tới lúc đó, chỉ có một cách nói cho thật khéo, thì mới ngăn được ngòi chiến tranh. Việc ấy phi Ngô Thì Nhậm không ai làm nổi. Đợi mười năm nữa, ta đủ thời gian gây nuôi, nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì nó."[23] Và để tăng thêm niềm tin cho tướng sĩ, ngài đã quả quyết: "Nay hãy ăn tết Nguyên Đán trước, đợi sang xuân ngày mồng 7, vào thành Thăng Long lại mở yến tiệc, bọn các ngươi nhớ lấy lời nói của ta xem là nói dối hay là nói đúng."[24] Biết chủ động đưa địch vào trận địa do mình lựa chọn, tự tin trong kế hoạch hành binh và tiên đoán chính xác thời gian chiến thắng như thiên tài quân sự Nguyễn Huệ-Quang Trung chỉ có được ở những bậc trí dũng hơn người.
       Ở Nguyễn Hoàng, việc chọn vào Thuận Hóa trấn nhậm để thoát khỏi âm mưu thủ tiêu của Trịnh Kiểm, dùng mỹ nhân kế để trừ Lập Bạo, giúp dẹp dư đảng họ Mạc để tránh sự nghi ngờ của chúa Trịnh, mượn cớ dẹp loạn Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Khuê để thoát khỏi sự kềm tỏa của chúa Trịnh Tùng, di huấn cho cận thần và con cháu những vấn đề mang tính quốc sách, hết lòng lo cho dân và biết thu phục hào kiệt, lo phát triển kinh tế - văn hóa, mở mang bờ cõi là những phẩm chất kiệt xuất của một bậc đại trí, của vị "anh hùng mở cõi".[25]
 
           Việt sử cũng ghi chép nhiều gương sáng về "tín". Năm 1284, khi giặc Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ hai, Hưng Đạo vương lệnh cho các tướng đến hội quân ở Vạn Kiếp để chuẩn bị chống giặc. Lúc bấy giờ, Yết Kiêu được giao nhiệm vụ giữ thuyền ở Bãi Tân, thuộc sông Lục Nam. Khi quân Nguyên đến, thế giặc rất mạnh, quân ta thua trận, thủy quân tan cả. Lúc ấy, vương định bỏ đường thủy, rút theo lối chân núi mà quên đi bộ tướng của mình vẫn đang kiên cường quyết giữ trận địa theo quân lệnh. Biết được điều đó, Dã Tượng đã nói với chủ tướng:
        "Yết Kiêu chưa thấy Đại vương thì nhất định không dời thuyền".
        Vương đến Bãi Tân, chỉ có thuyền Yết Kiêu vẫn còn ở đó. Vương mừng lắm, nói:
        "Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng là chim thường thôi"[26]. Trong chiến tranh, "quân lệnh như sơn" nhưng chấp hành mệnh lệnh như Yết Kiêu thực đáng khen ngợi. Sẽ không quá nếu nói rằng chiến công của anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn sẽ không lưu danh hậu thế nếu thiếu các tùy tướng trung tín như Yết Kiêu, Dã Tượng.
              Năm 1285, khi quân Nguyên truy đuổi, vua Trần Nhân Tông và Thái Thượng hoàng Thánh Tông được hộ giá đến sông Ba Chẽ (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Lúc ấy, xa giá nhà vua phiêu dạt, mà Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của Yên Sinh Vương, nên nhiều người nghi ngại. Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống gậy không mà đi, ..."[27]. Việc này, Ngô Sĩ Liên luận như sau: "Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử, như hào cửu tứ của quẻ Tùy thì mới có thể giữ tròn danh dự, làm nên sự nghiệp. Nếu không thế thì nhất định sẽ mang họa. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần đã làm được như thế."[28] 
         Bình Định vương Lê Lợi đuổi được giặc Minh, giành lại nền độc lập cho đất nước, tiếp tục phát triển nền văn minh Đại Việt bởi đã tin dùng các tôi thần trung tín như Lê Lai, Nguyễn Trãi. Nếu Lê Lai tiêu biểu cho đại nghĩa liều thân cứu chúa thì Ức Trai sáng ngời nhân cách của bậc đại "tín". Nhiệm vụ nặng nề Lê Lợi giao cho ông là phải dùng ngòi bút phân điều chính nghĩa để kẻ thù hiểu được cuộc chiến tranh chúng đang tiến hành ở Đại Việt là phi nghĩa, từ đó nên xin hòa và rút quân về nước. Nguyễn Trãi đã thể hiện đầy đủ đức "tín" kể từ việc ông nghe lời cha tìm về Lam Sơn với Lê Lợi dâng Bình Ngô sách và trải qua bao gian khổ cùng chủ tướng. Chính bằng chữ "tín", qua những lá thư của ông đã buộc các tướng giặc phải xin hàng, rút quân về nước, góp phần tạo nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Được như thế là do công lao của toàn dân tộc nhưng không thể không kể đến sự hoàn toàn tín nhiệm của Lê Lợi đối với Nguyễn Trãi và sự toàn tâm toàn ý của Nguyễn Trãi đối với nhiệm vụ được giao. "Được tín" và "trọng tín" là những bài học sinh động về niềm tin trong văn hóa Việt.
3. Thay lời kết
"Ngũ thường" là những chuẩn mực đạo đức xã hội ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, được đúc kết từ những giá trị của cuộc sống. Thời phong kiến, trở thành hệ tư tưởng chính trị - đạo đức Nho giáo, được tầng lớp sĩ phu xem là những phẩm chất của người "quân tử", được đưa vào kinh sử cho sĩ tử trao dồi trong khoa cử. Chính những sĩ tử thấm nhuần tư tưởng "ngũ thường" sau khi đỗ đạt trở thành đấng "phụ mẫu chi dân", đã đem các giá trị đạo đức này làm công cụ chăn dân trị nước, giáo huấn trong xã hội, lâu dần trở thành những điều thường có, hằng có mà tất cả mọi người đều phải tôn trọng, rèn thân luyện tính để đạt được.
 
           "Ngũ thường" xuất phát từ đâu? Đa phần đều cho rằng do Khổng Tử soạn ra và những quy định trên được nhiều triều đại phong kiến Trung Hoa - cũng như những nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa - nối tiếp nhau tôn trọng và áp dụng, để duy trì sự tồn tại, thịnh vượng của các thể chế đó.[29] Tuy nhiên, bất cứ một triết thuyết nào cũng bắt nguồn từ thực tiễn. Cuộc sống vốn phong phú, đa dạng và không ngừng phát triển. Từ đó, nhiều vấn đề nảy sinh, được con người đúc kết thành những giá trị nhân sinh mà "ngũ thường" là một trong số đó. Tộc Bách Việt (trong đó có cư dân Lạc Việt của nước Văn Lang) cư trú trên địa bàn tương ứng với vùng Bắc bộ, Bắc Trung bộ nước ta và phần phía Nam Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc.[30] Qua quá trình sinh sống, họ đã tạo nên nền văn hóa bản địa vững chắc, kết tinh bản lĩnh truyền thống dân tộc. Tiêu biểu, cư dân thời Hùng Vương và An Dương Vương là chủ nhân nền văn hóa Lạc Việt, tiền thân của văn minh Văn Lang - Âu Lạc, đã sáng tạo nên nhiều giá trị tinh thần từ rất sớm. Các nghiên cứu khoa học gần đây đã minh chứng điều này. Nhóm tác giả Huyền thoại lập quốc của các nước Đông Á sau khi chỉ rõ địa giới nhà nước Văn Lang (như trên đã nêu) đã khẳng định nơi đây là "...lãnh địa của các tộc người Bách Việt, khác với các tộc người ở phương Bắc (trong đó có người Hán sau này). Nơi đây khí hậu ấm áp, sản vật phong phú, dân sống định cư, chuyên trồng lúa nước. Từ đó, văn hóa phương Nam cũng khác với văn hóa du canh du cư của các tộc người phương Bắc (về sau, người Hán tràn xuống, xâm chiếm vùng đất phía Nam khiến cộng đồng Bách Việt phải ly tán)."[31] Trong thời kỳ bị ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, để chống lại âm mưu đồng hóa, những giá trị văn hóa tinh thần của người Việt được bảo tồn bằng nhiều phương thức khác nhau mới có thể giữ gìn và lưu truyền. Trong đó tôn giáo, văn tự, triết học, văn hóa được chuyển tải qua những câu chuyện và "vì hoàn cảnh lịch sử, câu chuyện ấy đã được kể lại hoặc là mơ hồ hoặc là dưới tên của dân tộc khác. Tuy nhiên Tổ Tiên người Việt đã khéo léo cất dấu cái văn hóa huyền vĩ của mình dưới những cách thức khác nhau của ngôn ngữ dân tộc mình."[32] . Để rồi dưới ánh sáng khoa học ngày nay, các giá trị văn hóa đó đã được giải mã mà chủ nhân chính là người Việt. Có thể kiểm chứng bằng nhiều cứ liệu: Đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang các nước trên thế giới, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam. Năm 1973, với tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận, Giáo sư Nguyễn Lang (tức Thiền sư Thích Nhất Hạnh) đã chứng minh rằng trung tâm Phật giáo Luy Lâu (Việt Nam) thành lập sớm hơn các trung tâm Lạc Dương và Bành Thành (Trung Quốc). Bởi vì: "Trung tâm Phật Giáo Luy Lâu được thiết lập do sự viếng thăm của thương gia và tăng sĩ Ấn Độ tới bằng đường biển, đó là một điều tất cả các học giả đều phải đồng ý. Phật Giáo tại Giao Châu do Ấn Độ truyền sang trực tiếp, không phải từ Trung Hoa truyền xuống."[33] Như vậy, quan niệm đạo Phật ở Việt Nam ra đời sau và do từ Trung Hoa truyền sang là chưa chính xác. Tác phẩm Huyền thoại lập quốc của các nước Đông Á, cho thấy những ghi chép trong sử cũ cần xem lại: "Chi tiết Lạc Long Quân dạy dân cày cấy, làm ruộng, trồng dâu trong Truyện Họ Hồng Bàng, Tiết Liêu dùng gạo nếp làm bánh trong Truyện bánh chưng bánh dày, Thánh Gióng sử dụng ngựa sắt, roi sắt để đánh giặc Ân trong Truyện Đổng Thiên Vương cho thấy từ hơn hai ngàn năm trước công nguyên người Việt đã biết đúc kim loại để làm công cụ lao động (nông nghiệp) và vũ khí chống giặc. Việc Lạc Long Quân dạy dân cày cấy cũng bác bỏ truyền thuyết về quan thái thú quận Cửu Chân là Nhâm Diên dạy dân khai khẩn ruộng đất để có thóc gạo mà ăn. Việc Lạc Long Quân dạy dân về thứ bậc vua tôi, đạo cha con, vợ chồng cũng bác bỏ truyền thuyết quan thái thú quận Giao Chỉ là Tích Quang dạy dân biết điều lễ nghĩa."[34] Mới đây, tác giả Viên Như đã công bố chủ nhân của Kinh Dịch và chữ Vuông là người Lạc Việt.[35] Những luận chứng khoa học nêu trên đã cho thấy sự ngộ nhận về một số vấn đề văn tự, tôn giáo, triết học, văn hóa ở nước ta có xuất xứ từ Trung Quốc là chưa chính xác. Thật ra các giá trị văn hóa đó do người Việt đã tạo nên từ trong cuộc sống. Sự tiếp giáp cương thổ, tương đồng văn hóa, liên quan chính trị có thể sẽ dẫn đến việc ảnh hưởng lẫn nhau về đời sống tinh thần nhưng cũng không hẳn là hoàn toàn. Vì vậy, những vấn đề nêu trên không phải để phủ nhận các giá trị văn hóa Trung Hoa mà nhằm đề xuất một hướng tiếp cận mới: Từ thực tiễn cuộc sống, người Việt đã đúc kết nên những chuẩn mực đạo đức của riêng mình, trong đó có "ngũ thường" theo cách ứng xử văn hóa Việt. Các giá trị nhân, nghĩa, lễ, trí, tín được minh chứng qua các ghi chép ở Quốc sử và những bài học trong tâm thức Việt.
 
            Việt Nam từ xưa đã từng mệnh danh là "Văn hiến chi bang", nghĩa là "nước của lễ giáo nhân văn hiển lộ". Nước có văn hiến thì không thể không xem trọng "ngũ thường". Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của người Việt không khu cứng trong từng nội dung mà luôn giao hòa với nhau. Trong nhân có nghĩa, trong nghĩa chứa lễ, trong lễ gắn với trí, trong trí được đan xen với tín và ngược lại. Các đức này luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, hình thành nên cốt cách và tâm hồn Việt. Cho nên mâm cơm cúng gia tiên ngày tết vừa thể hiện đạo làm người (nhân), mà cũng là cách ứng xử hợp đạo lý (nghĩa), là phép tắc tốt đẹp trong xử thế, thể hiện sự tôn trọng lễ nghi của người Việt (lễ), người có học phải hiểu để tiếp tục lưu truyền cho hậu thế (trí) và qua đó tạo dựng những giá trị văn hóa dân tộc bằng niềm tin (tín), hướng đến chân, thiện, mỹ trong mỗi con người, trong mỗi gia đình và rộng lớn hơn là trong toàn xã hội. Như vậy, chỉ một sự việc đã bao hàm năm nội dung của "ngũ thường". Những chuẩn mực đạo đức này được thể hiện qua nhiều ứng xử giao tiếp thường ngày và nhất là ở thời điểm thiêng liêng trong tâm thức Việt - ngày tết. Đồng thời, chính vì các giá trị đạo đức như trên nên "ngũ thường" đã được các sử gia lưu danh những anh hùng, tướng sĩ, danh thần trong sử Việt và các nhà soạn sách giáo khoa buổi đầu chữ Quốc ngữ đưa vào bài học ở Quốc văn giáo khoa thư. 
Cuộc sống là sự nối tiếp quá khứ với hiện tại và mang tính kế thừa, do đó hiện nay mặc dù xã hội có nhiều thay đổi, cuộc sống buộc con người phải năng động hơn để thích ứng với hoàn cảnh, tuy nhiên sẽ là thảm họa, ít nhất về mặt đạo đức, nếu các giá trị của "ngũ thường" không được con người của xã hội hiện đại trân trọng và tiếp nối. Bởi lẽ, người không có nhân sẽ thành kẻ độc ác, người không có nghĩa sẽ thành kẻ bội bạc, người không có lễ sẽ thành kẻ vô phép, người không có trí sẽ thành kẻ ngu dốt và người không có tín sẽ thành kẻ giả dối. Làm người không ai muốn trở thành kẻ độc ác, người bội bạc, tên vô phép, thứ ngu dốt, hạng giả dối. Hơn nữa, người Việt "trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho ăn ở."[36] Và như thế tin rằng "ngũ thường" sẽ tiếp tục được gìn giữ, tôn vinh như những giá trị đích thực của cuộc sống không chỉ hôm nay mà còn mãi mãi về sau.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
1. GS. Phan Huy Lê - PGS.TS Đỗ Bang (Đồng chủ biên) (2014), Nguyễn Hoàng - Người mở cõi, Nxb Chính trị quốc gia.
2. Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam - từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Nxb Thế giới
3. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội.
4. Nguyễn Lang (2011), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học.
5. Phan Huy Lê-Trần Quốc Vượng-Hà Văn Tấn-Lương Ninh (1985), Lịch sử Việt Nam, Tập I, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
6. Nhiều tác giả (2014), Huyền thoại lập quốc của các nước Đông Á, Nxb Văn hóa -văn nghệ.
7. Quốc sử quán triều Nguyễn (2014), Đại Nam liệt truyện, Tập 1-2, Nxb Thuận Hóa.
8. Thạch Phương-Hồ Lê-Huỳnh Lứa-Nguyễn Quang Vinh (2014), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam bộ, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
9. Trần Trong Kim (2000), Việt Nam sử lược, Quyển 1, Nxb TP.Hồ Chí Minh.
10. Viên Như (2014), Người Việt - Chủ nhân kinh Dịch và chữ Vuông, Nxb Hồng Đức.
11. Việt Nam tiểu học tùng thư  (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Nxb Trẻ.
12. Bách khoa tri thức - Thế nào là Tam cương, ngũ thường? http://www.bachkhoatrithuc.vn.
CHÚ THÍCH
[1] Xem Wikipedia : http://vi.wikipedia.org/.
[2] Thạch Phương-Hồ Lê-Huỳnh Lứa-Nguyễn Quang Vinh (2014), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam bộ, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr 137.
[3] Việt Nam tiểu học tùng thư  (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Nxb Trẻ, tr 40
[4] Việt Nam tiểu học tùng thư  (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Sđd, tr 267.
[5] Việt Nam tiểu học tùng thư  (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Sđd, tr 50 – 51
[6] Việt Nam tiểu học tùng thư  (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Sđd, tr 52.
[7] Việt Nam tiểu học tùng thư  (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Sđd, tr 265.
[8] Xin xem thêm chuyện Học trò biết ơn thầy trong Quốc văn giáo khoa thư, Sđd, tr 189.
[9] Việt Nam tiểu học tùng thư  (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Sđd, tr 276.
[10] Việt Nam tiểu học tùng thư  (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Sđd, tr 187.
[11] Việt Nam tiểu học tùng thư  (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Sđd, tr 192
[12] Việt Nam tiểu học tùng thư  (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Sđd, tr 35.
[13] Viêt Nam tiểu học tùng thư (1995), Quốc văn giáo khoa thư, Sđd, tr 71 – 72.
[14] Dẫn theo Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam - từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Nxb Thế giới, tr 214.
[15] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội, tr 84.
[16] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr 301.
[17] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr 57.
[18] Trần Trọng Kim (2000), Việt Nam sử lược, quyển 1, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, tr 226.
[19] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr 76.
[20] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr 76.
[21] Chữ dùng của Giáo sư Phan Huy Lê. Xem GS. Phan Huy Lê – PGS.TS Đỗ Bang (Đồng chủ biên) (2014), Nguyễn Hoàng – Người mở cõi, Nxb Chính trị quốc gia, tr 538 và tr 542.
[22] Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam - từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Sđd, tr 371.
[23] Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam - từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Nxb Thế giới, tr 382
[24] Quốc sử quán triều Nguyễn (2014), Đại Nam liệt truyện, Tập 1-2, Nxb Thuận Hóa, tr 551.
[25] Xem: Đỗ Kim Trường,  455 năm nhìn lại buổi đầu dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng, trong GS. Phan Huy Lê-PGS.TS Đỗ Bang (Đồng chủ biên) (2014), Nguyễn Hoàng – Người mở cõi, Sđd, từ tr 354 – 376. 
[26] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr 54 – 55.
[27] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr 57.
[28] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr 57.
[29] Xem Bách khoa tri thức – Thế nào là Tam cương, ngũ thường?,
[30] Phan Huy Lê-Trần Quốc Vượng-Hà Văn Tấn-Lương Ninh (1985), Lịch sử Việt Nam, Tập I, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, tr 62.
[31] Nhiều tác giả (2014), Huyền thoại lập quốc của các nước Đông Á, Nxb Văn hóa –văn nghệ, tr 137 – 138.
[32] Xem Viên Như (2014), Người Việt – Chủ nhân kinh Dịch và chữ Vuông, Nxb Hồng Đức.
[33] Xem Nguyễn Lang (2011), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, tr 26 và các tr 27 – 43.
[34] Nhiều tác giả (2014), Huyền thoại lập quốc của các nước Đông Á. Sđd, trang 142 – 143.
[35] Xem Viên Như (2014), Người Việt – Chủ nhân kinh Dịch và chữ Vuông, Nxb Hồng Đức.
[36] Trần Trong Kim (2000), Việt Nam sử lược, quyển 1, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, tr 6.
Đỗ Kim Trường 
Theo http://chimviet.free.fr/

  Thơ Phúc Đinh – Tâm thế mới, một tầm mới 19 Tháng Chín, 2023 Tôi biết và gặp chị Phúc Đinh, tên thật là Đinh Thị Phúc, lần đầu tiên tr...